1. Thông báo

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan (Vui lòng click vào ảnh để xem chi tiết)

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan
    Dismiss Notice

Linh dị Trinh thám Mười tội ác - Tác giả: Tri Thù - Tình trạng: Đang Post

Thảo luận trong 'Truyện dịch' bắt đầu bởi Nhím Nhím, 20/3/17.

Những người đang xem bài viết này (Thành viên: 0, Khách: 0)

  1. Nhím Nhím

    Nhím Nhím Member
    • 344/373

    Bài viết:
    41
    Đã được thích:
    422
    MƯỜI TỘI ÁC
    Thể Loại : TRINH THÁM, KINH DỊ
    Tác Giả : TRI THÙ
    Độ Dài : 5 tập
    Nguồn: Sưu Tầm

    [​IMG]
     
    Last edited by a moderator: 23/3/17
    Gum, kaka, mekem and 13 others like this.
  2. Nhím Nhím

    Nhím Nhím Member
    • 344/373

    Bài viết:
    41
    Đã được thích:
    422
    Lời giới thiệu

    Bộ tiểu thuyết này viết về ai? Tác giả viết về những cảnh sát, tội phạm giết người, những kẻ chuyên hủy hoại dung nhan, người mắc bệnh yêu động vật, ăn mặc dị hợm, những thiếu niên hư hỏng, những kẻ lang thang, người bán thận, những tên yêu râu xanh, kẻ ăn mày, và cả những người từ sáng đến tối quỳ nơi đầu phố… Dưới cái nhìn bao dung của thượng đế, thì tất cả những người đó đều là anh chị, bố mẹ, vợ chồng, con cái chúng ta. Chúng ta cần phải ôm họ vào lòng, giống như tiên nữ ôm làn hoa sen, sau đó phơi bày bóng tối nắm giữ trong tay trước mắt thiên hạ. Tác giả dùng những ngôn từ bạo liệt và những con chữ han gỉ, cóp nhặt dinh dưỡng từ những viên đá lát đường hàng ngày vẫn bị người đời lãng quên để hoàn thành bộ trường thiên tiểu thuyết bán chạy ở cả chốn thiên đường và địa ngục này. Tác giả chưa bao giờ từ bỏ hành trình tìm kiếm trong bóng tối. Bởi theo như tác giả nói nếm trái táo ở thiên đường không có gì hay ho, tác giả muốn nếm trái táo nơi địa ngục. Trong bóng tối có ánh lửa màu đen mà chỉ những người có ánh mắt vô cùng tinh tường và bén sắc mới có thể thâu tóm được nó. Đôi khi đôi mắt chúng ta có thể nhìn thấy thiên hà vũ trụ nhưng lại không nhìn thấy thế giới bi thảm nhất ở tầng đáy xã hội. Biết bao nhiêu đêm không ngủ, có một người khổng lồ đứng nơi đầu phố dắt con ngựa gỗ và đợi chờ hoa nở? Trong tác phẩm của mình, Tri Thù chính là thượng đế, tác giả phóng thích cho tất cả tội đồ và tha thứ cho tất cả tội lỗi. Những vụ án trong bộ tiểu thuyết này đều được xây dựng dựa trên những vụ án có thật ngoài đời thực, tuy nhiên tên nhân vật và địa điểm liên quan đến vụ án đều được thay đổi. Mười vụ án gây rúng động tâm can như thế đã xảy ra ngay bên cạnh chúng ta, mỗi vụ án đều không được giới báo chí công khai nên dần rơi vào quên lãng. Trước khi đọc bộ tiểu thuyết này, tác giả có lời cảnh báo: Những người nhát gan, trẻ vị thành niên và bệnh nhân bệnh tim đều không nên đọc! Cảnh báo của tác giả tuyệt đối không phải lời hù dọa.
     
    Chỉnh sửa cuối: 20/3/17
    Gum, mekem, Trandinhanh and 9 others like this.
  3. Nhím Nhím

    Nhím Nhím Member
    • 344/373

    Bài viết:
    41
    Đã được thích:
    422
    Tập 1: BÓNG MA ĐÊM MƯA
    PHẦN 1: NÔ LỆ DƯỚI TẦNG HẦM
    Lời dẫn

    Hãy bỏ hi vọng lại ngoài cửa nếu muốn bước vào địa ngục – Dante Alighieri.

    Năm 2000, hoa hòe nở rộ ngoài ngoại ô, từng chuỗi hoa rủ xuống, mùi hương nồng nàn khiến người ta mơ mòng muốn ngủ, hai anh nông dân nằm dài trên triền đê, đầu gối lên giày của chính mình ngủ say như chết.

    Ráng chiều nhuộm đỏ sắc trời, vầng mây cuồn cuộn nổi lên nơi đường chân trời, gió xuân thổi hiu hiu, hoa tuyết đột ngột rơi lả tả, hoa tuyết và hoa hòe quyện vào nhau bay lất phất theo chiều gió.

    Hai anh nông dân rét run cầm cập, họ nói chuyện với nhau về mùa đông như thế này:

    “Mùa đông năm ngoái lạnh thế không biết. Tôi cóng tay, cóng chân, cóng cả tai.”

    “Ừ! Tôi cũng cóng tay, cóng chân nhưng tai lại không bị cóng.”

    “Anh đội mũ à?”

    “Tôi không có tai!”

    Người không có tai kể trên từng là một kẻ lang thang, là công nhân làm đường, từng là kẻ đào cát, có điều y sắp trở thành tội phạm.

    Muốn tường thuật chính xác vụ án ly kì này, trước tiên chúng ta nên quan sát mông y một chút.

    Y ngồi trên triền đê, phía dưới mông là bùn đất.

    Nhưng phía dưới lớp bùn là gì thế?

    Là một đoàn tàu!

    Đoàn tàu đang chạy qua đường ray nằm phía dưới mông y, chạy qua phía dưới những tòa nhà chúng ta đang ở, chạy phía dưới cả thành phố này.

    Năm 2007, rừng trúc nơi y ngồi trước đây và triền đê năm nào đã được san bằng, khu vực xung quanh được cải tạo thành một sân vận động rộng lớn, người phụ trách khu thể thao này đã cho chặt hết trúc, ông ta định biến khu đất trống này thành hồ bơi lộ thiên nên đã thuê đội xây dựng đến thi công.

    Đội xây dựng mới đào được ba mét thì xảy ra hiện tượng đất lún, ở giữa vùng lún xuất hiện một hang động tối om.

    Sau khi anh đội trưởng đi vào trong hang kiểm tra thì tay này lập tức hốt hoảng bỏ của chạy lấy người, tiền công cũng chẳng cần nữa.

    Ông chủ khu thể thao này chỉ vào cái hang, hỏi: “Dưới đó có gì vậy?”

    Chương 1Tiếng hát trong lòng đất
    Phía cảnh sát nghe tin vội vàng ập đến, lập tức phong tỏa hiện trường.

    Nghe nói một cảnh sát xuống hang động đó đã không bao giờ trở lại nữa. Những lời đồn thổi bắt đầu phát tán khắp nơi, mấy ngày sau phía cảnh sát phải lên tiếng đính chính rằng trong lúc tiến hành sửa chữa khu thể thao liên hợp và xây dựng hồ bơi, vì gặp phải hiện tượng đất lún nên đội thi công đã vô tình đào thông tới một hầm thông gió của tàu điện ngầm!

    Trong đường hầm ẩn chứa rất nhiều bí mật mà người đời không bao giờ biết đến!

    Ở đó có hầm thông gió, hầm rút nước, hầm giảm áp… phần lớn miệng hầm được che lấp và ngụy trang hoặc được xây ở nơi tương đối hoang vắng. Những nơi đường sắt giao nhau, điện cao thế lên tới hàng ngàn vôn, ngay cả nhân viên đường sắt cũng có khả năng gặp phải nguy hiểm chết người nếu lao vào đường sắt, không những vậy còn gây tê liệt hệ thống giao thông ngầm.

    Mặc dù vậy vẫn thường có người nhảy xuống đó, rồi biến mất vào nơi sâu trong đường hầm. Chính phủ đành ra mặt, họ đề ra các quy định để hạn chế các hành vi có liên quan.

    Viên cảnh sát chui vào hầm thông gió để điều tra nọ đúng là không trở lên miệng hầm mà anh ta lần mò trong bóng tối men theo đường hầm tiến về phía trước. Khi anh ta xuất hiện ở nhà ga, các hành khách đều hết hồn, anh ta thở hổn hển giải thích với nhân viên nhà tàu vì sao mình lại xuất hiện ở nơi này, sau đó anh ta nói một câu khiến ai cũng lạnh tóc gáy:

    “Trong đường hầm… có người đang hát!”

    Từ hệ thống camera trong phòng điều khiển cảnh sát không hề phát hiện thấy ai nhảy từ sân ga xuống đường tàu, người lái tàu cũng thanh minh không thấy dấu tích của con người trong đường hầm, nhưng viên cảnh sát nọ cứ khăng khăng với quan điểm của mình, anh ta nói quả thực đã nghe thấy tiếng hát rất to vọng ra từ đường hầm.

    Sự việc trở nên nghiêm trọng, phòng kiểm soát đường sắt quyết định áp dụng biện pháp tạm thời dừng mọi hoạt động của các đoàn tàu, nhiều nhân viên điều tra dắt chó cứu nạn đi vào đường hầm. Đồng chí cảnh sát nghe thấy tiếng hát nọ cầm đèn chiếu đi trước dẫn đường. Đường hầm không một bóng người, dưới ánh đèn halogen chỉ trông thấy ánh sáng phản chiếu trên đường ray. Tìm suốt mười phút đồng hồ, cả đội vẫn không phát hiện ra điều gì khác thường, đúng lúc định bỏ cuộc thì một giọng hát đột nhiên vang lên từ phía sau khúc ngoặt của con đường trước mặt âm thanh rất rõ ràng – đúng là giọng hát của một phụ nữ, giọng nữ trung cao vút, không những vậy đó còn là một bài hát tiếng Nhật!

    Giọng hát quái dị cứ vang vọng trong đường hầm, nghe mà rợn tóc gáy.

    Một nhân viên điều tra nhát gan run rẩy cất tiếng hỏi: “Người hay ma đấy?”

    Viên cảnh sát nọ trả lời: “Chắc chắn là người!”

    Nhân viên điều tra lại hỏi: “Nếu phía trước có người, thì sao chó nghiệp vụ của chúng ta không sủa nhỉ?”

    Đúng là chú chó cứu nạn khá im hơi lặng tiếng, mọi người chậm chạp tiến về phía trước, lúc đi qua khúc ngoặt, họ chĩa đèn chiếu về hướng phát ra âm thanh, nhưng âm thanh quái dị đó đột ngột im bặt.

    Trong đường hầm không một bóng người.

    Mọi người đưa mắt nhìn nhau, ai nấy đều dựng tóc gáy.

    Trong quá trình đào hầm cho tàu ngầm chạy, đội thi công thường tìm thấy mộ và hài cốt, tại nhiều nhà ga cũng từng xảy ra nhiều vụ tự tử, bởi vậy một số nhân viên thi hành nhiệm vụ càng tin vào sự tồn tại của các hiện tượng kinh dị hơn, họ e dè không dám bước tiếp và bắt đầu nảy sinh tâm lí muốn đánh trống thu quân, chỉ duy viên cảnh sát nọ vẫn can đảm bước về phía trước. Chẳng bao lâu sau, anh dừng bước, cúi người quan sát thứ gì đó trên mặt đất.

    Mọi người xúm lại xem, thì ra là một chiếc di động!

    Phát hiện này vừa vặn giải thích cho sự xuất hiện của tiếng hát vừa rồi, chắc chắn đó là nhạc chuông điện thoại.

    Mọi người thở phào nhẹ nhõm, nhân viên điều tra nọ định nhặt chiếc máy lên, nhưng anh cảnh sát khi nãy liền ngăn lại bảo đừng động vào.

    Anh đeo găng tay, thận trọng cầm chiếc điện thoại trên mặt đất, rồi cất giọng nghi vấn đặc mùi cảnh sát hình sự: “Chủ nhân của chiếc điện thoại hiện giờ đang ở đâu nhỉ?”

    Mọi người đều biết, toa điện ngầm là không gian hoàn toàn khép kín, chính vậy có thể loại trừ khả năng hành khách tự vứt điện thoại của mình xuống đường sắt, hơn nữa nom chiếc điện thoại này có vẻ rất xa xỉ. Trong văn phòng quản lý an toàn, một nhân viên đối chiếu bức ảnh trên mạng và xác nhận đây là loại điện thoại di động hiệu Cosmic Shinerexclusive của hãng Toshiba, một hãng điện thoại danh tiếng của Nhật. Trên thế giới chỉ sản xuất hạn chế một ngàn chiếc, mặt điện thoại còn gắn mười bốn viên đá quý, loại điện thoại này được tạp chí Forbes xếp hạng thứ tư trong danh sách mười loại điện thoại di động xa xỉ nhất thế giới, giá của nó là ba trăm chín mươi chín ngàn yên Nhật. Từ đó có thể thấy chủ nhân của chiếc điện thoại này chắc chắn vô cùng giàu có.

    Đúng lúc nhân viên kiểm tra an toàn giới thiệu về xuất xứ chiếc điện thoại thì đột nhiên nhạc chuông của nó kêu vang, giọng nữ trung hát bài hát tiếng Nhật quái dị nọ lại thánh thót cất lên.

    Chủ quản phụ trách công tác an ninh đường sắt và viên cảnh sát nọ đưa mắt hội ý, ngay sau đó họ quyết định bấm nút trả lời. Mọi người trong văn phòng đều nín thở đoán xem đối phương sẽ nói gì, nào ngờ đâu bên kia điện thoại lại hoàn toàn im lặng. Một phút sau, đối phương cúp điện thoại.

    Mọi người đang xôn xao bàn bạc xem có nên gọi lại cho đối phương không thì một đám người đột nhiên xông thẳng vào phòng quản lý. Họ là tổng giám sát vận hành đường sắt, trưởng phòng điều phối, phân cục trưởng phân cục cảnh sát đường sắt, quản lý phụ trách trị an thuộc các phòng ban đều tề tựu đầy đủ.

    Phân cục trưởng phân cục cảnh sát đường sắt mở cuộc họp khẩn cấp. Ông tiết lộ nội tình vụ án: Hai mươi tư giờ trước một tiểu thư thuộc hàng trâm anh thế phiệt đã mất tích bí ẩn trong ga tàu điện ngầm. Phía cảnh sát kết hợp với ngành bưu điện viễn thông lần theo dấu vết của sóng định vị tín hiệu đã tìm ra vị trí của chiếc điện thoại. Cô tiểu thư mất tích tên là An Kỳ, cha của cô ta là An Dật Hiên, tổng giám đốc của tập đoàn chứng khoán Global, một tỉ phú thứ thiệt, ông ta đầu tư cổ phiếu ở hàng trăm doanh nghiệp tại Hồng Kông, Đài Loan và Trung Quốc, không những vậy ông ta còn là Hoa kiều định cư tại Nhật.

    Chủ quản phụ trách công tác an ninh đường sắt nói: “Nhưng hiện giờ con gái của An tiên sinh đã mất tích trong đường hầm, sống không thấy người, chết không thấy xác!”

    Viên quản lý đang định nói thêm vài câu bông đùa thì thấy Phân cục trưởng phân cục cảnh sát đường sắt đứng bật dậy, ông ta nhìn ngó bốn phía, rồi cất giọng với vẻ mặt vô cùng nghiêm trọng: “Áp lực của chúng ta rất lớn, đại sứ quán Nhật đã bắt đầu nhúng tay can thiệp vào vụ này. Bốn phân cục trưởng của sở công an thành phố kết hợp với nhau đảm nhiệm vị trí tổng chỉ huy chuyên án này. Các anh làm sao thì làm, nếu ai để xảy ra chuyện thì đến lúc đó đừng trách tôi không nể mặt, mà ngay cả bản thân tôi cũng chẳng khác nào tượng đất qua sông, khó giữ nổi mạng.”

    Toàn thành phố tập trung tối đa lực lượng cảnh sát giăng lưới trải rộng khắp đường hầm tàu điện ngầm và tiến hành lùng sục, nhiệm vụ trọng điểm là tìm kiếm những đối tượng khả nghi cũng mất tích vào ngày hôm đó. Họ làm bút lục thẩm vấn vô cùng cẩn thận. Thiết bị giám sát đường sắt vẫn chưa cung cấp được manh mối hữu dụng nào, vụ án hoàn toàn giậm chân tại chỗ. Có điều cảnh sát nhận được một thông tin ngoài lề chẳng hề có chút giá trị nào. Người cuối cùng gặp tiểu thư con nhà giàu nọ là tài xế riêng của cô ta, khi đó tài xế đưa An tiểu thư ra sân bay, chẳng may lại gặp đúng lúc tắc đường, cô tiểu thư nhà giàu nọ đành phải đổi lịch trình, đoạn hội thoại giữa họ khi đó diễn ra như sau:

    An tiểu thư: “Anh bảo tôi chen chúc vào tàu điện ngầm với đám nghèo mạt hạng ấy à?”

    Tài xế riêng: “Tiểu thư, bây giờ đang tắc đường, dù chúng ta có lái xe tăng đến thì cũng không kịp giờ máy bay cất cánh, cô chỉ còn cách ngồi tàu điện ngầm thôi.”

    An tiểu thư: “Khốn kiếp! Chỉ còn một tiếng nữa là cất cánh rồi, ngồi tàu điện ngầm liệu kịp giờ không?”

    Tài xế riêng: “Tiểu thư, cô xuống chỗ này đi chuyến tàu cuối cùng là có thể đến thẳng sân bay. Thôi! Cô chịu thiệt thòi chút vậy!”

    Cô tiểu thư nhà giàu chửi thề một tiếng rồi xuống xe. An Kỳ đeo kính râm, mặc váy chiffon lồng đèn màu trắng, quai mảnh, hở lưng, vai khoác túi xách Muse hiệu Yves Saint Laurent, tuy vẻ mặt hơi tức giận nhưng vẫn không mất đi vẻ sang trọng và trang nhã, cô ta cao ngạo, thong thả bước vào nhà ga, nhưng từ đó cô ta không bao giờ bước ra khỏi đường sắt nữa.

    Ba ngày sau, phía cảnh sát vẫn không thu hoạch được gì, phân cục trưởng phân cục cảnh sát đường sắt bị đình chỉ công tác. Trong phòng họp của cục công an thành phố, bốn vị phân cục trưởng mở cuộc họp khẩn cấp phân tích tình hình vụ án. Phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc cũng đến nghe báo cáo, tới dự hội nghị còn có các cấp lãnh đạo ủy ban nhân dân thành phố. Phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc phát biểu, vụ án này rất quan trọng, nó không chỉ ảnh hưởng đến quan hệ ngoại giao giữa hai nước Trung Quốc và Nhật Bản mà còn liên quan trực tiếp đến kinh tế trong nước, một khi An tiên sinh rút các khoản đầu tư chứng khoán khỏi đại lục thì không biết bao nhiêu doanh nghiệp và người mua cổ phiếu phải đối mặt với nguy cơ phá sản.

    Phó cục trưởng đang phát biểu thì cửa phòng họp đột nhiên bật mở, một người phụ nữ mặc kimono dìu một ông già lẩy bẩy bước vào, phía sau còn có mấy người dáng chừng vệ sĩ.

    Ông già đó chính là tổng giám đốc tập đoàn chứng khoán Global – An Dật Hiên!

    Phó cục trưởng bước đến gần, bắt tay An tiên sinh rồi nói: “Xin lỗi! Thực sự xin lỗi ngài! Chúng tôi cũng rất chú trọng đến vụ án này…”

    Câu đầu tiên An tiên sinh thốt lên là: “Bao nhiêu tiền?”

    Phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc không hiểu ý.

    An tiên sinh nói tiếp: “Chúng đòi bao nhiêu?”

    Đến lúc này, phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc mới vỡ lẽ thì ra An tiên sinh cho rằng con gái mình bị bắt cóc.

    Trưởng phòng cảnh sát hình sự thành phố đứng lên thưa: “Khả năng An tiểu thư bị bắt cóc tống tiền không lớn, vì đến giờ phút này phía cảnh sát vẫn chưa nhận được bất cứ thông tin đòi tiền chuộc nào của hung thủ. Phân tích bước đầu cho thấy hung thủ bắt An tiểu thư có lẽ nhằm hai mục đích, thứ nhất là muốn giết cô ấy để trả thù, nếu đúng như vậy thì hi vọng lệnh ái còn sống sót vô cùng mong manh. Ngoài ra còn một khả năng nữa, đó là lệnh ái còn sống, nhưng lại bị…”

    Trưởng phòng cảnh sát hình sự do dự không biết có nên nói tiếp hay không, An tiên sinh sốt ruột giục giã, viên trưởng phòng mới ấp úng nói ra bốn chữ. Bốn chữ ấy khiến An tiên sinh suýt nữa ngất xỉu.

    Giam cầm bức hại!

    Chương 2Tổ chuyên án đặc biệt
    Cảnh sát đặt tên cho vụ trọng án này là “Chuyên án đặc biệt số một”, đồng thời ngay tối đó quyết định thành lập tổ chuyên án đặc biệt. Họ phải chọn ra bốn nhân vật kiệt xuất nhất trong số hơn một triệu tám ngàn cảnh sát từ hệ thống công an toàn quốc.

    Bốn viên cảnh sát này sẽ thay mặt bốn vị phân cục trưởng gánh vác trách nhiệm chỉ đạo vụ trọng án. Tất cả các ban ngành thuộc bộ công an đều phối hợp vô điều kiện để đảm bảo có thể phá án đúng kì hạn. Các thành viên trong cuộc họp bàn bạc nghiên cứu kĩ lưỡng để vạch ra nguyên tắc làm việc. Riêng việc chọn nhân tài thì mỗi người mỗi ý, thảo luận rất sôi nổi, nhưng cuối cùng vẫn chưa chốt được phương án cuối cùng. Phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc trầm tư hồi lâu, rồi bảo: “Đột nhiên tôi nghĩ đến một người.”

    Trưởng phòng cảnh sát hình sự nói: “Vậy thì mau mời người ấy đến!”

    Phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc lại bảo: “Người này rất quan trọng, tôi phải đích thân lái xe đi mời ông ấy mới được!”

    Tất cả các thành viên trong phòng họp đều ngồi tại chỗ chờ lệnh, phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc cùng nữ trợ lý vội vã rời đi. Một tiếng sau, ông đưa một ông già tới, ông già tầm ngoại lục tuần, ngồi xe lăn, mái tóc bạc phơ, nhưng nom rất tinh anh, ánh mắt sáng ngời. Trưởng phòng điều tra hình sự đứng dậy kính cẩn chào: “Con chào thầy!”, phó thị trưởng thành phố bước tới gần, cúi người rồi đưa tay ra bắt tay ông già: “Chào giáo sư Luơng, giáo sư về nước khi nào thế ạ?” Những người khác thì thầm hỏi nhau xem giáo sư Lương đang ngồi xe lăn kia là ai.

    Giáo sư Lương gật đầu cảm ơn, ông im lặng lăn xe đến trước mặt An tiên sinh, rồi giơ một ngón tay ra.

    Tất cả mọi người có mặt trong phòng họp bắt đầu lầm rầm bàn tán, không hiểu ông già làm vậy là có ý gì.

    An lão tiên sinh hỏi: “Ông là…”

    Nữ trợ lý của phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc đứng bên cạnh vội giới thiệu: “Đây là chuyên gia hình sự lừng danh trong và ngoài nước, giáo sư Lương Thư Dạ đấy ạ! Ông ấy từng là cố vấn trưởng của tổ chức cảnh sát hình sự quốc tế văn phòng Trung Quốc, chuyên gia phân tích hành vi phạm tội của tổ chức FBI, tham gia điều tra hơn ba ngàn vụ trọng án trên khắp thế giới và các bang của Mỹ, giáo sư được vinh danh tại nhiều trường đại học trên thế giới. Giờ ông ấy vừa mới nghỉ hưu, nên về nước để an hưởng tuổi già.”

    An tiên sinh gật đầu, rồi lập tức viết chi phiếu: “Đây là một triệu tệ để ông làm kinh phí phá án, coi như khoản tài trợ của tôi.”

    Giáo sư Lương thong thả đáp: “Tôi giơ một ngón tay không phải đòi ông một triệu tệ.”

    An tiên sinh nghi hoặc hỏi lại: “Vậy… là một trăm triệu tệ?”

    Giáo sư Lương lắc đầu, quả quyết nói: “Một tuần! Khi ngồi xe trên đường đến đây tôi đã hiểu nội tình vụ án. Tôi đảm bảo sẽ phá được vụ án này trong vòng một tuần.”

    Phòng họp lại rộ lên những tiếng bàn luận, một số người cảm thấy ông già này chém gió quá đà. Vụ án này đang sa vào ngõ cụt, phía cảnh sát không có bất cứ manh mối nào, cũng chẳng điều tra được gì, vậy mà ông già dám khẳng định sẽ phá án trong một tuần, há chẳng phải còn khó hơn bắc thang lên trời sao?

    Phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc tỏ ý với An tiên sinh phía cảnh sát không thiếu kinh phí, mà cũng không thể nhận tiền phi pháp của người nhà nạn nhân, nên từ chối mấy lần, An tiên sinh liền bảo ông quyên góp một triệu tệ này cho quỹ từ thiện của công an Trung Quốc dành cho những liệt sĩ đã anh dũng hi sinh vì an ninh tổ quốc.

    Sau khi giải tán cuộc họp, trong phòng chỉ còn lại ba người: phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc, nữ trợ lí và giáo sư Lương.

    Nữ trợ lí mở máy tính, trên màn hình hiển thị sơ yếu lí lịch của một số cảnh sát ưu tú khắp các tỉnh thành trên toàn quốc, để giáo sư Lương chọn thành viên cho tổ chuyên án đặc biệt. Giáo sư Lương quan sát nữ trợ lí của phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc một hồi lâu. Cô gái mặc đồng phục vest sơ mi trắng, cổ thắt chiếc khăn lụa rất trang nhã, tay ôm tập tài liệu, mái tóc mượt mà buộc gọn gàng thành đuôi ngựa phía sau, đôi tất giấy màu đen ôm trọn đôi chân thon dài, gợi cảm, mắt đen láy, sáng ngời, hàm răng trắng bóng, đều tăm tắp, nụ cười rạng rỡ như ánh mặt trời.

    Giáo sư Lương mỉm cười hỏi: “Trong danh sách này có hồ sơ của cô không?”

    Nữ trợ lí ngẩn người một lát, rồi cũng cười đáp lời: “Không có, thưa giáo sư!”

    Lương giáo sư nói: “Vậy thì tôi muốn cô gia nhập tổ chuyên án!”

    Nữ trợ lí tròn mắt ngạc nhiên, cô hỏi: “Vì sao giáo sư lại chọn tôi?”

    Giáo sư Lương từ tốn đáp: “Lí do rất đơn giản! Người có thể trở thành trợ lí của phó cục trưởng chẳng lẽ lại là hạng xoàng sao?”

    Phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc vội vàng giới thiệu nữ trợ lí cho giáo sư Lương. Cô ấy tên là Tô My, tự học lập trình máy tính từ khi đang học cấp hai, biết năm ngoại ngữ, hội phó hội an ninh mạng quốc tế đã phát hiện ra cô khi lầu Năm Góc của Mĩ truy tìm mười hacker nguy hiểm nhất thế giới, đồng thời còn phát hiện tổ chức liên minh các hacker do cô bí mật sáng lập, tuy tổ chức này không có nhiều thành viên nhưng đến từ mọi đất nước trên thế giới, mỗi hacker dưới trướng của cô đều có khả năng trở thành thống soái của cuộc chiến thông tin.

    Giáo sư Lương hỏi: “Chỉ có vài bản lĩnh vặt vãnh đó thôi sao? Cô ấy còn biết làm gì nữa không?”

    Phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc nói: “Xin lỗi giáo sư! Tôi không có quyền tiết lộ những chuyện chưa được phép đưa ra ngoài ánh sáng. Có điều Tiểu My đúng là một trong những hacker cao thủ có thể nắm được các lỗ hổng bảo mật, các thủ thuật mã hóa và giải mã. Lầu Năm Góc của Mĩ và liên minh hacker của cô ấy từng đối kháng dai dẳng trên mạng, cuối cùng lầu Năm Góc đành giơ cờ hàng để kết thúc cuộc chiến này.”

    Giáo sư Lương hỏi luôn: “Sau đó cô ấy bị các anh bắt gọn sao?”

    Phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc nói: “Nói chính xác hơn thì chúng tôi tuyển dụng cô ấy, sau nhiều năm khảo hạch, giờ cô ấy đang là một cảnh sát.”

    Giáo sư Lương châm điếu thuốc, hút một hơi, rồi nói: “Này cô gái! Sao cô lại muốn trở thành cảnh sát?”

    Tô My thẳng thắn đáp: “Vì những ngành khác không dám dùng tôi.”

    Thế là tổ chuyên án chỉ thiếu hai người nữa! Giáo sư Lương vẫn chưa liếc mắt đến danh sách các cảnh sát ưu tú được tiến cử trên máy tính, những cảnh sát ưu tú nhiều lần được biểu dương không nằm trong phạm vi lựa chọn của ông. Giáo sư nói luôn ra hai cái tên: Họa Long và Bao Triển.

    Phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc nhíu mày, ông ngập ngừng cất giọng với vẻ khó xử: “Giáo sư đổi một trong hai người đó được không? Tôi biết cậu tên là Họa Long này, có điều hiện giờ cậu ta vẫn đang bị nhốt trong trại giam!”

    Giáo sư Lương nói: “Anh có đủ khả năng thả cậu ta mà! Cứ bảo lãnh tại ngoại rồi xét xử sau, để cậu ta lấy công chuộc tội.”

    Tô My bắt đầu đọc: Họa Long, sĩ quan vũ trang, năm 1989 đoạt giải quán quân võ thuật toàn quốc, năm 1991 đạt giải nhất cuộc thi đấu đối kháng tự do của cảnh sát trên toàn thế giới, năm 1994 trở thành quán quân môn quyền anh ở Tam Á, năm 1995 giành được đai vàng ở hạng sáu mươi kilogam cúp nhà vua Thái Lan, năm 1997 tự ý đến Nhật Bản tham gia cuộc thi đấu đối kháng quốc tế K-l, bị cưỡng chế bắt về nước nên chưa kịp giành thứ hạng. Nhiều lần vi phạm kỉ luật, sử dụng vũ khí cảnh sát phi pháp, bức cung, ép cung, uống rượu trong giờ làm việc, đánh bạc sau khi tan sở, tác phong sinh hoạt rất bê bối… Đúng là một lí lịch đầy vết ố.

    Phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc hỏi: “Thế còn cậu tên là Bao Triển kia, tôi chưa bao giờ nghe thấy tên người này, cậu ta cũng là cảnh sát vũ trang ư?”

    Giáo sư Lương nói: “Không phải!”

    Phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc hỏi tiếp: “Thế cậu ta là cảnh sát đặc nhiệm sao?”

    Giáo sư Lương lắc đầu.

    Phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc lại hỏi: “Thế thì ít nhất cậu ta cũng phải là cảnh sát hình sự chứ?”

    Giáo sư Lương đáp: “Cũng không phải!”

    Phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc đành hạ lệnh, trước khi trời sáng phải dùng trực thăng đưa được hai người mà giáo sư Lương vừa chỉ đích danh đến đây.

    Một đêm đằng đẵng trôi qua, giáo sư Lương đặc biệt lựa chọn phòng hội nghị bàn tròn để đón tiếp hai thành viên mới này. Ý nghĩa của hội nghị bàn tròn là các thành viên tham gia bất phân chức vị lớn nhỏ, không được phép tôn trọng quá mức hay khinh thường bất cứ ai, mọi người đều bình đẳng đối thoại.

    Họa Long đến trước, anh đứng trong phòng hội nghị bàn tròn, ghếch điếu thuốc trên môi, tỏ vẻ khó chịu: “Sếp, tôi muốn quay lại trại giam!”

    Phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc cười trừ: “Họa Long, lâu lắm chưa gặp cậu nhỉ? Mọi chuyện vẫn ổn đấy chứ? Tôi mời cậu đến đây là có việc cần nhờ tới cậu, việc gì phải suy nghĩ tiêu cực thế hả?”

    Họa Long đáp: “Lần trước sếp tìm mấy tay cảnh sát ngầm. Hôm ấy, tôi còn đứng cùng họ, thế mà sau đó mấy tay ấy đều ngã hết, muốn đứng cũng hết đường nhỏm dậy. Tôi vẫn muốn sống thêm vài ngày nữa!”

    Phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc hỏi: “Lần này vì sao cậu lại bị tống vào trại giam thế?”

    Tô My đưa tập hồ sơ cho giáo sư Lương, trên đó ghi chép vụ án hình sự Họa Long gây sự đánh nhau cố ý gây thương tích.

    Họa Long bình thản đáp: “Đấm vỡ mặt tay đội trưởng đội cảnh sát!”

    Phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc ngán ngẩm: “Lại đánh nhau à? Nghiêm trọng hơn còn cố ý gây thương tích, nếu nghiêm trọng hơn nữa thì đã mắc tội ngộ sát rồi đấy! Đây chính là con đường cậu muốn đi hay sao? Chi bằng gia nhập tổ chuyên án? Sao hả? Tổ chuyên án này do ban ngành công an tối cao thành lập, có quyền chỉ huy điều động tất cả các cảnh sát trên toàn quốc. Các thành viên của tổ chuyên án là những cảnh sát xuất sắc nhất được tuyển chọn từ hàng vạn cảnh sát ưu tú. Được chọn vào tổ chuyên án là niềm vinh dự mơ cũng không thấy của bất kì cảnh sát nào. Tổ chuyên án phụ trách tiến hành điều tra, phá giải tất cả những vụ án nghiêm trọng nhất trên khắp đất nước. Các đơn vị cảnh sát khác có trách nhiệm hết sức hỗ trợ, giúp đỡ tổ chuyên án phá án một cách vô điều kiện. Trình tự là thế này cảnh sát địa phương viết đơn xin gia nhập, sau khi hồ sơ được nộp lên trên, chúng tôi sẽ quyết định…”

    Không đợi phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc nói hết câu, Họa Long đã chen ngang: “Được rồi! Sếp nói hết sức hỗ trợ ở đây có nghĩa là gì?”

    Phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc trịnh trọng giải thích: “Tất cả lực lượng cảnh sát địa phương phải phục tùng theo sự chỉ huy của các cậu, nghe theo sự phân công của các cậu. Thậm chí nếu cậu muốn lãnh đạo lau giày cho mình, thì lãnh đạo của cậu cũng phải phục tùng vô điều kiện!”

    Nghe đến đây, hai mắt Họa Long sáng bừng: “Sếp! Thế nghĩa là nếu tôi gia nhập tổ chuyên án thì dù lãnh đạo mời tổ chuyên án đi giúp đỡ, các thành viên của tổ chuyên án hoàn toàn có quyền từ chối, phải không?”

    Phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc đáp: “Đúng vậy! Thép tốt phải để dành làm lưỡi dao. Những vụ án giao cho tổ chuyên án phải là những vụ án vô cùng nghiêm trọng và đặc biệt. Mỗi vụ án đều là những vụ kinh thiên động địa!”

    Họa Long vẫn băn khoăn: “Liệu các lực lượng cảnh sát khác có nghe lời chúng tôi thật không? Nếu họ không phối hợp thì rất khó phá án. Ví dụ thế này…”

    Phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc trấn an: “Về chuyện này thì cậu cứ yên tâm! Nếu vụ án mà họ trình lên cấp trên không thể phá được thì cảnh sát địa phương phải chịu trách nhiệm trực tiếp, thậm chí có nguy cơ từ chức, bởi vậy chắc chắn cảnh sát trưởng của các địa phương sẽ coi các cậu như những cứu tinh. Họ không dang rộng hai tay chào đón các cậu mới lạ. Hơn thế nữa, tất cả kinh phí sẽ do họ chi trả, điều duy nhất tôi cần làm là cử những cảnh sát xuất sắc nhất đi giúp họ, chứ không vứt cho họ mấy quả trứng thối.”

    Phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc nói tiếp: “Trong vụ án đầu tiên mà các cậu tiếp nhận, biểu hiện của các cậu như thế nào sẽ được viết vào bản báo cáo nhận xét.”

    Họa Long thắc mắc: “Sếp nói vậy là ý gì?”

    Phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc đáp: “Khi thành lập tổ chuyên án này, tôi phải chịu áp lực nặng nề chưa từng có từ trước đến nay. Hi vọng tổ chuyên án sẽ không làm tôi thất vọng, bằng không sẽ phụ lòng tin tưởng tuyệt đối của tôi. Nếu các cậu không thể phá nổi vụ án đầu tiên này, thì tổ chuyên án sẽ đứng trước nguy cơ bị giải thể.”

    Giáo sư Lương hỏi: “Đây là mệnh lệnh sao?”

    Phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc nhún nhường: “Không! Đó là lời thỉnh cầu!”

    Giáo sư Lương hỏi tiếp: “Vậy nếu phá được thì sao?”

    Phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc đáp: “Thì sẽ có những vụ án kế tiếp!”

    Giáo sư Lương thở dài: “Tôi mắc bẫy của cậu rồi!”

    Phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc cất tiếng cười sảng khoái!

    Mọi người rất tò mò với thành viên cuối cùng của tổ chuyên án, bởi người này không phải cảnh sát đặc nhiệm, lại cũng không phải cảnh sát vũ trang, thậm chí còn không phải cảnh sát hình sự. Tô My tìm được thông tin cá nhân của Bao Triển trên mạng Intemet.

    Nếu dựa vào những tư liệu này thì thành viên cuối cùng của tổ chuyên án có lí lịch vô cùng bình thường, không hề có điểm nổi bật nào. Hơn thế nữa, dường như anh ta còn gặp vấn đề về trí tuệ. Bậc tiểu học mà anh ta cần học những bảy năm, trung học cũng mất những năm năm, vừa mới tốt nghiệp khoa điều tra của trường đại học cảnh sát, giờ đang trong quá trình thực tập tại đội cảnh sát ở quê nhà, thậm chí còn không thể coi anh ta là cảnh sát dân sự.

    Họa Long nói: “Ố la la… Lại còn tìm một kẻ đần độn hơn cả tôi nữa sao?”

    Tô My phản bác: “Biết đâu lại là một đại thiên tài?”

    Giáo sư Lương giới thiệu giản lược: “Bao Triển là một cô nhi, cha mẹ mất sớm, được nhà họ Bao trong thôn nuôi dưỡng từ thuở bé cho đến khi trưởng thành. Từ nhỏ, cậu ta đã phải vừa học vừa làm, từng là nhân viên phục vụ trong nhà hàng, thợ điện, rồi bày bán sách ven đường, bán rau, bán báo… cứ thế cho đến khi tốt nghiệp trường cảnh sát.”

    Khi Bao Triển còn học trong trường cảnh sát, anh vẫn thường xuyên thư từ qua lại với giáo sư Lương. Theo như gia phả thì Bao Triển là hậu duệ trực hệ của Bao Chửng Bao Thanh Thiên.

    Họa Long tỏ vẻ coi thường: “Thế cũng đâu có gì giỏi giang, hậu duệ của Bao Chửng dễ có đến mấy vạn người. Hàng năm ở An Huy đều tổ chức hoạt động tế lễ phỏng cổ.”

    Giáo sư Lương điềm tĩnh đáp: “Tôi chọn cậu ta chứng tỏ cậu ta ắt không phải người thường.”

    Phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc tỏ vẻ nghi ngờ: “Tôi cũng muốn biết hậu duệ của Bao Chửng rốt ruộc có điểm gì hơn người!”

    Đúng lúc này cửa phòng họp liền bật mở, một thanh niên bước vào.

    Chương 3Yêu râu xanh trong tàu điện ngầm
    Một người có vẻ bề ngoài chẳng khác nào dân thường bước vào, nước da ngăm đen, mặt lớn, mũi to, chân đi đôi giày giải phóng quân.

    Tô My đang định hỏi xem anh ta định tìm ai thì thấy người đó nghiêm trang chào theo kiểu nhà binh: “Bao Triển – Cảnh sát thực tập tại đội cảnh sát xã Bao Gia Phô Tử, huyện Gia Tường, tỉnh Sơn Đông báo cáo có mặt!”

    Phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc bước về phía anh thanh niên, hỏi: “Vừa mới tốt nghiệp, vẫn đang trong giai đoạn thực tập mà đã được tuyển chọn vào tổ chuyên án, cậu có cảm tưởng gì?”

    Bao Triển hạ tay xuống, đứng nghiêm trang, cất giọng dõng dạc: “Thề trước quốc kì, từng lời nói hành động của cảnh sát tuyệt đối không vấy bẩn sao vàng. Thề trước hiến pháp, từng suy nghĩ ý thức của cảnh sát tuyệt đối không phạm tới tôn nghiêm của pháp luật. Thề trước nhân dân suốt đời suốt kiếp của cảnh sát tuyệt đối không phụ sự kì vọng của nhân dân. Trước quốc kì và quốc huy, tôi xin thề: Sẽ đấu tranh không ngừng nghỉ đến giọt máu cuối cùng với mọi hoạt động phạm tội vì sự hưng thịnh của quốc gia, vì an ninh của nhân dân! Tôi thề sẽ làm tất cả vì sứ mệnh thần thánh, vì sự hi sinh cao cả của các chiến hữu. Được làm cảnh sát và đứng ở đây là vinh dự của cả đời tôi!”

    Lời tuyên thệ sôi sục nhiệt huyết ấy khiến phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc không thể không giơ tay lên đáp lễ, rồi bảo: “Chào mừng cậu gia nhập tổ chuyên án!”

    Họa Long cất lời châm biếm: “Một cảnh sát mới vào nghề à?” Giọng anh mang hơi hướng trêu chọc.

    Giáo sư Lương nói với Bao Triển: “Xem ra cậu phải cho họ xem tài nghệ của mình mới được!”

    Giáo sư Lương bảo Bao Triển nhắm mắt lại, quay người đi, lưng xoay về phía mọi người, rồi ông lấy trong túi áo ra một chiếc bút máy, giơ lên cao hỏi Bao Triển: “Gì đây?”

    Bao Triển nhắm hai mắt, đáp ngay không cần suy nghĩ: “Bút máy nắp xoay hiệu Parker!”

    Họa Long thấy hơi khó tin, liền móc ngay bao thuốc ra, giơ lên hỏi tiếp: “Thế cái gì đây?”

    Bao Triển đáp: “Thuốc lá hiệu Trung Hoa, vẫn còn nửa bao!”

    Tô My nghi ngờ Bao Triển giở trò, có lẽ trong phòng có vật gì đó phản quang, anh ta đã lén nhìn trộm và đoán ra được. Nghĩ vậy, cô liền tháo chiếc khăn lụa quàng trên cổ, bịt chặt hai mắt Bao Triển, thắt nút sau đầu. Cuối cùng Tô My giơ tay lên, trong tay cô không cầm bất cứ vật gì. Tô My hỏi: “Trong tay tôi là thứ gì?”

    Bao Triển trầm ngâm một lát rồi đáp: “Không có gì hết, chỉ có… mùi nước hoa.”

    Mọi người ngỡ ngàng, thì ra Bao Triển có khứu giác vô cùng khác thường. Những nhà chế tạo nước hoa Pháp cao cấp đều có thể dùng mũi ngửi để phát hiện ra các loại hoa khác nhau được dùng trong nước hoa.

    Chuyện này không có gì kì lạ, mà điều khiến người ta không thể hiểu nổi là làm sao Bao Triển có thể biết hiệu chiếc bút máy và bao thuốc lá?

    Bao Triển điềm nhiên giải thích: “Trong một lần viết thư cho tôi, giáo sư đã nhắc hiệu chiếc bút máy, còn việc biết hiệu bao thuốc là vì lúc mới bước vào phòng, tôi đã nhìn thấy Họa Long hút điếu thuốc hiệu Trung Hoa.”

    Thế là tổ chuyên án chính thức thành lập. Không có bất kì nghi thức nào! Không có ánh đèn chớp nháy của máy ảnh, cũng không có phóng viên! Nhưng đó lại là ngày có ý nghĩa lịch sử đối với ngành cảnh sát Trung Quốc!

    Bốn thành viên của tổ chuyên án, người nào cũng sở hữu một tuyệt kĩ siêu phàm.

    Giáo sư Lương Thư Dạ có kinh nghiệm phá án phong phú, tư duy thông tuệ, giỏi phát hiện và suy luận.

    Bao Triển có khứu giác đặc biệt nhạy cảm và khả năng quan sát xuất sắc.

    Họa Long – sĩ quan cảnh sát vũ trang, giỏi võ và có sức khỏe phi thường.

    Tô My – cao thủ hacker, có thể cung cấp mọi thông tin kĩ thuật.

    Tình hình vụ án bây giờ rất khẩn cấp, thiên kim tiểu thư nhà họ An mất tích trong đường sắt tàu điện ngầm một cách kì bí, chưa rõ sống chết ra sao. Giáo sư Lương đã mạnh miệng hứa sẽ phá án trong vòng một tuần khi hiện tại tổ chuyên án không có bất kì manh mối nào. Các thành viên lập tức lao vào nhịp độ khẩn trương của công việc. Họ coi phòng hội nghị này như văn phòng làm việc. Mặc dù tổ chuyên án mới được thành lập chưa lâu, mọi người còn chưa quen biết nhau lắm, nhưng tất cả đều có chung một mục đích, đó là nhanh chóng phá được vụ án này!

    Phó cục trưởng đứng đợi mãi ở cửa, ông ngồi xuống ghế, nghiêng đầu lơ mơ muốn ngủ.

    Buổi chiều, Họa Long đánh thức phó cục trưởng dậy: “Sếp! Phiền sếp gọi hết mấy em xinh đẹp trong cục chúng ta đến đây giúp nhé!”

    Cục phó lơ ngơ không hiểu: “Hả? Gì cơ? Mấy em xinh đẹp sao?”

    Họa Long giải thích: “Sếp! Tổ chuyên án vừa họp và ra quyết định, chỉ cần nữ cảnh sát tham gia chuyên án, mà phải xinh xinh chút đấy!”

    Phó cục trưởng vẫn chưa hiểu, nhưng vẫn y lời Họa Long, lập tức triệu tất cả nữ cảnh sát xinh đẹp trong ngành đến phòng họp. Các nữ cảnh sát xếp thành mấy hàng đứng sát tường, lầm rầm bàn tán, không rõ vì sao tổ chuyên án lại triệu tập họ tới. Họ thấy phòng họp vốn sạch sẽ gọn gàng mọi hôm giờ đã biến thành gian phòng luộm thuộm, trên tường đính đầy mảnh giấy nhớ trên cửa sổ dày đặc những con chữ được viết bằng bút dạ, trên mặt đất lả tả những tệp công văn giấy tờ, ba chiếc máy tính đều đang mở, một trong số đó đang nhanh chóng scan tài liệu gì đó, rõ ràng tổ chuyên án đã làm việc không ngừng nghỉ trong căn phòng này.

    Giáo sư Lương nói: “Bây giờ tôi sẽ công bố tình hình vụ án, hung thủ chắc chắn vẫn ở trong phạm vi thành phố này…”

    Một nữ cảnh sát lập tức ngắt lời ông, cô hỏi: “Sao giáo sư có thể khẳng định chắc chắn như vậy? Và tại sao lại bắt đầu lục soát từ phạm vi trong thành phố”

    Giáo sư Lương hỏi lại: “Không lẽ ta nên bắt đầu lục soát từ ngoại vi thành phố sao?”

    Phó cục trưởng ra hiệu cho mọi người không được cắt ngang lời giáo sư. Giáo sư Lương tiếp tục nói: “Thực ra vụ án này vô cùng đơn giản. Điểm khó khăn duy nhất là chúng ta không hề có bất kì manh mối nào. Nhưng không có manh mối thì chúng ta phải tạo ra manh mối. Tính chất của vụ án này cho phép ta đặt ra bốn khả năng: Một là An tiểu thư tự muốn mình mất tích; hai là cô ta đã bị hung thủ giết chết rồi phi tang để trả thù cá nhân, ba là cô ta bị bắt cóc tống tiền, bốn là bị hung thủ bắt giữ và giam cầm. Trong bốn khả năng trên thì khả năng đầu tiên ít nhất và khả năng cuối cùng lớn nhất. Phương hướng điều tra luôn lựa chọn khả năng lớn nhất, nghĩa là chúng tôi sẽ tiến hành rà soát từ phạm vi nội thành, chứ không bắt đầu từ ngoại thành. Câu hỏi đặt ra là tại sao hung thủ lại bắt người và giam giữ? Hung thủ có thể là ai? Câu trả lời rất đơn giản – Y chính là kẻ chuyên quấy rối tình dục trong tàu điện ngầm.”

    Bao Triển bổ sung thêm: “Theo suy luận bốn cấp leo thang trong hình sự thì khả năng lớn nhất có thể xảy ra là hung thủ chính là một tên chuyên quấy rối tình dục thường hoạt động ở khu vực tàu điện ngầm, nhìn thấy các cô gái xinh đẹp gợi cảm liền nảy sinh dục vọng. Có lẽ tại một điểm mù nằm ngoài tầm kiểm soát của hệ thống camera trong khu vực trạm nghỉ, An tiểu thư xinh đẹp đã bị hung thủ đánh ngất bằng phương pháp nào đó, sau đó y sẽ nhét nạn nhân vào túi to hoặc ba lô kéo, rồi đưa đến hang ổ.”

    Tô My nói: “Các đồng chí, nhiệm vụ hiện giờ của các đồng chí là phải đi bắt những tên yêu râu xanh hoạt động ở khu vực tàu điện ngầm, bởi vậy các đồng chí cần mặc quần áo gợi cảm, trang điểm thật đẹp. Sau khi bắt được chúng, trọng điểm điều tra là xét hỏi xem trong ngày cô An Kỳ mất tích, những tên yêu râu xanh nào đã từng nhìn thấy cô ta trong nhà ga tàu điện ngầm. Các đồng chí đều phải đem theo ảnh của cô An Kỳ và thay cảnh phục bằng thường phục!”

    Một nữ cảnh sát trung niên tầm ngoại tứ tuần liền dõng dạc hô lớn: “Rõ!”

    Họa Long chọc: “Thím ơi! Thím làm ơn ở nhà cho đỡ vướng cẳng, để các em trẻ đẹp đi được rồi!”

    Nữ cảnh sát trung niên nọ trừng mắt hỏi: “Tôi là đảng viên! Tôi chưa bao giờ sợ đấu tranh với lũ người xấu… Ý cậu nói tôi không đẹp chứ gì?”

    Mọi người phá lên cười…

    Thực ra trong tàu điện ngầm chỉ có hai loại người: Yêu râu xanh và không phải yêu râu xanh!

    Họa Long và Bao Triển ngồi trên ghế tàu điện ngầm. Cách đó không xa, Tô My đứng gần cửa ra vào, nắm chặt vào vòng bám tay trên tàu giả dạng hành khách. Cô mặc đồng phục, trông không khác gì một tiếp viên hàng không xinh đẹp và gợi cảm. Nếu là yêu râu xanh, chắc chắn hắn không thể nào bỏ qua!

    Vì chân giáo sư Lương không tiện đi lại nên ông không tham gia hoạt động lần này, mà chỉ ngồi ngồi trong văn phòng quan sát camera.

    Các nữ cảnh sát xinh đẹp mặc trang phục vừa thời thượng vừa thời trang, tản ra khắp các toa tàu thực hiện nhiệm vụ. Họ lén đưa mắt nhìn các hành khách xung quanh, thầm đánh giá và ước đoán xem ai có khả năng là yêu râu xanh. Đối với những cảnh sát đêm ngày làm bạn với khẩu súng và hiểm nguy thì nhiệm vụ này vô cùng mới mẻ và khiến họ hưng phấn. Có lẽ vì sự nhạy cảm và tinh thần cảnh giác cao độ đặc thù của các nữ cảnh sát, nên nữ cảnh sát trung niên nọ đã bắt nhầm người, suýt nữa phá hỏng cả lần hành động này. Tô My khẽ thì thầm vào bộ đàm không dây khuyến cáo các nữ cảnh sát không được quên mình là ai. Dẫu xác định đúng đối phương là yêu râu xanh cũng không được bắt chúng ngay tại trận, tránh đánh rắn động cỏ, gây chú ý cho những người xung quanh, Bao Triển đưa mắt quan sát bốn phía, một người đàn ông trung niên quần áo xộc xệch, nhếch nhác tiến lại gần. Bao Triển cảnh giác liếc hắn. Người nọ tránh ánh mắt anh. Một lát sau, hắn dừng lại cạnh Bao Triển, hơi cúi người nhếch mép nửa như cười nửa như không, thì thầm bảo: “Mấy hôm trước vớt được một tử thi nữ không đầu trong hồ nhân tạo ở công viên. Cậu muốn biết ai giết cô ta không?”

    Bao Triển chột dạ, tim đập thình thịch. Họa Long cũng nghe thấy, anh đưa mắt ra hiệu cho Bao Triển chớ vội hành động.

    Gã trung niên nọ thấy mặt Bao Triển chứa đầy vẻ hoài nghi, liền nói tiếp: “Tháng trước, một đám người cầm dao giết chết một tài xế. Cậu có biết chuyện này không?”

    Bao Triển đáp: “Không biết!”

    Gã trung niên nọ tiếp tục: “Gần đây các băng nhóm xã hội đen hoành hành rất dữ dội, chúng có súng, chuyên hoạt động ở các bến tàu, trạm xe, cướp giật đồ của khách ngoại tỉnh…” Giọng hắn càng lúc càng nhỏ, càng lúc càng trầm xuống. Cùng lúc đó, tay hắn thò vào trong ba lô sau lưng…

    Họa Long đứng bật dậy. Bao Triển đang do dự không biết nên lập tức bắt hắn hay tiếp tục án binh bất động thì thấy hắn móc ra một tập báo dày trong ba lô, tài tình như người ta làm ảo thuật. Hắn cười nói: “Mua một tờ Pháp luật ra ngày hôm nay là biết liên à! Vụ án động trời nào cũng có tuốt!”

    Đúng là một phen thần hồn nát thần tính! Họa Long sừng sộ bước tới, túm cổ áo gã trung niên quát: “Biến!”

    Gã trung niên bán báo thấy Họa Long trừng mắt liền len lén chuồn thẳng sang toa khác.

    Tàu đến trạm tiếp theo, hành khách ùn ùn kéo vào, mọi người đều bị xô vào trong góc. Tô My cũng bị ép vào một góc tàu. Phía sau cô là một thanh niên với dáng vẻ giống c xanh đi theo dòng hành khách ra khỏi ga. Tô My đi theo sau, cô trừng mắt nhìn gã thanh niên, tức giận đến mức không thốt nên lời.

    Lần hành động này, đội cảnh sát bắt được tất cả sáu tên yêu râu xanh trong tàu điện ngầm. Tất cả bọn chúng đều do Bao Triển và phân cục phó trực tiếp thẩm vấn.

    Họa Long đùa Tô My, anh hỏi cô có muốn tham gia ghi bút lục không. Tô My trừng mắt lườm anh, không thèm trả lời.

    Cuộc thẩm vấn kết thúc mà không có bất kì thu hoạch nào. Ngoài việc tự cảm thấy hối hận về hành vi của mình ra, thì sáu tên yêu râu xanh chuyên quấy rối tình dục hành khách nữ trong tàu điện ngầm đều thanh minh mình chưa bao giờ nhìn thấy An tiểu thư. Họ không hề có ấn tượng với bức ảnh của An Kỳ. Bao Triển, Họa Long, Tô My bắt đầu thấy hơi nản. Họ quay về văn phòng chuẩn bị báo cáo tình hình với giáo sư Lương Thư Dạ.

    Giáo sư Lương đang tập trung tinh thần quan sát từng hình ảnh camera trong máy tính, thậm chí ba thành viên của tổ chuyên án bước vào lúc nào ông cũng không hề hay biết.

    Tô My thở dài: “Hầy! Tôi đã xem cuốn băng này hàng trăm lần rồi, phân cục đường sắt cũng xem nát cả cuốn băng nhưng chẳng có gì.”

    Tại thời điểm An Kỳ mất tích, trong băng camera không hề xuất hiện bất kì hình ảnh nào của cô ta suốt quá trình từ khi cô ta bắt đầu bước vào ga tàu cho đến khi chuyến tàu điện ngầm cuối cùng khởi hành. Ngay cả trong camera đặt ở các cửa ra của nhà ga cũng không hề phát hiện thấy bóng dáng An Kỳ. Điều đặc biệt là cảnh sát tuyệt đối không phát hiện bất kì kẻ khả nghi nào mang hành lý xách tay hoặc ba lô khoác vai xuất hiện trong camera.

    Giáo sư Lương xoay máy tính về phía Bao Triển, Họa Long và Tô My, rồi trầm giọng bảo: “Các cô cậu đã bao giờ xem phim kinh dị lúc nửa đêm chưa?”

    Ba người nhìn vào màn hình vi tính, họ lập tức trông thấy cảnh tượng khiến người ta dựng tóc gáy hiện lên trong camera giám sát mọi hoạt động của đường tàu. Chuyến tàu cuối cùng đã khởi hành từ lâu, thời gian trên màn hình hiển thị 0:10, đường sắt tịnh vắng bóng người, sân ga mờ tối bởi người ta đã tắt bớt bóng đèn.

    Bao Triển, Họa Long và Tô My lờ mờ nhìn thấy phía dưới đường tàu có một phụ nữ cúi gập lưng hai tay buông thõng, đầu gục xuống, tóc rủ lơ phơ trùm hết khuôn mặt. Cô ta lừ lừ tiến lại gần sân ga.

    Chương 4Cỗ xác trương phình
    Trên thế giới từng xuất hiện rất nhiều vụ hung án ly kì xảy ra trong khu vực tàu điện ngầm.

    Năm l974, tại New York, Mỹ, một nhóm khủng bố bịt mặt bắt giữ hành khách trong tàu điện ngầm làm con tin. Cứ cách một tiếng, chúng lại giết một người để uy hiếp chính phủ, đòi khoản tiền chuộc khổng lồ. Đối diện với lực lượng cảnh sát dày đặc vây bốn phía, sau khi nhận được tiền chuộc, nhóm khủng bố bịt mặt lập tức biến mất một cách vô cùng thần bí ngay dưới lòng đất. Sau đó, một công nhân tuần tra đường sắt phát hiện bọn chúng đã đào trước một đường hầm bí mật ở gần đó.

    Năm 1982, tại tàu điện ngầm ở London xảy ra một vụ thảm án, vì mất điện nên đoàn tàu điện ngầm buộc phải dừng lại giữa đường. Sáu hành khách bị giết dã man. Một hành khách say rượu nằm ngủ ở góc khuất nên may mắn thoát khỏi kiếp nạn. Ông ta lấy máy ảnh chụp lại hiện trường hung án. Sau khi được đăng trên tờ “The Times”, bức ảnh đó đã tạo ra cơn địa chấn rúng động toàn thế giới. Đây chính là vụ án “Ma cắt cổ” nổi tiếng trong lịch sử phạm tội. Đến tận ngày nay, vụ án này vẫn chưa có lời giải.

    Người phụ nữ xuất hiện trên màn hình không phải ai khác, mà chính là An Kỳ!

    Trong camera, tư thế của cô ta trông vô cùng quái dị, lưng cúi gập, đầu gục xuống, hai tay buông thõng.

    Phía dưới thân thể cô ta còn có một người khác. Kẻ đó đang cõng An Kỳ đi trong sân ga.

    Vì ánh sáng rất kém nên hình ảnh của họ trông lờ mờ. Kẻ cõng An Kỳ chỉ lộ nửa đầu, phần còn lại đều bị tóc của An Kỳ che khuất, bởi vậy rất khó phân biệt các đặc trưng về diện mạo và kiểu tóc của y. Tô My phóng to hình ảnh lên một trăm lần, rồi dùng kĩ thuật xử lý kích hình rõ nét, kết quả trên màn hình hiện ra một kẻ đội mũ giáp!

    Giáo sư Lương lập tức gọi điện thoại cho phân cục trưởng phân cục đường sắt, yêu cầu ông ta thẩm vấn trọng điểm những kẻ quấy rối tình dục hành khách nữ vừa bị bắt ngày hôm nay xem ai là công nhân xây dựng hoặc lính cứu hỏa, ai thường đội mũ bảo hộ lao động ra vào nhà ga.

    Bao Triển bổ sung thêm: “Hãy tìm người đàn ông trung niên chuyên bán báo trong nhà ga và thẩm vấn anh ta. Có lẽ anh ta sẽ cung cấp được một vài manh mối hữu ích.”

    Một lát sau, chủ quản phụ trách công tác an ninh đường sắt đã lôi được gã trung niên bán báo đến văn phòng của tổ chuyên án. Hắn bị còng tay, miệng lải nhải kêu oan: “Tôi chỉ đi bán báo, có làm gì phạm pháp đâu mà vô cớ bắt tôi?”

    Bao Triển bước đến chỗ hắn, mở khóa còng tay rồi bảo: “Xin lỗi ông anh! Chúng tôi chỉ muốn ông anh hợp tác với cảnh sát phá án. Tôi vốn định mời ông anh đến, chẳng ngờ họ lại bắt ông anh thế này!”

    Gã bán báo vẫn còn bực mình, hắn tỏ vẻ khó chịu đáp lời: “Tôi đếch biết gì sất! Đừng hỏi vô ích!”

    Chủ quản phụ trách công tác an ninh đường sắt liền nghiêm giọng quát: “Tốt nhất anh hãy ngoan ngoãn phối hợp với cảnh sát!”

    Bao Triển cầm ba lô đựng báo của gã trung niên, kiểm tra một lát, thấy bên trong còn một sập báo, anh bảo: “Tôi mua hết chỗ báo này! Có điều tôi muốn hỏi thăm một việc, mong ông anh trả lời giúp. Ông anh có để ý thấy ai trong nhà ga hay đội mũ giáp không? Ông anh thấy hắn có hành động gì khả nghi giống như kẻ trộm hay kẻ quấy rối tình dục không?”

    Tay bán báo nghe vậy mới nguôi giận, giọng nói cũng hòa nhã hơn, hắn bắt đầu thao thao bất tuyệt. Quả thực hắn đã cung cấp được một manh mối vô cùng quan trọng. Ngày nào gã trung niên này cũng bán báo trong nhà ga, hắn nhìn thấy rất nhiều người đội mũ giáp, đa số đều là công nhân, số ít là các ca sĩ lang thang đội mũ bảo hiểm xe máy, ngoài ra còn có một người đặc biệt, ngày nào anh ta cũng ngồi ở ga tàu điện ngầm, nom vừa giống thợ điện, lại vừa hao hao giống công nhân đường sắt, dường như anh ta thiếu một bên tai nên luôn đội mũ bảo hiểm để che phần tai bị mất. Anh ta không đi làm, mà ngồi cả ngày trong nhà ga.

    Chủ quản phụ trách công tác an ninh đường sắt tìm một chiếc mũ giáp, gã trung niên bán báo lập tức nhận ra ngay: “Đúng vậy! Anh ta đội chiếc mũ này!”

    Sau khi đối chiếu các thông số kĩ thuật thì thấy chiếc mũ này hoàn toàn trùng khớp với chiếc mũ thấy trong camera.

    Giáo sư Lương nói: “Rất có khả năng nghi phạm là công nhân phục vụ trong ngành đường sắt. Từ camera có thể nhận ra y cố tình cúi đầu thật thấp để tránh ống kính. Điều đó chứng tỏ y rất thông thạo các vị trí camera được bố trí trong nhà ga.”

    Chủ quản phụ trách công tác an ninh đường sắt nói: “Những công nhân đội mũ bảo hiểm làm việc trong đường sắt thường là công nhân tuần tra, công nhân tu sửa đường tàu, thợ điện, thợ cơ khí… Những người này đều làm ca đêm, một số là công nhân thời vụ, sau khi các chuyến tàu hoạt động vào ban ngày kết thúc, họ sẽ tiến hành kiểm tra và sửa chữa đường tàu vào ca đêm.”

    Giáo sư Lương đưa ra phỏng đoán: “Rất có khả năng nghi phạm là kẻ bị hủy hoại dung nhan, tính tình lập dị, hướng nội, không thích giao tiếp với mọi người. Y làm công việc thấp kém, thường bị mọi người coi thường. Có lẽ y vẫn độc thân và sở hữu không gian độc lập, chỉ vậy y mới có nơi để cầm tù người bị hại.”

    Chủ quản phụ trách công tác an ninh đường sắt nói: “Giáo sư nói vậy khiến tôi nghĩ đến một người. Anh ta là công nhân chuyên xử lý nước thải, trông mặt mũi rất xấu xí, không có vợ con. Anh ta còn chơi gái và bị phạt tiền nữa. Kì lạ là sau khi tiểu thư An mất tích thì không thấy anh ta đi làm. Ngay cả mấy hôm nay phát lương cũng không tìm được anh ta.”

    Trung tâm xử lý nước thải đường sắt có sáu trạm trung chuyển, tất cả đều nằm trong đường hầm, giữa số đó có một trạm nằm ở ga tàu điện ngầm gần sân bay.

    Đáng lẽ An Kỳ sẽ phải xuất hiện tại lối ra ở ga này, nhưng cô ta lại mất tích một cách thần bí.

    Hôm ấy, An Kỳ đã đăng trên mạng xã hội một đoạn như sau:

    “Trưa nay, đầu bếp người Pháp nhà mình làm cơm rõ ngon. Ghét thật! Tiểu thư đây đang giảm béo cơ mà! Mình nặng quá bốn lăm kí rồi! Mình và bạn trai chỉ uống chút rượu vang Château Lafite Rothschild, giá chai rượu này đủ để một nông dân sống cả năm. Muốn đi Praha ăn kem quá! Hay đi Hawaii ăn chè kem ở bãi biển cũng được!”

    Sang phòng trang điểm, lấy chai khoáng dưỡng ẩm đổ lên miếng bông Uemura, xoa lên mặt, sau đó thoa kem LaMer, rồi gọi điện cho thợ trang điểm của gia đình lên tầng giúp mình trang điểm nhẹ nhàng.

    Xong rồi! Giờ chuẩn bị ra ngoài shopping thôi! Vào kho để xe, chọn con Porsche Cayenne màu hồng. Đúng rồi! Mình mua liền bảy chiếc Porsche, phun thành màu mình thích. Quần áo hôm nay hợp với con xe màu hồng.

    Tiếp đến lái xe tới quảng trường Vạn Long, nói thật, mình không thích Vạn Long lắm, hàng họ chẳng bắt kịp xu hướng thời trang quốc tế chút nào, có điều mình cũng mua được ít đồ, tiêu hết mỗi hơn ba trăm ngàn tệ. Hôm nay mua sắm ít nên chẳng thấy vui gì cả.

    Hơi mệt! Thế là vào luôn Starbucks ở CITI Pacific ngồi nghỉ. Vừa mới châm điếu Reasurer lên thì con bé nhân viên phục vụ đã lù lù xuất hiện bảo không được hút thuốc, còn bảo tiểu thư đây phải ra ngoài quán ngồi nữa chứ? Làm gì có chuyện vô lý đó? Tức chết đi được! Mình tiện tay tặng luôn một tát, sau đó hỏi nó có biết bổn tiểu thư là ai không? Rồi lôi ngay thẻ ngân hàng siêu Vip của Thụy Sỹ ra vứt vào mặt nó, bảo: “Hôm nay bổn tiểu thư bao trọn quán này luôn! Còn nữa, gọi quản lý nhà hàng ra đây, tôi muốn ông ta đuổi việc cô!” Ối mẹ, nó khóc quá trời luôn, biến luôn khỏi tầm nhìn của mình. Hứ! Dám chống lại bổn tiểu thư thì chỉ còn đường chết.

    Thôi! Không viết nữa, tối còn phải ra sân bay đi Nhật dự tuần lễ thời trang quốc tế. Hẹn gặp lại, các Fans của tôi!”

    Sau đó An Kỳ bị kẹt xe, buộc phải đi tàu điện ngầm, đó là chuyến tàu cuối cùng ngày hôm ấy. Sau khi đến ga tàu gần sân bay, cô gái có tính ưa sạch sẽ quá mức này liền đi rửa tay trong nhà vệ sinh. Phòng vệ sinh không một bóng người, nền nhà trơn ướt, không may An Kỳ trượt chân ngã xuống sàn. Một người đàn ông đội mũ giáp bước tới đỡ cô ta dậy, An Kỳ ghê tởm xua tay ra, quát lên: “Bẩn chết đi được! Cút ra chỗ khác! Thật đáng ghét!”

    Cô ta rửa tay lại rồi ngẩng đầu lên. Từ trong gương của phòng vệ sinh cô ta nhìn thấy một người đàn ông đội mũ giáp đang đứng phía sau lưng, ánh mắt anh ta lộ hung quang.

    An Kỳ sợ run cầm cập, tất tả định bỏ đi, nhưng chợt thấy sau gáy tê rần, rồi một cơn đau ập đến, cô ta khẽ co giật và ngất đi.

    Lúc tỉnh lại, An Kỳ phát hiện mình đang ở trong đường hầm tối om của đường sắt. Một người đàn ông cõng cô ta trên lưng. An Kỳ hoảng loạn kêu gào thảm thiết, giãy giụa hòng thoát ra, nhưng tay và chân cô ta đã bị trói chặt. Gã đàn ông đặt An Kỳ xuống đất, lấy băng keo dán chặt miệng cô ta lại, sau đó tiếp tục vác An Kỳ trên vai mặc cho cô ta ú ớ kêu van. Y sải bước dài tiến sâu vào nơi tối tăm trong đường sắt.

    Tiếng hát của gã đàn ông vang vọng giữa đêm đen. Y hát một bài hát xưa cũ:

    “Hỏi người có thiên trường địa cửu hay không? Tiểu thuyết lãng mạn đều nói có! Ai viết cho anh một bản tình ca bất hủ? Dẫu trời có tình thì đất vẫn cỗi. Anh chỉ lo mình không thể đợi được đến ngày đó thôi! Phải làm sao mới đối mặt được với những mâu thuẫn trong lòng? Xưa nay yêu không ngụy biện, yêu không hối hận! Tất cả của em vĩnh viễn thuộc về anh, nếu em là truyền thuyết của anh…”

    An Kỳ tiếp tục ngất lịm!

    Trong đường sắt cũng có một số dân lang thang cư ngụ, ví như người ăn mày, những kẻ không nhà để về, họ tìm một góc rồi ngủ vạ ngủ vật trên mấy tờ báo. Chẳng ai quan tâm đến họ, cũng chẳng ai buồn hỏi họ. Người công nhân xử lý rác thải nọ cũng sống ở một trạm trung chuyển trong đường hầm. Anh ta là công nhân thuê thời vụ. Gian phòng nhỏ tối tăm sặc mùi tanh nồng chính là ngôi nhà tạm bợ của anh ta.

    Phân cục phó phân cục cảnh sát đường sắt và chủ quản phụ trách công tác an ninh đường sắt dẫn theo đội cảnh sát, họ bừng bừng khí thế men theo đường hầm hướng về trạm trung chuyển xử lý nước thải. Bao Triển và Họa Long đều có linh cảm sắp phá được vụ án này. Lẽ ra Tô My không cần tham gia, nhưng lòng tò mò đã thôi thúc cô đến hiện trường để xem bộ dạng đáng thương khi bị giam cầm của thiên kim tiểu thư nhà họ An.

    Khi sắp đến trạm trung chuyển, mọi người nóng lòng đến mức gần như tất cả đều cất bước chạy.

    Từ văn phòng của tổ chuyên án, giáo sư Lương phải nói vào bộ đàm không dây nhắc nhở mọi người: “Có năm nhân tố dễ phá vỡ hiện trường vụ án, trong đó nhân tố nghiêm trọng nhất chính là cảnh sát!”

    Lời cảnh báo của giáo sư khiến bước chân mọi người bất chợt chậm lại. Họ cẩn trọng tiến về phía trạm trung chuyển. Dưới ánh đèn halogen, gian phòng nhỏ nom chẳng có gì bất thường, bên trong tối như hũ nút, dường như trống không.

    Họa Long bước lại gần, giơ chân đạp cửa, cánh cửa sắt không khoá, một tiếng “keng” vang lên, cánh cửa mở bật ra rồi chậm chạp đàn hồi trở lại.

    Từ kẽ hở của khe cửa, mọi người phát hiện có một người đang nằm trên sàn nhà!

    Một người khổng lồ!

    Nói chính xác hơn, đó chính là một cỗ xác trương phình thành khổng lồ!

    Cửa lại được mở ra, mấy cảnh sát đứng phía trước lập tức gập người nôn thốc nôn tháo. Tô My chỉ liếc nhìn, rồi liền quay mặt đi, lợm giọng buồn nôn.

    Tử thi đã phân huỷ ở mức độ cao, phần mặt phù thũng, con ngươi lồi ra ngoài, phần bụng tròn vo như quả bóng, khí xâm nhập vào trong, trở nên trương phình.

    Bao Triển thốt lên: “Xác trương phình!”

    Sau khi chết năm đến bảy ngày, tử thi sẽ phình to giống như người khổng lồ. Trong y học, hiện tượng này được gọi là hiện tượng xác trương phình do phân hủy.

    Phân cục phó và chủ quản phụ trách công tác an ninh đường sắt cố kìm nén cảm giác lợm giọng đang cồn cào trong dạ dày, bước đến gần xem xét. Một cảnh sát chụp ảnh làm bằng chứng. Đột nhiên cỗ xác phát nổ! Một tiếng “Bụp!” vang lên, nước dịch trong cơ thể tử thi bắn tung tóe, mùi hôi thối kinh tởm tỏa ra.

    Khí phân huỷ khiến áp lực trong bụng tử thi tăng cao, đến lúc không thể chịu nổi, tử thi sẽ phát nổ. Ở Hàn Quốc từng xảy ra một vụ việc rất ly kì, tử thi thai phụ phình to rồi phát nổ, khi phát nổ trong bụng tử thi vọt ra một đứa trẻ!

    Mặc dù bây giờ không thể nhận dạng được diện mạo của tử thi, nhưng dựa vào quần áo nạn nhân mặc tại hiện trường, nhóm máu và dấu vân tay, cảnh sát xác định nạn nhân chính là người công nhân xử lý nước thải nọ. Bác sĩ pháp y bước đầu kiểm tra tử thi đã đưa ra kết luận, nguyên nhân dẫn khiến công nhân xử lý nước thải nọ tử vong là bị người ta đánh ngất rồi bóp cổ đến chết. Nạn nhân đã chết khoảng năm ngày truớc đó, đó cũng chính là thời điểm An Kỳ mất tích.

    Vụ án đột nhiên trở nên ly kì và khó hiểu. Nghi phạm duy nhất đã chết, không những vậy anh ta còn trở thành một cỗ xác khổng lồ và phát nổ.

    Vậy ai là hung thủ giết anh ta?

    Hiện giờ An Kỳ đang ở đâu?

    Chương 5Nơi sâu của địa ngục
    Nếu vụ án đầu tiên không thể phá giải thì tổ chuyên án sẽ đứng trước nguy cơ bị giải tán!

    Mọi người đều ngồi trong văn phòng chờ đợi kết quả khám nghiệm của bác sĩ pháp y, chẳng ai nói với ai câu nào.

    Lần đầu tiên trong đời Bao Triển hút thuốc. Đối với anh, được gia nhập tổ chuyên án là cơ hội mà cả đời anh mơ cũng không thấy. Từ nhỏ đến lớn anh đã phải chịu đựng biết bao khổ cực. Những năm tháng khó khăn ấy đã nuôi dưỡng thói quen nhẫn nại và ý chí kiên cường. Khi vấp phải khó khăn, dẫu cúi đầu thì vẫn phải ưỡn ngực. Tuy vậy cũng vì thế nên anh luôn cảm thấy tự ti trong lòng, chưa bao giờ anh cất tiếng cười lớn, dẫu mỉm cười cũng nhíu hai đầu mày lại. Anh tự hỏi mình, chẳng lẽ lại phải về đội cảnh sát xã làm một viên cảnh sát thực tập quèn hay sao?

    Trên thế giới này không có kẻ phạm tội thông minh, mà chỉ có cảnh sát kém cỏi. Không vụ án nào có thể che đậy kín bưng. Không phá được án là vì cảnh sát chưa làm tốt, nguyên nhân chưa làm tốt là vì cảnh sát vẫn chưa đi sâu sát thực tế.

    Bất kì tử thi nào cũng biết nói, chỉ cần tìm cách để nghe nó nói mà thôi.

    Một mình Bao Triển đến hiện trường. Anh thẫn thờ trong gian phòng xử lý nước thải xộc mùi hôi thối rất lâu. Anh ngồi suy ngẫm giữa bóng tối mênh mông của đường hầm, nhưng vẫn không phát hiện ra manh mối nào. Lúc trở lại văn phòng thì đã có kết quả thẩm định của phòng kĩ thuật và phòng vật chứng. Vật chứng được phát hiện tại hiện trường phạm tội không nhiều, tại hiện trường không thấy dấu vết vật lộn, cũng không lấy được dấu vân tay hay vân chân. Ngoại trừ một đôi giày ra, thì không hề có vật khả nghi nào khác. Cỡ chân của người công nhân xử lý nước thải là bốn mươi bốn, trong khi đôi giày phát hiện tại hiện trường vụ án mạng lại mang số bốn mươi hai.

    Giáo sư Lương xem đi xem lại bức ảnh hiện trường rồi lại cầm đôi giày lên quan sát tỉ mỉ. Ông gật đầu nói: “Đôi giày này là của hung thủ để lại!”

    Đây là đôi giày vải rất phổ thông, có thể tìm mua ở bất cứ cửa hàng, cửa hiệu nào.

    Giáo sư Lương lại hỏi: “Có lấy được ADN từ đôi giày ấy không?”

    Nhân viên phụ trách phòng vật chứng nói: “Nước ta vẫn chưa thành lập được kho số liệu AND, cho nên dẫu lấy ADN thì cũng không thể tìm ra một người thông qua ADN lưu lại trên đôi giày này.”

    Trên ti vi thường xuất hiện hình ảnh cảnh sát ngồi ung dung trong phòng thí nghiệm, vừa nói chuyện vừa lắc ống thí nghiệm, sau đó liền phá được án. Đúng là nực cười!

    Từ một đôi giày đi tìm một người thực chẳng khác nào mò kim đáy bể. Vậy mà tên tội phạm nổi tiếng Bạch Bảo Sơn bị phát hiện nhờ bao đựng súng mà y vứt lại; cảnh sát có thể truy bắt Đông Bắc Nhị Vương cũng chỉ dựa vào một chiếc xe đạp, khi đó phán đoán ra tuyến đường chạy trốn của y.

    Bao Triển đeo găng tay, lấy chiếc giày trong túi đựng vật chứng ra, anh làm một động tác khiến tất cả mọi người có mặt tại hiện trường đều trố mắt kinh ngạc – Ngửi đế giày!

    Tô My và Họa Long ngớ người nhìn Bao Triển.

    Bao Triển nhắm mắt, chóp mũi gí sát vào đế giày, hít mạnh một hơi, rồi ngẩng đầu lên. Vẻ mặt như thể đang say sưa trong hương thơm bất tận.

    Tô My cảm thấy lợm giọng.

    Họa Long hỏi: “Người anh em! Ngửi thấy mùi gì không?”

    Bao Triển lộ vẻ mặt hoan hỉ, đáp: “Mùi phân lợn!”

    Giáo sư Lương nghe Bao Triển nói vậy liền vô cùng hưng phấn, ông hỏi dồn: “Cậu chắc không?”

    Bao Triển gật đầu xác nhận. Mùi này khiến anh nhớ lại rất nhiều chuyện từng xảy ra trong quá khứ.

    Giáo sư Lương yêu cầu phòng kĩ thuật kiểm nghiệm lại chất vi lượng dưới đế giày để chứng thực xem có đúng là phân lợn thật hay không. Rất nhiều vụ án bị lãng phí thời gian do quá trình kiểm chứng kéo dài, dẫn đến việc lỡ cơ hội quý giá bắt tội phạm. Giáo sư Lương không ngồi đợi kết quả kiểm định, ông lập tức bảo Tô My dùng máy tính tìm kiếm. Nếu phán đoán của Bao Triển chính xác thì chắc chắn hung thủ sống ở trại chăn nuôi hoặc giết mổ gia súc, tóm lại đó là một nơi có phân lợn. Hung thủ đã khôn khéo ẩn mình trốn tránh các tài liệu lưu hồ sơ của cục thuế, cục kiểm dịch vệ sinh giết mổ gia súc, đơn vị quản lý hộ khẩu của ngành giết mổ trong thành phố.

    Trong thành phố này không có nhiều nơi nuôi lợn, bởi đa số người dân chỉ nuôi lợn ở vùng ngoại ô, nhờ vậy phạm vi điều tra được thu hẹp rất nhiều. Tô My sử dụng kĩ thuật của tin tặc để vào trộm mạng nội bộ các ban ngành như cục chăn nuôi, trạm kiểm dịch. Đối với cô chuyện này dễ như trở bàn tay, vậy mà cô không tìm thấy bất kì thông tin có giá trị nào. Giáo sư Lương đưa ra chỉ thị: “Tôi cần danh sách bệnh viện thú y trong thành phố này! Tôi còn cần tất cả địa chỉ những nơi có thể giẫm phải phân lợn nữa!”

    Tô My nói: “Giáo sư đợi một chút! Xâm nhập vào máy tính của họ ở khoảng cách xa chắc chưa đến mười phút.”

    Sau khi kiểm tra trên diện rộng, Tô My đã tìm thấy hóa đơn thu phí khám bệnh thời gian gần đây trong hồ sơ lưu trữ trên máy tính của các bệnh viện thú y. Tất cả đều không có giá trị gì! Có điều cô lại tìm thấy sổ chuyên cần, ở đó ghi lại địa chỉ của các khách hàng. Trong số các địa chỉ có một địa điểm nuôi lợn rất khả nghi, bởi nó nằm tại một thôn ngay gần sân bay. Giáo sư Lương lập tức gọi điện thoại cho ủy ban xã. Chủ nhiệm trị an xã giới thiệu qua điện thoại: “Chủ khu nuôi lợn đó tên là Cát Đinh, thường ngày rất ít nói, chưa từng có tiền án tiền sự, năm nay ba mươi tám tuổi, cao tầm một mét bảy mươi. Vợ anh ta mắc bệnh tâm thần, không biết mua ở đâu về hay lấy từ đâu về, ngoài ra còn có cậu con trai câm điếc bẩm sinh nữa. Trại nuôi lợn nhà anh ta có mười mấy đầu lợn.”

    Đột nhiên Bao Triển chợt nhớ đến lời của người đàn ông bán báo, anh ghé sát điện thoại hỏi: “Ông Cát Đinh đó có phải bị tật ở tai không?”

    Chủ nhiệm trị an đáp: “Đúng vậy! Hồi trẻ trong một lần uống rượu say, anh ta ngã cắm đầu vào chuồng lợn và bị lợn gặm mất nửa bên mặt, nên thường ngày toàn đội mũ, thỉnh thoảng còn đội cả mũ giáp nữa.”

    Các thành viên tổ chuyên án lập tức hứng khởi hẳn, tim đập nhanh như trống trận, cuối cùng nghi phạm nặng kí Cát Đinh cũng lộ diện.

    Trong truyện cổ tích, hoàng tử tìm thấy cô bé Lọ Lem yêu dấu nhờ vào đôi giày thuỷ tinh. Còn trong vụ án này, các thành viên tổ chuyên án lấy vụn mủn dưới đế giày mang đi xét nghiệm ADN, rồi đối chiếu với ADN của Cát Đinh là có thể biết y có xuất hiện tại hiện trường hung án trong đường hầm hay không.

    Họa Long và Bao Triển thông báo với phó cục trưởng. Ba người dẫn đội cảnh sát vũ trang xuất phát.

    Hơn một tiếng sau, Họa Long gọi điện cấp báo cho giáo sư Lương. Họa Long hậm hực nói: “Có một tin xấu, thưa giáo sư!”

    Giáo sư Lương hỏi: “Tin gì?”

    Họa Long tiếp: “Còn một tin tốt nữa!”

    Giáo sư Lương bảo: “Vậy cậu nói tin tốt trước đi!”

    Họa Long hồ hởi: “Chúng ta đã tìm thấy cô An Kỳ trong tầng hầm trại nuôi lợn nhà Cát Đinh. Cô ta vẫn còn sống và đã được giải cứu.”

    Lương giáo sư hỏi: “Thế tin xấu thì sao?”

    Họa Long đáp: “Tên Cát Đinh trốn mất rồi! Chúng tôi đã bao vây toàn bộ khu vực nuôi lợn, nhưng chẳng ngờ y lặng lẽ chuồn ngay trước mũi cảnh sát.”

    Tô My không tham gia vào vụ truy bắt hung thủ.

    Vì lòng hiếu kì của phụ nữ, cô rất muốn biết bộ dạng khi bị giam cầm dưới tầng hầm của tiểu thư An Kỳ. Nếu kết hợp hình ảnh giữa một thiên kim tiểu thư như hoa như ngọc và mụ nuôi lợn xấu xí, nhếch nhác, giữa người đẹp và ác thú thì sẽ tạo ra hiệu ứng rúng động lòng người đến mức nào. Chẳng bao lâu sau, Tô My đã tận mắt nhìn thấy các bức ảnh được chụp tại hiện trường.

    Cô lật giở từng tấm hình, bàn tay bắt đầu run rẩy. Trong ảnh hiện rõ một miền quê trồng rất nhiều bạch dương, hai bên con đường đổ xi măng là những ngôi nhà mái ngói đỏ thẫm thấp lè tè. Nhà của Cát Đinh là một trong số những ngôi nhà đó. Cánh cổng sắt ngoài vườn loang lổ, han gỉ, từ khe cửa có thể nhìn thấy một con chó, chắc chính nó đã tạo cơ hội giúp chủ nhân trốn thoát. Trong vườn có hai khu vực quây tròn để nuôi lợn, nước bẩn chảy thành dòng. Sau đó, một cảnh tượng chợt vụt loé lên, cửa vào đường hầm xuất hiện. Qua màn hình có thể nhìn thấy Họa Long đang cầm súng, vẻ mặt đầy cảnh giác. Trong hầm chứa đầy bánh đậu và lạp xưởng. Một cánh cửa gỗ hiện giữa đống đồ chất đầy dưới hầm…

    Tô My nôn nóng lật xem các tấm hình tiếp theo. Cuối cùng cô cũng nhìn thấy tiểu thư An Kỳ. Bức ảnh khiến cô dựng tóc gáy, cơn ớn lạnh từ đâu bỗng chạy dọc theo sống lưng. Bức ảnh đủ khiến công chúng cảm thấy rùng rợn. Một cô gái đang yên đang lành đi trên tàu điện ngầm, bỗng nhiên mất tích thần bí, sau đó cô gái bất chợt biến thành bộ dạng giống như nô lệ thời trung cổ.

    Tô My ôm mặt, cô không dám nhìn tiếp.

    Trong những ngày bị Cát Đinh giam giữ, chuyện gì đã xảy ra với tiểu thư An Kỳ vậy?

    Bức ảnh cuối cùng cho thấy dưới tầng hầm có một thùng phân lẫn nước tiểu đầy xâm xấp, lẫn lộn cả giấy vệ sinh…

    Vụ án này sắp đi đến hồi kết, nó khiến chúng ta bừng lửa giận khi bước vào nội tâm của một tên tội phạm biến thái. Đó chính là nơi sâu thẳm của địa ngục.

    Thực ra cảm giác ưu việt của người Trung Quốc đều được xây dựng trên việc khinh miệt người khác.

    Người thành phố khinh miệt người nông thôn. Người khỏe mạnh khinh miệt người tàn tật.

    Nguyên nhân khiến Cát Đinh không lấy được vợ rất đơn giản, bởi y là người tàn tật, là một kẻ bị hủy hoại dung nhan.

    Mấy năm trước Cát Đinh “lấy” được cô vợ từ miền núi xa xôi về. Rất nhiều người trong thôn đoán già đoán non chắc anh ta bỏ tiền ra mua về, chứ làm gì có ai chịu lấy một người dị hợm như Cát Đinh. Tuy đoán thế nhưng chẳng ai báo cảnh sát. Cát Đinh nói dối rằng vợ y mắc bệnh tâm thần. Để vợ không chạy trốn, y đã lấy xích sắt khóa chân vợ lại, rồi nhốt dưới tầng hầm.

    Năm 2008, tòa án cả nước xử 1353 vụ án dụ dỗ, lừa bán phụ nữ và trẻ em, tăng 9.9l% so với năm 2007. Những số liệu này chỉ là một phần của tảng băng trôi. Trong khi cuộc sống ở thành phố vừa hiện đại vừa giàu sang, thì hiện tượng phạm tội mua bán phụ nữ trẻ em tại vùng nông thôn và ngoại ô vẫn diễn ra vô cùng nghiêm trọng.

    Người vợ đã sinh cho y một đứa bé trai. Hai mẹ con cô đều bị nhốt dưới tầng hầm, họ dựa vào nhau mà sống. Đứa bé không hề bị câm, nhưng cậu bé chưa bao giờ mở miệng nói. Chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ thấy cuộc sống của hai mẹ con họ bi đát đến chừng nào. Đứa con là hi vọng duy nhất của người mẹ ở nơi cuộc sống như địa ngục này. Trong tầng hầm tăm tối, không một tia sáng mặt trời, da người phụ nữ nọ trở nên trắng bệch như bị bạch tạng, cơ thể nhanh chóng béo múp míp chẳng khác nào phù nề. Nếu bảo cô ấy nom giống một con lợn nái thì cũng chẳng quá lời. Không cần nghĩ cũng biết một gia đình như vậy chắc chắn chẳng bao giờ có được khoảnh khắc ấm áp, nhưng từ việc người mẹ thêu chiếc giày đầu hổ cho đứa con trai và đan áo cho cậu bé, ta cũng có thể cảm nhận được một điều rằng dẫu con người sống trong địa ngục, thì họ vẫn ngẩng đầu lên hướng về thiên đường.

    Sau khi Cát Đinh chắc chắn vợ mình sẽ không bao giờ chạy trốn nữa, thỉnh thoảng y lại để vợ dắt con trai rời khỏi tầng hầm, ngồi trong vườn tắm nắng một lát. Ta có thể tưởng tượng ra cảnh vào một chiều xuân ấm áp nào đó cô ấy ngồi trên chiếc ghế dài, ôm chặt con trai vào lòng, chuyển nó từ gối trái sang gối phải, hai mẹ con đều không nói gì, chỉ lẳng lặng ôm ấp nhau mặc cho ông chồng dị hợm đang ném ánh mắt chán ghét về phía mình. Càng ngày cơ thể cô càng béo tròn, nếu xuất hiện giữa thôn chắc hẳn sẽ khiến bọn trẻ con bu quanh trêu ghẹo.

    Cả thế giới của hai mẹ con họ chính là cái trại lợn này!

    Đôi lúc Cát Đinh vứt cho mẹ con họ bát mỳ vằn thắn trộn ít vụn thịt lợn, hoặc thỉnh thoảng lại là bát canh lòng lợn, rồi hất hàm bảo: “Ăn đi!”, “Uống đi, lợn sề!” Khi y buồn bực hoặc say rượu, y lại thượng cẳng chân hạ cẳng tay không thương tiếc với con lợn nái sề, còn đứa bé đứng cạnh nhìn trân trân cha nó đánh mẹ nó, khuôn mặt non nớt, tái mét hoàn toàn vô cảm.

    Ý nghĩa thực sự của cuộc sống vợ chồng thật ra là ngủ cùng nhưng không làm gì cả.

    Sau khi vợ Cát Đinh sinh con, y hoàn toàn không còn chút cảm hứng nào với vợ, thậm chí còn không thấy hứng thú bằng việc ướp thịt lợn.

    Tầng hầm là nơi Cát Đinh dùng để ướp thịt lợn. Khi xây hầm, y vô tình đào thấy một giếng ngầm ăn thông với đường hầm của tàu điện ngầm.

    Đường hầm tàu điện ngầm có một vài phân nhánh bí mật, ví như đường sắt ở New York, Mỹ có đường ray ngầm dùng để chuyên chở vật tư quân sự, đường sắt ở London, Anh có đường hầm bí mật dành cho thủ tướng lúc khẩn cấp. Bất kì quốc gia nào khi đào đường hầm dành cho tàu điện ngầm đều suy xét đến nhân tố chiến tranh. Một số giếng ngầm ăn thông với các công trình phòng không chưa được khởi động, mà những hầm phòng không này đều liên thông với cả hệ thống đường sắt ngầm.

    Rồi giá thịt lợn trên thị trường ngày một tăng cao khiến trại lợn của Cát Đinh kiếm được khá nhiều tiền. Dân gian thường bảo “no cơm ấm cật, dậm dật chân tay”, lòng y lại mơ tưởng, càng nhìn vợ mình, y càng thấy xấu xí; càng nhìn con gái trên phố, y lại càng thấy họ xinh đẹp. Một ngày, y vô tình đào thông tới đường sắt ngầm ở phía dưới tầng hầm của trại lợn. Khi đứng trên sân ga, nhìn những cô gái xinh đẹp đi qua đi lại, lúc là nữ công chức thanh lịch, lúc lại là các thiếu nữ e thẹn, các thiếu phụ gợi tình, các cô gái ăn mặc thiếu vải lộ đường cong, nơi thành đô có đủ những bóng hồng mĩ miều. Những tà váy đủ màu sắc, kiểu dáng khiến người ta hoa mắt phấp phới bay theo từng bước chân, giày cao gót như nghiền nát tim y.

    Đinh Cát theo chân các thiếu nữ trong mộng bước vào toa tàu. Đầu tiên y chỉ dám quấy rối một cách vô cùng thận trọng, sau đó phát triển thành yêu râu xanh tàu điện ngầm to gan ngông cuồng. Ngày nào y cũng ngồi tàu đi xuyên qua hết thành phố này đến thành phố khác dưới lòng đất, đứng sau các mỹ nữ dần dần trở thành nguồn vui lớn nhất trong cuộc sống của y. Giống như người thích xem phim, thích đá bóng, thì y thích quấy rối tình dục vậy!

    Tai y bị tật nên thường phải đội mũ, nhưng mùa hè mà đội mũ thì có vẻ hơi dị nên mỗi lúc ngồi tàu điện ngầm y thường đội mũ bảo hộ lao động, ăn mặc sao cho giống với thợ điện hoặc công nhân xây dựng. Chiếc mũ bảo hộ lao động ấy y nhặt được ở dưới đường tàu.

    Trí tưởng tượng của Cát Đinh vô cùng phong phú, đôi lúc khi máy bay lướt qua bầu trời thôn, y lại ngẩng đầu lên tưởng tượng ra dáng điệu yểu điệu, gợi cảm của các nữ tiếp viên hàng không.

    Thực ra trong lòng mỗi người đều cất giấu một tòa địa ngục!

    Còn trong lồng ngực của Cát Đinh thì giam giữ một con dã thú. Nó thành hình, rồi dần dần lớn lên, cuối cùng trở nên vô cùng nanh ác. Y đã có thể mua một người vợ, thì tại sao không thể cướp một người vợ nhỉ?

    Y tự hỏi mình như vậy! Cát Đinh cảm thấy một trong số những cô gái xinh đẹp ngoài kia mới là vợ mình. Y đánh giá từng cô gái mà mình gặp hàng ngày trong tàu điện ngầm bằng ánh mắt của một đế vương đang tuyển chọn cung nữ. Vô số mỹ nữ đã đi lướt qua vai y để lại cho y vô số hối tiếc và ngậm ngùi. Quá trình vạch kế hoạch gây án của y được thôi thúc và hình thành cũng từ những lần tiếc nuối đó.

    Đôi khi một vụ án hiếp dâm lại bắt đầu từ tiếng huýt sáo vang lên khi một cô gái xinh đẹp bước qua đám công nhân xây dựng hoặc người đưa hàng!

    Trong thời gian này không ai để ý vợ của Cát Đinh đã biến mất, y nói với hàng xóm rằng vợ y về nhà mẹ đẻ để chữa bệnh.

    Tuy nhiên y vẫn chưa đủ can đảm để gây án, mãi đến khi trong đầu lóe lên một ý tưởng. Y mua cây gậy chích điện, đầu tiên y đem thử nghiệm trên cơ thể lợn, con lợn bị gậy chích điện chạm vào người liền quay lơ ra đất. Như vậy chứng tỏ cây gậy này đủ sức hạ gục một người trong nháy mắt.

    Đúng như ông chủ bán gậy chích điện giới thiệu: Ai bị đèn pin chích điện này chạm phải sẽ hôn mê trong vòng mười lăm phút mới tỉnh. Trong thời gian này, người đó sẽ hoàn toàn mất khả năng kháng cự và tấn công.

    Công cụ gây án của y là mũ bảo hiểm, gậy chích điện, băng dính và găng tay.

    Y cất tất cả dụng cụ vào trong ba lô, nhét trái tim đầy độc ác vào trong lồng ngực rồi bắt đầu hành động săn mồi.

    Thành phố thoắt biến thành rừng rậm, có lẽ Cát Đinh vẫn hoài niệm thời viễn cổ, thích ai thì đánh ngất người đó, lôi vào trong động sống cả đời.

    Phòng vệ sinh trong tàu điện ngầm là một điểm mù không bị camera giám sát. Cát Đinh lấy gậy chích điện làm An Kỳ ngất xỉu, rồi kéo vào một gian vệ sinh, trói chặt tay cô ta lại, vác lên vai, rồi đứng đó. Đây là chuyến tàu cuối cùng, đợi khi hành khách đều đi hết, y mới cõng con mồi của mình đi về phía đường tàu. Trong đường hầm, điện thoại di động của An Kỳ chợt reo vang khiến Cát Đinh hết hồn. Y ném điện thoại đi, tiếp tục sải chân tiến về phía trước. Phía trước xuất hiện một người lạ mặt làm y lại giật nảy mình. Cát Đinh lấy ngay gậy chích điện ra gí vào người công nhân xử lý nước thải, sau đó bóp cổ anh ta đến chết. Mặc dù cả quá trình diễn ra đúng là kinh hồn bạt vía nhưng đối với y mà nói thì chẳng qua chỉ mất tí sức mà thôi.

    Lúc này, Cát Đinh mới chợt nhớ trên đường ray ngầm tích điện cao thế. Đúng là chuẩn bị trăm đường vẫn sơ hở mất một đường. Trong đống dụng cụ gây án của y không có giày cách điện trong khi đôi giày mà người công nhân xử lý nước thải nọ đang đeo lại vừa hay là giày cách điện, bởi vậy y không chần chừ thay luôn giày của nạn nhân. Chính hành động ấy sau này đã trở thành điểm đột phá của phía cảnh sát.

    Một thiên kim tiểu thư con gái tỉ phú từ thiên đường bỗng nhiên bị rớt xuống địa ngục.

    Cát Đinh cõng An Kỳ về sào huyệt của mình. Ai có trí tưởng tượng phong phú đều đoán ra trong những ngày ấy đã xảy ra những chuyện gì. Quá trình từ thích nhìn đàn bà tắm đến ngày hôm đó là quá trình phạm tội của y.

    Y thích hát.

    Cát Đinh lim dim nhìn An Kỳ và bảo: “Ai hát hay hơn anh? Làm gì có ai!”

    Y không chỉ thích hát mà còn thích vừa hát vừa nhảy, các động tác của y xấu xí y như giọng hát, y điên cuồng và say sưa thể hiện đủ mọi kiểu với thân hình béo ú, thô kệch của mình. Hôm ấy, câu y hát nhiều nhất là: “Ơi người dân! Vui lên đi! Á hà ha… Ơi người dân! Ứ hừ hư…”

    Ngày đầu tiên An Kỳ bị giam giữ, cô gái thường ngày kiêu kì cao ngạo giờ quỳ mọp trước mặt y, khóc lóc như mưa, thảm thiết van xin Cát Đinh thả mình ra. Cát Đinh thờ ơ. Thậm chí cô tiểu thư nhà giàu còn chủ động cởi áo, mong sau đó được thả ra, không những thế cô ta còn khua chân múa tay y như mụ nông dân thề thốt với y rằng sau khi cô ta đi sẽ tuyệt đối không báo chuyện này với cảnh sát.

    An Kỳ run rẩy nói: “Anh cần bao nhiêu? Nhà tôi có rất nhiều tiền.”

    Cát Đinh không nói, chỉ lắc đầu.

    An Kỳ lại lập cập hỏi: “Thế anh muốn gì? Chỉ cần thứ tôi có tôi sẵn sàng cho anh.”

    Cát Đinh ngoác miệng cười, lộ ra hàm răng vàng khè, y lấy ngón tay gại gại lên ngực của An Kỳ. Đối với y động tác này rất giàu ý thơ vì hướng y chỉ không chỉ là ngực cô ta mà còn là vị trí của trái tim. Động tác tiếp theo thì thực sự vô liêm sỉ, y lật váy của An Kỳ lên.

    An Kỳ run lẩy bẩy, lấy hết can đảm hỏi tiếp: “Được rồi! Vậy anh hãy nói cho tôi biết, rốt cuộc anh muốn gì ở tôi?”

    Cát Đinh cười nanh ác, buông tà váy xuống, ôm mỹ nữ trước mặt vào lòng, y đang ôm hương ấm ngọc êm. Dường như bị kích thích quá độ, y cố gắng cất giọng khàn khàn thể hiện sự dịu dàng và thẹn thùng: “Làm vợ…”

    Hôm ấy, gã nuôi lợn đó còn làm một chuyện có lẽ là lãng mạn nhất trong cuộc đời y.

    “Vợ này!” – Cát Đinh nói với An Kỳ – “Chúng ta chính thức kết hôn nhé! Tôi sẽ đi làm giấy chứng nhận kết hôn.”

    An Kỳ hoàn toàn quỵ ngã, cô ta đờ đẫn không nói nên lời, nước mắt thi nhau tuôn rơi. Cát Đinh liếm nước mắt trên mặt An Kỳ như một con sói khát nước, sau đó y dịu dàng và nâng niu hôn cô ta.

    Cát Đinh đứng trước bức tường, trên vách tường ghi đầy các loại thông tin quảng cáo vớ vẩn như làm giấy tờ, vay tiền, báo thù, hóa đơn v.v…

    Y gọi điện cho một tên chuyên làm giấy tờ giả, nói rằng mình cần làm giấy chứng nhận kết hôn.

    Không cần kể cũng biết gã chuyên làm giả giấy tờ ngạc nhiên và hoài nghi thế nào khi nhận được cú điện thoại của y. Bọn chúng từng làm đủ mọi loại giấy tờ giả như bằng tốt nghiệp, bằng công chức, chứng minh nhân dân, giấy chứng nhận tài sản nhà đất và thậm chí cả giấy phép kinh doanh… nhưng đây là lần đầu tiên chúng nhận được hợp đồng làm giả giấy chứng nhận kết hôn.

    Cát Đinh yêu cầu: “Tôi muốn giấy tờ phải đóng dấu thiếc.”

    Gã làm giả giấy tờ bảo: “Thế thì phải thêm tiền đấy! Mà nói thật sao anh chị không đi ủy ban làm thủ tục đăng kí kết hôn thật cho rẻ?”

    Cát Đinh đáp cộc lốc: “Bao nhiêu tiền cũng chi!”

    Gã làm giả giấy tờ nghe thế chỉ hỏi: “Anh và vợ tên là gì để tôi điền vào đơn?”

    Cát Đinh trả lời: “Hẵng để trống đã! Tôi tự điền tên mình, còn vợ giờ vẫn chưa biết tên là gì.”

    Gã làm giả giấy tờ bật cười bảo: “Ông anh cứ khéo đùa!”

    Cát Đinh cộc cằn gằn giọng: “Tôi muốn làm giấy chứng nhận thật! Tôi và vợ muốn lấy nhau cũng là thật!”

    Giấy chứng nhận kết hôn vẫn chưa làm xong thì cảnh sát ập vào nhà Cát Đinh. Khi An Kỳ được giải cứu thì cô thiên kim tiểu thư giàu có đang định đi Nhật tham dự tuần lễ thời trang quốc tế giờ trông thật thảm hại. Người đẹp vốn muốn đi Praha để ăn kem, đi Hawaii để ăn chè đá bào giờ đang uống bát canh lèo tèo vài vụn thịt. Bị nhốt mấy ngày, trông cô chẳng khác nào cái xác biết đi, ánh mắt lờ đờ, toàn thân bẩn thỉu hôi hám.

    Cát Đinh chuồn thẳng vào đường sắt ngầm từ lối vào của tầng hầm, hôm ấy toàn bộ hệ thống tàu điện ngầm đều ngừng hoạt động, cảnh sát huy động toàn bộ lực lượng tìm kiếm kẻ phạm tội, cấp trên có lệnh buộc phải bắt được hung thủ trước khi trời sáng. Vì tàu điện ngầm tạm thời ngừng hoạt động khiến cả thành phố náo loạn, gây ảnh hưởng và tổn thất nặng nề cho người dân.

    Mỗi lối vào nhà ga đều có khả năng trở thành lối ra cho tên tội phạm đang muốn đào tẩu.

    Phía cảnh sát bố trí lực lượng canh phòng dày đặc đứng gác ở tất cả các lối vào.

    Cát Đinh như con chim sợ cành cong, run rẩy đứng trong đường hầm, y chọn một hướng tháo chạy khác – đến một sân vận động ở ngoại ô thành phố. Đây chính là sân vận động đã được nhắc đến ở phần lời dẫn. Khi người ta cho xây hồ bơi ở sân vận động này, vì đất lún nên vô tình đào thông tới một giếng thông khí của hệ thống đường sắt ngầm.

    Lúc trời hửng sáng, Cát Đinh phát hiện lối ra này, y sung sướng đến phát cuồng, cứ ngỡ đã tìm thấy đường thoát thân, nhưng vừa mới lộ diện đã bị hai cảnh sát tóm cổ.

    Hai viên cảnh sát đó chính là Bao Triển và Họa Long. Trước đó, họ nói chuyện với nhau thế này:

    Họa Long: “Sao cậu biết Cát Đinh sẽ chui ra từ lối này?”

    Bao Triển: “Đoán thôi! Tôi tự đặt mình vào vị trí của hung thủ, nếu tôi là Cát Đinh, tôi sẽ chạy đến đây.”

    Họa Long: “Ừm! Thế thì hi vọng vận may sẽ đứng về phía mình! Kiên nhẫn chờ đợi đi! Khi nãy phó cục trưởng nói, cảnh sát phát hiện rất nhiều vết máu ở trong trại nuôi lợn, xem ra tên này đã giết hại vợ con rồi, chỉ có điều không biết y vứt xác họ chỗ nào…”

    Bao Triển: “Có lẽ thi thể của hai mẹ con họ ở đâu đó trong đường hầm thôi!”

    Họa Long: “Cảnh sát còn phát hiện mấy cuốn sách tiếng Anh và vở bài tập cũ kĩ ở trong nhà y, trên đó toàn là nét chữ con gái, phó cục trưởng nghi rằng…”

    Bao Triển: “Lẽ nào không phải y mua vợ, mà cũng là cướp cô ấy ở trong tàu điện ngầm sao?”
     
    Chỉnh sửa cuối: 26/3/17
    Gum, Dung dung, mekem and 9 others like this.
  4. Nhím Nhím

    Nhím Nhím Member
    • 344/373

    Bài viết:
    41
    Đã được thích:
    422
    Tập 1: BÓNG MA ĐÊM MƯA
    PHẦN 2: BÓNG MA ĐÊM MƯA

    Lời dẫn

    Chúng ta đi quá xa, đến nỗi quên mất vì sao mình lại xuất phát – Khalil Gibran.



    Đám thiếu niên ăn mặc bụi bặm phát hiện thấy một xác chết trên tháp nước ở công viên phố Hạ, không những chúng không báo công an, mà còn không kể với người nhà. Ngày nào chúng cũng đến xem xác chết, quan sát và coi đó là thú tiêu khiển. Đám thiếu niên còn lấy điện thoại di động chụp ảnh cùng xác chết, nói theo lời của chúng thì: “Quá kích thích! Không ngờ lại được nhìn thấy xác chết thực sự ngoài đời!”

    Trong đám thiếu niên có cậu nhỏ tuổi nhất tên là Tam Chùy, cậu ta nhát gan, không muốn tiếp tục đi xem xác chết nữa, kết quả bị cả bọn lôi ra chế nhạo. Thủ lĩnh của nhóm là cậu bé vuốt tóc dựng đứng, nhuộm bảy sắc cầu vồng, cậu ta nói một câu khiến cả hội đều kính phục: “Mẹ nó! Đợi khi nào đó, tớ sẽ lấy đầu của nó làm bóng đá chơi.”

    Nhóm thiếu niên năm người này có ba nam, hai nữ, chúng gọi nhau bằng nickname sử dụng khi chơi game trên mạng: Gà Điên, Nước Sôi, Tam Chùy, Yên Nữ Tử và Hoa Lệ.

    Một hôm, chúng chơi game thông đêm ngoài quán internet, đến nửa đêm thì chán chẳng còn trò gì chơi, Gà Điên quay sang nói với Tam Chùy: “Ê! Nhóc! Nếu bây giờ chú dám ra công viên nhìn cái xác đó, anh sẽ cho chú hết quần áo.

    Hoa Lệ gàn: “Đừng đi, đồ nhát gan!”

    Nước Sôi đế vào: “Còn bổn thiếu gia sẽ cho chú thanh đao trong kho của ta.”

    Yên Nữ Tử chốt hạ: “Chồng ba ơi! Nếu anh dám đi thì nhớ chụp với cái xác đó một pô rồi hãy về nhé!”

    Quần áo và đao là chỉ những đồ vật hư cấu trong game, nhưng dường như với Tam Chùy, chúng có sức hấp dẫn rất lớn nên cậu ta lập tức đồng ý, còn hứa mình nhất định sẽ chụp chung hình với cái xác, về đăng lên mạng cho mọi người chiêm ngưỡng. Tam Chùy cảnh cáo hai cậu bạn đánh cược với mình không được nuốt lời!

    Lúc ấy là một giờ sáng, ngoài trời mưa rơi tí tách, đường phố tuyệt vắng bóng người, Tam Chùy đội mưa chạy ra công viên.

    Nửa tiếng sau, Tam Chùy nhắn tin cho Gà Điên như sau: “Tớ nhìn thấy người chết trên tháp nước đứng dậy…”

    Chương 1Bức ảnh quái dị
    Tại văn phòng của tổ chuyên án đặc biệt thuộc bộ công an, ngoài cửa sổ, mưa vẫn đổ rào rào.

    Phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc cầm mấy bức ảnh bước vào, rồi đưa cho các thành viên của tổ chuyên án.

    Những thiếu niên trong ảnh đều mặc trang phục kì quặc, đầu tóc dị hợm, ánh mắt vẻ bất cần và phản nghịch. Chúng vây quanh một thi thể đang phân hủy với đủ tư thế, một cậu giơ ngón tay giữa, cậu kia vờ lấy tay làm súng, hai cô bé còn lại ngồi trên đất, miệng chu lại, mắt mở to, giơ ngón trỏ và ngón giữa tạo thành hình chữ V.

    Họa Long thốt lên: “Sao chỉ muốn đấm đám ranh con này một trận! Chúng là người hay quỷ thế không biết?”

    Phó cục trưởng nói: “Có mặt ma xuất hiện trong ảnh đấy! Các cậu nhìn kĩ mà xem.”

    Bao Triển xoay ngược bức ảnh lại, phía dưới góc phải có một khuôn mặt mờ ảo trắng bệch, khuôn mặt toát ra vẻ quái dị khó nói thành lời.

    Tô My gạt đi: “Chắc chỉ là vật thể nào đó bị phản xạ bởi ánh đèn flash của máy ảnh tạo thành hình giống như mặt người mà thôi!”

    Phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc phủ định: “Không hề có ánh đèn flash! Bức ảnh được chụp bằng điện thoại di động.”

    Giáo sư Lương đột nhiên hỏi: “Ai chụp bức ảnh này?”

    Phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc trả lời: “Đứa trẻ chụp bức ảnh này hoảng sợ đến mức mắc bệnh thần kinh. Giờ đang điều trị ở bệnh viện.”

    Người chụp bức ảnh đó chính là Tam Chùy.

    Đêm hôm đó, cậu ta đánh cược với đám bạn, rồi đến công viên, nhưng sau đó không trở lại nữa. Chẳng ai biết cậu ta đã nhìn thấy gì. Ngày hôm sau, bạn bè phát hiện cậu ta ngã vật ra trước cửa nhà mình, toàn thân co giật, miệng sùi bọt trắng. Cha của Tam Chùy làm nghề lái xe thường ngày ông ta vẫn lái xe chở khách vào ban đêm, vừa lúc đó trở về, ông vội vàng đưa Tam Chùy vào bệnh viện, rồi bấm điện thoại gọi cảnh sát. Bác sĩ nói sức khỏe Tam Chùy không có gì trở ngại, chỉ có điều thần kinh bị kích thích quá độ dẫn đến chứng co giật, điên dại, tâm thần cũng trở nên mơ hồ, lơ ngơ.

    Ngay sau đó, cảnh sát lập tức ập đến hiện trường điều tra trên diện rộng. Tháp nước trong công viên khá cao, đỉnh tháp khuất tầm mắt, thông thường không mấy ai lai vãng đến đây, đó chính là nơi vứt xác lí tưởng. Các bác sĩ pháp y lập tức tiến hành phân tích tử thi trong tình trạng không có tử thi. Từ bức ảnh mà Tam Chùy chụp có thể thấy nạn nhân là nam, phần đầu dính một đòn chí mạng, có lẽ đó chính là nguyên nhân dẫn đến tử vong.

    Thi thể đã bị giòi bọ xâm nhập, phần đầu thi thể đã thối rữa. Từ độ dài của giòi bọ và số liệu thống kê về nhiệt độ do phòng khí tượng địa phương cung cấp, bác sĩ pháp y suy đoán thời gian nạn nhân tử vong là khoảng bảy ngày trước.

    Bác sĩ pháp y xuất sắc này đồng thời cũng là một nhà côn trùng học!

    Cuốn “Bút kí minh oan” cho thấy từ thời Tống, Tống Từ đã biết lợi dụng ruồi để tìm ra lưỡi liềm gây án, rồi từ đó tìm ra chủ nhân của hung khí. Tạp chí Times tập hợp một trăm vụ án lớn nhất của thế kỉ, trong đó đề cập đến một vụ án mà người phá án là nhà côn trùng học Jame Webster, ông phát hiện những con ruồi bị chết trên tử thi và lập tức suy đoán nạn nhân bị trúng độc. Nhờ suy đoán đó mà Jame Webster, được ghi danh trong lịch sử phá án của Mỹ và vụ án giết người ở nhà hàng vùng nông thôn đó cũng vì thế mà nổi tiếng!

    Thi thể nam trên tháp nước trong bức ảnh bị tụ máu thâm đen ở phần lưng, điều đó chứng tỏ thi thể từng bị di chuyển, bởi sau khi chết nạn nhân phải nằm ngửa thì mảng máu tụ mới xuất hiện ở đằng lưng.

    Thi thể trong những bức ảnh mà phó cục trưởng mang về bị sắp đặt ở nhiều tư thế khác nhau, thậm chí còn trong tư thế khoanh chân, lưng tựa vào bờ tường.

    Sau khi hỏi đám thiếu niên bất hảo nọ, cảnh sát mới biết đúng là họ đã lật chuyển tử thi, còn lấy cả đá đập vào đầu tử thi nữa! Thêm vào đó phần đầu đã bị giòi kí sinh nên không thể phỏng đoán nạn nhân bị giết bằng hung khí gì, nếu chỉ nhìn nạn nhân qua các bức ảnh.

    Khi cảnh sát đến thẩm vấn Tam Chùy thì vẻ mặt của cậu ta vô cùng hoảng hốt, bất an, giọng điệu run rẩy liên tục nhắc đi nhắc lại một câu: “Người chết đứng dậy… Ma…”

    Mấy người bạn còn lại của Tam Chùy là Gà Điên, Nước Sôi, Yên Nữ Tử và Hoa Lệ đều nhận được một tin nhắn quái lạ, nội dung là: “Trong vòng bảy ngày, ta sẽ giết hết các người!”

    Cảnh sát địa phương phối hợp với bưu điện đã tra ra chủ nhân của số máy nhắn tin cho nhóm thiếu niên. Số điện thoại đó chính là của nạn nhân bị vứt xác trên đỉnh tháp nước. Anh ta là một chủ thầu nhỏ tên là Kim Quế, người vừa mất tích mấy ngày trước đây…

    Phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc thắc mắc: “Sao người chết còn có thể nhắn tin được nhỉ?”

    Giáo sư Lương trầm ngâm bảo: “Vụ án này thú vị đây!”

    Phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc nói: “Lời đồn đại đáng sợ ma quỷ giết người nhanh chóng lan đi với tốc độ chóng mặt khiến lòng người hãi hùng. Giờ đây thi thể lại không cánh mà bay, cậu thiếu niên nhìn thấy thì hóa điên. Những thành viên còn lại trong nhóm đều nhận được tin nhắn uy hiếp, phân cục cảnh sát địa phương của bốn phố đều bó tay bất lực, họ mời tổ chuyên án đến điều tra giúp.”

    Tô My nói: “Tôi từng xem một bộ phim kinh dị của Nhật tên là “Cuộc gọi lúc nửa đêm”, nội dung phim kể về vụ án giết người liên hoàn, bất kể người nào nhìn thấy cuộn băng đều nhận được một cuộc gọi thần bí, sau đó trong vòng bảy ngày họ sẽ bị giết. Xem ra mấy thiếu niên trong bức ảnh này khó tránh khỏi kiếp nạn lần này rồi…”

    Bao Triển nói: “Chúng ta chỉ còn bảy ngày. Sau bảy ngày rất có khả năng sẽ xảy ra thêm một vụ án mạng!”

    Họa Long hăng hái: “Xuất phát! Chúng ta mau đi bắt ma nào!”

    Đạo sĩ đi bắt ma đều cầm kiếm gỗ đào, còn cảnh sát đi bắt ma cũng cần một số trang thiết bị đặc biệt. Phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc cho biết: “Tổ chuyên án phá thành công vụ án An tiểu thư mất tích trong tàu điện ngầm lần trước đã gây tiếng vang khắp cả nước, bất kể lãnh đạo cấp trên hay phân cục cảnh sát các cấp dưới cơ sở đều đặt kì vọng rất cao vào tổ chuyên án. Lần này chúng ta chỉ được phép thành công, không được phép thất bại!”

    Phó cục trưởng lệnh cho trợ lý mang bốn chiếc vali khóa bằng mật mã đến. Sau khi từng thành viên của tổ chuyên án mở ra, mắt người nào cũng rực sáng.

    Trong vali của Họa Long đựng nguyên một hộp súng hiện đại chuyên dụng cho cảnh sát, gồm một khẩu súng lục QSZ-92-9, một khẩu súng bắn lưới, một khẩu súng trường QBU-88, con dao găm chuyên dụng đa chức năng, bình xịt hơi cay, găng tay quyền anh, mặt nạ phòng độc, dây lưng chiến thuật, thiết bị bắn móc câu giúp leo tường…

    Họa Long quay sang hỏi Bao Triển: “Vali của chú có gì thế hả thám tử?”

    Trong vali của Bao Triển có một số công cụ điều tra hình sự kĩ thuật cao, thậm chí vài món trong số đó là trang thiết bị dành cho đặc công, như máy nghe trộm cách tường, lỗ mắt mèo nhìn trộm, đèn pin mắt sói, máy dò tìm âm thanh và hình ảnh không dây, máy kích ánh sáng nhìn xuyên màn đêm, máy ảnh lỗ kim, nhẫn định vị lần theo dấu vết, máy chụp ảnh kĩ thuật số dạng đồng hồ đeo tay.

    Trong vali của Tô My là một chiếc máy tính xách tay ngụy trang màu sắc.

    Họa Long tò mò hỏi: “Cái xách tay này có chơi game được không? Mạng không dây à?”

    Tô My bĩu môi trêu: “Ông anh còn non lắm! Chiếc máy tính xách tay là sản phẩm công nghệ mới nhất được quân đội và viện khoa học kĩ thuật Trung Quốc hợp tác nghiên cứu ra đấy! Bên trong cài đặt thiết bị thu nhận tín hiệu vệ tinh, hệ thống Linux hoàn toàn, trình tự nguồn mở, anh có thể vừa lặn ở Bắc Băng Dương vừa chơi game đấy vì nó có chức năng chống thấm nước cực tốt.”

    Họa Long ngó lơ chữa ngượng, rồi quay sang hỏi giáo sư Lương: “Thế còn giáo sư? Trong vali của giáo sư có gì vậy? Cho tôi xem được không?”

    Giáo sư Lương mỉm cười không đáp, ông đóng vali lại.

    Tô My nói: “Đến giờ xuất phát rồi! Mau xách chiếc vali khủng bố của anh lên đi!”

    Họa Long trừng mắt hỏi: “Thế vali của cô em thuộc loại gì?”

    Tô My thản nhiên đáp: “Vali kĩ thuật!”

    Mỗi thành viên của tổ chuyên án đều được phát một chiếc điện thoại vệ tinh Inridium loại đặc biệt và một bộ đàm siêu nhỏ. Họa Long cho rằng các thành viên của tổ chuyên án nên đeo thêm cặp kính đen nữa trông sẽ càng thần bí và sành điệu hơn. Lúc qua cửa kiểm tra an toàn trong sân bay tổ chuyên án gặp phải một rắc rối nhỏ, dù tổ chuyên án đã đưa giấy chứng minh của bộ công an chứng minh quyền giữ súng của các thành viên nhưng nhân viên công tác tại sân bay vẫn yêu cầu họ bỏ súng ra khỏi người, tạm thời để cơ trưởng bảo quản.

    Khi đã yên vị trong máy bay, Họa Long càu nhàu: “Đen thật! Chưa ra trận đã bị người ta thu mất súng!”

    Trong khi vali của Họa Long, Bao Triển và Tô My đều bị tạm thời tịch thu thì vali của giáo sư Lương lại thuận lợi qua cửa kiểm tra an toàn. Mọi người đều rất tò mò muốn biết trong vali của giáo sư đựng vật gì, ai cũng đòi giáo sư mở ra xem, giáo sư Lương mỉm cười mở mật mã, bên trong chỉ có một cuốn “Thánh kinh”.

    Sau khi máy bay hạ cáng vô cùng trọng thị tổ chuyên án. Phân cục trưởng giới thiệu với mọi người bốn đh tại sân bay, mọi người ra cửa kiểm soát, vừa xuất hiện đã thấy phân cục trưởng của phân cục bốn phố đích thân lái xe con ra đón. Từ đó có thể thấy cảnh sát địa phương trực thuộc phân cục bốn phố, bốn phố đó lần lượt là phố Tây, phố Đông, phố Thượng và phố Hạ. Sau khi trung tâm cảnh sát phản ứng nhanh nhận được điện thoại báo án, lực lượng cảnh sát đầu tiên xuất hiện tại hiện trường là đội cảnh sát phố Hạ. Công viên nơi phát hiện ra xác chết thuộc vùng quản lý của đội cảnh sát phố Hạ.

    Giáo sư Lương nói: “Vậy thì chúng ta phải đến trung tâm của đội cảnh sát phố Hạ, mong phân cục trưởng sắp xếp một phòng để chúng tôi làm văn phòng là được rồi!”

    Phân cục trưởng nói: “Tôi có ý này, mời tổ chuyên án lên phân cục trước đã, đội trưởng tổng đội cảnh sát hình sự, giám đốc sở cảnh sát an ninh và lãnh đạo các ban ngành trong phân cục đều đang đợi chúng ta ở đó. Chúng tôi đã chuẩn bị một bữa tiệc đơn giản để tiếp đón tổ chuyên án.”

    Họa Long thẳng thắn đáp luôn: “Chúng tôi đến đây không phải để ăn cơm.”

    Phân cục trưởng không biết làm gì hơn ngoài việc lái xe đưa tổ chuyên án đến trung tâm đội cảnh sát phố Hạ.

    Tại trung tâm, cảnh sát địa phương đã báo cáo tình hình chi tiết của vụ án.

    Nạn nhân tên là Kim Quế, bốn mươi hai tuổi, nhà thầu xây dựng của công ty X. Sau bữa tiệc rượu với công nhân, anh ta nói phải về nhà, từ đó tung tích liền bất minh. Người nhà của nạn nhân xác nhận thi thể bị vứt trên đỉnh tháp nước trong bức ảnh chính là Kim Quế. Phía cảnh sát đã mở rộng điều tra hoàn cảnh xã hội và các mối quan hệ xung quanh Kim Quế, nhưng không tìm thấy điểm nào khả nghi. Năm thiếu niên phát hiện ra xác chết của nạn nhân trên đỉnh tháp nước đều là thành phần bất hảo của khu phố, đứa nhiều tuổi nhất năm nay hai mươi tuổi, còn người ít tuổi nhất mới mười bảy, tất cả đều bị đuổi khỏi trường, đang thất nghiệp ngồi nhà. Ban ngày đám trẻ chỉ ngủ, ban đêm thì chơi game trong quán internet thâu đêm. Sau khi nhận được tin nhắn uy hiếp, năm đứa trẻ đã được phía cảnh sát bí mật giám sát và âm thầm bảo vệ. Số điện thoại nhắn tin đến đúng là số điện thoại mà Kim Quế sử dụng trước khi chết. Tình hình hiện nay như sau: Tử thi và chiếc máy di động đều đã mất tích, chiếc điện thoại di động trong trạng thái tắt máy. Tam Chùy nằm trong bệnh viện, tinh thần hoảng loạn, ban ngày thường tự lẩm bẩm một mình, ban đêm hay nói mớ. Phía cảnh sát nhiều lần đến bệnh viện, thẩm vấn cậu ta đã nhìn thấy gì vào đêm hôm cậu ta ra công viên chụp ảnh với xác chết. Nhưng cậu ta chỉ nói mình nhìn thấy ma, thấy người chết đứng dậy, ma đuổi theo truy sát cậu ta, cậu ta cứ thế chạy thục mạng, rồi bị ngã cắm đầu xuống. Khi chạy về đến nhà thì lăn ra ngất xỉu.

    Giáo sư Lương hỏi: “Ai là người đầu tiên phát hiện ra Tam Chùy ngất xỉu?”

    Đội trưởng đội cảnh sát trả lời: “Một cô bé tên là Hoa Lệ, cô ta là bạn gái của Tam Chùy, sống chung với cậu ta. Khi đó cha của Tam Chùy cũng vừa lái xe về đến nhà, hai người họ khênh Tam Chùy đưa đến bệnh viện.”

    Tô My ngạc nhiên hỏi: “Hả? Hai thiếu niên bất hảo, mới tí tuổi đầu đã sống thử, thế mà cha cậu ta cũng mặc kệ sao?”

    Đội trưởng giải thích: “Cha mẹ Tam Chùy đã li dị từ lâu, cha cậu ta lái taxi, thường rất ít khi về nhà. Đúng là cậu ta không được cha mẹ giáo dục tử tế.”

    Bao Triển ghé tai giáo sư Lương thì thầm vài câu, giáo sư Lương gật đầu. Bao Triển lấy máy ghi âm mini trong vali ra, đưa cho cảnh sát, bảo cảnh sát bí mật gắn nó vào đầu giường của Tam Chùy để nghe trộm Tam Chùy nói trong lúc mơ.

    Những lời nói mớ thường hàm chứa rất nhiều thông tin. Nó mô phỏng tư duy của người nằm mơ, những điều nói trong lúc mơ thường là những việc mà ban ngày người nằm mơ hay nghe đến nhiều nhất.

    Hôm sau, phía cảnh sát chỉnh lí lại nội dung băng ghi âm, giữa những câu nói ú ớ mơ hồ và những lời nói mớ không liên quan đến nhau, họ nhận được một thông tin vô cùng đáng giá:

    Đêm hôm đó, Tam Chùy đã nhìn thấy một người mặc áo mưa. Bên trong áo mưa phồng lên lùm lùm, dường như kẻ đó đang cõng một vật gì đó trên lưng!

    Chương 2Hiện trường hung án
    Phố Hạ là một thành phố nhỏ mưa nhiều, hai bên phố trồng rất nhiều hoa dành dành, những cánh hoa to màu trắng mịn đầm mình dưới mưa.

    Từ khi người ta phát hiện ra xác chết trên đỉnh tháp nước trong công viên phố Hạ thì chẳng ai dám bén mảng đến đây nữa. Tháp nước cũng bị cảnh sát phong tỏa. Thông thường công viên này rất ít người qua lại, cỏ mọc um tùm, giờ càng trở nên âm u, đáng sợ. Bốn thành viên của tổ chuyên án xuất hiện tại công viên, Tô My đẩy xe lăn cho giáo sư Lương, người quản lý công viên giới thiệu tháp nước này được xây từ những năm năm mươi, đã bị bỏ hoang từ lâu, trước đây vẫn có nhóm trẻ con chọc ổ chim thường đến đây chơi, sau này mấy đứa trẻ đó lớn lên, chúng thành lập ban nhạc Rock suốt ngày kéo đến đây gào rống hát hò.

    Bao Triển trèo lên đỉnh tháp, rồi lại trèo xuống, anh quỳ xuống lùm cỏ ở xung quanh, lấy tay đếm đèn đường quan sát khách bộ hành đi ngang qua nơi này. Đôi lúc anh lại gật đầu như ngộ ra điều gì, đôi lúc lại lắc đầu ngầm phủ định.

    Họa Long tò mò hỏi: “Ê, Nhà quê! Chú đang làm gì thế?”

    Giáo sư Lương đáp thay: “Mô phỏng lại hành vi phạm tội!”

    Một cảnh sát hình sự xuất sắc thường đặt mình vào hoàn cảnh của kẻ phạm tội, rồi tự mình đóng vai tội phạm để mô phỏng lại quá trình gây án. Thông qua việc đặt giả thiết và phủ nhận giả thiết, họ sẽ phỏng đoán được tâm lý của hung thủ, từ đó phân tích xem bước tiếp theo hung thủ sẽ làm gì, làm như thế nào.

    Giải thích cho Họa Long xong, giáo sư quay sang hỏi Bao Triển: “Thế nào? Có phát hiện ra điều gì không?”

    Bao Triển đáp: “Rất có khả năng hung thủ có một chiếc xe hoặc giả vụ án này có vài hung thủ!”

    Công viên phố Hạ không phải hiện trường gây án mà chỉ là hiện trường vứt xác. Muốn di chuyển tử thi từ hiện trường gây án đến hiện trường vứt xác, hung thủ cần một chiếc xe để chở nạn nhân hoặc cần vài người khênh nạn nhân đến. Trong trường hợp này thì giả thiết hung thủ có xe sẽ hợp tình hợp lí hơn bởi chiếc xe vừa có thể trở thành vật che mắt thiên hạ vừa tránh bị phát hiện. Phương thức xử lý tử thi của hung thủ không hề cao tay, y lựa chọn công viên làm địa điểm vứt xác, rất có khả năng đó chỉ là lựa chọn tức thời, không hề có kế hoạch chu đáo ngay từ đầu.

    Trong lịch sử phạm tội có rất nhiều vụ án di chuyển xác nạn nhân sang địa điểm khác. Gã nông dân Ngô Tự Hưng đã giết chủ nợ vì tranh chấp lúc đánh bạc, rồi vứt xác ở hồ chứa nước ngay trước thôn, nhưng hàng ngày mỗi khi uống nước y lại cảm thấy ghê cổ, bởi thế y đã vớt xác dưới hồ lên và di chuyển đến nơi khác. Thu quỹ ngân hàng Mã Hiểu Phong giết chết đồng nghiệp, sau đó trói thi thể vứt dưới gầm giường, nhưng rồi y lại kéo lê thi thể nhét vào tủ đá nhà mình.

    Trạng thái thần kinh của Tam Chùy không ổn định, thẩm vấn quá lâu sẽ khiến cậu ta càng bị kích động, bởi thế cảnh sát chẳng lần ra manh mối gì từ chỗ Tam Chùy. Tổ chuyên án cho rằng những lời nói hàm hồ trong lúc mơ của Tam Chùy cho thấy rất có khả năng kẻ mặc áo mưa chính là hung thủ giết Kim Quế. Đêm đó trời mưa, lúc y muốn di chuyển tử thi đến nơi khác thì vô tình bị Tam Chùy bắt gặp.

    Tổ chuyên án dự định sẽ điều tra từ vòng ngoài. Họ rất hứng thú với bảng kê các cuộc gọi đến và đi từ điện thoại di động của Kim Quế. Vào ngày xảy ra án mạng, cuộc gọi cuối cùng mà Kim Quế gọi đi là số máy của một quán sauna tên là Đại Phú Hào. Quán sauna này tọa lạc ở ngay cạnh công viên phố Hạ, nằm cùng trục đường trên con phố này.

    Tổ chuyên án thu thập được một chi tiết rất đáng giá là Kim Quế đã nhắn tin cho vợ, nói rằng mình đi mua sữa cho con, muộn một chút mới về nhà, rồi sau đó anh ta đến thẳng quán sauna đó.

    Giáo sư Lương lệnh cho Họa Long và Bao Triển lập tức tới quán điều tra. Hai người không thông báo cho cảnh sát địa phương, mà chỉ lẳng lặng hành động. Bao Triển mang theo ảnh của Kim Quế, Họa Long mang theo súng, rồi thay thường phục, giấu điện đàm mini thật kín đáo. Tô My kết nối với máy tính. Sau khi tất cả chuẩn bị chu toàn, hai thành viên của tổ chuyên án bắt đầu xuất phát.

    Đây là lần đầu tiên Bao Triển đến một nơi xa hoa, hào nhoáng như thế này, còn Họa Long thì thoải mái chẳng khác nào ngựa về đường cũ. Cô lễ tân lịch thiệp đứng ở cửa cúi gập mình đón khách, Họa Long không thèm đếm xỉa gì đến, anh bước thẳng vào trong. Một nhân viên phục vụ vội đến gần dẫn đường. Cả hai bước vào một gian phòng, Họa Long nhìn quanh một lượt rồi hỏi: “Có phòng tốt hơn dành cho khách VIP không? Phòng loại này không ăn thua!”

    Nhân viên phục vụ liền dẫn khách lên tầng trên, bước vào đại sảnh rộng rãi và sang trọng, sàn nhà trải thảm đỏ dày, cạnh tường kê ba hàng ghế sô pha theo phong cách châu Âu, mỗi ghế đủ rộng cho vài chục người ngồi. Cả gian phòng được trang hoàng vô cùng lộng lẫy, chỗ nào cũng toát ra vẻ trang nhã, sang trọng. Họa Long và Bao Triển ngồi xuống ghế sô pha, Họa Long quay sang cô phục vụ bảo: “Cô lui ra đi! Gọi trưởng ca tới đây!”, rồi anh quay sang nháy mắt với Bao Triển, hớn hở nói: “Nhà quê! Để anh cho chú mở mang tầm mắt nhé!”

    Bao Triển hơi căng thẳng, đây là lần đầu anh đến nơi phong hoa tuyết nguyệt như thế này.

    Tô My khẽ nghiêm giọng nhắc nhở Họa Long và Bao Triển qua tai nghe: “Các anh mà muốn làm chuyện xấu thì đừng quên còn hai khán giả đang ngồi đây theo dõi đó nhé!”

    Họa Long ho khan hai tiếng. Cô trưởng ca xinh đẹp gõ cửa tươi cười bước vào, đầu tiên cô ta hàn huyên mấy câu xã giao, rồi dò hỏi xem Họa Long và Bao Triển muốn thợ sauna loại nào.

    Họa Long cộc lốc: “Có những loại nào?”

    Cô trưởng ca đáp: “Anh muốn loại nào chỗ em cũng chiều hết! Muốn gì có nấy! Loại đặc biệt nhất ở Đại Phú Hào là tiếp viên theo trang phục.”

    Họa Long bắt đầu tò mò: “Cô giới thiệu tóm tắt nghe xem nào!”

    Cô trưởng ca nhiệt tình giới thiệu cho khách: “Nghĩa là các tiếp viên sẽ mặc trang phục theo các ngành nghề khác nhau. Anh có thể nghĩ ra các em xinh tươi làm nghề nào, thì chỗ em có các em xinh tươi làm nghề nấy, tiếp viên có, y tá có, cô giáo có, thư kí có, học sinh có, nữ giúp việc có thậm chí ngay ca trang phục thời cách mạng văn hoá, hay cung nữ mặc cổ trang cũng có tuốt…”

    Họa Long trêu chọc: “Thế có trang phục nữ cảnh sát không?”

    Cô trưởng ca đáp: “Có chứ ạ!”

    Cô trưởng ca bắt đầu gọi tiếp viên vào phòng. Trước tiên, cô trưởng ca dẫn các cô gái mặc cảnh phục vào phòng, họ xếp thành một hàng ngay ngắn, người nào người nấy sóng mắt đong đưa, ngay cả bộ đồ cảnh phục cũng khó lòng che nổi vẻ phong trần lồ lộ; ngay sau đó là một đoàn các mĩ nữ mặc trang phục tiếp viên hàng không bước vào, mỗi cô uốn éo một tư thế, trông vô cùng gợi cảm, thậm chí họ còn kéo cả vali theo; rồi cuối cùng là một nhóm các cô nàng mặc váy đầm trễ tràng hở lưng lộ ngực, cô nào cũng đầu mày cuối mắt phô bày vẻ đẹp gợi tình của mình.

    Họa Long lắc đầu tỏ thái độ không ưng, bảo: “Gọi tất cả tiếp viên trong quán của các cô ra đây!”

    Cô trưởng ca xinh đẹp nghe khách thấy vậy thì lúng túng đáp: “Một số tiếp viên còn đang bận tiếp khách, không thể bắt họ xuống đây ngay được. Hay anh chọn tạm một trong số những em này vậy? Nếu anh không chê, để em giới thiệu với anh một cô nhé!”

    Mặc cho cô trưởng ca ngọt ngào khuyên nhủ, Họa Long vẫn kiên quyết đòi gọi tất cả tiếp viên trong nhà hàng xuống, thế là đôi bên xảy ra tranh chấp. Cô trưởng ca liền báo cáo với giám đốc, gã giám đốc mang theo mấy bảo vệ hùng hổ bước vào phòng. Vừa nhìn thấy Họa Long, gã giám đốc đã lớn tiếng mắng: “Mẹ mày! Mày là đứa nào mà khó chiều thế hả? Dám đến đây gây sự với ông à? Tao thấy rõ ràng mày muốn chết đây mà!”

    Họa Long cười thách thức: “Tôi đến gây sự đấy? Sao hả? Ông anh dám làm gì cảnh sát?”

    Gã giám đốc lạnh lùng: “Thằng ôn con! Cái quán này cũng do cảnh sát mở ra đấy! Không những thế còn là ông to trong ngành – phân cục trưởng phân cục bốn phố nữa cơ! Không đi dò hỏi trước mà dám đến đây ba hoa phét lác!”

    Họa Long buột miệng: “Đúng như mình nghĩ!”

    Gã giám đốc ra lệnh: “Đánh vào tử huyệt của nó, rồi quẳng ra ngoài cho tao!”

    Một bảo vệ lao tới túm cổ áo của Họa Long. Họa Long ôm ngang lưng đối phương quật ngã xuống đất, một tên bảo vệ khác lại xông tới, Họa Long tống thẳng một cú vào má phải, rồi thuận chân bồi luôn thêm một cú nữa, đá bay tên bảo vệ văng ra xa. Thừa thế xông lên, anh hạ gục tên bảo vệ thứ ba ngã lăn quay. Hai tên bảo vệ còn lại thấy tình hình không ổn liền rút dao và gậy bóng chày sau lưng ra, Họa Long cũng thần tốc rút súng, thấy thế hai tên bảo vệ cũng không dám manh động. Cục diện đôi bên trở nên vô cùng căng thẳng.

    Đúng lúc ấy, điện thoại di động của gã giám đốc vang lên. Thì ra Tô My luôn lắng nghe mọi động tĩnh qua tai nghe từ văn phòng tổ chuyên án, lo tình thế trở nên mất kiểm soát, cô đã gọi điện thông báo cho phân cục trưởng phân cục bốn phố biết. Phân cục trưởng tức tốc gọi điện cho gã giám đốc, bảo hắn rằng hai cảnh sát này là người nhà cả, họ được trung ương đặc biệt cử xuống phá án, vì thế họ có yêu cầu gì thì hãy cố gắng đáp ứng.

    Gã giám đốc tắt điện thoại, vẻ mặt thay đổi một trăm tám mươi độ, hắn ta tươi cười luôn miệng xin lỗi.

    Họa Long ngồi trở lại ghế, châm điếu thuốc. Gã giám đốc và cô trưởng ca thì thầm với nhau vài câu, một lát sau tất cả tiếp viên trong quán đều bị gọi tới, họ chờ ở hành lang phía ngoài cửa. Bao Triển lấy ảnh của Kim Quế ra, yêu cầu các cô gái nhận diện thật kĩ. Một trong số các tiếp viên có một cô gái tên là Hương Hương. Cô ta mặc trang phục thủy thủ, nom giống như nữ sinh thuần khiết. Cô ta nhận ra Kim Quế là khách hàng mà mình từng phục vụ mấy bữa trước.

    Cô trưởng ca yêu cầu Hương Hương phải tuyệt đối phối hợp với cảnh sát, sau đó giải tán tất cả những người không liên quan ai về phòng nấy, rồi đóng cửa lại.

    Chỉ còn một mình trong phòng cùng hai cảnh sát, Hương Hương hoảng sợ cầu xin: “Các anh ơi! Em không biết gì hết! Xin đừng bắt em!”

    Họa Long trấn an: “Cô cứ yên tâm! Chúng tôi là tổ chuyên án. Những vụ tép riu như truy quét mại dâm thì nhường cho cảnh sát địa phương giải quyết.”

    Hương Hương trố mắt hỏi: “Tổ chuyên án ư?”

    Họa Long vênh vang: “Chúng tôi chỉ phụ trách những vụ án đặc biệt nghiêm trọng.”

    Hương Hương gật đầu tỏ vẻ am hiểu: “À… vâng… Các anh chỉ nhận những vụ án lớn, giống như chúng tôi chỉ tiếp khách sộp phải vậy không?”

    Họa Long tẽn tò gật đầu: “Cô nói thế cũng được!”

    Theo hồi ức của Hương Hương, nạn nhân Kim Quế đã đến quán sauna này vào hôm vụ án mạng xảy ra. Trong quá trình phục vụ, anh ta nhiều lần cưỡng hôn Hương Hương, nhưng bị cô ta cự tuyệt. Kim Quế thậm chí còn móc một trăm tệ trong ví ra, quỳ xuống cầu xin được hôn, bởi vậy Hương Hương có ấn tượng rất sâu sắc với vị khách này.

    Họa Long ngạc nhiên thắc mắc: “Cho phép tôi hỏi một câu tế nhị, các cô là gái bao, sao lại cự tuyệt hôn khách làng chơi vậy?”

    Hương Hương bĩu môi, nghiêng đầu ra chiều kinh tởm: “Mồm anh ta hôi như mùi chuột chết…”

    Họa Long hỏi tiếp: “Sau đó thì sao?”

    Hương Hương kể: “Sau đó anh ta bắt tôi phải tát anh ta. Tôi bực mình gọi giám đốc, giám đốc liền trả tiền lại và tống cổ anh ta ra khỏi quán.”

    Bao Triển chợt chen ngang: “Anh ta bo cho cô đồng một trăm tệ chẵn hay là hai tờ năm mươi tệ?”

    Hương Hương đáp ngay: “Ví của ông ta nhìn căng phồng, cứ tưởng nhiều tiền, nhưng thực ra bên trong toàn tiền lẻ mười tệ, năm tệ, còn ôm theo cả bịch sữa bột cho con nít nữa.”

    Bao Triển đột nhiên nhớ đến câu nói của gã giám đốc khi nãy: “Đánh vào tử huyệt… rồi quăng ra ngoài!”, anh lắc đầu như thể trong lòng đang ngầm phủ định điều gì đó.

    Khi Kim Quế rời khỏi quán sauna mới khoảng chín giờ tối, thời điểm đó ắt vẫn còn khá nhiều người đi lại trên đường. Trước con mắt của bao nhiêu người, hung thủ làm cách nào để giết chết nạn nhân mà không bị phát hiện?

    Trên đường anh ta về nhà đã xảy ra chuyện gì nhỉ?

    Hiện trường gây án rốt cuộc ở nơi nào?

    Chương 3Bóng ma hiện hình
    Suốt mấy ngày liên tiếp, vụ án không có gì tiến triển, tổ chuyên án phân tích và cho rằng Tam Chùy sẽ là mấu chốt đột phá của vụ án này. Cậu ta là người duy nhất nhìn thấy hung thủ, chỉ có điều giờ cậu ta lại đang nằm ở bệnh viện, trạng thái tinh thần vẫn tồi tệ như cũ một ngày co giật mấy lần, mỗi lần đều làm mọi người khiếp vía. Mắt cậu ta trợn ngược trắng dã, tứ chi co rút, tay quắp lại như chân gà, mất ý thức, thần trí mơ hồ. Những bệnh nhân điều trị cùng phòng với Tam Chùy đều cho rằng cậu ta bị ma nhập.

    Đợi đến khi Tam Chùy tỉnh táo hơn một chút, giáo sư Lương mới bắt đầu tiến hành trị liệu cho cậu ta bằng thuật thôi miên.

    Cảnh sát Hồng Kông từng nhờ bà đồng phá án, FBI của Mỹ cũng từng dùng cảm giác thứ sáu để điều tra và phá một số vụ án. Trong một số vụ án, việc sử dụng những phương pháp điều tra đặc biệt là vô cùng cần thiết.

    Giáo sư Lương không tiết lộ cho Tam Chùy biết mình là cảnh sát, mà chỉ giới thiệu mình là bác sĩ tâm lí của bệnh viện, ông còn làm một thẻ bác sĩ giả để lấy được sự tin tưởng của Tam Chùy.

    Giáo sư Lương nói với Tam Chùy rằng thuật thôi miên là một phương pháp điều trị bằng tâm lí, có thể giúp bệnh nhân chấm dứt cảm giác lo lắng, sợ hãi, từ đó bệnh nhân sẽ đối diện với cuộc sống bằng thái độ đúng đắn và bước ra khỏi bóng đen từng ám ảnh trong lòng.

    Tam Chùy ngồi yên trên ghế, gương mặt hốc hác, cậu ta ra hiệu mình đã sẵn sàng phối hợp với bác sĩ.

    Giáo sư Lương lấy ra chiếc đồng hồ quả quýt, để nó lúc lắc giữa không trung, rồi bảo Tam Chùy chú ý nhìn vào đó, đồng thời lắng nghe tiếng kim đồng hồ chạy. Đây chính là phương pháp thôi miên bằng con lắc. Giáo sư Lương bắt đầu thực hiện các bước dẫn dắt bệnh nhân tưởng tượng bằng cách dùng lời nói để ám thị và hướng dẫn. Sau hơn nửa tiếng, mí mắt của Tam Chùy càng lúc càng trĩu nặng, rồi hoàn toàn nhắm hẳn, cậu ta bắt đầu rơi vào trạng thái bị thôi miên.

    Giáo sư Lương nhẹ nhàng gợi ý: “Mưa rồi! Cậu có nghe thấy tiếng mưa rơi tí ta tí tách không?”

    Tam Chùy mơ hồ đáp: “Có nghe thấy!”

    Giáo sư Lương tiếp tục dẫn dắt: “Cậu đang đứng trong công viên phố Hạ, mùi hoa dành dành thơm nồng nàn, cậu có ngửi thấy không?”

    Tam Chùy đáp: “Có ngửi thấy!”

    Giáo sư lại tiếp: “Cậu có nhìn thấy một tháp nước trong công viên không?”

    Tam Chùy đáp: “Có nhìn thấy!”

    Giáo sư Lương hỏi: “Cậu còn nhìn thấy gì nữa?”

    Tam Chùy có dấu hiệu hoảng hốt: “Còn thấy một người mặc áo mưa đang cõng một xác chết.”

    Giáo sư Lương hỏi dồn: “Người mặc áo mưa đó trông như thế nào?”

    Tam Chùy run rẩy: “Tôi… tôi biết người đó!”

    Giáo sư Lương ngạc nhiên, lập tức hỏi luôn: “Người đó là ai vậy?”

    Tam Chùy bỗng nhiên mở bừng hai mắt, miệng hét thất thanh, cậu ta đột ngột tỉnh dậy khỏi trạng thái bị thôi miên.

    Thôi miên có thể hướng dẫn con người đi vào một trạng thái nào đó, nhưng không thể bắt ép người đó làm việc mà tiềm thức của mình không tán đồng. Trong tiềm thức của mỗi con người đều có một bí mật và sự riêng tư không thể xâm phạm, xuất phát từ hành vi tự bảo vệ nên dẫu đang rơi vào trạng thái bị thôi miên thì người đó cũng không bao giờ tiết lộ bí mật của mình.

    Tam Chùy quen với hung thủ, kết quả việc thôi miên đã giúp tổ chuyên án thu hoạch được một thông tin khiến ai cũng phấn chấn. Sau đó cảnh sát bốn phố liên tục gia tăng cường độ thẩm vấn Tam Chùy nhưng cậu ta nhất quyết không chịu nói gì hơn. Tinh thần Tam Chùy cơ hồ sắp suy sụp đến nơi.

    Tổ chuyên án yêu cầu phân cục bốn phố giám sát nghiêm ngặt bốn người bạn còn lại của Tam Chùy, bởi rất có thể một trong số chúng chính là hung thủ giết người. Hai ngày sau có một thông tin phản hồi lại, viên cảnh sát bí mật giám sát Gà Điên phản ánh gần đây không biết cậu nhóc đó kiếm được một món tiền khá lớn từ đâu mà ngày nào cũng mời bạn bè đi sàn nhảy hát hò, không những vậy còn hút thuốc phiện trong phòng karaoke nữa. Cậu ta có rất nhiều điểm đáng nghi.

    Cảnh sát bốn phố liền đặt ra một giả thiết khá mạnh bạo, đội trưởng đội cảnh sát hình sự suy đoán như sau:

    Tối hôm đó, Kim Quế rời khỏi quán suna trở về nhà, trên đường về rất có khả năng vì mót tiểu hoặc nguyên nhân nào khác nên anh ta buộc phải rẽ vào công viên, nhưng anh ta không vào nhà vệ sinh công cộng mà giải quyết ngay ở lùm cây gần tháp nước. Hôm ấy, Gà Điên cũng tình cờ đang ở trong công viên, con trai mới lớn thường thích đi đây đi đó, nên trong lúc bí tiền cậu ta nảy sinh dã tâm giết người cướp của. Sau khi gây án, cậu ta cõng thi thể nạn nhân lên đỉnh tháp nước, rồi giả vờ như cùng bạn bè tình cờ phát hiện ra xác chết để tạo ra chứng cứ ngoại phạm…

    Phân cục trưởng phân cục bốn phố nói: “Cũng có khả năng mấy đứa trẻ còn lại đều là đồng phạm, chỉ riêng Tam Chùy là người ngoài cuộc, không tham gia giết người.”

    Đội trưởng đội cảnh sát hình sự tán đồng: “Đúng vậy! Mấy thiếu niên bất hảo đó còn hút thuốc phiện, nên hoàn toàn có thể xảy ra khả năng bọn chúng dám giết người.”

    Bao Triển hỏi vặn: “Vậy hiện trường gây án ở đâu? Nếu ở ngay giữa bụi cỏ thì sao không tìm thấy vết máu?”

    Đội trưởng đội cảnh sát hình sự đáp: “Hôm đó trời mưa nên nước mưa đã gột sạch hết vết máu còn gì!”

    Bao Triển gật gù, anh bước tới bên cửa sổ chìm vào suy nghĩ, rồi tự lẩm bẩm một mình: “Mưa! Đúng rồi! Sao mình không nghĩ đến điểm này nhỉ?”

    Giáo sư Lương chợt nói: “Hôm nay là ngày cuối cùng!”

    Phân cục trưởng phân cục bốn phố ngạc nhiên hỏi: “Giáo sư nói gì ạ?”

    Giáo sư Lương lấy bức ảnh do Tam Chùy chụp, rồi chỉ tay vào khuôn mặt ma trên bức ảnh.

    Đêm hôm đó trời mưa to, bốn thiếu niên là Gà Điên, Nước Sôi, Hoa Lệ và Yên Nữ Tử cùng ngồi chơi trong quán internet, hai cảnh sát ngồi trong xe ở bên ngoài quán bí mật theo dõi. Bốn thiếu niên vừa hút thuốc lá vừa chơi game, chúng chìm đắm với việc chém giết trong thế giới ảo. Tam Chùy nhập viện không hề ảnh hưởng đến tâm trạng của chúng. Mấy ngày nay, Hoa Lệ đã chuyển đối tượng quan hệ khác, cô bé đính ước với Gà Điên ở trên mạng.

    Chúng vừa chơi game vừa nói những từ mà chỉ chúng mới hiểu:

    Gà Điên: “Mẹ kiếp! Quỳ xuống! Uống xx, cho ông!”

    Nước Sôi: “Đá lủng sọ bây giờ!”

    Yên Nữ Tử: “Tìm người yêu! Em đây chỉ thuộc về những anh lắm tiền!”

    Hoa Lệ: “Cút mau! Bổn công chúa tắm máu cả nhà ngươi!”

    Lúc ba giờ sáng, quán internet bất ngờ mất điện, bốn thiếu niên đành ai về nhà nấy.

    Khi rời khỏi quán, Hoa Lệ nài nỉ Gà Điên cho cô bé sang ở cùng, nhưng Gà Điên chẳng thèm đoái hoài, hai tay cắm vào hai túi quần cỡ đại đằng sau, mặt toát ra vẻ lạnh lùng và phớt đời, cậu ta bình thản bước vào màn mưa.

    Xe cảnh sát lặng lẽ bám theo Gà Điên.

    Nước Sôi và Yên Nữ Tử nắm tay nhau bước vào một con phố khác, lát sau đã mất dạng.

    Hoa Lệ ôm khuỷu tay, bước vào một ngõ hẻm không có đèn đường. Tận cùng của con ngõ là nhà của cô bé.

    Cô bé mặc chiếc quần bò kiểu Hàn Quốc, ống quần rất dài, gần như quét lê mặt đất, Hoa Lệ từng chỉ vào ống quần của mình và nói: “Nó càng bẩn, càng nát, mình càng thích!”

    Mưa đổ rào rào, nhưng cô bé mặc kệ, cô để mình ướt đẫm, cũng không buồn tránh những vũng nước.

    Con ngõ vừa hẹp lại vừa tối. Hoa Lệ loáng thoáng nghe thấy tiếng bước chân vẳng đến từ phía sau. Cô bé ngoái đầu, nhưng không thấy ai. Hoa Lệ thấy hơi rờn rợn, cô bé đi thêm mấy bước nữa, rồi đột ngột quay đầu lại, phía sau xuất hiện một người mặc áo mưa. Trong bóng tối, cô bé không nhìn rõ khuôn mặt của kẻ ấy. Cô bé sợ hãi, dồn nhanh bước chân, kẻ phía sau cũng chạy theo. Hoa Lệ cuống quýt không biết làm gì, cô bé nấp vào trước cổng một ngôi nhà gần đó, còn đang do dự không biết nên gõ cửa hay hét lên kêu cứu thì cô bé thấy bước chân đã áp sát đến gần. Tim cô bé đập nhanh khủng khiếp, cố nghĩ rằng có thể đó chỉ là một người qua đường, nhưng kẻ mặc áo mưa lại không đi tiếp mà dừng ngay trước mặt Hoa Lệ. Hắn ta quay đầu lại, nhìn cô bé…

    Một tia sét vụt lóe lên, xé nát bầu trời, lằn sáng soi rõ ánh mắt khiếp đảm của Hoa Lệ, đồng thời cũng soi rõ khuôn mặt của kẻ ấy – Cô bé phát hiện mình biết khuôn mặt này!

    Ngày hôm sau, người ta phát hiện ra một vết máu ở cách nhà Hoa Lệ năm mươi mét, phía cảnh sát tiến hành giám định dấu vết, nhưng không thể phán đoán được hung thủ đã sử dụng vũ khí gì. Họa Long lần lượt lấy những dụng cụ chí mạng như rìu, búa, gậy bóng chày, mỏ lết tấn công viên cảnh sát đóng vai nạn nhân để mô phỏng lại hiện trường, nhưng vẫn không thể xác định được vết máu loang trên tường được tạo thành do vật gì đập phải.

    Sau khi điều tra thực địa, căn cứ vào phản ánh của ông chủ quán internet, vụ mất điện đêm hôm trước là do nhân tố con người, có ai đó đã cố tình cậy hộp biến thế ở gần đó của quán, rồi sập cầu dao dẫn đến mất điện.

    Từ hiện trường có thể thấy vì trời mưa nên tất cả manh mối có giá trị như vết chân, dấu vân tay đều bị xoá sạch, cảnh sát cho rằng hung thủ rất quen thuộc với địa hình và môi trường ở nơi này nên chắc chắn là người quen của nạn nhân. Hơn nữa tối hôm ấy cảnh sát luôn luôn giám sát Gà Điên, nhưng không thấy cậu ta có động tĩnh gì khác thường. Nước Sôi và Yên Nữ Tử rời khỏi quán internet cũng về nhà luôn. Tam Chùy thì vẫn nằm trong bệnh viện. Tất cả bốn thiếu niên đều có chứng cứ ngoại phạm rõ ràng.

    Vậy ai là kẻ đã giết chết Hoa Lệ? Mà kẻ đó lại là người quen của cô bé?

    Vì sao thi thể của cô bé lại biến mất?

    Cảnh sát thuộc phân cục bốn phố phân tích và cho rằng rất có khả năng hung thủ là kẻ có sở thích bệnh hoạn như yêu xác chết, nhưng tổ chuyên án phản bác suy đoán này. Giáo sư Lương còn khẳng định nếu không có gì bất ngờ xảy ra thì chắc chắn hung thủ còn tiếp tục gây án.

    Để bảo vệ ba thiếu niên còn lại, phía cảnh sát liền cho bắt giam chúng vì lí do hút thuốc phiện. Thế là Gà Điên, Nước Sôi và Yên Nữ Tử bị nhốt vào trại quản thúc thanh thiếu niên. Sau nhiều lần thẩm vấn, cảnh sát vẫn không thu thập được manh mối hữu dụng gì từ phía các nghi phạm.

    Chỉ một ngày sau đó, đội cảnh sát phố Hạ lại nhận được cú điện thoại báo án. Nữ kế toán nhà máy thuốc lá đi ngân hàng rút tiền, nhưng cô không trở lại công ty làm việc nữa, cũng không về nhà, hiện giờ tung tích bất minh. Phía cảnh sát kiểm tra camera của ngân hàng và phát hiện lúc bốn giờ chiều cô kế toán nọ đã rút một trăm năm mươi ngàn tệ khỏi cây rút tiền tự động của ngân hàng. Buổi tối cùng ngày, một người khác cũng rút tiền hai lần tại cây tự động rút tiền bằng thẻ ngân hàng của cô kế toán, số tiền rút ra là bốn mươi ngàn tệ.

    Camera giám sát cây rút tiền tự động cho thấy: Một người đàn ông đứng đó, ông ta mặc áo mưa, cố ý cúi thấp đầu, lấy mũ áo mưa che khuất khuôn mặt. Thời gian lúc bấy giờ là mười hai giờ khuya. Camera không thể hiển thị rõ ràng từng chi tiết, nên cảnh sát chỉ biết người đàn ông đó hơi gầy, dáng người thấp bé.

    Tổ chuyên án và cảnh sát phân cục bốn phố đều nhất trí rằng rất có khả năng cô kế toán nhà máy thuốc lá nọ đã bị sát hại, kẻ mặc áo mưa rút tiền chính là hung thủ. Có lẽ vụ án này và vụ án vứt thi thể lên tháp nước cùng vụ án giết Hoa Lệ đều do một người gây ra.

    Ba vụ án xảy ra liên tiếp, phân cục trưởng phân cục bốn phố đứng ngồi không yên, nếu không thể phá án thì chắc chắn ông ta sẽ phải gánh vác một phần trách nhiệm. Phân cục trưởng ra lệnh cho các lực lượng cảnh sát tăng cường tiến độ mô phỏng hiện trường nhằm tìm kiếm lại đối tượng tình nghi. Bao Triển nói: “Tôi cho rằng không cần tìm kiếm đối tượng tình nghi nữa!”

    Phân cục trưởng thắc mắc: “Vì sao?”

    Bao Triển giải thích: “Khi chúng ta mô phỏng hiện trường vụ án lần trước, chắc chắn có cảnh sát từng nhìn thấy kẻ mặc áo mưa đó…”

    Phân cục trưởng thất vọng: “Cậu nói thế cũng bằng thừa! Tất nhiên là cảnh sát đã nhìn thấy hắn rồi! Qua camera chứ đâu…”

    Bao Triển đính chính: “Không! Ý tôi là chúng ta biết tên sát thủ đó…”

    Chương 4Nơi chôn xác
    Mọi người đều nhỏm dậy chờ đợi câu tiếp theo của Bao Triển, vậy mà anh lại ngưng lời, ý chừng mình chưa có chứng cứ nên tất chỉ cả là suy luận và phỏng đoán. Phân cục trưởng nóng lòng vỗ đùi đánh đét một cái, giục giã: “Đừng vòng vo nữa! Tóm lại cậu cho rằng hung thủ là ai?”

    Bao Triển vẽ một trục thời gian biểu đơn giản trên bảng đen. Anh lần lượt đối chứng các manh mối trong ba vụ án theo thứ tự thời gian, bên cạnh các mốc thời gian anh ghi chú một vài từ khóa để đánh dấu, ví dụ như số điện thoại, mưa, thi thể biến mất, áo mưa, quen thuộc địa hình, hiện trường gây án… Theo đó mọi người phát hiện chủ yếu có hai điểm tương đồng, thứ nhất là cả ba vụ án đều mất xác; thứ hai là hung thủ mặc áo mưa.

    Bao Triển gợi ý: “Còn một điểm giống nhau nữa mà tất cả chúng ta đều không để ý.”

    Phân cục trưởng bật hỏi: “Điểm nào?”

    Bao Triển đáp: “Cả ba vụ án mạng đều xảy ra khi trời mưa, nhưng ba nạn nhân đều không mặc áo mưa hay đem theo dù! Sở dĩ vụ án vứt xác trên đỉnh tháp nước và vụ cô kế toán bị sát hại đều không thể tìm thấy hiện trường gây án là bởi vì hiện trường gây án không ngừng bị di chuyển. Hung thủ mặc áo mưa để che giấu khuôn mặt thật của mình, nhưng đồng thời cũng chính hành động đó đã vô tình khiến y bại lộ chân tướng. Cả ba vụ án đều xảy ra vào ngày mưa, cả ba nạn nhân đều không có đồ vật che mưa, mà việc di dời tử thi lại cần có phương tiện vận chuyển. Vậy hung thủ có khả năng là ai nhất?”

    Giáo sư Lương buột miệng đáp luôn: “Tài xế taxi!”

    Bao Triển gật đầu khẳng định: “Đúng thế! Nạn nhân Kim Quế rời khỏi quán sauna đúng lúc trời mưa to, nhân viên kế toán nhà máy thuốc đi rút tiền ở ngân hàng cũng là khi mưa to. Nếu là các đồng chí, thì các đồng chí sẽ làm gì?”

    Phân cục trưởng lắc đầu không thể trả lời nổi.

    Tô My đáp: “Nếu trời mưa, tôi sẽ gọi taxi!”

    Bao Triển nói: “Đúng vậy! Rất có khả năng hung thủ là một tài xế taxi. Ba người bị hại đều không mang theo đồ vật che mưa, khi họ bước lên xe của y cũng là lúc họ bước lên con đường không có lối trở về. Điều tôi muốn gợi ý mọi người là… cha của Tam Chùy vừa hay là một tài xế lái taxi.”

    Phân cục trưởng hăng hái đứng dậy: “Thế thì mau tóm cổ thằng cha đó lại, nhốt vào phòng thẩm vấn, cho hắn ta nếm tí mùi, phải hắn ta làm hay không, chắc chắn sẽ ra ngay!”

    Giáo sư Lương không đồng tình: “Nếu ông ta không phải thủ phạm thì chẳng phải chúng ta bắt oan người vô tội hay sao?”

    Phân cục trưởng gạt phắt đi: “Giáo sư quan tâm nhiều thế làm gì? Giết nhầm còn hơn bỏ sót, cảnh sát phá án đâu thể đảm bảo một trăm phần trăm mình bắt đúng người đúng tội!”

    Giáo sư Lương kiên quyết: “Không có chứng cứ tuyệt đối không thể tùy tiện bắt người!”

    Thông qua một vài tiểu xảo xử lí kĩ thuật, Tô My đã có được ảnh dán trong hộ tịch của cha Tam Chùy, không chỉ vậy, cô còn có cả ảnh trong giấy phép lái xe. Nhưng khi mang ảnh ra so sánh với hình dáng người xuất hiện trong camera thì kết quả làm mọi người vô cùng thất vọng. Bức ảnh dán trên giấy phép lái xe cho thấy cha của Tam Chùy là một người đàn ông trung niên béo tốt, trong khi kẻ mặc áo mưa ở camera lại có thân người gầy gò. Rõ ràng họ là hai người hoàn toàn khác nhau.

    Phân cục trưởng vẫn kiên quyết với ý kiến cứ bắt cha của Tam Chùy lại xét hỏi, nhưng giáo sư Lương cho rằng không có chứng cứ mà khăng khăng quy tội cho ông ta là hung thủ giết người thì không hợp tình hợp lí chút nào. Cuối cùng phân cục trưởng đành thỏa hiệp, ông ta đồng ý để tổ chuyên án đến nhà Tam Chùy điều tra trước, nếu phát hiện ra chứng cứ thì sẽ tiến hành bắt tội phạm sau.

    Bốn thành viên của tổ chuyên án lên xe xuất phát. Theo địa chỉ ghi trong hộ tịch, họ tìm thấy nhà của Tam Chùy. Mọi người dừng xe đằng xa, định lấy lí do thuê taxi để tiếp cận với cha Tam Chùy. Nhà Tam Chùy ở trong một khu tập thể cũ nát, nhà một tầng, có mảnh vườn nhỏ, cửa khép hờ, trong sân có một giàn nho, trong đám lá xanh thấp thoáng lộ ra những chùm quả tím thẫm trĩu nặng còn bám đầy những giọt nước mưa li ti.

    Trước cổng đậu một chiếc xe taxi, cửa xe khóa chặt, chẳng rõ bên trong có gì khác thường không. Bốn người đi thẳng vào trong mảnh vườn nhỏ, Họa Long gọi mấy tiếng: “Có ai ở nhà không? Chúng tôi muốn thuê xe.”

    Tô My đẩy xe lăn cho giáo sư Lương. Bao Triển quan sát mảnh vườn, dưới gốc nho có dấu tích đào đất rất rõ ràng, lớp đất tơi xốp này có màu rất khác với vùng đất xung quanh.

    Bao Triển liền giơ ngón trở lên miệng “Suỵt!” ra hiệu cho mọi người im lặng.

    Anh tìm thấy một chiếc xẻng ở góc tường, liền cầm lấy đào một cái hố nhỏ ở gốc nho, mới đào hai ba nhát đã thấy một ống tay áo hiện ra dưới lớp đất. Rõ ràng một xác chết đã bị vùi ở đây!

    Bốn người tim đập thình thịch như trống trận, họ đưa mắt nhìn nhau hội ý xem nên lập tức thực thi lệnh bắt giữ hay nên thông báo cho cảnh sát phân cục bốn phố.

    Đúng lúc ấy, cửa nhà bật mở, một người đàn ông gầy gò xông ra vườn. Họa Long ý thức ông ta muốn chạy trốn nên vội vàng lao tới chặn lại. Ai ngờ y giơ vật trong tay lên, thì ra đó là một cây súng bắn đinh. Không nói lời nào, y chĩa súng vào thẳng đầu Họa Long và bóp cò. Họa Lọng nhìn thấy mắt đối phương lộ tia hung quang song anh không kịp rút súng, thậm chí còn không có thời gian né tránh, trong lúc cấp bách anh lấy tay chặn họng súng lại. Một cây đinh bắn tới, xuyên qua lòng bàn tay Họa Long mu bàn tay còn hằn lên đầu đinh nhọn hoắt, máu tuôn ra như suối chảy, Họa Long đau đớn quỳ sụp xuống. Gã đàn ông nhìn thấy Tô My đang đẩy xe lăn liền cầm súng định lao đến, y chĩa súng vào đúng ngực giáo sư Lương và lại bóp cò, sau đó lấy hết sức xô mạnh Bao Triển, rồi trốn nhanh ra ngoài nhân lúc mọi người đang bàng hoàng.

    Biến cố xảy ra bất ngờ khiến Bao Triển và Tô My ngây dại, chỉ trong chưa đầy một phút mà Họa Long và giáo sư Lương đều bị bắn gục. Có thể vết thương của Họa Long không nguy hiểm đến tính mạng, nhưng vết thương trên ngực giáo sư Lương lại ở đúng tim. Nếu bị chiếc đinh dài xuyên vào vị trí đó thì chắc chắn giáo sư khó lòng cứu vãn.

    Bao Triển cuống cuồng thét gọi: “Tiểu My, mau gọi xe cấp cứu, thông báo cho phân cục bốn phố mau đến hiện trường! Tôi phải đuổi theo thằng cha đó!”

    Bao Triển lao ra ngoài cổng, gã đàn ông đã khởi động xe taxi rồi bắn vọt ra khỏi khu tập thể với tốc độ nhanh đến kinh ngạc. Bao Triển không biết lái xe, Họa Long lại đang bị thương ở tay nên cũng không thể cầm lái. Bao Triển đuổi theo đến ngoài khu tập thể, mắt trừng trừng bất lực nhìn gã đàn ông càng lúc càng xa dần.

    Anh ủ rũ đứng đó, lòng vô cùng lo lắng cho sự an nguy của giáo sư Lương. Đúng lúc đó, một chiếc taxi dừng lại ngay gần anh.

    Người lái taxi hỏi: “Đi đâu chú em?”

    Bao Triển lập tức lên xe, hổn hển nói: “Mau! Mau lên! Mau đuổi theo chiếc xe đằng trước!”

    Anh chàng lái taxi vừa khởi động máy vừa hỏi: “Đòi nợ phỏng? Hay vợ chạy theo giai?”

    Bao Triển sốt ruột giục giã: “Lái nhanh lên!”

    Anh chàng lái taxi nhẩn nha đáp: “Đèn đỏ kìa!”

    Bao Triển bất cần: “Kệ nó! Vượt đi!”

    Anh chàng lái taxi tròn mắt quay lại hỏi: “Sao anh phải nghe lời chú?”

    Bao Triển trả lời: “Tôi là cảnh sát!”

    Anh chàng lái taxi lắc đầu vẻ không tin: “Cớm ư? Trông chẳng giống chút nào! Chú em đi bắt kẻ xấu à? Nói thật lâu lắm tôi chưa làm chuyện đó, vượt đèn đỏ ấy!”

    Bao Triển hỏi: “Kĩ thuật lái xe của anh thế nào?”

    Anh chàng lái taxi khoe khoang: “Hồi trẻ tôi vẫn thường đua xe, lấy lốp đánh lửa chỉ là chuyện thường ngày ở huyện. Nói thật ngay cả Ralf Schumacher có đến cũng chẳng dám đua với tôi. Đây là địa bàn của tài xế bọn tôi. Chú em có để ý tôi đã cướp khách là chú em đây như thế nào không? Chú em đứng bên đường, một thằng cha đồng nghiệp định chen ngang, nhưng tôi làm thế nào? Tôi từ trên trời rơi xuống, lúc chú em mở cửa xe của tôi cũng là lúc tôi ngoái đầu trợn mắt lườm thằng cha đồng nghiệp. Hoàn cảnh sinh tồn tàn khốc đã tạo ra tuyệt kĩ cướp khách cao siêu cho chúng tôi đấy!”

    Bao Triển tin tưởng: “Thế thì tốt! Anh lái xe ngược chiều, tìm đường tắt ngắn nhất, rồi đón đầu chiếc xe đằng trước.”

    Anh chàng lái taxi lại được phen mắt tròn mắt dẹt: “Nếu xảy ra chuyện thì chú em chịu trách nhiệm nhé! Tôi không nói chú em phải chịu trách nhiệm khi chẳng may tai nạn mà là lỡ tôi bị phạt nặng, có khi còn treo bằng thì chú em phải chịu trách nhiệm đấy nhé!”

    Bao Triển thẳng thắn: “Tôi không gánh nổi trách nhiệm, chắc chắn anh sẽ bị phạt, nhưng sau đó tên anh sẽ xuất hiện trên trang nhất báo An Ninh và cả đài phát thanh nữa!”

    Anh chàng lái taxi reo lên: “Ố ồ! Chơi thật luôn! Nào! Thắt chặt dây an toàn vào! Tôi muốn chơi trò này lâu lắm rồi!”

    Bao Triển hỏi: “Liệu đuổi kịp không?”

    Anh chàng lái taxi khẳng định chắc như đinh đóng cột: “Yên tâm! Cho dù phía trước là quán quân đường đua F1 thì cũng đuổi kịp. Tôi lái xe bao nhiêu năm rồi đấy! Mà nói đi cũng phải nói lại, người đằng trước làm gì vậy?”

    Bao Triển đáp: “Ông ta cũng là một tài xế lái taxi.”

    Anh chàng lái taxi nhận ra biển số xe của chiếc xe chạy đằng trước, anh ta nói đây là xe của ông Giản, hầu như tất cả tài xe khu vực này đều biết ông Giản bởi vì biển số xe của ông ta có ba số bốn.

    Ông Giản là bố của Tam Chùy.

    Hôm ấy, trên đường cao tốc ở ngoại thành xảy ra một vụ tai nạn giao thông. Hai chiếc xe rượt đuổi nhau, suýt nữa thì cả hai đều thiệt mạng, một con thiên nga bị đâm chết, hoa nước bắn tung tóe cao hơn cả tán cây xanh, chiếc xe phía sau định vượt qua chiếc xe chạy phía trước, nhưng suýt nữa bị dồn vào rãnh thoát nước ở vệ đường. Khi đến trạm thu phí thì xảy ra tắc đường, chiếc xe đằng trước vun vút lao tới, đâm thẳng vào rào chắn đường một chiếc xe tải lớn chở hàng kéo phanh khẩn cấp xoay ngang chín mươi độ. Cứ ngỡ chiếc xe đằng trước có thể trốn thoát, nhưng không ngờ chiếc xe ấy lại đâm gẫy thành cầu với vận tốc nhanh nhất có thể, rồi trong hồi còi dài inh ỏi, nó bay từ trên cao xuống. Chiếc xe bay một quãng rồi rơi xuống bờ sông phía dưới cầu.

    Không thể không nói lúc đang ở giữa không trung, tư thế của chiếc xe đó vô cùng tuyệt mĩ, đó đúng là đường cong và quỹ tích của sinh mệnh!

    Cảnh sát phát hiện một tử thi trong chiếc xe đã bẹp gí méo mó. Khi quan sát hiện trường, ai cũng nhận thấy người đàn ông đó đã tự sát, bởi lúc ấy ông ta hoàn toàn có thể lái xe trốn thoát.

    Bao Triển không thể lí giải nổi nguồn cơn: “Vì sao ông Giản giết người rồi sau đó lại tự sát?”

    Trong đầu anh chợt lóe lên một cảnh tưởng khủng khiếp: Một thiếu niên tình cờ nhìn thấy một người đàn ông cõng xác chết trên lưng vào giữa canh khuya nửa đêm. Rồi thiếu niên đó phát hiện người đàn ông ấy lại chính là cha mình…

    Nhưng anh chẳng còn tâm trạng nào mà nghĩ thêm nữa, bởi anh quá lo lắng cho sự an nguy đứng giữa sự sống và cái chết của giáo sư Lương!

    Chương 5Hoa dành dành nở rộ
    Kẻ sát nhân sống trong một con phố yên bình, hai bên đường trồng hai rặng hoa dành dành, những cánh hoa trắng muốt ướp bầu không khí của khu phố thơm ngan ngát. Khi ấy, y có một ngôi nhà nhỏ. Y và trái tim của y lặng lẽ nghỉ ngơi trong ngôi nhà đó suốt quãng thời gian dài, tuổi thơ vụt trôi đi như bóng câu qua thềm. Sau đó cha mẹ đều rũ áo về trời, y lấy vợ sinh con, kết hôn rồi li hôn, cuộc sống lạt như nước.

    Dây nho trong vườn do vợ y trồng. Sau khi li hôn, y thường thần người nhìn dây nho, y ngồi dưới giàn nho râm mát, rồi lại đứng dưới giàn nho râm mát chờ đợi con trai đi học về. Con trai y tên là Tam Chùy. Nơi góc vườn ấy, mùa đông rau cải kề vai xanh mơn mởn, mùa hè dưa hấu chen chúc như lợn con. Thời gian như nước chảy qua cầu, cứ thế nhẹ nhàng trôi hết năm này qua năm khác. Bất kể tuyết rơi la đà hay mưa đổ như thác thì trong đầu y vẫn chẳng hề tồn tại ý niệm tái hôn.

    Phần lớn thời gian cuộc đời y dành cho bánh lái ô tô. Y lái đủ loại xe, từ động cơ ba bánh đến máy ủi, xe khách đường dài, xe phun nước, cần cẩu, máy xúc, xế hộp Santanal rồi cuối cùng là xe taxi.

    Y chỉ làm một nghề duy nhất, đó là nghề lái xe.

    Đồng nghiệp lái taxi thường gọi y là Giản sư phụ. Giản sư phụ rất kiệm lời, nhưng lại hay trêu chọc bạn bè, ví như y thích bất ngờ đập vào vai phải người khác rồi sau đó đứng sang bên trái. Ngoài ra y còn có một sở thích duy trì suốt nhiều năm, ấy là mua xổ số, có điều từ trước đến giờ chưa bao giờ may mắn trúng lấy một giải.

    Cuộc sống của dân lái vô cùng tẻ nhạt và khô khan, bởi vậy nhiều bác tài rất hay chuyện. Tài xế lái taxi phần đông đều là người có văn hoá, họ đi nhiều hiểu rộng, nên khi tụ tập ngồi chém gió với nhau thường bật ra rất nhiều chân lý chói ngời khiến người ta phải giật mình, ví như đoạn hội thoại dưới đây:

    Tài xế A: Vũ trụ là gì? Shit! Chẳng qua là trái thuốc nổ.

    Tài xế B: Đúng thế!

    Tài xế A: Nói cách khác trái thuốc nổ chính là vũ trụ khi bị nổ tung. Nếu có máy quay phim ghi lại quá trình hình thành và ra đời của vũ trụ rồi phóng to nhiều lần trên màn hình tivi, sau đó lại nhân lên gấp nhiều lần nữa, ta sẽ tìm thấy hệ mặt trời trước, sau đó tìm thấy trái đất, cuối cùng sẽ thấy khuôn mặt ngốc nghếch của chính mình.

    Tài xế taxi cũng thích tám chuyện, nhưng điểm khác biệt giữa họ và những cư dân bình thường khác là họ thường nhìn thấu bản chất vấn đề. Ví dụ một tài xế taxi thảo luận với hành khách về xung đột biển giữa Đại Lục và Đài Loan như sau:

    Hành khách: Sắp đánh nhau to đến nơi rồi!

    Tài xế: Họ muốn cho Đài Loan nổ tung thì cứ để họ cho nổ tung đi. Họ muốn tiêu diệt người Nhật, thì cứ để họ tiêu diệt. Vua mất thì dân hóa bụi trần ai, chẳng khác nào lông ngỗng dập dềnh trên dòng sông xanh, tro cốt bị nước cuốn về đông. Bất luận bác hay em sống ở thời Thanh hay thời Minh, thậm chí thời Nguyên, thời Tống hoặc thời Đường vàng son cũng vậy, chúng ta đều chỉ là những kẻ vô danh tiểu tốt, chúng ta chẳng thể thay đổi được gì, cũng chẳng thể ngăn cản được gì.

    Giản sư phụ thích lái xe trong mưa. Đôi lúc y còn dừng xe bên con đường ven rừng âm u, mặc mưa đổ xuống mui, y thẫn thờ ngồi sau vô lăng rít điếu thuốc, rồi hạ cửa kính xuống tạo thành một khe hẹp cho khói bay ra ngoài và để không khí ẩm ướt của làn mưa chui vào trong. Quyện lẫn tiếng mưa đổ ào ào dường như càng khiến tiếng nhạc trong xe trở nên giàu cảm xúc hơn, mưa gột rửa hết hình hài của thành phố này làm nó trở nên khi mờ ảo khi rõ nét.

    Y thích đùa ác ý. Y cho rằng làm thế sẽ chứng tỏ mình chưa già.

    Mưa luôn gắn liền với nhiều câu chuyện lãng mạn, tuy Giản sư phụ không phải là người lãng mạn, nhưng đôi lúc y cũng có những ý tưởng giàu chất thơ, ví dụ như một ngày y dừng xe ở vệ đường, mặc áo mưa rồi chui ra khỏi xe mua bao thuốc lá. Y đứng giữa ngã tư và nghĩ thế này:

    Nếu mưa to hơn một chút, nếu mưa cứ thế không ngớt thì nơi y sống sẽ trở thành một cái hồ, mặt hồ – cũng chính là vị trí đầu gối của y sẽ nở ngập tràn hoa sen. Y đứng giữa hồ, nhìn thuyền bè lượn vòng quanh đầu gối mình.

    Đôi lúc Giản sư phụ rất hài hước, ví như có lần một du khách ngoại tỉnh không đi taxi mà chọn cách đợi xe bus, Giản sư phụ liền nói với người khách đó rằng: “Hầm chín gà rồi mà còn tiếc tí muối à?”

    Tài xế taxi giống như một lữ khách, họ nhìn dòng người dòng xe qua lại mà chẳng khác nào dòng thời gian đang trôi chảy. Họ đưa người khác về nhà, rồi sau đó tự về nhà mình. Ngày nọ nối tiếp ngày kia với một điệp khúc quen thuộc như vậy. Đó chính là cuộc sống của y. Ngồi yên một chỗ nhưng lại xuyên qua huyên náo của bao thành phố. Bất kể là gã đàn ông tục tằn mặc áo may ô sau khi đánh mạt chược hay những cô nàng quyến rũ tỏa ra thứ mùi lạ của lẩu tê cay trộn lẫn mùi nước hoa đậm đặc, bất luận là ai, ở đâu khi nào vẫy tay gọi, y đều phải đến đó và mang theo chiếc xe của mình. Y cảm thấy xe chính là cơ thể, là da thịt mình. Y thường liếc xéo mắt để quan sát từng hành khách, gặp người hay chuyện y sẽ hưởng ứng đôi câu, gặp người trầm lặng, y cũng chẳng nói câu nào.

    Một lần, Giản sư phụ gặp một người khách rất lạ lùng ở đầu đường bệnh viện Nhân Dân. Đó là một người phụ nữ mặc áo đánh số dành cho bệnh nhân, khuôn mặt cô trắng bệch, dung nhan tiều tụy, điều kì quặc nhất là người phụ nữ đó không có tóc, một người đàn bà trọc.

    Y hỏi: “Cô đi đâu?”

    Người phụ nữ đáp: “Nơi nào ít người nhỉ? Anh cứ đi loanh quanh đâu đó mấy vòng. Tôi cũng chưa biết đi đâu! Gần đây có núi không?”

    Y bảo: “Không có!”

    Người phụ nữ lại hỏi: “Thế hồ? Có hồ không?”

    Y trả lời: “Có một con sông.”

    Người phụ nữ quyết định: “Thế thì cho tôi đến bờ sông… nhưng mà… tôi sợ nước!”

    Hai người không nói câu gì nữa, cả đoạn đường chìm trong im lặng, xe dừng lại bên bờ sông, người phụ nữ định xuống, Giản sư phụ nhắc cô vẫn chưa trả tiền, người phụ nữ quẳng lại tập bệnh án và bảo: “Tiền của người chết mà anh cũng muốn lấy ư?”

    Giản sư phụ nhìn bệnh án y không tiếp tục đòi tiền xe nữa. Thì ra người phụ nữ ấy là bệnh nhân mắc bệnh máu trắng, có lẽ vì đang hóa trị nên tóc rụng sạch.

    Giản sư phụ nhìn người phụ nữ trọc đầu một lần nữa. Cô ấy bước ra khỏi xe, môi nhoẻn nụ cười nhẹ nhưng đôi mắt lại nhòa lệ. Người phụ nữ bước tới bờ sông.

    Giản sư phụ cho rằng cô ấy chỉ ra bờ sông đi dạo cho nhẹ lòng, nhưng chẳng ngờ mấy hôm sau người ta vớt được một tử thi đàn bà mặc áo đánh số của bệnh viện dưới lòng sông lên. Y ý thức rất rõ rằng – Người phụ nữ ấy đã tự sát!

    Chuyện này khiến y chấn động mãnh liệt. Bắt đầu từ hôm ấy, ngày nào y cũng nghĩ đến một vấn đề, nghĩ đăm chiêu đến nỗi đôi lúc y như người mất hồn ngay khi lái xe.

    Vấn đề ấy thực ra là vấn đề mà bất kì ai trong chúng ta đều có khả năng phải đối mặt:

    Nếu ta chẳng may mắc bệnh nan y trong khi bản thân lại không đủ sức trả tiền viện phí cao ngất ngưỡng, thì ta nên làm thế nào?

    Chẳng lẽ ta chỉ còn cách lặng lẽ chờ đợi thần chết đến đón xuống âm ti địa phủ?

    Có lẽ tự sát cũng là một cách giải thoát! Kết liễu tính mạng của mình để giảm bớt gánh nặng kinh tế cho gia đình, để nỗi đau của bản thân và nỗi thống khổ của người nhà sẽ chấm dứt theo sự chấm dứt của một sinh mệnh.

    Chuyện này xảy ra đã khá lâu mà Giản sư phụ vẫn còn tự lẩm bẩm một mình: “Chắc người phụ nữ đó có con… cô ấy chỉ muốn tìm một nơi cô tịch để lặng lẽ giã biệt cõi đời.”

    Giản sư phụ chợt nhớ đến ngày y và vợ li hôn. Con trai y đem giày của bố mẹ giấu trong chăn, y và vợ tìm hoài không thấy, mãi đến khi hoàn thành thủ tục li hôn, một mình y từ tòa án trở về mới phát hiện hai đôi giày bị giấu kín.

    Khi ấy Tam Chùy mới sáu tuổi, nó đứng ở cổng, dưới giàn nho, không khóc cũng không cười, chỉ bình thản hỏi: “Mẹ đâu hả bố? Mẹ còn về nhà không?”

    Y câm lặng, nỗi xót xa nhoi nhói tâm can, nước mắt y vô thức tuôn trào.

    Từ đó hai cha con nương tựa vào nhau mà sống, y thề sẽ cho con trai một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tam Chùy trưởng thành, nó bắt đầu mặc những trang phục kì quặc, để kiểu đầu quái đản, nhưng y không lấy thế làm bực mình, mà chỉ cho rằng không bắt kịp với thời đại nữa rồi! Có điều y thấy nỗi buồn trong đáy mắt con trai.

    Sự phản nghịch và bất cần ánh lên từ đôi mắt cậu thiếu niên là thứ không thể ngụy trang nổi.

    Có điều có một chi tiết không thể không kể đến. Vào hôm Tam Chùy và lũ bạn phát hiện ra cỗ tử thi ở trên đỉnh tháp, cậu ta đi xe bus về nhà, trên xe có một bà lão chống nạng, xe chật như nêm, không còn một chỗ trống, Tam Chùy – cậu thiếu niên xăm trổ đầy mình, tai đeo vòng khuyên, đầu tóc bù xù như vừa thoát ra từ trận bom napan – liền đứng lên lễ phép nói: “Bà ơi! Bà ngồi chỗ cháu đây này!”

    Mọi người xung quanh đều cười thầm, họ cảm thấy cậu thanh niên này thật đáng yêu!

    Từ trái tim trồng rau ban đầu đến trái tim giết người sau này là một quá trình, trong quá trình ấy đã xảy ra biến động ghê gớm gì?

    Mùa đông năm 2006, Giản sư phụ mắc bệnh trĩ, ban đầu múi trĩ chỉ bằng hạt lạc, y định uống thuốc để tự phục hồi, nào là xoa dầu cao, nào là ngâm nước nóng, nào là uống thuốc tiêu trĩ, nào là uống thuốc bắc. Hàng ngày, cứ đến chập choạng tối, khi người ta bắt đầu hết giờ làm cũng là lúc bắt đầu giờ làm của y. Y uống thuốc xong, vứt bát lên mặt bàn đang kết băng ở trong vườn, hà hơi vào tay cho đỡ lạnh rồi mở máy đi làm.

    Chiếc ghế y ngồi luôn cách đất nửa thước và luôn cân bằng với ống xả.

    Rất nhiều tài xế mắc bệnh trĩ nên chuyện này cũng chẳng có gì to tát, chỉ có điều mỗi lần đạp phanh hoặc côn thì một cơn đau lại lộng lên tận óc.

    Gần đến tết thì múi trĩ hóa ác tính, từ hạt lạc ban đầu giờ trở thành khối u to tướng. Cắt trĩ xong cũng vừa sang xuân, y nén chịu đau gói sủi cảo, một mình lủi thủi đợi cậu con trai về. Đêm giao thừa, con trai chơi game thông đêm trong quán internet. Sáng hôm sau nó dắt theo một đứa con gái về.

    Y không giận, ngược lại y rất mừng vì cảm thấy con trai đã trưởng thành.

    Tam Chùy và Hoa Lệ bắt đầu sống thử, Giản sư phụ tế nhị cảnh báo con trai: “Bầu bí tùm lum thì phiền phức lắm đấy!”

    Tam Chùy đáp: “Bố yên tâm! Không có chuyện đó đâu!”

    Hoa Lệ cũng nói đế theo bằng giọng lạnh tanh: “Chúng cháu chỉ chơi bời thôi, chưa nghĩ đến chuyện cưới xin con cái đâu mà chú lo!”

    Đến hạ năm 2007, bệnh trĩ của y lại tái phát, lần này vô cùng nghiêm trọng, bụng đau dữ đội, nôn ra máu, đại tiện ra máu, phân thải ra không phải hình thuôn tròn mà hình trăng khuyết, điều đó chứng tỏ trong ruột có khối u. Y cứ ngỡ chỉ là trĩ nội, nào ngờ đi bệnh viện kiểm tra, bác sĩ lại kết luận: Ung thư trực tràng giai đoạn cuối, tế bào ung thư đã chạy sang gan và phổi!

    Bác sĩ an ủi: “Ung thư trực tràng không đáng sợ như các loại ung thư khác, chỉ cần phẫu thuật, rồi cắm ống vào người, làm hậu môn nhân tạo là xong.”

    Giản sư phụ lo lắng hỏi: “Tế bào ung thư đã lan sang gan và phổi, vậy tôi còn sống được bao lâu?”

    Bác sĩ đáp: “Còn phải xem hiệu quả hóa trị, sống thêm ba đến năm năm chắc không có vấn đề, nhưng nếu không điều trị thì chắc chắn chỉ duy trì được ba tháng nữa là cùng!”

    Giản sư phụ liếm môi: “Thế hết khoảng bao nhiêu tiền hả bác sĩ?”

    Bác sĩ đáp: “Chi phí cho phẫu thuật thì không đắt lắm, chỉ có điều phải tiến hành mười mấy lần hoá trị, xạ trị hậu kì còn phải…”

    Giản sư phụ sốt ruột cắt lời: “Gộp lại hết tất cả bao nhiêu?”

    Bác sĩ nói một con số.

    Giản sư phụ không tin vào tai mình, trước đây có lần y bị viêm tai giữa, nên tai thường chảy mủ, bác sĩ phải nói lại lần nữa, khi y nghe thấy con số này mây đen ngoài cửa sổ ùn ùn kéo đến, một tiếng sấm nổ ùng ùng chui thẳng vào màng mủ trong tai y. Y run bắn! Bác sĩ khuyên y nên nhanh chóng tiến hành phẫu thuật, nhưng y chỉ lặng lẽ quay người, ra khỏi bệnh viện, thất thểu lạc vào màn mưa.

    Từ tỉ phú đến khuynh gia bại sản chỉ cách nhau một tòa bệnh viện, huống hồ y chỉ là dân thường?

    Một cư dân bình thường đến không thể bình thường hơn ở thành phố nhỏ mà mắc bệnh hiểm nghèo thì phải làm sao?

    Một con kiến luôn bận rộn kiếm miếng ăn cả ngày sẽ phải làm gì khi đối diện với số mệnh?

    Bao nhiêu năm nay, y mải miết làm ăn, cực khổ tích cóp nhưng vẫn chẳng tiết kiệm được bao nhiêu tiền. Quyền sở hữu ngôi nhà này thuộc về đơn vị của cha y, y chỉ được quyền ở, không có quyền bán.

    Bị ung thư thì chỉ còn đường chết!

    Trong thời gian này, y gầy rộc đi, từ một người đàn ông trung niên to béo trở thành gã gầy nhẳng, trước khi bị bệnh và sau khi bị bệnh nom y như hai người hoàn toàn khác nhau.

    Cạnh nhà Giản sư phụ có ông lão lắm tiền, vừa mới tổ chức sinh nhật tròn sáu mươi tuổi.

    Ông già từng thay tim, nên ông lấy ngày mình cấy ghép tim thành công là ngày sinh nhật của mình. Trái tim mới đem lại cho ông cuộc sống mới, nhưng ông tuyệt đối không bao giờ mở miệng tiết lộ người bán tim cho mình, nghe một người biết nội tình kể rằng trái tim của ông già vốn của một tội phạm giết người. Vài chuyên gia đầu ngành y cho rằng não không phải cơ quan duy nhất sở hữu chức năng lưu giữ kí ức mà tim cũng có khả năng này. Họ đưa ra một ví dụ điển hình chứng tỏ suy luận này là hoàn toàn có căn cứ như sau: Một bé gái tám tuổi ở Mỹ sau khi thực hiện ca thay tim của một bé trai mười tuổi bị sát hại, thì bé gái ấy liên tục nằm mơ thấy ai đó muốn giết mình.

    Giản sư phụ hỏi ông già vừa thay tim nọ vài vấn đề mình quan tâm, ví như: “Hậu môn nhân tạo là gì?”

    Ông già đáp: “Túi đựng phân chứ còn gì nữa!”

    Giản sư phụ lại hỏi: “Trái tim mới thay xong của ông dùng có ổn không?”

    Ông già trả lời với giọng rất lạ: “Nói thật là tôi rất muốn giết người!”

    Có lẽ câu nói ấy đã gợi cảm hứng cho y, một con dơi màu đen chợt bay qua óc y. Dẫu sao mình cũng sắp chết, y quyết định giết người để kiếm ít tiền dành dụm cho con trai. Y đỗ xe trước cửa quán sauna, khách đến đây tiêu khiển toàn hạng lắm tiền nhiều của. Kim Quế mang chiếc túi dày côm cộp, nhưng sau khi lấy súng bắn đinh giết Kim Quế xong, y mới phát hiện trong túi chẳng có mấy đồng. Đây là lần “tác nghiệp” đầu tiên trong cuộc đời nên y hoàn toàn chưa có kinh nghiệm, việc thủ tiêu xác chết cũng còn nhiều sơ suất, chính vì thế y quyết định di chuyển xác chết khỏi đỉnh tháp nước.

    Tài xế lái taxi nào cũng phải thủ sẵn vũ khí phòng thân như dao găm, búa phòng cháy, dao phay khi lái xe ca đêm. Nhiều tài xế đều biết vũ khí phòng thân của Giản sư phụ là một khẩu súng bắn đinh. Chỉ cần cảnh sát tìm thấy thi thể thì họ sẽ phát hiện được hung khí giết người và rất có khả năng sẽ tra ra Giản sư phụ. Xuất phát từ suy nghĩ muốn che đậy tội ác, y đã di chuyển xác chết từ đỉnh tháp nước về chôn trong vườn nhà mình sau khi gây án.

    Lúc cõng xác chết đội mưa về nhà, y nghĩ đến điều gì?

    Y nghĩ đến đứa con trai của mình, y nhớ đến lúc nó bị co giật hồi còn bé, y ôm con chạy vào bệnh viện, khi về nhà thằng nhỏ ngủ gà ngủ gật, y cõng nó trên lưng, bóng đèn đường vàng vọt kéo dài bóng hai cha con.

    Trong đêm mưa đó, y đã cõng tử thi của nạn nhân xuống khỏi đỉnh tháp nước và không quên nói với người chết rằng: “Ông anh! Tôi cũng chẳng còn cách nào khác cả! Giờ ông đã được hưởng phúc ở nơi đó rồi mà tôi vẫn còn phải chịu tội ở nơi này!”

    Y nhét xác chết vào cốp xe, hoàn toàn không để ý thấy một cậu thiếu niên đang nấp ở bụi cây gần đó. Đôi mắt nó mở to nhìn y. Nó chính là đứa con trai tên Tam Chùy của y. Khi y đào hố chôn cái xác trong vườn xong, cậu con trai bước vào, miệng nó lắp bắp nói: “Bố… Con nhìn thấy hết rồi…”

    Giản sư phụ im lặng một hồi, rồi quay sang nhìn con hỏi một câu tưởng như chẳng hề liên quan: “Bố làm tất cả đều vì con. Nếu bố chết, con sẽ sống ra sao?”

    Đứa con ngây người đáp: “Con không biết!”

    Giản sư phụ lại hỏi: “Con có thể tự chăm sóc bản thân không?”

    Đứa con trai lại ấp úng trả lời: “Con… con không biết!”

    Giản sư phụ nói: “Sau này con sẽ nhớ bố chứ? Nhưng đừng nhớ những điểm xấu của bố, chỉ nhớ những điểm tốt thôi, được không con?”

    Con trai không nói nên lời: “Con…”

    Giản sư phụ tiếp lời: “Tất cả tội lỗi để một mình bố gánh! Vì con, bố nguyện xuống địa ngục, chỉ cần con được sống tốt là bố nhắm mắt cũng yên lòng!”

    Đứa con trai thổn thức bật ra tiếng gọi: “Bố…”

    Giản sư phụ vỗ về con: “Thôi! Từ nay con phải làm lại cuộc đời! Hãy làm một người tốt con nhé!”

    Đứa con cúi thấp đầu, nước mắt thi nhau bò xuống sống mũi.

    Tình yêu sâu và lặng như sóng ngầm của người cha luôn khó diễn đạt thành lời. Y là tội phạm giết người, nhưng đồng thời y còn là một người cha.

    Dẫu thường ngày rất ít khi y nói chuyện, tâm sự cùng con, nhưng tình yêu của y dành cho con chất cao hơn núi, một tình yêu câm lặng. Vào đêm y chôn xác người trong vườn nhà, hai cha con chỉ trầm mặc ngồi đó chẳng ai nói với ai câu nào, người cha rút điếu thuốc rẻ tiền, cúi đầu rít, đốm sáng đỏ lập lòe giữa đêm tối, còn cậu con trai cứ muốn nói một câu ghim mãi nơi đáy lòng với người cha, nhưng mãi không thốt thành lời, câu ấy là: “Bố ơi! Con sợ… Nhưng bố… con yêu bố!”

    Khi trời hửng sáng, người cha đã nghĩ ra một kế sách, y biết xác chết trên đỉnh tháp nước đã bị bạn bè của Tam Chùy nhìn thấy, sớm muộn gì phía cảnh sát cũng biết việc này, bởi vậy y chọn cách chủ động báo án.

    Hôm ấy, Hoa Lệ từ quán internet về nhà Tam Chùy định ngủ, Giản sư phụ giả như mình vừa mới đi làm về, y liền cùng Hoa Lệ đưa Tam Chùy giả bệnh vào bệnh viện, sau đó gọi điện báo cảnh sát.

    Trong rất nhiều vụ án, kẻ báo án chính là hung thủ. Năm 2004 xảy ra một vụ hỏa hoạn lớn ở Trùng Khánh, kẻ phóng hỏa Thôi Ấu Bình đã gọi điện báo cảnh sát sau đó còn ở lại hiện trường tham gia cứu hỏa. Năm 2006, người ta phát hiện ra một người bị chặt đứt hai chân trên con đường nhỏ phía sau nhà kho nào đó tại đường Hoàn Thành, thành phố Cẩm Châu, tỉnh Liêu Ninh, người đó tên là Tăng Kình Thanh, sau khi tự chặt hai chân mình, hắn gọi điện cho cảnh sát hòng mưu chiếm tiền bảo hiểm nhân thọ.

    Giản sư phụ bảo con trai giả điên trong bệnh viện, sau đó y lấy điện thoại di động của nạn nhân nhắn tin kiểu ma đòi mạng cho đám bạn của Tam Chùy, y làm vậy nhằm mục đích phân tán sự chú ý và làm sai lệch sự phán đoán của cảnh sát, từ đó khiến cảnh sát bỏ qua những đầu mối thực sự, giúp y có thêm thời gian tiếp tục giết người cướp của.

    Thực ra bệnh của Tam Chùy không phải giả vờ, đứa trẻ vốn có tiền sử động kinh ấy làm sao có thể chịu đựng được khi phát hiện kẻ cõng tử thi trên lưng trong công viên lại chính là cha mình? Hơn nữa cậu ta còn biết dưới gốc nho giữa vườn nhà mình chôn một xác chết, lại biết chắc chắn sẽ còn cỗ xác thứ hai, thứ ba nữa cũng sẽ được chôn xuống đây.

    Giản sư phụ nói với con trai thế này: “Tay đã nhúng chàm rồi thì bố phải làm đến cùng, giết một người cũng bị tử hình mà giết nhiều người thì cũng vẫn chỉ tử hình mà thôi!”

    Mấy hôm đợi chờ cơ hội giết người cướp của, y thường nghĩ vài năm sau chẳng biết con trai có kế thừa tật xấu hút thuốc nghiện rượu của y không? Rồi sau đó nó sẽ cai rượu? Liệu sau khi kết hôn nó có li hôn giống cha nó không? Có biến một gia đình đang yên ấm trở thành hồi ức vỡ nát tan tành? Y nghĩ cô bạn gái tên Hoa Lệ của con trai, mới nứt mắt mà đã lẳng lơ. Mỗi sáng nó chào y một tiếng “Chú!” rồi dắt tay con trai y chui tọt vào phòng ngủ, đôi lúc con trai y không có nhà, con bé lại gọi điện thoại cho gã thiếu niên khác, nom có vẻ rất thân mật, điều đó khiến Giản sư phụ cảm thấy kinh tởm đến cực điểm, bởi vậy y phải giết chết Hoa Lệ.

    Y muốn tặng cho con trai một cuộc sống hoàn toàn mới, một cuộc sống không còn vướng víu chút nào với quá khứ.

    Giản sư phụ lấy súng bắn đinh giết hại cô kế toán nhà máy thuốc lá ngay trong xe taxi của mình. Hôm ấy, lúc tiết lộ mật mã thẻ ngân hàng trước khi chết cô kế toán đã thảm thiết cầu xin y tha mạng, nhưng y vẫn không nương tay cho người vô tội. Mật mã thẻ chính xác, cô kế toán đã không gạt y, điều đó khiến y dằn vặt lương tâm và quyết định hoàn lương.

    Ngay ngày hôm đó, y đón con trai ra khỏi bệnh viện, mua vé tàu hỏa, nhét tất cả tiền vào trong ba lô đưa cho con trai.

    Đứa con trai hỏi: “Con đi đâu bây giờ?”

    Người cha đáp: “Đi đâu cũng được! Con lớn rồi mà!”

    Con trai lại hỏi: “Thế bố có đi cùng con không?”

    Người cha xua tay: “Con cứ kệ bố! Bố là người sắp chết! Con đi đi! Đi càng xa càng tốt!”

    Con trai bịn rịn: “Bố, con…”

    Người cha dặn dò: “Con hãy nhớ, vĩnh viễn không được trở lại đây!”

    Cậu con trai xúc động nói trong nước mắt: “Bố! Nếu có kiếp sau, con vẫn muốn làm con trai của bố!”

    Người cha lặng đi trong giây lát, rồi y cảm thấy tinh thần bất an như thể vừa quên mất thứ gì. Bần thần một lúc y mới nhớ ra: “Thôi chết! Quên không khóa cửa, chìa khoá cửa cũng không mang theo.”

    Giản sư phụ tìm hiệu cắt tóc cho con, bảo nó ngồi đó cắt tóc trước, còn mình về nhà lấy chìa khoá, sau đó sẽ đưa con trai ra bến tàu. Khi vào nhà và chuẩn bị quay ra, thì tổ chuyên án đến điều tra nhà y, y thấy có bốn người, một trong số họ lấy xẻng đào gì đó dưới gốc nho. Y ý thức bốn người đó chính là cảnh sát, thế là y không cần nghĩ, lập tức cầm súng bắn đinh xông tới…

    Lòng bàn tay của Họa Long bị xuyên thủng, nhưng vết thương không chạm vào gân cốt nên không nguy hiểm đến tính mạng.

    Mũi đinh từ súng bắn đinh nhằm trúng vào ngực trái giáo sư Lương, lúc ấy Tô My sợ tái mặt, phát súng đó chắc chắn sẽ lấy mạng giáo sư, nhưng không ngờ giáo sư chẳng hề hấn gì, ông thậm chí không bị xây xước bởi trong túi áo trước ngực trái của ông là cuốn “Thánh kinh”, chính cuốn sách đó đã cứu mạng ông.

    Giản sư phụ lái xe điên cuồng chạy trốn chẳng khác nào chú chó lạc đường không biết đi đâu về đâu. Bao Triển ngồi taxi bám riết không tha, đồng thời thông báo cho phía cảnh sát hỗ trợ cản đường. Cuối cùng xe của Giản sư phụ lượn một đường cong giữa không trung trước khi lao đầu xuống bờ sông trong hồi còi kéo dài. Trước lúc chết, y ngửi thấy mùi hương thanh mát của hoa dành dành, y nhớ đến gương mặt người phụ nữ tự sát nọ, gương mặt thoảng nét cười nhưng nước mắt chảy tràn hai gò má.

    Vụ án khép lại tại đây!

    Về sau cảnh sát không tìm thấy Tam Chùy.

    Cậu thiếu niên đó thay kiểu tóc mới, thậm chí mặc bộ quần áo mới mà cha mua cho, cậu ta mang theo bao tiền, ngồi xe taxi về nhà định xem sao mãi cha vẫn chưa quay lại, nhưng vừa về đến cổng đã thấy cảnh sát đứng lố nhố quanh đó, cậu ta hiểu người cha về nhà lấy chìa khóa đã xảy ra chuyện rồi!

    Đứa trẻ quyến luyến chưa muốn rời đi, nó nhìn ngôi nhà của mình lần cuối, sau đó cương quyết bảo tài xế: “Đi thôi! Đến bến tàu!”

    Nước mắt nó tuôn rơi lã chã… Hoa dành dành hai bên đường vẫn lặng lẽ nở, cánh hoa trắng tinh khiết và toả hương thơm ngát.

    Có lẽ Tam Chùy phải dùng tất cả thời gian còn lại của cuộc đời để cảm nhận hết tình yêu sâu sắc của người cha.

    Còn một chuyện nữa cũng cần kể rõ với độc giả, khi tổ chuyên án rời khỏi thành phố, phân cục trưởng lại mở một bữa tiệc thết đãi họ. Sau bữa tiệc phân cục trưởng khẽ khàng giúi một phong thư vào tay các thành viên. Theo cách nói của ông ta thì đây là thư cảm ơn, ai cũng có thể sờ thấy một tấm thẻ ngân hàng qua lớp giấy mỏng của phong bì. Phân cục trưởng nói quán sauna đó thực ra không phải do ông ta làm chủ, hi vọng tổ chuyên án về trung ương không đề cập lại chuyện này cho lãnh đạo biết.

    Tổ chuyên án từ chối nhận thư cảm ơn. Trên đường ra sân bay, bốn người họ nói chuyện với nhau như sau:

    Tô My: “Hành vi hối lộ quá lộ liễu!”

    Giáo sư Lương: “Hầu hết các hang ổ mại dâm trong các thành phố đều được sự yểm trợ của công an địa phương.”

    Họa Long: “Các ngài Holmes thử đoán xem trong tấm thẻ ngân hàng đó có bao nhiêu tiền?”

    Bao Triển: “Tôi nghĩ chắc chắn nhiều hơn số tiền mà Giản sư phụ cướp được sau khi giết ba mạng người rất nhiều lần…”
     
    Chỉnh sửa cuối: 26/3/17
    Gum, Dung dung, mekem and 6 others like this.
  5. Nhím Nhím

    Nhím Nhím Member
    • 344/373

    Bài viết:
    41
    Đã được thích:
    422
    Tập 1: BÓNG MA ĐÊM MƯA
    PHẦN 3: BÙ NHÌN DA NGƯỜI

    Lời dẫn

    Đau khổ là khi ta bị buộc phải rời khỏi chỗ cũ – Immanuel Kant.



    Ở nơi hoa Đào nhuộm sắc hồng khắp không gian có một ngôi đình bằng đá, ngôi đình ấy tên là đình Lan Khả. Đình Lan Khả có hai tầng, tầng trên có thể dùng để ở, còn cất giữ một số cổ tích cờ phổ, tầng dưới được chống đỡ bởi năm trụ cột hình vuông. Trên mỗi trụ cột đều khắc những thế cờ tàn.

    Hai người đang ngồi trong đình đánh cờ, sương giăng la đà xung quanh, màn đêm hoang liêu bủa vây tứ phía.

    Ngồi hướng nam là người đàn ông trung niên có dáng dấp cán bộ địa phương, anh ta là trưởng ban Dương, trưởng ban phát triển quy hoạch thuộc phòng du lịch huyện Vũ Lăng. Anh ta cũng là hội trưởng hiệp hội cờ tướng địa phương, từ nhỏ đã ham mê cờ tướng nên giờ đã trở thành kì thủ hạng nhất cấp quốc gia, trong vòng trăm dặm khó có ai địch nổi anh ta.

    Người ngồi đối diện trưởng ban Dương nói: “Ông phải vô cùng thận trọng với ván cờ này, bởi có lẽ đây là ván cờ quan trọng nhất trong cuộc đời ông!”

    Trưởng ban Dương từ chối: “Tôi không muốn chơi!”

    Người đó ép buộc: “Không được! Đâu phải ông không muốn chơi là có thể không chơi!”

    Trưởng ban Dương dò hỏi: “Thế nếu tôi thắng thì sao?”

    Người đó quả quyết: “Ông không thể thắng nổi tôi!”

    Trưởng ban Dương run rẩy hỏi tiếp: “Thế… nếu tôi thua thì sao?”

    Người đó bình thản nói: “Nếu thua, ông sẽ chết!”

    Trưởng ban Dương toát mồ hôi lạnh, đây là ván cờ phán quyết sinh tử, ông cầm quân đỏ, run lẩy bẩy bày thế pháo đầu, anh ta vô cùng tin tưởng vào kĩ thuật chơi cờ của mình, chẳng ngờ người đó chỉ cần ba nước cờ liền dồn anh ta vào chỗ chết.

    Bước thứ nhất, mã không đi chéo hai ô liền nhau.

    Bước thứ hai, tượng cũng không đi theo đường chéo của hình vuông gồm hai ô cờ.

    Bước thứ ba, đá bay tổt chưa qua sông của nguời đó, trực tiếp ăn luôn con tướng già của trưởng ban Dương…

    Trưởng ban Dương trố mắt hỏi: “Rốt cuộc anh muốn gì.”

    Người đó đáp: “Tôi muốn biến ông thành bù nhìn rơm.”

    Chương 1Đào Hoa Nguyên Ký
    Phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc lên tiếng: “Nào! Chúng ta lại có một vụ án mới.”

    Bao Triển hỏi: “Vụ gì thế?”

    Phó cục trưởng đáp: “Một vụ hung án giết người!”

    Họa Long nhắc: “Sếp này! Tổ chuyên án chỉ nhận vụ lớn thôi đấy nhé!”

    Phó cục trưởng nói một câu khiến tất cả mọi người đều ngậm miệng: “Ngay cả mười vụ giết người điên cuồng và tàn khốc nhất trong lịch sử New York cũng chỉ đáng tầm học sinh tiểu học so với hung thủ này thôi!”

    Tô My cầm hồ sơ vụ án, chăm chú đọc một lát, rồi cô giật mình đánh rơi cả tập tài liệu xuống đất.

    Giáo sư Lương lăn xe đến, nhặt hồ sơ lên. Ông đeo kính lão, lật xem vài trang đầu. Vẻ mặt của vị giáo sư già uyên bác với đôi mắt hiền từ đột nhiên thay đổi hoàn toàn. Ông trở nên vô cùng nghiêm nghị, cất giọng vẫn còn dư chấn của nỗi kinh ngạc: “Nạn nhân bị lột da, bộ da đó được làm bù nhìn rơm”

    Năm 2007, huyện Vũ Lăng xảy ra một vụ án gây chấn động lớn đến dân chúng địa phương và ngành cảnh sát.

    Hôm xảy ra vụ án, sớm mai nơi sơn thôn mịt mùng sương mù, xa xa văng vẳng vọng lại tiếng gõ mõ của người bán đậu phụ rong. Đường núi gập ghềnh khó đi, người bán đậu phụ đặt quang gánh xuống, nghĩ chân giây lát anh ta ghé vào vườn Đào ven đường thả buồn. Khi ấy sương giăng mù mịt, những trái Đào mật trĩu nặng kéo cành cây xuống thành một đường cong tuyệt mỹ, lá cây vẫn còn đọng những giọt nước li ti, một thằng bù nhìn rơm lặng lẽ đứng sừng sững trong vườn Đào.

    Anh bán hàng rong thấy có gì đó là lạ bèn sán lại gần xem. Vừa nhìn kĩ, anh ta tá hoả phát hiện đầu của bù nhìn rơm là đầu người thật, bên trong lớp da được nhét đầy rơm khô…

    Giáo sư Lương kể. “Trong lịch sử phạm tội có hai hung thủ nổi danh với thủ đoạn giết nguời quái đản. Người thứ nhất được truyền thông các nước trên thế giới gọi là “ông tổ của những vụ án giết người hàng loạt xuất thần nhập quỷ – Jack the Ripper[1]”, còn người thứ hai là “Huyền thoại Edward Gein – Kẻ sát nhân hàng loạt.” Phương pháp giết người của tên Jack là cắt cổ họng, còn cách giết người của tên Ed Gein là bắn chết nạn nhân sau đó phanh thây, lột da, chế tạo thành đồ mĩ nghệ, y có một biệt hiệu khiến người ta nghe đã thấy sợ mất mật: Buffalo Bill. Rất nhiều tác phẩm điện ảnh nổi tiếng đều lấy hình tượng của hắn làm nguyên mẫu xây dựng nhân vật sát thủ tàn bạo, như “Sự im lặng của bầy cừu”, “Từ địa ngục[2]”, “Tử thần vùng Texas[3]”.”

    Phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc nói, nếu giới truyền thông biết được thì tên Buffalo Bill của Trung Quốc này cũng đủ làm rung động thế giới.

    Sau khi nhận được điện thoại xin trợ giúp của đội cảnh sát xã Đào Nguyên, ông cũng cảm thấy vô cùng kinh hãi, vụ án này rất nghiêm trọng, có thể nói là vụ án hình sự nguy hiểm vô cùng hiếm gặp từ khi thành lập nước đến nay. Qua điều tra bước đầu, phía cảnh sát đã biết nạn nhân là trưởng ban Dương thuộc phòng du lịch huyện Vũ Lăng. Một mặt cảnh sát địa phương phong tỏa thông tin, để tránh làm nhân dân trong vùng hoảng hốt, mặt khác họ báo cáo sự việc với cấp trên, thỉnh cầu cấp trên cử tổ chuyên án xuống giúp đỡ. Bốn thành viên của tổ chuyên án lập tức khởi hành. Đầu tiên họ đáp máy bay đến tỉnh thành, sau đó mượn xe của công an tỉnh. Tổ chuyên án chỉ nghỉ ngơi trong chốc lát rồi lập tức phóng như bay xuống phòng cảnh sát của công an huyện Vũ Lăng trong tiếng còi cảnh sát rú liên hồi.

    Toà nhà của phòng cảnh sát huyện Vũ Lăng trông vô cùng uy nghi và bề thế, tuy chỉ là tuyến công an cấp huyện nhưng mức độ xa hoa chẳng hề thua kém toà Bạch ốc. Hàng cây xanh rợp bóng dưới sân, đây đó thấp thoáng những vườn hoa nở rộ, cảnh vệ đứng gác trang nghiêm hai bên cổng trông rất uy vũ, ngẩng đầu lên liền nhìn thấy năm chữ vàng sáng lấp lánh trên toà nhà văn phòng – Vì nhân dân phục vụ.

    Trước cổng phòng cảnh sát trông thật nhếch nhác, rác rưởi ngổn ngang khắp nơi. Khung cảnh này hoàn toàn đối lập với hình ảnh toà nhà văn phòng hào nhoáng.

    Bao Triển nhìn đầu mẩu thuốc lá, chai nước khoáng, bánh màn thầu và cả những vết máu vương vãi khắp mặt đất, anh phân tích: “Chắc chắn ở đây vừa xảy ra cuộc biểu tình của quần chúng.”

    Họa Long thắc mắc: “Biểu tình ư? Nếu muốn biểu thì phải đến Uỷ ban nhân dân huyện chứ tại sao lại đến phòng cảnh sát?”

    Giáo sư Lương giải thích: “Chắc chắn họ đã đến Ủy ban nhân dân huyện rồi, nhưng bị công an cưỡng chế giải tán không chỉ vậy mấy người cầm đầu cuộc biểu tình còn bị bắt giữ, những người còn lại liền đổ đến trước cửa phòng cảnh sát ngồi lì ở đó, yêu cầu thả người.”

    Sau khi bước vào toà nhà của phòng cảnh sát, tổ chuyên án thấy không hề có ai ra đón tiếp mình, thái độ của tất cả mọi người ở đây đều lạnh băng, thậm chí họ còn nhìn bốn thành viên của tổ chuyên án với ánh mắt khác thường. Sau khi hỏi thăm, mọi nơi mới biết trưởng phòng cảnh sát đang đi công tác, bí thư huyện ủy cũng đi họp ở một xã ngoài địa bàn. Điều đó khiến tổ chuyên án cảm thấy rất ngạc nhiên, cả toà nhà toát ra không khí thật quái dị.

    Họa Long lầu bầu trách móc: “Chuyện gì vậy nhỉ? Lẽ ra cảnh sát địa phương phải xếp hàng nhiệt liệt đón chúng ta như những vị cứu tinh mới đúng chứ? Nhưng giờ họ biến đâu hết chẳng biết?”

    Một viên cảnh sát thò đầu ra, nhìn thấy bốn thành viên của tổ chuyên án, anh ta liền giả lả mời họ vào văn phòng, rồi tự giới thiệu mình là cán sự tuyên truyền, sau đó lấy ra một xấp tài liệu và bảo: “Xin lỗi! Ngại quá…”

    Giáo sư Lương hỏi: “Chuyện gì vậy?”

    Gã cán sự tuyên truyền trả lời: “Thực ra chỗ chúng tôi không hề xảy ra vụ án lớn nào cả!”

    Họa Long bực mình gằn giọng: “Anh đùa đấy à?”

    Gã cán sự trình bày: “Xin lỗi vì để các đồng chí mất công đến đây, nhưng chẳng biết làm thế nào, đành mời các đồng chí về vậy. Bởi vì đó chỉ là trò đùa ác ý của một số người. Địa phương chúng tôi không hề xảy ra vụ án giết người nào. Đội cảnh sát xã Đào Nguyên báo cáo sai sự thật và đã bị kỉ luật thích đáng rồi. Bù nhìn rơm chỉ là mô hình làm giống con người, đó là trò đùa ác ý của một người dân địa phương mà thôi.”

    Gã cán sự tuyên truyền còn đưa kết quả kiểm chứng bằng giấy tờ và cả bút lục thẩm vấn, cùng kết quả xử lí cho tổ chuyên án xem.

    Tô My cau mày phẫn nộ: “Bảo đến là đến, bảo đi là phải đi à? Tôi ôm bụng đói chẳng kịp ăn hột cơm nào liền vội vàng chạy tới đây, kết quả chỉ là màn kịch đùa ác ý thôi sao?”

    Cán sự tuyên truyền giảng hoà: “Bây giờ phòng cảnh sát huyện Vũ Lăng chúng tôi sẽ hỗ trợ chi phí cho các đồng chí, bao gồm cả vé máy bay và công tác phí…”

    Họa Long đập mạnh mặt bàn và văng một câu chửi tục sau đó bốn thành viên của tổ chuyên án kéo nhau ra khỏi phòng cảnh sát huyện Vũ Lăng. Họa Long khởi động xe, lái đến một ngã tư, gặp đèn đỏ, Bao Triển cắm đầu nhìn hồ sơ vụ án, anh chợt bảo: “Họ nói dối!”

    Bức ảnh chụp hiện trường vụ án trong tập hồ sơ điều tra rất không chuyên nghiệp. Hàng ngày đội cảnh sát xã chỉ xử lý một số vụ án gây mất trật tự trị an thông thường, ví dụ như những hộ sinh đẻ vượt kế hoạch, hòa giải các vụ cãi vã đánh lộn, đôi khi còn phải giúp lão nông tìm con bò đi lạc… nên họ ít có cơ hội tiếp xúc với những vụ án có mức độ nguy hiểm cao, khi chụp bức ảnh này chắc anh cảnh sát xã đội rất sợ hãi, tay run lẩy bẩy, thêm vào đó lúc phát hiện ra tử thi nạn nhân, sương mù vẫn bao phủ dày đặc nên rất khó phân biệt đây là bù nhìn mô hình người hay là bù nhìn bằng da người thật.

    Trên bức ảnh hiển thị một khuôn mặt mờ ảo, bộ da hoàn chỉnh phía dưới, bên trong bộ da nhét rơm khô căng phồng. Bù nhìn không mặc quần áo, chân và tay cũng được kết bằng rơm. Ở vị trí cổ có thể nhìn thấy một vết hằn của dây thừng.

    Bao Triển nghi ngờ hỏi: “Ai thèm treo cổ một bù nhìn rơm mô hình người làm gì?”

    Tô My đáp: “Chắc chắn là người thật chứ không phải mô hình! Có lẽ nạn nhân đã bị treo cổ đến chết, sau đó hung thủ mới hạ xuống thực hiện hành vi man rợ, rồi cắm bù nhìn vào vườn đào.”

    Giáo sư Lương bảo: “Vụ án này có rất nhiều uẩn khúc! Họa Long, chúng ta đến văn phòng của đội cảnh sát xã Đào Nguyên mau!”

    Văn phòng của đội cảnh sát xã Đào Nguyên nằm dưới chân một quả núi, trên núi cây xanh mọc um tùm, khắp nơi toàn là giống đào mật, một dòng sơn khê róc rách chảy qua, hai bên bờ liễu rũ thành hàng, một guồng nước lớn chầm chậm chuyển động. Xa xa non xanh nước biếc, trước mắt phố chợ đông đúc náo nhiệt. Trên chợ, người ta chỉ bán đào, đây là loại đào mật đặc sản của vùng, chỉ bày bán vào đúng dịp trung thu nên thu hút được rất nhiều thương lái bán hoa quả khắp nơi trên mọi miền đất nước đổ về đây mua buôn.

    Tổ chuyên án lái xe xuyên qua phố chợ đến văn phòng của đội cảnh sát xã Đào Nguyên.

    Nhưng thật kì lạ, cánh cửa văn phòng của đội cảnh sát xã đóng im ỉm, không một bóng cảnh sát dân sự nào xuất hiện quanh đó.

    Tổ chuyên án đi lòng vòng quanh phố chợ, định bụng ăn gì đó trước, sau đó đến hiện trường gây án trên núi quan sát xem sao. Hồ sơ ghi chép vụ án cho thấy hiện trường vụ án xảy ra ở vườn quả ven đường đến thôn Đào Hoa thuộc xã Đào Nguyên. Hiện trường vụ giết người đầu tiên là ở một ngôi đình thuộc khu cảnh quan Đào Hoa Nguyên. Mọi người bắt đầu xuống núi, dưới chân núi có một quán ăn được gá sơ sài bằng những cây gỗ. Một ông lão đeo tạp dề đang cúi lom khom rửa bát trong quán. Nồi kho tàu sôi lục bục toả hương thơm phưng phức. Một người đàn ông trẻ hơn đang mài dao, đầu cuốn băng, chắc anh ta vừa mới bị thương. Bốn thành viên của tổ chuyên án bước vào, tìm một chiếc bàn trống ngồi xuống.

    Bao Triển hỏi thăm: “Ông ơi! Cho cháu hỏi đây có phải khu phong cảnh Đào Hoa Nguyên không ạ?”

    Ông lão đáp: “Đúng! Đúng là Đào Hoa Nguyên chó chết đấy!”

    Bao Triển lại hỏi: “Ban ngày ban mặt mà sao không thấy cảnh sát dân sự nào ở văn phòng vậy ông?”

    Ông lão nghiến răng ken két chửi: “Bọn chó! Chúng chết ráo rồi! Chết cả lò chúng nó rồi!”

    Họa Long chen ngang: “Có phải ở xã mình vừa xảy ra một vụ án mạng giết người không ông?”

    Ông lão lập tức cảnh giác hỏi lại: “Các anh là ai?”

    Bao Triển thực thà trả lời: “Chúng cháu cũng là cảnh sát.”

    Ông lão vừa nghe đến hai từ “cảnh sát” thì nổi cơm tam bành, ông đập mạnh chiếc đĩa trong tay xuống đất rồi chỉ tay ra cửa đuổi: “Cút! Cút! Biến ra khỏi đây! Hôm nay đóng cửa rồi! Không bán nữa! Vứt thịt cho chó còn hơn bán cho bọn cảnh sát các người!”

    Nghe đến chữ “cút”, trong đầu Họa Long liền nổi lửa giận phừng phừng. Hai vụ án trước, tổ chuyên án đi đến đâu được người ta chào đón, kính nể đến đó, vậy mà tới đây đầu tiên thì vấp phải thái độ lạnh nhạt của cảnh sát huyện, sau đó thì đội cảnh sát xã đóng cửa không tiếp, giờ lại bị ông lão chủ quán xua đuổi như đuổi tà Họa Long đứng bật dậy, đang định phản ứng lại thì đột nhiên có một đám người với bộ dạng dữ tợn hùng hổ xông vào, vừa đến cửa chúng đã vung tay vung chân đập phá, chúng hất tung nồi lẩu đang đun xình xịch trên bếp lò, lửa trên bếp lập tức bén lên rèm cửa sổ. Người thanh niên đang mài dao trong quán giật mình hốt hoảng, chỉ biết đứng ngây người nhìn bọn chúng. Đám người lao tới tay đấm chân đá người thanh niên. Chẳng mấy chốc, dải băng cuốn quanh đầu anh ta đã thấm đẫm máu tươi.

    Bao Triển và Họa Long còn lơ ngơ chưa hiểu chuyện gì thì ngôi quán được gá bằng những thanh gỗ đã phừng phừng bốc cháy. Cảnh tượng trong quán thật hỗn loạn, hai người vội vàng đẩy xe cho giáo sư và kéo tay Tô My chạy ra khỏi cửa.

    Ông lão nổi gân xanh cuồn cuộn trên cổ, gào to mắng chửi đám người mới đến. Đám người đó nhanh tay khênh người thanh niên ra khỏi quán ăn rực lửa. Vài người dân trong thôn và người qua đường định chung tay dập lửa, nhưng một người đàn ông trung niên bụng phệ chống nạnh cất giọng the thé: “Tôi là chủ tịch xã Ngô! Ai dám dập lửa, người đó sẽ bị bắt nhốt vào ủy ban xã. Ai dám hắt một gáo nước, người đó sẽ bị phạt ba trăm tệ!”

    Ông già tức giận run bần bật, ông vắt kiệt sức thét lớn: “Thằng chủ tịch xã kia! Mày dám đốt nhà tao! Tao liều mạng với mày! Tao phải giết chết mày!”

    Ông chủ tịch xã nhếch mép cười lạnh lùng: “Nhà cao cửa rộng bảo chuyển đi sớm thì không chuyển! Đúng là đồ thân lừa ưa nặng! Nhốt ông ta vào!”

    Chẳng bao lâu sau, ngọn lửa cháy ngút trời cũng lụi dần, ngôi quán chỉ còn trơ lại tường đổ ngói cháy xém đen. Màu đen càng làm nổi bật chữ “Phá” màu trắng được viết trên tường. Tiếng chửi bới của ông lão càng lúc càng xa, dần dần nó biến thành tiếng khóc tức tưởi, cuối cùng chẳng nghe thấy tiếng gì nữa.

    Ở ven đường dưới chân núi có một khối đá lớn, bên trên khắc bốn chữ “Đào Hoa Nguyên Ký”, tiếp đó là câu chuyện kể về vùng đất Đào nguyên này: “Vào triều Thái Nguyên đời Tấn, có một người ở huyện Vũ Lăng làm nghề đánh cá, một hôm bơi thuyền thấy một đóa hoa đào trôi từ khe núi. Người ngư phủ chèo thuyền dọc theo khe núi, đi mãi rồi đến một thôn xóm dân cư đông đúc, người dân ở đó sống an nhàn, thanh bình. Người đánh cá hỏi chuyện mới biết tổ tiên của họ vốn người nước Tần, nhưng do không chịu được chế độ hà khắc của Tần Thủy Hoàng nên bỏ lên sống ở đó, cách biệt hẳn với thế giới bên ngoài. Ở lại mấy ngày, rồi người ngư phủ tạm biệt ra về. Sau một thời gian, ông quay lại tìm chốn đào nguyên mà không thấy…”

    Phương thức cưỡng chế phá dỡ đầy bạo lực này khiến Tô My cảm thấy kinh hãi, đây là lần đầu tiên trong đời cô tận mắt chứng kiến kiểu làm việc dã man như thế Họa Long thở dài, anh đã hiểu vì sao ông chủ quán lại căm hận cảnh sát đến vậy. Bốn thành viên của tổ chuyên án chẳng còn bụng dạ nào ăn uống nữa, họ lái xe lên khu phong cảnh Đào Hoa Nguyên trên núi. Tuy cảnh hai bên đường vô cùng hữu tình nhưng thực sự họ không còn tâm trạng mà thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên. Suốt chặng đường dài chẳng ai nói với ai câu nào, xe dừng lại trước một ngôi đình nhỏ. Trong đình đã có một người ngồi đó tự bao giờ. Người ấy đang chăm chú đọc một cuốn cờ phố.

    Trên vách đình treo miếng gỗ mang phong vị cổ xưa viết ba chữ “Đình Lan Khả”. Có lẽ đây chính là hiện trường gây án được ghi chép trong hồ sơ điều tra, vậy mà cột đình và mặt đất không hề lưu lại vết máu, cũng không có bất cứ biển cấm nào của cảnh sát. Nơi đây trông như chưa từng xảy ra án mạng vậy, nhưng Bao Triển đã ngửi thấy mùi máu tanh trong khắp ngôi đình.

    Tô My đẩy xe lăn của giáo sư Lương vào trong đình và dừng lại trước bàn cờ.

    Giáo sư Lương nói với người đang ngồi trong đình: “Đánh một ván chứ?”

    Người đó mỉm cười đáp: “Được thôi!”

    Giáo sư Lương chọn thế cờ mang tính tấn công cao, thế khai cuộc trung pháo đi pháo từ cột hai sang cột năm.

    Người kia hơi căng thẳng, anh ta định dùng thế Bình phong Mã để phòng ngự, kết quả lại đẩy mã nhảy vào vị trí tử, nhưng cũng ngại không dám đi lại.

    Giáo sư Lương vờ không nhìn thấy, ông chỉ hỏi bâng quơ một câu: “Cho tôi hỏi thăm một người, trưởng ban Dương trên phòng du lịch vừa bị sát hại ấy, cậu có biết không?”

    Người đó bình thản đi một nước cờ, rồi đáp: “Cháu chính là trưởng ban Dương!”

    Chương 2Chốn đào nguyên
    Vầng tịch dương đỏ ối đã lặn về tây, sắc chiều hoang hoải cô liêu, tiếng sáo đâu văng vẳng vọng lại từ cõi xa xăm, nghe vừa thê thiết, não nùng lại vừa nhàn nhạt, man mác tựa màn sương mỏng. Bóng đèn hoa sen lắp gần đình bỗng dưng bật sáng, liền sau đó cả khu cảnh quan trên núi đều bừng sáng. Những đốm sáng lấp lánh trải khắp núi rừng, nom thật tráng lệ. Gió đêm hiu hiu thổi, làn không khí trong lành còn mang theo vị ngọt của trái đào khe khẽ len lỏi vào trong lồng ngực.

    Giáo sư Lương điềm tĩnh nói: “Cậu chết rồi!”

    Người đó kinh ngạc kêu “Hả?” một tiếng, rõ ràng anh ta cảm thấy rất bất ngờ.

    Họa Long cảnh giác theo dõi anh ta, nếu người đó không phải trưởng ban Dương thì anh ta là ai? Chẳng lẽ lại là hung thủ sao? Bao Triển đi đi lại lại trong đình như thể đang quan sát gì đó. Rất hiển nhiên đây chính là hiện trường gây án, chỉ có điều nó đã bị người ta cố ý che đậy và ngụy trang. Nền nhà và các trụ cột đều đã được lau rửa sạch sẽ.

    Giáo sư Lương chỉ tay vào bàn cờ, nói lại: “Cậu chết rồi! Chưa nhận ra sao?”

    Người đó ném quân cờ xuống, thốt lên: “Ối! Đúng thế thật! Cháu thua rồi!”

    Giáo sư Lương bồi tiếp một đòn: “Cậu không phải trưởng ban Dương.”

    Người đó hỏi: “Sao chú biết?”

    Giáo sư Lương đáp: “Trong hồ sơ ghi rõ trưởng ban Dương là kì thủ hạng nhất cấp quốc gia. Kì thủ quốc gia mà chơi dở thế này sao?”

    Người đó thành thật nhận lỗi: “Chú đoán không sai! Cháu chỉ là người giả mạo. Cháu không phải trưởng ban Dương mà là thầy Tần, giáo viên trường tiểu học thôn Đào Hoa.”

    Giáo sư Lương quan sát người đàn ông trung niên đó thật kĩ. Anh ta chừng ngoại tứ tuần, đeo cặp kính cận, trông không giống kẻ nói dối. Muốn giao tiếp thành công thì chân thành là biện pháp hữu hiệu nhất, bởi vậy giáo sư Lương nói thẳng mình là cảnh sát, đồng thời giới thiệu ba thành viên còn lại của tổ chuyên án với thầy Tần. Chẳng ngờ thầy Tần không hề ngạc nhiên, anh ta nói mình đã biết từ trước, anh ta ngồi đây chính để đợi tổ chuyên án đến.

    Tô My ngạc nhiên hỏi: “Sao thầy lại biết chúng tôi?”

    Thầy Tần lấy điện thoại di động trong túi quần ra đưa cho tổ chuyên án, trên đó hiển thị một mẩu tin ngắn: “Phòng cảnh sát huyện Vũ Lăng thông báo: Gần đây có tin đồn nói rằng huyện ta xảy ra một vụ án đặc biệt quan trọng, nhưng sau quá trình điều tra và chứng thực cơ quan công an xác định tin đồn đó hoàn toàn không có thật, những người chịu trách nhiệm có liên quan đã bị xử lí, nếu ai còn tung tin đồn nhảm sẽ bị trừng trị nghiêm minh. Ngoài ra, những công dân tham gia vụ chặn đường đến thôn Đào Hoa xảy ra vào ngày 22 tháng 9 năm 2007 hãy đến cơ quan công an tự thú để được khoan hồng. Sắp đến lễ trung thu, phòng cảnh sát huyện Vũ Lăng chúc bà con đón tết trung thu vui vẻ, vạn sự như ý!”

    Rõ ràng đoạn tin nhắn do phòng cảnh sát địa phương nhắn đi, có lẽ tất cả người dân ở huyện đều nhận được.

    Giáo sư Lương cười lạnh lùng: “Đúng là có tật giật mình, càng cố giấu lại càng thò cái đuôi ra!”

    Bao Triển hỏi: “Vụ chặn đường đến thôn Đào Hoa rốt cuộc là vụ gì thế?”

    Thầy Tần ngước mắt nhìn ánh trăng, anh ta khẽ thở dài trả lời: “Chuyện dài lắm! Đến nhà tôi trước đi, hôm nay vừa đúng là đêm trung thu.”

    Thầy Tần ở trong trường tiểu học thôn Đào Hoa, mọi người lái xe đến đó, đường núi gập ghềnh, nhấp nhô, thấp thoáng phía trên những rặng đào rừng mọc ngập tràn hai bên đường là ánh trăng như dát vàng tròn vành vạnh. Cây đào ở đây rất thấp, chỉ cao hơn đầu người một chút, từng chùm quả nặng trĩu trịt nằm vắt vẻo trên thân cây, kéo cả cành xuống, hồ như chỉ cần giơ tay ra là có thể với tới.

    Đình Lan Khả cách trường tiểu học thôn Đào Hoa không xa lắm, chỉ đi một lát đã tới. Mọi người vừa xuống xe đã nhìn thấy một ngôi trường cũ nát, tường bao xung quanh bị sụt lở mấy chỗ, cánh cửa phòng học chắp vá, cửa sổ được dán bằng giấy báo, trên đó là những mẩu tin đăng tải từ vài năm trước. Giữa sân trường có một gốc đào già trên trăm tuổi, cành lá xum xuê đan cài vào nhau, thân cây to khỏe, thô ráp, trên đó có hai sợi dây thừng buộc một thanh sắt rút ra từ đường ray, khi gõ lên đó sẽ có hiệu quả giống như tiếng chuông vào học. Trên cây kết rất nhiều trái đào mật to tròn, mỡ màng. Đào mật là giống đào rất ngọt và thơm, còn được gọi là đào tiên.

    Thầy Tần mang mấy chiếc bàn học ra kê dưới gốc cây dưới ánh trăng thu, anh bày một bữa tối khá thịnh soạn trên bàn có đầy đủ thịt rượu, các loại hoa quả đủ màu sắc, các loại rau củ có ở vùng thôn quê này. Giáo sư Lương vốn định trả tiền cho thầy Tần nhưng nom lời ăn tiếng nói của thầy không phải hạng phàm phu tục tử nên đành xua ý nghĩ đó đi, tránh để thầy tổn thương lòng tự trọng.

    Thầy Tần giơ ly rượu lên kính: “Mọi người là khách, hôm nay lại là đêm trung thu nên tôi xin uống cạn ly này trước!”

    Giáo sư Lương và Họa Long cũng uống cạn ly. Tô My không biết uống rượu, còn Bao Triển không hiểu sao luôn giữ thái độ cảnh giác với thầy Tần nên anh cũng lấy lý do không biết uống rượu để khước từ.

    Thầy Tần lại nâng ly rượu lên, rồi ngâm một bài thơ:

    Dưới ánh trăng trước gió cắt dây tình

    Mây đen vần vũ vùi hoa xinh

    Rượu say ngã trước đình Lan Khả

    Lên núi Lương Sơn đạp bất bình!

    Giáo sư Lương hỏi: “Thơ cậu viết à?”

    Thầy Tần gật đầu.

    Một con dế ở góc tường chợt kêu rả rích, liền sau đó những con dế khác dưới góc cây cũng cất tiếng kêu theo.

    Theo lời giới thiệu của thầy Tần thì trường tiểu học thôn Đào Hoa rất nhỏ, chỉ có hai thầy giáo, một thầy hiệu trưởng và mấy chục học sinh. Các học sinh đều là con em trong thôn. Ngoài thầy Tần ra thì ở đây còn có một thầy giáo nữa là thầy Đào. Cả hai thầy đều là giáo viên nghĩa vụ, không được trả lương, chỉ có khoản trợ cấp ít ỏi chẳng đủ chi tiêu, nên thường ngày họ phải trồng cây ăn quả để kiếm thêm thu nhập.

    Chúng ta nên ngả mũ kính phục trước tinh thần trồng người của những thầy giáo tình nguyện ở vùng núi nghèo khó này. Những con người vô danh ấy đã cống hiến to lớn cho nền giáo dục của Trung Quốc.

    Sau khi Đào Uyên Minh viết bài kí “Đào Hoa Nguyên”, hàng trăm hàng ngàn năm nay không biết bao nhiêu tao nhân mặc khách từng khảo chứng rốt cuộc chốn đào nguyên thần tiên này ở nơi nào, nhưng cuối cùng vẫn không đưa ra được kết luận. Hiện nay trên cả nước có hơn ba mươi địa phương đang tranh danh hiệu “Đào Hoa Nguyên”, thậm chí ngay cả ở Đài Loan cũng có Đào Hoa Nguyên. Họ đều hi vọng thu được lợi nhuận kinh tế cho địa phương nhờ vào danh hiệu ấy.

    Huyện Vũ Lăng là đơn vị đầu tiên đệ trình lên Liên hợp quốc đề nghị công nhận nơi đây là di sản văn hóa Đào Hoa Nguyên.

    Ủy ban địa phương nỗ lực hết sức để phát triển ngành du lịch, họ đổ nguồn vốn khổng lồ để xây dựng khu cảnh quan Đào Hoa Nguyên. Huyện Vũ Lăng lấy mỹ danh “Thế ngoại đào nguyên” làm chiêu bài phát triển du lịch địa phương, thu hút khách du lịch, cũng như các nhà đầu tư trong và ngoài nước đổ vốn đầu tư khai thác. Cả khu cảnh quan chia ra làm ba giai đoạn xây dựng, tạo dựng nên mấy chục điểm vãn cảnh, ví dụ như đình Lan Khả, động Thái Nhân, đài Hoặc Nhiên, hồ Đào Tiên, sơn trang Hoa Đào, thư viện Hoa Cúc, hành lang trúc chín khúc quanh, hồ Ngũ Liễu, hồ câu cá, bến Mê Tân…

    Phá dỡ và sắp xếp nơi an cư là trọng điểm của giai đoạn xây dựng đầu tiên. Thôn Đào Hoa sắp nằm trong phạm vi tháo dỡ và xây dựng lại. Chính phủ hứa đảm bảo cho người dân rất nhiều điều kiện ưu đãi theo nguyên tắc “lấy nhà trả nhà”. Họ sẽ đền bù cho người dân nơi ở mới ở trong thành phố, không những vậy còn nộp bảo hiểm trọn đời dành cho người già, hỗ trợ tiền thuê phòng. Vậy mà dân địa phương lại nhất quyết không định di dời, không người nào chịu kí tên vào tờ đơn, thậm chí trưởng thôn còn dẫn đầu đoàn biểu tình phản đối chính sách phá dỡ.

    Dân thôn Đào Hoa rất dữ dằn, họ từng đánh chết một kẻ trộm dám lẻn vào thôn ăn trộm bò. Anh của nạn nhân đến nhận xác em về cũng bị họ đánh.

    Khi ủy ban nhân dân huyện lần đầu thực thi chính sách cưỡng chế, người dân còn cầm cuốc xẻng dọa cán bộ bỏ chạy, không những vậy họ còn chặn đường, đánh bị thương nhiều cán bộ. Phía cảnh sát liền bắt trưởng thôn tạm giam lên ủy ban nhân dân huyện, người dân thấy vậy lập tức rủ nhau tập trung tại sân ủy ban kháng nghị, nhưng bị công an ép buộc giải tán.

    Tô My cầm một trái đào, cô vừa ăn vừa hỏi: “Vì sao họ lại từ chối? Chẳng phải điều kiện sống ở thành phố tốt hơn ở đây sao?”

    Thầy Tần hừ lạnh lùng vẻ coi khinh: “Cô cho rằng ai cũng nghĩ giống người thành phố các cô cả sao?”

    Thầy Tần bắt đầu giảng giải cho Tô My như đang phân tích bài kí “Đào Hoa Nguyên” cho học sinh tiểu học: Người xưa có câu: “Hiếp dân loạn kỉ cương, hiền sĩ lánh thế đời”, chốn đào nguyên là nơi kí thác giấc mơ của tất cả người dân Trung Quốc. Nơi đó không có chiến tranh, đàn ông cày cấy đàn bà dệt vải. Nơi đó không có sự huyên náo của chốn phồn hoa đô hội, không có những phiền muộn của thế sự. Vì sao Đào Hoa Nguyên Ký lại nổi tiếng như vậy? Bởi chốn đào nguyên thần tiên ấy là thế giới lí tưởng trong lòng tất cả người dân Trung Quốc.

    Người dân thôn Đào Hoa trồng đào làm kế sinh nhai, tuy họ không giàu có nhưng sống rất hạnh phúc.

    Những người sống ở thành phố luôn luôn cảm thấy lo lắng và bất an. Họ ở trong những tòa nhà bằng bê tông cốt thép khô cứng, lạnh lẽo, sống cạnh nhau bao nhiêu năm mà vẫn không biết hàng xóm ngay bên trái và bên phải mình là ai. Nhà sát vách xảy ra án mạng mà họ vẫn đóng cửa im ỉm, chẳng buồn chạy sang hỏi thăm nhau một câu.

    Cho dù người dân thôn Đào Hoa vào thành phố thì họ vẫn là những người nông dân sống ở thành phố.

    Họ dựa vào núi để kiếm ăn, dựa vào sông để sinh tồn, chuyển vào thành phố đồng nghĩa họ sẽ mất nhân tố đảm bảo cho cuộc sống. Ở thời đại mà ngay cả sinh viên tốt nghiệp đại học cũng khó tìm việc làm như hiện nay, ở nơi mà những người bán rong bày hàng trên phố luôn nơm nớp nỗi lo sợ bị quản lí trị an đuổi đi như thế, thì người dân thôn quê phải làm sao mới thích ứng được với cuộc sống nơi thành đô khắc nghiệt? Họ sẽ làm gì để tồn tại?

    Giáo sư Lương nhìn xung quanh một lát rồi nói: “Đây đúng là nơi ẩn cư tuyệt vời. Vào mùa xuân chắc cảnh sắc đẹp lắm phải không thầy Tần?”

    Thầy Tần không trả lời ngay, anh nhắm mắt mãi mới nói: “Đâu chỉ riêng mùa xuân mà quanh năm bốn mùa đều đẹp đến ngỡ ngàng. Nói ra chắc chú không tin chứ cháu chỉ cần nhắm mắt là có thể nhìn thấy hoa cúc nhuộm vàng hai bên đường, thấy những rặng trúc bên hồ nước, thấy đào mọc khắp núi khắp rừng.”

    Tô My xúc động nói: “Tôi tin là thế!”

    Bao Triển đột ngột chuyển chủ đề: “Tôi đoán bù nhìn rơm da người cắm trong vườn đào không phải để dọa chim mà là để doạ người!”

    Họa Long hỏi: “Rốt cuộc ai đã giết trưởng ban Dương nhỉ?”

    Mặt Thầy Tần biến sắc, thoáng nét hoảng hốt, thầy gật đầu, rồi kể một câu chuyện.

    Trước hôm xảy ra vụ án mạng bù nhìn da người, một nhà đầu tư người Hồng Kông cùng với ông Ngô – chủ tịch xã Đào Nguyên, ông Dương – trưởng ban quy hoạch phòng du lịch và chủ nhiệm đội phá dỡ đi khảo sát cụ thể tiềm năng phát triển ngành du lịch của thôn Đào Hoa. Họ nhất trí rằng tạo dựng tuyến cảnh quan Đào Hoa Nguyên là việc làm có ý nghĩa vô cùng quan trọng để tạo phúc cho đời sau, không những thế còn khiến kinh tế địa phương phát triển nhanh chóng.

    Phóng viên đài truyền hình huyện chĩa máy quay về phía những cán bộ bụng phệ, phía sau họ còn có người đứng che dù, họ chống nạnh, chỉ chỉ trỏ trỏ trông rất oai phong.

    Nhưng đến lúc phát sóng trên bản tin tối thì có một hình ảnh đã bị cắt đi. Đó là khi phóng viên phỏng vấn đám người đang ngồi chưng cất dầu nhựa thông ở ven đường, một người đàn ông đội mũ đeo khẩu trang, mặc quân phục màu xanh lá lọt vào ống kính. Ống kính máy quay hướng vào anh ta, nhưng ánh mắt anh ta lại hướng vào chủ tịch Ngô, trưởng ban Dương và chủ nhiệm đội phá dỡ. Phóng viên hỏi anh ta suy nghĩ thế nào về việc phát triển du lịch tại địa phương, anh ta phá lên cười, rồi nói gọn lỏn: “Ai dỡ nhà tôi, tôi lột da kẻ đó!”

    Giáo sư Lương hỏi: “Sao cậu biết chuyện này?”

    Thầy Tần ngượng ngùng nói: “Lúc đó tôi cũng có mặt tại hiện trường, tôi đứng sau lưng chủ tịch Ngô, cầm ô che cho ông ta.”

    Bao Triển hỏi: “Nguời nấu dầu thông kia là ai?”

    Thầy Tần lắc đầu đáp: “Anh ta bịt khẩu trang và đội mũ nên tôi không nhận ra, nghe giọng thì thấy không giống dân địa phương.”

    Bao Triển lại hỏi: “Thế đêm xảy ra án mạng, anh ở đâu?”

    Thầy Tần cầm một tấm vé tàu và hóa đơn thu phí của bệnh viện đưa cho Bao Triển, rồi giải thích: “Ngôi trường này sắp bị đập đi đến nơi rồi. Thầy Đào là người ngoại tỉnh, hôm ấy tôi lên thành phố tiễn thầy ấy về quê. Lúc về đến huyện đã mười giờ đêm, tôi lại vào bệnh viện ngồi cả đêm vì thầy hiệu trưởng bị thương trong lần đầu tiên cưỡng chế phá dỡ.”

    Họa Long thắc mắc: “Sao anh lại mạo nhận mình là trưởng ban Dương?”

    Thầy Tần đáp: “Bên công an yêu cầu tôi làm vậy!”

    Sau khi huyện Vũ Lăng xảy ra vụ trọng án, nhất thời khiến lòng người bàng hoàng, vì muốn giấu thông tin nên phòng cảnh sát đã nhắn tin cho tất cả dân trong vùng để an ủi họ bớt sợ, nhưng trong lúc đó thì đội cảnh sát xã đã báo cáo tình hình vụ án cho cảnh sát cấp cao nhất. Uỷ ban huyện lo rằng nếu để cấp trên tham gia vào vụ này thì sẽ ảnh hưởng đến tiến trình phá dỡ nên họ đã mở cuộc họp thảo luận, cuối cùng quyết định giấu kín vụ án này đến cùng và đuổi khéo tổ chuyên án đi.

    Ở rất nhiều địa phương, khi xảy ra một sự vụ có số lượng thương vong lớn thì việc đầu tiên chính quyền địa phương làm là giấu nhẹm chân tướng.

    Trước khi tổ chuyên án đến huyện Vũ Lăng, họ đã làm xong một bộ hồ sơ giả và thanh minh rằng đây chỉ là trò đùa ác ý của người dân. Sau khi tổ chuyên án rời khỏi phòng cảnh sát, thì cảnh sát giao thông địa phương liền bí mật bám theo tổ chuyên án. Thấy tổ chuyên án lái xe đến xã Đào Nguyên, họ liền hoảng hốt triệu tập cuộc họp khẩn cấp, có người đề xuất để thầy Tần mạo xưng trưởng ban Dương vì thầy Tần cũng tầm tuổi trưởng ban Dương, hơn nữa trông mặt lại hao hao giống, thậm chí chính quyền địa phương còn thông đồng với gia quyến nhà trưởng ban Dương, đồng thời buộc đội công an xã phải lánh đi. Tóm lại chính quyền địa phương phải vắt óc khổ sở mới nghĩ ra được màn kịch lừa đảo này.

    Giáo sư Lương nhận xét: “Nhưng cậu giả mạo không thành công lắm, có phải chuyện này gây bất lợi cho cậu chăng?”

    Thầy Tần đáp: “Ngày mai ngôi trường này bị đập đi rồi, thôn Đào Hoa cũng vĩnh viễn không còn tồn tại nữa, cá nhân tôi thế nào cũng đâu quan trọng gì!”

    Thầy Tần kể tiếp với tổ chuyên án, sau cuộc cưỡng chế phá dỡ lần đầu thất bại, chính quyền địa phương quyết định sẽ phối hợp với các lực lượng như phòng cảnh sát, trị an thành phố, tổ bảo vệ và công ty xây dựng ngày mai lại đến thôn Đào Hoa cưỡng chế phá dỡ, quy mô lần này rất lớn, không phá được thôn Đào Hoa, họ quyết không buông tay.

    Bốn thành viên của tổ chuyên án đều cảm thấy ngày mai chắc chắn sẽ xảy ra chuyện lớn. Đêm hôm đó họ nghỉ tại trường tiểu học của thôn.

    Canh khuya sâu thẳm, thầy Tần cô độc ngồi thổi tiêu trong vườn trường trống tênh, âm thanh vang lên nghe buồn đến da diết. Sau đó thầy Tần về phòng mình lấy hai chiếc gối đưa cho Tô My và giáo sư Lương ngủ trong xe.

    Họa Long và Bao Triển ngủ trong lớp học. Hai người thao thức mãi, bần thần nhìn dòng chữ viết bằng phấn trắng hiện trên nền bảng đen. Dòng chữ ấy là: “Nơi cần xây dựng nhất chính là trường học!”

    Họa Long kể cho Bao Triển nghe những chuyện trong quá khứ của mình. Anh bảo trước đây có lần anh cùng hai đồng nghiệp bị mắc kẹt trên một hòn đảo hoang, đảo trơ trụi không hề có cây cối, ngay cả ngọn cỏ cũng chẳng có, chỗ nào cũng nhẵn thín. Họa Long dừng lại hỏi Bao Triển: “Chú biết bọn anh làm cách nào để thoát ra khỏi đó không?”

    Bao Triển nghĩ một lát rồi đáp: “Chịu!”

    Họa Long nói: “Chú làm sao mà nghĩ ra nổi! Bọn anh lấy rùa làm thuyền đấy!”

    Bao Triển hỏi: “Ai nghĩ ra cách này?”

    Họa Long đáp: “Một ông anh là lính binh chủng đặc biệt đã giải ngũ nhiều năm và một cảnh sát trưởng thành trong ngành cảnh sát…”

    Bao Triển hỏi thăm: “Thế giờ hai người họ đâu?”

    Họa Long không kể tiếp nữa, anh miên man nghĩ về quá khứ. Mãi hồi sau mới mơ mòng chìm vào giấc ngủ. Họa Long uống khá nhiều rượu nên thấy hơi nhức đầu. Trong mơ, anh thấy ba người cưỡi con thuyền rùa biển dập dềnh trôi theo sóng ra đại dương, một con cá chuồn màu vàng kim nhảy vọt lên rồi rơi tõm xuống nước, biến mất không tăm tích.

    Tờ mờ sáng hôm sau, lúc trời chưa tỏ mặt người, bên ngoài hãy còn nhập nhoạng tối, thì gà trống đã gáy ầm ĩ, tiếng gáy đánh thức Họa Long tỉnh giấc. Anh bước ra sân trường, mắt vẫn lờ đờ ngái ngủ. Bỗng anh mơ hồ nhìn thấy một người treo mình trên cây. Họa Long vội vàng dụi mắt giật thót người, rồi từ từ bước đến gần. Anh kinh hoàng tột độ, tóc gáy tự nhiên dựng cả lên, bất luận thế nào anh cũng không thể tin vào cảnh tượng đang diễn ra trước mắt mình.

    Người bị treo lủng lẳng trên cây không ngờ lại là Bao Triển.

    Chương 3Xác chết trên cây
    Họa Long không biết Bao Triển đã tắt thở chưa, anh cuống quýt chạy tới ôm Bao Triển nâng lên cao cho đây tròng cổ chùng xuống, sau đó thất thanh kêu cứu. Tô My và giáo sư Lương nghe thấy cũng vội vã chạy đến giải cứu Bao Triển.

    Sắc mặt Bao Triển đã xám đen, nhưng sờ ngực vẫn thấy nhịp tim, Tô My không nghĩ nhiều, cô lập tức áp mình cúi xuống giúp Bao Triển làm hô hấp nhân tạo, sau đó hai tay ấn mấy cái vào lồng ngực trái của anh. Bao Triển ho hai tiếng rồi lơ mơ tỉnh lại.

    Họa Long vồn vã hỏi: “Chú Triển, kẻ nào làm chuyện này? Ai đã treo cổ chú lên cây thế!”

    Bao Triển cố gượng dậy nhưng toàn thân mềm nhũn, anh nằm vật xuống đất thở ngắt quãng: “Tự tôi làm đấy!”

    Thì ra khi trời còn chưa sáng, Bao Triển đã tỉnh giấc, anh ra vườn định đi vệ sinh. Nhà vệ sinh chính là một góc hẹp giữa trường nhà và tường rào bao quanh trường – một kiểu nhà vệ sinh lộ thiên. Bó rơm dựng trước cửa nhà vệ sinh khiến Bao Triển nảy ý nghi ngờ. Tối qua, trên đường từ đình Lan Khả về trường tiểu học thôn Đào Hoa, Bao Triển luôn để mắt quan sát, hai bên đường chỉ toàn cây lùn và đồng cỏ, không phát hiện nơi nào có thể dùng để treo cổ nạn nhân. Trường tiểu học thôn Đào Hoa cách đình Lan Khả không xa, trong trường lại có một gốc đào cao to, không những vậy còn xuất hiện bó rơm trước cửa nhà vệ sinh, chính vì vậy Bao Triển nghi ngờ đây chính là nơi hung thủ thực hiện hành vi lột da và chế thành bù nhìn da người.

    Anh đứng dưới gốc đào trong sân trường, ngẩng đầu nhìn thanh sắt dùng làm chuông báo giờ học, anh phát hiện dây thừng treo thanh sắt mới tinh, trong khi thanh sắt đã han gỉ loang lổ, điều đó chứng minh sợi dây thừng mới được thay cách đây không lâu. Bao Triển tháo thanh sắt xuống, nút đầu dây thừng thành hình thòng lọng, rồi gật đầu nghĩ thầm có lẽ ở đây đã từng treo cổ một người.

    Bao Triển ngồi xổm, cúi xuống chẳng khác nào chú chó đang ngửi mặt đất, mặc dù mặt đất đã được dọn rửa nhưng vẫn có thể ngửi thấy mùi máu tanh, anh lại càng thêm khẳng định phỏng đoán của mình là chính xác.

    Rất có khả năng trường tiểu học thôn Đào Hoa là hiện trường, cũng là nơi hoàn thành “tác phẩm” bù nhìn da người!

    Bao Triển lấy chiếc ghế con đặt dưới gốc cây, rồi đứng lên trên, thò đầu chui vào thòng lọng mô phỏng lại tư thế của nạn nhân, từ đó có thể phân tích chiều cao của hung thủ. Có điều anh hoàn toàn không ngờ chiếc ghế mình đang đứng lại là chiếc ghế ba chân, chiếc ghế đột nhiên đổ xuống làm Bao Triển bị treo lủng lẳng trên dây thừng, anh thấy mắt mình tối sầm lại, càng giãy giụa lại càng bất lực, muốn kêu cứu mà không sao bật thành tiếng được, ý thức dần dần trở nên mơ hồ. May mà Họa Long kịp thời phát hiện, nếu chỉ chậm một phút nữa thôi thì Bao Triển đã chầu trời.

    Họa Long đỡ Bao Triển dậy, sương mù vẫn bủa vây dày đặc, trời đã bắt đầu hửng sáng.

    Bỗng ở cổng trường xuất hiện một người cầm rìu đang tiến lại gần, thì ra là thầy Tần, tay thầy cầm một bao tải, bên trong đựng vật gì đó hình tròn.

    Họa Long cảnh giác nhìn chiếc rìu trong tay thầy Tần hỏi: “Thầy Tần… là thầy sao?”

    Thầy Tần đặt bao tải xuống đất, Họa Long lo lắng phỏng đoán liệu trong túi có phải một đầu người chăng? Nhưng thầy Tần lôi trong túi ra một quả bí ngô vàng ruộm vẫn còn đọng hơi sương trên lớp vỏ, rồi lôi tiếp ra mớ rau xanh mỡ màng, anh nói: “Các anh dậy sớm thế! Để tôi đi nấu bữa sáng.”

    Bao Triển nhìn theo bóng lưng thầy Tần nói với Họa Long: “Không phải anh ta, hung thủ là người cao trên mét tám!”

    Thầy Tần nấu nồi cháo bí ngô, bỏ thêm chút mật ong Tô My và giáo sư Lương ăn liền hai bát rất ngon miệng, ở thành phố làm sao có cơ hội ăn những thực phẩm tươi ngon, dân dã như ở thôn quê này!

    Thầy Tần cảm khái nói: “Hai mươi năm rồi! Tôi đã ở đây hai mươi năm rồi! Đây là bữa cơm cuối cùng.”

    Giáo sư Lương nói: “Cậu khoản đãi chúng tôi nhiệt tình thế chúng tôi sẽ cố gắng để ngăn chặn không cho họ phá dỡ ngôi trường này!”

    Thôn Đào Hoa nằm ở mép núi, phía dưới là vực thẳm, ven đường dẫn vào thôn trồng rất nhiều cao lương và ngô, năm cây liễu cao to đứng gác ở đầu thôn. Rìa các bờ ruộng mọc đầy hoa cúc dại, từng đóa hoa vàng khoe sắc rực rỡ, bốn bề sơn thôn đều có núi vây quanh, một dòng thác chảy từ sườn núi xuống hồ phía dưới, hoa sen trong hồ đã tàn hết, con thuyền độc mộc lẻ loi đậu bên bờ hồ, trên bờ là những ngôi nhà dân đều tăm tắp, hàng lối ngay ngắn, vịt gà tụ tập thành từng đàn rủ nhau đi kiếm mồi.

    Đội phá dỡ đã đến, sát khí đằng đằng, hùng hùng hổ hổ tiến vào.

    Chủ tịch xã Đào Nguyên dẫn đầu đoàn, ông ta xắn tay áo vừa đi vừa vỗ phành phạch vào cái bụng bia của mình. Cạnh ông ta là chủ nhiệm đội phá dỡ, cán sự tuyên truyền phòng cảnh sát, phía sau là mấy chục nhân viên mặc đồng phục, đội quân ô hợp này bao gồm rất nhiều thành phần như đơn vị quản lí thành phố, dân phòng, các tổ bảo vệ… Mỗi người mặc một loại đồng phục khác nhau, đúng là vàng thau lẫn lộn! Trong tay họ cầm lá chắn và dùi cui cảnh sát có người còn cầm cả bình cứu hỏa vì sợ người dân tự thiêu để cản trở việc phá dỡ. Phía sau đoàn người là ba chiếc máy ủi, hai chiếc máy xúc và một chiếc xe cứu thương chầm chậm lăn bánh bám theo. Xem ra chính quyền địa phương đã lên kế hoạch rất chu đáo cho lần cưỡng chế phá dỡ này, không đạt mục đích họ sẽ không ngừng tay.

    Bốn thành viên của tổ chuyên án và thầy Tần lặng lẽ đứng ở bức tường rào bị đổ nhìn ra ngoài.

    Đội phá dỡ tiến hành rất thuận lợi, không hề xảy ra đánh nhau, cãi lộn như dự tính nên họ cảm thấy hết sức bất ngờ.

    Chủ tịch Ngô, chủ nhiệm đội phá dỡ và cán sự tuyên truyền dừng chân, cảnh giác nhìn quanh thôn. Trong thôn không một bóng người, không biết người dân đã đi đâu hết.

    Chủ tịch Ngô lẩm bẩm: “Đám dân đen này cũng biết thân biết phận đấy nhỉ! Dám ra đây ngăn chặn thử xem! Người ta nói thế nào nhỉ?”

    Viên cán sự tuyên truyền đỡ lời: “Châu chấu đá voi hay lấy trứng chọi đá ạ?”

    Chủ tịch Ngô cười ha hả gật gù: “Đúng! Đúng! Châu chấu đá voi!”

    Chủ nhiệm đội phá dỡ rút hai điếu thuốc lá mời chủ tịch Ngô và cán sự tuyên truyền. Ba người châm thuốc. Chủ tịch Ngô hất tay ra lệnh: “Gọi máy ủi tới! Phá!”

    Máy ủi xình xịch chạy tới định ủi bay ngôi nhà đầu tiên, ngay cạnh ngôi nhà có một gốc liễu, sương mù dần dần tan hết, lưỡi xẻng của máy xúc lừng lững giơ cao, nhưng vừa hạ xuống giữa chừng thì cánh tay máy đột ngột dừng sững lại, mọi người nhìn rõ giữa những cành liễu rủ có một người đang bị treo trên đó.

    Mặt trời chiếu xuyên qua màn sương, hơi ẩm hoàn toàn biến mất, để lại buổi sáng tinh sương rạng ngời, ánh dương ấm áp.

    Mấy chục nhân viên tháo dỡ ngẩng đầu nhìn, cuối cùng họ đã thấy rõ, nạn nhân bị treo lên cây là một thi thể, không đầu, người đầy máu cổ tay thắt dây thừng. Cỗ tử thi đang nhè nhẹ đung đưa trước gió…

    Cảnh tượng thảm khốc không ai dám nhìn ấy khiến người ta giật thót mình, có người còn định co cẳng chạy, nhưng bị chủ tịch Ngô đanh giọng quát nạt.

    Chủ tịch Ngô cố tỏ ra bình tĩnh trong khi chủ nhiệm đội phá dỡ thì sợ mất mật, cán sự tuyên truyền cũng run lẩy bẩy hỏi: “Thưa anh, có nên báo cảnh sát không?”

    Chủ tịch Ngô đáp: “Kệ! Phá trước đã! Tốc chiến tốc thắng! Phá xong hẵng hay.”

    Đúng lúc ấy có một nhóm người già và trẻ nhỏ trong từ đường ùa ra, đội phá dỡ đành dừng tay.

    Từ đầu đến giờ bốn thành viên tổ chuyên án luôn phía trong tường rào nhìn trộm ra ngoài, Họa Long thắc mắc: “Sao không thấy thanh niên khỏe mạnh trong thôn đâu nhỉ? Toàn người già yếu bệnh thế kia liệu có ngăn cản được đội phá dỡ đang bừng bừng khí thế không?”

    Giáo sư Lương nói: “Cậu đừng vội coi thường trí tuệ của người dân trong thôn.”

    Bao Triển tiếp lời: “Ai cũng biết bên phá dỡ được chuẩn bị chu đáo trước khi đến đây, nên người dân tụ tập trong từ đường ắt cũng phải nghĩ ra đối sách đâu vào đấy rồi mới dám xuất đầu lộ diện chống trả.”

    Nhóm người già và trẻ em đi đến cổng thôn thì đột nhiên quỳ sụp xuống!

    Họ chọn lựa phương thức thô sơ và cổ xưa nhất để bảo vệ gia viên của mình.

    Không gian im phăng phắc, không một ai cất tiếng, chỉ có tiếng gió hiu hiu thổi.

    Một cụ già ăn mặc giản dị, mái đầu bạc phơ quỳ ở hàng đầu tiên, cụ run run giơ đôi tay ra, trong lòng bàn tay là mấy chiếc huy chương chiến công, rồi cụ cất giọng vô cùng bình tĩnh mà chỉ có ở những người già trải qua bao sóng gió cuộc đời: “Anh cả, anh hai và cả chồng tôi đều chết trong cuộc kháng chiến chống Nhật cứu nước. Gia đình tôi là gia đình liệt sĩ, nay tôi đã ngoài tám mươi tuổi rồi, tôi quỳ xuống để xin các ông đừng phá dỡ nhà tôi. Nếu các ông nhất quyết phá dỡ thì trước hết hãy bước qua xác tôi!”

    Những người dân phía sau bà cụ cũng dập đầu theo, cả đội phá dỡ lặng lẽ đứng nhìn, anh thợ lái máy xúc thì thầm với anh thợ lái máy ủi: “Tớ mót tiểu quá! Đi giải quyết tí đây! Còn cậu?”

    Anh thợ lái máy ủi trả lời: “Tớ cũng mót!”

    Nói xong hai cậu thanh niên lương thiện lẳng lặng chuồn đi.

    Chủ tịch Ngô ngoác mồm: “Bà già chết tiệt này! Định giở trò gì đấy hả? Lôi sang một bên cho tôi!”

    Họa Long thấy thế ngứa mắt hỏi: “Này chú Triển, chú đã nghĩ ra cách nào để ngăn chặn bọn họ chưa?”

    Bao Triển đáp: “Chưa! Đang nghĩ!”

    Họa Long gạt đi: “Thôi! Khỏi nghĩ Anh phụ trách hai mươi tên, còn sáu tên nhường phần cho chú, thế nào?”

    Bao Triển hăng hái: “Chắc sẽ bị chúng đánh bầm dập nhưng mặc kệ! Nhào vô!”

    Chủ tịch Ngô hất tay ra hiệu cho mọi người xông lên nhưng những người đứng sau ông ta vẫn án binh bất dộng. Cán sự tuyên truyền và chủ nhiệm đội phá dỡ cũng chần chừ chưa dám hành động. Thấy vậy chủ tịch Ngô liền xắn tay áo, phăm phăm tiến lại gần, nhẫn tâm hất tung những chiếc huy chương trong tay bà lão, rồi hung hăng túm bà cụ lôi đi xềnh xệch… Người dân gào khóc thảm thiết, họ vẫn không thôi dập đầu cầu xin.

    Họa Long không thể kiềm nén được ngọn lửa giận đang cháy phừng phừng trong lòng, anh nhìn xung quanh, trên góc tường gác có một chiếc đòn gánh. Anh cầm đầu đòn gánh rồi nhảy vọt ra khỏi chỗ tường sụt lở. Bao Triển cũng vớ lấy cái xẻng dựng cạnh đó, rồi nối gót theo Họa Long xông vào đám người.

    Họa Long tả xung hữu đột, múa đòn gánh như rồng bay hổ phục, thực không hổ danh là cảnh sát vũ trang. Anh kết hợp kĩ thuật bắn súng với kĩ thuật múa côn, hai đầu đòn gánh còn gắn thêm hai móc sắt khiến cho những đòn tấn công của Họa Long càng phát huy được uy lực mạnh mẽ. Chẳng mấy chốc anh đã hạ gục được mấy tên. Bao Triển theo sau cũng đập xẻng túi bụi vào bất cứ người nào mà anh nhìn thấy. Đội phá dỡ bị hai người họ đánh liền cuống cuồng chống đỡ, một số người cũng biết trả đòn, Họa Long và Bao Triển đứng tựa lưng vào nhau.

    Viên quản lí thành phố vừa hét vang vừa lao tới. Họa Long liền giơ chân đạp với góc độ rất hiểm, trong khi tốc độ lại nhanh như điện giật và sức mạnh vô cùng kinh hồn, viên quản lí thành phố bắn vọt ra xa.

    Một nhân viên bảo vệ giơ tấm chắn đến định thử sức, Họa Long lại tung thêm một cước nữa, tên đó loạng choạng lùi về sau, Họa Long giơ đòn gánh, chạy nhanh tới, chiếc đòn gánh huơ một đường bán nguyệt rồi đập mạnh vào tấm chắn của tên bảo vệ, một tiếng “chát!” vang lên, tấm chắn bằng thiếc liền nứt vỡ, còn tên bảo vệ ngã gục xuống đất.

    Chủ tịch Ngô chỉ tay vào Họa Long và Bao Triển lớn tiếng mắng chửi. Họa Long quẳng đòn gánh, tay không lao về phía ông ta với tốc độ nhanh như pháo bắn. Vừa chạy anh vừa đấm đá liên hồi, không ai có thể đỡ nổi, chẳng mấy chốc đã tới chỗ chủ tịch Ngô. Chủ tịch Ngô vẫn giương oai diễu võ quát nạt: “Mẹ kiếp! Mày định làm gì hả?”

    Họa Long giơ chân trái đá thẳng vào mạng mỡ chủ tịch Ngô. Chủ tịch Ngô đau đớn oằn lưng xuống, Họa Long lại lên gối theo một thế võ Thái quyền, tiếp đó anh bồi thêm một cú đấm khiến chủ tịch Ngô ngã phơi mặt lên trời. Họa Long xuất ba chiêu liên tục chỉ trong tích tắc, mọi người nhìn mà hoa mắt chóng mặt, một số người đang định lao vào tấn công, nhưng sau khi chứng kiến cảnh tượng thê thảm của chủ tịch Ngô thì ai nấy đều bất giác dừng lại.

    Họa Long rút súng, chĩa thẳng vào đầu chủ tịch Ngô.

    Chủ tịch Ngô đang nằm lê lết trên đất, thấy họng súng đen ngòm hướng về phía mình thì tái mét mặt, ông ta khum hai tay vái lạy xin tha mạng.

    Họa Long cười khẩy, bóp cò.

    “Pằng! Pằng! Pằng!” Ba tiếng súng liên hoàn vang lên đinh tai nhức óc, bụi đất bay mịt mù khắp nơi. Mấy phát súng đều lượn quanh đầu chủ tịch Ngô, tạo thành những vòng tròn.

    Chủ tịch Ngô mềm nhũn như sợi bún, người run lẩy bẩy, nhưng không dám nhúc nhích. Quần ông ta ươn ướt, mùi khai thoang thoảng bốc ra.

    Họa Long vẫy tay gọi: “Chú Triển lại đây! Chú xem cái gì mà khai thế nhỉ?”

    Bao Triển bước tới nhìn trước ngó sau, rồi bảo: “Ối chà! Chủ tịch xã của chúng ta sợ quá vãi tè ra quần rồi! Khiếp chết đi được!”

    Họa Long giơ súng lên lần nữa, đám đông đều vô thức lùi về sau, nhưng gã cán sự tuyên truyền lại chạy tới, vừa chạy anh ta vừa la thất thanh: “Xảy ra chuyện lớn rồi! Xảy ra chuyện lớn rồi!”

    Thì ra trong lúc hai bên đang mải hỗn chiến thì gã cán sự tuyên truyền nhận được điện thoại của phòng cảnh sát, họ nói rằng chủ đầu tư dự án phát triển khu du lịch Đào Hoa Nguyên vừa bị sát hại. Nạn nhân cũng bị lột da làm bù nhìn rơm. Lần này bù nhìn da người được cắm ngay trước cổng ủy ban nhân dân huyện, mấy trăm người dân đều tận mắt chứng kiến cảnh tượng này. Lãnh đạo ủy ban nhân dân huyện vô cùng khiếp đảm, họ yêu cầu phòng cảnh sát mời chuyên án đến hỗ trợ phá vụ án này.

    Tô My đẩy xe cho giáo sư Lương. Sau khi nghe gã cán sự tuyên truyền trình bày xong, giáo sư Lương nói: “Muốn tổ chuyên án giúp đỡ thì phía huyện phải đáp ứng cho chúng tôi một điều kiện.”

    Cán sự tuyên truyền hỏi: “Điều kiện gì ạ?”

    Giáo sư Lương đáp: “Ngừng phá dỡ, vì đây là hiện trường gây án!”

    Cán sự tuyên truyền lại hỏi: “Các ông có đảm bảo phá được vụ án này không?”

    Giáo sư Lương trả lời: “Sự thực là hiện giờ hung thủ đang ở quanh đây, thậm chí có thể ngay lúc này y đang nhìn chúng ta.”

    Gã cán sự tuyên truyền giật thột toát mồ hôi lạnh, lén đưa mắt nhìn xung quanh, rồi lo lắng hỏi: “Ở đâu ạ?”

    Giáo sư Lương thản nhiên nói: “Hung thủ có thể là một người, cũng có thể là hai người, hoặc cũng có thể là một đám người!”

    Chương 4Đào xanh rợp bóng
    Hầu như thành phố nào cũng từng xảy ra vụ án đáng sợ kiểu băm xác phanh thây, chỉ có điều người ta không biết mà thôi. Một trong những vụ án lột da người nổi tiếng nhất trên thế giới phải kể đến vụ bá tước phu nhân người Pháp chế tạo cuốn nhật kí làm bằng da người. Bà ta dùng nhật kí đó để ghi chép lại niềm thương nhớ của mình dành cho người chồng quá cố; ngoài ra còn có sát thủ người Tây Ban Nha Jean – Baptiste Grenouille[4] đã giết hại bao nhiêu thiếu nữ để lấy mùi hương tối thượng trên da của họ với tham vọng chế tạo ra loại nước hoa gợi tình vô song cho riêng y.

    Tổ chuyên án đặt văn phòng tại trường tiểu học thôn Đào Hoa.

    Lãnh đạo ủy ban nhân dân huyện và phòng cảnh sát đích thân đến trường tiểu học xin lỗi tổ chuyên án, thành thật thừa nhận bản thân còn nhiều thiếu sót trong xử lý công việc, tư tưởng còn bảo thủ, lạc hậu… Tổ chuyên án đề nghị chính quyền địa phương nên thả những người dân bị tạm giam do tổ chức biểu tình và hòa hoãn mối quan hệ với quần chúng. Như thế sẽ có lợi cho công tác điều tra phá án hơn. Chính quyền địa phương chấp nhận yêu cầu của tổ chuyên án, đồng thời cử đội quân tinh nhuệ nhất từ phòng cảnh sát sẵn sàng hỗ trợ hết mình cho tổ chuyên án.

    Giáo sư Lương lập tức phân công công việc. Tô My dẫn bác sĩ pháp y tiến hành khám nghiệm tử thi. Bao Triển và nhân viên kĩ thuật đi kiểm tra hiện trường gây án. Họa Long đến đài truyền hình huyện lấy cuộn băng quay cảnh trước hôm xảy ra án mạng một ngày. Sau khi tổng hợp tin tức, tổ chuyên án tổ chức cuộc họp công bố một phần kết quả vụ án ngay tại trường tiểu học thôn Đào Hoa.

    Tô My chĩa máy chiếu về phía bảng đen, còn cô ngồi phía sau chầm chậm quay tay quay của máy chiếu, từng bức ảnh được phóng ra từ cuộn băng nhỏ xíu.

    Trên bảng đen lóe lên những cảnh tượng khiếp đảm…

    Giáo sư Lương kêu “Dừng!” rồi ông chỉ vào bức ảnh bù nhìn da người và nói: “Đây là thủ pháp dọa kẻ địch thường thấy trong chiến tranh.”

    Cán sự tuyên truyền lạc giọng hỏi: “Thường thấy ư? Lột da là chuyện bình thường sao?”

    Giáo sư Lương đáp: “Tất nhiên rồi! Bây giờ không thể gọi những kẻ lột da người là hung thủ hay tội phạm, bởi đối với y đây là một trận chiến!”

    Cán sự tuyên truyền gật gù tỏ ý hiểu: “Ồ! Ý của giáo sư là hung thủ có khả năng từng tham gia quân đội sao?”

    Giáo sư Lương phóng to hình ảnh vết thương chí mạng ở yết hầu, ông giải thích: “Theo bước đầu suy đoán thì hung khí có thể gây nên vết thương kiểu này là loại dao găm quân dụng, vì hung khí gây án hội tụ tất cả các đặc điểm của dao găm quân dụng, chỉ cần một nhát cắt vào khí quản, kẻ sát nhân hạ thủ rất tàn nhẫn và máu lạnh, khi lột da y vô cùng bình tĩnh và ung dung, y nhồi rơm vào trong bộ da người. Tố chất tâm lí của tên tội phạm này thật đáng kinh ngạc, rất có khả năng y từng tham gia chiến tranh!”

    Bao Triển báo cáo với giáo sư Lương kết quả kiểm tra hiện trường. Hai nạn nhân bị sát hại là trưởng ban Dương và chủ đầu tư dự án người Hồng Kông, cả hai đều bị giết bởi cùng một hung thủ. Ông chủ người Hồng Kông chết trong căn chung cư cao cấp ở sơn trang Hoa Đào, đó cũng chính là nơi hung thủ tiến hành làm bù nhìn da người. Thi thể không đầu của nạn nhân vẫn nằm trong phòng. Bởi sơn trang vừa mới xây dựng nên vẫn chưa có hệ thống camera, các biện pháp an toàn cũng chưa được lắp đặt đầy đủ, thậm chí cửa sổ còn chưa có lưới chắn bảo vệ. Bao Triển không thu được nhiều manh mối từ hiện trường, trong phòng rơi vãi rất nhiều mảnh vụn của loại sứ Thanh Hoa. Được biết ông chủ người Hồng Kông này có sở thích sưu tầm đồ cổ, có điều không phát hiện thấy dấu vân tay của hung thủ trên các mảnh sứ vỡ, rất có khả năng tên sát nhân đeo găng tay…

    Giáo sư Lương bổ sung: “Còn một khả năng nữa, đó là tên tội phạm ép ông chủ người Hồng Kông kia tự đập vỡ những món đồ cổ mà mình yêu quý, sau đó y mới ra tay sát hại.”

    Bao Triển tiếp tục trình bày: “Căn cứ theo kết quả điều tra của đội cảnh sát xã thì trước khi trưởng ban Dương bị sát hại, ông ta đã ngồi đánh cờ với hung thủ, bức ảnh hiện trường cho thấy khả năng chơi cờ của hung thủ rất bình thường, không hề có đấu pháp nào khả dĩ, nhưng y vẫn thắng được trưởng ban Dương. Điều đó chứng tỏ hung thủ muốn công kích và giày vò tinh thần của nạn nhân.”

    Giáo sư Lương tiếp lời: “Y muốn nạn nhân phải cảm nhận được nỗi đau khi mất đi những gì mình yêu quý nhất. Và đây cũng là nỗi đau của tên tội phạm!”

    Bao Triển tán thành quan điểm của giáo sư Lương: “Đúng vậy! Tội phạm giết trưởng ban Dương ở đình Lan Khả, sau đó kéo về trường tiểu học thôn Đào Hoa treo lên cây, chế thành bù nhìn, rồi trong vườn đào ở ven đường. Y làm như vậy nhằm mục đích dọa đội phá dỡ. Có thể khẳng định vụ án này liên quan đến việc phá dỡ nhà dân của chính quyền địa phương.”

    Gã cán sự tuyên truyền hỏi: “Sau đó sao y lại treo xác của trưởng ban Dương lên cây liễu ở đầu thôn?”

    Giáo sư Lương đáp: “Tôi tin chẳng bao lâu nữa sẽ có câu trả lời cho câu hỏi của cậu.”

    Họa Long cùng giáo sư Lương đi điều tra thực tế trong thôn. Họ nhận được sự tiếp đón rất nồng hậu của người dân, dân chúng mổ gà nấu rượu tranh nhau mời cơm, trong mắt họ Họa Long chẳng khác nào vị anh hùng khi tả xung hữu đột giúp họ cản trở đội phá dỡ. Giáo sư Lương bất giác nhớ đến người Vũ Lăng nọ vô tình lạc bước tới Đào Hoa Nguyên trong tác phẩm “Đào Hoa Nguyên Ký” của Đào Uyên Minh. Khi ấy người dân cũng nhiệt tình khoản đãi anh ta giống hệt như đang khoản đãi Họa Long bây giờ “Người người nhiệt tình mời cơm, nhà nhà đều đem rượu ra tiếp đãi”.

    Trong quá trình đi phỏng vấn thực tế, người dân cho hay họ không hề biết về xác chết treo trên cây, đồng thời còn thanh minh không nhìn thấy nhân vật nào khả nghi ra vào thôn cả.

    Bà lão có mái tóc phơi sương là người thân của nhiều liệt sĩ trong kháng chiến chống Nhật, không những vậy bà còn là người đức cao vọng trọng trong thôn. Bà lão lấy nhựa thông cạo sạch lông trên cái thủ lợn, rồi bỏ thủ lợn vào nồi hầm nhỏ lửa, sau đó mang trà Phổ Nhĩ đã cất giữ hơn hai mươi năm ra mời Họa Long và giáo sư Lương. Trà Phổ Nhĩ được mệnh danh là “đồ cổ có thể uống được”, nó có giá trị sưu tầm rất lớn, càng để lâu thì chất lượng càng được nâng cao, trà Phổ Nhĩ cất giữ năm mươi năm có giá trị bằng một chiếc xe hơi hiệu Honda.

    Bà lão càm ràm kể: “Lão chủ người Hồng Kông kia cứ đòi mua gói trà này của tôi với giá cao, nhưng tôi không bán, vốn là định để dành đến ngày cháu trai lấy vợ mới mang ra dùng, nhưng nay nhà có khách quý đến chơi nên nhất định phải mang ra tiếp đãi.”

    Họa Long uống một ngụm to, nhưng anh chẳng cảm thấy nó có mùi vị gì đặc biệt.

    Giáo sư Lương thưởng thức một ngụm nhỏ, hương trà nồng đượm ngấm vào tận tim phổi.

    Giáo sư Lương hình như rất hứng thú với quá trình chưng cất tinh dầu nhựa thông nên ông không ngừng hỏi thăm bà lão. Bà lão nói loại tinh dầu này do cậu bảo vệ rừng tặng bà, cậu ta thường đi loanh quanh trong thôn mua thuốc nam, thịt thú rừng và rau rừng.

    Giáo sư liền hỏi: “Cậu bảo vệ rừng đó chắc cao to lắm bà nhỉ? Cậu ta có phải là người ngoại tỉnh không ạ?”

    Bà lão đáp: “Đúng vậy! Cậu ta khá đô con, lại từng làm lính nữa, lính cứu hỏa. Cậu ta rất thích uống rượu, mà hễ say là lại chửi bới lung tung.”

    Sau khi trở về văn phòng, giáo sư Lương xem lại cảnh quay mà đài truyền hình thực hiện trước hôm xảy ra án mạng, trên màn hình hiện ra hình ảnh người chưng cất tinh dầu nhựa thông mà thầy Tần từng nhắc đến. Anh ta đội mũ, đeo khẩu trang, mặt hướng vào máy quay và nói dõng dạc: “Ai dỡ nhà tôi, tôi lột da kẻ đó!” Tô My liền đến ban vũ trang huyện lấy hồ sơ của tất cả nhân viên bảo vệ rừng đã xuất ngũ và chuyên ngành, sau đó nhờ lãnh đạo phòng lâm nghiệp nhận dạng, cuối cùng cô xác định người đàn ông đeo khẩu trang, đội mũ lọt vào ống kính máy quay của phóng viên kia chính là nhân viên bảo vệ rừng hiện tại của địa phương.

    Người đàn ông này có rất nhiều điểm khả nghi, đồng thời cũng phù hợp với miêu tả về đặc điểm nhận dạng tội phạm của tổ chuyên án.

    Có thể nói nhân viên bảo vệ rừng chính là thần gác rừng, công việc chủ yếu của họ là phòng tránh cháy rừng, đi tuần quanh rừng, ngoài ra còn đảm nhiệm một số công việc đo đạc, thám trắc, rất nhiều người gác rừng không thể chịu cảm giác cô đơn và buồn chán khi một mình đối diện với rừng sâu nên hàng năm phòng lâm nghiệp đều phải thay người gác rừng, nhân viên vừa mới đến nhận việc là một lính cứu hỏa đã xuất ngũ.

    Tuy trời đã nhá nhem tối nhưng tính chất vụ án quá nghiêm trọng nên không ai dám chậm trễ. Họa Long và người dẫn đường của phòng lâm nghiệp mang theo một đội quan quân vội vàng lên núi bắt nghi phạm về thẩm vấn. Trong rừng có rất nhiều điếm canh, thường ngày người gác rừng sẽ sống trong những điếm canh đó. Trên sườn núi phía sau trường tiểu học thôn Đào Hoa không xa có một điếm canh cũ kĩ được đắp bằng đá và bùn đất. Chẳng mấy chốc cảnh sát đã bao vây ngôi nhà, qua cửa sổ có thể nhìn thấy một đống khoai tây chất ở góc tường, một chai dầu đặt trên bệ cửa sổ, trong nhà không mắc điện, chỉ có ngọn đèn dầu loe lét cháy sáng, bên cạnh còn có một vò rượu trống không, người gác rừng đang nằm ngáy khò khò trên chiếc phản được đắp bằng đất.

    Họa Long đạp cửa xông vào, lúc cảnh sát bắt người gác rừng, thì người đàn ông ngủ sưng mọng mắt nhìn cảnh sát, ngoạc mồm ra chửi: “Chính ông mày làm đấy! Ông mày ở đây đợi chúng bay lâu lắm rồi! Lũ súc sinh chúng bay!”

    Câu chửi không khiến đội cảnh sát có mặt ở đó tức giận, mà ngược lại còn làm họ vô cùng phấn khích, vì nghi phạm không khảo mà tự xưng, xem ra cảnh sát đã bắt đúng hung thủ. Song kết quả thẩm vấn lại khiến mọi người vô cùng thất vọng, người gác rừng không hề phủ nhận về hành động treo xác người lên cây liễu ở đầu thôn, nhưng anh ta thanh minh mình không hề giết người, có điều anh ta cũng không hề giấu giếm ý định mình muốn giết người, không những vậy anh ta còn bày tỏ thái độ kính trọng với kẻ sát nhân.

    Nói theo cách của anh ta thì: “Lấy da người nhồi rơm thành bù nhìn? Quá sáng tạo! Ông đây mà biết ai làm thì sẽ kính người đó một chum rượu mới được!”

    Tổ chuyên án và phòng cảnh sát huyện lần lượt tiến hành thẩm vấn anh ta hai lần, nhưng khẩu cung của người gác rừng trước sau như một xem ra anh ta không hề nói dối.

    Căn cứ theo cách nói của người gác rừng thì anh ta vô cùng chán ghét công việc hiện tại, ba ngày đánh cá thì hai ngày phơi lưới, hôm ấy anh ta lên nhà người thân ở huyện thành chơi vài bữa, buổi sáng lúc trở về điếm canh trên núi, vừa bước vào cửa liền phát hiện trên mặt đất có một tử thi mất đầu, nhờ vào quần áo của nạn nhân anh ta biết đó chính là trưởng ban Dương ở phòng du lịch, xuất phát từ tâm lí muốn xả hận, nhân lúc trời còn tờ mờ sáng, sương vẫn chưa tan hẳn, anh ta treo tử thi lên cây liễu trước cổng thôn Đào Hoa, sau đó trở về điếm canh uống rượu rồi đánh một giấc.

    Giáo sư Lương nói: “Vì sao cậu lại trả lời phóng viên rằng ai đốt nhà cậu, cậu sẽ lột da kẻ đó?”

    Họa Long tiếp lời: “Đúng thế! Anh là người ngoại tỉnh việc phá dỡ đâu liên quan gì đến anh, vì sao anh lại thù ghét họ đến vậy?”

    Tay bị còng của người gác rừng đặt trên đùi, còn tay kia anh ta đập thình thịch vào ngực mình hào sảng đáp: “Ngứa mắt chứ sao! Thấy bất bình không thể khoanh tay đứng nhìn!”

    Sau đó anh ta quay sang Họa Long chất vấn: “Nếu có người muốn dỡ nhà anh, anh không đồng ý nhưng họ vẫn cố tình dỡ thử hỏi anh sẽ làm gì?”

    Họa Long ngớ người không trả lời được.

    Cuộc thẩm vấn kết thúc lúc tám giờ tối, chủ tịch xã bảo thầy Tần mua rất nhiều đồ nhậu về để khoản đãi tổ chuyên án và các cảnh sát, ông ta còn mặt dày chúc rượu Họa Long, thầy Tần cũng ở đó làm bạn rượu, có điều người nào cũng rầu rĩ, các manh mối của vụ án vốn đã mờ mịt nay lại càng rơi vào ngõ cụt.

    Bao Triển luôn nghi ngờ thầy Tần nhưng đêm hôm trưởng ban Dương bị sát hại, thầy Tần lại ở bến tàu trên thành phố, còn hôm chủ đầu tư người Hồng Kông bị hại thì thầy Tần lại ở cùng tổ chuyên án trong trường tiểu học thôn Đào Hoa. Trong cả hai vụ án mạng, thầy Tần đều có chứng cứ ngoại phạm chứng tỏ thầy không có mặt tại hiện trường gây án. Bao Triển đành loại thầy Tần ra khỏi danh sách những kẻ tình nghi. Nhưng không hiểu sao anh luôn cảm thấy có điểm gì đó không ổn mà mãi không lần ra được rốt cuộc không ổn ở điểm nào.

    Bao Triển xin Họa Long một điếu thuốc, anh ra ngoài vườn vừa hút thuốc vừa suy nghĩ.

    Ánh trăng bàng bạc trải khắp không gian mênh mông, mùi hoa mộc thoang thoảng đưa hương, tiếng tiêu đâu đó ở nơi xa văng vẳng vọng đến mang nỗi buồn cô tịch, Tô My đẩy xe lăn cho giáo sư Lương ra vườn.

    Bao Triển nghe thấy tiếng tiêu, đột nhiên nói: “Đây là khúc gì mà sao nghe quen tai thế nhỉ?”

    Tô My đáp: “Đó là khúc Lương Sớn Bá – Chúc Anh Đài!”

    Giáo sư Lương gật đầu nói: “Đúng vậy! Tối qua thầy Tần cũng thổi khúc tiêu này, nghe rất bi thương.”

    Ba người đưa mắt hội ý một lát, Tô My lập tức ra xe cầm hai chiếc gối đầu – tối qua giáo sư Lương và Tô My ngủ trong xe, Thầy Tần đã vào phòng mình mang ra hai chiếc gối cho họ. Tô My lấy cớ mang trả gối xâm nhập phòng kí túc của thầy Tần để âm thầm kiểm tra.

    Cửa phòng thầy Tần không khóa, cánh cửa gỗ vá chằng vá đụp, mưa dập gió vùi đã bao năm.

    Tô My bật đèn, cô lặng lẽ nhìn quanh căn phòng, một lát sau sống mũi cô chợt cay cay, nước mắt ứa ra hàng mi.

    Chương 5Hẹn thề sinh tử
    Hai chiếc giường đơn ghép lại thành một, dưới gầm giường đặt hai đôi dép lê ngay ngắn, trên nóc tủ có hai chiếc cốc, trong cốc là hai chiếc bàn chải đánh răng, hai chiếc bàn làm việc cũ nát y như nhau kê sát gần nhau, ở góc tường căng sợi dây thép, trên dây treo hai chiếc khăn mặt, cạnh đó là hai chiếc tủ cá nhân… Tất cả đều thành đôi thành cặp, tất cả đều giống nhau, cũ kĩ và rách nát.

    Trên vách tường treo bức ảnh đen trắng thời hai người nhập ngũ, nước ảnh đã ố vàng, trong ảnh là thầy Tần và thầy Đào.

    Trực giác của phái nữ khiến Tô My linh cảm thấy hơi thở của tình yêu trong căn phòng này. Cô ý thức hai người đàn ông ấy đã ở trong căn phòng rách nát này hơn hai mươi năm.

    Vừa lúc ấy thầy Tần bước vào.

    Giáo sư Lương liền hỏi: “Thầy Đào hiện giờ ở đâu? Cậu ta vẫn chưa về quê phải không?”

    Bao Triển khuyên giải: “Anh không giết người, anh không cần bao biện hộ anh ta.”

    Họa Long cũng thêm vào: “Hãy nói cho chúng tôi biết! Giờ không phải đang thẩm vấn anh, mà chỉ muốn nói chuyện riêng với anh thôi!”

    Tô My ngập ngừng hỏi: “Hai anh… yêu nhau ư?…”

    Thầy Tần cúi thấp đầu, im lặng cũng là một cách trả lời.

    Thầy gắng nuốt giọt nước mắt mang nặng bao niềm tâm sự chồng chéo, bờ mi khẽ khép lại hồ như đang quay lại những ngày thuộc về quá vãng.

    Thầy Tần thấy một miền quê chợt hiện ra trước mắt, dưới gốc liễu ở cổng làng có mấy đứa trẻ tinh nghịch gõ keng keng vào thùng tôn, một đứa hỏi: “Anh Tần Thiên ơi! Anh đi đâu đấy?”

    Tên đầy đủ của thầy Tần là Tần Thiên. Trước ngực người thanh niên trẻ ấy cài một bông hoa màu đỏ, anh hớn hở đáp: “Anh đi lính! Đi đánh nhau đấy!”

    Năm ấy, anh mười tám tuổi, bắt đầu gia nhập quân ngũ. Từ bộ đội lục quân anh được điều chuyển thành lính dù thuộc sư đoàn không quân. Trong thời gian đó, Tần Thiên đã trải qua hàng trăm ngàn đau khổ. Mảnh đất ấy chắc giờ đã nở rộ muôn ngàn hoa dại.

    Năm l986, anh ăn chiếc bánh bao trong cơn mưa trút như thác đổ.

    Năm l987, anh gặm màn thầu trong gió lạnh thét gào.

    Năm l988, có người đã nhường anh chiếc bánh bao và màn thầu duy nhất của người ấy.

    Người lính dù nào cũng đều biết một câu thế này: Lính dù sinh ra là để bị bao vây!

    Anh luôn mơ ước mình được nhảy vào một cánh đồng bạt ngàn sắc vàng của hoa cải, nhưng lần đầu tiên nhảy dù, thì đêm đông đã ập đến, anh nhảy từ độ cao hai ngàn mét, gió phương Bắc như từng lưỡi dao liếm vào da thịt.

    Khi ấy, tuyết đang vần vũ giữa không trung, ngay bên cạnh người Tần Thiên.

    Đây là lần đầu tiên Tần Thiên nhảy dù vào ban đêm. Lúc xuyên qua màn đêm và nhảy xuống, đám lính dù lúng túng các anh có thói quen hét lớn tên mình, anh nghe thấy một cái tên: Đào Nguyên Lượng. Đến khi đèn báo bật dù sáng lên, anh quăng người xuống, nghe tiếng gió vù vù thổi bên tai, anh rơi vào bóng tối vô cùng vô tận. Có lẽ do ý trời nên anh và anh lính dù có tên là Đào Nguyên Lượng kia bị vướng dây dù vào nhau.

    Vướng dây dù là tình cảnh rất nguy hiểm của lính dù khi đang ở trên không, nếu không kịp thời nghĩ cách giải quyết thì hậu quả thực khôn lường.

    Cậu Đào Nguyên Lượng kia hét lớn: “Cậu cắm vào dù của tớ rồi bay trước đi! Mặc tớ!”

    Tần Thiên mở cán dù, chiếc dù chính lập tức thoát ra ngoài, ngay sau đó anh giật mạnh chiếc dù dự phòng ở trước ngực.

    Lúc ấy độ cao cách mặt đất chưa đến năm trăm mét, Tần Thiên rất lo không biết Đào Nguyên Lượng có kịp hành động gì để tiếp đất an toàn không. May mắn thay, trong tình huống ngàn cân treo sợi tóc, Đào Nguyên Lượng đã kịp thời để dù chính bay đi và bật dù dự phòng.

    Ngặt nỗi vừa chạm chân xuống mặt đất thì cả hai bị một nhóm người lạ mặt bao vây. Tần Thiên bị thương, cả hai bị dồn đến một sơn trang bỏ hoang, quẫn quá không biết làm sao anh và Đào Nguyên Lượng chui vào thùng phuy gần đó trốn ba ngày ba đêm.

    Ăn hết đồ ăn ít ỏi còn sót lại, hai nguời đành ôm bụng đói.

    Trong ba ngày khổ nạn bên nhau, vì không gian chật hẹp nên hai người không thể không ép sát người trong tư thế ôm nhau để vượt thời khắc gian khổ.

    Giữa lúc đầu óc u mê, họ đã nảy sinh mối tình cấm kị.

    Chúng ta không thể biết trong ba ngày duyên nợ đó hai người họ đã làm gì, đã nói gì, nếu không thể gọi đó là tình yêu tội lỗi thì có lẽ nên nói rằng họ đã yêu nhau trong khi chính bản thân không hề nhận ra.

    Ba ngày sau, Đào Nguyên Lượng quên mình phá vòng vây cõng Tần Thiên bị thương thoi thóp thở về bệnh viện.

    Ba năm sau, hai người đều giải ngũ, Tần Thiên trở về quê hương làm thầy giáo tình nguyện, còn Đào Nguyên Lượng mở xưởng sửa xe máy. Mỗi người họ ở một phương, nhưng họ đã viết cho nhau rất nhiều, rất nhiều thư.

    Rốt cuộc phải cần bao nhiêu năm mới mở được cánh cửa trái tim giữa hai người đàn ông?

    Trong những lá thư ấy đã gửi gắm bao nhiêu lời yêu thương ẩn ý, bao nhiêu nội dung khiến người ta rung động trái tim?

    Rốt cuộc phải cần bao nhiêu dũng cảm, phải xuyên qua bao nhiêu tầng mây đen mới đủ khiến một bàn tay dám nắm chặt một bàn tay khác?

    Quê hương người này vang khúc tiêu buồn, còn quê hương người kia nhuộm vàng hoa cúc.

    Hai người họ đều không lấy vợ. Một ngày, học sinh trường tiểu học thôn Đào Hoa bỗng phát hiện thầy Tần đột nhiên vô duyên vô cớ mặc áo đay đội khăn tang, chẳng ai rõ nguyên cớ.

    Trong khi đó, ở một nơi xa, cha mẹ của Đào Nguyên Lượng gặp tai nạn giao thông và qua đời.

    Mấy ngày sau, học sinh trường tiểu học thôn Đào Hoa đón thêm một thầy giáo mới – Thầy Đào.

    Hai người đàn ông ở cùng nhau trong gian phòng thường xuyên bị mưa tạt gió lùa. Họ vá khe hở, đắp lỗ hổng… Cứ thế hai mươi năm đã trôi qua.

    Thầy Đào và thầy Tần cùng trồng đào, cùng nhổ cỏ, cùng ăn cơm, cùng tản bộ trên những triền núi từ khi còn là hai cậu thanh niên cho đến khi trở thành hai người đàn ông trung niên. Trong suốt chặng đường ấy, họ đã chứng kiến biết bao vẻ đẹp hoang sơ của núi rừng này.

    Đây là sơn thôn hoa đào hồng rực một miền.

    Đây là sơn thôn mưa bụi nhẹ bay lây phây.

    Đây là sơn thôn hoa cúc vàng cả góc trời.

    Đây là sơn thôn tuyết trắng khẽ rơi la đà.

    Đây là chốn thần tiên giữa phàm trần, hồ như chỉ trong một đêm, gió xuân đã thắp sáng cả núi rừng bằng mầm non chồi biếc. Hai người cố giữ sự tĩnh lặng trong cõi lòng, hạnh phúc của họ yếu ớt giống như ánh đom đóm lập lòe giữa bãi hoang, lay lắt theo mưa gió và bí mật đến chẳng một ai hay biết. Cuộc đời con người ta tựa dòng nước chảy, hết mùa hoa vàng nở rực rỡ khắp cánh đồng lại đến mùa hoa tím dịu dàng khoe sắc trên triền núi, mùa hoa đỏ bung cánh men theo những thung lũng nhấp nhô… Họ lặng lẽ ngắm nhìn hoa nở rồi hoa tàn…

    Mùa xuân, hoa đào đua nhau hé nụ, trên con thuyền nhỏ đỗ cạnh bờ cũng đầy ắp cánh hoa, họ chở một thuyền hoa ra giữa hồ câu cá.

    Mùa hạ, hồ nước như một khối ngọc thạch xanh thăm thẳm khiến lòng người phải lắng lại, từng đóa sen ngậm sương đung đưa theo gió nom chẳng khác nào đang nhẹ lướt trên mặt hồ, mỗi bước sen đi đều đượm hương thanh mát.

    Mùa thu, đàn chim hoang bay liệng quanh những khóm cúc, rồi chợt vút lên tận trời xanh, hướng về phía cầu vồng, họ cùng nhau xuống chợ bán đào.

    Mùa đông, họ cùng đám học trò đắp người tuyết, cùng dắt chó vào rừng Bạch Hoa ở trên núi để săn thỏ rừng.

    Bao năm qua đi, năm nào hoa đào cũng nở rực cả góc trời, kế hoạch phá dỡ khiến họ buộc phải đưa ra lựa chọn giữa nhẫn và tàn nhẫn. Không có gió, không có bi thương, hoa im lìm trên đồng cỏ tĩnh lặng. Càng chiến đấu những người lính dạn dày càng có tinh thần kháng cự hơn người dân, thầy Đào không thể nhẫn nhịn để họ phá hủy gia viên của mình. Trong khi đó thầy Tần lại nghĩ đến việc tự sát, thậm chí thầy còn chuẩn bị bữa ăn cuối cùng. Ý của thầy Tần thế này: Hai người ăn xong thì cùng chết.

    Thầy Đào lựa chọn phương thức liều mạng đi con đường mạo hiểm.

    Đó là lần đầu tiên trong đời hai người tranh cãi nhau, cuối cùng Thầy Tần đành thỏa hiệp. Thầy Đào vạch kế hoạch giết người, anh ta tạo hiện trường giả như thể mình đã về quê, sau đó nghĩ ra cách liên lạc và báo tin cho nhau bằng tiếng tiêu và tiếng sáo. Những ai từng đi lính đều biết dùng những phương thức đơn giản để truyền đạt tín hiệu an toàn hoặc nguy hiểm.

    Bằng cách ấy, họ nói chuyện với nhau như sau:

    Thầy Tần: Ngày nào tôi cũng thổi tiêu cho cậu nghe, nếu một ngày không thấy tiếng tiêu nghĩa là tôi đã bị bắt.

    Thầy Đào: Tôi sẽ giết trưởng ban Dương trước tiên.

    Thầy Tần: Sao phải giết anh ta?

    Thầy Đào: Ai bảo anh ta giống cậu như đúc.

    Thầy Tần: Sau đó thì sao?

    Thầy Đào: Sau đó sẽ đến lượt tên chủ đầu tư người Hồng Kông, thằng chủ tịch xã Ngô… cho đến khi bọn chúng dừng tay mới thôi.

    Trưởng ban Dương đam mê cờ tướng, đình Lan Khả được xây dựng theo ý tưởng của anh ta. Tối đó, anh ta cùng chủ đầu tư người Hồng Kông và đám chủ tịch xã Ngô ngồi uống rượu ở sơn trang Đào Hoa. Ăn xong, anh ta đi đạo một mình đến đình Lan Khả ở cách đó không xa để nghiên cứu các thế cờ tàn cuộc. Bỗng nhiên có một người bước đến gần nói muốn đánh cờ với anh ta. Trưởng ban Dương nhận ra đó là thầy Đào.

    Anh ta không muốn chơi chút nào. Nhưng anh ta đã nhìn thấy con dao trong tay thầy Đào lóe lên tia hàn quang lạnh lẽo.

    Trưởng ban Dương định co cẳng bỏ chạy, có điều anh ta biết rõ thầy Đào là lính xuất ngũ nên đành liều mạng tiến về phía trước. Ban đầu anh ta cứ nghĩ thầy Đào cũng là người say mê cờ tướng nên mới dùng phương pháp cực đoan này để ép mình phải cọ sát tài nghệ cao thấp, nhưng có chết anh ta cũng không thể ngờ rằng chỉ với ba nước cờ, thầy Đào đã dồn anh ta vào đường chết, sau đó kết liễu luôn mạng anh ta chỉ bằng một nhát dao.

    Cái chết của trưởng ban Dương chưa thể ngăn cản được tiến trình phá dỡ nên thầy Đào tiếp tục sát hại chủ đầu tư người Hồng Kông. Anh ta mang theo một bao to đột nhập vào phòng của chủ đầu tư nọ qua cửa sổ, rồi thanh minh rằng mình có một chiếc đĩa vừa mới khai quật được, chủ đầu tư nọ có sở thích sưu tầm đồ cổ, ông ta đã quá quen với hành vi lén lén lút lút của những kẻ đem bán văn vật, bởi vậy ông ta không hề lấy làm lạ trước sự xuất hiện của thầy Đào.

    Nào ngờ sau khi mở ra thì thấy trong bao chỉ có đống rơm, trong đống rơm là một con dao.

    Đúng lúc ấy thầy Đào nhào đến, một tay bịt miệng chủ đầu tư, một tay kề lưỡi dao vào cổ ông ta, bắt ông ta mở két bảo hiểm. Chủ đầu tư nọ cứ nghĩ kẻ lạ mặt muốn cướp của, nào ngờ thầy Đào lại ép ông ta đập vỡ những văn vật giá trị liên thành của mình.

    Phương thức mà thầy Đào áp dụng để xử lí tử thi không mấy cao minh, anh ta để xác của chủ đầu tư ngay tại phòng, còn thi thể của trưởng ban Dương thì đặt vào gian phòng nhỏ của người gác rừng. Người gác rừng treo thi thể lên cây liễu trước cổng thôn chỉ đơn thuần là hành vi xả giận. Người gác rừng, thầy Đào và những người dân nơi sơn thôn này có cùng một điểm chung: họ vô cùng căm hận việc cưỡng chế phá dỡ một cách bạo lực của chính quyền địa phương. Bởi thế họ dùng các cách thức khác nhau để chống đối lại phương pháp bạo lực đó.

    Thầy Tần bị bắt, cảnh sát phát hiện thấy con dao trong phòng của thầy, qua các giám định kĩ thuật, người ta kết luận con dao ấy hoàn toàn trùng khớp với hung khí giết người. Thông qua camera ở bến tàu, phía cảnh sát cũng chứng thực được thầy Tần đã nói dối, hôm đó thầy Tần không hề đưa thầy Đào ra nhà ga, chỉ có một mình thầy Tần ra nhà ga mà thôi. Thầy Tần làm vậy nhằm ngụy tạo hiện trường giả thầy Đào đã về quê, đồng thời cũng tạo ra chứng cứ ngoại phạm cho bản thân. Sau khi Họa Long còng tay thầy Tần lại, anh vỗ nhẹ lên vai thầy, có lẽ hành vi đó xuất phát từ lòng kính trọng đối với một người lính.

    Thầy Tần chỉ dùng thái độ im lặng để đối mặt với tất cả các câu thẩm vấn, thậm chí thầy còn định tự cắn đứt lưỡi của mình để từ chối trả lời.

    Cảnh sát huyện Vũ Lăng triển khai công tác bao vây và chặn đường để đề phòng nghi phạm Đào Nguyên Lượng tìm đường chạy. Họ lấy trường tiểu học Đào Hoa làm trung tâm, rồi triển khai hành động truy bắt, nhưng những dãy núi nhấp nhô trải dài miên man bốn xung quanh chính là nơi ẩn nấp của thầy Đào, muốn lần theo dấu vết và truy bắt cũng đâu phải chuyện dễ. Hai ngày sau cảnh sát vẫn không phát hiện thấy tung tích của thầy Đào.

    Ngày thứ ba, một người lặng lẽ bước vào văn phòng của đội cảnh sát xã Đào Nguyên.

    Một cảnh sát dân sự hỏi anh ta đến đây có việc gì.

    Người đó đáp: “Tự thú!”

    Cuối cùng vụ án đã khép lại nhờ hung thủ tự ra đầu thú, thầy Đào thừa nhận một mình gây ra mọi tội lỗi, còn thầy Tần không hề hay biết gì về tất cả. Trong khi đó từ đầu chí cuối thầy Tần chẳng hề nói một lời nên phía cảnh sát không thể định tội, đành phải thả thầy Tần ra. Ngày hôm sau tổ chuyên án rời khỏi huyện Vũ Lăng, trên đường đến sân bay ở tỉnh thành, gã cán sự tuyên truyền gọi điện đến thông báo hai việc:

    Việc thứ nhất là thầy Tần đã tự sát, treo cổ trên cây đào già ở trường tiểu học thôn Đào Hoa. Thầy để lại di thư nói rằng hi vọng được chôn cùng một ngôi mộ với thầy Đào.

    Việc thứ hai là tất cả thanh niên trai tráng của thôn Đào Hoa đã ra sức chặt tất cả cây đào xung quanh núi trong mấy ngày liên tiếp, giờ dự án biến thôn Đào Hoa thành khu cảnh quan Đào Hoa Nguyên không thể tiếp tục triển khai vì Đào Hoa Nguyên không còn một cây đào.

    Giáo sư Lương cảm khái: “Hay cho một chốn đào nguyên giữa cõi trần!”

    Họa Long lấy tay gõ đầu ra chiều suy nghĩ: “Sao tôi thấy tên thầy Đào nghe cứ quen tai thế nào ấy nhỉ?”

    Bao Triển nói: “Đào Nguyên Lượng ư?”

    Tô My giải đáp: “Đào Nguyên Minh có tên chữ là Nguyên Lượng, hiệu là Ngũ Liễu tiên sinh…”

    Một chốn đào nguyên không có bóng đào nghe châm biếm biết bao! Cả quả núi trọc lóc, chỉ còn sót lại duy nhất cây đào già ở giữa sân trường tiểu học. Không rõ người dân để lại cây đào ấy vì hàm ý gì? Chẳng lẽ bởi muốn nó chứng kiến mọi niềm đau của chốn nhân gian? Hay bởi muốn nó lặng lẽ cảm nhận nỗi khổ đời đời kiếp kiếp của người nông dân?

    Cũng có thể bởi họ muốn để đôi bướm quấn quýt nhau kia có thể đậu trên cánh hoa hồng thắm mỗi độ xuân về.

    [1] Jack the Ripper: Jack – kẻ phanh thây.

    [2] Phim “Từ địa ngục”: Có tên tiếng Anh là “From Hell” do Albert Hughes và Allen Hughes đạo diễn.

    [3] Phim “Tử thần vùng Texas”: Có tên tiếng Anh là “The Texas Chainsaw Massacre” do Marcus Nispel đạo diễn.

    [4] Jean – Baptiste Grenouille là tên nhân vật sát nhân trong tiểu thuyết “Mùi hương” của nhà văn Đức Patrick Sukind.
     
    Chỉnh sửa cuối: 26/3/17
    Gum, Dung dung, Trandinhanh and 5 others like this.
  6. Nhím Nhím

    Nhím Nhím Member
    • 344/373

    Bài viết:
    41
    Đã được thích:
    422
    Tập 1: BÓNG MA ĐÊM MƯA
    PHẦN 4: NHỮNG CON QUỶ SẮC DỤC​

    Lời dẫn

    “Khi bạn chiến đấu với quái vật hãy cẩn thận đừng để mình biến thành quái vật. Khi bạn chăm chú nhìn vực sâu cũng là lúc vực sâu đang chăm chú nhìn bạn.” – Friedrich Nietzsche.



    Hắn quỳ ở đó, không dám nhúc nhích. Hắn giữ nguyên tư thế ấy hơn mười phút rồi!

    Miệng hắn ngậm một bông hoa. Bông hoa tỏa hương phảng phất giữa bóng tối đầy ám muội của dục tình.

    Chiếc bình hoa này có hơi ấm, có tư tưởng, nhưng không dám nói, không dám động đậy vì chỉ cần mở miệng là năm ngàn tệ kia sẽ bốc hơi theo mây khói. Hãy nhớ rõ năm ngàn tệ đó là của hắn cho ả chứ không phải ả cho hắn.

    Hắn đang đóng giả chiếc bình hoa!

    Chương 1Vụ án cưỡng hiếp
    Dòng sông Hoàng Phố chảy qua thành phố, những quán đèn xanh đèn đỏ sáng nhấp nháy thâu đêm, hàng trăm ngàn bi kịch muôn hình vạn trạng xảy ra hàng ngày trong thành phố phồn hoa và đầy ắp dục vọng này.

    Ngày 28 tháng 10 năm 2007, một cô gái trẻ bị giết hại bị vứt lăn lóc nơi đầu phố, khi ấy là nửa đêm, một gã đàn ông lang thang nhìn thấy cô gái đang nằm có dung mạo xinh đẹp như hoa liền nảy sinh ham muốn, nhưng bị mấy người dân tốt bụng đi đánh mạt chược lúc canh khuya trở về bắt gặp và xua anh ta đi. Đội trực ban dân sự thuộc sở cảnh sát thành phố Phố Giang vừa nhận được điện thoại báo án liền ập đến hiện trường. Họ cảm thấy hết sức bất ngờ khi biết nạn nhân lại là một nữ cảnh sát thuộc sở cảnh sát thành phố Phố Giang, cô ấy chính là đồng nghiệp của họ.

    Cùng đêm đó, mấy hành khách ngôi trên du thuyền ngoạn cảnh sông Hoàng Phố chợt phát hiện có người đang bơi dưới nước. Tiết trời lúc hạ tuần tháng mười đã rất lạnh, nên thấy người bơi dưới sông vào thời điểm ấy quả là chuyện lạ. Sau khi du thuyền tiến sát lại gần, dưới ánh đèn chiếu, mọi người phát hiện đó là một cô gái tóc dài, mái tóc dài mượt mà nhẹ lướt sau lưng, bồng bềnh nổi trên mặt nước, nom đẹp đến thoát tục, thực chẳng khác nào một nàng tiên cá kiều diễm. Nhưng điều khiến người ta thấy kì quái là đôi mắt cô ấy đã nhắm nghiền, chân tay cũng không hề nổi lên mặt nước. Ai nấy đều lạ lùng. Người con gái ấy trôi theo dòng nước chầm chậm hướng về phía du thuyền, khi khoảng cách giữa cô ấy và du thuyền kéo lại sát gần thì người ta mới hoảng hồn phát hiện đó là xác phụ nữ. Qua điều tra ban đầu, phía cảnh sát xác định cô gái đó là nữ cảnh sát làm việc tại phòng thủ tục giấy tờ của Sở cảnh sát thành phố Phố Giang.

    Cùng một ngày hai nữ cảnh sát bị sát hại. Vụ án này gây chấn động giới cảnh sát trong cả nước.

    Nhận được lời thỉnh cầu xin hỗ trợ của đội cảnh sát hình sự Sở cảnh sát thành phố Phố Giang, tổ chuyên án lập tức lên đường. Trong phòng tiếp dân của đội cảnh sát hình sự, gia đình nạn nhân òa lên khóc nức nở, lãnh đạo ra sức vỗ về an ủi, ồn ào hồi lâu cuối cùng họ cũng chịu đi về.

    Đội trưởng đội cảnh sát hình sự báo cáo với tổ chuyên án hai nạn nhân đều là nhân viên mới được phân bổ về sở trong năm nay. Nữ cảnh sát chết trên phố tên là Lê Uyển Đình, còn nữ cảnh sát bị vứt xác xuống sông tên là Tôn Khởi Nhược. Cả hai đều là những cô gái trẻ đẹp và thời thượng, họ phụ trách công việc giấy tờ trong sở cảnh sát như thụ lí báo mất chứng minh nhân dân, thay đổi hộ khẩu v.v… Lê Uyển Đình và Tôn Khởi Nhược là bạn học, cùng tốt nghiệp trường Cảnh sát Nhân dân. Thường ngày hai cô lúc nào cũng bám nhau như sam, thậm chí còn thuê căn hộ ba phòng ngủ một phòng khách ở khu đô thị Nhã Viên để ở chung. Kết quả khám nghiệm tử thi cho thấy cả hai nữ cảnh sát đều tử vong do bị bóp cổ đến ngạt thở, phần hông có dấu vết thâm tím như thể từng bị đánh trước khi chết. Hai nạn nhân một người bị vứt trên đường phố, còn một người bị quẳng xuống sông nhưng có một điểm chung là họ đều ăn mặc thiếu vải.

    Tô My đặt nghi vấn: “Lẽ nào lại là một vụ đồng tình luyến ái sao?”

    Giáo sư Lương lắc đầu: “Chắc không đơn giản thế đâu!”

    Đội trưởng đội cảnh sát hình sự nói: “Các đồng chí hãy xem vật này! Chúng tôi thấy nó ở chân Khởi Nhược.”

    Đội trưởng đội cảnh sát hình sự lấy ra một túi đựng vật chứng trong suốt, bên trong là chiếc quần lót gắn đồ chơi người lớn, Bao Triển quan sát một lát rồi ngại ngùng nói: “Lần đầu tiên tôi nhìn thấy vật này đấy!”

    Đó là vật chứng duy nhất tính đến thời điểm hiện tại Giáo sư Lương yêu cầu đội trưởng đội cảnh sát giới thiệu tỉ mỉ hơn.

    Đội trưởng đội sự cảnh sát hình nói: “Nơi sản xuất loại sextoy này thường ở miền nam, trong thành phố ta xuất hiện khá nhiều cửa hàng bán đồ chơi người lớn, thậm chí khách hàng còn có thể đặt mua qua mạng. Đối tượng thích hợp sử dụng loại đồ chơi tình dục này là nam giới hoặc nữ giới muốn, cặp đôi đồng tính nữ và cả những nam giới yếu sinh lý…”

    Giáo sư Lương gật đầu, xem ra cảnh sát địa phương đã điều tra khá kĩ lưỡng, thái độ làm việc cũng rất nghiêm túc.

    Đội trưởng đội cảnh sát hình sự nói: “Ban đầu chúng tôi nhận định đây là vụ án cưỡng hiếp rồi giết người, nhưng cơ thể hai người họ không phát hiện thấy các dấu hiệu bị xâm hại tình dục… Ngoài ra bác sĩ pháp khám nghiệm và cho biết Khởi Nhược là trinh nữ, mọi thứ vẫn còn nguyên vẹn.”

    Giáo sư Lương nói: “Tôi cho rằng định hình vụ án này là vụ án cưỡng hiếp giết người hoàn toàn chính xác, chỉ có điều chúng ta chưa biết thủ phạm mà thôi.”

    Căn cứ vào những manh mối hiện có, cảnh sát địa phương không thể xác định được hiện trường gây án; lai lịch, thân thế và các mối quan hệ của nạn nhân không có điểm nào khả nghi. Thứ sáu ngày 26 tháng l0, hai nữ cảnh sát tan sở, đến nửa đêm ngày chủ nhật thì phát hiện thi thể của họ.

    Rốt cuộc trong hai ngày nghỉ cuối tuần đó đã xảy ra chuyện gì? Phía cảnh sát kiểm tra nhật kí điện thoại trong hai ngày cuối tuần của hai nạn nhân, không có nhiều cuộc gọi đến và gọi đi, trong đó đội trưởng đội cảnh sát hình sự nhắn một tin cho Lê Uyển Đình hẹn cô ra uống cà phê, đồng nghiệp trong sở cảnh sát đều biết hai người họ có mối quan hệ bất thường, Lê Uyển Đình trả lời rằng mình không rảnh. Thái độ của cô đối với đội trưởng đội cảnh sát rất lạnh lùng.

    Đội trưởng đội cảnh sát khai thật với tổ chuyên án rằng mình có thiện cảm với Lê Uyển Đình nhưng chỉ dừng lại ở mức độ quan hệ đồng nghiệp mà thôi.

    Trước khi tổ chuyên án đến đây, cảnh sát thành phố Phố Giang đã tiến hành điều tra nơi ở của hai nạn nhân. Lê Uyển Đình và Tô Khởi Nhược cùng thuê một căn hộ khép kín ở khu chung cư Nhã Viên, ngay gần sông Hoàng Phố, nhà ở tầng năm, đối diện là căn hộ của chủ nhà. Căn cứ vào lời kể của chủ nhà thì tối thứ sáu hai cô gái đã cãi nhau, ông ta còn nghe thấy tiếng đồ vật vỡ loảng xoảng. Phía cảnh sát phát hiện lọ kem dưỡng da bị đập vỡ nằm lăn lóc trên sàn phòng khách, bàn để máy tính trong phòng của Tôn Khởi Nhược có dấu tích bị di chuyển, trên ghế sô pha trong phòng Lê Uyển Đình có mấy đôi tất giấy với nhiều màu sắc khác nhau, cánh tủ quần áo hé mở, ngoại trừ quần áo ra, bên trong còn có rất nhiều tất giấy.

    Đội trưởng đội cảnh sát hình sự đưa cho tổ chuyên án xem mấy bức ảnh chụp hiện trường, qua ảnh có thể thấy nơi ở của hai nữ cảnh sát khá sạch sẽ, thông thoáng, hiện đại và trang nhã, một vài đồ trang trí dễ thương cho thấy cuộc sống của hai cô gái khá phong vị.

    Giáo sư Lương cầm một bức ảnh rồi hỏi: “Có bị mất mát tài sản gì không?”

    Đội trưởng đội cảnh sát hình sự nói: “Hiện tại chưa phát hiện thấy dấu tích đột nhập trộm cắp.”

    Tô My quan sát kĩ bức ảnh, cô nhận xét: “Đây đều là loại tất giấy cao cấp, không phải hàng chợ rẻ tiền”

    Bao Triển nói: “Có lẽ chúng ta nên đến nhà của họ thì hơn.”

    Giáo sư Lương gật đầu tán thành: “Không chỉ cần phát hiện căn phòng bị mất vật mà quan trọng hơn phải phát hiện được căn phòng thêm vật gì.”

    Đội trưởng đội cảnh sát hình sự và tổ chuyên án cùng đến khu chung cư Nhã Viên. Đây không phải khu chung cư cao cấp, nó chỉ thuộc loại căn hộ kinh tế, có điều hệ thống quản lý bảo vệ rất quy phạm, xe ra vào khu chung cư đều phải quẹt thẻ, nếu không có thẻ thì buộc phải đăng kí, buổi tối còn có bảo vệ đi tuần.

    Trên cánh cửa chống trộm nơi hai nữ cảnh sát ở dán tờ niêm phong của cảnh sát, đội trưởng đội cảnh sát hình sự lấy chìa khóa mở cửa, mọi người lần lượt bước vào. Trên sàn nhà có dấu tích cảnh sát để lại khi lần trước đến lấy vật chứng. Bao Triển đột nhiên hỏi: “Đâu ra bộ chìa khóa này vậy?”

    Đội trưởng đội cảnh sát hình sự giải thích: “Chủ nhà đưa cho tôi. Phòng đối diện là căn hộ của chủ nhà.”

    Không phát hiện thấy điều gì khác thường, đội trưởng đội cảnh sát hình sự báo cáo với tổ chuyên án cảnh sát đã tiến hành kiểm nghiệm với ánh sáng Luminol nhưng không phát hiện vết máu trong phòng.

    Luminol là chất hóa học linh hoạt có thể phát quang với ánh sáng xanh nổi bật khi trộn với tác nhân oxy hóa thích hợp. Đây là tinh thể rắn màu trắng ngà có thể hòa tan trong dung môi hữu cơ, nhưng không tan trong nước. Luminol thường được các bác sĩ pháp y sử dụng để phát hiện vết máu tại địa điểm phạm tội vì nó phản ứng với sắt trong hemoglobin. Nói một cách đơn giản thì chỉ cần tại hiện trường gây án có bất kì vật thể nào dính máu hoặc bị máu bắn lên, bất kể sau đó đã làm sạch chúng bằng mọi cách, bất kể trải qua bao lâu thời gian nhưng chỉ cần phun Luminol lên và quan sát dưới điều kiện thiếu ánh sáng thì nơi dính vết máu trước đây sẽ phản ứng với Luminol mà ánh lên ánh sáng màu xanh tím.

    Giáo sư Lương nói: “Đương nhiên là không thể tìm thấy vết máu trong căn phòng này vì hai nạn nhân bị bóp cổ đến chết. Cảnh sát có xét nghiệm móng tay của họ không?”

    Đội trưởng đội cảnh sát đáp: “Tôi đã xem đi xem lại kết quả khám nghiệm của bác sỹ pháp y bao nhiêu lần, nhưng vẫn không tìm ra manh mối gì.”

    Giáo sư Lương phỏng đoán: “Khi bị siết cổ nạn nhân thường giãy giụa kịch liệt, tìm mọi cách để nắm lấy hung thủ, nên trong móng tay thường tồn tại các tổ chức tế bào da của hung thủ. Nếu không phát hiện thấy gì trong móng tay chứng tỏ rất có khả năng hung thủ đã trói hai tay của họ rồi!”

    Đội trưởng đội cảnh sát hình sự kể. “Tối qua, cảnh sát thành phố Phổ Giang không phát hiện thấy manh mối nào có giá trị trong số vật chứng ban đầu thu được. Chúng tôi bận rộn cả ngày trời mà hoài công vô ích. Hai chiếc máy tính xách tay trên bàn đã được cảnh sát mang về văn phòng của đội cảnh sát hình sự, số tất trên ghế sô pha cũng được mang đi làm xét nghiệm kĩ thuật trên sở. Sau khi thông qua công tác kiểm tra chi tiết hậu kì chắc sẽ phát hiện ra manh mối nào đó có thể phá được vụ án này.”

    Bao Triển đeo găng tay kiểm tra kĩ lưỡng từng ngóc ngách trong căn phòng, bao gồm cả trần nhà, nước trong toilet và tất cả nhưng nơi dễ bị bỏ qua. Anh quỳ xuống trước bồn cầu, cẩn thận gắp cọng tóc xoăn trong thành bồn cầu bỏ vào túi đựng vật chứng, sau đó lấy tăm bông thấm nước trong bồn cầu, rồi cho vào một túi đựng vật chứng khác.

    Trong vụ án giết người liên hoàn xảy ra tại Gunpo, Hàn Quốc, cảnh sát có thể nhận diện ra hung thủ nhờ vào hạt táo vứt ở thùng rác.

    Trong vụ án nhiều lần bắn súng đột nhập xảy ra tại Tokyo, Nhật Bản, từ huyết dịch lấy trong con muỗi chết tại hiện trường, cảnh sát đã xác định được lai lịch của hung thủ.

    Chỉ khi cảnh sát vô cùng tỉ mi và tinh tường trong việc thực hiện công tác điều tra lấy vật chứng thì mới có thể phát hiện ra những manh mối nhỏ nhất, dễ bị bỏ sót nhất, nhiều khi chính những manh mối ấy lại trở thành điểm đột phá.

    Bàn máy tính trong phòng của Tôn Khởi Nhược từng bị xê dịch. Bao Triển lấy kính lúp tẩn mẩn quan sát phía sau chiếc bàn nhưng không tìm thấy dấu vết nào khả nghi. Nhưng ngay sau đó nửa cốc nước trên bàn đã thu hút sự chú ý của Bao Triển. Anh ngây người đứng nhìn, một lát sau mới kêu lớn: “Mọi người mau lại đây!”

    Mọi người liền đổ xô đến, nhưng chẳng ai nhìn thấy điểm khác thường trong cốc nước còn phân nửa đó.

    Họa Long hỏi: “Chuyện gì thế chú Triển?”

    Bao Triển nói: “Đáng lẽ chiếc cốc này phải là chiếc cốc trống không mới phải!”

    Tô My rùng mình: “Ý của anh là… Nghe khiếp quá!”

    Giáo sư Lương đáp thay: “Có người, rất có khả năng chính là hung thủ đã vào căn phòng này vào tối qua!”

    Đội trưởng đội cảnh sát hình sự ngẫm một lát rồi gõ vào đầu mình, anh ta cầm bức ảnh chụp phòng nạn nhân vào tối qua, trong bức ảnh thể hiện rõ trên chiếc bàn máy tính đặt chiếc cốc không hề có nước. Vậy mà giờ đây chiếc cốc ấy lại có nước, điều đó chứng minh sau khi cảnh sát vào nhà nạn nhân kiểm tra thì có người đã âm thầm lẻn vào đây, không những vậy kẻ đó còn rót nửa cốc nước. Trong rất nhiều vụ án, hung thủ thường quay trở lại hiện trường gây án.

    Chương 2Kẻ dọa ma
    Cửa phòng không có vết tích bị nạy phá, cửa sổ và ban công đều được lắp đặt lưới chống trộm, có lẽ kẻ đột nhập đã dùng chìa khóa mở cửa để vào phòng.

    Bốn thành viên tổ chuyên án lập tức quay sang nhìn chằm chằm vào đội trưởng đội cảnh sát hình sự, ánh mắt đội trưởng vội lảng tránh sang nơi khác, một tia hoảng hốt thoáng sượt qua.

    Họa Long hỏi: “Làm sao chúng ta vào được đây nhỉ? Ai cầm chìa khóa?”

    Đội trưởng đội cảnh sát hình sự lúng túng đáp: “Tôi… tôi chưa từng đến đây.”

    Bao Triển nói: “Chỉ cần làm một thực nghiệm nhỏ là có thể chứng minh được sự trong sạch của đồng chí… Hi vọng đồng chí hợp tác với chúng tôi!”

    Bao Triển lấy máy quét vân tay xách tay trong vali chuyên dụng ra. Khi cảnh sát tiến hành xét nghiệm hiện trường, đa số họ đều sử dụng máy phun sương để lấy dấu vân tay, trên dấu vân tay rắc những loại bột cực mịn như bột nhôm hoặc bột Titani dioxide, sau đó lấy bàn chải nhỏ chải đều, ta thường thấy hình ảnh ấy ở trên ti vi, những bề mặt gồ ghề thô ráp như gạch đá thường sử dụng cách phun sương hóa học để lấy dấu vân tay, thông thường trong chất phun sương hàm chứa Iodine pentafluoride hoặc Ruthenium tetroxide.

    Kĩ thuật quét vân tay là thành tựu khoa học kĩ thuật mới xuất hiện mấy năm gần đây, các chiến sĩ đặc vụ ẩn mình nơi chiến tuyến và cảnh vệ trung ương đều có máy quét vân tay mini, khi họ bắt tay với người lạ cũng là lúc họ lấy được dấu vân tay của đối phương, chỉ cần vài phút là có thể kết nối với tổng kho dữ liệu dấu vân tay, từ đó phán đoán được lai lịch của đối phương.

    Đầu tiên Bao Triển lấy dấu vân tay trên cốc, sau đó tiến hành đối chiếu với dấu vân tay của đội trưởng đội cảnh sát hình sự, cả quá trình đều được Tô My chụp hình và ghi chép lại cẩn thận. Đội trưởng đội cảnh sát rất trấn tĩnh, kết quả đối chiếu cho thấy dấu vân tay trên cốc không phải của đội trưởng đội cảnh sát hình sự mà là của người khác.

    Bao Triển tỏ ý xin lỗi, đội trưởng đội cảnh sát hình sự nói rằng mình hiểu vì sao tổ chuyên án phải làm vậy.

    Bao Triển lại lấy tăm bông, lấy mẫu nước trong cốc.

    Giáo sư Lương nói: “Có thể chủ nhà còn có một bộ chìa khóa nữa.”

    Tổ chuyên án và đội trưởng đội cảnh sát hình sự gõ cửa căn phòng đối diện của chủ nhà.

    Cánh cửa bật mở, chủ nhà là người đàn ông đã khá cao tuổi trông có vẻ dung tục, bủn xỉn, đầu hói, tầm ngoại ngũ tuần, lúc nói chuyện ông ta thường lén đánh mắt liếc trộm Tô My xinh đẹp. Ông chủ nhà khai vợ đã mất, con trai mười bốn tuổi đang đi học chưa về. Đội trưởng đội cảnh sát hình sự đi thẳng vào vấn đề, anh ta hỏi ông chủ nhà xem ông ta có đánh thêm một bộ chìa khóa nữa của căn hộ đối diện hay không? Chủ nhà nói còn một bộ nữa, trước khi hai nữ cảnh sát chuyển đến, căn hộ này còn cho một nhóm bán hàng đa cấp thuê ở. Sau đó nhóm này bị công an và sở công thương cấm chỉ nên khi ấy đánh thừa ra mấy bộ chìa khóa.

    Chủ nhà lầu bầu trách móc: “Tiền thuê nhà của hai cô ấy còn thiếu tôi một tháng nữa đấy! Không biết các cơ quan chức năng có thể giúp tôi hoàn tiền phòng không?”

    Giáo sư Lương hỏi: “Đêm qua ông có sang căn phòng đối diện không?”

    Chủ nhà trợn mắt đáp: “Sao tôi có thể làm chuyện đó được?”

    Bao Triển gạn hỏi: “Chuyện đó mà bác nói là chuyện gì thế?”

    Chủ nhà lấy một chùm chìa khóa trong ngăn tủ phía dưới tivi đưa cho đội trưởng đội cảnh sát rồi lầm bầm: “Tôi chẳng làm gì cả! Tôi hoàn toàn vô can!”

    Bao Triển chộp lấy câu trả lời của chủ nhà hỏi luôn: “Bác bảo không làm gì nghĩa là không làm chuyện gì?”

    Chủ nhà tức giận, ông ta cao giọng hỏi: “Trông tôi giống người xấu lắm sao mà các người xông vào đây thẩm vấn tôi? Ai chẳng biết hai cô sống ở căn hộ đối diện nhà tôi bị người ta sát hại, ngay mấy anh bảo vệ dưới kia cũng biết chuyện, thế mà các người lại dám nghi ngờ tôi, năm nay tôi năm mươi mốt tuổi rồi, tiền thuê phòng họ còn chưa trả đủ cho tôi đây này, lại còn cả tiền điện và phí quản lý, các anh phải thay họ trả cho tôi. Sao tôi đen đủi thế không biết?”

    Đúng lúc ấy, con trai của chủ nhà tan học về đến nhà, đó là cậu thiếu niên với sắc mặt xanh xao, mặc đồng phục học sinh, nom vẻ mặt ủ rũ mệt mỏi.

    Giáo sư Lương chỉ tay vào đội trưởng đội cảnh sát và nói với chủ nhà: “Chuyện tiền thuê phòng giải quyết rất đơn giản, vị này là lãnh đạo của hai cô kia, ngày mai ông cứ việc lên sở cảnh sát thành phố mà đòi tiền phòng, vị này nhất định sẽ trả cho ông, có điều bây giờ chúng tôi cần lấy dấu vân tay của ông, hi vọng ông hợp tác với chúng tôi.”

    Chủ nhà lập tức đồng ý Bao Triển lấy máy quét ra quét dấu vân tay của chủ nhà. Giáo sư Lương lại hắng giọng ra hiệu, rồi đánh mắt sang con trai của chủ nhà. Bao Triển hiểu ý, anh liền đến lấy cả dấu vân tay của cậu bé. Cậu thiếu niên mới học cấp hai với khuôn mặt trắng xanh im ỉm không nói gì, nhưng có vẻ không mấy tình nguyện.

    Tổ chuyên án trở về căn hộ của hai nữ cảnh sát và lập tức tiến hành đối chiếu dấu vân tay, nhưng kết quả làm mọi người vô cùng thất vọng, dấu vân tay trên cốc không phải của chủ nhà cũng không phải của con trai chủ nhà.

    Kết quả ấy khiến mọi người cảm thấy hơi hoang mang, không biết ai còn có chìa khóa dự phòng để vào được căn phòng này nhỉ?

    Tổ chuyên án quyết định xuống phòng lắp camera của khu chung cư để quan sát thêm. Khu chung cư này có sáu tầng lại không có thang máy nên Họa Long phải cõng giáo sư Lương còn Bao Triển vác xe lăn xuống tầng. Mấy bà mấy thím trong khu nhìn thấy họ liền thì thầm bàn tán gì đó với nhau, thấy Bao Triển và đội trưởng đội cảnh sát hình sự đều mặc cảnh phục, mấy bà mấy cô liền bạo dạn tiến lại gần, họ phản ánh một chuyện:

    “Tòa nhà này có ma!”

    Sau khi xảy ra vụ án, cư dân trong khu chung cư đều biết việc này, hai cô cảnh sát bị sát hại, chẳng bao lâu sau tin tức này bị đồn thổi với tốc độ nhanh chóng, trong quá trình lan truyền tin đồn, mọi người từ đầu hẻm đến cuối phố đều thêm thắt một vài tưởng tượng và phỏng đoán của mình vào câu chuyện, cuối cùng tin đồn trở thành: Hai cô cảnh sát bị ma bóp cổ đến chết!

    Các bà các cô trong khu chung cư nói chắc như đinh đóng cột rằng trong tòa nhà này có thứ gì đó không sạch sẽ, nửa đêm thường nghe có người khóc, khu chung cư được lắp đèn tự động bật sáng bằng âm thanh, thời gian gần đây cứ đến lúc một, hai giờ sáng thì đèn từ tầng một đến tầng năm lại lần lượt bật sáng, sau đó lại lần lượt từ tầng năm đến tầng một lần lượt sáng lên, tình trạng đó cứ lặp đi lặp lại rất nhiều lần, mà kì lạ là không hề thấy người nào lên hoặc xuống cầu thang.

    Nhân viên bảo vệ trong phòng lắp camera cũng chứng thực việc quái dị này. Anh ta cho tổ chuyên án xem những hình ảnh được camera thu lại trong thời điểm ấy. Vì ống kính của máy camera chỉ giám sát tòa nhà từ đằng xa lại thêm thời gian lúc ấy là một, hai giờ sáng nên ánh sáng rất yếu ớt, không thể nhìn thấy cảnh tượng lối ra vào trên màn hình, mà chỉ thấy ánh đèn lần lượt bật sáng, rồi lần lượt tắt đi, lại lần lượt bật sáng và lần lượt tắt đi… Cửa sổ trong cầu thang rất thấp nên nếu có người lên xuống cầu thang chắc chắn có thể nhìn thấy qua camera, nhưng màn hình giờ đây tuyệt đối không có bóng người nào cả.

    Đội trưởng đội cảnh sát ghi lại số điện thoại phòng trực ban của sở cảnh sát thành phố, rồi bảo với nhân viên bảo vệ: “Nếu còn xảy ra tình trạng quái lạ đó thì gọi điện đến số này, ở đây có cảnh sát trực hai tư trên hai tư giờ.”

    Tổ chuyên án và đội trưởng đội cảnh sát trở về sở cảnh sát thành phố Phố Giang, vẻ mặt đội trưởng trông rất nặng nề, trong phòng họp vẫn tập trung rất nhiều cảnh sát không khí nghiêm trang. Giám đốc sở cảnh sát nói: “Bà nội của cô Khởi Nhược nghe tin dữ liền phát bệnh tim và từ trần rồi. Cô ấy xuất thân từ nông thôn, bố mẹ và bà nội chịu đựng bao vất vả nuôi cô ấy khôn lớn giờ lại bị người ta sát hại thế này…”

    Mắt đồng chí giám đốc sở công an thành phố Phố Giang hoe đỏ, những cảnh sát khác liền đứng lên, mỗi người đều nộp một bản viết tay, trên đó viết các hoạt động trong hai ngày cuối tuần của bản thân và ấn tượng của mình về hai đồng nghiệp Tôn Khởi Nhược và Lê Uyển Đình.

    Giáo sư Lương rất rõ họ làm vậy vì muốn tự giác điều tra từ bản thân trước, đồng thời thể hiện quyết tâm nhanh chóng phá án.

    Giám đốc sở cảnh sát thành phố Phố Giang nói: “Tất cả cảnh sát bao gồm cả tôi đều tuyệt đối nghe theo chỉ đạo của tổ chuyên án, tất cả các vụ án khác đều tạm gác lại, ưu tiên cho vụ này, nhất định phải tóm cổ hung thủ nhanh nhất có thể để an ủi vong hồn trên thiên đường của hai nữ đồng nghiệp.”

    Giáo sư Lương nhìn mọi người và nói: “Tôn Khởi Nhược và Lê Uyển Đình không chỉ là đồng nghiệp của các bạn mà còn, là đồng nghiệp của tổ chuyên án chúng tôi. Cảnh sát khắp thiên hạ đều là anh em một nhà cả mà.”

    Ngay sau đó, giáo sư Lương phân công công tác cụ thể:

    Đối tượng điều tra trọng điểm là tất cả những người có thể ra vào phòng của hai nữ cảnh sát, ví dụ như nhân viên sửa máy tính, nhân viên đưa hàng, nhân viên đưa bình ga… Tất cả những đối tượng này đều phải liệt kê ra rõ ràng, công việc này do đội trưởng đội cảnh sát hình sự phụ trách. Đồng thời tất cả ngóc nghách trong phòng của hai nạn nhân bao gồm cả nhà kho đều phải lục soát từng centimet, không được bỏ sót chỗ nào, hỏi thăm các hộ sống ở tầng liền kề bên trên và bên dưới về tình hình gần đây của hai nữ cảnh sát.Họa Long dẫn đội cảnh sát tìm kiếm cẩn thận khu vực sông nơi phát hiện thi thể của Tôn Khởi Nhược, đặc biệt là khu vực lòng sông. Hãy cử đội lặn xuống nước kiểm tra kỹ lưỡng.Tô My phụ trách kiểm tra máy tính của hai nữ cảnh sát, xem có dữ liệu nào khả nghi hay không, in tất cả các ghi chép trên mạng và trong phòng chat.Bao Triển cùng nhân viên kĩ thuật tiến hành xét nghiệm lại các vật chứng như “cốc nước”, “tất giấy”, “sợi tóc” rồi lấy mẫu ADN.
    Giám đốc sở cảnh sát hỏi: “Còn tôi sẽ làm gì?”

    Giáo sư Lương đáp: “Đồng chí giao nhiệm vụ cho cảnh sát tìm người đàn ông lang thang định cưỡng bức tử thi, anh ta là người đầu tiên nhìn thấy nạn nhân, biết đâu lại cung cấp được cho ta manh mối hữu dụng nào đó. Còn nữa, hãy để chuyên gia dự thẩm của sở thẩm vấn lại mấy người dân đi đánh mạt chược kia, rồi làm bút lục lại thật tỉ mỉ.”

    Mọi người đều có nhiệm vụ riêng, ai nấy lập tức bắt tay hành động, chẳng bao lâu sau các chiến sĩ cảnh sát đã liên tiếp hồi báo với giáo sư Lương những manh mối và thông tin mình nhận được.

    Bao Triển cầm kết quả xét nghiệm hóa học báo cáo với giáo sư. Bao Triển thông báo tiếp một việc vô cùng bất ngờ: “Dung dịch trong cốc đặt trên bàn máy tính không phải nước uống thông thường.”

    Giáo sư Lương ngạc nhiên hỏi: “Vậy nó là gì?”

    Bao Triển đáp: “Nước tiểu!”

    Sau khi hóa nghiệm, kết quả cho thấy dung dịch trong cốc và dung dịch lấy từ bồn cầu hoàn toàn giống nhau. Đây là điều khiến người ta khó lòng lý giải, nếu hung thủ trở lại phòng của nạn nhân vào ban đêm thì sao y lại múc nước trong bồn cầu vào cốc?

    Đội trưởng đội cảnh sát hình sự nộp danh sách liệt kê tất cả khách ra vào căn hộ của hai nữ cảnh sát trong vòng ba tháng qua, trong đó có nhân viên xử lý bồn cầu, nhân viên chuyển phát, nhân viên sửa chữa, nhân viên giao hàng, nhân viên sửa chữa đường mạng… Tất nhiên lần này đội trưởng đội cảnh sát không quên ghi tên mình vào danh sách.

    Tô My kiểm tra bảng kê chi tiêu trong thẻ tín dụng và thông tin tài khoản ngân hàng của hai nữ cảnh sát, nhưng không có điểm gì khác thường, chỉ có điều cô cảm thấy số tiền tiết kiệm và tiền lương của họ không khớp nhau. Tuy họ không đến nỗi tiêu tiền vung tay quá trán nhưng lại thường xuyên tiêu xài mua bán, mức tiêu phí vượt ra ngoài phạm vi tiền lương có thể chi trả. Trong nhật kí sử dụng trình duyệt và phòng chat không thấy có điểm khả nghi, nhưng trong một tài liệu ẩn đặt mật mã thì Tô My tìm thấy rất nhiều ảnh của hai cô gái, có kiểu chụp chân dung, có ảnh chụp khi đi du lịch, ảnh chụp chung hồi tốt nghiệp, trông họ có vẻ rất thân mật, còn có một bộ ảnh nghệ thuật mà trên đó Tôn Khởi Nhược mặc áo dài ôm đàn cầm với tạo hình mỹ nhân vận cổ trang, còn Lê Uyển Đình mặc váy dài quét đất, trang điểm giống một mệnh phụ phu nhân, sau đó còn có mấy bức ảnh khổ lớn rất sexy, họ mặc đủ loại tất giấy khác nhau khoe đôi chân thon dài, còn có cả ảnh chụp họ mặc cảnh phục, tay cầm súng, roi da, côn cảnh sát còng tay trông lạnh lùng như nữ hoàng băng giá.

    Các tấm ảnh trong bộ ảnh nghệ thuật đó đều được làm mờ phần mặt và mã số nhân viên cảnh sát.

    Giáo sư Lương có vẻ khá quan tâm đến chiếc roi trong ảnh, đó là chiếc roi tua rua được làm bằng da, roi không dài lắm, trông giống như chiếc đuôi ngựa. Ông yêu cầu bác sĩ pháp y khám nghiệm xem phần tím xanh ở eo nạn nhân có phải do roi đánh gây ra hay không, đồng thời yêu cầu Tô My tiếp tục kiểm tra những thông tin để ẩn trong máy tính.

    Chẳng bao lâu sau, chiếc roi trong bức ảnh đã được tìm thấy, Họa Long dẫn đội lặn lặn xuống khúc sông mà xác nạn nhân nổi lên và phát hiện chiếc túi xách của Tôn Khởi Nhược, trong túi xách có roi da, còng tay, nhưng không thấy điện thoại và ví tiền đâu.

    Mọi người bận rộn đến tận đêm khuya, giáo sư Lương triệu tập cuộc họp công bố tình hình vụ án, nạn nhân Tôn Khởi Nhược rất có khả năng hung thủ muốn buộc đá vào chân nạn nhân để thi thể nhanh chóng chìm xuống đáy sông, nhưng vì du thuyền đã đi tới quá gần nên hung thủ hoảng hốt, vứt đại thi thể và túi xách xuống sông. Nhiều khả năng hung thủ có xe hoặc phương tiện vận chuyển nào đó. Lê Uyển Đình bị vứt xác trên đường phố, điều đó chứng tỏ tố chất tâm lý phạm tội của hung thủ không vững vàng lắm, y không kịp chuẩn bị cẩn thận, trong lúc luống cuống, y chỉ muốn phi tang cho xong.

    Mọi người thảo luận và phân tích thứ tự cũng như tuyến đường vứt xác, lúc kết thúc cuộc họp đã hơn mười hai giờ đêm, đột nhiên cảnh sát trực ban xông vào phòng họp, anh ta khẩn cấp thông báo: “Bảo vệ khu chung cư Nhã Viên vừa gọi điện thoại đến nói rằng khu nhà đó lại xảy ra chuyện kì quái, toà nhà nơi hai nữ cảnh sát bị sát hại thuê ở cứ sáng đèn lần lượt từ tầng năm xuống tầng một rồi lại từ tầng một lên tầng năm, nhưng không hề thấy bóng người lên hay xuống cầu thang.”

    Vừa lúc ấy điện thoại lại reo vang, thì ra nhân viên bảo vệ lấy máy điện thoại di động của mình gọi điện đến, ba nhân viên bảo vệ liều mạng định lên cầu thang kiểm tra xem rốt cuộc chuyện quỷ quái gì đang xảy ra. Giáo sư Lương nói trong điện thoại, bảo họ hãy bình tĩnh đừng tắt máy, đồng thời ra lệnh cho đội trưởng đội cảnh sát hình sự và Họa Long lập tức lái xe đến khu chung cư Nhã Viên.

    Tất cả mọi người đều lặng phắc, lắng tai nghe ngóng, trong điện thoại vang ra tiếng thảo luận thì thầm của mấy anh bảo vệ và tiếng bước chân lên cầu thang.

    Cửa sổ trong cầu thang vẫn mở, ba bảo vệ chỉ thấy gió lạnh lùa vào mặt, một bảo vệ nói vào điện thoại: “Tôi sợ lắm!” Giáo sư Lương trấn an: “Đừng lo! Cảnh sát sẽ lập tức đến ngay bây giờ.”

    Bảo vệ không lên tầng mà họ chọn cách dừng lại ở chiếu nghỉ tầng hai, người nào cũng căng thẳng đến tột độ họ lo lắng ngẩng đầu nhìn cầu thang dẫn lên tầng ba. Đèn tầng năm đã bật sáng, các nhân viên bảo vệ loáng thoáng nghe thấy tiếng bước chân từ trên tầng vọng xuống, một lát sau, đèn tầng bốn cũng bật sáng, đèn tầng năm vụt tắt, tiếng bước chân càng lúc càng rõ ràng, mà càng rõ lại càng khiến người ta dựng tóc gáy, bởi âm thanh đó không phải tiếng chân người mà là tiếng cọ sát vào nền cầu thang, hơn nữa động tác rất chậm chạp.

    Khi âm thanh xuất hiện ở tầng ba thì đèn ở tầng hai nơi các bảo vệ đang đứng vụt tắt.

    Họ đứng lặng ngắt trong bóng tối, run lập cập, thậm chí còn không dám ho hay giậm chân để điều khiển đèn sáng trở lại, họ chỉ biết ngây người nhìn lên cầu thang. Cuối cùng họ tròn mắt nhìn, có thứ gì đó đang chậm rãi bò qua chiếu nghỉ…

    Viên cảnh sát trực ban không nhìn thấy cảnh tượng ở hiện trường, chỉ nghe thấy tiếng thét rợn tóc gáy của các nhân viên bảo vệ vọng đến qua điện thoại: “Á… ma…”

    Chương 3Dấu vết trên đôi tất giấy
    Một người đàn bà tóc xõa xượi bò từ trên cầu thang xuống, nửa thân dưới của bà ta cứng đờ hai tay thọc vào đôi dép lê và bò trên mặt đất. Tóc của bà ta đã bết lại thành bánh, quét lê trên mặt đất, toàn thân bốc ra mùi rất khó ngửi.

    Người đàn bà ngẩng đầu, giữa màn tóc bẩn thỉu lộ ra một khuôn mặt nhem nhuốc bà ta cất giọng khàn khàn hỏi: “Mấy giờ rồi?”

    Hệ thống đèn tự động bật sáng sau tiếng thét chói tai của các nhân viên bảo vệ…

    Vừa lúc ấy, Họa Long và đội trưởng đội cảnh sát hình sự đến hiện trường, họ lập tức tiến hành điều tra, cuối cùng đã xác minh được thân thế người đàn bà ấy. Thì ra bà ta chính là vợ của lão chủ nhà!

    Vợ của chủ nhà bị liệt nửa thân dưới từ nhiều năm nay, bởi vậy ông ta rất ít khi nhắc đến vợ với người ngoài, thậm chí còn nói rằng vợ mình đã chết, thêm vào đó thường ngày ông ta là người rất ki bo kẹt sỉ, tính tình cổ quái nên hàng xóm cũng ít qua lại, chẳng ai trong khu chung cư hay biết vợ ông ta vẫn còn sống. Người phụ nữ này mắc bệnh tâm thần phân liệt. Từ sáng đến tối nằm trên giường, có lẽ xuất phát từ tâm lí muốn giải tỏa cuộc sống buồn chán, đau khổ, bà ta thường bò ra khỏi nhà mình vào lúc nửa đêm, rồi cứ thế bò lên bò xuống cầu thang hết lần này đến lần khác, có điều cuối cùng người đàn bà tội nghiệp đó vẫn không đủ can đảm để bò ra khỏi cầu thang. Đối với bà ấy, thế giới phía ngoài cầu thang đầy rẫy những điều đáng sợ hay ăm ắp những điều hấp dẫn?

    Họa Long và đội trưởng đội cảnh sát tiến hành lục soát căn hộ của lão chủ nhà, họ thấy một mình bà vợ sống trong căn phòng trống toang hoang, không có giường phản, chỉ có một manh chiếu trải trên nền cùng mảnh chăn bẩn thỉu khó phân biệt nổi màu sắc. Họa Long còn tìm thấy mấy đôi tất giấy trong phòng con trai chủ nhà. Ngay sau đó, Họa Long và đội trưởng đội cảnh sát áp giải lão chủ nhà và cậu con trai về đồn cảnh sát, đồng thời giao trách nhiệm cho bảo vệ trông chừng người vợ. Trong phòng bảo vệ, người đàn bà kêu khát bò lên bò xuống bao nhiêu lượt cầu thang đương nhiên phải mệt và khát, nhưng bà ấy không đợi bảo vệ đi lấy nước cho mình uống mà tự cầm cốc vào múc nước trong bồn cầu, rồi đưa lên miệng uống ừng ực. Nhìn vậy là đủ biết thường ngày bà ấy ăn gì uống gì và chồng con đối xử với bà ấy ra sao.

    Sau đó, phía cảnh sát tiến hành giám định và kết luận dấu vân tay trên chiếc cốc ở trong nhà hai nữ cảnh sát chính là của bà vợ lão chủ nhà, sợi tóc xoăn dính trên bồn cầu cũng là tóc của bà ấy. Có khả năng người phụ nữ mắc bệnh tâm thần phân liệt này đã lấy nhầm chìa khoá, vào nhầm phòng của hai nữ cảnh sát, tóm lại mọi hành vi quái dị của bà đều vượt ngưỡng phán đoán của người thường, nhưng điều khiến cảnh sát cảm thấy kinh ngạc hơn cả lại là thái độ của lão chủ nhà và cậu con trai.

    Trong quá trình thẩm vấn, lão chủ nhà nói thẳng toẹt không cần giấu giếm: “Tôi không giết người, nhưng có một người mà tôi rất muốn giết, đó chính là bà vợ nhà tôi. Bao năm nay, bà ấy làm cái nhà này lụn bại. Khổ thế không biết. Sao bà ấy không chết sớm đi cho tôi nhờ?”

    Cậu con trai của lão chủ là một thiếu niên mười bốn tuổi, khuôn mặt tái xanh cậu ta lặng lẽ như chiếc bóng khi đối diện với mọi câu hỏi thẩm vấn, khi Tô My xuất hiện trong phòng, cậu ta mới chịu mở miệng. Phía cảnh sát nhận thấy điểm này nên giáo sư Lương cố ý sắp xếp cho Tô My nói chuyện riêng với cậu ta.

    Phòng thẩm vấn là không gian độc lập và khép kín, được lắp kính nhìn thấu một chiều, bên trong không thể nhìn thấy bên ngoài, nhưng từ bên ngoài lại có thể nhìn rõ mọi chuyện diễn ra trong phòng thẩm vấn. Ba thành viên của tổ chuyên án và cảnh sát thành phố Phố Giang đều đứng ngoài quan sát. Tô My mặc vest công sở, áo sơ mi trắng giày cao gót màu đen, tất giấy mỏng màu đen. Con trai lão chủ nhà mặc đồng phục học sinh, ngồi trên ghế thẩm vấn phía bên kia bàn, cậu ta cúi mặt, thỉnh thoảng lại liếc ngang nhìn đôi chân thon dài của Tô My, rồi vội vã chuyển ánh nhìn sang nơi khác.

    Tô My bắt đầu vào đề: “Bây giờ chỉ có hai chúng ta trong phòng, cháu có thể nói chuyện với cô được không?”

    Cậu bé gật đầu.

    Tô My lại tiếp: “Cháu đừng lo cho mẹ! Các cô ở cùng chung cư sẽ chăm sóc cho mẹ cháu.”

    Cậu con trai của chủ nhà lập tức phản ứng: “Bà ta không phải mẹ cháu! Mẹ cháu không giống thế!”

    Tô My ngạc nhiên hỏi lại: “Ô! Vậy mẹ cháu trông thế nào?”

    Cậu bé đỏ mặt bẽn lẽn: “Giống như cô ấy!”

    Tô My dò hỏi: “Cháu thích hai chị ở nhà đối diện phải không?”

    Cậu bé lắp bắp: “Họ không phải chị!”

    Tô My hỏi: “Thế họ là ai?”

    Cậu bé đáp: “Họ là mẹ cháu!”

    Tô My bắt đầu toát mồ hôi lạnh, tiếp tục hỏi: “Cháu lén sang nhà họ phải không?”

    Cậu con trai của chủ nhà gật đầu.

    Tô My lấy mấy đôi tất giấy trong túi đựng vật chứng đặt lên bàn, nhẹ nhàng hỏi: “Cháu thích tất giấy à?”

    Cậu bé nghiêng đầu nhìn đôi tất giấy Tô My đang đi trên chân, cánh mũi khẽ giật giật mấy cái, rồi đáp: “Thích ạ!”

    Tô My tiếp tục: “Mấy đôi tất giấy cháu giấu dưới gối lấy từ đâu ra thế?”

    Cậu bé trả lời: “Cháu lấy trộm đấy!”

    Tô My lựa lời khuyên giải: “Hành vi đó không đúng đâu. Cháu còn làm chuyện gì nữa nào? Có thể kể cho cô nghe không?”

    Cậu bé ấp úng mãi hồi lâu mới nói: “Cháu…”

    Tô My khuyến khích: “Cô biết cháu quý cô đúng không nào? Cháu phải ngoan mới được!”

    Cậu bé định nói rồi lại ngừng, ngẩng đầu nhìn Tô My, sau đó cúi gằm mặt, uốn éo nói: “Cháu thường để tất giấy vào giường khi ngủ.”

    Tô My lại toát mồ hôi lạnh, câu trả lời khiến cô hết sức bất ngờ, nhưng vẫn trấn tĩnh hỏi tiếp: “Còn gì nữa không?”

    Cậu con trai của chủ nhà liếc mắt nhìn bắp vế của Tô My. Tô My ngồi vắt chân, tư thế rất trang nhã.

    Họa Long đứng ngoài phòng thẩm vấn chửi đổng: “Thằng oắt con!”

    Anh định xông vào phòng nhưng bị Bao Triển ngăn lại.

    Tô My cũng cảm thấy rất ngượng ngùng, đành vờ như không nhìn thấy phản ứng khác thường của thằng bé, cô tiếp tục dò hỏi. Sau khi buổi thẩm vấn kết thúc, phía cảnh sát thu được một thông tin. Buổi tối ngày thứ sáu nhân lúc hai nữ cảnh sát không có nhà, cậu thiếu niên mười bốn tuổi đó lấy chìa khóa dự phòng mở cửa căn hộ của họ, cậu ta lấy trộm tất giấy, sau đó hai nữ cảnh sát đột ngột trở về, cậu ta vội vàng chui vào tủ ẩn nấp và nghe hai nữ cảnh sát bắt đầu cãi nhau. Trong quá trình cãi vã, họ đập vỡ lọ kem dưỡng da, đợi hai nữ cảnh sát ngủ say, cậu thiếu niên trốn trong tủ quần áo mới len lén chuồn ra ngoài, vứt chiếc tất giấy mình vừa cầm lên ghế sô pha. Trước khi rời khỏi đó, cậu ta không quên trộm vài đôi tất sau đó trở về nhà ngủ.

    Tô My yêu cầu cậu con trai của chủ nhà cố gắng nhớ lại nội dung cuộc cãi nhau của hai nữ cảnh sát, nhưng khi ấy cậu ta rất sợ nên chỉ nhớ được mấy câu thế này:

    Lê Uyển Đình: “Người khách này rất quan trọng, còn trả tiền nhiều gấp đôi những khách khác.”

    Tôn Khởi Nhược: “Nhưng em không muốn làm nghề này nữa!”

    Lê Uyển Đình: “Em nói thế sao được! Chị đã hẹn họ ngày mai đến rồi. USB của chị đâu rồi không biết?”

    Tôn Khởi Nhược: “Em chỉ muốn rút chân ra khỏi nghề này thôi!”

    Tổ chuyên án và cảnh sát Phố Giang phân tích và đều cho rằng căn hộ của hai nữ cảnh sát không phải hiện trường gây án, căn cứ vào camera của khu chung cư và những thông tin mà bảo vệ cung cấp, thì hai nữ cảnh sát rời khỏi khu chung cư vào khoảng bảy giờ rưỡi tối thứ bảy, sau đó họ không bao giờ trở lại nữa. Khả năng lão chủ nhà và cậu con trai gây án không lớn lắm, có thể loại trừ khỏi danh sách nghi phạm, bởi vậy ít lâu sau họ thả hai người họ ra. Đội trưởng đội cảnh sát hình sự giữ lời hứa trả tiền thuê phòng của hai nữ cảnh sát cho lão chủ nhà, rồi dặn dò ông ta phải đối xử với vợ tốt hơn, đồng thời còn phải hứa bất kì khi nào cảnh sát cho gọi là lập tức phải đến ngay.

    Trong phòng họp, mọi người thảo luận và phân tích lại tình hình vụ án, tất cả đều nhất chí cho rằng tìm ra hiện trường gây án sẽ là điểm mấu chốt giúp phá được vụ án này.

    Giáo sư Lương tìm mười tờ giấy, viết ra mười vấn đề. Ông bảo mọi người: “Chỉ cần tìm ra đáp án của mười câu hỏi này là lập tức có thể phá án, tìm ra sự thật!”

    Mười câu hỏi ông nêu ra như sau:

    Thu nhập ngoài tiền lương của hai nữ cảnh sát từ đâu ra? Ai cho họ?Vì sao bàn máy tính lại bị dịch chuyển? Người đã xê dịch chiếc bàn muốn tìm hoặc muốn hủy vật gì? Chiếc USB trong cuộc cãi vã của hai nữ cảnh sát giờ đang ở đâu?Bộ ảnh SM kia do ai chụp? Vì sao hai nữ cảnh sát lại tin tưởng người đó đến mức dám để lộ bí mật của bản thân?Khẩu súng trong bộ ảnh kia là đồ thật hay giả? Vì bởi nữ cảnh sát xử lý giấy tờ không được phát súng.Những phụ kiện được mua ở cửa hàng hay đặt mua trên mạng?Nơi diễn ra quá trình đó ở đâu?Họ đóng vai trò gì trong bộ ảnh?Tôn Khởi Nhược là trinh nữ, Lê Uyển Đình lại không có dấu hiệu bị xâm hại tình dục, vậy phải chăng họ đi xâm hại tình dục người khác?Tối thứ bảy họ rời khỏi khu chung cư, đêm chủ nhật phát hiện ra thi thể họ, trong thời gian này họ đã ăn những gì và ăn ở đâu?Người khách quan trọng mà họ nhắc đến rốt cuộc là ai? Họ liên lạc với khách hàng bằng phương thức nào?
    Bộ ảnh trong máy tính được in ra, những vật chứng khác cũng đều được chụp lại. Họa Long nhìn khẩu súng trong ảnh một thoáng rồi nhận xét: “Đây là khẩu 92-9. Súng thật đấy!”

    Những đồng chí cảnh sát giàu kinh nghiệm có mặt trong phòng họp cũng quan sát và kết luận đây là súng thật chắc chắn không thể nhìn lầm.

    Đội trưởng đội cảnh sát chợt đứng lên, anh ta do dự một lát rồi nói: “Tôi xin được trả lời một trong những câu hỏi của giáo sư Lương. Đây là súng của tôi! Tôi đã vi phạm kỉ luật của cảnh sát!”

    Theo lời kể của đội trưởng đội cảnh sát hình sự thì anh ta có tình cảm với Lê Uyển Đình, thậm chí hai người họ đã nảy sinh quan hệ, nhưng anh ta đã có vợ và con, trong khi chuyện ngoại tình này cũng chẳng vẻ vang gì nên anh ta luôn tìm cách giấu giếm. Khẩu súng ấy là trước đây anh ta cho Lê Uyển Đình mượn để chụp ảnh, mấy bức ảnh mặc cảnh phục cũng do anh ta chụp cho cô ấy. Có điều lúc đó anh ta chỉ nghĩ hai cô gái muốn chụp ảnh lưu lại tuổi thanh xuân, chứ không hề biết Lê Uyển Đình và Tôn Khởi Nhược chụp ảnh nhằm mục đích khác.

    Đội trưởng đội cảnh sát thanh minh, hai ngày cuối tuần anh ta và giám đốc sở cảnh sát đi công tác ở tĩnh ngoài, đến tận sáng thứ hai mới về nhiệm sở.

    Giám đốc sở cảnh sát gật đầu chứng thực lời của đội trưởng đội cảnh sát là chính xác. Giám đốc sở cảnh sát còn bổ sung thêm: “Hai ngày cuối tuần chúng tôi tham dự hội nghị ở thành phố bên cạnh.”

    Giáo sư Lương phân công lại nhiệm vụ, Họa Long và đội trưởng đội cảnh sát hình sự phụ trách lấy băng ghi hình trong camera của tất cả các khách sạn trong thành phố, kiểm tra xem hai nữ cảnh sát có ra vào đó không. Bao Triển và bác sĩ pháp y tiến hành hóa nghiệm lại thức ăn trong dạ dày của hai nạn nhân, căn cứ vào kết quả khám nghiệm để thu hẹp phạm vi địa điểm điều tra như nhà hàng, khách sạn. Tô My đến tất cả các cửa hàng bán đồ chơi người lớn trong thành phố.

    Giáo sư Lương yêu cầu tất cả mọi người đều phải mặc thường phục và mang theo tấm hình của hai nữ cảnh sát.

    Một ngày trôi qua mà không thu hoạch được gì, cảnh sát thành phố Phố Giang đổ lực lượng lớn tiến hành lục soát theo phương thức kéo lưới, mọi người bận đến quay cuồng nhưng cuối cùng vẫn chưa tìm thấy manh mối nào có giá trị. Tiến triển của vụ án rơi vào trạng thái đông cứng. Để nâng cao hiệu quả, Tô My và các nữ cảnh sát cùng tổ chia nhau ra điều tra từng cửa hàng đồ chơi người lớn, vì sở cảnh sát không thể cung cấp đủ lượng xe cần dùng nên họ phải thuê taxi đến từng địa điểm theo thông tin đăng kí do sở công thương cung cấp để tiến hành điều tra.

    Chiều muộn ngày hôm sau, một mình Tô My đến một cửa hàng ở gần ga tàu hỏa. Ông chủ là gã đàn ông trung niên râu quai nón xồm xoàm, anh ta đang định hạ cửa cuốn đóng cửa hàng.

    Tô My vội bước đến gần, giơ tấm ảnh hai nữ cảnh sát ra, hỏi anh ta đã từng gặp họ bao giờ chưa.

    Gã đàn ông râu xồm lắc đầu bảo: “Chưa!”

    Tô My lại lấy mấy bức ảnh hỏi cửa hàng anh ta có bán đồ vật như trong ảnh không.

    Gã râu xồm dò hỏi: “Cô muốn mua à!”

    Tô My vòng vo: “Nó đâu? Tôi muốn xem hàng.

    Gã râu xồm nói: “Trong kho cơ! Cô muốn mua không đã? Cô mua tôi mới lấy cho cô xem.”

    Tô My đáp: “Tôi muốn mua”

    Gã râu xồm bảo Tô My đi theo anh ta, khi ấy đã hơn tám giờ tối, đường phố vắng bóng người qua lại, nhưng Tô My chẳng hề cảnh giác, họ đi đến phía đối diện của con phố bước vào sân của một xưởng chế biến thịt trong sân có mấy đứa trẻ đang chơi đùa, gã râu xồm lấy chìa khóa mở cửa nhà kho, Tô My theo vào.

    Ngay khi ấy, cánh cửa bất ngờ đóng lại…

    Chương 4Nhà kho
    Đó là một kho lạnh bỏ hoang.

    Bên trong cánh cửa được bơm nhựa nhiệt dẻo bằng máy bơm keo nên tính giữ nhiệt và cách nhiệt vô cùng tốt, khi cửa về đúng vị trí, nó sẽ tự động sập xuống, đồng thời ép chặt mép cửa vào mặt đất. Cấu trúc cửa là các tấm cách nhiệt có bản lề tự động, xung quanh có đệm kín bằng cao su hình nhiều ngăn. Mỗi cửa được gắn lên một tấm panel gọi là tấm cửa. Bên trong cửa được bố trí màn chắn khí làm bằng nhựa dẻo để hạn chế dòng nhiệt tổn thất. Bởi vậy kho lạnh không chỉ có tác dụng cách nhiệt tốt mà còn có tác dụng cách âm rất tuyệt vời, sau khi đóng cửa sẽ không nghe thấy bất kì âm thanh nào ở bên ngoài. Nói cách khác đây là một thế giới cô lập và tĩnh mịch hoàn toàn.

    Gã râu xồm bật đèn, lấy mấy thứ đồ giống như trong ảnh.

    Tô My lạnh lùng gằn giọng: “Mở cửa!”

    Gã râu xồm vỗ trán bồm bộp như thể vừa nhớ ra điều gì, anh ta kêu lên: “Thôi chết! Bỏ quên chìa khoá ở ngoài mất rồi.”

    Nếu không có chìa khóa thì không thể mở được loại cửa kho lạnh này từ bên trong, cũng bởi vậy nên mới thường xảy ra chuyện có người chết trong kho lạnh vì bị ai đó bên ngoài không biết đã khoá nhầm. Dạo trước tám nữ công nhân ở một công ty nọ cũng bị đồng nghiệp vô tình khóa cửa nhốt ở bên trong, lúc người ta phát hiện thì tám cô gái đã chết cóng.

    Tô My không hề nao núng, cô bình tĩnh rút điện thoại nhưng chết nỗi trong kho lạnh bỏ hoang này không bắt được sóng. Cô đưa mắt quan sát bốn xung quanh, khu vực sát chân tường đặt rất nhiều thùng giấy, trên vách tường không có cửa sổ, đến lúc ấy cô mới thấy hơi hoảng. Gã đàn ông nom háo sắc bắt đầu giải thích cách sử dụng từng món đồ cho Tô My nghe.

    Tô My xông tới túm cổ áo gã, rồi lục soát khắp người tìm chìa khoá.

    Gã râu xồm cười như nắc nẻ, vừa tránh tay của Tô My vừa nói ỏn ẻn: “Đừng nghịch! Đừng nghịch thế! Buồn quá!”

    Tô My tìm thấy một chùm chìa khoá nhưng không chiếc chìa nào mở được ổ khóa cửa kho lạnh, xem ra gã đã giấu nhẹm chiếc chìa khoá ấy rồi!

    Gã râu xồm nói: “Tất cả hết hai trăm tệ.”

    Tô My trợn trừng đôi mắt, giận không nói nên lời, chỉ tay về phía cửa ra lệnh: “Mở ra ngay! Tôi là cảnh sát! Thử nghĩ xem anh sẽ phải gánh hậu quả gì nếu dám động đến cảnh sát?”

    Gã râu xồm gật đầu, cúi lưng, giọng tỏ vẻ yếu thế. “Tôi có thể không cần lấy tiền hàng của cô!”

    Tô My chống nạnh quát: “Đồ khốn! Rốt cuộc anh muốn gì?”

    Gã râu xồm chạm phải ánh mắt lạnh tanh của Tô My, đột nhiên gã run cầm cập, chân nhũn ra, quỳ mọp xuống, cung kính dập đầu liền mấy cái: “Thưa nữ hoàng điện hạ! Xin người hãy trừng phạt nô tài!”

    Tô My giật lùi về sau một bước, lửa giận bốc lên đầu, cô lao tới, giơ tay giáng thẳng hai bạt tai, sau đó túm lấy tóc gã, gằn từng chữ: “Chìa khóa đâu?”

    Gã râu xồm không hề tức giận, ngược lại gã tỏ vẻ rất đỗi phấn khích. Tô My giơ chân đá một cú vào trúng vai gã, gã đàn ông biến thái ngã lăn lóc trên mặt đất. Tô My lại giơ chân như muốn giẫm giày cao gót vào mặt gã quát hỏi: “Giấu chìa khoá ở đâu?”

    Gã râu xồm đáp lại bằng giọng run rẩy, yếu đuối: “Hãy chà đạp nô tài đi, hỡi nữ hoàng cao quý!”

    Nghe giọng gã, Tô My đoán gã giấu chìa khoá trong miệng, cô nghiêm giọng: “Há mồm ra!”

    Chẳng ngờ gã nuốt được cả chiếc chìa khoá vào bụng thật.

    Tô My cố nén lửa giận, cô kiểm tra bốn phía xem có lối ra phụ nào không, nhưng đây là một không gian hoàn toàn khép kín, không hề có đường thoát thân. Bên trong các thùng giấy đặt cạnh tường là đủ các loại đồ chơi người lớn.

    Tô My thấm mệt, cô lôi chiếc ghế quý phi ra, ngồi lên ghế, lạnh lùng nhìn gã đàn ông trước mặt.

    Chẳng biết bao nhiêu thời gian trôi qua, cuối cùng tổ chuyên án mới tìm đến nơi, họ lấy cưa điện xung kích và búa tạ đập cửa. Cánh cửa bật mở. Họa Long dẫn một đội cảnh sát xông vào. Trên mặt đất nhà kho có một người đàn ông nằm co quắp, gã bị trói chặt chẳng khác nào người ta trói lợn. Tô My ngồi co ro như chú mèo con trên ghế, nước mắt lưng tròng, tay cô năm chặt một vật gì đó.

    Cảnh sát áp giải gã chủ cửa hàng về đồn, giáo sư Lương và Bao Triển thẩm vấn gã thâu đêm. Căn cứ theo lời khai của gã thì thường có một số khách hàng đến cửa hàng gã mua đồ, trong đó có hai nữ cảnh sát giống như trong ảnh. Hôm ấy cũng vào lúc chiều muộn, hai nữ cảnh sát đó đến cửa hàng của gã.

    Hôm sau, lãnh đạo ủy ban nhân dân thành phố chủ trì cuộc họp yêu cầu cảnh sát thành phố Phố Giang và tổ chuyên án nhanh chóng phá án. Vụ án này gây ảnh hưởng xấu đến dư luận xã hội, đủ mọi lời đồn thổi lan truyền khắp các hang cùng ngõ hẻm, họ nói ngay cả cảnh sát còn bị sát hại thì làm sao người dân cảm thấy an toàn nổi? Bởi vậy tính phá hoại của vụ án này đối với ổn định xã hội nguy hiểm khôn lường.

    Tô My không tham gia cuộc họp, cô vẫn chưa thể thoát ra khỏi chiếc bóng sợ hãi đè nặng trong lòng. Ngoài ba thành viên của tổ chuyên án ra thì còn thêm hai người nữa cũng đến tham dự, đó là giám đốc sở cảnh sát thành phố Phố Giang và đội trưởng đội hình sự.

    Giám đốc sở và đội trưởng nói rằng vụ án đã có những bước đột phá, rất có khả năng ông chủ cửa hàng chính là hung thủ giết người, cần phải tăng cường mức độ thẩm vấn anh ta.

    Giáo sư Lương cười nói: “Hung thủ không phải anh ta!”

    Lãnh đạo thành phố đề nghị giáo sư Lương trình bày suy nghĩ, họ hỏi: “Vậy giáo sư cho rằng…”

    Giáo sư thong thả trả lời: “Hung thủ ở chính ngay trong căn phòng này!”

    Đội trưởng đội cánh sát hình sự lập tức đứng bật dậy, giận dữ chất vấn: “Giáo sư nghi ngờ tôi sao?”

    Giáo sư Lương đánh mắt ra hiệu, Họa Long hiểu ý liền đứng dậy, đến bên cạnh đội trưởng đội cảnh sát hình sự, vỗ nhẹ vào vai, ý bảo anh ta đừng quá kích động. Đội trưởng giận phừng phừng ngồi xuống, Họa Long cũng ngồi xuống ngay cạnh ghế anh ta.

    Giáo sư Lương nói tiếp: “Không phải tôi nghi ngờ mà là khẳng định hung thủ chính là cậu, đội trưởng đội cảnh sát hình sự ạ! Mà nói cho chính xác hơn thì cậu là một trong hai hung thủ.”

    Hai vị lãnh đạo thành phố đưa mắt nhìn nhau, giám đốc sở cảnh sát rất lúng túng, không khí phòng họp phút chốc trở nên đông đặc đến ngột ngạt.

    Đội trưởng đội cảnh sát hình sự đập bàn hét lớn: “Vu khống! Ông có bằng chứng không?”

    Giáo sư Lương đáp: “Cậu tưởng rằng một tay có thể che kín bầu trời hay sao? Các cậu làm rất kín kẽ, song đã bỏ quên mất hai người.”

    Đội trưởng đội cảnh sát hình sự buột miệng hỏi: “Hai người nào?”

    Giáo sư Lương trả lời: “Vợ ông chủ nhà và người đàn ông lang thang, Vợ ông chủ nhà là bệnh nhân mắc chứng tâm thần phân liệt. Để tôi giải thích cho cậu hiểu thế nào gọi là chứng tâm thần phân liệt nhé! Đó là loại bệnh mà khi tỉnh táo bà ấy chẳng khác nào một người bình thường, nhưng lúc phát bệnh thì lại giống một người mộng du, không ý thức được mình đang làm gì. Tối hôm chủ nhật, người phụ nữ đó lại bắt đầu mộng du, khi tỉnh lại, bà ấy phát hiện mình đang ở trong một gian phòng, chính là căn phòng trống của hai nữ cảnh sát. Từ khe cửa, bà ấy nhìn thấy có một người đang tìm kiếm gì đó trong phòng, một lát sau, người đó đóng cửa và bỏ đi. Bảo vệ trong khu chung cư cũng chứng thực điều này. Tối hôm chủ nhật cũng chính là hôm cậu khai đi họp ở ngoại tỉnh vẫn chưa về ấy, bảo vệ toà nhà nói họ nhìn thấy ánh đèn hắt ra qua ô cửa sổ căn hộ của hai nữ cảnh sát sáng lên một lát… Tôi đưa ảnh cậu cho vợ ông chủ nhà nhận dạng, bà ấy lập tức nhận ra cậu.”

    Đội trưởng đội cảnh sát lạnh lùng nói: “Vớ vẩn! Lời của một người điên không thể coi là bằng chứng được!”

    Giáo sư Lương bình thản tiếp lời: “Thế thì vẫn còn một nhân chứng nữa đấy. Đó chính là người đàn ông lang thang trong con hẻm nọ. Chúng tôi đã tìm ra anh ta. Lúc đó anh ta nhìn thấy người ta vứt một phụ nữ từ trên xe xuống đường. Chú ý nhé! Anh ta không phải bệnh nhân tâm thần, mà là một người hoàn toàn bình thường bị chủ công trình quỵt nợ nên giờ lang thang đầu đường xó chợ, không có nhà mà về thôi. Khi ấy anh ta ở chính nơi mà các cậu vứt xác, nằm ngủ ngay cạnh thùng rác, anh ta nhận ra chiếc xe hất xác xuống là xe cảnh sát không chỉ vậy còn nhớ rất rõ số xe…”

    Đội trưởng đội cảnh sát lạc giọng phủ nhận: “Không thể có chuyện đó!”

    Giáo sư Lương vẫn giữ giọng đều đều: “Không có gì khó hiểu cả, bởi vì số xe của các cậu quá dễ nhớ, ngay cả đứa trẻ ba tuổi cũng nhớ được. Mọi người đều biết xe của các lãnh đạo có một đặc trưng chí mạng đó chính là đơn giản và dễ nhớ.”

    Đội trưởng đội cảnh sát còn cố giảo biện: “Toàn những lời khai man! Sự thật là tôi và giám đốc sở cảnh sát sang thành phố bên cạnh tham dự hội nghị, mãi sáng sớm thứ hai mới về.”

    Giáo sư Lương đột ngột chuyển chủ đề: “Rốt cuộc vật cậu muốn tìm là vật gì thế?”

    Đội trưởng đội cảnh sát tái mét mặt, luống cuống đáp: “Làm sao tôi biết ông ám chỉ vật gì? Đừng hòng giăng bẫy tôi!”

    Giáo sư Lương nói: “Đó là chiếc USB! Chúng tôi đã tìm thấy nó, ở ngay trong nhà kho của ông chủ cửa hàng. Xem ra người khách mà Lê Uyển Đình và Tôn Khởi Nhược nhắc đến không chỉ có một vị”

    Chương 5Bịt đầu mối
    Nội tâm mỗi người đều có một khuôn mặt bí mật và đen tối.

    Giáo sư Đường Thế Đức, một học giả uyên bác và đạo mạo lại xâm hại trẻ em vị thành niên; tổng giám đốc công ty liên doanh với nước ngoài Trần Ngọc Như nuôi gái bao; nữ cảnh sát Tô Tinh thay người tình như thay áo. Những cô gái lặng lẽ ngồi sau cánh cửa kính của bao tiệm cắt tóc đều biết những người đàn ông bụng phệ qua đường đang nghĩ gì.

    Mỗi cọng cỏ đều có một tâm sự không vui.

    Mỗi hạt bụi nhỏ bé đều nở ra một bông hoa bí mật.

    Tôn Khởi Nhược đi giày vải đế thấp, lặng lẽ đi trên con đường dành riêng cho người mù màu vàng lông gà, lòng bàn chân cảm thấy ngâm ngẩm đau, cơn đau nhẹ càng khắc sâu thêm nỗi hoài niệm với cuộc sống trước đây và người bạn trai cũ.

    Lê Uyển Đình đeo bốt đen, váy đầm eo cao cổ trễ màu trắng, vẻ mặt kiêu ngạo, bất cần đời. Đôi bốt càng thể hiện vẻ phong tình của cô. Uyển Đình hút đến điếu thuốc thứ ba, đầu chỉ chăm chăm nghĩ một điều: “Tới bao giờ mình mới sở hữu được một chiếc xe hơi nhỉ?”

    Hai cô gái đi trên đường, họ đều là những cô gái nghèo thật và thời thượng giả tạo.

    Hai cô gái đều đi tất giấy theo đúng yêu cầu của khách hàng. Hồi còn học đại học, họ từng bán tất giấy. Sau khi tốt nghiệp đại học và đi làm, họ tìm được con đường giúp mình kiếm ra nhiều tiền hơn bán tất giấy gấp bội lần, đương nhiên khi giẫm chân lên con đường này họ vẫn phải đeo tất giấy, đi giày cao gót hoặc bốt.

    Như ta đã từng nói ở đoạn trước, trong nội tâm mỗi con người đều ẩn giấu một khuôn mặt bí mật.

    Đội trưởng đội cảnh sát hình sự là kẻ đam mê SM. Ban đầu, anh ta không hề biết gì và cũng không ý thức chút nào về khuynh hướng của bản thân. Khi phá án bắt một ổ mại dâm, xuất phát thì tâm lí hiếu kì, đội trưởng đội cảnh sát hình sự bắt đầu tìm kiếm các kiến thức liên quan đến SM trên mạng. Sau đó anh ta nói với Lê Uyển Đình rằng: “Em biết không, làm nữ hoàng kiếm được nhiều tiền hơn lương bổng của cả hai chúng ta cộng gộp lại đấy! Không những vậy thị trường của nghề này rất tiềm năng, rất nhiều người có sở thích biến thái đó”

    Lê Uyển Đình nói: “Em cũng nghe người ta bảo thế, chắc chắn kiếm được nhiều tiền hơn bán tất giấy bội phần!”

    Mối quan hệ của họ từ yêu đương đã bắt đầu thay đổi nhưng họ luôn che giấu nên không ai trong sở cảnh sát nhận ra điều đó. Vì quá khát khao có được nhiều tiền nên Lê Uyển Đình chính thức trở thành nữ hoàng. Cô ta luôn chọn những khách sạn hoặc nhà hàng ở các thành phố xung quanh cho an toàn, đối tượng quan hệ đều là những khách hàng thuộc tầng lớp cao với thu nhập tốt.

    Đội trưởng đội cảnh sát hình sự đóng vai trò môi giới giúp cô ta từng mối hàng. Nhờ ưu thế nghề nghiệp nên anh ta có thể ngấm ngầm điều tra lai lịch thân thế của khách hàng, bởi vậy Lê Uyển Đình không hề lo lắng mỗi khi gặp khách.

    Hôm qua còn là người tình, hôm nay đã là bà chủ, nên nghiễm nhiên đội trưởng sinh ý ghen tuông khi thấy Lê Uyển Đình đi với những người khác. Anh ta rất buồn, rất đau lòng. Thứ đau lòng ấy là cảm giác mà những người bình thường như chúng ta không thể nào hiểu nổi. Để an ủi nguời tình cũ, Lê Uyển Đình hứa sẽ tặng anh ta một món quà, đồng thời cũng vì muốn kiếm được nhiều tiền hơn nữa, người đàn bà ưa hưởng thụ vật chất đó bắt đầu nảy sinh ý định lôi kéo Tôn Khởi Nhược vào giới này. Vả lại họ sống cùng nhau, Uyển Đình khó mà giấu giếm được mãi chuyện mình làm “nữ hoàng” với Khởi Nhược, sớm muộn cũng sẽ bị cô ấy phát hiện mà thôi. Thế là Uyển Đình thản nhiên kể cho Khởi Nhược nghe “công việc” của mình.

    Khởi Nhược không hề biết rằng người khách đầu tiên cô gặp đó lại chính là đội trưởng.

    Trong lúc Khởi Nhược lúng túng thì Uyển Đình đã ranh mãnh lấy máy quay quay lại, rồi lưu lại trong USB để sau này mang ra khống chế Khởi Nhược không được phép rút chân ra khỏi vũng bùn, đồng thời còn lấy đó làm chứng cứ để tống tiền đội trưởng đội cảnh sát hình sự. Người đàn bà đầy mưu mô này có khát vọng kiểm soát người khác vô cùng mạnh mẽ.

    Một lần, trong lúc tụ tập ăn uống, ngoài ba người họ ra còn có giám đốc sở cảnh sát cùng tham gia, họ nói chuyện với nhau thế này:

    Uyển Đình: “Đồng chí đội trưởng kính mến ơi! Giúp chúng tôi giải quyết vấn đề nhà cửa được không? Nhà chị em tôi ở hình như có ma hay sao ấy?”

    Khởi Nhược gật đầu lia lịa: “Đúng đấy! Có ma thật đó! Cứ nửa đêm tôi lại nghe thấy tiếng bước chân đi lại trên cầu thang, căn phòng trống ở gần kề hình như có động tĩnh gì đó lạ lắm.”

    Giám đốc sở cảnh sát khéo léo gạt đi: “Uyển Đình và cả Khởi Nhược này, toà nhà của sở cảnh sát được các nhân viên hùn vốn xây dựng, trong khi hai cô lại vừa chân ướt chân ráo vào sở làm việc chưa được bao lâu… hai cô yếu bóng vía nên thần hồn nát thần tính thế thôi.”

    Uyển Đình quắc mắt: “Ai bảo bọn tôi yếu bóng vía?”

    Đội trưởng vội vã sửa lời: “Vâng, vâng! Các cô đều mạnh mẽ!”

    Khởi Nhược thanh minh: “Không phải chúng tôi thần hồn nát thần tính đâu! Tối qua tôi còn nghe thấy có người khóc ở cầu thang, đôi lúc còn phát hiện đồ đạc trong phòng bị di chuyển vị trí nữa cơ.”

    Sau chầu rượu, giám đốc sở cảnh sát và đội trưởng đội cảnh sát hình sự lái xe đưa hai cô gái về, tiện đường kiểm tra xem chuyện ma mãnh kia thế nào.

    Cũng trong lần đưa về đó, giám đốc sở cảnh sát vô tình phát hiện công việc mà hai cô đang “làm thêm” khi vô tình mở file trong USB mà hai cô gái vẫn cắm trên máy tính.

    Giám đốc sở cảnh sát liền giấu USB vào túi áo, sau khi đội trưởng và hai cô gái trở về, ông ta phải cố hết sức đè nén cảm xúc khó tả trong lòng, giả đò như không hề hay biết chuyện gì, rồi cùng đội trưởng lái xe rời khỏi nhà hai cô. Ông ta sao lưu nội dung trong USB ra thành một bản nữa. Rồi khéo léo nhờ đội trưởng lén trả USB về cho chủ nhân của nó.

    Chiều tối hôm ấy, hai nữ cảnh sát đi mua đồ. Sau khi hai “nữ hoàng” đi khuất dạng, gã chủ cửa hàng mới phát hiện ra chiếc USB kẹp trong tờ tiền, gã liền tiện tay vứt đại vào xó nhà kho. Sau đó, Tô My nhặt được chiếc USB đó, trong quá trình thẩm vấn gã, cô biết hai nữ cảnh sát bị sát hại từng đến đây và đánh rơi chiếc USB này.

    Thực ra, tổ chuyên án nảy sinh thái độ nghi ngờ với đội trưởng đội cảnh sát hình sự từ lâu. Khi điều tra bảng kê chi tiết sử dụng thẻ tín dụng của Lê Uyển Đình, Tô My phát hiện cô ta đã mua một chiếc máy tính xách tay và hai chiếc điện thoại di động, nhưng tổ chuyên án lại không hề phát hiện thấy những vật đó ở trong phòng, trong khi từ đầu chí cuối đội trưởng đội cảnh sát hình sự không hề nhắc đến sự tồn tại của chúng, mà theo lời anh ta nói thì “không phát hiện thấy dấu tích bị mất cắp tài sản”. Tổ chuyên án phân tích và nhận định có lẽ đội trưởng đội cảnh sát là kẻ trong cuộc, chắc chắn anh ta biết rõ nội tình, đó cũng là thời điểm tổ chuyên án bắt đầu nghi ngờ đội trưởng đội cảnh sát hình sự, ngặt nỗi hiện giờ trong tay lại không có chứng cớ, bởi vậy họ không thể lập tức vạch mặt anh ta. Theo tiến triển của vụ án, khi điều tra khẩu súng chụp trong bộ ảnh của hai nữ cảnh sát, đội trưởng đội cảnh sát mới ép phải khai ra mối quan hệ của mình, đồng thời thanh minh khi xảy ra vụ án anh ta đang đi công tác cùng giám đốc sở cảnh sát. Giáo sư Lương để Họa Long và đội trưởng đội cảnh sát cùng đi kiểm tra các băng ghi hình trong camera ở các nhà hàng khách sạn thành phố vì muốn tung hỏa mù, giáo sư không né tránh việc cho đội trưởng đội cảnh sát cùng tham gia phá án bởi ông không muốn đánh rắn động cỏ. Vụ án này không chỉ liên quan đến đội trưởng đội cảnh sát hình sự, mà còn liên quan cả đến giám đốc sở cảnh sát nên đặc biệt nghiêm trọng, cũng bởi thế mọi hành động đều phải vô cùng thận trọng.

    Giáo sư Lương lẳng lặng liên hệ với phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc, phó cục trưởng huy động tất cả các loại máy móc chuyên dụng và cả các chiến tuyến bí mật để điều tra hành tung trong hai ngày cuối tuần của đội trưởng đội cảnh sát hình sự và giám đốc sở cảnh sát thành phố Phố Giang. Cuối cùng họ phát hiện giám đốc sở cảnh sát thành phố Phố Giang và đội trưởng đội cảnh sát hình sự xuất hiện trên màn hình camera của một khách sạn ở thành phố láng giềng. Ngoài ra họ còn thấy hình ảnh Lê Uyển Đình và Tôn Khởi Nhược cũng xuất hiện trong quán rượu này vào sáng chủ nhật. Đêm chủ nhật, giám đốc sở và đội trưởng mỗi người kéo một vali to rời khỏi khách sạn… Đến giờ có thể khẳng định chắn chắc hung thủ chính là giám đốc sở cảnh sát thành phố Phố Giang và đội trưởng đội cảnh sát hình sự.

    Sau đó, qua quá trình xét hỏi đội trưởng đội cảnh sát hình sự, tổ chuyên án được biết giữa bốn người họ đã xảy ra đoạn hội thoại như thế này khi cùng ở trong khách sạn:

    Lê Uyển Đình: “Ối trời! Tôi không nhìn nhầm đấy chứ? Khởi Nhược ơi! Không ngờ người khách này chính là giám đốc sở cảnh sát đáng kính của chúng ta.”

    Giám đốc sở cảnh sát lặng người không thốt tiếng nào.

    Mười phút sau…

    Uyển Đình lập tức chuyền giọng nửa nhõng nhẽo nửa uy hiếp: “Giám đốc! Em muốn một chiếc xe hơi, một căn nhà. Khởi Nhược, em muốn gì thì cứ việc bảo giám đốc nhé!”

    Khởi Nhược sợ hãi lắp bắp nói: “Em… em chỉ muốn từ chức… rời khỏi sở.”

    Giám đốc sở cảnh sát vẫn không nói gì.

    Uyển Đình đổi giọng tiếp tục chất vấn: “Khi nào mới mua xe cho em? Em đã ngắm trước một chiếc BMW màu đỏ. Anh nói gì đi chứ! Nếu không em sẽ cho cả thiên hạ xem bộ mặt thật của anh. Thử nghĩ mà xem, chỉ cần em tung video này ra thì tiền đồ của anh coi như xong đời.”

    Giám đốc sở cảnh sát vội trưởng đội cảnh sát hình sự không nói không rằng, mặt xám xanh.

    Uyển Đình vỗ nhẹ vào chiếc máy quay trong tay thách thức.

    Giám đốc sở cảnh sát đột nhiên đứng bật dậy, đẩy Uyển Đình xuống đất, bập còng số tám vào hai cổ tay cô ta. Tôn Khởi Nhược vội vàng vứt máy ảnh, hoảng hốt tháo chạy ra ngoài, nhưng khi vừa mở được cửa thì đội trưởng đội cảnh sát kịp nhào tới cô…

    Loại còng tay này có lớp da bọc quanh để bảo vệ cổ tay bởi vậy trong quá trình giám đốc sở cảnh sát và đội trưởng đội hình sự bóp cổ hai nữ cảnh sát thì cổ tay của họ vẫn không hề lưu lại vết tích giãy giụa, giằng co.

    Sau khi ra tay sát hại, họ chọn cách vứt đại xác nạn nhân ở một nơi nào đó, bởi họ biết hai nữ cảnh sát chết sẽ khiến giới cảnh sát triển khai điều tra, bất luận họ xử lý xác khéo léo đến đâu thì vẫn bị phát hiện. Khi tỉnh khỏi vai diễn trong trò chơi, họ thề với nhau sẽ tiêu huỷ tất cả những thứ liên quan đến thế giới đáng sợ này. Giờ đây họ giống như kiến bò trên cùng một sợi dây. Họ đã làm việc cùng nhau bao nhiêu năm, cùng phá bao nhiêu vụ án, còn lúc này họ cùng trở thành tội phạm, trong lòng hai người mơ hồ nỗi thấp thỏm và mong đợi phong ba bão táp ập đến.

    Đối với hai cảnh sát biến chất, chuyện đó khiến họ cảm thấy bất lực.

    Trong lịch sử phạm tội có rất nhiều vụ án mà hung thủ chính là cảnh sát, những vụ án này đều có chung một đặc điểm đó là bày hiện trường giả rất tinh vi và khó điều tra ra chân tướng, chính vì vậy những vụ án đó thường vô cùng li kì. Thậm chí người ta còn không thể lí giải nổi động cơ giết người của một số tội phạm, ví dụ như một cảnh sát ở Canada cố ý giết người, rồi tự mình phá án; hay một cặp vợ chồng cảnh sát rất nổi tiếng ở Mỹ, trong khi người chồng lấy súng bắn vào một người đi đường, thì người vợ đảm nhiệm vai trò cứu nạn nhân và chữa lành vết thương.

    Sau khi tổ chuyên án quay về tổng bộ, cảnh sát địa phương còn điều tra ra hành vi tham ô của giám đốc sở cảnh sát, việc này liên đới đến hàng loạt nhân vật tiếng tăm khác trong ngành và các lãnh đạo cao cấp trong thành phố.

    Tô My lấy làm khó hiểu, cô hỏi: “Họ tham ô nhằm mục đích gì nhỉ?”

    Họa Long đáp: “Thì lấy tiền để nhậu nhẹt, chơi bời chứ còn làm gì?”

    Bao Triển thở dài: “Một kiểu suy nghĩ biến thái ấy mà! Đối với một số người thì sở thích lớn nhất chính là tham ô.”

    Giáo sư Lương trầm ngâm một lát, rồi bảo: “Thực ra giám đốc sở cảnh sát và đội trưởng đội cảnh sát hình sự chỉ là những kẻ đứng mũi chịu sào, thích chơi trội hơn những phế phẩm đi làm chỉ biết đánh tú lơ khơ hay cờ tướng trên mạng mà thôi!”
     
    Gum, Dung dung, Trandinhanh and 5 others like this.
  7. Nhím Nhím

    Nhím Nhím Member
    • 344/373

    Bài viết:
    41
    Đã được thích:
    422
    Tập 1: BÓNG MA ĐÊM MƯA
    PHẦN 5: BỆNH VIỆN TÂM THẦN

    Lời dẫn

    Bây giờ tôi không tồn tại, nhưng trong quá khứ tôi đã từng tồn tại – Wan Faulkner.

    Tôi muốn kể sự thật cho mọi người, mặc dù sẽ chẳng ai tin tôi. Thế giới này thực ra chỉ là một cuốn sách, mỗi người chúng ta đóng một vai trong cuốn sách đó và chẳng ai có thể thay đổi được số phận của mình. Cuốn sách cứ âm thầm đi đến hồi kết đã được định đoạt sẵn, giống như thể mỗi chúng ta đều sẽ chết. Đó là sự thật không thể thay đổi!

    Chương 1Song trùng nhân cách
    Trong văn phòng tổ chuyên án, giáo sư Lương và Bao Triển đang đánh cờ, còn Tô My và Họa Long ngồi trước bàn máy tính tranh cãi gì đó.

    Giáo sư Lương hỏi: “Tiểu My, chuyện gì thế cháu?”

    Tô My đáp với giọng bực bội: “Họa Long cứ đòi cháu đưa ảnh của anh ấy lên mạng.”

    Giáo sư Lương dàn hòa: “Thì cháu đưa lên cho cậu ấy! Đơn giản thế có gì đâu mà phải lớn tiếng.”

    Tô My cự nự: “Giáo sư không biết đấy thôi!”

    Bao Triển cũng quay lại hỏi: “Anh ấy muốn đưa lên trang nào?”

    Tô My bất lực đáp: “Google!”

    Trừ Họa Long ra, ba người còn lại liền phá lên cười. Vừa lúc ấy phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc cầm một cuộn hồ sơ hình sự bước vào.

    Họa Long: “Chào sếp! Lại có vụ gì ạ? Lần này đi đâu vậy?”

    Phó cục trưởng trả lời với vẻ mặt vô cùng nghiêm trọng: “Địa ngục! Tôi không hề nói ngoa chút nào!”

    Tô My nhăn mày: “Rốt cuộc nơi đó ở đâu mà phó cục trưởng nói nghe khiếp thế?”

    Bạch Cảnh Ngọc vòng vo: “Nơi đó người béo bước vào lập tức hóa gầy, người gầy bước vào lập tức hóa phì nộn. Bất kể người béo hay kẻ gầy bước vào thì họ đều có điểm chung là nhất định sẽ biến thành những cỗ xác không hồn, vẻ mặt vô cảm, chân tay lờ đờ.”

    Giáo sư Lương gõ nhẹ xuống mặt bàn nói: “Tôi biết đó là nơi nào rồi. Bệnh viện tâm thần!”

    Bạch Cảnh Ngọc gật đầu: “Đúng vậy! Lần trước tôi từng đến bệnh viện tâm thần thị sát một lần, trong đó nhốt rất nhiều kẻ mắc bệnh tâm thần gây ra nhiều vụ trọng án. Hôm ấy tôi đã sốc nặng”

    Tô My tò mò: “Ồ! Chuyện gì mà khiến phó cục trưởng phải sốc vậy?”

    Hồ như Bạch Cảnh Ngọc không muốn nhắc lại chuyện cũ, suy tư một lát, ông cười mà như mếu đáp: “Họ uống thứ họ thải ra!”

    Ngày 29 tháng 12 năm 2007, bệnh viện tâm thần thành phố An Định xảy ra một vụ án giết người vô cùng nghiêm trọng, viện trưởng và viện trưởng phu nhân bị sát hại, hiện trường gây án diễn ra tại nhà xác của bệnh viện, cảnh tượng trông vô cùng thảm thương đến không nỡ nhìn, trên vách tường trong phòng in rất nhiều dấu vân tay và cả dấu vân chân. Cảnh sát địa phương đã tiến hành điều tra bước đầu, dấu vân tay là của viện trưởng phu nhân, còn dấu vân chân là của viện trưởng. Nhân viên trông nhà xác vẫn thoi thóp thở.

    Ba nạn nhân bị trói trên băng ca cứu thương, cả ba đều được gây tê toàn thân.

    Viện trưởng và viện trưởng phu nhân đã tử vong.

    Nhân viên trông nhà xác vẫn sống nhưng giờ đang rơi vào trạng thái người thực vật, bệnh trạng rất nguy kịch, có thể tắt thở bất cứ lúc nào.

    Tổ chuyên án nhìn những bức ảnh. Qua ảnh có thể thấy con ngươi của ba nạn nhân lồi hẳn ra, lông mi bị cắt.

    Họa Long chỉ vào bức ảnh hỏi: “Tại sao hung thủ lại làm vậy?”

    Giáo sư Lương đáp: “Hung thủ muốn cho ba nạn nhân nhìn thấy nhau thật rõ…”

    Vụ án nghiêm trọng đến nỗi cảnh sát địa phương, sở y tế và ủy ban nhân dân thành phố thống nhất phải mời tổ chuyên án đến giúp đỡ phá án, các lãnh đạo trên tỉnh cũng hết sức quan tâm, trưởng phòng trọng án thuộc đội cảnh sát hình sự họ Nghiêm cùng đến bệnh viện tâm thần thành phố An Định với tổ chuyên án. Cảnh sát bao vây toàn bộ bệnh viện, họ nhận định bước đầu rằng hung thủ có thể là bác sĩ hoặc bệnh nhân của chính bệnh viện này.

    Bệnh viện tâm thần thành phố An Định có niên đại rất lâu đời, nó được xây dựng từ những năm 30 của thế kỉ trước, tiền thân của nó là viện điều dưỡng dành cho các sĩ quan quân đội trong thời kì chiến tranh. Trước bệnh viện vẫn còn nhìn thấy hố bom. Bước qua cánh cổng nan sắt sẽ thấy bên trong cánh cửa là hai dãy nhà gạch lợp ngói xi măng. Hai dãy nhà chia thành ba khu vực, lần lượt là phòng tiếp tân, phòng chờ khám và phòng thăm người thân. Trong bồn hoa trước cửa trồng toàn hoa mào gà. Bước qua một cánh cổng sắt nữa thì thấy mở ra không gian trước mắt vô cùng khoáng đạt, rộng rãi. Đó là một chiếc sân lớn vắng teo không bóng người, cuối sân có một tòa nhà vô cùng cũ nát, dây trinh đằng bò kín các vách tường, lá cây đã rụng hết còn trơ thân và rễ gân guốc, khô héo bám chặt lấy cả tòa nhà, trông vô cùng quái dị và đáng sợ.

    Bốn thành viên của tổ chuyên án và trưởng phòng Nghiêm bước vào tòa nhà. Trong phòng họp của bệnh viện, viện phó giới thiệu với cả đoàn rằng bệnh viện tâm thần này tập hợp rất nhiều các thành phần bệnh nhân, ví dụ như bệnh nhân buộc phải cưỡng chế vào viện chữa trị, bệnh nhân thông thường, bệnh nhân đến kiểm tra thần kinh, bệnh nhân cai nghiện, bệnh nhân mắc bệnh tình dục… Tất cả có tám mươi ba bác sỹ và hộ lí, hai trăm mười bệnh nhân. Từ khi xảy ra vụ án kinh thiên động địa này thì rất nhiều bác sĩ đều làm đơn từ chức, nhưng viện phó không phê chuẩn cho bất kì ai bởi vì rất có thể hung thủ lẩn trốn trong số đó. Hơn nữa, nếu bác sĩ từ chức thì không ai chăm sóc và quản lí bệnh nhân. Rất nhiều bệnh nhân ở đây mắc bệnh tâm thần nặng từng phạm tội hình sự, gây nguy hại nghiêm trọng cho xã hội.

    Giáo sư Lương bắt đầu phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng người. Trưởng phòng Nghiêm dẫn cảnh sát địa phương tiến hành kiểm tra các tử thi chi tiết hơn, phòng kĩ thuật kiểm định các dấu vết nhỏ xuất hiện trên hiện trường vụ án. Họa Long và Tô My phụ trách thẩm vấn các nhân viên công tác tại bệnh viện, đặc biệt cần hỏi rõ hành tung cụ thể của từng người trong đêm xảy ra án mạng. Viện phó cùng các y bác sĩ tiến hành cấp cứu khẩn cấp cho nhân viên trông nhà xác, phải cứu anh ta bằng mọi cách bởi anh ta là người duy nhất sống sót và nhìn thấy hung thủ.

    Tám mươi ba nhân viên trong bệnh viện được chia thành từng đợt, lần lượt bước vào phòng thẩm vấn, rất nhiều người không chịu hợp tác. Tô My phát giấy và bút cho họ, yêu cầu họ ghi tường tận mình làm gì vào đêm hôm đó, có phát hiện điểm khả nghi nào hay không. Phần lớn các y bác sĩ đều cho rằng vụ án này do viện phó hoặc các bác sĩ trong bộ lãnh đạo gây ra, số khác ghi chép lung tung, ngoài ra còn có một y tá chỉ vẽ một vòng tròn trên giấy, mà không viết chữ nào.

    Tô My hỏi cô y tá đó: “Vòng tròn này có nghĩa gì? Mà… sao cô lại có râu?”

    Cô y tá lạnh lùng đáp: “Tôi muốn từ chức!” Nói xong, cô trừng mắt nhìn Tô My rồi quay người bỏ đi. Lúc ra đến cửa, cô y tá đấm mạnh xuống bàn với lực rất mạnh, làm mọi thứ đang đặt trên đó rung lên bần bật.

    Vì đặc thù của công việc nên các y tá trong bệnh viện tâm thần đều cao to, khỏe mạnh hệt như nam giới, người nào cũng lưng hùm eo gấu, sức khỏe phi thường.

    Y tá trưởng dẫn giáo sư Lương và Bao Triển tham quan quanh bệnh viện. Kết cấu của bệnh viện này thực chẳng khác gì nhà tù, đến đâu cũng thấy cửa bằng nan sắt, những bệnh nhân tâm thần nặng được cách ly riêng một chỗ, không được phép tự do ra vào, ngoại trừ số ít bệnh nhân nhập viện tự nguyện là có thể xuất viện thì đa số những bệnh nhân bị cưỡng chế vào đây đều khó có cơ hội lành bệnh để trở về với xã hội.

    Tầng hai là nơi dành cho những bệnh nhân tâm thần được người thân hoặc người giám hộ đưa tới. Tầng ba là những bệnh nhân tâm thần lang thang được ủy ban nhân dân thu nhận và đưa vào đây điều trị. Tầng bốn là những phạm nhân mắc bệnh tâm thần từng vi phạm pháp luật bị cưỡng chế vào viện.

    Tại phòng tiếp tân ở tầng hai, giáo sư Lương thẩm vấn một vài bệnh nhân tâm thần tự nguyện nhập viện điều trị. Họ được phép tự do hoạt động bên ngoài, thậm chí được vào thư viện đọc sách báo, bởi vậy rất có khả năng hung thủ nằm trong số những bệnh nhân dạng này.

    Người đầu tiên bước vào là một cô gái đeo kính trông rất giống dân trí thức, nom cô tiều tụy nhưng không kém phần xinh đẹp. Cô thản nhiên nói mình chính là hung thủ giết người, cô ta muốn giết viện trưởng từ lâu vì viện trưởng từng cưỡng bức cô ta. Rồi cô ta miêu tả rất sống động viện trưởng đã làm gì, các chi tiết nghe có vẻ vô cùng chân thực. Đang nói rất hùng hồn, đột nhiên cô ta quay ngoắt sang phía giáo sư Lương nói: “Ông cũng muốn cưỡng bức tôi đúng không! Tôi thừa biết!”

    Giáo sư Lương lúng túng mở bệnh án. Thì ra đây là bệnh nhân mắc chứng hoang tưởng. Cô ta cho rằng mình xinh đẹp và tất cả mọi người đều muốn cưỡng bức mình.

    Tiếp theo là một cậu béo da trắng mắt thâm quầng, trông chẳng khác nào mắt gấu trúc. Cậu ta ngồi xổm xuống góc nhà, tay run lẩy bẩy, ngay cả cơ mặt cũng co giật theo. Y tá trưởng khe khẽ giải thích: “Vì nhiều bệnh nhân ở đây phải thường xuyên sử dụng thuốc nên mắt họ có quầng đen xung quanh và tứ chi thường run lật bật.”

    Giáo sư Lương hỏi: “Cậu từng đến văn phòng của viện trưởng bao giờ chưa?”

    Cậu béo căng thẳng đáp: “Đến đó rồi! Viện trưởng uống trộm rượu của tôi. Trong phòng ông ta có một cái giếng, tôi giấu một thùng bia ở trong giếng đó, bia đặt dưới giếng ngon hơn bia ướp đá nhiều đấy, ông biết không?”

    Giáo sư Lương lại hỏi: “Viện trưởng bị sát hại rồi! Cậu biết tin này chưa?”

    Cậu béo thực thà đáp: “Họ có ba người, tôi nhìn rõ mồn một. Kẻ giết người đang đứng ngay sau lưng ông kia kìa!”

    Giáo sư Lương và Bao Triển không kiềm được liền quay lại nhìn, sau lưng không hề có ai, chỉ có một vách tường.

    Y tá trưởng xua tay bảo cậu ta đi ra. Bao Triển nhìn bệnh án, hóa ra cậu béo này là bệnh nhân mắc chứng ảo giác.

    Sau khi cậu béo rời khỏi phòng, thì một thanh niên bước vào, trông cậu ta hao hao giống sinh viên đại học, rất nho nhã và có học thức. Giáo sư Lương giở bệnh án. Đây là bệnh nhân mắc chứng tâm thần phân liệt, sở hữu hai nhân cách hay nói cách khác là song trùng nhân cách. Hai nhân cách trong con người đó có tên và trí nhớ hoàn toàn riêng biệt, nhưng cùng sống trong một cơ thể. Nếu nói cơ thể chúng ta là một cỗ máy thì với người mắc chứng song trùng nhân cách, cỗ máy đó do hai người điều khiển.

    Cậu ta mỉm cười chào mọi người, rồi ngồi xuống ghế phía bên kia bàn, hai tay đặt gọn gàng trên gối, trông chẳng khác gì một người hoàn toàn bình thường.

    Giáo sư Lương hỏi: “Cậu tên gì?”

    Cậu thanh niên đáp: “Lưu Vô Tâm!”

    Bao Triển thắc mắc: “Sao trong bệnh án lại ghi anh tên là Đỗ Bình? Vậy Đỗ Bình là ai?”

    Người thanh niên vỗ vào ngực mình và giải thích: “Thân thể này là của cậu ta! Của Đỗ Bình!”

    Giáo sư Lương gật gù vẻ rất hiểu lời cậu ta: “Một người bị phân chia ra thành hai nhân cách! Tôi trông cậu giống người có học, vậy phải xưng hô với cậu như thế nào đây?”

    Thanh niên nọ nói: “Cứ gọi tôi là Lưu Vô Tâm! Tôi sống trong cơ thể cậu ta…”

    Bao Triển tò mò hỏi: “Anh có hiểu gì về Đỗ Bình không?”

    Cậu thanh niên đáp: “Chúng tôi chưa bao giờ nói chuyện với nhau, cậu ta không hề biết đến sự tồn tại của tôi có điều tôi cảm nhận được cậu ta. Cậu ta là kẻ vô học, lười suy nghĩ bởi vậy tôi mới xuất hiện để thay thế cậu ta. Đơn giản thế thôi!”

    Bao Triển lại hỏi: “Anh rất thông minh! Người nhà đưa anh đến đây sao?”

    Cậu thanh niên trả lời: “Tôi tự nguyện vào đây vì thích nơi này, thích bệnh viện tâm thần. Ở đây ai cũng có thể nói nhăng nói cuội, điên điên khùng khùng, có thể thoải mái và công khai làm điều mình thích. Tôi thích cảm giác tự do, ghét áp lực và ghét ánh nhìn của người khác. Ở đây mọi thứ bất thường đều trở thành bình thường, bất kể anh tè trên giường, hoặc nhìn ai thấy ngứa mắt là thụi liền, chẳng ai quan tâm, chỉ cần anh thích là có thể làm. Đối với các bác sĩ ở đây thì chính bình thường mới là bất thường.”

    Giáo sư Lương hỏi dò: “Đỗ Bình thích nơi này không?”

    Cậu thanh niên thẳng thắn đáp: “Bây giờ là tôi – Lưu Vô Tâm. Lúc này cậu ta không tồn tại.”

    Giáo sư Lương lại hỏi: “Có vẻ cậu là người rất thích suy nghĩ, vậy tôi hỏi cậu, thế nào là tồn tại?”

    Cậu thanh niên đáp: “Tôi và ông giống nhau, chỉ tồn tại trong không gian và thời gian nhất định. Chúng ta từ đâu đến và vì sao lại ở đây? Câu trả lời là chúng ta đều được nhào nặn ra từ hư vô. Nếu nói chúng ta đều tồn tại trong một cuốn sách thì chúng ta chính là nhân vật trong cuốn sách đó, còn những người đọc sách lại là nhân vật của một cuốn sách khác!

    Giáo sư Lương quay lại chủ đề: “Vào buổi tối viện trưởng bị sát hại, anh đang làm gì?”

    Cậu thanh niên trả lời gọn lỏn: “Đọc sách!”

    Bao Triển hỏi luôn: “Sách gì vậy?”

    Cậu thanh niên nói: “Lược thời gian!”

    Buổi thẩm vấn kết thúc, người thanh niên đứng dậy từ biệt, cậu ta rất lịch sự bắt tay giáo sư Lương và Bao Triển. Khi bắt tay, cậu ta lặng lẽ truyền một tờ giấy vào tay giáo sư Lương. Khi y tá trưởng đã rời khỏi phòng, giáo sư Lương mới mở tờ giấy ra, trên đó viết: “Hãy cẩn thận với y tá trưởng! Có một người đàn ông cư trú trong cơ thể bà ta!”

    Bao Triển và giáo sư Lương nhìn theo bóng của y tá trưởng. Đó là một người phụ nữ tóc xoăn và đặc biệt cao lớn.

    Đêm hôm ấy, y tá trưởng sắp xếp mấy chiếc giường trong phòng tiếp tân để bốn thành viên của tổ chuyên án và trưởng phòng Nghiêm ở lại bệnh viện tâm thần. Hai cánh cổng của bệnh viện vẫn sừng sững và câm lặng. Trước cổng viện là một con phố, đứng trước cửa sổ phòng tiếp tân có thể nhìn thấy rất nhiều cảnh sát bồng súng đứng canh trước cửa. Từ cửa sổ hậu có thể nhìn thấy khu nghĩa địa phía sau bệnh viện tâm thần. Theo lời giới thiệu của viện phó thì đa số bệnh nhân tâm thần lang thang không nhà không cửa sống trong viện đều không có người đến nhận, cả những phạm nhân tâm thần gây nguy hiểm cho xã hội bị cưỡng chế vào đây cũng vậy, vì sợ họ tấn công nên gia đình không dám đón họ về nhà, hơn nữa bệnh viện cũng không dám thả nên sau khi họ chết, bệnh viện sẽ chôn họ trong khu nghĩa địa này.

    Đúng lúc nửa đêm khuya khoắt Họa Long và Bao Triển bỗng giật mình tỉnh giấc bởi tiếng thét thất thanh vọng lại từ khu mộ địa phía sau tòa nhà. Hai người vội vàng gọi trưởng phòng Nghiêm dậy. Ba người cầm đèn pin cùng lao ra nghĩa địa kiểm tra.

    Nghĩa địa tối om, cỏ mọc cao ngút đầu người, thỉnh thoảng lại vang lên tiếng cười quái dị. Ba người vòng qua mấy ngôi mộ, vào khoảnh khắc bước vào khu nghĩa địa, họ nghe rõ ràng thấy tiếng rên khóc của đàn bà từ sâu trong nghĩa địa vẳng tới.

    Họa Long lấy súng ra, Bao Triển soi đèn pin. Phía sau một ngôi mộ có người đàn bà áo trắng đang đứng.

    Người đàn bà chầm chậm quay đầu lại…

    Chương 2Mật thất trong bệnh viện
    Người đàn bà đó chính là y tá trưởng. Bà ta mặc chiếc áo y tá màu trắng, chầm chậm quay đầu lại, mọi người nhìn thấy da và thịt trên mặt bà ta đã bị tróc hết, miệng sùi bọt máu, phát ra tiếng kêu thảm thiết vừa như khóc lại vừa như cười.

    Cảnh tượng ấy khiến người ta hồn bay phách lạc. Trong lúc hoảng loạn, Họa Long bắn một phát súng chỉ thiên. Người đàn bà ngã sấp xuống ngôi mộ ngay trước mặt.

    Vừa lúc ấy, viện phó và đội trưởng đội bảo vệ nghe tiếng còi báo động liền chạy tới, cảnh sát đứng gác ngoài bệnh viện cũng lập tức lao vào. Bao Triển ra sức hét yêu cầu mọi người bảo vệ hiện trường, nhưng chẳng ai nghe lời anh, hiện trường trở thành bãi chiến trường hỗn loạn với đủ tiếng hò hét. Người nào người nấy ba chân bốn cẳng khênh y tá trưởng vào phòng cấp cứu của bệnh viện. Tình trạng thương tích của bà ta vô cùng nghiêm trọng. Một tiếng sau, mọi biện pháp cứu chữa y tá trưởng đều trở nên vô hiệu, bà ta tử vong do mất máu quá nhiều.

    Tổ chuyên án tiến hành điều tra khám nghiệm hiện trường. Tô My bắt đầu chụp ảnh, nhưng vì trên hiện trường chồng chéo quá nhiều dấu chân nên nhất thời khó phân biệt được dấu chân nào là dấu chân của thủ phạm.

    Giáo sư Lương chú ý đến vết bánh xe để lại trong mộ địa, nhân viên bệnh viện nhận ra đó là vết bánh xe của băng ca cứu thương.

    Bao Triển cẩn thận kiểm tra mộ địa một lượt, hiện trường còn sót lại một chiếc xẻng sắt, một ngôi mộ mới đào. Điều này rất kì quái, mộ địa nằm sau bệnh viện, cỏ mọc um tùm lại rất hoang vắng, hung thủ hoàn toàn có thể giết chết y tá trưởng rồi giấu xác vào lùm cỏ, nhưng y lại không làm vậy, chẳng rõ do cố ý hay có ẩn tình gì.

    Trưởng phòng Nghiêm mở cuộc họp khẩn cấp ngay giữa đêm. Ông cảnh sát già tính khí nóng nảy vừa đập bàn chan chát vừa lớn tiếng hét: “Hung thủ dám ngang nhiên giết người ngay trước mũi chúng ta, không những thế thủ đoạn lại vô cùng tàn nhẫn. Rõ ràng y muốn khiêu chiến với cảnh sát đây mà!”

    Giáo sư Lương nhận định: “Tôi cho rằng hung thủ vẫn đang ẩn náu trong bệnh viện, thậm chí có thể y ở ngay cạnh chúng ta, bởi thế hi vọng cảnh sát cho điều tra sâu hơn.”

    Cảnh sát thành phố An Định phụ trách báo cáo kết quả khám nghiệm tử thi và nghiệm chứng hiện trường.

    Bốn nạn nhân là viện trưởng, viện trưởng phu nhân, nhân viên trông nhà xác và y tá trưởng đều bị tiêm thuốc gây tê toàn thân trước khi sát hại. Thuốc tê được cất giữ ở rất nhiều nơi trong bệnh viện như trong hiệu thuốc, nhà kho, phòng cấp cứu, phòng chăm sóc… Những phòng này đều sử dụng loại khóa chìm kiểu cổ, ngay cả phòng phẫu thuật và phòng hóa nghiệm cũng vậy vì đã qua nhiều năm nên khe hở giữa cửa và khung cửa rộng toác ra, chỉ cần dùng tấm nhựa cứng tương đối mỏng như chứng minh thư hay thẻ nhân viên là có thể mở bật khóa cửa, bất cứ ai đều dễ dàng tự do ra vào.

    Trong nhà xác bệnh viện còn lưu lại khá nhiều dụng cụ gây án, tất cả có hai mươi bảy loại, gồm găng tay cao su, kìm, banh Volkman bốn răng tù tự động, đầu cưa điện, chìa khóa đầu cưa điện, kẹp cố định da đầu, dao phẫu thuật, kéo phẫu thuật, lưỡi cưa, thìa nạo, bông và v.v…

    Công cụ gây án có thể chia ra làm hai loại: dụng cụ phẫu thuật mở hộp sọ và dụng cụ phẫu thuật chi. Vòi nước tại hiện trường gây án được mở lớn, mặt đất lênh láng nước lẫn máu, hung thủ đeo găng tay nên không lấy được dấu chân và dấu vân tay trên hiện trường.

    Cảnh sát thành phố An Định tiến hành điều tra chi tiết về bối cảnh xã hội của viện trưởng và đã bước đầu xác định đây là vụ án nhất thời nảy ý định giết người nhằm mục đích báo thù rất dã man. Viện trưởng phu nhân chỉ ngẫu nhiên bị sát hại, hôm ấy bà lái xe đến đón viện trưởng cùng đi dự tiệc cưới của một người bạn. Hung thủ lần lượt gây tê cho vợ chồng viện trưởng trong văn phòng của ông ta, rồi lấy băng ca cứu thương chuyển vào nhà xác sau đó bắn thuốc tê vào nhân viên trông nhà xác, cuối cùng giết hại cả ba nạn nhân. Từ kết quả khám nghiệm tử thi cho thấy hung thủ cố tình để ba nạn nhân nhìn rõ quá trình giải phẫu. Trong văn phòng của viện trưởng và nhà xác không hề thấy dấu vết vật lộn, giãy giụa, điều đó chứng tỏ có lẽ hung thủ là người quen, thậm chí nhiều khả năng là nhân viên làm việc trong bệnh viện. Từ dấu vân tay và dấu vân chân của nạn nhân in trên tường cho thấy hung thủ có khuynh hướng lệch lạc nhân cách hoặc tâm thần phân liệt.

    Sau khi giáo sư Lương nghe người phụ trách cảnh sát thành phố An Định trình bày xong, ông nhận định: “Có ba khả năng. Thứ nhất, hung thủ là nhân viên làm việc trong bệnh viện. Thứ hai, hung thủ là bệnh nhân tâm thần đang điều trị tại bệnh viện. Còn một khả năng nữa…”

    Trưởng phòng Nghiêm ngạc nhiên hỏi: “Trong bệnh viện tâm thần này ngoại trừ y bác sĩ ra thì chỉ có bệnh nhân tâm thần. Lấy đâu ra khả năng thứ ba nữa?”

    Giáo sư Lương nói: “Khả năng thứ ba, hung thủ chính là bác sĩ mắc chứng tâm thần phân liệt. Có lẽ chính y không hề hay biết mình mắc bệnh tâm thần.”

    Bao Triển báo cáo tình hình khám nghiệm hiện trường, chiếc xẻng để lại gần mộ địa vốn dựng ở ngoài nhà ăn bệnh viện: Đầu bếp của nhà ăn, nhân viên tạp vụ, nhân viên quét dọn đều từng sử dụng chiếc xẻng này. Băng ca cứu thương vốn để ở khúc quanh trên hành lang tầng một của bệnh viện, hung thủ đã gây tê khiến y tá trưởng trực ban đêm đó ngất xỉu ở một nơi vắng người qua lại, rồi khênh lên băng ca cứu thương, sau đó y cầm xẻng dựng ngoài nhà ăn đi một mạch ra nghĩa địa. Có lẽ vì thuốc gây tê hết tác dụng nên y tá trưởng bắt đầu kêu lên thảm thiết, hung thủ vội vàng đẩy băng ca cứu thương về chỗ cũ rồi chạy trốn. Ngoài ra còn một khả năng nữa, đó là hung thủ cố tình dụ cảnh sát ra khu mộ địa. Nấm mồ mới đào là mộ mới, điều kì lạ là dưới huyệt không hề có thi thể hay hộp đựng tro cốt.

    Giáo sư Lương suy đoán: “Có thể trong khu nghĩa địa này ẩn giấu bí mật nào đó!”

    Bao Triển nói: “Chắc chắn hung thủ phải để lại dấu chân hoặc vết giày. Dẫu ngụy trang tài tình đến đâu thì một người đi đào huyệt cũng không thể xóa sạch mọi dấu vết.”

    Tô My lấy những bức ảnh chụp dấu chân tại hiện trường bày lên bàn cho mọi người xem. Vì các nhân viên đã phá hỏng hiện trường nên trên mặt đất có rất nhiều dấu giày. Nhất thời khó mà phân biệt được đâu là dấu giày của hung thủ.

    Giáo sư Lương nói: “Khi nãy đã làm kiểm định dấu chân của tất cả các nhân viên có mặt tại hiện trường. Tôi tin rằng có thể nhanh chóng điều tra ra dấu chân của hung thủ thôi.”

    Trưởng phòng Nghiêm ra lệnh: “Bắt đầu từ bây giờ, thuốc gây tê sẽ do viện phó trực tiếp quản lí. Khi muốn sử dụng, các nhân viên y tế phải ra chỗ viện phó lĩnh thuốc. Còn nữa, bây giờ yêu cầu tất cả nhân viên trực ban trong bệnh viện đều đi kiểm định dấu chân!”

    Cô y tá mọc râu ngồi cạnh viện phó lầm bầm trong miệng: “Chỉ huy gì mà ngu xuẩn thế.”

    Trưởng phòng Nghiêm nghe thấy liền quắc mắt nên hỏi: “Này đồng chí nam kia! Đồng chí vừa nói gì?”

    Cô y tá có râu chống nạnh nói: “Mẹ ông là đồng chí nam thì có! Tôi là phụ nữ!”

    Viện phó vội vàng khuyên can: “Y tá Chu, không được vô lễ!”

    Trưởng phòng Nghiêm đập bàn ầm ầm, bắt đầu to tiếng với y tá Chu. Vừa lúc ấy, trong hành lang bệnh viện vọng lại tiếng bước chân rầm rập, hai y tá và một nhân viên bảo vệ đang đuổi theo một người đàn ông cao lớn xông vào phòng họp. Người đàn ông cởi trần, gân xanh nổi cuồn cuộn nơi cổ, trông hùng hổ đến khiếp người, trên bụng anh ta có một vết sẹo dài, trên mặt và cánh tay đều chằng chịt sẹo. Anh ta quát nạt mọi người trong phòng: “Lũ súc sinh!” Nhân viên bảo vệ đứng đằng sau liền ôm ấy eo anh ta. Người đàn ông chuyển từ tức giận sang điên cuồng, anh ta vùng ra khỏi vòng tay nhân viên bảo vệ, vừa kêu lên những tiếng quái đản “Súc sinh!” vừa vung tay đấm loạn xạ vào tường. Mỗi nắm đấm đều dồn tất cả sức lực, âm thanh phát ra nghe rầm rầm, trong sát na bờ tường đã hoang đỏ.

    Người đàn ông lực lưỡng quay lại, hầm hầm lao vào giáo sư Lương đứng cách mình gần nhất. Họa Long đứng bật dậy định bảo vệ giáo sư Lương, nhưng y tá Chu đã xông ra trước. Cô kẹp chặt cổ anh ta từ phía sau, rồi dùng miếng võ vật cổ truyền của Mông Cổ vật ngửa anh ta xuống đất, trong khi tay còn lại của cô nhanh chóng tiêm thuốc an thần vào bắp tay anh ta. Người đàn ông cao to lập tức trở nên mềm oặt, anh ta được y tá và bảo vệ khênh về phòng.

    Y tá Chu phủi tay, nói với ông trưởng phòng Nghiêm: “Bảo ông chỉ huy ngu xuẩn nghĩa là rất ngu xuẩn, hiểu chưa? Ông nhìn thấy chưa? Nếu đợi xin thuốc tê, rồi mới đi lĩnh thì bây giờ trong căn phòng này đã có ít nhất mấy người thiệt mạng rồi đấy!”

    Bao Triển đột nhiên nhớ đến vòng tròn kì lạ mà cô y tá này vẽ trên giấy lúc lấy lời khai. Trong đầu anh chợt loé lên một suy nghĩ. Vòng tròn đó không hề bất quy tắc, mà nó được tổ thành bởi hai đường cong hình trăng khuyết. Tuy trông rất quái dị nhưng hồ như nó ẩn chứa một hàm ý sâu xa.

    Viện phó ra hiệu cho mọi người tiếp tục cuộc họp. Người đàn ông khi nãy chỉ là một bệnh nhân mắc hội chứng trầm cảm nặng mà thôi.

    Nét mặt trưởng phòng Nghiêm thể hiện rõ vẻ ngượng ngùng, ông ta ho khan một tiếng, rồi nói: “Ở đây tôi vẫn là cảnh sát có quân hàm cao nhất, cho nên mọi người hãy thực hiện theo yêu cầu của tôi. Còn chuyện quản lí thuốc an thần và thuốc gây tê thì bàn sau. Bây giờ gọi tất cả nhân viên trực ban trong bệnh viện đến đây để kiểm tra dấu chân. Trong số những người ra mộ địa chắc chắn có kẻ là hung thủ.”

    Viện phó không tán thành: “Nếu gọi tất cả các y bác sĩ trực ban đến đây thì bệnh nhân sẽ ở trong trạng thái không ai cai quản, chăm sóc.”

    Trưởng phòng Nghiêm gạt đi: “Tạm thời khóa tay bệnh nhân trên giường, khống chế họ ở tại chỗ!”

    Nhân viên trực đêm không nhiều nên việc tiến hành kiểm tra dấu chân diễn ra rất thuận lợi. Đầu tiên cảnh sát loại trừ dấu chân của tổ chuyên án, trưởng phòng Nghiêm, viện phó, đội trưởng đội bảo vệ và dấu chân của các cảnh sát đứng gác cổng, sau đó loại trừ thêm dấu chân của nạn nhân thì dấu chân cuối cùng tại hiện trường mộ địa chính là dấu chân của nghi phạm giết người để lại. Nhưng kết quả đối chiếu khiến mọi người vô cùng thất vọng, trong số nhân viên trực đêm tại bệnh viện không có dấu giày của người nào trùng khớp với dấu giày của nghi phạm.

    Bao Triển xem ảnh chụp dấu giày. Đó là vết tích của đôi dép lê.

    Vụ án này rất cổ quái, đầu tiên hung thủ gây tê cho y tá trưởng, sau đó giải phẫu phần mặt, rồi đào một huyệt mộ trong nghĩa địa tối đen như mực. Trong cả quá trình thực hiện hành vi phạm tội ghê rợn mà hung thủ lại đi đôi dép lê. Điều đó đủ thấy tố chất tâm lí của hung thủ vô cùng vững vàng.

    Viện phó nói: “Loại dép lê này chỉ dành cho bệnh nhân tâm thần trong bệnh viện.”

    Tô My hỏi: “Giờ đang là mùa đông mà bệnh nhân chỉ đi dép lê thôi sao?”

    Viện phó đáp: “Vẫn còn hơn để họ đi chân đất.!”

    Tổ chuyên án tiến hành điều tra thâu đêm. Cô gái mắc bệnh hoang tưởng và cậu béo mắc chứng ảo giác mà tổ chuyên án đã thẩm vấn lần trước lại bị gọi lên thẩm vấn lần nữa, song vẫn không phát hiện ra điều gì khác thường. Đôi dép lê của bệnh nhân tâm thần phân liệt Lưu Vô Tâm cũng chẳng hề dính bùn đất ngoài mộ địa. Điều đó chứng tỏ ba người họ đều không ra nghĩa địa phía sau bệnh viện.

    Khi trời hửng sáng thì đột nhiên phòng lưu trữ hồ sơ của bệnh viện chợt bùng cháy, khói nổi cuồn cuộn, lửa cháy ngùn ngụt, lưỡi lửa nhanh chóng liếm lên tầng ba. Bệnh nhân tâm thần ở tầng ba túm tụm đổ xô về một phía kêu la hỗn loạn. Vì không có ai trông coi nên họ đập hỏng các nan cửa sắt để thoát ra ngoài. Liền sau đó các bệnh nhân tâm thần ở tầng bốn cũng bị ngọn lửa hung tàn uy hiếp, có người sợ quá liền nhảy xuống đất và tử vong tại chỗ. Rất nhiều bệnh nhân tập trung tại lối ra cầu thang, trong phút chốc tiếng thét gào kêu khóc vang lên ai oán như tiếng ma hờn quỷ khốc. Cảnh tượng vô cùng hỗn độn.

    Một số bệnh nhân chạy ra sân viện nhảy múa đầy hưng phấn, một bệnh nhân còn mạo nhận mình là cảnh sát giao thông huơ tay loạn xạ chỉ huy mọi người đi lại. Anh ta đưa tay vào miệng huýt vang, âm thanh phát ra nghe như tiếng còi.

    Cảnh tượng hỗn loạn ấy kéo dài một tiếng đồng hồ, mãi khi cảnh sát phòng cháy chữa cháy và cảnh sát vũ trang ra tay thì mọi việc mới dần dần lắng xuống, vụ hỏa hoạn cũng được kiểm soát. Nhân viên y tế tiêm thuốc an thần cho những bệnh nhân quậy phá hung hăng nhất. Họa Long và Bao Triển đưa mắt tìm giáo sư Lương và Tô My trong đám người nhốn nháo, nhưng hai người đó đã biến mất từ khi nào.

    Khi vụ náo loạn xảy ra, giáo sư Lương và Tô My đang thẩm vấn Lưu Vô Tâm. Họ kiểm tra dép lê của cậu ta, nhưng không thấy gì khác thường.

    Giáo sư Lương chất vấn: “Lần trước cậu đưa cho tôi mảnh giấy viết “Hãy cẩn thận y tá trưởng”, ngay sau đó bà ta bị sát hại. Liệu đây có phải sự tình cờ ngẫu nhiên không?”

    Lưu Vô Tâm thản nhiên trả lời: “Tôi có nói ông cũng chẳng tin!”

    Giáo sư Lương hỏi: “Vì sao?”

    Lưu Vô Tâm đáp: “Bởi vì tôi là bệnh nhân mắc bệnh tâm thần, không ai tin lời nói của một kẻ tâm thần cả!”

    Giáo sư Lương lại hỏi: “Vậy cậu định nói gì với tôi?”

    Lưu Vô Tâm nói: “Thực ra tôi không hề bị tâm thần, các bệnh nhân trong bệnh viện này đều không mắc bệnh. Bác sĩ mới là người có bệnh.”

    Đúng lúc đó, hành lang bệnh viện bỗng trở nên náo loạn, ai đó hét lớn: “Cháy rồi! Chạy đi.”

    Giáo sư Lương, Tô My và Lưu Vô Tâm nghe vậy liền chạy nhanh ra ngoài hành lang. Một đám bệnh nhân tâm thần bỗng từ đâu ùn ùn kéo đến. Một lão già cất cao giọng hát kinh kịch, ông ta nhảy tưng tưng, thét vang một tiếng, sau đó xé quần áo trên người, phơi thân hình trước mặt Tô My. Tô My giật mình lạc giọng hét chói tai. Ba người vội vàng chạy vào kho chứa đồ ở tầng một của bệnh viện. Tô My kéo chặn cửa lại. Một lát sau, càng lúc càng nhiều người kéo đến hành lang. Rất nhiều bệnh nhân phá vỡ cửa sổ định nhảy vào, vài bệnh nhân khác bắt đầu đập cửa. Lão già mắc chứng thích khoe của quý khi nãy thò lưỡi đỏ lòm, cười khả ố với Tô My, rồi lớn tiếng gọi: “Bé yêu! Chúng ta đi ngủ đi! Quay sang mà nhìn này! Xem ta này…”

    Cuối cùng đám bệnh nhân tâm thần cũng phá tung cửa, tất cả xông vào phòng, nhưng trong đó chẳng có ai.

    Thì ra giáo sư Lương, Tô My và Lưu Vô Tâm phát hiện lối vào một gian mật thất dưới lòng đất ở trong kho chứa đồ. Tô My tháo then ngang, đợi Lưu Vô Tâm cõng giáo sư Lương vào hẳn trong mật thất, cô lập tức cài then ngang lại.

    Mật thất tối om, Tô My lấy điện thoại di động ra định gọi Họa Long và Bao Triển đến cứu, nhưng không may ở đây lại mất sóng. Nhờ ánh sáng yếu ớt tỏa ra từ điện thoại, họ nhìn thấy một số bình thủy tinh đặt trên kệ dài.

    Tô My gí sát điện thoại vào một bình thủy tinh để quan sát cho rõ, cô giật bắn mình phát hiện trong bình ngâm một bộ phận cơ thể. Trong những bình khác cũng đều ngâm các bộ phận của cơ thể người.

    Tô My kinh hãi đến nỗi đánh rơi điện thoại xuống đất ánh sáng điện thoại vừa vặn chiếu sáng phía mép tường, Tô My lờ mờ nhìn thấy ở đó có xác ướp.

    Chương 3Mật thất dưới lòng đất
    Tô My tìm thấy công tắc đèn, cô bật sáng, mật thất dưới lòng đất của bệnh viện tâm thần này nồng nặc mùi formalđehyde. Trên hai chiếc kệ lớn kê sát mép tường, đập vào mắt là những tiêu bản cơ quan trong cơ thể người. Nhìn bốn phía xung quanh căn phòng, người ta không khỏi thấy ớn lạnh.

    Giáo sư Lương kiểm tra xác ướp, thi thể đã được xử lí rút nước và rút mỡ một cách đơn giản, sau đó sử dụng chất chống mục và thuốc keo hoá, cuối cùng lấy băng cuốn lại thành hình xác ướp, cố định cơ thể bằng cách này có thể giữ được vài năm. Mỗi cỗ xác ướp đều được dán mã số tiêu bản, trên mỗi mảnh giấy đều viết địa chỉ.

    Đột nhiên, Lưu Vô Tâm trở nên thắc thỏm bất an, cậu ta nhìn chằm chằm vào những chiếc bình rồi lẩm bẩm: “Hình như tôi từng đến đây rồi thì phải!”

    Tô My và giáo sư Lương bắt đầu lo lắng, họ bị kẹt trong mật thất với một bệnh nhân tâm thần, trong khi ngoài mật thất là đám người điên.

    Tô My buồn nôn, giáo sư Lương cố gắng kìm nén cảm giác nhộn nhạo trong dạ dày, hai người nhìn Lưu Vô Tâm với ánh mắt khiếp đảm.

    Lưu Vô Tâm giơ một chiếc bình lên. Lát sau, cậu ta đặt chiếc bình xuống, vỗ tay bồm bộp ra lệnh: “Nào! Làm việc thôi”

    Giọng Tô My cơ hồ lạc đi, cô hỏi: “Làm việc gì? Lưu Vô Tâm, ở đây có lối ra nào khác không?”

    Lưu Vô Tâm ngơ ngác hỏi: “Lưu Vô Tâm là ai? Tôi là Đỗ Bình. Các người không muốn làm việc hả? Định chạy trốn chứ gì?”

    Đột nhiên Lưu Vô Tâm nổi nóng, cậu ta tiến từng bước lại gần hai người. Không gian trong mật thất rất nhỏ hẹp, một cô gái và một ông lão tàn tật đâu phải đối thủ của cậu ta. Lưu Vô Tâm áp sát giáo sư Lương, thò tay bóp cổ ông, rồi phẫn nộ quát lớn: “Đứng dậy! Mau làm việc!” Tô My không kịp suy nghĩ, vội ôm một chiếc bình ở gần đó đập thẳng vào đầu Lưu Vô Tâm. Formaldehyde trong bình bắn tung toé khắp nơi. Cậu ta ướt lướt thướt, lắc mạnh đầu như thể con chó lắc mình sau khi tắm, hai tay cậu ta vẫn tiếp tục bóp mạnh như thể muốn nhấc bổng giáo sư Lương lên khỏi mặt đất. Tô My lại ôm một chiếc bình lớn hơn đập vào đầu Lưu Vô Tâm. Chiếc bình vỡ tan, Lưu Vô Tâm ngã ngửa, đập mông xuống đất. Khi ngã cậu ta va phải chiếc kệ gần đó, chiếc kệ lật nghiêng, tất cả bình thủy tinh trên kệ đều rơi vỡ rào rào.

    Tô My khiếp đảm tột độ, cô vừa khóc vừa kéo giáo sư Lương định chạy ra khỏi mật thất, nào ngờ cô bị trượt chân ngã nhào.

    Lưu Vô Tâm chậm chạp đứng dậy, lầm bầm trách móc: “Làm việc thôi! Một mình tôi không thể làm hết được!”

    Giáo sư Lương cố tìm cách hòa hoãn tình thế.: “Được! Chúng tôi sẽ cùng làm việc với cậu! Cậu dạy chúng tôi nhé!”

    Lưu Vô Tâm bước ra phía sau những kệ gỗ, chẳng ngờ ở đó còn có một cánh cửa nữa. Tô My cố sức cõng giáo sư Lương đi theo Lưu Vô Tâm vào trong phòng. Sau khi cả ba người đã vào hên trong, Lưu Vô Tâm bật đèn,thì trong này cũng là tiêu bản.

    Tô My đặt giáo sư Lương xuống đất, họ chú ý đến ba làn cầu thang tỏa về ba hướng.

    Giáo sư Lương hỏi: “Ba cầu thang này thông đến đâu vậy?”

    Lưu Vô Tâm đáp: “Đến xưởng chế biến và văn phòng của viện trưởng!”

    Giáo sư Lương lại hỏi: “Còn cầu thang thứ ba thì sao?”

    Cậu ta thản nhiên trả lời: “Đến nhà ăn của bệnh viện! Không làm việc là không cho ăn đâu nhé!”

    Tô My dựng tóc gáy, một trong ba lối ra của mật thất ngầm dưới lòng đất này lại thông đến nhà ăn của bệnh viện. Sau khi đến đây, các thành viên của tổ chuyên án đã ăn bánh bao nhân thịt trong nhà ăn, nghĩ tới đó Tô My liền oằn người nôn thốc nôn tháo.

    Giáo sư Lương hỏi: “Lưu Vô Tâm… à không… Đỗ Bình! Viện trưởng bắt cậu làm việc ở nơi này sao?”

    Lưu Vô Tâm đáp: “Đúng thế! Tổ tôi có ba người là Gấu béo, chị Kính cận và tôi. Tôi là tổ trưởng.”

    Giáo sư Lương và Tô My đưa mắt nhìn nhau, hai người đã chuẩn bị sẵn tâm lí chạy trốn, phải rời khỏi nơi đáng sợ này càng nhanh càng tốt.

    Lưu Vô Tâm ôm một bình tiêu bản khóc nức nở, vừa khóc vừa nói: “Nó tên là Ô Ô, nó cho tôi táo. Lâu lắm rồi tôi không được ăn táo.”

    Tô My cõng giáo sư Lương hướng về phía cầu thang. Lưu Vô Tâm nghiêng đầu nhìn, cậu ta cầm móc sắt vừa hét vừa đuổi theo. Tóc cậu ta ướt bết bát chẳng khác nào hải tảo. Tô My đặt giáo sư Lương xuống góc tường, hai người cầm dao phẫu thuật trên bàn giải phẫu chuẩn bị tự vệ. Nét mặt Lưu Vô Tâm trông vô cùng hung tợn, cậu ta tức giận quát: “Các người không muốn ăn cơm hả?”

    Lưu Vô Tâm ném mạnh móc câu về phía hai người, móc câu đập trúng tường. Lần này chỉ là đòn hù dọa, lần sau móc câu chắc chắn sẽ nhằm giáo sư Lương và Tô My.

    Tô My lẩy bẩy giơ dao lên.

    Lưu Vô Tâm gạt bay hai con dao trong tay hai người, cậu ta gằn giọng: “Nói lại lần cuối nhé! Mau làm việc!”

    Giáo sư Lương đột nhiên nói: “Tôi để ý rằng cho dù người ta nói tất cả đều do số mệnh định đoạt và chúng ta không thể thay đổi số mệnh, nhưng chẳng phải trước khi qua đường, chúng ta đều nhìn trước ngó sau cẩn thận đó sao?”

    Lưu Vô Tâm kinh ngạc hỏi: “Ông đang nói gì thế!”, rồi cậu ta ngẩng đầu đăm chiêu suy nghĩ: “Hình như tôi từng nghe câu này ở đâu đó rồi thì phải!”

    Giáo sư Lương lại tiếp tục: “Nếu họ được gặp nhau lần nữa thì người này sẽ già hơn người kia.”

    Lưu Vô Tâm nghe thấy câu này, đôi mắt vốn trợn trừng ngây dại đột nhiên có thần trở lại, cậu ta thốt lên: “Lược sử thời gian! Đây là câu tôi thích trong Lược sử thời gian! Chúng ta đang ở đâu vậy?”

    Giáo sư Lương thở phào nhẹ nhõm: “Ơn trời! Cậu tỉnh lại rồi! Lưu Vô Tâm, mau dẫn chúng tôi rời khỏi đây được không?”

    Tổ chuyên án và trưởng phòng Nghiêm cảm thấy quá kinh hoàng trước khám phá về mật thất dưới lòng đất, trong khi đó viện phó lại khá điềm nhiên. Trong phòng họp ông ta giải thích thế này: “Từ trước đến nay việc xử lý tử thi vô danh luôn là lỗ hổng của pháp luật, thông thường sau khi để tử thi trong nhà xác một thời gian thì công an địa phương sẽ dán thông cáo tìm thân nhân của người chết, nếu quá thời hạn mà không có ai đến lĩnh nhận thì tử thi sẽ bị hoả thiêu hoặc mang đi chôn. Bệnh viện tâm thần thu nhận và chữa trị cho rất nhiều bệnh nhân tâm thần lang thang không nơi nương tựa, chúng tôi phải bỏ ra rất nhiều tiền để trị bệnh cho họ, lại còn phải cung cấp nơi ăn chốn ở, bởi vậy sau khi họ chết, chúng tôi bán thi thể họ cho viện nghiên cứu y học là hoàn toàn hợp tình hợp lí.” Viện phó còn giải thích thêm rằng hiện tại tình hình tài chính của bệnh viện tâm thần gặp rất nhiều khó khăn, gánh nặng chi phí quá lớn, nên đành phải tìm nguồn thu bằng nhiều cách. Ví dụ như thu phí chữa bệnh và ăn ở các bệnh nhân điều trị tự nguyện, cung cấp vật phẩm giải phẫu cho các trường đại học y và các bệnh viên. Họ buộc phải làm vậy để nuôi sống những bệnh nhân tâm thần bị cưỡng chế điều trị tại đây. Ngoài tiền viện trợ của chính phủ ra thì bệnh viện tâm thần buộc phải tìm đường mưu sinh, chính hoàn cảnh khó khăn đã khiến lãnh đạo bệnh viện buộc phải thực hiện chính sách mà pháp luật không ủng hộ cũng không phản đối này.

    Tô My nói: “Trước đây tôi từng đến xem triển lãm cơ thể con người. Bây giờ tôi mới hiểu nguồn thi thể trong triển lãm thương nghiệp đó được lấy từ đâu.”

    Viện phó khẳng định: “Đúng vậy! Đa số sản phẩm triển lãm trong các triển lãm tiêu bản cơ thể người trên thế giới đều là thi thể của dân Trung Quốc.”

    Tổ chuyên án thẩm vấn “Gấu béo” và “chị Kính cận” lại lần nữa, họ khai rằng y tá trưởng chính là người đã dạy họ giải phẫu.

    Gấu béo nói: “Chúng tôi đều thích y tá Chu và ghét y tá trưởng.”

    Chị Kính cận thêm vào: “Chúng tôi không muốn làm nhưng chẳng còn cách nào khác vì nếu không làm họ sẽ không cho chúng tôi ăn nữa. Chẳng cho ăn bất kì thứ gì cả!”

    Gấu béo bổ sung: “Y tá Chu cho chúng tôi rượu, rượu ngâm pín hổ hẳn hoi nhé, chị ấy lén lấy của nhà mang đến cho chúng tôi đấy! Bình rượu ngâm pín hổ ấy để trên giá trong mật thất.”

    Từ khi phát hiện ra mật thất xử lí tử thi vô thừa nhận trong viện tâm thần, các thành viên của tổ chuyên án và trưởng phòng Nghiêm quyết từ chối dùng cơm ở nhà ăn bệnh viện.

    Sớm tinh mơ ngày hôm sau, họ ăn sáng trong con ngõ nhỏ bán đồ ăn vặt ở trước cổng viện, con ngõ ấy nom bẩn thỉu, tồi tàn – nước tù đọng thành vũng vàng khè, nhưng thế vẫn còn vệ sinh và an toàn hơn nhiều trong nhà ăn bệnh viện.

    Bao Triển chợt ngẩng đầu lên, anh hìn thấy một tấm biển quảng cáo treo trên tường. Bao Triển ngẫm ngợi một lát, rồi nói: “Tôi biết hình tròn mà y tá Chu vẽ trên giấy lúc chúng ta thẩm vấn có ý nghĩa gì rồi. Chắc chắn những vụ án mạng này có liên quan đến vòng tròn đó!”

    Chương 4Người bán thận
    Vách tường treo tấm biển quảng cáo bán thận, trên đó còn viết số điện thoại. Tấm biển quảng cáo thật khiến người ta không khỏi giật mình. Buôn bán vũ khí, súng ống bị coi là phạm pháp, buôn lậu thuốc phiện bị xử tội, vậy mà người ta lại dám treo tấm biển quảng cáo bán thận ngay giữa thanh thiên bạch nhật trước con mắt của bao người.

    Bao Triển chợt hỏi: “Mọi người nghĩ hình tròn đại diện cho điều gì?”

    Giáo sư Lương đáp: “Khởi đầu và cũng là kết thúc! Đại diện cho số 0!”

    Tô My tham gia: “Hình tròn khiến tôi liên tưởng đến lỗ hổng lớn trên phần bụng của tử thi. Cứ nghĩ đến là tôi lại thấy sợ”

    Họa Long cũng thêm lời: “Cả vết sẹo gớm ghiếc của gã điên mắc hội chứng stress nặng kia nữa!”

    Bao Triển nói: “Hình tròn mà y tá Chu vẽ được ghép từ hai mảnh trăng khuyết. Hình ảnh đó khiến tôi liên tưởng đến một cơ quan trong cơ thể người.”

    Trưởng phòng Nghiêm hỏi: “Tim ư?”

    Bao Triển đáp: “Không! Có thể là thận!”

    Giáo sư Lương liền phân chia công việc cho các thành viên ngay tại quán ăn vỉa hè. Tô My dẫn bác sĩ pháp y đi khám nghiệm tử thi của Ô Ô, xác minh nguyên nhân gây ra vết thương ở vùng bụng và cái chết của cậu. Họa Long tiến hành thẩm vấn bệnh nhân mắc hội chứng stress và điều tra xem tại sao anh ta cũng có vết thương trên bụng.

    Trưởng phòng Nghiêm đề xuất: “Tôi nghĩ không biết ta có nên ra lệnh bắt viện phó không?”

    Giáo sư Lương nói: “Tôi nghĩ trưởng phòng Nghiêm nên đi xem sách thì hơn, nhất là cuốn “Lược sử thời gian” mà Lưu Vô Tâm hay xem!”

    Trưởng phòng Nghiêm xua tay chối: “Tôi không thích sách cứ đọc là đau đầu.”

    Giáo sư Lương thoả hiệp: “Thôi được! Tôi sẽ phụ trách đọc sách và tìm xem có dấu vết hoặc kí hiệu nào đánh dấu trong sách hay không. Còn phiền trưởng phòng Nghiêm điều tra lí lịch của y tá Chu. Pín hổ là vật khá đắt đỏ một y tá quèn như cô ấy làm sao mà đủ tiền mua nổi?”

    Bao Triển hỏi: “Còn cháu? Cháu sẽ làm gì?”

    Giáo sư Lương đáp cụt lủn: “Bán thận!”

    Bao Triển phụ trách thu thập các manh mối ở vòng ngoài, anh thay bộ thường phục, gọi đến số điện thoại viết trên biển quảng cáo.

    Cả Trung Quốc có hơn một triệu ba trăm ngàn người mắc bệnh suy thận, người bệnh chỉ có thể cứu vãn sinh mạng nhờ vào hai phương pháp là phẫu thuật cấy ghép tạng của người khác hoặc lọc máu. Đại đa số bệnh nhân đều lựa chọn phương pháp cấy ghép vì lọc máu cũng không thể hoàn toàn thải được hết độc tố ra ngoài cơ thể, hơn nữa trong trường hợp bệnh nhân phải điều trị lâu dài thì phương pháp này còn tốn kém hơn nhiều so với phương pháp cấy ghép. Nhu cầu thị trường quá lớn đã thúc đẩy bao nhiêu “chợ đen” buôn bán thận phát triển như nấm mọc sau mưa, đồng thời hình thành nên bao nhiêu mắt xích có liên quan về lợi ích kinh tế kết nối với nhau ví như bệnh nhân, môi giới, bên bán…

    Biển quảng cáo mua thận thường được treo ở những địa điểm công cộng như gần bệnh viện, gần bến xe và đặc biệt là những nơi tập trung nhiều lao động phổ thông.

    Một tiếng sau, có người lái chiếc xe con cũ nát đến đón Bao Triển. Anh ta hỏi thăm qua loa mấy câu về tình hình hiện tại của Bao Triển. Anh nói mình buôn tỏi thua lỗ bạn góp vốn ngày đêm siết nợ, giờ lâm vào đường cùng chẳng còn cách nào khác đành đi bán thận. Gã lái xe thấy Bao Triển mặc giản dị nên không hề tỏ ý nghi ngờ, anh ta lái xe vào một khu ổ chuột, sau đó lòng vòng rẽ trái rẽ phải mấy lần, cuối cùng dừng lại trong sân một con hẻm nhỏ.

    Những ngôi nhà ở đây nom rất cũ kĩ, lại không có cửa sổ, một đám người ngồi đánh bài, vài người khác đang xem ti vi.

    Qua giọng nói và âm điệu, Bao Triển nhận ra họ đến từ nhiều vùng miền trên cả nước và đều đến đây để đợi đến lượt mình được bán thận. Tuy kẻ Bắc người Nam nhưng họ chung một hoàn cảnh, đó là nghèo đói và thiếu tiền. Họ cùng một mục đích, đó là bán thận hoặc bán gan để kiếm tiền.

    Tên môi giới buôn bán nội tạng là người đàn ông trung niên hói đầu. Ông ta yêu cầu Bao Triển điền vào đơn tự nguyện bán thận. Gã lái xe khi nãy cầm ống tiêm lên bảo cần phải lấy máu để xét nghiệm, nếu máu đạt chất lượng thì phải tiếp tục tiến hành làm điện tâm đồ, xét nghiệm viêm gan B, xét nghiệm nước tiểu và siêu vi B. Nếu năm mục xét nghiệm đều thông qua thì mới được coi là cơ thể cho đạt tiêu chuẩn.

    Bao Triển vội xua tay bảo: “Từ từ đã! Tôi muốn hỏi rõ một chút, thế nào là cơ thể cho?”

    Gã môi giới buôn nội tạng đáp: “Tất cả những người ngồi trong phòng này đều là người bán thận, họ hoàn toàn tự nguyện, nếu các chỉ số của họ đều đạt tiêu chuẩn thì họ chính là những cơ thể cho.”

    Bao Triển hỏi: “Bán một quả thận được bao nhiêu tiền?”

    Gã môi giới trả lời: “Ba mươi lăm ngàn tệ một quả thận, bốn mươi ngàn tệ một lá gan.”

    Bao Triển tò mỏ hỏi dò: “Thế môi giới các ông lời được bao nhiêu?”

    Gã môi giới cảnh giác đáp quanh co: “Chẳng bao nhiêu đâu! Mà anh hỏi dò làm gì? Thuận mua vừa bán, nếu không muốn bán thì biến ngay cho khuất mắt!”

    Bao Triển liên lãng sang chuyện khác cho không khí đỡ căng thẳng: “Thế bán thận có hại gì cho cơ thể không?”

    Gã môi giới đổi giọng trấn an: “Ôi xời! Chả vấn đề gì sất! Khác gì nhổ cục đờm trong cổ đâu. Yên tâm đi!”

    Một người bán thận đứng gần đó nói đế vào: “Bố tôi cũng bán một quả rồi. Trong người có hai quả, bán một quả đâu có sao.”

    Một người khác cổ vũ tinh thần cho Bao Triển: “Ở đây còn được ăn uống ngủ nghỉ miễn phí, mà thức ăn cũng không tệ, ngày nào cũng có rau và thịt.”

    Gã lái xe khi nãy giới thiệu: “Trung tâm chúng tôi đắt hàng như tôm tươi, năm nay nuôi những một trăm chín mươi cơ thể cho cơ đấy!”

    Bao Triển thắc mắc: “Nhà nước nghiêm cấm buôn bán nội tạng cơ thể người. Các anh làm thế này chẳng phải phạm pháp sao?”

    Gã môi giới giải thích: “Ai bảo cậu làm nghề này là phạm pháp? Bệnh nhân còn khen chúng tôi đang làm việc thiện đấy!”

    Ai đó cũng lên tiếng: “Bán một quả thận vừa có thể cứu người lại vừa có thể kiếm ít tiền, thực ra việc ta làm cũng rất cao thượng đó chứ!”

    Bao Triển gật gù ra vẻ đã hiểu: “Nếu bán một quả thận mà không ảnh hưởng đến sức khỏe thì tôi cũng muốn bán một quả. Nhưng phía bệnh viện yêu cầu thân nhân của cơ thể cho phải kí giấy đồng ý mới được phép phẫu thuật, mà tôi lại chẳng có thân nhân ở đây thì làm thế nào?

    Gã môi giới gạt đi: “Bệnh viện chỉ cần tiền, nhét tiền vào tay là họ khắc làm phẫu thuật, họ không cần đối chiếu hồ sơ đâu mà sợ.”

    Gã lái taxi vỗ vai bảo: “Yên tâm đi! Nếu cần chúng tôi sẽ làm giả một bộ hồ sơ thân nhân của người bán thận, bệnh viện cũng mắt nhắm mắt mở cho qua thôi!”

    Bao Triển vờ mặc cả: “Các anh trả thêm cho tôi mấy đồng được không? Tôi đang túng quá!”

    Gã lái taxi lắc đầu: “Bây giờ ấy à, giá cả thấp hơn trước một chút vì bọn bệnh viện tâm thần đằng kia nhảy vào họ phá giá. Trước đây mỗi quả thận giá bốn mươi ngàn tệ, nhưng bệnh viện đó chỉ bán ba mươi lăm ngàn tệ nên chúng tôi đành phải hạ giá theo.”

    Bao Triển vờ như không biết sự tình, ngạc nhiên hỏi lại: “Bệnh viện tâm thần mà cũng bán thận ư?”

    Gã lái taxi nói: “Chứ sao? Lão viện trưởng thất đức ấy bán thận của bệnh nhân tâm thần, nghe nói lão ta bị giết hại rồi.”

    Gã môi giới trừng mắt nạt: “Đừng nói bừa! Cảnh sát vẫn đang điều tra vụ đó, đã có kết luận đâu!”

    Loanh quanh một hồi, cuối cùng Bao Triển lấy lí do mình mắc bệnh gan B, không đủ tiêu chuẩn làm cơ thể cho để rời khỏi hang ổ của bọn chúng: Trước khi rời đi, gã môi giới dặn đi dặn lại anh tuyệt đối không được tiết lộ với ai về địa bàn bí mật của bọn chúng. Bao Triển hứa chắc như đinh đóng cột rằng anh sẽ không hé răng nửa lời.

    Trở lại bệnh viện tâm thần, Bao Triển báo cáo cho giáo sư Lương những thông tin mình thu thập được ở trung tâm môi giới buôn bán nội tạng. Kết quả khám nghiệm tử thi của Ô Ô cũng cho thấy cậu bé bị thiếu mất sáu mươi phần trăm lá gan, còn người đàn ông mắc hội chứng stress nọ mất một quả thận.

    Trưởng phòng Nghiêm lập tức triệu tập cuộc họp khẩn cấp, quá phẫn nộ, ông ta vừa đập bàn rầm rầm vừa quát lớn: “Bệnh viện này bán gan, thận của người sống, bán xác tử thi, thử hỏi lương tâm để đi đâu hả? Lẽ ra các bác sĩ phải là những thiên thần áo trắng cứu người mới phải, đằng này các ông lại thấy tiền là sáng mắt lên, thấy lợi là vô tình thất đức, đúng là không bằng li cầm thú. Rốt cuộc bệnh nhân ở đây là người điên hay chính đám bác sĩ các ông mới là những kẻ điên rồ?”

    Bất kể viện phó thanh minh rằng mình không hề hay biết việc buôn bán nội tạng của bệnh nhân, nhưng ông ta vẫn bị lãnh đạo cấp trên bãi miễn chức viện phó, đồng thời cảnh sát cũng vào cuộc điều tra sâu hơn về mọi hành vi trong quá khứ của ông ta. Lãnh đạo sở y tế thể hiện rõ quan điểm rằng sở sẽ phối hợp với cơ quan công an nghiêm khắc trừng phạt những kẻ tham gia vào hoạt động buôn bán nội tạng người phi pháp.

    Căn cứ vào những thông tin biết được sau cuộc điều tra ngầm, Bao Triển cho rằng ngoài mối quan hệ cung cầu ra, thì chính việc các bệnh viện không tiến hành thẩm định và kiểm duyệt nghiêm khắc nguồn gốc xuất xứ của tạng được hiến tặng, họ thấy tiền là mắt hoa cả lên, không tuyên truyền đầy đủ cho người bán tạng biết về tính nguy hại sau khi bán thận, bán gan; họ chỉ làm qua loa đại khái, chỉ kiểm tra hồ sơ mang tính chiếu lệ đã vô tình tiếp tay cho bọn buôn bán nội tạng thừa cơ đục nước béo cò, vô tình giao cho bọn chúng một mảnh đất màu mỡ tha hồ hái ra tiền. Bọn chúng lợi dụng việc nhiều người làm hồ sơ giả đi ngụy tạo giấy tờ, giới thiệu và cung cấp người thân giả mạo giúp cho kẻ mua người bán nội tạng có thể thông qua các khâu kiểm duyệt và tiến hành phẫu thuật cấy ghép. Cả Trung Quốc có rất nhiều trung tâm môi giới buôn bán nội tạng người, ngành nghề này đã trở thành một mô hình dịch vụ trọn gói, thậm chí bọn chúng còn ra tay với cả trẻ em vị thành niên. Chính vì vậy các bác sĩ không thể chối bỏ được phần trách nhiệm.

    Còn những người đi bán thận thì thận trái đều viết chữ “mông muội”, thận phải đều viết chữ “nghèo túng” cả.

    Đại đa số họ là nông dân, với họ nghèo túng không đáng sợ mà đáng sợ là họ không có cách nào để thay đổi cuộc sống nghèo túng.

    Tô My thông báo: “Trong số tài sản của viện trưởng có hơn một triệu tệ không rõ nguồn gốc.”

    Giáo sư Lương hỏi luôn: “Thể tài sản của y tá Chu thì sao? Cô ấy có bao nhiêu tiền?”

    Tô My liếc nhìn tập tài liệu mới điều tra, rồi báo cáo tiếp: “Không có đồng nào cả! Cô ấy không có thu nhập! Y tá Chu làm việc ở bệnh viện tâm thần này đã được ba năm, nhưng cô ấy không được trả tiền.”

    Giáo sư Lương chợt quay sang lãnh đạo sở y tế và đề xuất: “Tôi có đề nghị thế này, hãy để y tá Chu đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo của bệnh viện tâm thần này!”

    Trưởng phòng Nghiêm ngần ngại: “Nhưng bây giờ vẫn chưa thể loại cô ta ra khỏi danh sách những người tình nghi.”

    Giáo sư Lương nói: “Y tá Chu không có thời gian gây án, bởi khi xảy ra hai vụ án đó, cô ấy còn đang bận chăm sóc bệnh nhân.”

    Lãnh đạo sở y tế phân vân: “Nhưng kinh nghiệm và học vấn của cô ấy đều chưa đủ điều kiện. Làm sao một y tá có thể đảm nhiệm chức vụ viện trưởng được?”

    Giáo sư Lương nói: “Sau khi điều tra, chúng tôi mới biết thì ra y tá Chu là tiến sĩ y học chuyên khoa thần kinh đi du học ở nước ngoài về, gia cảnh của cô ấy cũng rất khá.”

    Lãnh đạo sở y tế không hiểu liền hỏi: “Theo như giáo sư nói thì gia đình của y tá Chu khá giả, bản thân cô ấy lại có học vị tiến sĩ y học, không những thế còn đi du học ở nước ngoài về. Lí lịch đó hoàn toàn đủ điều kiện giúp cô ấy trở thành giường cột của bất kì bệnh viện nào ở trong nước với mức đãi ngộ vô cùng hậu hĩnh, vậy sao cô ấy lại chịu làm một y tá tình nguyện ở bệnh viện tâm thần cũ nát của chúng tôi? Chẳng những vậy cô ấy còn làm suốt ba năm mà không có nửa đồng tiền công, hàng ngày lăn lộn cùng đám bệnh nhân tâm thần bẩn thỉu, nhem nhuốc, rốt cuộc cô ấy có ý đồ gì? Hay cô ấy cũng mắc chứng tâm thần?”

    Giáo sư Lương trả lời ngắn gọn: “Cô ấy là một tín đồ cơ đốc giáo!”

    Cùng thời điểm ấy, trong bệnh viện tâm thần có một người bắt đầu cất giọng hát, ban đầu tiếng hát rất nhỏ hồ như vọng đến từ nơi xa xăm, nhưng sau đó thêm một vài người nữa hát theo, âm thanh càng lúc càng rõ ràng hơn, cuối cùng rất nhiều người trong bệnh viện tâm thần cùng nhau hợp xướng. Họ hát một bài hát của cơ đốc giáo, chẳng hê có nhạc nền, tiếng hát thuần túy xuất phát tự đáy lòng, nó khiến người ta có cảm giác tâm hồn mình được gột rửa sạch sẽ.

    Chẳng ai nói câu nào, mọi người lắng tai nghe, càng lúc tiếng hát càng vang hơn, càng lúc càng gần hơn. Các bệnh nhân tâm thân hát thế này:

    Mắt con nhòa lệ, không nhìn rõ mặt người, dường như lời người nói không còn được chân thực như trước nữa, người lấy bớt của con, để thêm vào cho người, để ý chỉ của người càng ngọt hơn trước. Con khẩn cầu người hãy dừng tay, khi con không còn sức để chiu đựng hơn nữa, nhưng người là thần thánh, làm sao người chịu dừng bước? Xin người đừng nhượng bộ, hãy để con chịu khuất phục trước người.

    Mắt con nhòa lệ, không nhìn rõ mặt người, dường như lời người nói không còn được chân thực như trước nữa, người lấy bớt của con, để thêm vào cho người, để ý chỉ của người càng ngọt hơn trước. Con khẩn cầu người hãy dừng tay, khi con không còn sức để chiu đựng hơn nữa, nhưng người là thần thánh, làm sao người chịu dừng bước? Xin người đừng nhượng bộ, hãy để con chịu khuất phục trước người.

    Mắt con nhòa lệ, không nhìn rõ mặt người, dường như lời người nói không còn được chân thực như trước nữa…

    (Giải nghĩa: Khi nhỏ con rất tin có chúa tồn tại ở trên đời nhưng lớn lên trải qua bao sự đời khiến con dần dần hiểu ra chúa không hề có thật, bởi vậy càng ngày con càng không nhìn rõ khuôn mặt của người. Nhưng bất luận thế nào con vẫn khẩn cầu người hãy lấy bớt của con để thêm vào cho người, để ý chỉ của người càng ngọt ngào hơn trước. Chúa ơi! Đôi khi con muốn cầu xin người rằng con không muốn tiếp tục nữa, vì gánh trên vai con quá nặng, con thấy mình không đủ sức bước đi, nhưng xin người đừng buông tay, đừng nhượng bộ, người không được đồng ý với lời cầu nguyện của con. Bởi tuy con cầu xin người cho con không phải tiếp tục làm nữa, nhưng chúa ơi, cầu xin người hãy đợi đến lúc con hoàn toàn khuất phục trước người. Bây giờ con chưa thể khuất phục, nhưng xin người hãy đợi con, đừng hạ con từ bậc tối cao xuống bậc thấp hơn. Amen!)

    Chương 5Ánh sáng nơi địa ngục
    Địa ngục có thật! Bóng tối cũng có thật!

    Ai từng đến bệnh viện tâm thần đều biết cảm giác khó có thể diễn tả thành lời ấy, nơi đó giống như một thế giới khác. Mắt bệnh nhân tâm thần như vực thẳm, họ chỉ nhìn thấy bóng tối.

    Nhưng giữa bóng tối mịt mùng vẫn le lói ánh sáng!

    Trong hành lí xách về nước của y tá Chu có một cuốn sách cũ tên là “Basilica di San Francesco d’Assisil[1]”.

    Ở trang xi nhê, cô dùng bút chì viết một câu: “Chúng ta sống trên cõi đời này không chỉ đơn thuần vì mục đích theo đuổi hạnh phúc của bản thân, mà còn nên làm gì đó để cống hiến cho mọi người.”

    Thực ra đó là câu nói của mẹ Teresa.

    Mẹ Teresa đoạt giải Nobel Hòa bình vào năm 1979, hội Tu nữ Thừa sai Bác ái do bà sáng lập có tổng tài sản lên đến hơn bốn trăm triệu đô la, những công ty giàu có nhất trên thế giới đều tình nguyện quyên tiền cho hội, bà được nhân dân trên toàn thế giới yêu mến, vậy mà khi từ trần tất cả tài sản cá nhân của bà chỉ là bức tượng chúa Jesus gặp nạn, một đôi dép và ba bộ quần áo cũ. Bà hiến tặng tất cả cho người nghèo, người bệnh, người cô đơn người không có nhà để về và người sắp chết, hiến tặng cả cuộc đời mình từ năm mười hai tuổi đến khi từ giã cõi đời năm tám mươi bảy tuổi.

    Chúng ta không hề biết gì về cuộc sống ở nước ngoài của y tá Chu, chỉ biết trong một lần tình cờ nói chuyện cô ấy kể rằng mình bị ngất xỉu giữa đường vì thiếu máu, khi tỉnh lại cô phát hiện mình đang ở ngay phía ngoài giáo đường của Dòng Thừa sai Bác ái ở Mỹ. Ngất giữa đường giữa chợ tại đất khách quê người, mà khi tỉnh lại cô lại thấy mình ở trong giáo đường. Đối với người chưa bao giờ đến giáo đường như y tá Chu, thì đó phải chăng là ý trời?

    Từ đó, y tá Chu trở thành tín đồ trung thành của Cơ đốc giáo.

    Mẹ Teresa sáng lập hơn sáu trăm cơ sở truyền giáo tại một trăm hai mươi ba quốc gia trên toàn thế giới.

    Giờ lại thêm một cơ sở nữa.

    Sau khi trở về nước, y tá Chu từ chối tất cả lời mời của những bệnh viện danh giá nhất trong nước, cô trở thành y tá thực tập tại bệnh viện tâm thần này. Cô từ bỏ danh lợi, địa vị và cả cuộc sống sung túc. Cô không có bất kì tham vọng nào, cũng không cần báo đáp, trong lòng cô chỉ có một trái tim tràn ngập tình yêu thương, tất cả những gì cô làm ở đây đều xuất phát từ tình yêu thương.

    Tấm lòng nhân từ và bác ái ấy giống như ánh trăng sáng vằng vặc, giống như vì sao lấp lánh trong đêm, nếu dùng tất cả mĩ từ trên cõi đời này để ca tụng con người sẵn sàng xả thân vì người khác như cô ấy cũng chẳng có gì quá đáng. Đối với y tá Chu, những bệnh nhân mà cô đang chăm sóc chính là anh chị em thân thiết của cô, cô cho họ niềm tin vào tín ngưỡng, cô giúp họ nhìn thấy ánh sáng trong địa ngục, để họ cùng có chung một đức Cha.

    Cô rất xấu, lại còn mọc râu như đàn ông, vai rộng, bụng to, nom chẳng có dáng vẻ gì của phụ nữ.

    Không những thế tính cô lại khá nóng nảy, bình thường cô cũng nhẫn nhịn, nhưng lòng người đời đã vượt quá sức chịu đựng của tấm lòng lương thiện tồn tại trong cô, bởi vậy những lúc không thể chịu nổi, cô lại văng tục, mắng mỏ người khác, thậm chí đánh họ.

    Nhưng tất cả bệnh nhân trong bệnh viện đều biết cô có đôi cánh trắng muốt trên vai, biết cô là một thiên thần.

    Thực ra trong thời gian ở đây cũng có lúc y tá Chu muốn buông xuôi tất cả, cô từng ngồi trên ba viên gạch trong sân bệnh viện, tựa vào dây trinh đằng bám ngoằn ngoèo trên vách tường, nhìn lên bầu trời đầy sao qua kẽ lá nước mắt lấp lóa đọng trên bờ mi, sau đó cô nhắm mắt, chắp hai tay vào nhau, có người nghe thấy lời cầu nguyện của cô, trong những tiếng thì thầm ấy có thể nhận thấy nội tâm cô từng trải qua nỗi giằng xé và do dự.

    “Thượng đế ơi! Con quá yếu đuối! Con nên tiếp tục ở đây hay lựa chọn cách ích kỉ là rời đi? Con có thể nhẫn tâm vứt bỏ họ không? Đây có phải địa ngục chăng? Con nhìn thấy quá nhiều bi kịch và đau khổ, còn họ chính là những người cần được yêu thương và quan tâm hơn ai hết! Chúa ơi! Đức Cha của con ơi! Trách nhiệm của một bác sĩ là gì? Có phải cũng giống như một giáo sĩ chăng? Thượng đế ơi! Con đã vượt trăm sông ngàn núi để truyền bá phúc âm của người. Đây là hành trình reo rắc ánh sáng của cuộc đời hay là một phương thức đi xuống, đi xuống mãi, đi cho đến khi thâm nhập vào nơi sâu của địa ngục, trong khi con chỉ mang theo một cuốn Thánh kinh để truyền tình yêu của người đến những kẻ sắp đọc nó? Phải chăng đó là sứ mệnh của con?

    Nhân danh Cha, con và các thánh thần! A men!”

    Y tá Chu ngước nhìn bầu không chi chít ánh sao và cô đã tìm được đáp án từ nơi sâu thẳm của đường chân trời. Sau lần cầu nguyện đó, cô nhờ người mua hộ cuốn truyện của mẹ Teresa và lấy Mẹ làm tấm gương. Vì tận mắt chứng kiến bao nhiêu tấm thảm kịch giữa trần thế nên cô càng muốn vắt hết sức mình để biến bệnh viện tâm thần giống như địa ngục này trở thành thiên đường.

    Kết thúc thời gian thực tập, cô nói với viện trưởng: “Tôi muốn ở lại đây làm nhân viên hộ lí tình nguyện.”

    Viện trưởng ngạc nhiên bảo: “Tình nguyện sao? Làm tình nguyện thì không có lương đâu đấy!”

    Y tá Chu khảng khái đáp: “Tôi không cần lương! Tôi làm ở đây không phải vì tiền!”

    Viện trưởng hỏi: “Thế cô định làm bao lâu?”

    Y tá Chu trả lời: “Làm cả đời!”

    Từ đó cô bắt đầu mở từng cánh cửa đi vào từng trái tim. Trên thế giới này, người bẩn thỉu nhất luôn là người cần được tắm rửa sạch sẽ nhất, người bị vứt bỏ là người cần được yêu thương và quan tâm nhất.

    Ở viện có một bệnh nhân mắc chứng hoang tưởng bị bức hại, anh ta luôn cảm thấy có người muốn truy sát mình, bởi vậy anh ta luôn luôn trốn chạy khắp nơi, lang thang từ bắc vào nam, từ đông sang tây. Khi vào bệnh viện tâm thần này, anh ta lấy tất cả lông tóc trên cơ thể bện thành một sợi dây và luôn trong tâm trạng sẵn sàng chạy trốn. Nhưng từ lúc y tá Chu đến đây, anh ta đã bỏ thói quen này. Câu đầu tiên y tá Chu nói với anh ta là “Đừng sợ! Tôi sẽ bảo vệ anh! Anh đan sợi dây này bao lâu rồi?”

    Bệnh nhân đáp: “Chín năm!”

    Y tá Chu khẽ thở dài, lẩm bẩm: “Những chín năm liền!”

    Trước đây chưa ai từng nói sẽ bảo vệ anh ta, từ nhỏ đến lớn người ta chỉ nói với anh những câu đại loại như “Cút!” “Đồ thần kinh!” “Tránh xa tao ra!” “Cho phát đấm bây giờ!”

    Y tá Chu cố gắng truyền bá phúc âm bằng ngôn ngữ đơn giản và dễ hiểu nhất. Trong một lần mất điện, mọi người vây quanh ánh nến, hoa tuyết ngoài cửa sổ lặng lẽ bay theo gió, cô nói với các bệnh nhân rằng đây không phải bệnh viện tâm thần, đây là ngôi nhà của chúa Jesus Kito, đồng thời còn là ngôi nhà của chính mình, mọi người đều là anh chị em của nhau nên cần giúp đỡ và chăm sóc lẫn nhau. Trong đêm tuyết rơi ấy, cô dạy họ hát bài hát của Cơ đốc giáo, rồi bảo với họ hôm nay là ngày lễ đặc biệt.

    Một bệnh nhân hỏi: “Ngày lễ gì vậy?”

    Y tá Chu đáp: “Ngày lễ Giáng sinh!”

    Lễ Giáng sinh đó, y tá Chu cho Ô Ô hai quả táo, còn dạy cậu thiếu niên mắc chứng mất trí nhớ ấy rằng con người cần phải yêu thương nhau vì mọi người đều là anh em một nhà, vạn vật trên cõi đời này đều là tạo vật của chúa.

    Ô Ô nói: “Cháu không nhớ cha cháu tên là gì nữa cô ạ!”

    Y tá Chu đáp: “Cha cháu chính là Thượng đế, đức Cha của muôn người!”

    Ô Ô gật gù: “Tên này có vẻ dễ nhớ đấy!”

    Y tá Chu gợi ý: “Cháu có hai quả táo, cháu nên tặng cho người mình quý nhất một quả. Vì cô rất quý cháu nên mới tặng táo cho cháu.”

    Ô Ô ngây thơ hỏi: “Thế nếu cháu không cho người khác thì cô có đánh cháu không?”

    Y tá Chu đáp: “Không! Nhưng nếu cháu còn gọi biệt danh của cô thì cô sẽ xử lí cháu ngay lập tức.”

    Ô Ô cười hì hì, thẽ thọt gọi: “Cô mông to ơi!”

    Y tá Chu lập tức nổi giận, mắng cậu bé rồi cho cậu một cái bạt tai thật.

    Ô Ô chẳng những không giận mà còn bảo: “Cháu phải nhớ kĩ chuyện này mới được!”

    Ô Ô cầm cuốn nhật kí, trên đó viết: “Hôm nay cô Chu cho mình hai quả táo và một cái bạt tai. Mình sẽ tặng một quả cho anh Vô Tâm, chẳng biết bao giờ anh ấy mới trở lại nữa! Cô Chu có biệt hiệu là “Mông to” vì mông của cô ấy rất to.”

    Y tá Chu tò mò hỏi: “Sao cháu lại muốn tặng táo cho anh Vô Tâm?”

    Ô Ô đáp: “Vì anh ấy đã dạy cháu một cách nhớ rất hay. Anh ấy bảo cháu ghi lại những chuyện quan trọng vào nhật kí, như thế cháu sẽ không quên chúng nữa!”

    Ngay sau đó, y tá Chu làm động tác như thể định giơ tay tát, cô nạt: “Thằng nhóc này! Sao cứ gọi biệt hiệu của cô thế hả? Lại còn ghi cả vào trong nhật kí nữa!”

    Ô Ô trả lời một câu khiến cô cảm động đến rơi nước mắt, cậu bé bảo: “Cháu sợ… cháu sẽ quên mất cô…”

    Nhật kí của Ô Ô rất ngắn, thường chỉ viết một câu, trong đó ghi chép những câu chuyện thường ngày xảy ra trong bệnh viện tâm thần, chỉ duy trang cuối cùng cậu viết khá dài: “Hôm nay, anh Vô Tâm nói viện trưởng là người xấu, y tá trưởng cũng là nguời xấu. Viện trưởng đưa mình đi khám sức khỏe, còn bảo ngày mai sẽ đưa mình sang bệnh viện khác để khám, sau đó mình sẽ được ra viện. Mình chẳng thể nhớ nổi hình dáng của mẹ trông như thế nào, nhưng mình nghĩ chắc mẹ sẽ giống với cô Chu…”

    Ô Ô mất sáu mươi phần trăm lá gan, cậu bé chết sau khi ngất xỉu vì mất máu quá nhiều. Đến tận lúc chết, cậu bé đáng thương đó vẫn không biết rằng sau khi cha mẹ quẳng cậu lại bệnh viện tâm thần, họ chẳng bao giờ cần cậu nữa. Người giám hộ từ bỏ trách nhiệm giám hộ cũng chính là một trong những nguyên nhân khiến viện trưởng dám lấy nội tạng của một người đang sống sờ sờ mang đi bán.

    Viện trưởng chết vì ông ta không tin các bệnh nhân tâm thần cũng biết yêu thương nhau.

    Ô Ô có ba nguời bạn thân là Gấu béo, chị Kính cận và Lưu Vô Tâm.

    Lưu Vô Tâm và Đỗ Bình ở chung trong một cơ thể, nhân cách thông minh trong cơ thể ấy ý thức rằng lão viện trưởng tham lam sớm muộn gì cũng ra tay với những bệnh nhân tâm thần khác, trong đó có chính mình, bởi vậy trên trang bìa cuốn Lược sử thời gian, cậu ta viết một câu thế này: “Đỗ Bình! Tôi cảnh báo anh, viện trưởng sắp cắt thận của anh đấy! Cả thận của chị Kính cận và Gấu béo nữa! Hi vọng anh đọc được những dòng này của tôi!”

    Phía dưới viết câu hỏi của Đỗ Bình: “Anh là ai? Chúng tôi phải làm gì bây giờ?”

    Lưu Vô Tâm đáp: “Ăn miếng trả miếng!”

    Tổ chuyên án kiểm định nét chữ thì biết đó là nét chữ của Lưu Vô Tâm và Đỗ Bình, tuy hai nhân cách phân liệt ở chung trong một cơ thể nhưng nhân cách chính và nhân cách phụ có tên gọi và trí nhớ khác nhau, thậm chí nét bút cũng không giống.

    Ngày thứ tư sau lễ Giáng sinh cũng chính là buổi tối Ô Ô qua đời, viện trưởng yêu cầu y tá trưởng nhanh chóng ướp tử thi. Y tá trưởng ra lệnh cho Đỗ Bình, Gấu béo, chị Kính cận mang Ô Ô xuống mật thất. Tâm trạng của ba bệnh nhân tâm thần rất nặng nề và đau buồn. Vừa nghĩ đến tương lai đen tối của mình vừa căm thù viện trưởng, họ đã lấy trộm thuốc gây tê và bộ dao kéo, máy móc phẫu thuật.

    Trong nhà xác, họ bắt đầu tiến hành gây tê toàn thân cho viện trưởng và viện trưởng phu nhân cùng nhân viên trông nhà xác, bắt họ nằm trên ba băng ca cứu thương. Viện trưởng phu nhân chỉ ngẫu nhiên bị sát hại, hôm đó bà tình cờ ở cùng chồng. Gã trông nhà xác bị cố ý sát hại, ngày thường gã này có hai tật xấu là uống rượu và đánh bệnh nhân sau khi uống rượu.

    Ba nạn nhân nằm trên cáng bắt đầu van xin ba bệnh nhân tâm thần tha mạng, tuy họ bị gây tê toàn thân nhưng họ hoàn toàn không mất ý thức, trong lúc lơ mơ họ vẫn có thể nói.

    Đỗ Bình nói với viện trưởng: “Ông muốn biến thành thực vật không?”

    Gấu béo thản nhiên chêm vào: “Tôi muốn xem xem da mặt ông thế nào.”

    Chị Kính cận phẫn nộ gằn giọng: “Thường ngày các người bắt chúng tao làm việc, giờ chúng tao bắt đầu làm việc đây!”

    Một công nhân lò mổ chuyên nghiệp cần mười phút để xử lí xong một con lợn, còn ba nhân viên phẫu thuật được chính y tá trưởng nghiêm khắc dạy dỗ và giám sát này chẳng mất đến mười phút để hoàn thành cả quá trình. Vết vân tay và vân chân in trên tường chỉ là trò đùa ác ý của những bệnh nhân tâm thần.

    Y tá trưởng chết trong nghĩa địa bệnh viện vì trong quá trình hung sát nạn nhân, Đỗ Bình đột nhiên trở lại nhân cách của Lưu Vô Tâm, mật thất là hiện trường gây án đầu tiên. Lưu Vô Tâm ngăn Gấu béo và chị Kính cận, cậu ta biết y tá trưởng chẳng sống được bao lâu nữa, nên bảo hai người kia vứt bà ta ra nghĩa địa.

    Nhân cách thông minh ấy đào một ngôi mộ rỗng với mục đích ngầm để lại manh mối cho tổ chuyên án. Cậu ta lồng túi nilon vào hai chân trước khi tới hiện trường gây án. Lưu Vô Tâm có thói quen đi dạo khi trời mưa, mỗi lần sân viện ngập bùn lầy, cậu ta lại xỏ chân vào túi non, rồi thắt nút ở cổ chân trước khi đi dạo. Đó chính là nguyên nhân vì sao tổ chuyên án không tìm thấy vết bùn trên đôi dép của Lưu Vô Tâm.

    Ban đầu y tá Chu không hề biết ba người họ là hung thủ, bởi vậy cô chỉ vẽ một vòng tròn để gợi ý cho tổ chuyên án điều tra về việc bệnh viện bán thận của bệnh nhân tâm thần, hi vọng nhờ đó có thể chấm dứt hành vi phi pháp và vô nhân đạo này. Nhưng sau khi vụ án đi vào chiều sâu thì y tá Chu bắt đầu sinh nghi. Đỗ Bình, Gấu béo và chị Kính cận cũng không hề có ý che giấu họ thành thật kể hết sự tình cho y tá Chu nghe.

    Y tá Chu không bao che cho ba bệnh nhân của mình, mà cô ấy đã làm ba việc cho họ.

    Y tá Chu để họ sám hối, trút bỏ hết tội nghiệt trong linh hồn.

    Y tá Chu cầu nguyện cho họ lần cuối.

    Y tá Chu cùng họ hát bài hát của Cơ đốc giáo, sau đó làm dấu thập tự trước ngực, rồi dẫn ba người vào phòng họp tự thú.

    Đỗ Bình, Gấu béo và chị Kính cận thành khẩn kể lại cả quá trình gây án, tuy xen vào đó là tư duy hỗn loạn và những lời lẽ thiếu logic của bệnh nhân tâm thần, nhưng về cơ bản vụ án đã tạm thời khép lại.

    Tổ chuyên án rất muốn nói chuyện với Lưu Vô Tâm nhưng kể từ khi dẫn giáo sư Lương và Tô My rời khỏi mật thất, nhân cách đó không bao giờ xuất hiện nữa.

    Về sau, cảnh sát vẫn không điều tra ra ai là kẻ cố tình phóng hỏa ở bệnh viện đêm hôm ấy, rất nhiều hồ sơ của bệnh nhân bị thiêu rụi cùng với một số tác phẩm nghệ thuật. Y tá Chu trở thành viện trưởng Chu, cô rất tiếc nuối vì tất cả tài liệu có giá trị đã thành đống tro tàn. Trong bệnh viện tâm thần có cả những nhà nghệ thuật đôi khi thiên tài cũng bị coi là kẻ tâm thần. Ngoại trừ bệnh nhân chuyên chế tác thủ công mỹ nghệ thường đan bện lông tóc trên cơ thể mình ra, thì ở đây còn có họa sĩ, nhà văn, nhà thơ, nhà ảo thuật và các nhà hoạt động nghệ thuật khác nữa.

    Năm 2000, có một người xòe bốn chiếc ô, bốn chiếc ô đó đều rách nát trơ gọng, không còn mảnh vải che, anh ta cứ tha thẩn đi trong gió tuyết giữa sân bệnh viện tâm thần.

    Năm 2001, có bệnh nhân tâm thần khắc bản đồ Thanh Minh Thượng Hà siêu nhỏ lên vỏ lon bia.

    Năm 2002, có người lấy đinh khắc một câu trên vách tường “Biến mất ở cõi trên tất cả sẽ trùng phùng ở cõi dưới.”

    Giáo sư Lương nhìn vách tường và trầm tư hồi lâu. Ông cảm thấy nét chữ ấy rất giống bút tích của Lưu Vô Tâm, mà năm 2002 Đỗ Bình chưa bị nhốt vào bệnh viện tâm thần này. Giáo sư Lương cảm thấy rất kì lạ vì hồ sơ của bệnh nhân này đã bị thất lạc. Ông liền hỏi lão gù trong phòng tiếp tân của bệnh viện.

    Giáo sư Lương: “Làm ơn cho hỏi một chút, ở đây có bệnh nhân tâm thần nào tên là Lưu Vô Tâm không ạ?”

    Lão gù: “Đỗ Bình chính là Lưu Vô Tâm mà! Cậu ta có hai tên.”

    Giáo sư Lương lắc đầu: “Tôi muốn nói đến Lưu Vô Tâm khác cơ! Năm 2002 có phải có một bệnh nhân cũng mang tên này vào đây không?”

    Lão gù nhíu mày suy nghĩ: “Lưu Vô Tâm à? Để tôi nhớ lại xem! À! Hình như tôi có ấn tượng về người này.”

    Giáo sư Lương vội hỏi: “Người đó làm gì?”

    Lão gù gù đáp: “Nge nói cậu ta là nhà văn. Cậu ta ở bệnh viện tâm thần này gần mười năm, giờ đã ra viện cũng được gần mười năm rồi!”

    [1] Basilica di San Francesco d’Assisi: Ngĩa là Thánh Phanxico thành Assisi.


     
    Chỉnh sửa cuối: 26/3/17
    Gum, Dung dung, Trandinhanh and 5 others like this.
  8. Nhím Nhím

    Nhím Nhím Member
    • 344/373

    Bài viết:
    41
    Đã được thích:
    422
    Tập 1: BÓNG MA ĐÊM MƯA
    PHẦN 6: NGƯỜI TUYẾT

    Lời dẫn

    Không ai tắm hai lần trong cùng một dòng sông, bởi cả dòng sông và người tắm đều đã khác trước – Heraclitus.



    Ngày 19 tháng 1 năm 2008, trời đổ tuyết.

    Đó là trận tuyết lớn nhất kể từ mấy chục năm nay ở ba tỉnh đông bắc này, tuyết rơi trắng xóa bầu không khí như vô vàn mảnh giấy trắng bị xé vụn. Người quét rác bắt đầu công việc của mình trong sân trường đại học khi trời còn tờ mờ sáng, cô phát hiện thấy trước sân kí túc nữ có một người tuyết đang đứng sừng sững, cứ ngỡ sinh viên chơi đùa đắp từ đêm qua, sáng nay nhiệt độ lại quá thấp nên giờ vẫn chưa tan. Nghĩ vậy nên cô không lấy làm lạ. Nhưng đến khi trời sáng bảnh mắt, cô mới để ý ngũ quan của người tuyết có vẻ gì đó hơi kì quái. Cô lấy hết can đảm tiến lại gần người tuyết quan sát thật kĩ, vừa nhìn rõ vật đứng trước mặt, cô tá hoả nhận ra đầu người tuyết giống hệt người thật!

    Cô quét rác mềm nhũn cả người, mãi mới lấy lại bình tĩnh hét lên thất thanh, rồi lập tức chạy đi thông báo với đội bảo vệ trường. Trong lúc chạy, cô ngã dúi dụi mấy lần liền. Đội trưởng đội bảo vệ vừa tỉnh dậy liền khoác vội chiếc áo bông ba chân bốn cẳng chạy ra hiện trường, ngay sau đó lập tức thông báo cho cảnh sát.

    Qua điều tra bước đầu, cảnh sát phát hiện tứ chi của người tuyết cũng là chân tay của con người. Kết quả giám định pháp y cho thấy người tuyết được lắp ráp từ năm nạn nhân.

    Thông tin nhanh chóng lan truyền khắp trường, toàn thể giáo viên và sinh viên đều sợ hãi, tinh thần ai nấy hoang mang, hoảng hốt cực độ, không khí nặng nề và u ám bao trùm lên từng ngóc ngách.

    Một nữ sinh phản ánh: Trước đêm xảy ra vụ án, cô nghe thấy phòng bên cạnh có tiếng bò lết và tiếng kéo lê vật gì đó trên mặt đất, sau đó cô liền mơ màng ngủ thiếp đi mất. Trong lúc ngủ, cô gặp ác mộng, cô mộng thấy một nữ sinh phòng bên bị sát hại, chân của cô bạn đó rời ra, đang lết nửa thân trên trong hành lang, một tay còn cầm theo cẳng chân của mình, dường như cô ấy cố bò ra khỏi phòng…

    Sau khi tổ chuyên án đến hiện trường, giáo sư Lương bảo cô nữ sinh ấy thế này: “Không phải cháu mơ, mà đó là sự thật!”

    Nữ sinh đó bàng hoàng kêu lên: “Hả? Sao cháu không biết gì nhỉ?”

    Giáo sư Lương không đáp mà hỏi lại, câu hỏi của giáo sư khiến cô nữ sinh nổi gai ốc: “Cháu biết mình có thói quen mộng du không?”

    Chương 1Ma ám phòng 309
    Trận tuyết lớn này khiến mọi ngả tắc nghẽn, sân bay đóng cửa, tàu hỏa đình trệ khiến bao nhiêu hành khách phải vạ vật ngoài ga, giao thông thành phố lao vào tình trạng tê liệt hoàn toàn.

    Sau khi nhận được điện báo của sở cảnh sát thành phố, tổ chuyên án liền đáp máy bay đến tỉnh thành, sau đó ngồi xe lửa đến thành phố lân cận vậy mà đường cao tốc nối giữa hai thành phố này lại bị phong tỏa, cảnh sát thành phố láng giềng phải huy động trực thăng đưa bốn thành viên tổ chuyên án đến ngôi trường xảy ra án mạng giữa trời tuyết đang hoành hành dữ dội.

    Trực thăng đáp xuống khoảng đất trống trước cổng trường, tiếng động cơ máy bay gầm rít thu hút rất nhiều giáo viên và sinh viên trong trường đổ xô ra xem.

    Tuyết vẫn rơi dày đặc, đội ngũ giáo viên và sinh viên toàn trường xếp hành ngoài cổng chào đón tổ chuyên án. Họ đứng thành hai hàng dọc theo cổng trường, nhưng chẳng ai vỗ tay, cũng không ai nói với ai câu gì, tất cả chỉ lặng lẽ dồn mắt nhìn theo bốn thành viên của tổ chuyên án. Tô My đẩy xe lăn cho giáo sư Lương, Họa Long và Bao Triển đi phía sau, chưa bao giờ họ cảm thấy trách nhiệm của mình lại nặng nề như hôm nay.

    Giáo sư Lương khẽ nói: “Nếu không phá được vụ án này thì chúng ta không còn mặt mũi nào trở về tổng cục, cũng chẳng còn mặt mũi nào đối diện với những sinh viên này nữa!”

    Bao Triển chậm rãi bảo: “Ít ra chúng ta đang có một lợi thế, đó là vì tuyết quá lớn nên tạm thời hung thủ chưa thể rời khỏi thành phố này.”

    Cuối đường là lãnh đạo ủy ban nhân dân thành phố đứng đó chào đón tổ chuyên án. Bên cạnh ông còn có giám đốc sở giáo dục và hiệu trưởng trường đại học này. Trước khi tổ chuyên án đến, họ đã thành lập tổ đặc nhiệm. Phó thị trưởng thành phố kiêm nhiệm chức giám đốc sở công an bởi vậy phó thị trưởng là tổng chỉ huy chuyên án, từ đó có thể thấy các cấp lãnh đạo rất coi trọng vụ án này.

    Phó thị trưởng bước đến gần bắt tay từng thành viên trong tổ chuyên án, người đông bắc vốn tính xởi lởi, hào phóng nên nhìn giáo sư Lương chỉ mặc một manh áo mỏng, phó thị trưởng liền cởi áo choàng của mình khoác lên người giáo sư Lương rồi luôn miệng nói “Mọi người vất vả quá!” Những lãnh đạo khác cũng tới hỏi thăm, họ mong ngóng tổ chuyên án đến từ rất lâu rồi, bởi trận tuyết lớn làm tắc nghẽn giao thông nên không thể ra đón từ xa, mong tổ chuyên án lượng thứ.

    Trong phòng họp của tòa nhà dạy học, sau khi hàn huyên dăm câu, giáo sư Lương liền đi vào việc chính: “Căn cứ vào kinh nghiệm điều tra phá án từ trước đến giờ thì càng ít người chỉ huy, hiệu quả lại càng cao, bởi vậy tôi đề nghị ngoại trừ phó thị trưởng ra thì các vị lãnh đạo khác xin cứ yên tâm trở lại đơn vị công tác. Tổ chuyên án chúng tôi sẽ tiếp quản vụ này. Phó thị trưởng có trách nhiệm thi hành và điều động các lực lượng cảnh sát”

    Hiệu trưởng trình bày trong trường có năm nữ sinh bị sát hại, bốn nữ sinh ở cùng một phòng trong kí túc xá, trong đó có con gái của một lãnh đạo cấp tỉnh, còn người thứ năm chưa rõ là ai, giờ vẫn đang điều tra. Thời điểm này nhà trường bắt đầu cho sinh viên nghỉ đông nhưng sau khi xảy ra vụ án, nhà trường nghiêm cấm toàn bộ giáo viên và sinh viên rời khỏi trường, phải đợi cảnh sát điều tra xong mới được về nhà. Có điều giờ đã sắp đến tết không thể cứ bắt mọi người ở lại trường mãi được, chính vì thế tổ chuyên án phải khẩn trương phá án, thời gian rất gấp gáp, áp lực bởi thế cũng không nhỏ!

    Giáo sư Lương nói: “Chúng tôi cần đi xem hiện trường gây án trước đã!”

    Kí túc xá nữ, nơi xảy ra án mạng là một tòa nhà khá cũ nom tối tăm, âm u. Đây là nơi ở dành cho sinh viên năm thứ nhất, trong tòa nhà không có camera theo dõi, cũng không lắp hệ thống báo động. Phòng 309 của bốn nữ sinh bị sát hại nằm ở tận cùng hành lang trên tầng ba, sát đó là phòng 308, đối diện là nhà vệ sinh và nhà tắm.

    Bốn nữ sinh sống trong phòng 309 đều bị giết hại, hiện trường vụ án thảm thương đến mức không nỡ nhìn, trong hành lang có nhiều vết máu kéo dài, một nạn nhân đã bò từ trong phòng ra kêu cứu, nhưng không hiểu vì sao cô gái lại bò trở lại phòng mình. Sau khi hung thủ giết hết bốn nạn nhân trong phòng kí túc, y liền mang họ xuống sân để lắp ghép thành một người tuyết. Lúc cảnh sát đến nơi thì hiện trường đã bị phá hủy, vì tuyết không ngừng rơi nên không thể lấy dấu chân của tội phạm trên sân kí túc, thêm vào đó thời tiết lạnh buốt khiến mọi người đeo găng tay, bởi vậy cảnh sát cũng không lấy dấu vân tay của mọi người trong kí túc.

    Phó thị trưởng thành phố báo sơ qua tiến triển của vụ án cho tổ chuyên án nắm được. Lãnh đạo sở đã tổ chức cho lực lượng cảnh sát tiến hành điều tra kĩ càng trên diện rộng. Quản lí kí túc xá đóng cổng lúc mười giờ đêm, mười một giờ đêm bắt đầu tắt điện, vì sắp được nghỉ đông nên cô quản lí cũng lơ là cảnh giác hơn, buổi tối không đi kiểm tra một vòng như thường lệ, hiện tại chưa thể xác định hung thủ có mấy người, cũng không đoán được giới tính của hung thủ và y làm cách nào để vào được trong kí túc. Phần đầu của người tuyết là đầu của một cô gái trẻ, chi của người tuyết là chân tay của bốn nạn nhân phòng 309. Toàn trường giờ chỉ còn hơn chục ngàn giáo viên và sinh viên, vì khá nhiều sinh viên thuê trọ ở ngoài, số khác đã trốn về nhà trước vì sắp đến kì nghỉ. Hiện tại chưa thể xác định đầu là của nữ sinh bị hại nào.

    Việc đầu tiên cảnh sát thực hiện sau khi vụ án xảy ra là thẩm vấn những nữ sinh ở phòng bên cạnh. Phòng 308 kế bên có một nữ sinh mắc chứng mộng du, đế giày cô gái có vết máu, điều đó chứng tỏ trong đêm xảy ra án mạng, cô từng xuất hiện tại hiện trường, nhưng bản thân cô lại không hề ý thức được điều đó, mà chỉ cho rằng mình gặp ác mộng.

    Nữ sinh mắc chứng mộng du này thường hay khoe khoang mình có đôi mắt âm dương nhìn thấy ma quỷ và những thứ không sạch sẽ khác, bởi vậy bạn học đặt cho cô biệt hiệu là Tiểu yêu. Tiểu yêu từng nói với các bạn rằng phòng 309 bị ma ám, bốn nữ sinh sống trong căn phòng đó tên là Lôi Lôi, Mai Tử, Tuyết Nhi và Dạ Man sớm muốn gì cũng gặp phải họa sát thân.

    Tổ chuyên án, phó thị trưởng và hiệu trưởng tiến hành thẩm vấn lại Tiểu yêu. Tô My chụp ảnh lại cả quá trình xét hỏi.

    Tiểu yêu nói: Sáng sớm ngày 19 tháng 1, cô vẫn chưa dậy khỏi giường thì nghe thấy dưới tầng một có rất nhiều người la hét, cô bịt gối vào tai ngủ tiếp. Sau đó cảnh sát ập vào, lật tung mọi ngóc ngách, khi nhìn thấy giày của cô, họ lập tức gọi ầm ĩ, dựng cô dậy, hỏi cô tối qua đi đâu. Tiểu yêu nói mình chẳng đi đâu cả, chỉ ngủ suốt ngày trong kí túc, nhưng bạn cùng phòng lại khai lúc tầm mười hai giờ đêm cô ra khỏi phòng một lần, bạn hỏi: “Đi vệ sinh phải không?” khi ấy cô trả lời: “Ừ!” Rồi khoảng năm phút sau thì cô trở lại phòng ngủ tiếp.

    Tiểu yêu cũng kể lại cho tổ chuyên án nghe chuyện về cơn ác mộng mà cô mơ thấy vào đêm hôm ấy. Cô mơ thấy mình vào nhà vệ sinh, trong bóng tối cô thấy cánh cửa phòng 309 kế bên chỉ khép hờ, tuy cách cánh cửa nhưng trong mơ cô biết rõ ràng rằng bốn cô gái phía sau cánh cửa ấy đã bị sát hại. Một trong bốn cô gái ấy bò ra khỏi cửa, Tiểu yêu nhận ra cô gái ấy là Lôi Lôi. Đầu của Lôi Lôi bị thương, cô cầm một cẳng chân của chính mình và lết đi. Dường như cô ấy định bò đến chỗ Tiểu yêu cầu cứu, phía sau cô bạn là một vệt máu kéo dài, Tiểu yêu vô cùng sợ hãi, cô liền chạy tọt vào nhà vệ sinh, vì quá khiếp đảm nên cô không thể tiểu tiện được. Tiểu yêu ngồi trên bệ xí một lúc, cô còn nhớ lúc ngồi xổm trên bồn cầu thì dường như phía dưới có gì đó cào cào vào người mình, Tiểu yêu cúi đầu xuống nhìn thì thấy bên bồn cầu thò ra một cánh tay khủng khiếp. Tiểu yêu sợ đến mức dựng cả tóc gáy. Lúc cuống cuồng chạy khỏi nhà vệ sinh thì cô nhìn thấy Lôi Lôi bò từ hành lang trở lại phòng, tiếng đóng cửa vang lên kèn kẹt.

    Giáo sư Lương thì thầm mấy câu vào tai Tô My, Tô My liền buông máy quay xuống, nhìn đồng hồ, rồi đi ra khỏi phòng, vào nhà vệ sinh ở phía đối diện, khi về phòng cô lại nhìn đồng hồ. Cả quá trình chỉ mất hai phút.

    Giáo sư Lương hỏi: “Khi ấy cháu đi tiểu tiện hay đại tiện? Cháu có hay bị táo bón không?”

    Tiểu yêu phản bác: “Cháu không đi tiểu tiện, cũng chẳng đi đại tiện, suốt đêm cháu không ra khỏi phòng, những gì cháu vừa kể chỉ xuất hiện trong giấc mơ của cháu mà thôi!”

    Giáo sư Lương liếc mắt nhìn bản tường trình vụ án, ông nói: “Không phải cháu nằm mơ! Các bạn cùng phòng đều phản ánh cháu có thói quen mộng du, chuyện cháu nhìn thấy là hiện trường vụ hung án ngoài đời thực khi đó rất có khả năng hung thủ ở rất gần cháu, y đứng ngay sau cánh cửa phòng 309 hoặc đang ẩn nấp trong nhà vệ sinh.”

    Bao Triển nói: “Chúng tôi cũng tìm thấy vết máu trên bồn cầu.”

    Tiểu yêu kinh hãi kêu nhỏ: “Ối! Vậy những cơn ác mộng trước đây của cháu cũng là thật sao?”

    Giáo sư Lương hỏi: “Trước đây cháu từng gặp những cơn ác mộng như thế nào?”

    Tiểu yêu nói: “Ông cháu là thầy phong thủy, bởi vậy cháu cũng hiểu một chút về phong thủy, từ nhỏ đã nhìn thấy linh hồn, chuyện đó rất khó giải thích. Khi bắt đầu bước chân vào đây học năm thứ nhất, cháu đã cảm thấy tòa nhà này có gì không ổn lắm, theo như phong thủy thì đây là mảnh đất hung sát. Có một lần cháu nằm mơ thấy phía dưới căn phòng 309 có một ngôi mộ vô chủ, trên mộ mọc một thân cây, rễ cây xoắn xuýt đan cài vào nhau, tuy thân cây đã bị chặt bỏ nhưng phần rễ dưới lòng đất vẫn rất vượng, sau đó ngôi mộ đó bị đào bỏ đi và xây nên tòa nhà này, cô hồn dạ qủy trong ngôi mộ liền chạy thoát ra hại người.”

    Tô My và Họa Long cười khẩy, cho rằng đó chỉ là câu chuyện nhát ma.

    Bao Triển sinh ra ở vùng nông thôn nên anh luôn kính ngưỡng các thuyết phong thủy. Bao Triển nửa tin nửa ngờ hỏi: “Thế có cách nào phá giải nó không?”

    Tiểu yêu đáp: “Em hỏi ông nội, ông bảo “Mộ hoang mọc cây, cực hung cực độc, san phẳng mộ này, tất sinh âm sát, ma khí ngùn ngụt, hậu họa khôn cùng, không cách hóa giải, đành phải sống chung”, rồi ông chỉ cho em một phương pháp khắc chế là mang bể cá vàng để trong kí túc, chăm sóc thật tốt không được để cá chết, mà nhất thiết phải là cá màu vàng pha đỏ mới phát huy công dụng… Em đã khuyên Lôi Lôi làm thế, nhưng bạn ấy không tin lại còn chế giễu em ngốc nghếch, người ta là tiểu thư con quan, làm gì có ai dám hãm hại!”

    Phó thị trưởng đưa mắt nhìn hiệu trưởng, hiệu trưởng ngẫm một lát rồi kinh ngạc thốt lên: “Đúng là có chuyện đó thật! Tôi nhớ ra rồi! Năm đó khi cho xây dựng tòa nhà này, công nhân đào được một ngôi mộ, tôi liền cho dán thông báo tìm thân nhân của ngôi mộ nhưng chẳng có ai đến liên hệ xin nhận lại, thế là đành đánh trống bỏ dùi. Sau này nhiều sinh viên ở tòa nhà này đều nói các em nghe thấy tiếng động kì lạ lúc nửa đêm và đòi đổi sang tòa nhà khác.”

    Tiểu yêu nói: “Chúng em cũng muốn đổi phòng ngay bên cạnh là hiện trường vụ thảm sát, em toàn nhìn thấy những cảnh tượng sợ hết hồn.”

    Hiệu trưởng lấy làm khó xử, bảo: “Giờ sắp đến kì nghĩ đông rồi, để đến khai giảng thầy sẽ đổi phòng cho các em.”

    Phó thị trưởng hỏi: “Cháu nhìn thấy chuyện đáng sợ gì xảy ra ở đây vậy?”

    Tiểu yêu đáp: “Trước đây từng có một người nữa chết trong phòng 309… Một nữ sinh… Bạn ấy treo cổ tự sát.”

    Thầy hiệu trưởng gật đầu, nghi hoặc hỏi lại: “Sao em biết? Chuyện này đã xảy ra nhiều năm trước rồi!”

    Tiểu yêu trả lời: “Có lần em mơ thấy, có lần em nhìn thấy. Bạn nữ đó mặc váy trắng treo mình trên cửa phòng ngủ.”

    Bao Triển hỏi: “Cô gái đó tóc ngắn hay tóc dài?”

    Tiểu yêu đáp: “Tóc ngắn! Trông như con trai vậy!”

    Bốn thành viên của tổ chuyên án đưa mắt nhìn nhau, giáo sư Lương lấy ảnh chụp người tuyết đưa cho Tiểu yêu nhận diện, cạnh người tuyết cắm một cây cọc, phía trước là chiếc thước cuộn màu vàng kéo dài theo thân cọc, đây là tấm ảnh cảnh sát đo chiều cao của người tuyết. Phần đầu của người tuyết đã được phủi sạch sẽ, vẻ mặt thể hiện rõ nét đau khổ đến tận cùng, hai mắt vô hồn, vì bị đông nên khuôn mặt nhợt nhạt. Đầu người đó có mái tóc ngắn, nom như con trai.

    Tiểu yêu nói: “Dường như cháu từng nhìn thấy ánh mắt của người này. Cháu vẫn nhớ láng máng.”

    Giáo sư Lương khích lệ: “Cháu cố nhớ kĩ lại xem!”

    Đột nhiên Tiểu yêu sợ hãi vứt tấm ảnh xuống đất, cô bé lúng búng nói: “Cái đầu này… khuôn mặt này… Đúng rồi! Trông rất giống bạn nữ từng treo cổ tự sát trong phòng 309.”

    Chương 2Tái hiện hiện trường
    Trong phòng họp, mọi người triển khai thảo luận vụ án, giáo sư Lương yêu cầu mọi người buộc phải phát biểu ý kiến của mình, phải mạnh dạn nói ra quan điểm suy luận.

    Bao Triển phát biểu đầu tiên: “Người mộng du có thể thực hiện những hành vi rất phức tạp, ví dụ như ra phố mua đồ mà bản thân không hề hay biết. Lúc Tiểu yêu mộng du, cô ấy ra ngoài năm phút, điều này đã được bạn cùng phòng xác thực, trong khi đó thời gian để đi từ phòng ra nhà vệ sinh, rồi trở về phòng chỉ mất hai phút, vậy trong ba phút còn lại đó cô ấy đã làm gì? Đó là một trong những nghi vấn của vụ án. Ngoài ra khi ấy bạn cùng phòng của Tiểu yêu vẫn chưa ngủ, vì sao họ đều không nghe thấy động tĩnh phát ra từ ngay phòng kế bên? Hay họ có nghe thấy gì đó nhưng sợ không dám nói ra? Các bạn cùng phòng của Tiểu yêu và nhân viên quản lí kí túc đều liệt vào những đối tượng tình nghi cần điều tra trọng điểm.”

    Họa Long nói: “Chưa bao giờ tôi tin vào những chuyện ma quỷ, nếu hung thủ là người thì rất khó đột nhập vào phòng và cùng lúc ra tay giết chết bốn nạn nhân. Tôi phân tích và cho rằng hung thủ đã nấp ở góc nào đó trong phòng 309 trước, ví dụ như sau cánh cửa hoặc trong tủ quần áo. Các nữ sinh không đồng loạt trở về phòng cùng một lúc mà họ về lần lượt, hung thủ ra tay từng người một.”

    Tô My đưa ra ý kiến: “Chúng ta có thể lần ra manh mối từ nhật kí cuộc gọi di động của bốn nữ sinh, nhật kí điện thoại bàn trong phòng và camera ở cổng trường vào hôm xảy ra án mạng.”

    Hiệu trưởng nêu thắc mắc: “Tôi sẽ cố gắng nhanh chóng xác định được lai lịch của đầu người tuyết. Nữ sinh tự sát mấy năm về trước được người nhà đưa di thể về quê an táng, có lẽ ngay sau đó họ đã cho hỏa táng rồi. Vì vụ này, nhà trường còn phải bồi thượng một số tiền không nhỏ cho người nhà nạn nhân. Nếu quả thật đầu người tuyết là của nữ sinh xấu số đó thì chuyện này quá tà mị và biến thái. Chẳng lẽ người ta bảo quản bao nhiêu năm trong tủ đá, giờ cần dùng mới lấy ra sao? Hung thủ nặn người tuyết này nhằm mục đích gì?”

    Phó thị trưởng đáp: “Căn cứ vào kinh nghiệm của tôi thì hung thủ vẫn đang ẩn náu trong trường. Tôi đề nghị chúng ta sử dụng chiến thuật “biển người”, lục soát xem hung khí được cất giấu ở đâu thì ắt sẽ truy ra thủ phạm.”

    Họa Long phản bác: “Nhưng nếu không phát hiện thấy vũ khí ở hiện trường thì cũng không thể kết luận hung thủ không ở trong trường.”

    Phó thị trưởng lại đặt ra một giả thuyết khác: “Liệu người mộng du có giết người trong lúc vô thức không nhỉ? Trước đây tôi từng phá một vụ án. Một người đàn ông mộng du đã lấy súng săn bắn vợ mình mà bản thân lại không hề hay biết.”

    Bao Triển nhận định: “Tuy Tiểu yêu xuất hiện tại hiện trường vụ án nhưng khả năng cô ấy giết người không lớn, với năm phút không thể đủ thời gian để giết chết bốn người và đắp được người tuyết, trừ phi cô ấy có người giúp đỡ. Điểm đáng khả nghi ở đây là làm sao cô ấy biết chuyện nữ sinh treo cổ tự sát và chuyện công nhân công trình đào thấy ngôi mộ khi tiến hành đào móng xây kí túc?”

    Hiệu trưởng đáp: “Thì bạn nữ đó nói mình có mắt âm dương còn gì? Mà tòa nhà đó đúng là cũng xảy ra nhiều hiện tượng kì lạ thật.”

    Đội trưởng đội bảo vệ xác nhận: “Đúng vậy! Những sinh viên sống trong tòa nhà đó đều phản ánh nửa đêm thường nghe thấy tiếng khóc, còn nhìn thấy bóng ma nữa. Mấy dạo trước, cô Mai Tử ở phòng 309 cũng phản ánh phòng cô bị ăn cắp vặt vài thứ.”

    Họa Long đặt nghi vấn: “Vì sao trong bồn cầu lại xuất hiện cánh tay người nhỉ?”

    Giáo sư Lương nói: “Tôi chỉ có một băn khoăn. Ở nước ngoài cũng từng xảy ra những vụ án lắp ghép cơ thể, ví dụ như vụ án tiến sĩ bác sĩ ở Canada lắp ghép tử thi hoặc tòa án Nurnberg tại Đức từng xét xử vụ một chủ chăn nuôi gia súc chuyên săn người đi đường, để tạo ra những nhân vật giống như trong huyền thoại. Những vụ án này đều có chung một đặc điểm, đó là ngoài yếu tố tôn giáo ra thì hung thủ muốn tạo cảm giác khiếp đảm để trả thù xã hội hoặc cá nhân nào đó. Vấn đề tôi muốn hỏi là khuôn mặt của người tuyết được lắp ghép kia hướng về đâu? Hoặc nói cách khác, mắt của người tuyết nhìn trừng trừng về nơi nào?”

    Hiệu trưởng nghĩ một lát rồi nói: “Nơi người tuyết nhìn về là… khu tập thể giáo viên. Nhà trường mới xây khu tập thể này cho anh em giáo viên, có điều số lượng căn hộ chỉ có hạn.”

    Trước khi cuộc họp kết thúc, giáo sư Lương phân công công việc cho từng người, mỗi thành viên phụ trách một nhiệm vụ riêng.

    Dựa vào kết quả khám nghiệm của pháp y, Họa Long mô phỏng cách hung thủ tấn công nạn nhân, hiện trường để lại rất nhiều vệt máu, căn cứ vào quỹ tích vết máu bắn kết hợp với các vết thương chí mạng trên cơ thể nạn nhân, Họa Long bắt đầu thực nghiệm ra đòn. Ban đầu tổ chuyên án phán đoán hung khí giết chết bốn nữ sinh là một chiếc rìu, đầu đối diện với lưỡi rìu là mũi búa.

    Giáo sư Lương yêu cầu phó thị trưởng và đội trưởng đội bảo vệ lùng soát những thứ đó khắp toàn trường trường, đặc biệt là những góc chết tương đối hoang vắng như trong thùng rác, nhà kho, góc sân thể dục, phía sau sân khấu ở hội trường… Ngoài ra, giáo sư cũng ra lệnh dọn sạch tuyết đọng trên sân trường, lấy kí túc xá nơi xảy ra án mạng làm tâm điểm, mọi người tiến hành tìm kiếm khu vực xung quanh theo hình thức cuốn chiếu, không chỉ quan sát trên mặt đất mà còn phải chú ý đến những vật khả nghi ở trên dây điện hoặc trên cây cối gần đó, song song với việc tìm kiếm hung khí, mọi người cần chú ý tìm kiếm phần cơ thể của người cắm trên người tuyết.

    Hiệu trưởng có trách nhiệm nhanh chóng tìm ra lai lịch của người đó, phát động giáo viên và học sinh toàn trường cùng tham gia nhận diện, tận dụng triệt để các tổ chức đoàn thể như hội học sinh, không nên hạn chế đặc điểm nhận dạng là “nữ sinh tóc ngắn”, vì kiểu tóc có thể thay đổi, mà cần điều tra cả những nữ sinh tóc dài trong trường, bao gồm cả giáo viên nữ và người nhà mang giới tính nữ, không được để lọt bất cứ trường hợp nào, dù là nhỏ nhất, xác định lai lịch của sọ người đó là điểm then chốt để phá án.

    Giáo sư Lương yêu cầu Tô My không chỉ điều tra nhật kí cuộc gọi đến và gọi đi của bốn nữ sinh bị hại mà còn phải xác định qua camera giám sát ở cổng trường xem trong ngày xảy ra vụ án họ có rời khỏi trường hay không và khi nào quay lại. Đồng thời, Tô My còn phải kiểm tra nhật kí cuộc gọi của Tiểu yêu ở phòng bên cạnh, từ đó tìm ra những manh mối tiềm ẩn nhỏ nhất.

    Chẳng bao lâu sau, thông qua nhật kí điện thoại của bốn nữ sinh bị sát hại, Tô My biết họ có mối quan hệ tình cảm rất phức tạp với các nhân sĩ bên ngoài. Vào hôm xảy ra án mạng, Lôi Lôi gọi rất nhiều cuộc điện thoại cho một ca sĩ chuyên hát ở quán rượu. Mai Tử bị nghi ngờ là gái bao, cô ta thường xuyên đi lại với một thương gia giàu có ở địa phương. Tuyết Nhi có mối quan hệ tình cảm mờ ám với ông chủ một quán cơm gần trường. Ngoài Dạ Man ra thì ba nữ sinh phòng 309 có cuộc sống tình cảm rất phóng đãng, họ đều có tình nhân ở ngoài trường.

    Camera có thể quan sát mọi cảnh tượng diễn ra ở cổng trường trong mấy ngày trở lại đây, vì thời tiết rất lạnh nên đa số sinh viên đều đội mũ và đeo khẩu trang, thậm chí một số sinh viên chụp túi nilon lên đầu để tránh gió tuyết, ngoại trừ sinh viên học tại trường ra vào thì ở cổng trường còn có một cửa hiệu nhỏ chuyên bán hoa tươi, ông già tình nguyện điều khiển giao thông và người ăn mày quỳ gối xin ăn, đám côn đồ thích tụ tập đánh nhau… Và đáng chú ý hơn cả là lúc tan học có một chiếc xe con rất sang trọng đỗ tại cổng trường.

    Giáo sư Lương hỏi: “Sao chiếc xe đó lại đỗ ở đây?”

    Hiệu trưởng ngượng ngập trả lời: “Một số xe là của phụ huynh đưa đón con cái, một số là… xe đưa đón những nữ sinh viên làm bồ nhí.”

    Ở nhiều cổng trường đại học cứ đến cuối tuần là lại xuất hiện một số xe con đỗ trước cổng, trường học không còn là mảnh đất trong lành và thanh khiết nữa. Từ trị giá chiếc xe đỗ ngoài cổng có thể đoán ra phần lớn chủ nhân của chúng là những ông chủ doanh nghiệp giàu có, giá của chiếc xe tỉ lệ thuận với giá của cô gái mà ông chủ cặp kè.

    Camera lắp ở cổng trường cho thấy vào lúc sáu giờ tối hôm xảy ra án mạng, bốn nữ sinh Lôi Lôi, Mai Tử, Tuyết Nhi và Dạ Man đều rời khỏi trường, các bạn học cũng chứng thực chuyện đó, bốn nữ sinh nói sẽ đi ăn rồi cùng đi mua đồ, sau chín giờ tối bốn nữ sinh lần lượt trở về trường. Dạ Man về đầu tiên, liền sau đó là Lôi Lôi và Mai Tử, Tuyết Nhi là người về cuối cùng, mỗi người về cách nhau tầm năm đến mười phút. Đêm đó gió rít ầm ầm, tuyết rơi xối xả, bốn nữ sinh đều quàng khăn và đội mũ, Mai Tử còn bịt khẩu trang.

    Tổ chuyên án lấy khẩu cung của tất cả sinh viên trong kí túc, không chỉ cô nhân viên quản lí kí túc và các sinh viên nữ phòng 308 mà ngay cả các sinh viên ở thẳng tầng trên và tầng dưới với phòng 309 cũng trở thành trọng điểm cần thẩm vấn.

    Cô quản lí kí túc nói rằng vì mùa đông trời tối sớm, năm giờ trời đã bắt đầu nhá nhem, chín giờ hơn nhiều sinh viên đã lên giường đi ngủ, hơn nữa sinh viên cũng sắp được nghỉ đông nên cô không đi tuần đêm như thường lệ.

    Giáo sư Lương hỏi: “Khóa cổng ở đầu mỗi tầng và khóa phòng 309 đều không có vết tích bị phá hoại, ngoài cô ra còn ai có chìa khóa nữa không?”

    Cô quản lí đáp: “Khóa cổng mỗi tầng vừa được thay mới, còn khóa cửa phòng là loại khóa cũ, một chìa khóa có thể mở được cửa của mấy phòng, thậm chí một số sinh viên còn lấy kẹp tóc để mở cửa phòng mình.”

    Khi thẩm vấn nữ sinh phòng 209, tổ chuyên án thu được một thông tin, các sinh viên trong kí túc có rất nhiều ý kiến với cô quản lí.

    Nữ sinh phòng 209 nói: “Cô quản lí rất quá đáng, tịch thu hết đồ dùng của chúng em rồi mở một triển lãm ở dưới tầng.”

    Giáo sư Lương hỏi: “Cô ấy tịch thu những đồ gì?”

    Nữ sinh phòng 209 đáp: “Nồi điện, bếp điện, bình đun nước bằng điện, bếp ga du lịch, mayso nhiệt và một số thiết bị điện phổ thông khác.”

    Giáo sư Lương gật gù bảo: “Hóa ra thế! Cháu cứ nói tiếp đi!”

    Nữ sinh phòng 209 lại tiếp tục kể lể. “Cô ấy mang đồ dùng của chúng cháu đi bán, rồi kiếm tiền bỏ túi.”

    Giáo sư Lương lại gật gù: “Ừ! Bác sẽ điều tra việc này!”

    Nữ sinh phòng 209 vẫn ấm ức kể tiếp: “Cô ấy toàn lẻn vào những phòng đi vắng, lấy lí do là kiểm tra phòng, nhưng thực chất là vào lục đồ của chúng cháu.”

    Giáo sư Lương cắt lời: “Vào ban đêm tòa nhà các cháu ở thường có tiếng động gì? Cháu có quen những bạn nữ sống ở phòng 309 không?”

    Nữ sinh phòng 209 đáp: “Cháu không nghe thấy động tĩnh gì cả. Trong bốn bạn nữ đó, cháu chỉ biết mỗi Lôi Lôi, bạn ấy là nhân vật có tiếng ở trường vì có bố làm lãnh đạo trên tỉnh. Thường ngày trông bạn ấy lúc nào cũng cao ngạo vênh váo, chẳng coi ai ra gì, nghe nói bạn ấy được bố tặng một chiếc xe hơi vào ngày sinh nhật đấy ạ! Đúng là đồ khoe của! Trước đây, Lôi Lôi thường lái xe đến trường, nhưng sau đó nhà trường ra lệnh cấm sinh viên lái xe đi học, lại còn ra hàng loạt nội quy liên quan. À! Đúng rồi, vì chuyện này mà có lần Lôi Lôi và cô quản lí cãi nhau to. Cháu còn nhớ hôm ấy cô quản lí không cho phép Lôi Lôi đỗ xe dưới kí túc, thế là Lôi Lôi móc một xấp tiền ra định quẳng vào mặt cô quản lí, nhưng sau đó bạn ấy ném tiền xuống đất. Cô quản lí chẳng biết xấu hổ là gì liền nhặt tiền lên, rồi nhét luôn vào túi.”

    Cô quản lý tức giận phừng phừng giải thích với tổ chuyên án: “Mùa đông trời hanh vật khô, rất dễ xảy ra hỏa hoạn, những sinh viên này lại sử dụng thiết bị điện trái với nội quy của trường nên tôi phải tịch thu. Tôi cũng biết việc đó khiến sinh viên bất bình, nhưng đó là nội quy, không thể làm trái được, lỡ xảy ra sự cố thì hậu họa thực khôn lường. Còn Lôi Lôi, nhà trường đã nghiêm cấm sinh viên lái xe đến trường mà bạn ấy còn dám ngang nhiên đỗ xe ngay dưới sân kí túc, bạn ấy là con gái của lãnh đạo tỉnh thì đã sao? Tôi phạt Lôi Lôi một ngàn tệ tiền vi phạm nội quy, sau đó bạn ấy không bao giờ dám lái xe đi học nữa!”

    Phía cảnh sát liệt kê ra danh sách những tài sản bị mất trong phòng 309. Sau khi vụ án mạng xảy ra, túi xách của Lôi Lôi liền biến mất, đồ trang sức, mĩ phẩm cao cấp, ví tiền, thẻ tín dụng trong túi xách đều không cánh mà bay, thêm năm trăm tệ tiền mặt của Mai Tử nữa thì tổng số tài sản bị mất cắp vào khoảng năm mươi ngàn tệ. Dẫu vậy tổ chuyên án và phó thị trưởng thành phố đều nhận định đây là vụ án giết người rất dã man, nên khả năng hung thủ giết người cướp của không lớn lắm, có lẽ động cơ khiến hung thủ giết người là vì báo thù hoặc vì mâu thuẫn trong tình cảm.

    Chín giờ tối, tổ chuyên án tiến hành mô phỏng lại hiện trường, giả định hung thủ là Bao Triển; phó thị trưởng đóng vai Dạ Man, nữ sinh về phòng đầu tiên; Tô My và Họa Long lần lượt đóng Lôi Lôi và Mai Tử; hiệu trưởng diễn vai Tuyết Nhi, người về phòng cuối cùng.

    Tổ chuyên án phục dựng lại phòng 309 lúc trước khi xảy ra án mạng, rồi đặt máy quay có thể nhìn xuyên thấu màn đêm ở trên bàn để quay lại toàn bộ quá trình mô phỏng vụ án.

    Trước khi tái hiện hiện trường, giáo sư Lương nói: “Ai đóng vai Tiểu yêu? Cô ấy là một nhân vật vô cùng quan trọng trong vụ án này.”

    Bao Triển đáp: “Còn ai có thể đóng vai Tiểu yêu thích hợp hơn chính bản thân cô ấy?”

    Chương 3Người tuyết
    Dưới đây là quá trình tái hiện hiện trường của cảnh sát, để tiện theo dõi diễn biến vụ án, chúng tôi xin sử dụng tên của hung thủ và người bị hại.

    Đêm nay, tuyết vẫn rơi dày đặc giống hệt như đêm gây án.

    Trong camera hiện rõ lúc hơn chín giờ tối, sân trường không một bóng người, chỉ có những cánh hoa tuyết lặng lẽ bay bay, Dạ Man về ký túc đầu tiên, cô đội mũ và quàng khăn, bước trong hành lang tối om, rồi lấy chìa khóa phòng mở cửa. Căn phòng này có bốn nữ sinh ở cùng nhau, trong phòng đầy đủ đồ đạc cần thiết như bàn, ghế, tủ quần áo và hai chiếc giường tầng, giường tầng trên bên trái cửa căng màn màu hồng, một số nữ sinh thích có không gian độc lập và kín đáo như thế, bởi vậy bất kể mùa đông hay mùa hè, họ đều không dỡ màn xuống. Căn cứ vào vết máu bắn tung tóe trên hiện trường, cảnh sát xác định lúc ấy hung thủ đang nằm mai phục trong màn, ổ khóa của căn phòng bị hỏng, nên có thể mở cửa bằng bất kì chiếc chìa khóa nào. Có lẽ hung thủ đã trốn trong căn phòng số 309 từ trước, Dạ Man bước vào phòng, việc đầu tiên cô làm là quay người bật đèn, hung thủ liền bổ chiếc rìu vào đầu cô từ trên cao xuống. Vì Dạ Man đội mũ nên âm thanh hung khí đập vào đầu phát ra không lớn. Hung thủ hạ gục nạn nhân chỉ bằng một nhát búa. Sau đó hung thủ cắt chân của Dạ Man. Một lát sau, Lôi Lôi và Mai Tử cũng trở về ký túc xá. Trong bóng tối, họ không hề nhìn thấy huyết án vừa xảy ra trong căn phòng. Hung thủ lập tức lấy búa hạ sát Lôi Lôi, Mai tử. Cả quá trình này điễn ra trong thời gian mười phút. Người cuối cùng về ký túc xá là Tuyết Nhi. Cô bị sát hại bằng phương thức giống hệt như ba cô bạn cùng phòng.

    Phía cảnh sát phân tích và cho rằng hung thủ không chắc chắn cả bốn cô gái sẽ về kí túc hết. Khi giết người, hung thủ đã nung nấu suy nghĩ lấy tay chân của bốn cô gái trong căn phòng 309 lắp vào người tuyết, chứ không phải chỉ là ý tưởng nhất thời.

    Ổ khóa ký túc xá mới thay nên rất ít người có được chìa khóa, nếu hung thủ không thể đi ra khỏi cổng ký túc xá thì ắt hẳn hắn phải nghĩ cách để rời đi. Sau khi hung thủ giết chết bốn nữ sinh, hắn bắt đầu lật tung tủ kệ để tìm tài sản có giá trị. Lúc ấy, cổng tòa nhà đã khóa, hung thủ kiên nhẫn ngồi đợi trong phòng 309 cho đến khi ký túc xá tắt đèn và tất cả nữ sinh đều ngủ say, hắn rón rén lên tầng, xuống tầng tìm lối thoát. Cửa sổ tầng một và tầng hai đều lắp đặt lưới chống trộm, từ tầng ba trở lên không có ban công. Vì muốn tránh nam sinh đột nhập vào trong nên nữ sinh ký túc đã bịt kín mọi lối ra vào, bởi thế hung thủ cũng hết đường đào thoát. Cũng có thể vì không thông thuộc địa bàn nên mãi khoảng mười hai giờ đêm, hung thủ vẫn loay hoay trong ký túc xá.

    Đôi khi sinh mệnh con người tồn tại sức sống vô cùng mãnh liệt, ví như thời điểm động đất, người ta đã giải cứu thành công một cụ già bị vùi dưới lòng đất 164 giờ đông hồ, hoặc trong nạn sập hầm, có công nhân bị đá đè nát nửa thân dưới, phổi bầm dập, nhưng mấy ngày sau đã được cứu sống. Dẫu khi sinh mệnh hồ như đã tắt lịm, thì họ vẫn có những hành vi phản chiếu hồi quang đáng kinh ngạc.

    Có lẽ vậy mà cũng khoảng mười hai giờ đêm Lôi Lôi vẫn tỉnh khỏi cơn hôn mê, thoi thóp bò ra khỏi ký túc xá chuẩn bị kêu cứu, cô ôm theo một cẳng chân đã bị chặt của mình, điều đó chứng tỏ khao khát sinh tồn sâu thẳm trong lòng vô cùng mãnh liệt, có lẽ cô hi vọng sau khi được cứu sẽ tiến hành phẫu thuật ghép chi. Lôi Lôi bò ra hành lang, vừa hay gặp Tiểu yêu mộng du đi vệ sinh. Lúc ấy, hung thủ cũng ở gần đó, rất có khả năng hắn đang trốn ở trong nhà vệ sinh đối diện. Lôi Lôi muốn cầu cứu Tiểu yêu, nhưng Tiểu yêu lại đi thẳng vào nhà vệ sinh, có lẽ Lôi Lôi nhìn thấy hung thủ trong nhà vệ sinh hơn nữa cũng ý thức thể lực mình quá yếu nên cô không bò lên cầu thang như dự định, mà bò ngược trở lại phòng, cuối cùng chết trong đó.

    Khi Tiểu yêu mộng du, hung thủ gần cô trong gang tấc nhưng hắn không giết cô để diệt khẩu, phía cảnh sát cho rằng có lẽ hắn không quen Tiểu yêu, cũng có khả năng hắn không muốn giết người vô tội. Mục đích của hung thủ vô cùng rõ ràng, hắn chỉ nhằm vào bốn nữ sinh của phòng 309, còn việc trộm tài sản chẳng qua là tiện tay dắt bò mà thôi.

    Trong quá trình mô phỏng lại hành động của hung thủ, mọi người không thể diễn nghiêm túc, bởi Tiểu yêu đóng vai chính mình, cô diễn không thể diễn nghiêm túc, liên tục phải gắng nhịn cười. Còn hiệu trưởng và phó thị trưởng thành phố đóng vai Tuyết Nhi và Dạ Man, hai người đều đội mũ len nữ. Tô My đóng Lôi Lôi, lẽ ra cô phải bò ra khỏi ký túc, nhưng cô lại đi ra. Duy Bao Triển vô cùng nhập tâm với vai diễn của mình, sau khi Tiểu yêu trở về phòng ngủ thì mọi người chợt phát hiện – Bao Triển đã biến mất!

    Phó thị trưởng thành phố vội vàng yêu cầu cảnh sát tiến hành tìm kiếm, nhưng tìm cả tòa nhà ký túc vẫn không thấy bóng dáng anh đâu.

    Mọi người đều lấy làm lạ, cửa cổng tòa nhà ký túc nữ đang khoá kín, rốt cuộc Bao Triển đã đi đâu?

    Trong lúc Họa Long và Tô My lo lắng thì phía cảnh sát phát hiện phía dưới ký túc có thêm một người tuyết nữa.

    Nói chính xác hơn thì bên cạnh người tuyết có thêm một người thân mình phủ đầy tuyết.

    Người đó chính là Bao Triển.

    Bao Triển giải thích: “Hung thủ đã nhảy từ tầng ba xuống, trong nhà vệ sinh tầng ba có một cửa sổ thông gió chỉ cần trèo lên tường ngăn cách giữa các nhà vệ sinh là có thể mở cửa sổ thông gió. Đầu tiên hung thủ chân tay của nạn nhân qua cửa sổ, sau đó hắn chui qua cửa sổ, đứng ngoài bệ cửa sổ và nhảy xuống. Vì sân ký túc xá bị tuyết phủ dày nên hung thủ không hề bị thương. Cuối cùng đắp người tuyết, cả quá trình thậm chí còn chưa đến mười phút.”

    Giáo sư Lương phân tích: “Khi Tiểu yêu đi tiểu tiện trong nhà vệ sinh, rất có khả năng hung thủ đang ngồi xổm trên gờ tuờng ngăn cách phía trên nhìn cô, chắc Lôi Lôi đã nhìn thấy hung thủ nên cô chọn cách bò về phòng.”

    Việc tái hiện hiện trường vụ án khiến phía cảnh sát nắm bắt được nhiều thông tin hơn. Ngày hôm sau, hội sinh viên quyên góp được một vạn Nhân đân tệ, toàn thể tập thể giáo viên và sinh viên trong trường chuyển từ thái độ kinh hoàng sang phẫn nộ cực điểm, thêm vào đó lại đang đến kì nghỉ đông nên ai nấy đều mong muốn được trở về nhà bởi vậy các sinh viên đưa số tiền quyên góp được cho cảnh sát với hi vọng phía cảnh sát làm việc tích cực hơn nữa để mau chóng bắt được hung thủ.

    Phó thị trưởng thành phố tế nhị từ chối nhận tiền, ông nói với cán bộ hội sinh viên rằng mình là cảnh sát nên nhất định sẽ cố gắng hết mình làm tròn trọng trách.

    Cán bộ hội sinh viên giải thích: “Chúng cháu chỉ muốn dùng số tiền này thưởng cho người bắt được hung thủ thôi mà!”

    Phó thị trưởng thành phố vẫn từ chối: “Chú hiểu tấm lòng của các cháu, nhưng bất kể thế nào các chú cũng không thể nhận số tiền này được!

    Giáo sư Lương nheo mắt cười: “Thưởng cho người bắt được hung thủ à? Quả là ý hay! Thế này đi, trước mắt hội sinh viên sẽ tạm thời bảo quản số tiền này, đồng thời thông báo trên loa phóng thanh cho toàn trường rằng bây giờ phía cảnh sát đang thu thập manh mối, nếu ai có thể cung cấp manh mối có giá trị giúp cảnh sát phá án thì sẽ thưởng tiền cho người đó.”

    Quả nhiên sau khi nhận được thông báo, các sinh viên lũ lượt đến cung cấp manh mối cho cảnh sát có điều những manh mối có giá trị lại không nhiều, đa số chỉ là một vài chuyện vặt vãnh liên quan đến vấn đề trị an và tranh chấp thường xảy ra trong khuôn viên nhà trường. Thậm chí một số manh mối còn rất buồn cười, ví như một học sinh thề thốt rất chắc chắn rằng thầy Gia Cát chính là nghi phạm giết người, vì vào dạ hội tết dương lịch hàng năm, thầy đều đánh đàn và hát bài “Người tuyết.”

    Nữ nhân viên lao công mật báo trưởng ban trị an thường đánh học sinh.

    Hai nữ sinh nói trước khi xảy ra vụ án vài ngày có một nam sinh mua đồng phục trường cô nhưng lại trả cho cô tiền giả.

    Một nhân viên bảo vệ của trường liệt kê ra danh sách gần một trăm người, bên trên ghi tên tất cả những sinh viên thường xuyên đánh bạc, ẩu đả và nhiều hơn cả là những nữ sinh trở thành gái bao cao cấp.

    Hơn chục sinh viên cho rằng thầy giáo của mình chính là kẻ sát nhân, thậm chí có một người nặc danh tố cáo hiệu trưởng lén vi phạm nội quy, ông đã nhận hối lộ của cha Lôi Lôi để cô không cần tham gia kì thi tốt nghiệp cấp ba mà vẫn được vào đại học, sau khi tốt nghiệp còn được nhà trường cử đi du học ở nước ngoài.

    Kẻ nặc danh yêu cầu cảnh sát phải điều tra rõ sự việc này, hiệu trưởng giải thích với thị trưởng thành phố và tổ chuyên án rằng Lôi Lôi là sinh viên hệ cử tuyển nên không cần tốt nghiệp cấp ba mà vẫn có thể vào đại học, chỉ cần nhà trường giới thiệu là đủ.

    Sau khi hiệu trưởng rời đi, Bao Triển thở dài thốt một câu: “Đúng là mười năm đèn sách không bằng bố nó làm quan to!”

    Trong thời gian này, tổ chuyên án phải điều tra lại vụ một nữ sinh treo cổ tự sát, di thể đã hóa thành cát bụi từ lâu, gia quyến cũng chứng thực thi thể không hề bị mất đầu, chuyên gia pháp y giám định về phần đầu và tứ chi của người tuyết đã kết luận như sau: Kết quả giải phẫu cho thấy phần đầu của người tuyết được bảo quản lạnh trong thời gian dài, có lẽ được bảo quản ngay sau khi chết. Từ vết thương trên cổ có thể khẳng định cổ nạn nhân không bị cắt bởi hung khí sắc bén mà giống như bị ngã tai nạn giao thông hoặc các nguyên nhân bất minh khác.

    Bao Triển thắc mắc: “Nguyên nhân bất minh rốt cuộc là những nguyên nhân gì?”

    Bác sĩ pháp y đáp: “Để tạo ra được vết thương như thế này thì giống như thể nạn nhân bị người nào đó dùng sức lực mạnh giật đầu ra vậy.”

    Cảnh sát đối chiếu ảnh của các giáo viên và sinh viên nữ trong toàn trường, Tô My dùng máy tính phân tích rất nhiều lần nhưng vẫn không thể xác định được lai lịch của phần đầu người tuyết. Vụ án rơi vào ngõ cụt!

    Trong lúc này sinh viên kháng nghị dữ đội, họ rầm rộ yêu cầu được về nhà, áp lực phía nhà trường quả không nhỏ.

    Vào buổi chiều muộn mấy ngày sau đó, Tiểu yêu bước vào văn phòng của tổ chuyên án, lúc ấy phó thị trưởng thành phố, hiệu trưởng và trưởng ban trị an đều có mặt trong phòng, Tiểu yêu nói mình muốn báo một manh mối nhưng hi vọng được nói riêng với tổ chuyên án.

    Sau khi những người không liên can ra ngoài, Tiểu yêu mới ấp úng nói với giáo sư Lương: “Cháu biết ai là hung thủ!”

    Giáo sư Lương lập tức có hứng thú, ông hỏi ngay: “Ai vậy?”

    Tiểu yêu lúng búng một hồi, rồi bảo: “Nếu khai tên hung thủ, cháu có thể lấy một vạn tiền thưởng không?”

    Giáo sư Lương đáp: “Cháu yên tâm! Nếu cháu cung cấp được manh mối quan trọng giúp cảnh sát phá án, bác đảm bảo số tiền thưởng đó sẽ thuộc về cháu.”

    Tiểu yêu nói: “Vâng! Cháu sẽ khai, thực ra cháu không hề có mắt âm dương…”

    Tiểu yêu nói mình là một cô gái rất hiếu kì, luôn cảm thấy hứng thú với những tin tức vỉa hè và đời tư của người khác. Sau khi nhập học, thông qua diễn đàn trên trang web của trường, cô dò lại các tin tức trước đây và được biết từng có nữ sinh tự sát bằng cách treo cổ trong phòng 309, cô còn biết lúc xây dựng ký túc xá, nhà trường đã đào được một ngôi mộ hoang. Những sinh viên năm đó giờ đây đều đã tốt nghiệp. Tiểu yêu được phân ở trong phòng ngay cạnh phòng 309 nên cô bắt đầu triển khai điều tra. Khi hai sự việc đó xảy ra, sinh viên trong trường bàn tán, thảo luận trên mạng rất sôi nổi, nhiều anh chị khóa trên cho rằng tự sát chỉ là ngụy tạo, có lẽ nữ sinh treo cổ ấy đã bị ai đó giết hại. Tiểu yêu tìm được rất nhiều thông tin liên quan đến vụ án, thậm chí còn nhìn thấy di ảnh của nữ sinh tự sát. Dần dần Tiểu yêu đã biết được ngọn nguồn của câu chuyện xảy ra mấy năm về trước.

    Nữ sinh tự sát nọ tên là A Kiều, khi ấy cô có mối quan hệ tình cảm với thầy Gia Cát. Thầy Gia Cát sở hữu vẻ bề ngoài đẹp trai, tầm ba mươi tuổi, trông trí thức và nho nhã không những vậy còn là tay ghi ta xuất sắc. Nhiều nữ sinh trong trường từng thầm yêu trộm nhớ thầy. Sau cái chết của A Kiều, thầy Gia Cát không kết hôn, mà mỗi năm cứ đến đêm hội tết dương lịch thầy lại đàn và hát bài “Người tuyết”.

    A Kiều treo cổ tự tử, gia đình cô đến trường làm ầm lên, bắt nhà trường phải đền tiền mới chịu bỏ qua. Khi ấy trong ký túc có một nữ sinh rất nhát gan, cái chết của cô bạn cùng phòng khiến tinh thần cô suy sụp, cuối cùng chọn cách bỏ học. Trên BBS của trường, nữ sinh này đã viết một bài mang tính chất tạm biệt các bạn, cô kể về thời thơ ấu của mình và quá trình học tập vất vả, đoạn văn dài gần một vạn chữ vô cùng lâm li bi đát, nhưng cô hoàn toàn không hề nhắc chữ nào đến chuyện A Kiều treo cổ tự sát. Tuy nhiên Tiểu yêu vốn là người rất tinh ý, cô phát hiện đoạn văn mà nữ sinh nhát gan nọ viết là đoạn văn giấu đầu, nếu nối chữ đầu tiên của mỗi dòng lại với nhau thì Tiểu yêu lập tức cảm thấy toàn bộ quá trình của vụ hung sát như hiển hiện ra trước mắt:

    Tôi trốn ở trong tủ, nhìn thấy thầy Gia Cát dùng tất giấy siết cổ A Kiều cho đến chết, sau đó thầy treo A Kiều lên khung cửa. Tôi muốn báo cảnh sát nhưng không dám vì thầy Gia Cát là họ hàng nhà hiệu trưởng, sẽ không ai tin lời tôi nói, nhưng nhất định có một ngày thầy ấy ắt sa lưới pháp luật. Tôi không dám đối diện với sự thật bởi tôi quá yếu đuối…

    Tô My mở máy tính tìm bài viết của nữ sinh nọ, quả nhiên Tiểu yêu không hề nói dối.

    Thầy Gia Cát đang ở tòa nhà mới xây dành cho giáo viên, đó cũng chính là hướng người tuyết nhìn về!

    Thầy Gia Cát bị tình nghi giết người, tổ chuyên án liền thông báo với phó thị trưởng thành phố. Phó thị trưởng yêu cầu cảnh sát nhanh chóng liên hệ với em nữ sinh nhát gan đã bỏ học nọ, mời sinh viên đó ra làm chứng. Hiệu trưởng tỏ rõ quan điểm không dung túng và bao che cho hung thủ nên thầy cũng hi vọng nhanh chóng phát lệnh tạm giam.

    Phương án bắt nghi phạm nhanh chóng được vạch ra, Họa Long và trưởng ban trị an dẫn ba cảnh sát vũ trang mặc thường phục bí mật thi hành lệnh bắt giữ.

    Hoa tuyết vẫn bay bay! Lả tả! Tới tấp! Khuôn viên trường chìm trong bóng đêm vô cùng tịch mịch, tiếng đàn ghi ta phá tan bầu không gian yên ắng, từ khu tập thể giáo viên văng vẳng vọng ra giọng nam trầm ấm áp:

    Lạnh quá! Tuyết rơi thật dày!

    Chúc mừng giáng sinh, người anh đắm say!

    Lạnh quá! Cả mùa đông giá

    Em luôn đứng đợi trước cửa, mong manh…

    Em có phải người tuyết của anh?

    Em ngốc nghếch, ngốc nghếch chờ đợi

    Từng hạt từng hạt tuyết rơi rơi

    Tuyết kết duyên đôi ta, tình yêu em ướt mèm

    Bàn tay anh chạm vào nỗi đau em

    Tuyết! Từng hạt từng hạt rơi nhẹ

    Tung bay giữa khoảng không lặng lẽ

    Em nhìn thấy mùa xuân sắp đến rồi

    Và em cũng sắp tan chảy phai phôi.

    Chương 4Người tuyết sống dậy
    Họa Long cùng một số cảnh sát được lệnh đi bắt giữ thầy Gia Cát, anh ta không hề phủ nhận chuyện giết người mấy năm về trước. Trong quá trình thẩm vấn, thầy Gia Cát nói suốt khoảng thời gian từ khi sát hại A Kiều đến nay, anh ta luôn sống trong bóng đêm của cuộc sống, rất nhiều lần muốn ra đầu thú, nhưng cuối cùng vẫn không đủ dũng khí, giờ cảnh sát điều tra ra và đến bắt anh ta, anh ta lại cảm thấy như mình vừa được phóng thích khỏi cảm giác tội lỗi.

    Thầy Gia Cát và A Kiều quen nhau trên diễn đàn của trường mấy năm về trước. Ban đầu họ chỉ trao đổi một vài thông tin trên mạng nội bộ, sau đó họ add mã QQ của nhau, rồi cuối cùng hai người họ bắt đầu yêu nhau. Thực ra hầu như người nào lên mạng cũng từng một lần yêu bạn chat, tình yêu ấy trong sáng như mối tình đầu vậy. Thầy Gia Cát và A Kiều cũng không ngoại lệ họ dần dần có tình cảm với nhau, tuy không biết mặt đối phương nhưng họ lại tìm thấy sự đồng điệu trong tâm hồn.

    Mặc dù cùng ở trong khuôn viên trường, nhưng họ cố tình che giấu lai lịch thực sự của mình, cũng không hề cho đối phương xem ảnh hoặc gọi điện thoại cho nhau, thậm chí họ còn không biết tên thật của đối phương. Họ chỉ đơn thuần tâm sự trên mạng, nhung nhớ nhau rồi ái mộ nhau.

    A Kiều là cô nữ sinh có phẩm hạnh và học lực đều xuất sắc nhưng có lẽ cô là nữ sinh nghèo nhất trường đại học này, cô xinh đẹp nhưng mặt vàng bủng beo, tóc cháy hoe đỏ, có ngày chỉ được ăn hai chiếc màn thầu, muốn lên mạng nói chuyện với thầy Gia Cát cũng phải đi mượn máy tính của bạn khác.

    Còn thầy Gia Cát chẳng những đẹp trai mà còn đa tài đa nghệ, ở thầy toát ra sức quyến rũ đặc trưng của người đàn ông chín chắn, cũng bởi vậy nên trong trường có rất nhiều bạn nữ thầm yêu trộm nhớ thầy.

    Nhiều lần thầy Gia Cát và A Kiều từng đi lướt qua nhau ngay trên sân trường nhưng họ không hề biết đối phương chính là người mình đắm say bấy lâu nay.

    Yêu đến một mức độ nào đó người ta ắt muốn gặp mặt bằng được người mình yêu.

    Thế là hôm ấy lên mạng, họ hẹn gặp nhau. Họ sẽ gặp nhau khi trận tuyết đầu tiên của mùa đông bắt đầu rơi.

    Thầy Gia Cát rào trước: “Biết đâu anh là thầy giáo của em thì sao?”

    A Kiều cứ ngỡ bạn trai bông đùa, liền chọc lại: “Biết đâu em là hiệu trưởng thì sao? Hi hi! Trêu anh thôi! Mặc cho anh là ai, em vẫn thích.”

    Thầy Gia Cát: “Anh cũng vậy! Anh thích chính bản thân em, không cần biết em là ai và trông như thế nào.”

    A Kiều bối rối: “Em không tự tin về bản thân lắm, nên khi gặp mặt chắc em sẽ rất căng thẳng và hồi hộp, nhưng em cũng rất mong chờ đến ngày đó.”

    Thầy Gia Cát dịu dàng: “Anh sẽ ôm em! Con chim nhỏ của anh! Tiểu yêu của anh ạ!”

    A Kiều: “Em muốn gặp anh ở một nơi thật yên tĩnh!”

    Thầy Gia Cát hỏi: “Ở đâu thế?”

    A Kiều đáp: “Anh chỉ cần biết không phải trong trường là được!”

    Thầy Gia Cát tò mò: “Nói cho anh biết nào!”

    A Kiều đầu hàng: “Sau trường có một con sông, em sẽ đứng trên mặt sông đợi anh.”

    Thầy Gia Cát trêu chọc: “Thế hả? Hơi khó đấy! Em biết khinh công à?”

    A Kiều bẽn lẽn: “Khi trận tuyết đầu tiên của mùa đông bắt đầu rơi, em sẽ đứng trên mặt sông đóng băng sau trường đợi anh, mặc kệ anh đến hay không!”

    Hai người nói chuyện với nhau từ mùa hè sang mùa đông. Ngày nào cũng ngóng chờ trận tuyết đầu tiên rơi xuống…

    Mùa đông ở miền đông bắc thường đến sớm hơn những khu vực khác, khi trận tuyết đầu tiên bắt đầu lất phất điểm hạt, có người nhìn thấy hai người đứng ôm nhau trên mặt sông phía sau trường. Họ giống như vô vàn đôi nam nữ đang đắm mình trong tình yêu khác trên thế gian này, mỗi ngày họ đều nhớ đối phương da diết, trong tim họ có vô vàn điều muốn nói mà nói mãi vẫn chưa hết. Càng ngày họ càng yêu nhau sâu đậm hơn. Đông qua xuân đến, thậm chí hai người họ còn bàn tính đến kế hoạch kết hôn.

    Rồi vào một ngày hè oi bức khác thường, thầy Gia Cát bỗng nhiên nhận được một cú điện thoại bất ngờ. A Kiều gọi cho thầy từ đồn cảnh sát.

    A Kiều đã bán dâm và bị cảnh sát đột ngột xông vào kiểm tra. Cô không có tiền nộp phạt, cảnh sát nói nếu vậy sẽ thông báo cho nhà trường. Bất lực không nghĩ ra cách nào hơn, A Kiều đành bấm số điện thoại di động của thầy Gia Cát.

    Thầy Gia Cát đến đồn cảnh sát nộp tiền bảo lãnh cho A Kiều được tại ngoại.

    Nước mắt A Kiều chảy vòng quanh, cô giải thích mình thiếu tiền, trong khi cuộc sống quá khó khăn, nghe theo bạn bè xúi giục, cô đã liều đem bán cái ngàn vàng của mình với giá một ngàn tệ.

    Mặt thầy Gia Cát đanh lại, chẳng nói chẳng rằng, chỉ lẳng lặng đưa A Kiều về kí túc.

    Bảng lảng tối ngày hôm ấy có cô nữ sinh nhát gan lén xem phim tình cảm trong kí túc xá. Khi ấy đang là thời gian nghỉ hè nên đa số nữ sinh trong kí túc đều về quê ngỡ không có ai trong phòng, cũng có thế vì trời quá nóng nên chỉ còn một mình cô nữ sinh đó trong phòng. Cô nghe thấy tiếng bước chân của thầy Gia Cát và A Kiều vọng đến. Cô nghe thấy tiếng trì chiết mắng chửi của thầy Gia Cát và tiếng khóc thút thít đầy uẩn ức của A Kiều. Cô nữ sinh nhát gan cuống cuồng tắt vội máy tính, ý thức bản thân đang ăn mặc thiếu kín đáo, mà ngoài cửa đã vang lên tiếng lạch cạch cắm chìa khoá vào ổ, bí quá cô đành chui bừa vào trong tủ quần áo.

    Trong phòng kí túc, A Kiều vật vã khóc lóc rất thảm thiết: “Chúng ta chia tay đi!”

    Thầy Gia Cát lạnh lùng chất vấn: “Em bảo em không có tiền mà lại đi mua tất giấy đeo thế này à?”

    A Kiều cuống quýt tháo tất giấy khỏi chân, vừa khóc vừa nói không nên lời: “Người ta cho em chứ có phải em mua đâu!”

    Thầy Gia Cát nghe mà lửa giận bốc lên ngùn ngụt: “Đứa nào mua cho em?”

    A Kiều ôm mặt khóc nức nở: “Người khách đó!”

    Quá kích động thầy Gia Cát không thể kiềm chế nổi bản thân. Cuối cùng ngọn lửa hung tàn đã bùng phát, anh ta giật phăng lấy tất giấy trong tay A Kiều siết chặt cổ A Kiều cho đến khi người cô mềm nhũn trong tay anh ta. Khi bình tĩnh lại, thầy Gia Cát run rẩy tìm cách che đậy chân tướng sự thật. Anh ta tạo hiện trường giả bằng cách treo A Kiều lên khung cửa như thể cô tự sát. Tất cả cảnh tượng đó đều không lọt khỏi mắt cô nữ sinh nhát gan đang trốn trong tủ quần áo, sau đó vì không chịu nổi áp lực tinh thần cô liền làm đơn xin thôi học.

    Thầy Gia Cát mãi không kết hôn, hình avatar trên QQ của A Kiều mãi mãi không bao giờ sáng lại nữa.

    Tô My sử dụng kĩ thuật máy tính phá giải mật mã QQ của A Kiều, sau khi đăng nhập, cô nhìn thấy rất nhiều tin nhắn của thầy Gia Cát. Suốt bao nhiêu năm nay, anh ta sám hối, anh ta tự nói một mình với biểu tượng QQ mãi mãi trong tình trạng offline của A Kiều, anh ta vẫn yêu cô, cũng bởi thế cứ mỗi đêm giao thừa, anh ta lại vừa đàn vừa hát khúc “Người tuyết”.

    Tô My nói với thầy Gia Cát: “Chúng tôi đã điều tra lại vụ án này. Thông qua điều tra hộ tịch, chúng tôi cũng đã tìm thấy tất cả bạn cùng phòng năm đó của A Kiều bao gồm cả bạn nữ trốn trong tủ quần áo. Anh có biết vì sao hôm ấy A Kiều lại bán dâm không?”

    Thầy Gia Cát đáp: “Tôi không biết!”

    Tô My nói: “Cô ấy muốn mua cho anh một món quà sinh nhật. A Kiều định tặng anh một cây ghita.”

    Thầy Gia Cát thắc mắc: “Nhưng mua đàn ghita đâu cần đến một ngàn tệ?”

    Tô My nói tiếp: “Cô ấy tính rồi, một cây đàn ghi ta tầm hai trăm tệ, số tiền còn lại cô ấy sẽ mua cho mình một chiếc điện thoại di động, anh có biết cô ấy cần mua điện thoại làm gì không?”

    Thầy Gia Cát ngẫm nghĩ một hồi, nước mắt bỗng dưng trào ra, rồi cứ thế tuôn chảy xối xả…

    A Kiều là cô gái thôn quê, khi về nhà nghỉ hè thì không thể lên mạng internet, mà nhà cô lại không có điện thoại. Thời gian nghỉ đông, ngày nào cô cũng phải đi bộ mười cây số từ nhà ra quán internet ở phố huyện để nhắn tin cho thầy Gia Cát, bởi vậy lần này nghỉ hè, cô quyết định phải mua một chiếc máy điện thoại di động.

    Đối với người con gái đang yêu đắm đuối thì mất liên lạc với người yêu suốt mùa hè là điều không thể chịu đựng nổi.

    Phó thị trưởng thành phố thúc giục thầy Gia Cát: “Thôi đừng vòng vo mất thời gian nữa! Thầy mau đi vào trọng điểm vấn đề đi. Trong vụ giết người lắp chi cho người tuyết, thầy đã giết bốn nữ sinh kia như thế nào?”

    Thầy Gia Cát vẫn chưa dứt khỏi cơn xúc động, nước mắt vẫn tuôn rơi, mãi một lúc sau mới dần dần tỉnh ra, anh ta ngơ ngác lắc đầu nói: “Tôi không hề hại bốn nữ sinh đó!”

    Sau đó, cảnh sát điều tra mới biết ngày l8 và ngày l9 tháng 1, tức là trong hai ngày xảy ra vụ thảm sát, thầy Gia Cát phải tham gia lớp tập huấn cuối năm của khoa thể dục, mấy chục người có thể làm chứng thầy Gia Cát không hề có thời gian gây án, hoặc nói chính xác hơn thầy hoàn toàn không có mặt tại hiện trường gây án.

    Đến đây thì mọi manh mối liền bị đứt đoạn, nghi phạm duy nhất lại là hung thủ của một vụ án mạng khác.

    Vụ án rơi vào tình thế bế tắc. Suốt mấy hôm nay, tâm trạng của các thành viên tổ chuyên án và cảnh sát vô cùng ủ dột, người nào người nấy chau mày chau mặt, cuối cùng nhà trường không thể chống đỡ được áp lực do các sinh viên và người nhà của họ gây ra, thầy hiệu trưởng đành phải để các sinh viên về quê, trừ Tiểu yêu ở lại phối hợp cùng cảnh sát tiếp tục điều tra. Cả ngôi trường giờ vắng tanh, chỉ còn lác đác một vài sinh viên chuẩn bị thi nghiên cứu sinh. Phó thị trưởng nghi ngờ Tiểu yêu là hung thủ, còn bản thân Tiểu yêu lại không thể nói rõ tối hôm ấy cô làm gì trong thời gian ba phút ở nhà vệ sinh lúc mình mộng du. Nhà Tiểu yêu ở ngay trong thành phố này, cô nữ sinh hiếu kì không hề tỏ ý phản kháng việc cảnh sát giữ cô ở lại điều tra. Thậm chí cô bé còn muốn thử cảm giác cùng tham gia phá án với lực lượng cảnh sát. Vì xét đến yếu tố an toàn cho nhân chứng, cảnh sát sắp xếp cho cô bé và Tô My ở tạm trong phòng tiếp đón của trường. Tiểu yêu rất ngưỡng mộ Tô My, cô bé bày tỏ mai sau lớn lên muốn trở thành một nữ cảnh sát xuất sắc.

    Nhưng Tô My cho rằng Tiểu yêu là cô gái thích hóng chuyện, nên sẽ thích hợp làm phóng viền chuyên đi săn tin giật gân hơn.

    Ngược lại với Tô My, giáo sư Lương đánh giá cao khả năng của Tiểu yêu, ông bảo: “Cháu rất hiếu kì, lại giỏi phân tích, vụ án cô nữ sinh treo cổ tự sát tra ra được chân tướng sự thật là nhờ phần lớn công lao của cháu. Đối với vụ người tuyết này, cháu có suy đoán hoặc ý kiến gì muốn góp ý cho bác không? Bác rất muốn nghe quan điểm của một người ngoài cuộc như cháu.”

    Tiểu yêu nói: “Tổ chuyên án của bác và cảnh sát chỉ điều tra các đối tượng trong trường, lỡ đầu người tuyết kia và cả hung thủ nữa là người ngoài trường thì sao?”

    Giáo sư Lương gật đầu cho là phải: “Cháu nói rất có lí! Tiếp tục trình bày quan điểm của cháu đi nào!”

    Tiểu yêu nói: “Cháu biết có hai bạn nữ sinh trong trường bị người ta trả tiền giả để mua bộ đồng phục sinh viên của trường. Bác không thấy chuyện này rất lạ sao?”

    Bao Triển lập tức có hứng thú, anh châu đầu vào hỏi: “Theo em thì lạ ở điểm nào?”

    Tiểu yêu phân tích: “Chúng em đều là sinh viên cả rồi ai còn muốn mặc đồng phục nữa chứ? Thế mà lại có người bỏ tiền ra muốn mua đồng phục, quá khó hiểu còn gì?”

    Tổ chuyên án lập tức triển khai phỏng vấn tất cả những sinh viên còn ở lại trường, bao gồm sinh viên chuẩn bị thi nghiên cứu sinh và sinh viên ở lại thành phố làm thêm.

    Một sinh viên nói: “Đúng vậy! Chưa bao giờ em mặc đồng phục của trường, vừa được phát là em vứt xó luôn.”

    Một sinh viên khác thậm chí còn ngạc nhiên hỏi: “Xin lỗi! Em không nhận ra đồng phục của trường. Mà trường mình có đồng phục sao?”

    Tổ chuyên án rất coi trọng manh mối mà Tiểu yêu vừa cung cấp, hướng điều tra bắt đầu chuyển sang những đối tượng ngoài trường học. Cảnh sát điều tra kĩ lưỡng những đối tượng mà các cô gái có mối quan hệ tình ái. Chàng ca sĩ hát ở quán rượu không cung cấp được manh mối nào có giá trị, ông chủ doanh nghiệp giàu có cặp kè Mai Tử thanh minh rằng mình và Mai Tử hoàn toàn trong sáng, chỉ có ông chủ quán cơm gần trường học thành thật thừa nhận mình có quan hệ tình cảm với Tuyết Nhi. Ông chủ quán cơm cung cấp một thông tin vô cùng quan trọng – Hơn chín giờ tối ngày l8 tháng 11 Tuyết Nhi yêu cầu ông chủ quán cơm phải thuê cho mình một căn hộ ở ngoài trường, sau khi ông ta đồng ý, Tuyết Nhi mới chịu về trường.

    Giáo sư Lương triệu tập cuộc họp khẩn cấp, ông tuyên bố: “Chúng ta đã sắp phá được vụ án này! Rốt cuộc chuyện gì đã xảy ra vào tối hôm đó? Vì sao Tuyết Nhi một mực không chịu ở trong kí túc mà muốn chuyển ra ngoài? Chắc chắn có ẩn tình phía sau câu chuyện này.”

    Tô My nhận định: “Nếu khẳng định người ngoài trà trộn vào trong gây án, thì chỉ cần kiểm tra camera xem những ai không phải giáo viên, sinh viên hoặc nhân viên của trường lại đi qua cổng trường là biết ngay hung thủ là ai.”

    Bao Triển nhắc: “Tôi xin nhắc một chút, rất có khả năng hung thủ mặc đồng phục của trường.”

    Phó thị trưởng thành phố nói: “Sao tôi cứ cảm thấy vụ án này không giống một âm mưu được sắp đặt trước, dường như hung thủ không bận tâm đến hậu quả mà mình phải gánh chịu, thậm chí y không hề nghĩ trước con đường mình sẽ chạy trốn sau khi gây án, thế mà tại sao y lại nghĩ đến việc chuẩn bị đồng phục để mặc khi gây án. Tôi thấy hai điểm này rất mâu thuẫn với nhau.”

    Giáo sư Lương nói: “Ngoại trừ chi tiết khả nghi là có người mua đồng phục của trường thì còn một chi tiết nữa khiến tôi rất lưu tâm. Tỉnh thành cách đây rất xa, khi tới đây chúng ta phải ngồi tàu hoả đến thành phố bên cạnh, sau đó mới chuyển phương tiện đến được đây. Nhà của Lôi Lôi cũng ở tỉnh thành, cô ta lái xe đi học, chắc chắn cô ta không thể lái xe một mạch từ nhà đến trường được. Vậy cô ta để xe ở đâu?”

    Hiệu trưởng bày tỏ băn khoăn: “Bác sĩ pháp y cho rằng vết thương ở cổ của người cắm trên người tuyết bị gây ra do có một lực rất mạnh giật ra khỏi cổ. Phải chăng nạn nhân bị tai nạn giao thông?”

    Bao Triển nói: “Theo như thông tin thu nhận được thì một cậu con trai đã mua hai bộ đồng phục của trường. Trong khi phần đầu cắm trên người tuyết là của nữ giới. Liệu có phải họ là một cặp?”

    Họa Long đưa ra quan điểm: “Tôi đồng ý với ý kiến của phó thị trưởng. Nếu kẻ đó là hung thủ thì tại sao y lại mua đồng phục trước. Y mặc đồng phục khi gây án nhằm mục đích gì?”

    Mọi người đang thảo luận sôi nổi thì Tiểu yêu xông vào, tất cả mọi người đều ngừng lại trong giây lát, không rõ vì sao cô bé đột ngột xuất hiện ở đây.

    Sắc mặt Tiểu yêu tái mét, cô bé căng thẳng nói: “Cháu biết người mua đồng phục trường là ai rồi. Cháu từng gặp cậu ta.”

    Hiệu trưởng vội hỏi: “Giờ không phải em đang mộng du đấy chứ?”

    Tiểu Yêu sợ đến nỗi nói lắp bắp: “Cháu… cháu nhớ ra một chuyện, mấy ngày trước tuyết rơi không ngớt, cháu nhìn thấy một người tuyết đứng ở cổng trường khi ấy một số người vây lại xem, họ tò mò vì người tuyết đó biết cử động. Thì ra đó là một thanh niên, anh ta quỳ trên mặt đất, mặc đồng phục trường, tuyết đóng thành từng mảng rất dày phủ lên toàn cơ thể anh ta.”

    Tim giáo sư Lương và Bao Triển đập thình thịch như trống trận, phó thị trưởng sốt ruột nhổm hẳn người dậy trong đầu Tô My chợt sượt qua một hình ảnh từng xuất hiện trong camera: Một chiếc xe hơi hào nhoáng đỗ trước cổng trường, một tiệm bán hoa tươi, một ông lão tình nguyện chỉ huy giao thông và một người ăn mày quỳ trên đường phố xin ăn…

    Mọi người lặng phắc đợi Tiểu yêu nói tiếp.

    Tiểu yêu nói: “Anh ta là một người ăn mày trẻ tuổi đã mạo danh sinh viên của trường!”

    Chương 5Hoa hồng băng tuyết
    Cả ba tỉnh đông bắc đều đang có tuyết rơi! Tuyết rơi ở Hắc Long Giang, tuyết rơi ở cả Cát Lâm và Liêu Ninh. Tuyết rơi trên mặt sông đóng băng trắng xóa, rơi trên thảo nguyên u ám, rơi đến từng ngóc ngách công viên cô tịch vắng bóng người qua lại, rơi vương vãi trên từng ngọn cây của dãy Bạch Trường Sơn. Tuyết bay la đà, bay lất phất, bay trên quảng trường thành phố, bay nhẹ nhàng, dịu dàng tới những nơi thẳm sâu nhất trên cánh rừng Đại Hưng An Lĩnh, tuyết đắp dày lên từng hàng bia mộ, phủ trắng những cánh rừng Bạch Hoa ở mỗi hương thôn, tuyết đậu trên từng mũi nhọn của hàng rào nan sắt bao quanh mỗi gia đình, đậu trên ngọn cỏ dại khô héo và rồi tuyết đậu trên vai hai kẻ ăn mày.

    Hãy quay ống kính về phía họ, hai kẻ đang quỳ trên phố nom rất giống hai cô cậu học sinh đi xin ăn.

    Liệu ai chú ý đến hai kẻ ăn mày ấy đây?

    Trung Quốc không chỉ có Thiên An Môn, Vương Phủ Tỉnh ở Bắc Kinh, Lục Gia Chủy ở Thượng Hải, không chỉ có những khách sạn năm sao, cũng không chỉ có những tòa nhà văn phòng cao cấp, mà thứ Trung Quốc có nhiều nhất chính là những vùng nông thôn bần hàn và khốn khó, những sự ghẻ lạnh và thảm hại mà chẳng một ai hay biết, những cánh cửa mục nát, những gia cảnh túng quẫn với cái nghèo cái đói bủa vây tứ bề. Điều xấu xa, thối nát nhất của xã hội là chưa bao giờ dám nhìn thẳng vào một vấn đề, vấn đề đó chính là những ung nhọt ấy do chính xã hội gây ra.

    Ở thị trấn nào đó thuộc tỉnh Sơn Tây, hoa bông nơi ấy màu đen, người nông dân nơi ấy sau khi làm việc hai tiếng đồng hồ giữa cánh đồng trồng bông cũng biến thành màu đen. Trong đám người đào than trên ngọn núi gần đó có những người vợ đưa cơm cho chồng con, nhưng họ chẳng thể nào phân biệt được đâu là cha họ, đâu là chồng họ và đâu là con họ bởi ai cũng bị muội than ám đen nhẻm.

    Ở một khu công nghiệp nào đó trong vùng Nội Mông, nơi ấy tất cả vỏ chăn sau khi phơi nắng đều biến thành màu đỏ cam, công lao ấy thuộc về hàng trăm ống khói đang ngạo nghễ vươn mình giữa trời xanh ở xung quanh đó. Nơi ấy ngày trời trong và ánh mặt trời chẳng liên quan gì đến nhau, bởi ngày trời trong là những ngày khu công nghiệp không cho thải khí độc.

    Hai kẻ ăn mày kia đều có đôi tay xanh lét chúng cùng đến từ một sơn thôn nghèo khó bị ô nhiễm nghiêm trọng.

    Tất cả người dân vùng sơn thôn ấy đều ngồi nhà đan giành, một người một ngày có thể đan đến hai mươi cái. Hai mươi cái giành đồng nghĩa với hai mươi tệ. Một người mẹ già đã đan giành ròng rã suốt mười tám năm để nuôi con ăn học, màu nhựa liễu trên tay bà vĩnh viễn không thể nào rửa sạch nổi, những vết thương trên đôi tay cũng vĩnh viễn không thể khép miệng.

    Chúng là hàng xóm của nhau, hai nhà chỉ cách nhau một bờ giậu thấp lè tè.

    Cô bé gọi cậu trai là anh Nê-oa, còn cậu trai gọi cô bé là em Huyền.

    Hai người đều có đông anh chị em, cuộc sống khó khăn khiến hai đứa trẻ đều chưa học hết tiểu học đã phải bỏ ngang chừng. Lúc ngồi đan giành ở nhà, thanh niên trong thôn chỉ có một mơ ước duy nhất, đó là ra thành phố làm thuê.

    Năm ấy, lần đầu tiên chúng nhìn thấy một đoàn tàu ngoài đời thực.

    Năm ấy, chúng đi miền nam và lần đầu tiên nhìn thấy thành phố phồn hoa, hào nhoáng.

    Một cậu trai và một cô bé, hai đứa đi đôi tông được làm từ lốp xe, chúng rời xa đám dê bò, rời xa những chiếc giành liễu, rời xa thôn xóm, rời xa gia đình để từ đây cất bước trên con đường lưu lạc. Nếu không có bạn đồng hành thì chặng đường ấy cô độc và gian nan biết nhường nào. Chúng ta không thể biết được hai đứa trẻ ấy đã trải qua những bước ngoặt gian nan nào? Những biến cố rủi ro nào mà từ người đi làm thuê lại trở thành kẻ ăn mày? Hay chăng người đi làm thuê và kẻ ăn mày thực chất chẳng có gì khác biệt?

    Chúng chưa bao giờ nhìn thấy tuyết ngoài đời thực.

    Cô bé tên Huyền bảo: “Anh Nê-oa ơi! Em muốn ngắm tuyết!”

    Cậu trai tên Nê-oa đồng ý ngay: “Được thôi! Vậy anh sẽ dẫn em về miền bắc.”

    Chúng di chuyển từ thành phố xa lạ này sang một thành phố xa lạ khác, từ một thành phố ở miền nam Trung Quốc ngược lên một thành phố ở phía bắc Trung Quốc. Con người ở thành phố này bận tối tăm mặt mũi, lúc nào cũng gấp gáp vội vàng còn nhanh hơn chạy, bởi vậy làm gì có ai chú ý đến hai người trẻ tuổi đang quỳ bên vệ đường? Hai đứa trẻ ấy giống như cỏ dại vô danh, chẳng ai buồn đoái hoài, chẳng ai buồn mở lời hỏi han, thỉnh thoảng có dăm ba người liếc nhìn chúng với ánh mắt xét nét và hoài nghi, càng thỉnh thoảng hơn mới có người ném về phía chúng một đôi đồng xu lẻ.

    Dưới tán cây ở một huyện thành nọ có hai người nom giống như học sinh đang ngồi nghỉ, bà già mua rau đứng gần nghe thấy hai học sinh nọ nói chuyện với nhau thế này.

    Cô nữ sinh nói với cậu nam sinh kia rằng: “Hay em ra đầu đường quỳ thử xem thế nào nhé?”

    Cậu nam sinh can ngăn: “Đừng đi! Anh quỳ ở đó hơn năm trời mà có được mấy đồng đâu!”

    Nữ sinh lại nói: “Mệt chết đi được! Mỏi nhừ hết cả vai lẫn lưng, còn mệt hơn cả hồi ở nhà đan giành, nhưng được cái mình kiếm được nhiều tiền hơn.”

    Nam sinh truyền kinh nghiệm cho bạn: “Huyền à! Em quỳ đến khi nào thấy đầu gối tê tê là hết mỏi ngay thôi.”

    Ban đầu, hai đứa trẻ ấy chẳng hề có kinh nghiệm xin ăn, sau này chúng dần dần mày mò ra cách. Trước đây chúng vào cửa hàng mua quần áo thể thao giả làm đồng phục trường, lại còn làm giả cả thẻ học sinh, nhưng sau đó chúng ngộ ra rằng không cần làm thế, cứ trực tiếp vào thẳng trường mua mấy bộ đồng phục là xong, bởi sinh viên trường đại học coi thường đồng phục, cứ trả tiền là họ sẽ bán. Hai kẻ ăn mày còn nhờ các sinh viên dạy cho ít tiếng Anh, sau đó họ luyện viết trên nền đất.

    Có người từng rơi vào trạng thái trầm tư khá lâu trước kẻ ăn mày nom giống như sinh viên này.

    Kẻ ăn mày đó quỳ trên mặt đất lầy bùn, mặc bộ đồng phục học sinh chính hiệu, dưới gối kê một bộ quần áo, lưng đeo cặp sách.

    Kẻ ăn mày đó lấy phấn viết một đoạn song ngữ Trung – Anh như thế này trên nền đất:

    Cha mắc bệnh hiểm nghèo suốt mười mấy năm, năm nay vừa dứt áo về trời, để lại món nợ mấy chục ngàn tệ cho gia đình. Mẹ chẳng có lương tâm, cải giá theo chồng mới từ sáu năm trước. Số tôi và em gái thực quá khổ. Chẳng có tiền để tiếp tục đi học, giờ hai anh em tôi nghèo đến nỗi đành phải đi xin ăn. Mọi người đều nói hoàng liên rất đắng, nhưng cuộc đời tôi còn cay đắng hơn hoàng liên gấp bội phần. Xin người qua đường hãy chậm bước chân nhìn về phía vệ đường thấy người khốn khổ mà thương xót ra tay cứu giúp, hãy bỏ dăm hào ba đồng chia sẻ tình yêu thương cho đồng loại, dù mọi người bố thí bao nhiêu tôi cũng cảm ơn. Chúc những ân nhân của tôi suốt đời bình an!

    Hơn ba mươi dòng chữ Hán viết gọn gàng, ngay ngắn, bên cạnh là dòng chữ tiếng Anh được phiên dịch rất chuẩn xác. Người qua đường ai cũng tin họ là sinh viên thực sự bị hoàn cảnh xô đẩy đến nước phải ra đầu đường xin ăn, thế là họ hào phóng mở hầu bao rút tiền ra giúp đỡ.

    Ăn mày là một nghề, mặc dù bây giờ rất nhiều người ăn mày có đủ tay đủ chân nhưng họ vẫn không muốn làm việc vì đối với họ đi ăn mày chính là làm việc mặc dù hành nghề này chẳng khác nào hành nghề lừa gạt, lừa gạt sự cảm thông và lòng yêu thương của đồng loại. Song xã hội đầy ắp dối trá và lừa lọc, trò lừa vặt vãnh của họ nào thấm vào đâu?

    Chúng ta khó có thể tưởng tượng một xã hội không có bố thí, một thành phố vắng bóng người ăn mày có thực sự là điều chúng ta muốn chăng?

    Liệu có phải lòng trắc ẩn và sự đồng cảm trong mỗi con người đang dần dần teo tóp và biến mất?

    Hai kẻ ăn mày mạo danh sinh viên, chúng thậm chí còn chưa tốt nghiệp tiểu học, nhưng hồ như trong lòng họ chứa đầy khao khát và ước mơ một ngày nào đó được bước chân vào cánh cổng trường đại học thật sự.

    Nê-oa quỳ xin ăn ở cổng thành phía nam, còn Huyền quỳ xin ăn ở cổng thành phía bắc.

    Đôi lúc họ cũng quỳ xin ăn cùng một chỗ giống như số mệnh của cậu trai gộp vào số phận của cô bé vậy. Kiến bò lên người chúng, chim sẻ bay lướt qua đầu chúng. Chúng di chuyển từ nơi này của thế giới sang nơi kia của thế giới. Chúng đi khắp muôn núi ngàn sông và chẳng biết tự bao giờ chúng chầm chậm và lặng lẽ đi vào trái tim của nhau.

    Chim sẻ mang mùi vị giống tia sét, còn kiến có màu sắc tựa rễ cây.

    Không một mĩ từ nào đủ sức biểu cảm để miêu tả sự kì diệu và sức lay động lòng người của tình yêu. Chúng nghe thấy tiếng đáp lại của tâm hồn đối phương trong từng giây từng phút.

    Trận bão tuyết lịch sử lớn nhất suốt năm mươi sáu năm nay đã tấn công tàn bạo vào ba tỉnh miền bắc và nhờ thế hai kẻ ăn mày quỳ bên vệ đường kia có cơ hội lần đầu tiên nhìn thấy tuyết ngoài đời thực. Chúng vừa đi vừa chạy, vui mừng hớn hở suốt dọc đường xin ăn, trong lòng dấy lên một tâm nguyện nho nhỏ: Chúng sinh ra và lớn lên ở một miền quê chưa bao giờ có tuyết, chúng mơ ước một lần trong đời được nhìn thấy những bông hoa trắng lạnh buốt tung bay giữa không trung. Lúc quỳ trên đường lẽ ra họ phải cúi đầu, nhưng vào khoảnh khắc nụ hoa tuyết đầu tiên nhẹ nhàng đáp xuống, hai kẻ ăn mày đều bất giác ngẩng lên. Ô! Những bông tuyết trắng tinh khiết! Tinh khiết tựa tình yêu của hai đứa trẻ ăn mày sinh ra đã bị cái nghèo đeo đẳng. Cậu quỳ bên cạnh cô, chúng quỳ bên nhau giống như đang thực hiện một nghi lễ trang trọng, chẳng ai nói với ai câu nào, cũng chẳng người nào buồn chú ý đến chúng, chỉ có những bông hoa tuyết lặng lẽ rơi rơi.

    Hôm ấy, tuyết bay cuồng loạn, cậu trai và cô bé quỳ cùng một nơi giống như hai người tuyết. Có người đàn ông trung niên đi ngang qua, nhìn thấy cô bé lấy ngón tay hí hoáy vẽ đi vẽ lại hình trái tim nho nhỏ trên nền tuyết trắng. Chẳng biết có phải hình vẽ ấy khiến người đi đường xa lạ kia hồi tưởng về một mảnh kí ức đã quá xa xôi, hay chỉ đơn thuần xuất phát từ lòng trắc ẩn hoặc cảm động mà một người chưa bao giờ bố thí như ông ta đã đi lướt qua, chợt quay lại bước về phía chúng, đặt tờ tiền năm mươi tệ lên mặt đất.

    Hai kẻ ăn mày dập đầu tạ ơn. Đến khi người qua đường nọ khuất dạng, khách bộ hành trên đường dần thưa thớt, họ mới khe khẽ nắm lấy tay nhau mà không hề để ý đồng tiền vừa được người ta bố thí là đồng tiền giả.

    Mùa đông ấy đổ trận tuyết lớn chưa từng có, vì giao thông bị tắc nghẽn nên chúng men theo dòng sông băng để sang thành phố khác. Triền đê sông là hai sườn tuyết trơn trượt. Cậu trai lên bờ trước rồi quỳ trên mặt đất chìa tay cho cô bé, cậu nhoẻn cười, nụ cười trong trẻo như tia nắng xuân đầu tiên xua tan mùa đông rét buốt, tựa làn gió xuân mát lành làm tan chảy giá băng, hơi ấm từ một bàn tay truyền sang một bàn tay khác, rồi cứ thế len lỏi vào tận trái tim. Họ là tình đầu của nhau, tình đầu và cũng là tình cuối. Trước đây và cả sau này chưa bao giờ có người nào chìa tay ra cho cô nắm lấy mỗi khi cô gặp khó khăn, khắp cõi đời chẳng có ai giống cậu, chẳng một ai có thể thay thế được cậu.

    Một cành cây đóng băng rơi xuống, chúng nghe thấy tiếng băng rơi giòn tan như tiếng thủy tinh khẽ vỡ trong lòng, thế là kể từ giây phút đó chúng thuộc về nhau. Suốt đời!

    Khoảnh khắc ấy cả thế giới cơ hồ chìm trong băng tuyết, trái tim hai người rộn ràng tiếng chim ca và thơm ngát hương hoa.

    Dòng chảy đã bị đóng băng, nom con sông chẳng khác nào được tạc ra từ miếng hàn ngọc.

    Phía dưới lớp băng đông cứng là cả thế giới tàn dư với màu bạc phếch của ngày cũ được bảo tồn một cách nguyên vẹn, có điều giờ đây thế giới đó bắt đầu bị mủn nát, từng chút từng chút một.

    Mặt sông đóng băng trong suốt như pha lê trải dài cả nghìn dặm bỗng nhiên sụt một đoạn, phía dưới lớp băng có bông hoa lê rơi xuống từ mùa xuân, có cá bơi lội, có cánh hoa khiên ngưu rơi xuống từ mùa hạ, có chạch rạch bùn, có hoa cúc rơi xuống từ mùa thu và con có cả vỏ sò. Cánh hoa mai rụng trên mặt đất bị gió thổi tan tác cùng tuyết trắng, lọ thủy tinh nhét mẩu giấy nguyện ước của ai đó không trôi nữa mà mắc kẹt nửa thân dưới vào lớp băng.

    Hoa đến ngày hoa nở nhưng đối với cậu tất cả hoa trên thế gian này gộp lại cũng không thể sánh bằng đóa hàm tiếu nở trên môi cô!

    Mỗi khi đến một thành phố, chúng lại đến trường đại học lớn nhất của thành phố đó mua hai bộ đồng phục trường.

    Khi tới ngôi trường này mua đồng phục, Huyền chỉ về phía tòa nhà mới xây dành cho giáo viên và bảo: “Đẹp quá! Giống như khách sạn ấy nhỉ! Chắc chỉ người lắm tiền mới được ở trong đó thôi!”

    Nê-oa nói như thể mình rất rành rẽ: “Trong khách sạn đều có nhiệt kế để người ta biết nhiệt độ phòng.”

    Huyền bảo: “Chân chúng mình chính là nhiệt kế còn gì, nhưng giờ chân em đang mất hết cảm giác, chẳng biết lạnh mấy độ nữa!”

    Nê-oa viển vông: “Chúng ta kết hôn xong mà được vào đó ở thì hay biết mấy!”

    Huyền thực tế hơn: “Về quê xây nhà cũng được mà! Chỉ người giàu mới được sống trong tòa nhà ấy thôi! Với em, nhà rách nhưng có anh cũng thành lành!”

    Nê-oa bảo: “Không mua nổi, cũng chẳng được ở thì ta đành ngắm suông vậy!”

    Suốt mấy ngày sau đó, cậu trai quỳ ở cổng trường, trong trường có hơn chục ngàn sinh viên, chẳng ai phân biệt được cậu ta có phải sinh viên trường mình thật hay không, vì cậu ta mặc đồng phục của trường nên nhiều sinh viên lương thiện và cả tin đã bố thí cho cậu ta chút tiền lẻ.

    Còn cô bé quỳ dưới chân cầu gần bãi đỗ xe.

    Chúng không quỳ cùng nhau nhưng cả hai đều bị tuyết bao phủ khắp người, hoa tuyết khiến hai mái đầu xanh trở thành mái đầu bạc trắng như sương.

    Chúng quỳ trên mặt đất, tình yêu từ mộ phần ở nơi sâu trong lòng đất dần dần vươn lên, yêu và nhớ quấn quýt vào nhau tạo thành một bức tường hoa vững chãi trăm hoa rung rinh đua sắc, đẹp như cõi tiên.

    Người đang yêu thường rất ích kỉ, họ chỉ nở hoa vì người mình yêu mà thôi.

    Nê-oa quỳ ở cổng trường đến tận lúc trời sẩm tối, cậu ta giống như một người tuyết. Ở chân cầu gần bãi đỗ xe của một thành phố khác cũng xuất hiện một người tuyết tương tự.

    Trên nền tuyết có một cành hoa hồng gẫy gập, đó là cành hồng mà người bán hoa ở cổng trường quẳng đi, đó là thứ bị người ta vứt bỏ.

    Cậu lẳng lặng nhặt lên, lén lút như một tên trộm, rồi ngại ngùng nhét bông hoa vào cặp sách. Thậm chí chưa bao giờ cậu nói với cô bé rằng: “Anh yêu em!”

    Đối với những cậu trai vùng sơn thôn nghèo khó, ba từ ấy thực khó mở miệng.

    Nê-oa mang bông hoa hồng vừa nhặt được, mang tất cả số tiền mới ăn xin được ngày hôm nay và mang theo cả nỗi nhớ cô bé, cậu đứng dậy đi tìm cô, nhưng tìm mãi chẳng thấy cô đâu. Dưới chân cầu gần bãi đỗ xe xảy ra một vụ tai nạn, cách cầu khoảng năm trăm mét, cậu trai nhìn thấy cô bé nằm lăn lóc ngay cạnh một chiếc xe con sang trọng, bốn cô gái đang đứng gần xe. Họ là Lôi Lôi, Mai Tử, Tuyết Nhi và Dạ Man.

    Nê-oa vừa lăn vừa bò lại phía họ, cậu ôm đầu cô bé, gào khóc lạc giọng.

    Lôi Lôi hất hàm hỏi: “Cậu là ai của người chết, cậu có quan hệ gì với cô ấy?”

    Nê-oa vừa khóc vừa đáp: “Cô ấy là em Huyền của tôi.”

    Lôi Lôi nói: “Em Huyền? Hai người là anh em à? Hai anh em cùng học một trường đại học sao? Thôi được! Một triệu tệ đủ không? Tôi đền tiền.”

    Nê-oa tiếp tục khóc, vì tim đau như bị ai vò nát nên giọng cậu trở nên khàn đặc.

    Mai Tử nói: “Cậu ta mặc đồng phục trường mình, hay là học cùng trường mình nhỉ?”

    Lôi Lôi quắc mắt dọa nạt: “Thêm mười ngàn tệ nữa là được chứ gì? Đừng thấy được đằng chân mà lân đằng đầu! Làm to chuyện không có lợi cho cậu đâu, ông bố nhà tôi là…”

    Nê-oa vẫn gào khóc thảm thiết: “Không cần tiền! Không cần tiền! Không cần tiền! Trả lại em Huyền cho tôi!”

    Lôi Lôi thản nhiên đốp lại: “Em Huyền nhà cậu chết rồi! Còn mỗi cái đầu đây này! Lẽ nào cậu định chặt tay chân chúng tôi lắp vào người em Huyền nhà cậu chắc?”

    Mai Tử nói: “Thôi! Chúng ta giải quyết cá nhân! Đừng để dính dáng đến pháp luật!”

    Lôi Lôi rút điện thoại đi động ra bảo: “Chúng ta đi rửa xe trước đã! Đen thấy mồ! Xe vừa mới mua xong mà đã… Mai tớ gọi điện xin tiền ông bố.”

    Dạ Man bảo: “Chị Lôi Lôi, hay chúng ta đi báo cảnh sát nhé?”

    Lôi Lôi gạt đi: “Cảnh sát thì cũng để chúng ta giải quyết cá nhân chứ hơn gì đâu? Phải đền tiền thì chị đền, không liên lụy đến em đâu mà sợ. Đi rửa xe trước đã, sau đó đi ăn tiệm, hát karaoke”. Lôi Lôi viết số phòng, số điện thoại và tên mình vào mảnh giấy đưa cho Nê-oa, bảo cậu ta ngày mai đến phòng kí túc lấy tiền và giải quyết việc này êm thấm thế thôi. Tinh thần Nê-oa vẫn mất kiểm soát, cậu ta cầm mảnh giấy, rồi giằng túi của Lôi Lôi lại, không cho cô ta đi, vừa giằng vừa khăng khăng hỏi xác em Huyền ở đâu.

    Ba cô gái còn lại thấy Nê-oa giằng co với Lôi Lôi thì xúm lại kéo cậu ta ra để Lôi Lôi chạy thoát, cô gái sợ hãi bỏ của chạy lấy người. Bốn cô gái nhanh chóng trèo lên xe phóng vụt đi mất.

    Tối hôm đó ngoài Dạ Man ra, ba cô gái còn lại uống say ngất say ngưởng, họ không hề bận tâm đến vụ tai nạn do mình gây ra, cha của Lôi Lôi là quan to, họ tin rằng Lôi Lôi đủ khả năng dàn xếp vụ này.

    Dạ Man không uống rượu, cô về kí túc xá trước, Lôi Lôi và Mai Tử say nhừ, bước đi loạng choạng, chân nam đá chân chiêu, họ dìu nhau về phòng. Tuyết Nhi đi tìm ông chủ quán cơm ở gần trường nên về trường muộn hơn các bạn một chút.

    Nê-oa không hề lên kế hoạch tỉ mỉ cho vụ án này, mãi sau khi gây án xong cậu ta mới nghĩ cách đào tẩu. Khi ấy cậu ta chỉ cảm thấy tuyệt vọng và đau đớn đến tột cùng, cậu ta chỉ có một ý nghĩ duy nhất là giết người, không những thế mục đích giết người vô cùng rõ ràng: Giết hết bốn người hoặc một gười trong số họ. Cậu ta đi mua rìu rồi tìm đến kí túc xá theo địa chỉ viết trên mảnh giấy mà Lôi Lôi để lại. Nê-oa lẻn vào trong kí túc nấp ở góc phòng đợi bốn cô gái về.

    Bốn cô gái lần lượt về phòng, bản thân Nê-oa cũng không ngờ rằng mình có thể giết bốn người dễ dàng thế. Cậu ta chỉ biết lòng mình căm hận họ đến độ nào. Tuyết vẫn rơi đều ngoài cửa sổ, sân trường vắng đến hoang lạnh, cậu ta chợt nghĩ ra việc đắp người tuyết rồi lắp tứ chi của kẻ thù cho người tuyết, ý tưởng này hoàn toàn tự phát, chứ không hề được lên kế hoạch trước như phía cảnh sát suy đoán lúc tái hiện lại hiện trường. Có lẽ chính câu nói của Lôi Lôi đã gợi ý cho cậu ta làm vậy “Lẽ nào cậu định chặt chân tay chúng tôi lắp vào người cô ấy?” Cậu muốn tặng người mình yêu một cơ thể lành lặn và toàn vẹn, đối với Nê-oa chính bốn cô gái kia mới là hung thủ, bởi vậy cậu ta muốn lấy tứ chi của kẻ thù để đền bù cho người mình yêu.

    Đầu của người tuyết nhìn thẳng về phía toà nhà giáo viên, đó là nơi mà hai kẻ ăn mày đáng thương nọ ước mơ được vào ở.

    Người bán bánh chưng chẳng bao giờ biết thế nào là khúc “Ly tao”; nơi ở của những công nhân ngày đêm xây dựng bao tòa nhà thương mại cao cấp là những chiếc lán sơ sài.

    Chúng lưu lạc nay đây mai đó, chúng ăn mày, nhưng chúng cũng muốn có một ngôi nhà!

    Căn cứ vào đặc điểm nhận dạng qua camera và lời miêu tả của hai nhân chứng, phòng nghiên cứu hình ảnh đặc biệt và các chuyên gia hội hoạ của tỉnh đã dựng lại ảnh của hung thủ, các lực lượng cảnh sát của toàn thành phố phối hợp với nhau triển khai truy bắt tội phạm, vài ngày sau họ tìm thấy Nê-oa tại một căn phòng thuê lụp xụp, trong phòng có hung khí gây án – chiếc rìu dính máu, ngoài ra còn có túi xách của Lôi Lôi và một bông hồng gẫy gập.

    Nê-oa nói với tổ chuyên án, cậu ta định sang xuân sẽ tiếp tục quỳ một mình ở những nơi mà trước đây hai người họ cùng quỳ để xin ăn.

    Tổ chuyên án hỏi cung một số chi tiết gây án, Nê-oa đều khai thành thật, sau khi giết người cậu ta trèo lên ống thông gió của nhà vệ sinh tầng ba rồi nhảy xuống đụn tuyết dưới sân. Trước khi nhảy xuống, cậu ta không hề nhìn thấy Lôi Lôi bò ra khỏi phòng, cũng không nhìn thấy Tiểu yêu.

    Sau này, giáo sư Lương và cán bộ hội học sinh thưởng mười ngàn tệ cho Tiểu yêu đúng như đã hứa.

    Tô My hỏi: “Giờ đã phá án xong, chị cũng không ngại nói cho em một chuyện. Em biết nickname trên QQ của A Kiều là gì không?”

    Tiểu yêu lắc đầu bảo không biết.

    Tô My chậm rãi thốt ra hai từ: “Tiểu yêu!”

    Giáo sư Lương cũng nói: “Không ai biết cháu đã làm gì trong ba phút lúc cháu mộng du, nhưng…”

    Tiểu yêu tái mặt lắp bắp hỏi: “Nhưng… sao ạ?”

    Giáo sư Lương nói tiếp: “Lúc cháu từ hiện trường vụ án trở về phòng, các bạn cùng phòng đã nhìn thấy cháu…”

    Tiểu yêu mở to hai mắt hỏi: “Cháu làm sao ạ?”

    Giáo sư Lương nói: “Cháu đang khóc, nước mắt giàn giụa khắp mặt!”
     
    Chỉnh sửa cuối: 26/3/17
    Gum, Dung dung, Trandinhanh and 5 others like this.
  9. Nhím Nhím

    Nhím Nhím Member
    • 344/373

    Bài viết:
    41
    Đã được thích:
    422
    Tập 1: BÓNG MA ĐÊM MƯA
    PHẦN 7: GIẢI THÍCH VỀ CÁI KẾT CỦA NGƯỜI TUYẾT​


    Đây là câu hỏi được chính tác giả Tri Thù trả lời.

    Câu hỏi 16: Tại sao Tiểu Yêu lại khóc!!! Trong 3 phút đó đến cùng đã làm gì!!!

    Đáp: Trong “Mười tội ác” có rất nhiều phép ẩn dụ, điều này đại biểu cho một vài quan điểm mà tôi muốn diễn đạt bằng một cách hàm súc, cô đọng.

    Thí dụ như tên của hung thủ trong Bù nhìn da người giống với tên của Đào Uyên Minh, tôi chẳng qua là chỉ muốn bày tỏ một loại thái độ đối với việc giải quyết bằng bạo lực, thay vì chịu nhục chịu khổ chi bằng phẫn nộ mà phản kháng.

    Việc Tiểu Yêu mộng du, ở dưới thể chế giáo dục, bất luận là sách Ngữ Văn hay là sách Lịch Sử, đặc biệt là sách Chính Trị, đầy rẫy lời nói dối, có một học sinh nào mà không phải đang mộng du?

    Sinh viên đại học đáng lẽ phải là thiên chi kiêu tử (con cưng của trời), thế nhưng những chiếc xe con đưa đón những nữ sinh viên làm bồ nhí đỗ tại cổng trường, mọi người đã quá rõ ràng, thấy nhiều nên quen.

    Có người mộng du mấy phút, có người mộng du mấy tháng, bản tin nước ngoài còn đưa tin có người mộng du mấy năm.

    Tôi thấy rằng, cái xã hội mà chúng ta đang ở, có bao nhiêu người mộng du cả đời?

    Tiểu Yêu – một cô sinh viên nhỏ ở trường, đại diện cho hình tượng của hết thảy nữ sinh viên ở trường, cô đã gặp một cơn ác mộng, mơ thấy cảnh sát đến phá án, mơ thấy bản thân cung cấp manh mối, mơ thấy tuyết lớn, mơ thấy vụ án đã được phá, mơ thấy cảnh sát nói cho cô, rằng cô đã khóc…

    Cô sinh viên đang nằm mộng, cô sinh viên đang ở trường, cô sinh viên trong sáng, khi nào mới có thể tỉnh lại?

    Trường học đã không còn là chốn bồng lai nữa, xã hội sắp tới là sẽ dơ bẩn như vậy.

    Sự xấu xí trong thực tế cùng với sự xấu xí trong mơ, sự kinh dị trong thực tế cùng với sự kinh dị trong mơ, có khác nhau ở đâu ư?

    Một bên là hai học sinh không đi học nổi mặc đồng phục học sinh ăn xin, một bên là một vài nữ sinh viên đại học sống cuộc sống thối nát bán đi thể xác, mức độ chênh lệch giàu nghèo lớn đến mức khó mà tưởng nỗi, cùng một khoảng trời, cùng một trận tuyết lớn, cái không giống chính là chúng ta.

    3 phút đó của Tiểu Yêu, là đang mặc niệm, thương tiếc với cái thể chế giáo dục cứng ngắc sắp sửa mục nát ấy, cô vì sự thối nát của xã hội và tình yêu đen tối mà khóc, cô vì hai người ăn mày không kham nổi đại học chỉ có thể giả làm sinh viên đại học quỳ gối ăn xin mà khóc, cô vì cành hoa hồng gẫy gập bị người vứt bỏ ở trong băng tuyết mà khóc, cô vì bọn con ông cháu cha gây ra tai nạn giao thông rồi nói “Bố tôi là…” mà khóc!

    Cô vì mỗi một nữ sinh viên hiện còn đang ở trường mặc niệm 3 phút, vì họ vì chính mình mà lệ rơi đầy mặt.
     
    Chỉnh sửa cuối: 21/3/17
    Gum, Dung dung, Trandinhanh and 5 others like this.
  10. Nhím Nhím

    Nhím Nhím Member
    • 344/373

    Bài viết:
    41
    Đã được thích:
    422
    Tập 1: BÓNG MA ĐÊM MƯA
    PHẦN 8: HOA CỦA ĐẦU LÂU​

    Lời dẫn

    Con người là địa ngục của con người – Jean Paul Sartr.



    Ngày 20 tháng 3 năm 2008 giữa tiết xuân phân trước cổng bốn đơn vị cảnh sát huyện Đại Trạch bỗng xuất hiện một nhúm xương trắng. Nhúm xương trước cửa bốn đội cảnh sát lần lượt là đội cảnh sát hình sự, đội cảnh sát giao thông, đội cảnh sát tuần tra và đội phòng chống bạo lực đều được xếp thành chữ số.

    Trước mỗi chữ số được ghép bằng xương ở mỗi đội đều đặt một xương sọ.

    Vì suốt mấy ngày liên tiếp trước đó trời đổ trận mưa lớn nên sở điện lực phải cắt điện ở huyện thành để sửa dây mạng ngay trong buổi tối cùng ngày, chính bởi thế camera lắp trước cửa bốn đơn vị cảnh sát đều trở nên vô dụng, không rõ kẻ nào đã xếp xương trắng trên mặt đất, càng chẳng rõ đó là xương người hay xương động vật.

    Các bác sĩ pháp y của huyện kết hợp thành nhóm giám định. Thông qua các xét nghiệm trầm tích bột xương và kết quả kiểm tra về hình thái tổ chức xương, tổ giám định thống nhất cho rằng xương bày trên mặt đất đều là đầu lâu xương sọ cũng là sọ người!

    Một chuyên gia điều tra hình sự cho rằng bốn tổ chữ số đó có thể là một tọa độ. Đội trưởng đội cảnh sát hình sự bắt đầu tiến hành nghiên cứu bốn tổ chữ số được ghép bằng xương người, thông qua nhiều kiểu kết hợp và hàng loạt phân tích về phương vị lắp ghép xương người, đội cảnh sát hình sự kết luận rất có thể tọa độ mà đống xương trắng muốn ám chỉ chính là trại giam.

    Ngày 24 tháng 3 năm 2008, giám đốc trại giam huyện Đại Trạch đột nhiên mất tích, sáng sớm ngày hôm sau, người ta phát hiện xác của giám đốc trại giam ở gần rừng trúc, hai tay bị trói quặt ra sau, miệng nhét giẻ, toàn thân dường như bị ai đó tra tấn rất dã man. Khi cảnh sát đến hiện trường thì đã có mấy chục người đứng chỉ trỏ vây quanh.

    Chương 1Xác chết trong rừng trúc
    Phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc đột nhiên nói: “Tôi đố mọi người một câu nhé!”

    Họa Long hỏi luôn: “Đố vui có thưởng không sếp?”

    Phó cục trưởng đáp: “Trả lời được tôi mời mọi người bữa cơm, còn không trả lời được thì mọi người mời lại tôi.”

    Tô My đồng ý ngay: “Được thôi!”

    Phó cục trưởng nêu câu hỏi: “Giám đốc trại giam có một đứa con trai lên mười. Một lần cậu bé chạy vào trại giam nói với giám đốc rằng “Về mau! Về mau! Hai bố chúng ta đánh nhau to rồi!” Ai có thể nói cho tôi biết thế là thế nào?”

    Tô My thắc mắc: “Ý cậu bé nói bố và ông nội của nó đánh nhau ư? Nhưng ông nội thì ở nhà còn bố thì đang ở trại giam cơ mà? Làm sao mà đánh nhau được?”

    Họa Long tỏ vẻ từng trải đoán: “Tôi đoán cậu bé đó có hai ông bố, giám đốc trại giam chỉ là cha dượng.”

    Giáo sư Lương thủng thẳng bảo: “Tôi nhường cho cậu Triển, đồ đệ của tôi trả lời!”

    Bao Triển nghĩ một lát rồi nói: “Giám đốc trại giam là một phụ nữ!”

    Quả vậy, giám đốc trại giam huyện Đại Trạch tên là Bành Thái Hồng, bà ta mắc bệnh phụ nữ trước khi bị sát hại. Vì mắc bệnh khó nói nên giám đốc nói dối là bị cảm và xin nghỉ mấy ngày để đi khám. Ngày 23, bầu trời u ám, nhiều vũng nước đọng trên mặt đất, thấy tường rào vây quanh trại giam bị sụt lở, giám đốc Bành không quản bệnh tật, xắn tay áo chỉ đạo anh em xây lại tường, sau đó không thấy bóng dáng bà ta đâu nữa, người nhà nghĩ bà Bành đang ở trại giam, còn các đồng nghiệp ở trại giam lại nghĩ giám đốc đang nghỉ ngơi ở nhà. Mãi đến sáng sớm ngày 25, mấy học sinh tiểu học đi đào măng mới phát hiện thi thể của bà ta nằm trong rừng trúc. Phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc nói: “Đội trưởng Ngưu thuộc đại đội cảnh sát hình sự huyện Đại Trạch nhận định hung thủ đã khóa ngược tay của nạn nhân ra sau lưng, nhét giẻ vào miệng. Nhìn phần hạ thể nạn nhân có thể thấy có lẽ đây là vụ cưỡng dâm báo thù.”

    Giáo sư Lương nói: “Có thể nhận thấy hung thủ rất căm ghét nạn nhân nên mới tra tấn kiểu đã man như vậy.”

    Bao Triển nêu quan điểm: “Tôi cho rằng hung thủ là người quen của nạn nhân, biết nạn nhân mắc bệnh mắc bệnh phụ khoa nên mới dùng phương pháp này để hạ nhục.”

    Họa Long thắc mắc: “Bệnh phụ khoa có gì nghiêm trọng mà đến nỗi phải xin nghỉ ở nhà nhỉ?”

    Giáo sư Lương nhìn hồ sơ vụ án rồi bảo: “Những chữ số được xếp bằng xương người này rất kì quái, để phán đoán đây là dãy số chỉ tọa độ thì không khó, nhưng cái khó là những chữ số này không hề có thứ tự, làm sao cảnh sát ở địa phương có thể phân biệt được hệ số kinh tuyến và vĩ tuyến được nhỉ? Ai đã viết bản báo cáo suy đoán tọa độ này?”

    Phó cục trưởng đáp: “Đội trưởng Ngưu viết! Sau khi quan sát phương hướng đầu lâu quay mặt về và đối chiếu với hệ tọa độ Descartes, tọa độ mặt phẳng, rồi tiến hành trắc họa theo tỉ lệ trên bản đồ, cuối cùng nhận định tọa độ trên chỉ về phía trại giam.”

    Tô My gõ ngón trỏ vào trán ra chiều đang vắt óc nghĩ: “Đội trưởng Ngưu ở huyện Đại Trạch à? Sao nghe tên này quen thế nhỉ? A! Tôi nhớ ra rồi, suýt chút nữa ông ta đã trở thành thành viên của tổ chuyên án chúng ta.”

    Tô My lập tức bật máy tính xách tay, mọi người tò mò châu đầu lại xem, hồ sơ trong máy tính ghi rõ đội trưởng Ngưu có tên thật là Ngưu Bảo Sơn, cảnh sát cấp độ một, ba mươi hai lần được nhận huân huy chương biểu dương cấp thành phố trở lên, năm lần được vinh danh nhận huân chương lao động hạng ba, vào ngành cảnh sát đã được hai mươi năm, từng phá rất nhiều vụ án kì bí, trong đó không thiếu những vụ án lớn làm chấn động cả nước, chiến công vô cùng hiển hách. Đội trưởng Ngưu đúng là không phải nhân vật tầm thường! Khi giáo sư Lương lựa chọn thành viên cho tổ chuyên án, Tô My từng sắp xếp phân loại hồ sơ của những cảnh sát ưu tú nhất các tỉnh thành cho ông xem, khi ấy tên của đội trưởng Ngưu được xếp hàng đầu tiên.

    Phó cục trưởng nói: “Đội trưởng Ngưu rất xuất sắc có điều tôi chưa từng gặp người nào nóng nảy và ngang ngược như anh ta.”

    Không phải đợi lâu, ngay sau khi đến huyện Đại Trạch, tổ chuyên án đã lập tức được lĩnh giáo tính khí ngang ngược của đội trưởng Ngưu. Vừa mới bước vào phòng, tổ chuyên án đã thấy đội trưởng Ngưu đang cãi nhau với trưởng phòng cảnh sát huyện, bốn thành viên tổ chuyên án lúng túng đứng ngoài quan sát hai người họ đỏ mặt tía tai tranh luận rất gay gắt. Đội trưởng Ngưu cho rằng công an huyện không cần cầu xin sự hỗ trợ của tổ chuyên án, trưởng phòng cảnh sát huyện nên lập tức hủy thư yêu cầu. Trưởng phòng cảnh sát thấy đội trưởng Ngưu đòi hỏi vô lý, lại dám lớn tiếng với mình như vậy thì thấy rất mất mặt, ông ta liền quát: “Ở đây tôi là sếp hay cậu là sếp hả?”

    Đội trưởng Ngưu chỉ tay vào trưởng phòng cảnh sát dằn mặt: “Chớ mang chức tước ra đây mà lấy thịt đè người! Chức trưởng phòng cảnh sát của anh là hệ chính quy thì hàm cảnh sát cấp một của tôi cũng là chính quy đấy!”

    Trưởng phòng cảnh sát xua tay: “Thôi! Thôi! Tôi không đấu khẩu với cậu nữa, dẫu sao tổ chuyên án cũng từ xa đã lặn lội đến đây rồi, chúng ta phải bình tĩnh ngồi xuống bàn bạc mới ra vấn đề được!”

    Đội trưởng Ngưu vung tay: “Tôi mặc kệ! Tôi nhất quyết không hợp tác với tổ chuyên án. Đây là vụ án của tôi không cần bất cứ ai giúp đỡ!”

    Trưởng phòng cảnh sát nói: “Cậu có biết vì sao cậu làm cảnh sát bao nhiêu năm rồi mà vẫn giậm chân tại chỗ, mãi không thăng quan tiến chức được không? Cậu thử nhìn lại tính khí của mình mà xem, lúc nào cũng nóng nảy và thẳng như ruột ngựa, không chừa lại sĩ diện cho ai bao giờ, phải thế không hả?”

    Không khí trong phòng vô cùng căng thẳng và gượng gạo, giáo sư Lương ho khan một tiếng định cất lời khuyên lơn, nhưng đội trưởng Ngưu tiếp tục coi bốn thành viên của tổ chuyên án như người vô hình, ông ta quay đi như thể không nhìn thấy họ. Trưởng phòng cảnh sát ngại ngùng cười cầu hoà, rồi tỏ ý xin lỗi tổ chuyên án. Đội trưởng Ngưu chống nạnh, nhìn ra phía ngoài cửa sổ nói: “Tổ chuyên án thì có gì ghê gớm? Vụ án chặt tứ chi người lắp thành người tuyết dạo trước ấy, tổ chuyên án thậm chí còn thua cả một cô nhóc sinh viên. Đúng là lũ bất tài vô dụng!”

    Họa Long cũng là người nóng tính như lửa, bị đối phương sỉ nhục như vậy làm sao anh nhịn nổi, lửa giận bốc cao vạn trượng, anh lập tức xông lên định tranh luận phải trái với đội trưởng Ngưu nhưng bị Bao Triển giơ tay ngăn lại. Mặt Họa Long đỏ tía tai, gân cổ nổi lên cuồn cuộn, cao giọng hỏi: “Này! Ông anh bảo ai là lũ bất tài vô dụng hả?”

    Trưởng phòng cảnh sát đành bước đến lựa lời khuyên giải, ông ta không muốn đắc tội với tổ chuyên án, trong lòng còn hi vọng tổ chuyên án giúp đỡ cảnh sát huyện phá được vụ án này, bởi vụ án này rất nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến xã hội, nếu cảnh sát huyện không thể phá án thì chắc chắn con đường thăng quan tiến chức của trưởng phòng cảnh sát sẽ gặp trở ngại. Giữa cái khó ló cái khôn, cộng thêm bao nhiêu năm lăn lộn làm công tác tổ chức trong ngành cảnh sát, trưởng phòng cảnh sát liền nghĩ ra cách khơi gợi tinh thần tranh đua giữa tổ chuyên án và đội trưởng Ngưu theo hướng tích cực. Trưởng phòng cảnh sát đề nghị đội trưởng Ngưu thành lập tổ trọng án cùng tranh tài với tổ chuyên án xem ai phá được án trước.

    Đội trưởng Ngưu gạt tay tỏ vẻ coi thường: “Tranh tài cái gì? Vô vị! Chi bằng chúng ta cá cược thử xem!”

    Họa Long hưởng ứng ngay: “Cá thế nào?”

    Đội trưởng Ngưu nói: “Tôi thành lập tổ trọng án, nếu tổ trọng án bắt được hung thủ trước thì coi như tổ trọng án thắng cuộc.”

    Giáo sư Lương hỏi: “Nếu tổ chuyên án phá được án và bắt được hung thủ trước thì coi như tổ chuyên án thắng sao?”

    Họa Long nóng lòng hỏi tiếp: “Thắng rồi thì sao? Mà thua sẽ bị xử thế nào?”

    Đội trưởng Ngưu đáp: “Nếu tôi bắt được hung thủ trước thì các người thua, bốn thành viên tổ chuyên án các người phải quỳ trước cổng phòng cảnh sát huyện, dập đầu tôi là sư phụ. Còn nếu tổ chuyên án các người thắng, thì tôi cũng quỳ xuống, dập đầu vái lạy các người là sư phụ. Như thế đã sòng phẳng chưa? Dám đánh cược không?”

    Trưởng phòng cảnh sát tức giận mắng: “Im mồm! Đường đường là một cảnh sát mà cậu dám biến việc phá án thành trò đùa trẻ con sao? Cậu coi trời bằng vung quá rồi đấy!”

    Họa Long cũng châm biếm: “Ông anh chém gió hơi quá đà thì phải!”

    Tô My cũng phẫn nộ, cô vừa chống nạnh vừa cao giọng: “Muốn chúng tôi dập đầu lạy ông sao? Đừng mơ! Chúng tôi không thèm cá cược với ông.”

    Họa Long nói với giọng kích động: “Giáo sư Lương, cứ cược với ông ta đi! Cháu không tin chúng ta thua cuộc. Gã kia ngông cuồng quá, cháu muốn nhìn thấy bộ đạng ông ta dập đầu lạy chúng ta trông mất mặt đến mức nào.”

    Giáo sư Lương thong thả cất lời: “Chân tôi tàn tật, lại qua tuổi hoa giáp rồi, hay là thay hình thức cược dập đầu thành khom lưng bày tỏ lòng kính phục được không?”

    Thế là đội trưởng Ngưu và giáo sư Lương đập tay thề, hai bên lập giao hẹn cá cược, rồi phân thành hai tổ cùng tiến hành phá án, phòng cảnh sát huyện chia đôi nguồn tài chính chi cho vụ án này cho hai tổ, tổ nào bắt được hung thủ trước, tổ đó giành chiến thắng, đội thua phải khom lưng hướng vào cổng phòng cảnh sát huyện gọi đối phương là sư phụ. Tin này nhanh chóng lan truyền khắp huyện với tốc độ chóng mặt, tất cả cảnh sát trong huyện biết sự tình đều rất phấn khích, họ đợi xem màn kịch hay, thậm chí một vài cảnh sát còn ngầm đánh cược, tỉ lệ đặt cược cho tổ chuyên án và tổ trọng án về cơ bản là ngang bằng nhau.

    Sức nặng của tờ giao hẹn cá cược khiến cả hai tổ lập tức triển khai công việc phá án.

    Đội trưởng Ngưu là một kẻ cuồng việc, ông ta không biết mỏi mệt là gì, trong một ngày thẩm vấn hơn ba mươi người. Tổ chuyên án cũng không dám lơ là, họ lập tức dốc toàn lực tập trung làm việc một cách vô cùng tỉ mỉ và cẩn thận. Phong cách tiếp cận vụ án của hai bên hoàn toàn khác nhau, đội trưởng Ngưu chém to kho mặn, chỉ chú trọng số lượng đầu việc, thậm chí lúc xét hỏi nhân chứng còn không thèm ghi chép bút lục, trong khi đó tổ chuyên án chú trọng điều tra có chiều sâu cố gắng tìm kiếm những manh mối nhỏ nhất từ những tình tiết dễ bị bỏ qua nhất.

    Ngày làm việc đầu tiên kết thúc, đội trưởng Ngưu đã tiến hành điều tra xong bối cảnh xã hội của giám đốc trại giam Bành Thái Hồng. Giám đốc Bành là người rất quảng giao, bà ta quen từ những nhân vật cao cấp như thành viên quan trọng trong ủy ban nhân dân thành phố đến những nhân vật hạ lưu như tội phạm, phạm nhân trong trại. Bà ta giao du với rất nhiều bạn bè, mối quan hệ vô cùng phức tạp. Khi kiểm kê tài sản, cảnh sát phát hiện giám đốc Bành bị tình nghi nhận hối lộ. Lối sống sinh hoạt của bà ta cũng không được mọi người đánh giá tốt, có người còn tố cáo giám đốc Bành nảy sinh quan hệ nam nữ với cả phạm nhân trong trại.

    Tổ chuyên án bắt đầu tiếp cận vụ án từ đống xương xếp trước cổng phòng cảnh sát. Số xương người này có nguồn gốc từ xưởng gia công đồ thủ công mĩ nghệ làm từ xương người ở xung quanh thành phố, đa số nguồn hàng đều do bọn trộm mộ hoặc bọn buôn bán văn vật trao trác mua qua lại. Bao Triển hỏi thăm nhà hỏa táng ở huyện mới biết một số con buôn bất hợp pháp thậm chí còn mua xương người tại nhà hỏa táng, sau đó lừa mị đem bán cho thị trường văn vật hoạt động ngầm. Tô My đến trạm điện lực của huyện, được biết trạm điện lực đã phát thông báo cắt điện trên đài, truyền thanh địa phương nên tất cả người dân trong huyện đều biết chuyện tối đó sẽ không có điện. Xem ra muốn tìm kẻ bí mật xếp xương người trước cổng phòng cảnh sát huyện quả không phải việc dễ dàng.

    Ngày hôm sau, tổ chuyên án và tổ trọng án cùng đến trại giam.

    Trại giam nằm ở phía tây ngoại ô thành phố, ngay gần đường quốc lộ, cạnh đó có trại nuôi chó giống với quy mô lớn và trại ươm cây.

    Chủ nhân của trại nuôi chó giống là một thương nhân Đài Loan, ông ta chuyên nuôi dưỡng và buôn bán giống chó ngao Tây Tạng, nên dân bản địa đặt cho ông ta biệt danh là Thanh sói.

    Còn trại ươm cây thực chất là trại trẻ mồ côi, ở đó có bà lão họ La tình nguyện nhận nuôi sáu mươi lăm đứa trẻ mồ côi, bà lão họ La được dân chúng quanh vùng rất kính trọng và yêu mến, trước cổng trại đặt hòm công đức, suốt mấy chục năm nay bao người qua kẻ lại đều dừng chân giây lát khi đi ngang đây quyên góp chút tiền chút của gọi là thể hiện tấm lòng. Ngoại trừ nguồn thu nhập có được từ tiền quyên góp, thì nguồn thu nhập chính của trại trẻ mồ côi này chính là tiền lãi kiếm được từ việc bán chậu hoa và cây giống.

    Trại giam có một giám đốc, hai phó giám đốc, căn cứ vào yêu cầu công việc trong trại còn có các nhân viên khác như gác cổng, nam quản giáo, nữ quản giáo, bác sĩ tài vụ, đầu bếp… Huyện Đại Trạch đang triển khai hoạt động nghiêm khắc trấn áp tội phạm hình sự nhân dịp đầu xuân, bởi vậy tất cả thành viên trong trại đều khá căng thẳng và bận rộn, nhiều chiến sĩ cảnh sát vũ trang ôm súng thật đạn thật đứng gác. Sau khi xảy ra vụ án, việc canh gác và quản lí người ra vào trại càng nghiêm ngặt hơn trước một bậc.

    Tổ chuyên án và tổ trọng án cùng đi thăm trại giam với phó giám đốc trại giam, lúc này vừa đúng thời điểm thả diều, bầu không khí giữa các phạm nhân và cảnh sát nom có vẻ khá hòa hợp, mấy phạm nhân vị thành niên đang chơi trò trốn tìm, một số quản giáo đi lấy nước cho phạm nhân, còn bỏ thêm một ít trà mạn vào cho thơm miệng, một số quản giáo khác đang cắt tóc cho phạm nhân.

    Tô My nhận xét: “Cuộc sống của phạm nhân trong trại giam này cũng đâu tệ nhỉ!”

    Họa Long nói: “Thì trong trại giam cũng chỉ có mỗi ba việc là ăn, ngủ và ngồi ván thôi mà.”

    Tô My nhíu mày hỏi: “Ngồi ván là gì?”

    Phó giám đốc trại giam giải thích: “Chỗ chúng tôi chưa bao giờ xảy ra việc hành hình phạm nhân, ngồi ván là bắt họ ngồi lên tấm ván rồi đọc thuộc lòng nội quy của trại giam.”

    Giáo sư Lương chợt bảo: “Tôi cần danh sách những phạm nhân vừa được phóng thích trong thời gian qua.”

    Bao Triển nói: “Có khả năng hung thủ sát hại giám đốc Bành là phạm nhân mới ra tù quay lại báo thù, hiện giờ chúng ta vẫn chưa thể loại trừ khả năng này.”

    Đội trưởng Ngưu cười nhếch mép vẻ coi thường: “Cắm đầu điều tra việc đó khác nào tự lao vào ngõ cụt! Thôi thì tổ chuyên án các người cứ từ từ mà điều tra. Tôi đến hiện trường phát hiện ra xác nạn nhân xem thế nào.”

    Gần trại giam có một rừng trúc, nơi ấy luôn âm u và tĩnh lặng, hồ như luôn vắng bóng người. Giám đốc trại giam Bành Thái Hồng gặp nạn trong rừng trúc đó, nhân chứng phát hiện ra thi thể nạn nhân chính là những đứa trẻ trong trại trẻ mồ côi, chúng vào rừng đào măng trước khi đi học, tình cờ phát hiện thấy tử thi này.

    Đội trưởng Ngưu dẫn các thành viên tổ trọng án vào rừng trúc, tại đây họ có phát hiện mới. Họ nhìn thấy một ngọn măng trông rất lạ.

    Mặt đất xung quanh ngọn măng có dấu hiệu rạn nứt mang tính phóng xạ, đất gồ hẳn lên, đội trưởng Ngưu lấy xẻng đào vầng đất quanh đó, quả nhiên thấy phía dưới lớp đất là một cái đầu lâu xương sọ, ngọn măng vươn ra từ đó và nhô khỏi mặt đất.

    Nếu không kịp thời phát hiện thì chỉ vài ngày nữa thôi ngọn măng sẽ rẽ đất mọc lên.

    Chương 2Chó tha đầu người
    Rõ ràng có thi thể được chôn trong rừng trúc này, rễ trúc xuyên hài cốt lớn dần thành măng.

    Vết bùn loang lổ, màu xương đã ngả vàng, nhìn ngoại quan có thể phán đoán tử thi này đã được chôn dưới đất rất nhiều năm rồi.

    Đội trưởng Ngưu mừng húm, lập tức tiến hành đào đất lấy mẫu đất, ông vừa làm vừa ra lệnh: “Ngoại trừ thành viên của tổ trọng án, tất cả những người không liên quan xin mời rời khỏi hiện trường!” Tổ chuyên án đứng ngoài quan sát một lúc thấy cũng vô vị vì đội trưởng Ngưu không cho phép họ nhúng tay vào. Bốn thành viên tổ chuyên án tức bực bỏ đi. Họa Long chửi đổng: “Khỉ thật! Chuyện gì thế không biết? Sao tự dưng chúng ta lại biến thành người thừa thế này?”

    Phó giám đốc trại giam đưa cho tổ chuyên án một bảng danh sách, trên đó ghi rõ hồ sơ của những phạm nhân mới được phóng thích trong thời gian một tháng nay. Sau khi phạm nhân hoặc nghi phạm bị áp giải vào trại giam, họ đều được chụp ảnh chân dung cỡ 2×3, cả phim gốc và ảnh đều lưu hồ sơ. Căn cứ vào tư liệu và ảnh chụp, tổ chuyên án triển khai công tác điều tra diện rộng, trọng điểm điều tra nhằm vào những nam thanh niên trẻ trung và đẹp trai.

    Tổ chuyên án phân tích và cho rằng tác phong sinh hoạt của giám đốc Bành phóng đãng, chịu nhiều điều tiếng đàm tiếu về phẩm hạnh người phụ nữ nên rất có thể bà ta đã bị phạm nhân đã ra tù báo thù sát hại. Trong danh sách mà phó giám đốc trại giam cung cấp, tổ chuyên án đặc biệt chú ý đến hai phạm nhân, người thứ nhất tên là Ngải Mang, người còn lại có biệt danh là Trứng thối. Hai người này hiện đang sống ở cổng tây của huyện thành, cách trại giam không xa. Ngải Mang là người đam mê tập thể hình, nên cơ bắp rất rắn rỏi, khuôn mặt lại thanh tú, đẹp trai, trước đây từng đạt danh hiệu Người có thể hình đẹp nhất trong cuộc thi cấp thành phố, vì dính tội danh đánh cảnh sát nên bị ban trị an bắt giam mười lăm ngày. Trứng thối là tên du thủ du thực trong thành phố, mặt mũi sáng sủa, thư sinh chẳng khác nào Lâm Chí Dĩnh, vì gây gổ đánh nhau nên cậu ta cũng bị bắt vào trại, lẽ ra cậu ta phải nhận án phạt giam nửa tháng nhưng lại được thả ra trước ba ngày so với quy định. Thiên hạ đồn rằng hai người này có mối quan hệ mờ ám với giám đốc Bành. Trứng thối còn nhận giám đốc Bành là mẹ nuôi.

    Một viên tuần cảnh lái xe đưa Họa Long và Bao Triển đi tìm nhà của Ngải Mang, cha của Ngải Mang nói cậu ta đã đi tập thể hình ở trung tâm thể hình trên tỉnh từ hai hôm trước, bạn gái cậu ta cũng đang tìm, trước đây mối quan hệ giữa họ rất tốt nhưng giờ đang ầm ĩ đòi chia tay.

    Họa Long và Bao Triển đành tạm gác việc tìm Ngải Mang sang một bên, chuyển mục tiêu điều tra Trứng thối. Viên tuần cảnh nói Trứng thối là gã lưu manh, thường tự xưng mình là Hắc đạo sĩ, gần đây trong huyện diễn ra hoạt động nghiêm khắc trấn áp tội phạm nên chắc chắn Trứng thối không dám bén mảng về nhà. Cảnh sát tuần tra dẫn Họa Long và Bao Triển đến các tụ điểm ăn chơi của huyện thành như sân trượt patin, quán karaoke và quán internet, cuối cùng tìm thấy cậu ta trong một quán bi-a.

    Trứng thối đang túm tụm cùng bọn lêu lổng chơi bi-a, thấy mấy người họ tiến lại gần, chúng liền ý thức sắp có biến. Trứng thối quẳng gậy chọc bi-a co giò bỏ chạy, những tên du côn khác cũng chạy tán loạn như ong vỡ tổ.

    Trứng thối chạy rất nhanh, Họa Long phải đuổi theo suốt một con phố mới tóm được tóc cậu ta, gí đầu xuống đất, bập còng số tám vào cổ tay và áp giải trở lại quán bi-a.

    Vừa bước đến cửa quán, Họa Long liền đẩy Trứng thối vào trong xe cảnh sát. Lúc này một chiếc xe con khác lao như bay về phía Họa Long, anh không kịp tránh, liền chạy như bay mấy bước rồi giẫm lên mũi xe, lộn một vòng đẹp mắt giữa không trung, chiếc xe vừa hay chạy dưới người anh, sau đó anh nhẹ nhàng đáp xuống đất.

    Một đám người mở cửa xe lao ra, tên nào tên nấy vác dao và gậy bóng chày, bọn côn đồ chơi bi-a khi nãy cũng quay trở lại chặn hậu. Đám nhãi ranh hung hăng đòi cảnh sát thả Trứng thối, Họa Long liền rút súng ép chúng phải lùi về phía sau, nhóm du côn đứng yên bất động vây quanh xe cảnh sát không chịu rời đi. Họa Long gằn giọng: “Được thôi! Xem ra không dạy cho chúng mày một bài học, chúng mày không sáng mắt ra được!”

    Họa Long quẳng súng cho Bao Triển, viên cảnh sát tuần tra vừa căng thẳng theo dõi từng hành động của Họa Long vừa bấm tín hiệu cấp cứu.

    Họa Long khẽ nhún người bật lên không trung, tung chân đá vào một tên côn đồ, rồi cúi người nhặt ống thép rơi trên mặt đất, sau đó quay người phang mạnh đánh bay con dao trong tay một tên khác, liền sau đó anh giẫm lên chân kẻ đó, lên gối thúc vào bụng, tên côn đồ oằn lưng ôm bụng rên rỉ. Họa Long được đà ném hắn ra xa, tên côn đồ văng trúng một tên đứng gân đó.

    Họa Long ra tay xuất quỷ nhập thần khiến mọi người hoa mắt, chỉ trong chốc lát ba tên côn đồ đã nằm đo ván.

    Họa Long vứt ống thép, quát lớn: “Cút! Chiếu theo luật giang hồ thì tao đã nương tay với chúng mày lắm rồi, nếu không chúng mày đã chết không toàn thây!”

    Trong mắt đám côn đồ ánh lên tia sợ hãi, Bao Triển hú còi cảnh sát, bọn chúng hoảng hốt, bỏ chạy tứ tán.

    Giữa lúc Họa Long, Bao Triển và viên cảnh sát tuần tra định áp tải Trứng thối rời khỏi quán bi-a thì một cụ già thở hổn hển chạy đến báo án. Ông lão bảo khi nãy nhìn thấy một con sói trên đường phố, mõm nó còn cắp một cái đầu lâu xương sọ, hai dân phòng đang dẫn theo đám người dồn con sói vào ngõ cụt. Họa Long cho rằng việc này không liên quan gì đến mình, nhưng Bao Triển lại nghĩ cứ đến xem tình hình thế nào cũng chẳng phương hại gì, viên cảnh sát tuần tra cũng nổi trí tò mò, thế là mọi người lái xe tới cuối phố.

    Con ngõ đông nghịt, người ta ùa ra từ mọi ngóc ngách, chen nhau dòm đầu vào ngó, những người đứng ở vòng trong cùng cầm gậy gộc, gạch ngói, móc áo làm vũ khí còn có một người đàn ông lực lưỡng ôm lưới đánh cá. Nhóm người đuổi đến bức tường cuối ngõ cụt, dồn con vật vào đường cùng. Đám đông phía ngoài bàn tán sôi nổi nói rằng con sói đó đang cắp đầu người. Bao Triển chen chân vào xem, nhưng anh chỉ thấy trong góc tường có một con chó đang co ro với vẻ khiếp đảm, mõm nó cắp một hộp sọ đã ngả vàng.

    Dân phòng và nhóm người bạo gan từ từ áp sát lại gần, có người ném đá vào con chó, con chó nhả họp sọ ra, nhe hàm răng sắc nhọn, cổ họng phát ra tiếng gầm gừ đầy đe dọa, mọi người sợ sệt lùi lại sau mấy bước, nhưng sau đó lại tiến lên định phang gậy đánh chết con chó, thấy thế con chó liền nhảy vọt lên bờ tường, chạy mất dạng.

    Bao Triển mang hộp sọ về phòng cảnh sát, kết quả khám nghiệm cho thấy hộp sọ này đã được chôn trong đất khá lâu, thời gian tử vong không dưới năm năm. Có lẽ vô tình con chó dùng móng bới lên. Qua phân tích và xét nghiệm, tổ chuyên án nhận ra mẫu đất bám trên hộp sọ rất giống với mẫu đất ở quanh rừng trúc, điều đó chứng minh rất có khả năng tử thi này từng được chôn trong rừng trúc.

    Giáo sư Lương và Tô My bắt đầu tiến hành xét hỏi Trứng thối.

    Giáo sư Lương mở màn: “Lúc cảnh sát đến bắt cậu, vì sao cậu bỏ chạy?”

    Trứng thối thản nhiên trả lời: “Bị người ta đuổi bắt mà không chạy thì có mà điên!”

    Giáo sư Lương lại hỏi: “Chúng tôi chỉ muốn hỏi cậu vài chuyện, sau khi hỏi xong và xét thấy không liên quan gì đến cậu, chúng tôi sẽ lập tức thả cậu ngay!”

    Trứng thối xẵng giọng: “Tôi cóc biết gì hết! Hỏi cũng vô ích!”

    Giáo sư Lương không để ý đến lời cậu ta, ông điềm tĩnh hỏi: “Cậu có bà mẹ nuôi đúng không? Giám đốc Bành bị người ta sát hại rồi, tôi nghĩ chắc cậu cũng biết chuyện này chứ?”

    Trứng thối chối bay chối biến: “Tôi không biết! Cũng chẳng hề nghe ai kể!”

    Giáo sư Lương nói với Trứng thối rằng vụ án này rất nghiêm trọng, nếu muốn rửa sạch tội tình nghi thì cậu ta phải ngoan ngoãn hợp tác với phía cảnh sát, nếu không thành thật khai báo thì chẳng khác nào tự quàng tội danh tình nghi giết người vào cổ mình, mà vụ này chắc chắn cảnh sát sẽ đi sâu điều tra. Sau khi nghe giáo sư Lương phân tích cái lợi và cái hại, Trứng thối ý thức những lỗi lầm mình phạm phải trước đây đều là những vụ án gây gổ đánh nhau vụn vặt, nếu giờ vướng phải vụ giết người này thì mình sẽ rơi vào hoàn cảnh vô cùng bất lợi. Thế là cậu ta liền thành thật khai hết những hành vi phạm tội của mình, không những thế cậu ta còn khai cả mối quan hệ bất chính với bà Bành. Theo lời khai của cậu ta thì giám đốc Bành là người đàn bà vừa phóng đãng lại vừa dâm dục, cậu ta nhận mụ già ấy làm mẹ nuôi chẳng qua vì muốn rời khỏi trại giam trước án phạt mà thôi.

    Trứng thối từng bị bắt giam vào tù vì tội gây rối trật tự trị an, trong suốt mười lăm ngày trong trại, giám đốc Bành liên tục lấy lí do kiểm tra thân thể phạm nhân xem có giấu giếm chất cấm không để gọi cậu ta vào văn phòng riêng và tỏ ý muốn quan hệ rất nhiều lần với thanh niên trẻ tuổi đẹp trai này, sau đó bà ta thả Trứng thối trước thời hạn mấy ngày.

    Trứng thối không có thời gian gây án, bởi trong hai ngày xảy ra án mạng, cậu ta cùng bạn bè về quê đòi nợ thuê, rất nhiều nhân chứng đã đứng ra làm chứng cho cậu ta.

    Vậy là manh mối liền bị đứt đoạn.

    Cùng thời điểm ấy, một người dân đến đồn cảnh sát phản ánh một tin lạnh tóc gáy, người dân đó vốn là một thợ săn dạn dày kinh nghiệm, ông ta nói con chó cắp đầu người kia thực ra không phải là chó mà là một con sói.

    Giữa thành phố lại xuất hiện sói ư? Chuyện này thực không bình thường chút nào! Trưởng phòng cảnh sát đích thân dẫn người tiến hành lục soát quy mô lớn ở mọi ngóc ngách trong thành phố nhưng cuối cùng vẫn không tìm thấy bóng dáng con sói đâu, có lẽ nó đã trốn ra vùng nông thôn ở ngoại thành.

    Tổ chuyên án đặc biệt quan tâm đến tin tức này, giáo sư Lương cho rằng nếu quả thực đó là sói thì rất có khả năng nó chạy ra từ trại gây giống chó ở ngay gần trại giam. Họa Long và Bao Triển cùng nhân viên kiểm dịch và nhân viên y tế đến tận nơi tiến hành kiểm tra nhưng không phát hiện điểm gì bất thường. Chủ trại nuôi chó giống là người Đài Loan có biệt hiệu là Thanh sói tuổi ngoại ngũ tuần, trên sống mũi gá cặp kính cận, nom rất nho nhã, có học nhưng trên cánh tay ông ta lại xăm hình, lời nói cử chỉ đậm chất giang hồ.

    Thanh sói tự nhận mình quý chó hơn cả quý tính mạng bản thân, ông ta giới thiệu từng giống chó đang nuôi trong trại với nhân viên kiểm dịch chẳng khác nào giới thiệu trân châu, đá quý của gia đình. Ngoại trừ giống chó ngao Tây Tạng ra, ở trại nuôi chó giống này còn nuôi rất nhiều giống chó nổi tiếng trên toàn thế giới như chó chăn cừu Conie, chó chăn cừu Kavkaz, chó săn Whippet… Tình trạng vệ sinh chuồng trại và tiêm chủng cho chó đều đạt tiêu chuẩn.

    Nhân tiện đã đến đây, Họa Long và Bao Triển liền đến thăm trại trẻ mồ côi ở kế bên. Trại trẻ mồ côi là nằm trong một khu vườn lớn, giữa vườn có cây hòe già cao lớn, trên cây có mấy tổ quạ, ngoại trừ khu vực kí túc xá dành cho trẻ mồ côi ra thì còn có mấy gian lều lớn phủ nilon, đó chính là nhà kính loại đơn giản dùng để ươm giống rất nhiều loại cây và hoa giống.

    Mấy năm trước, bà La nhận nuôi mấy trăm trẻ mồ côi, tivi và báo đài đều từng đăng tải về bà. Hiện giờ bà nuôi sáu mươi lăm đứa trẻ, nhưng hầu hết những em lớn tuổi một chút đều đang ở kí túc của các trường trong thành phố, chỉ còn mười mấy trẻ ở lại trại.

    Họa Long và Bao Triển không khai thác được manh mối nào có giá trị từ trại nuôi chó giống và trại trẻ mồ côi. Tổ chuyên án lại rơi vào tình trạng bế tắc, không biết bước tiếp theo nên điều tra từ đâu.

    Trong khi đó đội trưởng Ngưu liên tiếp phát hiện những manh mối quan trọng, ông ta kéo cả máy xúc đến, yêu cầu cảnh sát vũ trang giúp đỡ căng biển nghiêm cấm bất kì ai cũng không được ra vào khu vực này. Đội trưởng Ngưu đích thân thao tác máy xúc, san phẳng một vạt trúc, cảnh sát liên tiếp đào được nhiều bộ hài cốt trong rừng, có hài cốt còn được tìm thấy ngay gần khu vực tường rào của trại giam.

    Đội trưởng Ngưu khám nghiệm hài cốt, làm xét nghiệm mẫu đất thông đêm, ông ta làm việc điên cuồng như vậy suốt hai ngày hai đêm.

    Sang ngày thứ ba, trưởng phòng cảnh sát hốt hoảng thông báo cho tổ chuyên án một tin giật gân khiến ai cũng ngỡ ngàng: “Đội trưởng Ngưu chết rồi!”

    Giáo sư Lương bàng hoàng hỏi lại: “Hả? Sao lại thế? Vì sao cậu ta lại chết? Lao lực quá à?”

    Khóe mắt trưởng phòng cảnh sát hoe đỏ, ông ta gạt nước mắt nói: “Bị người ta sát hại bằng súng lục. Hung thủ lấy chính súng của đội trưởng Ngưu bắn chết cậu ta.”

    Họa Long hỏi: “Ông ta chết ở đâu?”

    Trưởng phòng cảnh sát huyện nói: “Trên bờ sông cách bến tàu phía nam thành phố ba cây số.”

    Bao Triển lẩm bẩm: “Quái lạ! Ông ta đang làm việc sao lại chạy ra bờ sông làm gì?”

    Trưởng phòng cảnh sát nói: “Thường ngày cậu ấy luôn mặc cảnh phục, nhưng lúc chết lại mặc bộ thể thao, đội mũ và đeo kính râm!”

    Chương 3Chó săn đầu người
    Một người câu cá buổi sớm phát hiện ra thi thể của đội trưởng Ngưu, khi tổ chuyên án đến hiện trường thì vết máu trên bờ sông vẫn chưa khô, điều đó chứng tỏ thời gian đội trưởng Ngưu gặp nạn cách đây chưa lâu. Tổ chuyên án lập tức kiểm tra hiện trường, Bao Triển phát hiện một vài dấu giày thể thao rất khả nghi. Những dấu giày đó có cỡ giày và họa tiết giống hệt nhau, sau khi đối chiếu thì thấy một dấu giày là của đội trưởng Ngưu, dấu giày còn lại có lẽ là của hung thủ để lại. Điều kì lạ là hung thủ và đội trưởng Ngưu lại đeo cùng một loại giày.

    Đội trưởng Ngưu thiệt mạng sau một phát súng, vào vỏ hộp sọ sau gáy.

    Họa Long mặc đồ lặn nhảy xuống sông nhưng không tìm thấy vỏ đạn và đầu đạn nằm dưới lòng sông. Cảnh sát bước đầu phán đoán hung thủ chỉ bắn một phát súng, nếu qủa vậy thì có thể xảy ra hai khả năng, thứ nhất là tay nghề bắn súng của hung thủ vô cùng siêu việt, thứ hai là hung thủ đứng bắn nạn nhân ở khoảng cách rất gần.

    Lúc chết, đội trưởng Ngưu mặc bộ thể thao mới toanh thêu tên một hãng thể thao nổi tiếng, trước ngực còn in dòng chữ “Tập thể hình làm nên kì tích”. Giáo sư Lương lấy kính lúp kiểm tra kĩ càng, ông phát hiện mấy sợi lông động vật bám trên quần áo đội trưởng Ngưu.

    Sau khi mang những sợi lông đó đi xét nghiệm thì chứng thực đó là lông chó.

    Tổ chuyên án mở cuộc họp khẩn cấp, vì lai lịch hung thủ bất minh nên chưa thể loại trừ liệu đó có phải nhân viên trong ngành cảnh sát hay không, bởi vậy cuộc họp này được tiến hành hết sức bí mật, ngoại trừ trưởng phòng cảnh sát huyện Đại Trạch ra thì chỉ có một vài chuyên gia trên sở được phép tham gia.

    Giáo sư Lương nhận định: “Đội trưởng Ngưu và hung thủ chắc chắn là người quen, hoặc ít nhất họ quen biết nhau.”

    Bao Triển cũng đưa ra quan điểm: “Đội trưởng Ngưu không mặc cảnh phục mà mặc thường phục, lại còn đội mũ và đeo kính râm, tất cả hành vi đó chỉ nói lên một điều là ông ta không muốn bị người khác nhận ra mình. Còn chuyện vì sao ông ta đi gặp hung thủ thì hiện tại vẫn chưa điều tra được.”

    Họa Long phỏng đoán: “Có khả năng đội trưởng Ngưu phát hiện ra manh mối gì đấy nên bí mật hẹn ai đó ra bên sông, cuối cùng bị chính kẻ đó sát hại.”

    Tô My nói: “Trực giác phụ nữ mách bảo tôi rằng vẫn còn một khả năng nữa đó là đội trưởng Ngưu muốn chạy trốn, trước khi trốn đương nhiên phải cải trang.”

    Giáo sư Lương phân công nhiệm vụ cho từng người ngay trong cuộc họp. Trước khi bị hại, đội trưởng Ngưu mải miết đào bới các thi hài chôn trong rừng trúc gần trại giam, hiện giờ rừng trúc đã trở thành hiện trường mới, tổ chuyên án phải tiến hành điều tra lại từ đầu. Trưởng phòng cảnh sát huyện Đại Trạch lập tức gọi tất cả đồng nghiệp trong tổ trọng án của đội trưởng Ngưu và những cảnh sát vũ trang chịu trách nhiệm giới nghiêm quanh rừng trúc đến phòng cảnh sát để thẩm vấn. Vụ án được bảo mật tuyệt đối nên mọi việc làm của tổ chuyên án đều không tiết lộ với người ngoài. Đội trưởng Ngưu là người đa mưu túc trí, một cảnh sát lão luyện và giàu kinh nghiệm, vậy mà lại bị người ta giết dễ dàng như thể hạ gục một con dê, rất có khả năng hung thủ ẩn nấp ngay bên cạnh ông ta.

    Giáo sư Lương cho rằng, giám đốc Bành và đội trưởng Ngưu bị sát hại có mối quan hệ trực tiếp, bởi vậy tổ chuyên án sẽ cùng lúc điều tra hai vụ án này.

    Lúc chết đội trưởng Ngưu mặc quần áo thể thao in dòng chữ “Tập thể hình làm nên kì tích”, điều này khiến tổ chuyên án lập tức nghĩ đến Ngải Mang, vì anh ta rất thích tập thể hình. Tên này từng có tiền án tấn công cảnh sát theo ghi chép trong hồ sơ sở dĩ anh ta bị nhốt vào đây là vì bị cảnh sát tịch thu máy tập thể hình, anh ta liền ra tay đánh bị thương cảnh sát trị an ngay tại đồn cảnh sát, người bắt Ngải Mang lúc ấy chính là đội trưởng Ngưu. Sau khi ngồi trại giam mười lăm ngày, anh ta được phóng thích, Ngải Mang ngấm ngầm căm hận giám đốc Bành và đội trưởng Ngưu, nhiều lần nảy ý định báo thù, rồi sau đó anh ta rời huyện Đại Trạch lên thành phố.

    Đội trưởng Ngưu chết gần bến tàu. Sáng sớm hôm ấy khách đợi ở bến tàu đều là khách đi thành phố.

    Nhờ sự giúp đỡ của phòng bưu chính viễn thông, Tô My tiến hành định vị đường dài chiếc điện thoại mà Ngải Mang đang sử dụng. Kết quả cho thấy Ngải Mang đang ở một trung tâm thể hình trên thành phố. Giáo sư Lương bảo Họa Long và Bảo Triển lập tức lên đường điều tra Ngải Mang, cần phải xác minh xem anh ta có động cơ gây án hay không, đồng thời truy tìm hành tung của anh ta trước thời điểm xảy ra vụ án.

    Giáo sư Lương và Tô My cùng một chuyên viên trên sở tiến hành kiểm tra lại rừng trúc cạnh trại giam, rừng trúc đã bị đào bới tanh bành, một vạt trúc rộng đã chặt tận gốc, đào sâu hơn mười mét, tại hiện trường có tổng cộng hàng chục thi hài nằm thành hàng, trông mà lạnh tóc gáy. Cạnh đống đất mới đào được còn có một chiếc giành. Trưởng phòng cảnh sát hỏi một đồng nghiệp cùng công tác trong tổ trọng án với đội trưởng Ngưu mới biết các thành viên chịu trách nhiệm lắp ráp những bộ xương đào được, còn đội trưởng Ngưu chủ yếu phụ trách việc kiểm tra đất, chiếc giành đó dùng để lọc đất. Đội trưởng Ngưu phát hiện được rất nhiều vỏ đạn và đầu đạn đã han gỉ, sau khi khảo sát, cảnh sát xác nhận đó là vỏ đạn có từ thời trước giải phóng.

    Trông hàng chục thi thể được khai quật trong rừng trúc có một số cỗ bị thủng lỗ trên hộp sọ, chứng tỏ nạn nhân đã bị bắn chết.

    Giáo sư Lương bốc một nắm đất, trầm ngâm một hồi rồi lẩm bẩm độc thoại: “Rốt cuộc đội trưởng Ngưu muốn tìm gì nhỉ?”

    Tô My rầu rĩ nói: “Tại sao đội trưởng Ngưu lại có hứng thú với những vỏ đạn trước giải phóng và mấy cỗ thi hài này?”

    Giáo sư Lương và Tô My hỏi thăm người dân xung quanh, một vài người già kể lại trước giải phóng tiền thân của trại giam huyện Đạch là nhà tù của Quốc Dân đảng, bọn cai ngục thường xử bắn phạm nhân trong rừng trúc. Giáo sư Lương tìm đọc cuốn sách giới thiệu về huyện và lịch sử của huyện nhưng vì thời ấy cách đây đã quá lâu nên những ghi chép về nhà tù này không nhiều.

    Tô My thắc mắc: “Có thực sự cần thiết phải điều tra vụ án đã xảy ra cách đấy mấy chục năm trước không ạ? Cháu đoán những kẻ sát nhân giờ đã chết rồi, hoặc chưa chết thì cũng đã già, rất nhiều người trong số họ đã chạy sang Đài Loan, chẳng lẽ chúng ta vượt biển sang đó tóm cổ chúng sao?”

    Giáo sư Lương chau mày như đang suy ngẫm điều gì mãi lát sau mới nói: “Đài Loan à… Tên Thanh sói kia chẳng phải người Đài Loan sao? Hơn nữa chúng ta lại phát hiện thấy lông chó dính trên quần áo của đội trưởng Ngưu.”

    Họa Long và Bao Triển từng kiểm tra trại nuôi chó giống của Thanh sói nhưng không thấy điểm gì khác thường. Vì tránh đánh rắn động cỏ nên giáo sư Lương và Tô My quyết định giả danh khách mua chó đến kiểm tra trại gây giống của hắn lần nữa. Xét đến yếu tố an toàn, họ gọi thêm một cảnh sát trung niên đi cùng với danh nghĩa con trai của giáo sư Lương.

    Khi ba người xuất phát cũng là lúc hoàng hôn bắt đầu buông xuống, ánh chiều tà tím nhạt giăng mắc không gian.

    Viên cảnh sát gõ cánh cổng sắt của trại nuôi chó giống, mấy hôm trước ở đây còn rất nhiều chó, vừa mới gõ mấy cái đã nghe tiếng chó sủa rộ lên đinh tai nhức óc, vậy mà hôm nay lại yên ắng lạ thường.

    Thanh sói mở hé cửa thăm dò những người khách mới đến. Ông ta thấy trước mặt là ba người khách lạ, một ông già ngồi xe lăn, một cô gái ăn mặc rất thời thượng và một người đàn ông trung niên có dáng dấp chủ doanh nghiệp. Viên cảnh sát nói với Thanh sói rằng ông phải đi làm quanh năm, ở nhà chỉ có ông bố tật nguyền và cô vợ trẻ, sợ hai người họ không an toàn nên ông ta muốn mua chó giữ nhà.

    Viên cảnh sát nhấn mạnh: “Tôi không quan trọng chuyện tiền bạc, quan trọng là nhà anh có con nào hay không, càng dữ tợn càng tốt.”

    Thanh sói vừa cười vừa nói: “Các ông đến quá đúng lúc! Tôi định hai hôm nữa sẽ về Đài Loan, nên đem tất cả chó ngao Tây Tạng bán hết rồi, hiện giờ trong chuồng chỉ còn mỗi con chó lai sói lưng đen.”

    Trại nuôi chó giống này rất rộng, chiếm trên mười mẫu đất với mấy chục chuồng chó, chỉ riêng khu gây giống cũng phân chia thành nhiều khu vực nhỏ như khu lấy giống, khu dành cho chó đẻ, khu nuôi chó con… Tất cả các chuồng đều có kết cấu nhà xi măng lợp ngói xám, sàn chuồng trải cát. Cửa chuồng ăn thông với sân tập dành riêng cho chó, một số chuồng còn lắp đặt máy chạy bộ chuyên dụng của chó. Thanh sói ở khu phía sau, cạnh nơi ông ta ở là phòng thú y, nhà kho và nhà bếp chuyên nấu thức ăn cho chó. Để đề phòng chó vượt tường trốn ra ngoài, ông ta cho xây tường rào rất cao bao quanh khu trại, nhờ đó người ngoài cũng không thể nhìn thấy mọi hoạt động diễn ra bên trong.

    Trên tường phòng khách treo rất nhiều ảnh chó ngao, trong tủ còn trưng bày cúp của hội triển lãm chó ngao, Thanh sói thao thao bất tuyệt kể về những lần đoạt giải thưởng khi tham gia đấu chó. Ông ta tự hào khoe khoang: “Chó tôi nuôi từng đánh bại chó chăn cừu Kavkaz, chó Bull, chó Pit Bull, tháng trước còn thắng cả cảnh khuyển đặc chủng của Hoa Kỳ nữa đấy!”

    Viên cảnh sát chặc lưỡi khen: “Lợi hại thật!”

    Thanh sói không khẳng định cũng chẳng phủ định, chỉ nói: “Chó lợi hại nhất thế giới đang ở đâu? Chính là ở chỗ tôi đây này!”

    Giáo sư Lương cũng tấm tắc khen: “Thế thì ông là vua chó rồi còn gì?”

    Thanh sói xua tay giả bộ khiêm tốn: “Vua chó thì không dám nhận, nhưng tôi là dân chơi chó chuyên nghiệp đẳng cấp quốc tế.”

    Thanh sói cầm một bức ảnh ở phòng làm việc bên cạnh ra khoe với mọi người. Trong ảnh có một con chó đang nằm rạp mình dưới đất, đầu bị cắn bê bết máu, thảm thương đến không nỡ nhìn, chủ nhân của con chó là nguời Mỹ, ông ta đang ủ rũ cúi đầu. Trong khi đó con chó còn lại diễu võ giương oai đứng bên cạnh, chủ nhân của con chó này chính là Thanh sói, vô số khán giả xúm đen xúm đỏ xung quanh họ.

    Giáo sư Lương cầm bức ảnh, ông lập tức nhận ra trong số khán giả đứng vây quanh có đội trưởng Ngưu, tuy trong lòng khẽ reo vui nhưng mặt ông vẫn điềm nhiên như không, ông thủng thẳng nói: “Chúng ta đi xem chó thôi!”

    Lúc bước ra khỏi phòng khách, giáo sư Lương đưa mắt ra hiệu cho Tô My rồi liếc về phía văn phòng của Thanh sói ở bên cạnh. Tô My hiểu ý liền viện cớ muốn đi vệ sinh, khi Thanh sói, giáo sư Lương và viên cảnh sát bước vào trại nuôi chó, Tô My liền lẳng lặng lẻn vào văn phòng ông ta.

    Tô My thấy ngăn kéo vẫn đang mở, chìa khóa cắm trong ổ, Tô My liền cầm một xấp ảnh trong ngăn kéo ra xem, những bức ảnh xếp bên trên đều chụp cảnh trong những cuộc thi đấu chó, vừa đẫm máu lại vừa tàn nhẫn.

    Khi giở đến gần cuối xấp ảnh, Tô My đột nhiên nhìn thấy một cô gái lang thang, quần áo rách nát, nét mặt toát lên vẻ khiếp đảm tột độ. Cô gái đứng giữa bầy chó, cô đơn và tuyệt vọng, Tô My nhận ra cảnh nền trong bức ảnh chính là trại nuôi chó giống của Thanh sói.

    Những bức ảnh được chụp liên tiếp giống như một cuốn phim, từng cảnh quay vùn vụt hiện ra trước mắt Tô My, đầu tiên là cảnh một con chó lai sói lưng đen đuổi theo cô gái lang thang, mấy tấm ảnh tiếp theo chụp cảnh con chó đã đuổi kịp cô gái, nó nhảy bố lên lưng, quật ngã cô gái xuống đất, cuối cùng con chó bắt đầu cắn xé cô gái đáng thương. Tất cả lóe sáng dưới ánh đèn trông rợn tóc gáy, thời điểm chụp mấy tấm ảnh cuối cùng không giống nhau, Tô My nhìn kỹ những bức ảnh đó đã ghi lại trọn vẹn cả quá trình chó ăn thịt người!

    Từ khi tham gia vào tổ chuyên án đến nay, Tô My đã trải qua một số cảnh tượng hãi hùng nhưng hình ảnh ăn thịt người đẫm máu và ghê rợn thế này thực sự khiến cô sợ đến run rẩy chân tay.

    Tô My lập cập cất xấp ảnh vào ngăn kéo nhưng không cẩn thận chạm vào ấm đun nước nóng ở trên bàn, sau tiếng rơi chát chúa, đầu óc cô hoàn toàn trống rỗng… Cô nghe thấy tiếng súng từ bên ngoài vọng tới, liền sau đó Thanh sói hung hăng chạy xộc vào phòng.

    Bên ngoài cửa sổ, cơn gió đêm cuốn tung bụi đất khiến căn phòng càng thêm mờ tối, Thanh sói giơ súng chĩa thẳng vào Tô My và bóp cò, tiếng súng vang lên “Pằng!” một tiếng, Tô My lảo đáo gục xuống, Thanh sói lại bóp cò lần nữa, nhưng may thay trong súng đã hết đạn.

    Tối hôm ấy, viên cảnh sát đi theo bảo vệ giáo sư Lương và Tô My bị sát hại. Thanh sói nhốt Tô My và giáo sư Lương vào trong chuồng chó, đồng thời xích con chó vào nắm cửa cho con chó lai sói lưng đen chặn bên ngoài, cuối cùng y thu dọn hành lí với tốc độ nhanh nhất có thể, rồi lái xe của cảnh sát vội vã chạy trốn.

    Trước khi chạy trốn, Thanh sói thu hết điện thoại và các vật dụng khác trên người giáo sư Lương, Tô My và viên cảnh sát, xe lăn của giáo sư Lương bị quẳng ngoài chuồng chó.

    Chuồng chó là không gian khép kín, trong phòng không có cửa sổ, ngoại trừ một cái bát và một đôi đũa ra thì ở đây hoàn toàn không còn vật gì khác. Con chó lai sói lưng đen canh ngoài cửa chính là con chó trong bức ảnh.

    Bả vai Tô My bị trúng đạn, cô rơi vào trạng thái nửa mê nửa tỉnh, nằm bất động trên sàn nhà.

    Biến cố xảy ra quá đỗi bất ngờ, giáo sư Lương gắng hết sức bình tĩnh lại, ông xé áo giúp Tô My băng bó và cầm máu.

    Tô My lấy chút sức tàn hỏi giáo sư Lương với giọng ngắt quãng: “Bác… ơi! Cháu… sẽ chết phải không? Anh Long và cậu Triển sẽ… đến cứu… chúng ta chứ?”

    Giáo sư Lương an ủi cô: “Cháu cứ yên tâm! Con nhóc này cháu phải gắng gượng đến cùng! Sẽ không sao đâu! Chúng ta sẽ tìm cách thoát ra khỏi đây!”

    Họa Long và Bao Triển đang bận điều tra Ngải Mang ở trên thành phố. Bên cạnh đó, mọi hành vi của tổ chuyên án đều phải bảo mật nghiêm ngặt nên giáo sư Lương không nói cho cảnh sát huyện Đại Trạch biết mình âm thầm đến trại nuôi chó giống, bởi vậy sẽ chẳng có ai đến cứu họ. Giáo sư Lương buộc phải tự cứu lấy mình. Vậy mà hiện giờ Tô My lại trúng đạn, mất máu quá nhiều, sự sống đang treo trên sợi chỉ mành, họ không còn nhiều thời gian, u tối nay không thể thoát khỏi chuồng chó này thì chắc chắn Tô My sẽ chết…

    Sau vụ án này, học viện cảnh sát xuất hiện thêm một câu hỏi trong đề thi sát hạch dành cho thí sinh ngành cảnh sát điều tra chuyên nghiệp. Câu hỏi ấy căn cứ vào trải nghiệm thực tế của tổ chuyên án. Đề bài ra như sau:

    Nếu bạn bị nhốt trong một chuồng chó hoàn toàn khép kín, vách tường cao ba mét, không có cửa sổ, nền nhà đắp đất trải cát, kết cấu chuồng chó là tường xi măng mái ngói, trần nhà là trần ngói, được chống đỡ bằng giá ba chạc thép mái nhà được tạo thành bằng cỏ tranh, bùn và ngói. Cửa làm bằng gỗ thịt và bị khóa ngoài, nắm tay cửa bộc sợi xích xích một con chó đang đói khát. Trong tay bạn chỉ có hai công cụ giúp bạn chạy trốn là một cái bát và một đôi đũa. Bạn chỉ có mười hai giờ để đào thoát. Hãy trình bày chi tiết các bước chạy trốn của bạn?

    Chương 4Đào thoát
    Sau khi Thanh sói bắn chết viên cảnh sát y chỉ mải nghĩ đến việc chạy trốn, Tô My trúng đạn, giáo sư Lương chỉ là ông già tàn tật ngồi xe lăn. Y nghĩ hai người đó không thể gây trở ngại cho mình nên để tiết kiệm thời gian, y bỏ mặc Tô My và giáo sư Lương nhốt vào chuồng chó, rồi cuốn quýt thu dọn hành lý, bước thấp bước cao lao ra xe đi vun vút.

    Trại nuôi chó giống nằm ở vị trí khá hoang vắng, tuy trại trẻ mồ côi và trại giam cách đó không xa nhưng dẫu hét to hô cứu cũng chẳng ai nghe thấy.

    Màn đêm dần bao trùm lên trại, chuồng chó tĩnh mịch đến rợn người, Tô My vẫn rơi vào trạng thái hôn mê, nằm bất động trên sàn, hơi thở thoi thóp, nếu không kịp đưa cô đến bệnh viện thì hậu quả thật khôn lường.

    Giáo sư Lương bắt đầu quan sát chuồng chó thật kĩ, đây là phòng đỡ đẻ cho chó cái, trên nền nhà là cái bát từng đựng thuốc sát trùng, giáo sư Lương gõ đũa vào miệng bát, con chó xích ngoài cửa bắt đầu sủa cuồng loạn nhảy xổ lên như sắp phát rồ.

    Muốn thoát ra khỏi căn phòng này chỉ có bốn hướng: trèo lên mái nhà, xuyên qua tường, mở cửa ra ngoài và chui xuống lòng đất.

    Công cụ dùng để thoát hiểm chỉ có một cái bát và đôi đũa!

    Đầu tiên giáo sư Lương loại trừ khả năng vượt tường hoặc xuyên tường để thoát hiểm, bởi vách tường này được làm bằng gạch chín và xi măng, dùng bát và đũa để đào tường hẳn không phải chuyện dễ dàng, mà lỡ bát vỡ, đũa gãy thì con đường thoát hiểm duy nhất sẽ hoàn toàn rơi vào bế tắc vì đã mất công cụ thoát hiểm.

    Phía dưới tường là nền đất trải cát, khả năng đào được thông đạo xuyên lòng đất bằng cái bát và đôi đũa quả không phải khả năng lớn.

    Hiện giờ chỉ còn hai con đường thoát thân là trèo lên mái nhà và đi qua cửa để ra ngoài.

    Mái nhà cách mặt đất tầm ba mét, xe lăn của giáo sư Lương lại bị Thanh sói vứt ở ngoài cửa, ông chỉ có thể dùng đôi tay chống trên mặt đất di chuyển chậm chạp từng bước trong phòng, một ông già liệt chân làm sao có thể leo lên được mái nhà đây? Mà nếu có leo lên được mái nhà thì làm sao mà leo xuống vách tường bên kia được?

    Đầu tiên ông nghĩ đến việc cởi áo ra, xé thành sợi, bện vào giống như dây thừng. Thế là ông có thêm một một công cụ thoát hiểm nữa. Muốn thoát ra ngoài dây thừng là vật không thể thiếu được.

    Có điều sau khi bện dây thừng xong thì lại nảy sinh một vấn đề mới, đó là làm thế nào để mắc dây thừng lên xà nhà được làm bằng giá ba chạc thép bây giờ?

    Giáo sư Lương liếc nhìn đôi đũa và cái bát trên sàn nhà lòng thầm nghĩ nếu xếp chéo đôi đũa thành hình chữ thập rồi đặt lên trên miệng bát rồi buộc chặt thì có thể vắt dây thừng lên xà nhà và trở thành chiếc móc ngược giúp cố định đầu dây trên xà nhà.

    Nhưng một vấn đề tàn khốc lại bày ra trước mắt ông: Một ông già tóc bạc đâu còn sức để leo lên xà nhà chỉ với hai cánh tay!

    Ông cầm đôi đũa lên, tỉ mỉ nghiên cứu, đây là đôi đũa tre, trông có vẻ rất chắc chắn.

    Ông lại nghĩ ra một cách mới: Quẳng dây thừng lên viền ba chạc tại vị trí lợp cỏ tranh gần với mái nhà nhất sau đó dùng đũa gỗ khoan lên cánh cửa tạo ra lửa, rồi châm vào dây thừng, đầu dây thừng bén cháy sẽ ăn lan lên tận chỗ mái tranh gây ra hỏa hoạn, ngọn lửa bốc cao có thể sẽ khiến mọi người chú ý đến và lao tới cứu, nhưng làm vậy vô cùng nguy hiểm, chẳng khác nào tự thiêu, lửa bén lên mái nhà chắc chắn sẽ cháy rất nhanh, khói tỏa ra mù mịt, không khéo mọi người chưa kịp đến cứu thì hai người trong chuồng chó đã chết cháy hoặc chết ngạt.

    Giáo sư Lương bắt đầu chuyển sự chú ý đến cánh cửa, ngay bên kia cánh cửa là con chó lai sói từng ăn thịt người, muốn thoát khỏi đây buộc phải giải quyết con quái thú kia trước đã. Nếu dùng đũa khoan cửa gỗ lấy lửa rồi dùng dây thừng dẫn cháy, liệu ngọn lửa có thể thiêu cháy con chó không?

    Cánh cửa chính là tấm bình phong ngăn cách giữa người và chó, nếu chó không chết mà cửa lại cháy rụi trước thì rất có thể hai người họ phải đối mặt với hậu quả là bị ăn thịt!

    Chết cháy và bị chó săn ăn thịt, cái chết nào dễ chịu hơn đây?

    Càng nghĩ giáo sư Lương càng lo lắng, ông biết nếu không thể thoát ra khỏi đây thì chắc chắn Tô My sẽ chết. Con người thậm chí có thể ăn thịt đồng loại nếu họ quá đói.

    Giáo sư Lương lại gõ đũa vào bát, con chó đói khát đứng canh cửa lại điên cuồng cào móng vuốt sồn sột lên cửa, phát ra những âm thanh nghe đến rùng mình.

    Giáo sư Lương ép mình phải trấn tĩnh lại, ông nghĩ đến ba vấn đề.

    Nếu không có chó canh bên ngoài thì phải làm gì để thoát ra ngoài?Phải giết chết chó bằng cách nào?Có thể lợi dụng sức mạnh của con chó không?
    Ông trầm ngâm suy ngẫm hồi lâu, hiển nhiên cửa là lối thoát thân an toàn nhất, chỉ cần giết chết chó là có thể nghĩ đến việc phá cửa lao ra ngoài.

    Nhưng một ông lão tàn tật muốn giết một con chó to khỏe, dữ dằn nhường kia đâu phải chuyện dễ, huống hồ con chó đó còn cách ông một cánh cửa.

    Đột nhiên giáo sư Lương nghĩ đến việc làm cách nào để dụ con chó tự dẫn xác vào trong phòng.

    Ý tưởng như tia sét lóe lên giữa màn đêm dẫn đường cho ông đi đúng hướng. Sau khi suy nghĩ thật chín muồi, giáo sư Lương đã tìm ra cách thoát khỏi nơi này.

    Ông quyết phen này “Trạng chết Chúa cũng băng hà”, rồi đập vỡ bát, lấy mảnh sành vót đầu đũa nhọt hoắt. Giáo sư Lương đo đạc sơ qua rồi vẽ một vòng tròn sau cánh cửa. Tô My vẫn bất tỉnh nhân sự, vì muốn thoát khỏi nhà tù tử thần này, ông quên cả xấu hổ, đại tiện vào vòng tròn mà mình vừa vẽ, sau đó thút nút đầu dây thừng thành mối nối linh hoạt có thể kéo ra thít vào dễ dàng, rồi đặt xung quanh đống phân. Như vậy ông có bốn công cụ có thể sử dụng để thoát hiểm, bao gồm: bát, đũa, phân và dây thừng.

    Mảnh bát vỡ và cây đũa nhọn hoắt có thể dùng làm vũ khí, đống phân dùng để thu hút con chó, nếu không có đống phân thì có lẽ ông buộc lòng phải cắt thịt trên người mình ra để làm mồi câu nó, dây thừng có vai trò giống như chiếc thòng lọng sẵn sàng thít chặt cổ chó. Đây là những bước tất yếu nếu muốn giết con chó dữ ngoài kia.

    Giáo sư Lương không ngừng gõ đũa vào bát, con chó sủa ông ổng với vẻ đầy bất an, cái mũi cực thính của nó đã ngửi thấy mùi phân, móng vuốt bắt đầu bới đất phía dưới cánh cửa, sàn nhà là nền đất trải cát. Trước đây vì muốn tránh nước chảy vào chuồng nên Thanh sói đã đôn vách nhà cao hơn mặt đất, bởi vậy chân cửa còn cách mặt đất một khoảng nhỏ, khoảng cách ấy đủ để con chó đào hố chui vào. Chó có bản năng đào hố. Con chó đói mõm ruột ra sức lấy móng vuốt bới đất vì nó muốn được ăn món hấp dẫn đang ở trong chuồng. Cuối cùng nó cũng đào được một đường rãnh nhỏ đủ để chui đầu vào, có điều chiều dài sợi xích có hạn nên con chó với mãi vẫn không tới bãi phân, nó cố hết sức thò đầu vào đường rãnh, vừa lúc ấy giáo sư Lương tung dây thừng chòng vào cổ nó và thít chặt.

    Con chó vẫy vùng muốn thoát, nó định rụt cổ ra khỏi đường rãnh, nhưng giáo sư Lương đã thần tốc kéo mạnh sợi dây thừng về phía mình rồi buộc vào tay cầm.

    Tiếp theo đó, giáo sư Lương lấy cây đũa nhọn và mảnh bát vỡ cố gắng giết chết con chó. Văng vẳng vang lên giọng lẩm bẩm ngắt quãng của giáo sư Lương: “Hồi trẻ tao có biệt danh là Thợ săn, biệt danh này… không phải hữu danh vô thực đâu đấy! Nhưng tao thích đồng nghiệp gọi tao là đồ tể hơn… Muốn tao đầu hàng à? Đừng có mơ… Mày còn dám cào tao… Tao phải thít cổ mày… Tao phải lột sạch quần áo của mày… Chết đi!”

    Cuối cùng, giáo sư Lương sức cùng lực kiệt gục xuống con chó nằm im bất động, nó đã chết. Giáo sư Lương gắng gượng nhõm người dậy tháo xích và dây thừng khỏi cổ con chó, đẩy nó ra khỏi đường rãnh, sau đó ông cố kéo Tô My bò theo đường rãnh chui ra ngoài. Khi ấy bầu trời chi chít ánh sao, vầng trăng khuyết treo vắt vẻo giữa không trung.

    Đêm đó, bà lão ở trại trẻ mồ côi nghe thấy tiếng gõ cửa, bà trở dậy chậm chạp bước ra cổng, vừa mở ra thì thấy một ông lão khắp người dính máu, hồ như ông không mặc gì trên người, trước ngực ông có mấy vết cào rất sâu, ông ngồi trên xe lăn, trong lòng ôm một cô gái thở thoi thóp, chiếc xe lăn vốn khá nhỏ nên không chịu được sức tải của hai người. Có lẽ ông lão phải khó khăn lắm mới lăn được từng vòng xe đến trước cổng trại trẻ mồ côi. Ông mệt đến nỗi thở không ra hơi, mãi lát sau mới vừa thở hổn hển vừa thốt ra được hai từ: “Bệnh viện…”

    Trại trẻ mồ côi của bà lão La không có điện thoại nên bà vội vàng gọi mấy đứa lấy xe ba bánh chở hai người họ đến bệnh viện. Bà lão không hề biết hai người khách lạ mặt này là ai nhưng vẫn giúp họ làm thủ tục nhập viện, lúc nộp viện phí thì xảy ra một vấn đề nhỏ: Bà không mang đủ tiền.

    Bà lão liền lấy một sợi dây chuyền vàng ra bảo với y tá rằng: “Cứu người là việc quan trọng! Mong cô cầm giúp vật này!”

    Thu ngân của bệnh viện nói: “Chúng cháu chỉ thu tiền mặt, sợi dây chuyền của bà vừa nhìn đã biết là đồ giả, trên đó còn dính bùn kia kìa!”

    Bà lão nói: “Tôi đảm bảo sợi dây chuyền này làm bằng vàng thật. Tôi là bà La ở trại trẻ mồ côi, tôi đào thấy sợi dây chuyền này trong lần ươm hoa.”

    Lúc này, cô nhân viên thu ngân của bệnh viện mới nhận ra người đang đứng trước mặt: “Thì ra bà là bà La ạ? Cháu đã nghe kể rất nhiều về bà, mọi người đều bảo bà chẳng khác nào mẹ Teresa. Thôi! Bà cứ cho bệnh nhân nhập viện trước đã!”

    Khi Tô My tỉnh lại, cô phát hiện Họa Long và Bao Triển đang ngồi bên cạnh, giáo sư Lương nằm ở giường kế bên. Ngoài cửa sổ ánh nắng chói ngời rực rỡ. Ba người thấy Tô My đã tỉnh liền mỉm cười với cô, Tô My nói: “Sao tôi lại ở đây… Ô! Tôi nhớ ra rồi… Nói thật, chưa bao giờ tôi cảm thấy giáo sư Lương, anh và cậu Triển lại quan trọng với tôi như lúc này.”

    Bao Triển nhẹ nhàng bảo: “Chị My, chị cứ yên tâm nằm đây dưỡng bệnh, vụ án này cứ để chúng tôi lo liệu.”

    Họa Long thông báo tình hình vụ án: “Ngải Mang đã bị chúng tôi bắt tại thành phố, hắn khai giám đốc Bành đã lây virus HIV sang hắn, hắn có nhiều điểm tình nghi nên chúng tôi bắt hắn vào trại giam đợi xét hỏi.”

    Giáo sư Lương bổ sung thêm: “Vật mà đội trưởng Ngưu muốn tìm trong rừng trúc không phải hài cốt cũng không phải bất kì manh mối nào liên quan đến vụ án giám đốc Bành bị sát hại, thực ra vật ông ta muốn tìm là vàng. Rất có khả năng trước khi tháo chạy sang Đài Loan, bọn Quốc Dân đảng đã chôn rất nhiều vàng ở quanh khu vực trại giam. Thanh sói chính là hung thủ giết chết đội trưởng Ngưu, rồi y dùng chính khẩu súng từng giết đội trưởng Ngưu để giết viên cảnh sát đi theo bảo vệ chúng ta. Tiểu My, cháu phúc dày mạng lớn nên chỉ bị trúng đạn vào bả vai đấy! Hiện tại cảnh sát đã phát lệnh truy nã Thanh sói.”

    Bao Triển thắc mắc: “Cháu thấy có một điểm rất kì lạ bà lão họ La lấy đâu ra sợi dây chuyên vàng đó nhỉ?”

    Giáo sư Lương giải thích: “Cậu Triển cậu có biết vàng chôn dưới đất, vàng sẽ biết chạy không?”

    Họa Long tròn mắt hỏi: “Vàng mọc chân ạ?”

    Giáo sư Lương phá lên cười: “Đúng vậy! Tôi tin rằng gieo nhân nào ắt gặt quả nấy, người tốt sẽ được trời thương. Những sợi dây chuyền vàng đó vốn được chôn gần trại giam, vậy mà sau năm mươi năm chúng lại mọc chân chạy sang vườn ươm hoa của bà lão La. Vài ngày nữa, chúng ta sẽ đi thăm bà lão, tiện thể hỏi rõ thực hư câu chuyện này là thế nào.”

    Chương 5Người mẹ của ký ức
    Mấy hôm sau, Họa Long và Bao Triển mua ít quà lái xe đưa giáo sư Lương đến trại trẻ mồ côi. Xe chạy một mạch đến trước cổng trại, Họa Long kể cho giáo sư Lương nghe một chuyện, khi họ từ thành phố trở về huyện Đại Trạch thì phát hiện cứ cách một đoạn thì hai bên đường lại xuất hiện một tấm biển, nội dung viết trên đó rất đáng chú ý.

    Từ đằng xa, cua xe vào địa phận của huyện Đại Trạch, Họa Long đã nhìn thấy một tấm biển hình chữ nhật rất lớn ghi “Kính chào quý khách đến huyện Đại Trạch – kinh đô của trúc!” Lái xe thêm một đoạn nữa thì cứ cách một trăm mét lại thấy một tấm biển hình chữ nhật bằng sắt đó không phải biển quảng cáo, cũng không phải biển đề biểu ngữ, mà chỉ viết đơn giản mấy chữ như sau:

    Đại đội Cảnh sát giao thông huyện Đại Trạch xin thông báo: Lái xe qua đoạn đường này chú ý! Phía trước có một trại trẻ mồ côi tư nhân!”

    Phòng Dân chính huyện Đại Trạch xin thông báo: “Viện trưởng của trại trẻ mồ côi là một bà lão cô đơn, đến nay bà lão đã thu nhận 350 trẻ mồ côi!”

    Phòng Giáo dục huyện Đại Trạch xin thông báo: “Trong trại trẻ mồ côi này có 109 em đã thi đỗ đại học và 6 em hiện đang là nghiên cứu sinh.”

    Ủy ban nhân dân huyện Đại Trạch xin thông báo: “Nếu quý khách có lòng muốn quyên góp hoặc mua hoa giống cho trại trẻ mồ côi, thì xin dừng xe ở đây!”

    Giáo sư Lương, Họa Long và Bao Triển liền xuống xe. Đây là một biệt viện không hề bắt mắt dẫu ở ngay ven đường, trên cánh cổng sắt hình vuông gắn tấm biển hình vòng cung viết năm chữ “Viện phúc lợi Ánh Dương”, biệt viện nằm trên khu đất rộng năm mẫu, trước cửa đặt hòm công đức bằng tôn, bên cạnh treo chuông và búa gõ. Mấy chục năm nay, hòm công đức bị mưa gió bào mòn đến hoen gỉ, trầy tróc, ngay cả quả chuông và chiếc búa cũng bị ăn mòn loang lổ, dẫu vậy chúng vẫn tỏa sáng lấp lánh, chúng tôi biết trên cõi đời tồn tại một thứ ánh sáng không thể quan sát bằng mắt thường mà chỉ dùng trái tim mới cảm nhận được nó.

    Thứ gì trên thế giới này quý giá hơn vàng?

    Thứ gì trên cõi đời này chói mắt hơn vàng?

    Trong sân trại trẻ mồ côi có một gốc hòe già, ánh mặt trời vàng như mật ong rót đầy sân trại, cây hòe vươn cành lá xum xuê đón nắng, mỗi khi có cơn gió ghé thăm, cây hòe lại ngân lên khúc ca êm dịu của mẹ thiên nhiên!

    Bà lão La lấy chiếc ghế gấp đặt dưới gốc cây, bà bắt đầu kể cho nhóm giáo sư Lương nghe về cuộc đời mình. Giờ bà chẳng khác nào ngọn nến sắp tàn, ngọn đèn sắp cạn đầu. Từ nhỏ bà đã mồ côi mẹ, bước vào tuổi thiếu niên lại mồ côi cả cha, bà chưa từng có được hạnh phúc cắp sách đến trường như bao trẻ em khác. Đến tuổi trưởng thành bà lấy chồng và chuyển về huyện Đại Trạch, nhưng niềm vui ngắn chẳng tày gang, chồng bà không may bị bom nổ tan xác trong một lần đi khai thác đá trên núi. Đó là năm 1978. Từ đó bà kiếm sống bằng nghề nhặt đồng nát sắt vụn và làm ruộng, cũng bắt đầu từ thời điểm ấy bà nhận nuôi sáu đứa trẻ bị cha mẹ bỏ rơi dựa vào nguồn thu nhập ít ỏi của mình. Rồi càng ngày người đàn bà bất hạnh ấy càng thu nhận nhiều trẻ mồ côi, bất kể bản thân ngậm đắng nuốt cay vất vả làm việc và chắt chiu từng đồng bạc lẻ để nuôi những đứa trẻ không phải máu mủ của mình. Nhiều đứa trẻ là trẻ sơ sinh bị vứt bỏ trong thùng rác của bệnh viện, bà thương xót mang chúng về nuôi. Sau khi đài báo đưa tin tấm gương người tốt việc tốt của bà lên phương tiện thông tin đại chúng, xã hội cảm động trước tấm lòng của bà liền ồ ạt quyên góp, thế là viện phúc lợi Ánh Dương được thành lập. Sau đó, bà lão La làm rất nhiều nghề để có thêm tiền nuôi lũ trẻ, nào là bán kem, nào là mở hàng bán đậu phụ, lại còn mở xưởng làm găng tay bằng phương pháp thủ công, ngặt nỗi con người lương thiện ấy không giỏi làm ăn, nên làm gì hỏng nấy. Trong khi đó trẻ mồ côi đến viện phúc lợi Ánh Dương càng lúc càng đông hơn, cùng với đó gánh nặng kinh tế đè lên vai bà càng trĩu xuống. Cuộc sống của bà và lũ trẻ vất vả hơn tất cả những gì người ta có thể tưởng tượng.

    Một ngày nọ có anh tài xế chở một người đàn ông nom có vẻ là người quyền cao chức trọng đến trại trẻ của bà. Anh ta lấy búa gõ chuông nhưng lại không quyên góp gì cho viện.

    Bà lão La tưởng anh tài xế nọ muốn chơi khăm nên bà giận ra mặt: “Đi chỗ khác mà chơi! Tôi có mấy trăm đứa con, không rảnh tiếp anh!”

    Lúc bấy giờ người đàn ông ngồi sau xe mới bước xuống và nói: “Cháu không góp tiền nhưng cháu muốn nói với bà một câu, câu ấy đáng giá ngàn vàng.”

    Bà lão La xua tay đuổi khách: “Không rảnh! Không rảnh nghe các người huyên thuyên!”

    Anh tài xế khuyên nhủ: “Bà ơi! Chỉ phiền bà năm phút thôi mà! Cháu đảm bảo gợi ý của anh ấy có giá trị hơn quyên tiền quyên bạc rất nhiều!”

    Người đàn ông sang trọng nói rằng bà lão có năm mẫu đất, trong khi thu nhập từ việc trồng trọt canh nông lại rất ít ỏi, nếu sử dụng mảnh đất này để trồng hoa ươm cây mang bán thì đảm bảo sinh lời, vì ở đây có ưu thế lớn về vị trí địa lí, nằm ngay gần đường quốc lộ, tài xế lái xe qua không tranh nhau mua mới lạ, thế là tiền chảy về túi bà khác nào suối đổ vào sông, nhờ thế trại trẻ mồ côi cũng thoát khỏi cảnh túng thiếu, cùng quẫn như hiện tại. Bà lão nghe thấy có lí nhưng bảo mình không giỏi kinh doanh, không biết giá cả thị trường thế nào mà mua đi bán lại.

    Người đàn ông đó nói: “Sao bà phải để ý đến vấn đề giá cả? Lương tâm con người tự khắc sẽ biết nên trả bà bao nhiêu, bà chỉ cần trồng hoa, bày ra ven đường, không cần đề giá, khách mua hoa muốn đưa bà bao nhiêu tiền thì bà nhận bấy nhiêu tiền. Bà cứ yên tâm, không ai nỡ trả ít tiền cho bà đâu!”

    Bà lão La ngạc nhiên hỏi người khách lạ đang đứng trước mặt mình: “Cậu là ai?”

    Anh tài xế vội chen lời giới thiệu: “Đây là tân bí thư huyện ủy của huyện Đại Trạch chúng ta đó ạ! Anh ấy vừa mới được bổ nhiệm.”

    Bí thư huyện ủy giúp bà lão La làm hai việc. Thứ nhất là cử mấy nhân viên kĩ thuật xuống trại trẻ chỉ cho bà các kĩ thuật ươm trồng, sửa sang trại trẻ mồ côi thành cơ sở ươm và trồng hoa giống. Thứ hai là dựng biển sắt suốt dọc đường huyện Đại Trạch, ông còn đặc biệt yêu cầu nội dung viết trên tấm bảng không được quan cách, văn hoa mà phải hết sức mộc mạc, dễ hiểu.

    Những khách du lịch đường dài chịu khó quan sát sẽ lập tức thấy một vài điểm khác thường khi đi qua các địa danh, ví như một huyện nào đó dùng sơn để phủ xanh đất trống đồi trọc, một thành phố nào đó xây rất nhiều bức tường đẹp đẽ, mỹ quan dọc hai bên đường, nhìn những bức tường đó trông giống một phần của khu biệt thự xa hoa, nhưng thực tế phía sau bức tường lại là những ngôi nhà lụp xụp, rách nát của người dân thôn quê.

    Một số thông tin có thể khiến chúng ta suy ngẫm mãi về sự đời, chúng khiến ta phải bật lên câu hỏi: “TẠI SAO?”

    Giáo sư Lương nói với bà lão La: “Chị nhiều tuổi hơn em nên cho phép em gọi chị là chị. Lần này chúng em đến đây không phải với cương vị của cảnh sát mà chỉ muốn đến thăm chị như những người bạn thôi. Ngoài ra em có việc muốn tìm hiểu một chút, làm sao chị đào được sợi dây chuyền vàng đó? Chị La, chị cứ yên tâm! Em sẽ không viết phần này vào trong bất kì báo cáo nào của cảnh sát đâu. Chúng ta chỉ nhân tiện nói chuyện phiếm thôi!”

    Bà lão thành thật đáp: “Chuyện này đúng là rất kì lạ! Tôi đang trồng hoa trong thì đào được một đống dây chuyền vàng và cả hộp sọ người nữa.”

    Giáo sư Lương gật đầu bảo: “Năm nay chị La chắc ngoài bảy mươi rồi nhỉ? Chị có nhớ trước giải phóng đây là khu vực chuyên xử tử phạm nhân không?”

    Bà lão nói: “Ba tháng nữa tôi tròn tám mươi, nghe bố chồng đã quá cố của tôi nói trước giải phóng đây làn khu vực chiến tranh, là nơi tạo nghiệt đấy! Không biết bao nhiêu người phải nằm xuống, quân Quốc dân cày xới đất này không biết bao nhiêu lượt. Vào lần tấn công cuối cùng, chúng bắn chết rất nhiều người ngay tại căn phòng trong rừng trúc. Quân Quốc dân bắt phạm nhân phải đào một hố thật sâu, sau đó bắn chết họ rồi chôn xuống chính cái hố do họ tự đào. Xử lí phạm nhân xong, chúng liền bỏ trốn, chẳng may chúng gặp quân Cộng sản. Hai bên đánh nhau suốt một ngày một đêm ròng rã, quân Quốc dân gần như chết hết, người ta cũng vùi chúng xuống dưới những gốc trúc. Bởi vậy đây là mồ chôn tập thể của hàng ngàn người!”

    Nghe xong câu chuyện, tổ chuyên án trở về, Bao Triển nói: “Qua suy đoán và phân tích, tôi cho rằng bọn chúng ra lệnh cho phạm nhân đào hố, rồi chôn hết số vàng tịch thu được, sau đó bắn chết phạm nhân. Chẳng ngờ giữa đường lại gặp Cộng sản nên bị diệt toàn quân, số người biết chuyện chôn vàng trong rừng trúc chắc không nhiều, có thể lúc ấy chỉ còn một người sống sót, hắn ta chạy trốn sang Đài Loan, mấy chục năm sau con trai hắn – chính là Thanh sói vượt biển sang Trung Quốc để tìm lại báu vật năm xưa, y cố ý xây trại nuôi chó giống để che mắt thiên hạ.”

    Họa Long bổ sung thêm: “Thanh sói và đội trưởng Ngưu là bạn thân của nhau qua bức ảnh có thể nhận thấy mối quan hệ giữa họ rất thân mật.”

    Ba tháng sau, bộ đội biên phòng đã vô tình tóm được Thanh sói khi y đang lênh đênh trên một con tàu vượt biển ra nước ngoài. Trên thực tế rất nhiều hung thủ trong các vụ trọng án đã sa lưới vì những nhân tố ngẫu nhiên, ví dụ phạm nhân cướp của giết người Ngụy Trấn Hải vượt ngục thành công, nhưng y bị cảnh sát tóm được vì quần chúng tố cáo y bắn súng loạn xạ nhân lúc pháo nổ chào đón năm mới, phạm nhân Cung Nhuận Bách – hung thủ của vụ giết hàng loạt trẻ em vì tham của mà để cậu bé đã biết rõ bộ mặt sát nhân của y và y ôm suốt một đêm về nhà lấy tiền, sau khi cậu của cậu bé báo án, cảnh sát liền ập đến vây bắt.

    Huyện Đại Trạch đệ trình lên tổ chuyên án ba tập hồ sơ bảo mật ghi chép lại toàn bộ quá trình diễn ra vụ án này.

    Giám đốc Bành bị Ngải Mang sát hại. Trong thời gian thi hành án trong trại giam, giám đốc Bành thấy cậu thanh niên trẻ tuổi đẹp trai, cơ thể săn chắc thì nảy sinh tà ý bà ta thường gọi Ngải Mang vào văn phòng, lấy cớ kiểm tra xem có giấu chất cám trong người không để sờ soạng. Ban đầu bà ta tìm đủ mọi cách để khiêu khích hắn, rồi cuối cùng thẳng thừng ngỏ ý quan hệ. Ngải Mang từ chối, nhưng giám đốc Bành lại cười dâm đãng uy hiếp: “Cậu em! Cậu chiều chị một tí, chị sẽ không để em thiệt đâu mà sợ! Nhưng nếu không nghe lời, thì chị sẽ báo em muốn vượt ngục chạy trốn, lúc ấy việc bắn chết em thực dễ đàng chẳng khác nào bắn chết con chim sẻ… Cậu em, nghe lời chị nào! Ngoan nào!…”

    Ngải Mang bị nhiễm bệnh đường tình dục từ giám đốc Bành, sau khi được thả khỏi trại giam, hắn lập tức đến một phòng khám tư nhân trong huyện, bác sĩ bảo rất có khả năng hắn nhiễm HIV giai đoạn đầu. Ngải Mang lo lắng, sợ hãi vội lên bệnh viện tuyến tỉnh kiểm tra lần nữa, bệnh viện tỉnh nói rằng các triệu chứng còn đang trong thời kì tiềm tàng nên không biểu hiện rõ, cần quan sát một thời gian mới biết có nhiễm HIV hay không. Trong suốt thời gian theo dõi tiến triển của mầm bệnh, nỗi khiếp sợ mắc phải căn bệnh thế kỉ HIV xen lẫn nỗi căm hận giám đốc Bành khiến Ngải Mang quyết định âm thầm hẹn bà ta ra rừng trúc gần trại giam rồi ra tay giết hại một cách tàn nhẫn.

    Trước đó mấy ngày, đống xương người xếp trước cổng bốn đơn vị cảnh sát huyện Đại Trạch là do đội trưởng Ngưu bày ra, dãy số được xếp bằng xương người chỉ tọa độ bí ẩn hướng về trại giam cũng do một tay đội trưởng Ngưu giải mã.

    Đội trưởng Ngưu có máu đỏ đen, Thanh sói lợi dụng nhược điểm này nên cố ý kết bạn với ông ta. Nhiều lần Thanh sói dẫn đội trưởng Ngưu ra ngoại thành tham gia các cuộc đấu chó. Đấu chó cũng là một hình thức cá độ, người đặt cược lớn thường là các đại gia nhà giàu, tiền cược đôi khi lên đến hàng triệu tệ. Ban đầu đội trưởng Ngưu cũng thắng được một vài món kha khá, sở dĩ ông ta thắng cược là nhờ Thanh sói chơi gian, y cho sói giả dạng thành chó rồi ra thi cùng những chú chó khác, đương nhiên con sói lai chó kia hễ xông trận là chiến thắng, mà dẫu y mang chó thật ra thi thì con chó đó cũng đã trải qua bao nhiêu buổi tập săn người. Bởi vậy y muốn thắng là nhất định sẽ giành chiến thắng.

    Càng ngày đội trưởng Ngưu càng lún sâu vào hố bùn đỏ đen, Thanh sói cố tình để chó của mình thua cuộc nên chẳng mấy chốc đội trưởng Ngưu đã lâm vào cảnh khánh kiệt, càng thua lại càng máu cá cược, Thanh sói xúi giục kẻ đang thua bạc đến khuynh gia bại sản là đội trưởng Ngưu chiếm dụng công quỹ của phòng cảnh sát tiếp tục đổ vào những canh bạc mà mình tất thua. Đội trưởng Ngưu không thể rút chân ra được nữa! Ông ta luôn nơm nớp lo sợ việc chiếm dụng công quỹ bị phát hiện, khi ấy Thanh sói xuất hiện với mặt nạ của ân nhân cứu mạng, y tiết lộ cho ông ta một thông tin bí mật: Xung quanh trại giam chôn rất nhiều vàng thỏi và dây chuyền vàng. Thanh sói thề thốt rằng thông tin này do chính cha y nói cho y biết nên tuyệt đối không thể sai, sau khi đào được vàng thì hai người sẽ chia đôi.

    Đội trưởng Ngưu nóng lòng muốn bù lại khoản công quỹ mà mình đã chiếm dụng và tiêu vào việc cá nhân, nên ông ta khổ công bày ra thế trận tọa độ xương người, hướng tọa độ chính là trại giam. Chỉ làm như vậy thì ông ta mới được phép đến thực địa điều tra với cương vị là một cảnh sát. Khu vực quanh trại giam là khu vực cấm, không ai được phép xây dựng bất kì công trình nào trong phạm vi nhất định xung quanh trại, càng không được phép đào bới, khai quật với quy mô lớn, bởi vậy ông ta cần một lí do hợp lý để cấp trên dễ dàng thông qua. Sau khi bày thế trận tọa độ xương người, vừa hay giám đốc Bành bị Ngải Máng giết hại ở trong rừng trúc, thế là đội trưởng Ngưu càng có lí do mượn cớ phá án để khai quật hiện trường.

    Trưởng phòng cảnh sát huyện mời tổ chuyên án đến giúp đỡ, đội trưởng Ngưu liền nổi trận lôi đình, bởi ông ta lo sợ rất có khả năng tổ chuyên án sẽ lần ra hành vi bí mật của mình, đồng thời biết được mục đích thực sự của việc khai quật rừng trúc. Thấy đội trương Ngưu phản đối kịch liệt, trưởng phòng cảnh sát đành gợi ý hai tổ thi nhau phá án, ý tưởng này rất hợp ý ông ta, thế là ông ta liền đánh cược với tổ chuyên án, bởi cá độ là căn bệnh thâm căn cố đế của ông ta.

    Đội trưởng Ngưu miệt mài đào bới trong rừng trúc suốt hai ngày hai đêm, ông ta tách khỏi đồng nghiệp, tự mình đào đất tìm vàng. Khi tìm được kha khá vàng, ông ta chạy một mạch đến trại nuôi chó giống tìm Thanh sói ngay trong đêm. Đội trưởng Ngưu thay bộ quần áo mới, đeo kính râm và đội mũ, định bụng đi tàu lên thành phố đổi vàng thành tiền mặt. Thanh sói tiễn ông ta ra bến tàu khi cả hai ngồi đợi tàu bên bờ sông, Thanh sói nói một câu khiến đội trưởng Ngưu cảm động rụng rời: “Số vàng này không nhiều như tôi tưởng. Thôi! Cho cậu tất. Cậu đổi thành tiền, rồi mau lén bù vào công quỹ cậu đã chiếm dụng. Sau này đừng bao giờ cá độ nữa!”

    Đội trưởng Ngưu cảm kích nói: “Suốt đời tôi chỉ có cậu là người bạn tốt duy nhất. Người anh em, chuyến này trở về tôi nhất định sẽ bái thiên địa kết nghĩa anh em với cậu!”

    Tuy đội trưởng Ngưu là cảnh sát hình sự lão luyện nhưng bởi đang cảm kích trước sự rộng lượng của Thanh Sói, coi y là ân nhân cứu mạng nên ông ta không hề cảnh giác, mặt khác khi ấy trời còn chưa sáng rõ, nên ông ta không phản ứng kịp khi Thanh sói đột nhiên rút khẩu súng giắt ở eo đội trưởng Ngưu ra, thần tốc mở chốt, lên đạn, giết chết đội trưởng Ngưu rồi đoạt lại số vàng.

    Sau đó, Thanh sói nhanh chóng xử lí hết số chó trong trại, định bụng trốn về Đài Loan. Trước ngày khởi hành một hôm, tổ chuyên án gồm giáo sư Lương và Tô My cùng viên cảnh sát trên sở đến trại nuôi chó giống điều tra. Khi nghe tiếng Tô My đánh vỡ bình đun nước ở văn phòng, Thanh sói lập tức hiểu ra ba người khách mới đến là cảnh sát, y quyết đoán nổ súng giết viên cảnh sát rồi lôi Tô My bị trúng đạn ở bả vai và giáo sư Lương trói gà không chặt vào chuồng chó. Xong đâu đấy y cuống cuồng bỏ trốn.

    Tổ chuyên án mời một chuyên gia đến giải thích về việc vàng chạy từ trại giam sang trại trẻ mồ côi. Vị chuyên gia khẳng định nếu chôn vàng dưới đất, vàng hoàn toàn có khả năng di chuyển từ chỗ này sang chỗ khác.

    Vàng có đặc tính di chuyển và kéo dài, một gram vàng có thể kéo dài đến bốn ngàn mét, mật độ của vàng rất lớn nên chỉ một thỏi vàng nhỏ như quân mạt chược nhưng cầm trên tay thấy rất nặng. Vì mật độ lớn nên khi chôn thỏi vàng xuống đất, vàng sẽ tự động chìm xuống và di chuyển. Số vàng mà bọn Quốc dân đảng chôn dưới đất đã trải qua hơn nửa thế kỉ nên nó chịu tác động của hoàn cảnh môi trường địa chất như hóa học, vật lí và các nguyên nhân khác như sự vận động của lớp vỏ trái đất nên số vàng chôn dưới đất năm đó đã “chạy” sang vườn ươm hoa của bà lão La. Đó là điều có thể hiểu được.

    Bao Triển nghe một hồi, mặt nghệt ra bảo: “Tôi không hiểu những điều chuyên gia vừa giải thích cho lắm. Cá nhân tôi cho rằng đó là do bà lão ở hiền gặp lành.”

    Giáo sư Lương nói: “Đôi khi người ta có thể lấy lí do ý trời để giải thích cho nhiều chuyện kì bí.”

    Sau khi Thanh sói sa lưới pháp luật mấy hôm, bà lão La chợt nghe thấy tiếng ồn ào ngoài cổng viện, rồi sau đó là rất nhiều tiếng gõ cửa dồn dập.

    Bà lão chậm chạp ôm tấm lưng còng ra mở cửa. Bà đi qua vườn, mái tóc bạc phơ run rẩy bay theo chiều gió, bộ quần áo bà mặc bạc thếch và giản dị. Bà đi về phía cổng giống như người mẹ khấp khởi ra mở cổng cho những đứa con!

    Đó là người mẹ trong kí ức của mỗi chúng ta!

    Đám người xôn xao đứng ngoài cổng là những đứa con của bà, chúng từ mọi miền đất nước trở về đây để mừng thọ tám mươi tuổi mà chính bà đã lãng quên.

    Bà lão mở cửa, rồi bà mỉm cười, ánh cười hiền hậu và ấm áp như ngọn gió xuân. Chúng ta chẳng có lí do gì không tin bà có thể sống bách niên giai lão.
     
    Chỉnh sửa cuối: 21/3/17
    Gum, Dung dung, Trandinhanh and 5 others like this.
  11. Nhím Nhím

    Nhím Nhím Member
    • 344/373

    Bài viết:
    41
    Đã được thích:
    422
    Tập 1: BÓNG MA ĐÊM MƯA
    PHẦN 8: KÌ ÁN VỀ NHỮNG BỘ XƯỚNG TRẮNG​


    Lời dẫn

    Này! Đây là lời nói cuối cùng của tôi, rằng tôi tin tình yêu của em – Tagore.



    Cô bé đương độ trăng rằm mặc chiếc váy đỏ lững thững thả bước trên con hẻm hoang liêu dài tít tắp, hoa tường vi nở rộ, trời chạng vạng tối, mưa như rây bột nhẹ nhàng vuốt ve từng góc phố, cô bé mang vẻ mặt âu sầu ngắt một đoá tường vi, lòng cô ngổn ngang trăm mối, cô bước vào khúc ngoặt, rồi biến mất…

    Chẳng biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua, cô bé mới tỉnh dậy và phát hiện mình đang ngồi trong một chiếc thùng sắt. Cô bé vô cùng hoảng sợ, không thể lí giải nổi vì sao mình lại ở đây, chỉ loáng thoáng nhớ khi đi qua góc phố thì bị một bàn tay bịt chặt miệng và mũi, sau đó cô liền bất tỉnh nhân sự.

    Cô bé muốn hét to kêu cứu nhưng phát hiện miệng mình bị nhét giẻ.

    Cô bé muốn giãy giụa nhưng phát hiện tay mình bị trói chặt bằng dây thép, cả chân cũng bị trói gô lại.

    Cô bé ngửi thấy mùi tanh hôi toả ta từ động vật, nắp thùng sắt đột ngột mở ra, liền sau đó rất nhiều chuột đổ ào ào vào thùng. Cô bé khiếp đảm kêu ú ớ, toàn thân run lẩy bẩy, càng lúc càng nhiều chuột hơn vây kín lấy cô, chỉ chừa mỗi phần đầu lộ ra ngoài.

    Mỗi lần cô cố gắng giãy giụa trong vô vọng thì bầy chuột bu quanh người lại được phen huyên náo.

    Nắp thùng đậy lại, tiếng khoá sắt vang lên xủng xoẻng, rõ ràng nó đã bị khoá.

    Một người đàn ông ngồi trước thùng sắt, lẩm bẩm nói vọng vào trong bằng giọng rất nặng tình:

    Anh ngắm ảnh của em suốt đêm, hôn qua tấm kính, nếu không để ảnh em vào khung kính, anh sợ nụ hôn của mình sẽ làm ảnh ướt mất, làm tà váy đỏ của em ướt mất. Anh nhớ em! Anh luôn yêu em! Anh lang thang khắp thành phố này đến thành phố khác, vượt trăm núi ngàn sông chỉ để tìm em, chỉ để được gấn bên em. Tim anh đập liên hồi trong lồng ngực, anh chẳng có cách nào khác chiếm hữu em và tìm thấy em ngoài cách dùng nỗi sợ áp chế em. Điều duy nhất anh có thể làm để em không thuộc về ai khác chính là – giết chết em!

    Chương 1Cô gái mặc váy đỏ
    Phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc ân cần hỏi thăm: “Tiểu My, vết thương của cô thế nào?”

    Tô My đáp: “Tôi khỏi rồi! Chỉ cần sau này không mặc váy hai dây hở vai nữa là ổn!”

    Phó cục trưởng khuyên nhủ: “Đã là cảnh sát thì cần chú ý ăn mặc đoan trang một chút! À! Đúng rồi! Lần này tổ chuyên án phải đến thị trấn Ô Đường, một vùng quê sông nước thuộc tỉnh Giang Nam. Tôi nhắc cô lưu ý khi tới đó cô tuyệt đối không được mặc váy đỏ đấy!”

    Giáo sư Lương phản xạ rất nhanh, liền hỏi: “Mới xảy ra vụ án lớn nào ở thị trấn Ô Đường sao?”

    Bao Triển cũng tò mò chen vào: “Mặc váy đỏ thì làm sao ạ?”

    Phó cục trưởng trả lời: “Trong vòng một tháng mà ba cô bé trong thị trấn đã mất tích, cả ba cô đều mặc váy đỏ.”

    Họa Long nhìn hồ sơ vụ án chửi thề: “Khỉ thật! Kẻ báo án vụ án mất tích xảy ra cuối cùng không ngờ lại là…”

    Phó cục trưởng gật đầu thừa hận: “Đúng vậy! Nói ra thì chẳng ai tin nhưng kẻ báo án không phải là người mà lại là một con chuột cụ.”

    Thị trấn nhỏ giữa sông nước mênh mang vùng Giang Nam là thị trấn có truyền thống làm tơ lụa, thường ngày nơi đây rất yên ắng tinh mịch, liễu rủ nghiêng nghiêng mặt hồ. Trong mỗi con ngõ nhỏ đều có một cô gái mặc áo dài cầm ô giấy dầu đứng bên phiến đá xanh. Từng kiến trúc, từng mái nhà ven đường đều phảng phất phong vị hoài cổ. Nhịp sống nơi thị trấn nhỏ ven sông rất nhàn tản, êm đềm, không có xe cơ giới, chỉ thỉnh thoảng thấy chiếc xe đạp nhẩn nha chạy thoáng qua. Phương tiện chủ yếu mà người dân ở đây sử dụng là thuyền.

    Trong phòng an ninh chủ tịch thị trấn Ô Đường trình bày sơ qua tình hình vụ án với tổ chuyên án, sáng ngày l9 tháng 7 năm 2008, mấy đồng chí dân phòng đang nghe hát ở quán trà, cô ca sĩ đứng trên sân khấu mặc chiếc váy dài màu đỏ kiểu cổ trang, giọng hát trong vắt, uyển chuyển đến rung động lòng người, lại vừa mang đậm vẻ gợi cảm của miền sông nước Giang Nam. Cô đang say sưa hát thì bất chợt ngừng lại, âm thanh tắt lịm, ánh mắt khiếp đảm hướng ra cửa, mấy người dân phòng liền ngoái đầu lại theo hướng ánh nhìn của cô gái. Họ thấy một con chuột lắc lư thân mình đi vào quán trà một cách ngạo nghễ.

    Đó là một con chuột rất to, bụng tròn vo như cái ấm trà, kéo theo cái đuôi dài ngoằng, nom nó phải to gấp đôi những con chuột bình thường.

    Điều khiến người ta cảm thấy quái dị là toàn thân nó nhuốm màu đỏ, người ướt ròng như thể vừa bò từ thùng sơn ra vậy.

    Một dân phòng bạo gan cầm mũ cói rón rén bước đến gần nó, chắc tại con chuột ăn quá no, bụng lùm lùm như cái trống nên chẳng còn hơi sức đâu mà tháo chạy, nó bị dân phòng nọ lấy mũ cói chụp gọn. Mọi người xúm đông xúm đỏ lại xem, một dân phòng dày dạn kinh nghiệm chỉ vào con chuột và nói: “Máu đấy! Khắp người nó toàn là máu!”

    Rồi họ tìm thấy một chiếc váy đỏ ở ven bờ sông ngay trước cửa quán trà. Lấy gậy tre khều chiếc váy vào bờ, họ nhìn thấy trên thân váy thủng mấy lỗ, còn có rất nhiều vết tích bị gậm nhấm. Các nhân viên trong đội dân phòng lập tức triển khai lục soát khu vực ven bờ sông, họ phát hiện trong lòng sông có một vài tấm lưới đánh cá trong lưới là hai chiếc váy đỏ khác.

    Ba chiếc váy đỏ đều dính máu, trong đó hai chiếc váy có cùng kiểu dáng.

    Thông qua điều tra, chủ tịch thị trấn và ban an ninh xác nhận trong thị trấn quả đúng có ba cô bé vừa mất tích, khi mất tích họ đều mặc váy đỏ.

    Tô My hỏi: “Đã cho xét nghiệm vết máu chưa? Máu dính trên người con chuột có cùng nhóm máu dính trên váy không?”

    Bao Triển cũng hỏi: “Thức ăn trong dạ dày chuột gồm những gì? Đã có kết quả giải phẫu chưa?”

    Chủ tịch thị trấn nói: “Đã gửi mẫu xét nghiệm lên thành phố rồi! Ở thị trấn nhỏ chúng tôi không có viện pháp y, phương tiện vận chuyển bằng thuyền nên nhanh nhất phải ngày mai mới có kết quả khám nghiệm.”

    Giáo sư Lương nói: “Giờ anh hãy kể tường tận cho tôi nghe về vụ ba cô bé mất tích!”

    Chủ tịch thị trấn nói ngày mồng một tháng bảy, một cô bé tên là Hoàn Ngọc rời khỏi cửa hàng thêu Chữ Thập trên thị trấn vào lúc khoảng tám giờ tối, sau đó không ai nhìn thấy cô bé nữa. Ngày mười lăm tháng bảy, hai nữ sinh rời khỏi trung tâm dạy vẽ, một cô tên là Mạc Phi, còn cô kia tên là Triệu Tiêm Tiêm, lúc ấy cũng khoảng tám giờ tối. Sau khi rời khỏi đó, cả hai cùng biến mất một cách thần bí. Sáng ngày mười sáu, Đội dân phòng phát hiện một con chuột lớn với thân mình bết máu, ngoài ra họ còn vớt được ba chiếc váy đỏ dưới lòng sông. Ba cô bé mất tích một cách khó hiểu, sống không thấy người, chết không thấy xác. Căn cứ vào kết quả điều tra, chúng tôi phát hiện cả ba cô bé đều có chung một điểm: đều mặc váy đỏ!”

    Bao Triển nhìn bản đồ thị trấn Ô Đường, rồi bảo: “Cả ba cô bé đều mất tích trên cùng một con phố!”

    Giáo sư Lương phán đoán: “Cuối tháng, có khả năng đến cuối tháng sẽ có thêm một cô bé mặc váy đỏ nữa bị mất tích và bị sát hại.”

    Chủ tịch thị trấn giật bắn mình hỏi lại: “Sao ông biết?”

    Giáo sư Lương giải thích: “Hoàn Ngọc mất tích vào ngày mồng một, Mạc Phi và Triệu Tiêm Tiêm mất tích vào ngày mười lăm, cứ cách nửa tháng lại xảy ra một vụ mất tích vào lúc tám giờ tối. Hung thủ có quy luật giết người nhất định, nên rất có khả năng sau mười lăm ngày, tức cuối tháng này, y sẽ ra tay hạ thủ thêm một cô bé mặc váy đỏ nữa!”

    Lực lượng cảnh sát địa phương rất mỏng, không đủ triển khai vụ án, chỉ có viên trưởng công an xã và mấy cảnh sát viên, thêm một vài dân phòng nữa. Giáo sư Lương tập hợp họ lại, phân công công việc cụ thể.

    Tô My và chủ tịch thị trấn việc lấy lời khai của thân quyến nạn nhân, trọng điểm điều tra là phải hỏi cho ra những nhân vật mà họ thấy khả nghi, đặc biệt hỏi xem họ có thấy biểu hiện hay tình hình gì khác thường trước khi vụ mất tích xảy ra mấy hôm không.

    Bao Triển và đội trưởng đội dân phòng tiến hành điều tra lại cửa hàng thêu Chữ Thập và lớp dạy hội hoạ, đồng thời vẽ chi tiết bản đồ phân bố của con phố nơi ba cô bé mất tích, cũng như khu vực ven sông, ngõ hẻm xung quanh.

    Họa Long và nhân viên đội dân phòng phụ trách bắt chuột, chú ý tìm kiếm kĩ lưỡng các góc chết như thùng rác gần quán trà và dưới cống, quan sát xem còn con chuột nào dính máu nữa không.

    Chủ tịch thị trấn nói: “Chúng tôi đã làm hết những công việc giáo sư vừa giao, nhưng không phát hiện bất kì manh mối nào hữu dụng cho việc phá án.”

    Giáo sư Lương nói: “Làm đi, không được thì phải làm lại, làm lại không được thì làm lại nữa, làm đến khi nào phát hiện ra manh mối mới thôi.”

    Thế là Tô My và chủ tịch thị trấn bắt đầu tiến hành thẩm vấn bố mẹ của Hoàn Ngọc từ đầu. Hoàn Ngọc mới mười sáu tuổi, khi bước chân vào lớp sáu, cha mẹ cô bé li hôn, mẹ tái giá theo chồng mới về thị trấn Ô Đường sinh sống, cha dượng đối xử rất tệ bạc với cô bé, cô thường xuyên bị cha dượng đánh chửi, bạn học và láng giềng xung quah nhận xét Hoàn Ngọc là cô bé sống nội tâm, nhạy cảm và tự ti. Hôm sinh nhật, cô bé được mẹ tặng một chiếc váy đỏ cô vô cùng vui sướng nhưng vì chuyện đó mà cha dượng và mẹ cãi nhau một trận kịch liệt Hoàn Ngọc đau lòng chạy ra khỏi nhà. Cuộc sống gia đình khó khăn nên cô bé phải giúp mẹ nhận thêm công việc thêu thùa. Tối hôm sinh nhật, cô bé vừa khóc vừa mang sản phẩm mình mới thêu xong đến cửa hàng Chữ Thập, rồi mất tích từ đó.

    Tô My và chủ tịch thị trấn đi tiếp đến nhà Mạc Phi. Mẹ Mạc Phi là một phụ nữ trí thức, lời ăn tiếng nói toát lên vẻ có học, có điều vì con gái mất tích nên bà rất lo lắng và đau đớn, nghẹn ngào khóc mãi. Lần trước chủ tịch thị trấn đã đến đây nhưng không hỏi ra được nguồn cơn, chỉ nắm được vài thông tin cơ bản. Từ nhỏ Mạc Phi đã tỏ ra đa tài, lại thêm nhờ mẹ có phương pháp giảng dạy nên cô bé tinh thông cầm kì thi hoạ. Nhân dịp nghỉ hè, mẹ cho cô bé đến lớp học vẽ ở trên thị trấn để nâng cao khả năng hội hoạ, nhưng không hiểu vì sao cuối tuần này mẹ Mạc Phi không thấy con về thăm nhà như thường lệ. Sau khi dân phòng phát hiện thấy chiếc váy bên bờ sông, họ liền mang chiếc váy đến lớp học vẽ cho các bạn cùng lớp Mạc Phi nhận diện, mọi người đều xác nhận đó chính là chiếc váy mà Mạc Phi mặc trước khi mất tích. Đội trưởng đội dân phòng cũng mang chiếc váy cho mẹ của Mạc Phi nhận diện, bà quan sát tỉ mẩn từng chi tiết, rồi ngã vật xuống ngất xỉu…

    Tô My cố tình tách khỏi chủ tịch thị trấn, khẽ hỏi mẹ của Mạc Phi: “Hi vọng cô phối hợp hết sức với phía cảnh sát, cô hãy kể hết cho chúng tôi biết mọi chuyện, ngay cả những chuyện gì mang tính riêng tư.”

    Mẹ của Mạc Phi gạt nước mắt gật đầu.

    Tô My hỏi: “Mạc Phi – con gái của cô có bạn trai chưa?”

    Mẹ Mạc Phi ngẫm nghĩ một lát rồi nói: “Con bé Phi nhà tôi trông thanh tú, xinh xắn nên có rất nhiều bạn nam theo đuổi, nhưng nó mới mười bảy tuổi, hơn nữa gia đình tôi lại giáo dục cháu rất nghiêm khắc nên phản đối chuyện yêu sớm. Chồng tôi đi làm ăn xa ở ngoại tỉnh nên thường ngày chỉ có hai mẹ con sống với nhau.”

    Tô My khơi gợi: “Cô nghĩ kĩ lại xem! Cô có phát hiện thấy chuyện gì bất thường không?”

    Mẹ Mạc Phi chợt vỗ đầu bảo: “Nói vậy khiến tôi nhớ ra một chuyện!”

    Buổi đêm trước hôm xảy ra vụ án một ngày, mẹ Mạc Phi biết điều hoà trong phòng cô bé luôn trong trạng thái mở, sợ con bị lạnh, bà liền trở dậy vào phòng con định tắt điều hoà. Bà chợt nghe thấy tiếng nói chuyện thì thào vọng ra từ phòng con gái, lắng tai nghe một hồi, ngỡ con gái nói mê, bà liền gõ cửa, rồi mở cửa bước vào. Khi bước vào phòng, bà mới phát hiện con gái vẫn chưa ngủ, cô bé đột ngột ngồi bật dậy, mặt mày tái mét, chân tay luống cuống. Bà hỏi con gái có phải vừa gặp ác mộng không? Cô bé không trả lời, toàn thân run lẩy bẩy. Bà ngờ ngợ đoán ra chắc con gặp phải chuyện gì đó rất đáng sợ nhưng không dám nói. Bà âm thầm quan sát khắp phòng, thấy cửa sổ mở toang. Cô con gái giơ ngón tay trỏ đặt lên môi ra hiệu im lặng. Bà vô cùng ngạc nhiên, nhưng không nói gì, bà thấy con gái từ từ bỏ tay khỏi môi rồi chỉ vào tấm chăn trước bụng mình. Cô bé ngồi trên giường, đắp chăn kín nửa thân dưới, tấm chăn phồng lên một cách đáng ngờ, không rõ dưới chăn có gì.

    Mẹ Mạc Phi định tiến lại gần, lật chăn ra, nhưng bất ngờ có một người từ trong chăn nhảy vọt ra, tung chăn trùm lên đầu mẹ Mạc Phi, rồi nhảy qua cửa sổ biến mất dạng. Đa số cửa sổ của các ngôi nhà trong thị trấn Ô Đường đều gần nước, mẹ Mạc Phi chỉ nghe “tõm!” một tiếng. Kẻ đó nhảy xuống nước, bơi đi mất.

    Lúc bấy giờ Mạc Phi mới oà lên khóc và ôm chặt lấy mẹ.

    Mạc Phi kể lúc đang ngủ say, cô bé chợt mơ hồ thấy cửa sổ phòng bị mở toang, cô lật người sang bên kia ngủ tiếp. Điều hoà trong phòng vẫn bật, Mạc Phi có thói quen bật điều hoà đắp chăn khi ngủ. Cô bé lơ mơ thấy trong chăn có thêm ai đó thì phải, kẻ đó nằm nghiêng ngay bên cạnh cô. Mạc Phi giật mình mở choàng mắt, cô bé thấy một đôi mắt đen như vực sâu cũng đang nhìn mình. Trong bóng tối, Mạc Phi không nhìn rõ khuôn mặt kẻ ấy, cô bé định hét lên nhưng kẻ đó đã nhanh tay bịt miệng cô lại, rồi gí tuốc nơ vít vào cô. Đúng lúc ấy mẹ Mạc Phi gõ cửa bước vào, cô bé giả vờ trấn tĩnh mặc dù dưới chăn, ngay phần thân dưới của cô bé có một tên côn đồ đang ẩn náu.

    Chuyện xảy ra một lúc lâu, hai mẹ con mới hoàn hồn, họ cho rằng trộm xông vào nhà. Nhưng vì chưa mất mát tài sản gì nên không báo cho cảnh sát. Ngay ngày hôm sau, mẹ Mạc Phi đã gọi người đến làm tấm lưới bảo vệ lắp ngoài cửa sổ, còn chặt hết cây mọc cạnh tường. Tổ chuyên án tiến hành phân tích manh mối mà mẹ Mạc Phi mới cung cấp. Mọi người nhất trí cho rằng đó chỉ là vụ đột nhập trộm cắp hoặc nhất thời nảy ra ý định đột nhập cưỡng hiếp, có lẽ không liên quan gì đến vụ án ba cô gái đồng loạt mất tích. Hung thủ mang theo tuốc nơ vít với mục đích ăn trộm chứ không phải vì muốn hành hung.

    Bao Triển điều tra rất kĩ lưỡng về lớp bồi dưỡng hội họa nọ. Lớp học này do một họa sĩ có chút tiếng tăm trong vùng mở ra, anh họa sĩ để tóc dài, trông đậm chất nghệ sĩ. Nghe họa sĩ tóc dài nọ kể thì lớp học này mới mở được một tuần kế từ dịp hè, học viên hầu hết đến từ các thành phố lân cận, cha mẹ Triệu Tiêm Tiêm đi công tác nước ngoài quanh năm nên một mình cô bé đến thành phố này ghi tên xin học vẽ, cô bé chơi khá thân với Mạc Phi, hai cô bé thường mặc trang phục giống nhau. Hôm hai cô bé mất tích, họ đều mặc một chiếc váy đỏ.

    Họa Long và nhân viên đội dân phòng không bắt thêm được con chuột dính máu nào, có điều họ vớt được một chiếc hũ ở dòng sông mà trước đó cảnh sát tìm thấy chiếc váy đỏ dính máu.

    Trong hũ đựng vật gì đó được bọc kín trong mấy lớp nilon, rồi dùng dây thép buộc chặt lại, chiếc hũ sành nặng trịch.

    Một anh dân phòng đoán già đoán non: “Chắc đây là vò rượu, nên có lẽ thứ bên trong là rượu.”

    Anh khác nói: “Bà ngoại tôi thường muối trứng vịt trong mấy chiếc hũ kiểu này, hay là trong đó là trứng vịt nhỉ?”

    Chiếc hũ được niêm phong rất chặt, khi đội chuyên án mở ra thì ai cũng bàng hoàng không thể tin nổi cảnh tượng đang diễn ra trước mắt. Anh dân phòng không nén được tò mò liền hỏi nhỏ Họa Long xem trong đó đựng gì. Họa Long chậm rãi đáp: “Người anh em! Trong này không phải rượu, cũng chẳng phải trứng vịt đâu!”

    Anh đân phòng lại càng hiếu kì hơn, hỏi dồn: “Thế rốt cuộc là gì?”

    Họa Long đáp: “Trong hũ có người!”

    Anh dân phòng tròn mắt kinh ngạc: “Không thể có chuyện đó! Chiếc hũ nhỏ thế kia, đừng nói một người mà chỉ riêng đầu người cũng không thể chui lọt.”

    Họa Long thừa nhận: “Lúc mở hũ ra chính mắt tôi đã nhìn thấy xương sọ. Còn việc làm sao nhét được hộp sọ vào trong hũ thì tổ chuyên án chúng tôi đang nghiên cứu.”

    Chương 2Hũ xương người
    Tổ chuyên án không thể lấy được hộp sọ ra khỏi chiếc hũ, cũng không thể hiểu nổi làm sao cho được xương sọ vào trong hũ. Họ giả định nhiều phương án, thậm chí còn nghĩ đến việc mang chiếc hũ đi chụp X-quang để tìm ra bí mật trong hũ.

    Họa Long vò đầu bứt tai nói: “Lạ thật! Xương sọ to hơn miệng hũ rất nhiều, làm sao nhét vào trong hũ được nhỉ?”

    Tô My cũng thắc mắc: “Đúng là ma quái thật! Ai có thể giải thích một cách khoa học cho tôi nghe không?”

    Bao Triển ghé mũi gần chiếc hũ hít hít mấy hơi, anh nhăn mặt nói: “Dấm! Trong hũ có mùi dấm!”

    Giáo sư Lương vỗ bồm bộp vào trán, rồi hưng phấn thốt lên: “Tôi hiểu rồi! Hắn đã dùng dấm để ngâm.”

    Trong thực nghiệm sinh vật, khi ngâm xương cứng vào trong dấm hoặc các dịch lỏng mang tính axit cao khoảng mười ngày thì xương sẽ trở nên mềm. Khi xương sọ mềm ra, đương nhiên chẳng khó khăn gì đút nó vào trong hũ.

    Tổ chuyên án chụp ảnh lại, sau đó cẩn thận lấy xương sọ trong hũ ra, không ngờ trong hũ là cả bộ xương người được xử lý mềm hóa bằng dấm.

    Tổ chuyên án gấp gáp đưa bộ xương về thành phố khám nghiệm ngay trong đêm. Đối chiếu với vết máu dính trên chiếc váy đỏ và kết quả xét nghiệm ADN thì thấy bộ xương đó là của nạn nhân Hoàn Ngọc. Không ngoài dự đoán của Họa Long, thức ăn trong dạ dày chuột chính là vật thể mang tổ chức đặc trưng của cơ thể người.

    Một cô gái đương độ tuổi đẹp như hoa bị chuột ăn, xương cốt vứt xuống sông phi tang. Thủ đoạn gây án của tên sát nhân hết sức tàn nhẫn và hiếm gặp. Vụ án này kinh động đến cả sở cảnh sát thành phố, lãnh đạo sở lập tức cử một nhóm chuyên gia đến thị trấn Ô Đường trợ giúp tổ chuyên án phá án.

    Tổ chuyên án phân tích và cho rằng có lẽ hung thủ từng chịu một cú sốc đặc biệt nên vô cùng thù hận những cô gái mặc váy đỏ, từ đó nảy sinh ý định ám hại chứ không nhất thiết y quen biết các cô gái này. Hung thủ bám đuôi các cô gái mặc váy đỏ, rồi dùng phươg pháp nào đó giết chết họ. Sát hại các cô gái mặc váy đỏ chính là thú vui của y, y là kẻ có nhân cách méo mó và tâm lí lệch lạc. Thời điểm gây án tuân theo quy luật nhất định, có khả năng y sẽ tiếp tục gây án.

    Con phố nơi ba cô bé mất tích trở thành khu vực giám sát trọng điểm, Tô My và dân phòng lắp camera giám sát con phố hai tư trên hai tư giờ.

    Chủ tịch thị trấn và các cảnh sát viên chỉnh lí lại danh sách những kẻ có tiền án tiền sự trong thị trấn, rồi liệt kê thành một hàng dài.

    Họa Long và Bao Triển mang ảnh chụp chiếc hũ sành đi hỏi thăm dân chúng quanh vùng. Loại hũ này rất phổ biến, giống như anh dân phòng nọ từng cho rằng đây là hũ rượu, chiếc hũ này thường được dân trong vùng dùng để muối trứng, muối dưa. Bao Triển và Họa Long đến lớp học vẽ của họa sĩ tóc dài, lúc ấy đang giờ phác họa cơ thể người. Trên bục giảng đặt chiếc hũ sành khiến mắt Bao Triển sáng rực, chiếc hũ đó giống hệt chiếc hũ mà tổ chuyên án vớt được dưới sông.

    Cạnh chiếc hũ còn đặt mấy quả táo, một người mẫu nam lõa thể ngồi bất động cạnh bàn, đó là người đàn ông trung niên. Điều khiến người ta cảm thấy đáng hổ thẹn là cái đó của gã trung niên đang trong trạng thái bị kích thích. Đa số nữ sinh trong lớp học vẽ đều rất xinh đẹp, người đàn ông trung niên đối diện với họ trong tình trạng không mảnh vải che thân nên dục vọng trong lòng tất nhiên dâng trào không có điểm dừng.

    Họa sĩ tóc dài đang đứng hướng dẫn cho một nữ sinh anh ta nhìn bức tranh, rồi nói: “Các đường nét phác họa cần mang tính gợi, bố cục giữa con người và tĩnh vật cần phân biệt bằng độ sáng tối của màu sắc, em cần quan sát tỉ mẩn tỉ lệ điều phối ánh sáng giữa hướng đón ánh sáng và hướng ngược sáng.”

    Họa Long bước vào lớp học, trông thấy người đàn ông trung niên không mặc quần áo, anh liền quát tháo ầm ĩ: “Ngừng! Ngừng lại ngay! Các người đang làm trò gì vậy hả?”

    Anh họa sĩ tóc dài rất phẫn nộ trước hành vi của Bao Triển và Họa Long tự tiện xông vào lớp học, hai bên đôi co kịch liệt.

    Họa Long nói: “Những học sinh này đều đang ở độ tuổi vị thành niên, thử hỏi dạy chúng vẽ phác họa cơ thể người vào lúc này có phù hợp không hả?”

    Họa sĩ tóc dài ngán ngẩm giải thích: “Phác họa cơ thể người là bộ môn nghệ thuật, đó là một kĩ thuật bắt buộc khi học vẽ, học phác họa cơ thể người sẽ giúp học sinh tìm tòi và hiểu ra quy luật tạo hình, bồi dưỡng thói quen chuyên nghiệp khi cầm bút vẽ. Đừng nên nhìn nó bằng con mắt dung tục.”

    Họa Long mất kiên nhẫn liền cắt ngang bài thuyết trình: “Hôm nay chúng tôi có vài vấn đề cần hỏi anh. Đề nghị anh tạm dừng buổi học!”

    Họa sĩ tóc dài đành bất lực tuyên bố tan lớp trước giờ quy định, học sinh thu xếp đồ nghề lục tục rời khỏi lớp. Gã đàn ông trung niên đứng làm mẫu nọ cũng chậm rãi mặc quần áo. Khi gã đi lướt qua vai Bao Triển, anh lập tức cảnh giác, tên này mắt la mày lém, mặt mũi toát lên vẻ keo kiệt bủn xỉn, ánh nhìn gian manh liếc ngang liếc dọc rồi dán vào một cô bé mặc váy đỏ đang đứng trước gã.

    Họa sĩ tóc dài nói anh ta mua chiếc hũ sành này ở phố huyện, gã người mẫu trung niên cũng do anh ta tự thuê. Bao Triển đánh mắt ra hiệu cho Họa Long, hai người không lãng phí thời gian với tay họa sĩ tóc dài nữa, lập tức rời khỏi lớp học, lặng lẽ bám theo gã người mẫu biến thái.

    Ông chú biến thái mặc trang phục công nhân lao động bình thường, bám theo cô bé cột tóc đuôi ngựa mặc váy đỏ đến góc phố tương đối hoang vắng rồi dừng lại. Ông chú biến thái về nhà, ăn cơm xong thì phố đã lên đèn, Họa Long và Bao Triển kiên nhẫn đứng đợi trong quán mì vằn thắn ven đường. Hơn tám giờ tối, ông chú biến thái vác ba lô vải buồm lên vai và rời khỏi nhà. Dân cư trong thị trấn có thói quen ngủ sớm nên lúc này đường phố chỉ còn thưa thớt vài bóng khách bộ hành, lác đác vài người khách du lịch ngồi tụ tập trong quán trà hoặc quán rượu.

    Gió đêm hiu hiu thổi, mưa lất phất bay, ông chú biến thái ngồi trên ghế đá ven đường hút vài điếu thuốc, một cô gái mặc váy đỏ đi lướt qua trước mặt gã liền dụi điếu thuốc, âm thầm bám theo. Cô gái mặc váy đỏ chính là cô ca sĩ hát trong quán trà từng phát hiện ra con chuột nhuốm máu, giờ đây cô ta đã tẩy trang, tóc dài ngang vai, trên người vận bộ quần áo cổ trang, nom vô cùng yểu điệu thướt tha, chẳng khác nào một trang tuyệt sắc giai nhân thời xưa.

    Mỹ nhân mặc váy đỏ rẽ sang con phố khác, đó chính là con phố nơi ba cô bé mất tích.

    Dọc con phố treo mấy chiếc đèn lồng lớn, hai bên chi chít những con hẻm nhỏ chạy sâu vào bên trong, kênh rạch chằng chịt, nước róc rách vang bên tai. Lúc này hơi thở của đêm đã phả vào từng ngóc ngách phố xá, trên đường tịch vắng bóng người, con phố chẳng khác nào một mê hồn trận này thực sự là địa điểm lý tưởng cho những tên yêu râu xanh mai phục.

    Người đẹp cổ trang điệu đà bước đi trên phố, ông chú biến thái nép sát vào tường đi theo sau. Họa Long và Bao Triển cũng nhẹ nhàng bám sát họ. Tô My và giáo sư Lương ngồi nhà cũng nhìn thấy cảnh tượng này nhờ giám sát camera. Ánh sáng tỏa ra từ đèn lồng mờ tỏ chỉ có thể chiếu tới một phạm vi hạn hẹp, ông chú biến thái lợi dụng góc tối để nấp mình. “Ê! Nhìn này!”

    Người đẹp mặc váy đỏ quay lại, thấy cảnh tượng diễn ra trước mắt, cô ta tái mặt: Ông chú biến thái đang đứng hiên ngang giữa đường, nở nụ cười dâm đãng, một giây sau miệng gã nhệch ra như kẻ khờ. Thực ra toàn bộ quá trình diễn ra rất nhanh, mỹ nhân váy đỏ kêu lên thất thanh, ông chú biến thái cười hì hì đầy vẻ ngốc nghếch. Họa Long lập tức lao tới túm tóc ông chú biến thái, quật gã ngã ngửa xuống đất, rồi nhanh chóng bập còng số tám vào cổ tay.

    Ông chú biến thái liền được nâng cấp thành kẻ tình nghi của ba vụ giết người. Mấy người dân phòng đấm gã như đấm bị để xả giận, nhưng người đàn ông trung niên nọ chỉ khai một vụ án gã từng phạm phải trước đây, đó là vụ đột nhập vào nhà dân vào ban đêm. Hôm ấy, gã nhìn thấy một cô bé rất xinh đẹp nên lẻn vào phòng và chui trong chăn nằm cạnh cô bé. Trước đây gã từng là thợ sửa điều hòa, thợ thổi thủy tinh trong xưởng gia công lọ thủy tinh, nhưng sau đó vì thần kinh có vấn đề nên bị chủ đuổi việc, giờ thành kẻ lang thang ai thuê thì chạy đến làm. Một hôm, gã đọc được tờ quảng cáo dán trên tường rằng họa sĩ muốn thuê người mẫu khỏa thân. Gã đàn ông mắc chứng biến thái này liền lập tức chạy đi ứng tuyển.

    Cảnh sát tạm giam gã vài ngày chờ tiến triển của kết quả điều tra.

    Trong quá trình thẩm vấn ông chú biến thái, gã cho biết bản thân không hề hay biết gì về vụ án ba cô bé mất tích, nhưng gã đã cung cấp cho cảnh sát một thông tin vô cùng có giá trị.

    Thị trấn Ô Đường có một nơi cỏ mọc rậm rạp, ở đó có ông lão mù thích kéo đàn nhị nhận nuôi rất nhiều mèo lang thang. Đứa cháu trai của ông lão năm nay mười sáu tuổi, cậu ta thường xuyên ra đê bắt chuột về cho mèo, rất nhiều người dân tốt bụng trong thị trấn bắt được chuột đều mang đến cho ông lão.

    Họa Long và Bao Triển liền dẫn theo mấy dân phòng lập tức xuất phát điều tra theo hướng manh mối mà gã biến thái vừa cung cấp.

    Thời tiết ở thị trấn Ô Đường rất lạ lùng, tuy mưa rắc hạt lất phất nhưng trên trời vẫn vắt vẻo vầng trăng sáng trong. Sân vườn nhà ông lão rất rộng nhưng không có cổng, ông đeo kính đen đang ngồi kéo đàn nhị ở giữa sân, từ ngoài cổng đã nghe thấy tiếng nhị réo rắt khúc “Nhị tuyền ánh nguyệt” đầy thê thiết và buồn thảm, đứa cháu của ông lão mù đậu con thuyền gỗ nhỏ ở bờ kênh ngay dưới bậc thềm. Cậu ta xách theo một chiếc lồng lớn, trong lồng lúc nhúc toàn là chuột.

    Cậu bé nom có vẻ cô độc và u uất nhưng thực tế rất gan lì, cậu ta dám thò tay vào lồng chuột, bắt từng con ném xuống đất, lũ mèo trong vườn hoang lập tức chạy túa ra, ào ào bủa vây con chuột đang tìm cách thoát thân.

    Bao Triển thẩm vấn ông lão và cậu bé cháu ông lão còn Họa Long phụ trách ghi bút lục. Các dân phòng khác lục soát khắp nhà nhưng không phát hiện thấy điểm gì khác thường.

    Bao Triển hỏi: “Ông ơi! Cháu muốn hỏi ông một chuyện, tám giờ tối ngày mùng một tháng bảy, đến tám giờ tối ngày mười lăm tháng bảy, ông đã làm gì?”

    Ông lão mù đáp: “Kéo đàn nhị! Tối nào lão cũng ở nhà kéo đàn nhị cả.”

    Bao Triển lại hỏi: “Ồ! Hàng xóm quanh đây chắc có thể làm chứng cho ông. Vậy cậu bé cháu ông cũng biết kéo nhị chứ?”

    Lão mù gật đầu: “Biết! Nhưng nó kéo nghe không vào tai lắm!”

    Bao Triển quay sang hỏi đứa cháu của ông lão: “Buổi tối hai hôm trước, cậu làm gì?”

    Cậu bé có nét mặt đượm vẻ u uất và cô đơn đáp: “Tôi bắt chuột ở bờ sông để nuôi mèo.”

    Bao Triển hỏi: “Ở đâu ra lắm mèo thế?”

    Cậu bé đáp: “Mèo lang thang, mèo chẳng ai cần, mèo người ta vứt đi, mèo tàn phế, có cả mèo người ta mang đến tặng nữa.”

    Chiếc lồng trong tay cậu bé thu hút sự chú ý của Bao Triển, anh hỏi: “Cậu tự làm chiếc lồng này à?”

    Cậu bé đáp: “Đây là lồng của nhà bác sĩ thú y kế bên!”

    Họa Long và Bao Triển nghe thấy vài tiếng rên rỉ đau đớn vọng đến từ nhà bác sĩ thú y láng giềng ở phía kia bờ tường, hai người lập tức chạy sang. Họ thấy trong sân nhà bác sĩ thú y có mấy người đang đứng túm tụm xem con lợn vừa béo vừa to nằm trên mặt đất, xem ra họ đến đây nhờ bác sĩ chữa bệnh cho lợn. Một vài chiếc lồng nằm lăn lóc ngay sát vách tường, to có, nhỏ có. Đầu tiên bác sĩ thú y nọ nhốt con lợn vào trong lồng, rồi tiến hành tiêm thuốc tê, sau đó rút máu chẩn trị. Anh ta cầm ống tiêm với chiếc kim to cắm vào cổ con lợn, có lẽ quá trình rút máu không được thuận lợi nên anh ta trực tiếp ghé miệng vào cổ con lợn. Điều lạ lùng là anh ta không hề nhổ ngụm máu đó ra ngoài mà nuốt luôn vào bụng. Mọi người kêu lên kinh ngạc, đúng lúc ấy Họa Long và Bao Triển ập vào.

    Bác sĩ thú y vừa uống tiết lợn, ngẩng đầu lên, liếm môi nói: “Nhìn các anh tái mặt kìa! Tiết lợn bổ lắm!”

    Họa Long giải tán hết đám người không liên quan, Bao Triển hỏi bác sĩ thú y: “Ngoài tiết lợn ra, anh còn thích uống tiết của những loài nào nữa?”

    Bác sĩ thú y đáp: “Nhiều lắm! Tôi từng uống cả tiết rắn, tiết bồ câu, tiết chó…”

    Bao Triển lại dò hỏi tiếp: “Tiết màu đỏ. Anh có vẻ thích màu đỏ nhỉ?”

    Bác sĩ thú y thản nhiên trả lời: “Màu đỏ à? Thích chứ! Rất thích là đằng khác!”

    Tổ chuyên án yêu cầu đội dân phòng bí mật giám sát nhà lão mù và tay bác sĩ thú y nọ. Đội dân phòng liền mượn một căn gác đối diện giám sát họ hai tư trên hai tư giờ. Họa Long và Bao Triển tiến hành điều tra trên diện rộng nhằm tìm những điểm đáng nghi xung quanh vị bác sĩ thú y và ông lão khiếm thị. Cùng lúc ấy, giáo sư Lương lại rẽ sang hướng điều tra khác, ông phát hiện một manh mối vô cùng quan trọng đến từ nước ngoài.

    Giáo sư Lương bảo Tô My nối liên lạc với cha mẹ của Triệu Tiêm Tiêm ở ngoại quốc, sau mấy cú điện thoại lòng vòng, cuối cùng cũng gọi được cuộc điện thoại đường dài với cha Tiêm Tiêm.

    Giáo sư Lương mở lời trước: “Xin lỗi vì đã làm phiền anh! Tuy biết anh chị ở nước ngoài nhưng chúng tôi vẫn không dám làm qua quýt công đoạn nhận diện vật chứng trong vụ con gái anh mất tích.”

    Cha Tiêm Tiêm liền hỏi: “Tôi phải nhận diện như thế nào?”

    Giáo sư Lương nói: “Khi mất tích, con gái anh mặc chiếc váy màu đỏ đúng không? Anh còn nhớ chiếc váy đó có kiểu dáng như thế nào không?”

    Cha Tiêm Tiêm ngẫm nghĩ một lát rồi đáp: “Đúng là lúc mất tích, con bé mặc chiếc váy màu đỏ, nhưng thời gian quá lâu rồi nên tôi không nhớ rõ nữa!”

    Giáo sư Lương ngạc nhiên hỏi lại: “Thời gian quá lâu rồi ư? Con gái anh mất tích ở đâu?”

    Cha Tiêm Tiêm nói: “Ở thị trấn Ô Đường! Khi con bé đi học vẽ tại đó thì đột nhiên mất tích. Chuyện này khiến chúng tôi đau lòng suốt thời gian dài.”

    Giáo sư Lương càng kinh ngạc hơn, liền hỏi tiếp: “Đau lòng suốt thời gian quá? Vậy cháu mất tích khi nào?”

    Cha Tiêm Tiêm nói một câu khiến người nghe tròn mắt kinh ngạc, rồi liền sau đó một luồng khí lạnh chạy đọc theo sống lưng giáo sư Lương.

    Ông ta bảo: “Con gái tôi đã mất tích ba năm rồi!”

    Chương 3Kẻ thích mặc dị hợm
    Giáo sư Lương lập tức triệu tập cuộc họp khẩn cấp yêu cầu tất cả cảnh sát, dân phòng trong thị trấn đều phải có mặt đầy đủ. Giáo sư Lương nói: “Hiện trường vụ án chắc chắn xảy ra trong thị trấn chúng ta. Phán đoán này không có gì đáng phải nghi ngờ. Thị trấn Ô Đường không lớn lắm nên việc phá án chỉ là vấn đề sớm muộn mà thôi. Công việc tiếp theo tương đối vất vả, đầu tiên chủ tịch thị trấn cần thông báo với toàn thể dân chúng rằng trong thời gian tới mọi người không được phép mặc những trang phục có màu đỏ tuy chúng ta làm vậy thì chẳng khác nào rút dây động rừng, khiến hung thủ càng đề cao tinh thần cảnh giác nhưng chúng ta là cảnh sát, ngoài nhiệm vụ phải phá án ra thì việc chúng ta cần làm hơn cả là cố gắng để tránh xảy ra những vụ thảm sát tương tự thêm lần nữa.”

    Bao Triển tiếp lời: “Vụ án này tồn tại rất nhiều điểm nghi vấn, đợi khám xét toàn diện xong xuôi, chúng tôi sẽ đi sâu điều tra.”

    Giáo sư Lương gật đầu rồi bảo: “Tổ chuyên án chúng tôi đã chỉnh lí mười điểm đáng ngờ, chỉ cần giải quyết được mười nghi vấn đó thì chân tướng sự việc tức khắc lộ rõ.”

    Họa Long lên tiếng: “Xin các đồng chí tuyệt đối giữ bí mật, nếu ai dám tiết lộ nội tình vụ án thì chúng tôi sẽ bắt giữ kẻ đó trước tiên.”

    Tô My chốt lại: “Hung thu rốt cuộc là ai sẽ sớm lộ diện ngay thôi, chiến sĩ nào tóm được hung thủ sẽ được cấp trên trao huân chương biểu dương và giải thưởng.”

    Tổ chuyên án đã nêu ra mười điểm nghi vấn của vụ án như sau:

    Trong ba cô bé bị mất tích, hiện giờ mới chỉ xác định Hoàn Ngọc đã bị hại, vậy hai cô bé còn lại hiện giờ còn sống hay đã chết?Ba chiếc váy đỏ phát hiện trên sông đều có vết máu, ngoại trừ váy của Hoàn Ngọc ra, thì vết máu dính trên hai chiếc váy còn lại có trùng khớp với nhóm máu của Mạc Phi và Triệu Tiêm Tiêm hay không?Vụ án Triệu Tiêm Tiêm bị mất tích ba năm về trước được chứng thực vì tổ chuyên án đã tìm thấy bút lục ghi chép lại vụ án trong tập hồ sơ lưu trữ của cảnh sát địa phương, vụ án kì lạ này đến giờ vẫn còn là dấu hỏi chấm. Vậy Triệu Tiêm Tiêm xuất hiện ở thời điểm hiện tại liệu có phải do kẻ khác mạo danh hay đó chính là Triệu Tiêm Tiêm thực sự sau ba năm mất tích đã trở về nơi cũ?Mạc Phi và Triệu Tiêm Tiêm mất tích cùng một thời điểm, nếu hung thủ là một người thì y đã khống chế hai cô bé đang đi trên phố bằng cách nào?Hoàn Ngọc bị chuột gặm, muốn gặm hết một người thì cần rất nhiều chuột. Vậy chuột ở đâu ra mà nhiều đến thế?Hiện trường vụ án đầu tiên xảy ra ở đâu?Những kẻ tình nghi đã xuất hiện cho đến thời điểm hiện tại gồm có họa sĩ tóc dài, bác sĩ thú y, gã trung niên biến thái, ông lão mù và đứa cháu trai, nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số kẻ tình nghi tiềm tàng cần phải điều tra thêm như cha dượng của Hoàn Ngọc, cha mẹ của Triệu Tiêm Tiêm, liệu kẻ tình nghi nào hàm chứa khả năng giết người lớn nhất?Có thể hung thủ đã dùng một số loại dược phẩm, cũng có khả năng còn dùng cả lồng hoặc thùng gì đó. Vậy hung thủ dùng cách nào để khống chế người bị hại?Triệu Tiêm Tiêm sống ở đâu? Ba năm trước, cô bé đến thị trấn học vẽ, cô bé đã sống ở đâu? Còn Triệu Tiêm Tiêm của thời điểm hiện tại sống ở đâu?
    l0. Hung thủ nén xương cốt của Hoàn Ngọc vào trong hũ sành. Vậy đối với hung thủ chiếc hũ đó có ý nghĩa đặc biệt gì.

    Sau khi giải thích rõ ràng từng điểm nghi vấn, giáo sư Lương bắt đầu phân công nhiệm vụ. Chủ tịch thị trấn và các dân phòng lập tức bắt tay hành động.

    Chủ tịch thị trấn dẫn người đi tìm hiện trường vụ án thứ nhất. Thị trấn chỉ có bấy nhiêu dân cư, nên hiện trường vụ án chỉ có thể ẩn giấu trong một những ngôi nhà nằm trong thị trấn này. Giáo sư Lương đặc biệt dặn dò chủ tịch thị trấn rằng công tác khám xét cần làm hết sức cẩn trọng, không được bỏ sót một hộ nào, không được bỏ sót một người nào, trọng điểm điều tra là các nơi kín đáo như căn gác, tầng hầm, các hầm chứa, dưới nắp cống… Chủ tịch thị trấn xin được lệnh lục soát liền lập tức đến nhà bác sĩ thú y và lão mù lục soát theo hình thức cuốn chiếu.

    Trong sân nhà bác sĩ thú y chôn rất nhiều xương cốt động vật, bác sĩ thú y giải thích những con vật này chết do bệnh, nếu vứt ra ngoài rất có thể bệnh dịch sẽ lây lan và gây ô nhiễm môi trường, nên anh ta đành chôn sâu xác động vật ngay dưới gốc cây trong vườn nhà mình.

    Nhà lão mù nghèo rớt mùng tơi, ông lão chỉ sống nhờ vào khoản trợ cấp xã hội ít ỏi của chính phủ, đứa cháu trai đã phải nghỉ học từ lâu, thường ngày nó đi làm thuê cho một xưởng gốm trên thị trấn, nó phụ trách công việc đào bùn ở ven sông rồi mang đến xưởng chế ra thành các đồ gốm mĩ nghệ. Cửa hàng bán đồ gốm nằm cùng một tuyến phố với lớp học vẽ, đồng thời cách cửa hàng thêu Chữ Thập không bao xa. Mặc dù cuộc sống khó khăn nhưng hai ông cháu vẫn nhận nuôi rất nhiều mèo lang thang từ nhiều năm nay. Trước hôm Triệu Tiêm Tiêm mất tích mấy ngày cô bé cùng Mạc Phi từng mang một chú mèo nhỏ bị thương đến nhà lão mù.

    Giở sổ hộ khẩu nhà lão mù, chủ tịch thị trấn phát hiện năm nay đứa cháu của lão mù đã hai mươi tuổi, có lẽ vì nhiều năm thiếu ăn khiến cậu bé trông ốm o, còm nhom như trẻ vị thành niên.

    Chủ tịch thị trấn và dân phòng sang những hộ xung quanh dò hỏi, trong số đó có một người hàng xóm ấp úng muốn nói gì đó lại thôi.

    Chủ tịch thị trấn dọa: “Vụ án này rất nghiêm trọng, trung ương đã cử người xuống điều tra, nếu anh biết manh mối nào của vụ án mà không thành thật khai báo thì khắc biết hậu quả.”

    Anh hàng xóm nọ hơi khiếp, liền kể một chuyện. Vào tối hôm Mạc Phi và Triệu Tiêm Tiêm mất tích, anh ta nghe thấy ông lão mù liên tục kéo nhị, ông kéo một ca khúc mà anh ta chưa nghe thấy bao giờ, khi ông lão kéo đến nửa chừng thì anh hàng xóm nghe thấy một tiếng thét thảm thiết, ông lão ngừng kéo một lát, rồi sau đó tiếng nhị lại réo rắt cất lên. Anh ta không thể phân biệt được tiếng kêu đó phát ra từ nhà bác sĩ thú y hay từ nhà lão mù.

    Chủ tịch thị trấn liền báo cáo manh mối mới tìm được cho tổ chuyên án, tổ chuyên án nghiên cứu và quyết định cho điều tra toàn diện đối với hai đối tượng là lão mù và bác sĩ thú y, ngay cả người thân của họ cũng phải điều tra kĩ lưỡng.

    Tổ chuyên án đã tìm ra nơi ở của Triệu Tiêm Tiêm trong tập hồ sơ lữu trữ ba năm trước, trong hồ sơ còn ghi rõ khi ấy Triệu Tiêm Tiêm còn làm tiểu phẫu vá màng trinh, đối chiếu nhóm máu ghi trong hồ sơ và nhóm máu từng thấy trên chiếc váy vớt ở ven sông thấy hoàn toàn trùng khớp, điều này khiến tổ chuyên án nghiêng về nhận định Triệu Tiêm Tiêm từng mất tích ba năm trước đã quay trở lại thị trấn Ô Đường, trở lại lớp học vẽ mà trước đây cô bé từng theo học.

    Có điều tổ chuyên án không thể giải thích nổi vì sao cô bé lại làm vậy.

    Hồ sơ còn ghi rằng ba năm trước Triệu Tiêm Tiêm sống trong căn gác nhỏ ở phía sau vườn gần lớp học vẽ. Đó là căn gác có chiếc giường lớn mang hơi hướm cổ xưa, có cả ô cửa sổ bằng gỗ, vườn phía dưới căn gác là nơi bọn trẻ học vẽ, học hát. Điều trùng hợp là tay họa sĩ tóc dài nọ hiện giờ lại đang ở trong chính căn gác mà Triệu Tiêm Tiêm từng ở khi xưa.

    Họa sĩ tóc dài là kẻ ưa cuộc sống ẩn dật, ngoài vẽ tranh ra, anh ta chẳng có bất kì sở thích nào khác, những ngày không phải lên lớp, anh ta ngồi lì cả ngày trong phòng, đóng cửa tự nhốt mình, chẳng ai hay biết anh ta làm gì trong đó cả.

    Bao Triển và Họa Long đột kích căn gác tiến hành kiểm tra lục soát, đa số đồ đạc trong phòng đều là đồ gỗ cũ kĩ, ngay cả vách tường cũng làm bằng gỗ, căn phòng mờ tối, góc tường chăng đầy mạng nhện. Họa Long phát hiện một ổ chuột phía sau tủ quần áo, rất nhiều trang phục biểu diễn bị cắn nát nằm trong góc tủ. Bao Triển còn phát hiện một dòng chữ được khắc trên vách gỗ. Rõ ràng người nào đó đã dùng vật sắc nhọn khắc nó lên tấm vách làm bằng gỗ.

    Lần này em rời xa tôi là sẽ khiến em không bao giờ rời xa tôi thêm nữa!

    Bao Triển chụp ảnh làm tang vật, cười lạnh lùng hỏi: “Ai viết dòng chữ này?”

    Tay họa sĩ cũng trả lời lạnh tanh: “Sao tôi biết được?”

    Bao Triển liền hỏi dồn: “Học sinh của anh có thích anh không? Có yêu thầm anh không? Anh có thích học sinh của mình không?”

    Họa sĩ tóc dài đáp: “Nhiều cô bé thích tôi, sùng bái tôi, có điều chưa bao giờ tôi để xảy ra mối quan hệ tình cảm nam nữ giữa thầy với trò.”

    Bao Triển lại hỏi: “Cô bé Triệu Tiêm Tiêm học sinh của anh sống ở đâu?”

    Họa sĩ tóc dài đáp: “Kí túc xá của học sinh ở gác dưới, Triệu Tiêm Tiêm cũng ở dưới đó.”

    Bao Triển đính chính: “Ý tôi muốn hỏi cô bé Triệu Tiêm Tiêm từng đến đây học ba năm về trước cơ! Anh có biết không?”

    Họa sĩ tóc dài chối: “Làm sao tôi biết chuyện xảy ra ba năm về trước. Lẽ nào có đến hai Triệu Tiêm Tiêm sao? Năm ngoái tôi mới đến thị trấn này.”

    Bao Triển phủ định bằng giọng chắc nịch: “Anh nói dối!”

    Họa sĩ tóc dài đành thú thật: “Thôi được! Ba năm trước tôi đã ở đây rồi nhưng khi ấy tôi không sống ở đây mà ở chung phòng cùng một người khác.”

    Bao Triển lập tức hỏi: “Anh sống với ai?”

    Họa sĩ tóc dài thở dài đáp: “Với một ca sĩ!”

    Họa sĩ tóc dài không hề có ấn tượng gì với cô bé Triệu Tiêm Tiêm của ba năm về trước, để phủi sạch tội tình nghi của mình, anh ta thú nhận một chuyện hết sức riêng tư của mình. Ba năm trước anh ta sống thử với một người, đó chính là cô ca sĩ hát trong quán trà mà lần trước từng bị ông chú biến thái quấy rối tình dục ngay trên phố. Điều mà mọi người đều không hay biết là thực ra “cô” ca sĩ đó là đàn ông, anh luôn cải trang thành nữ giới và sống trong thị trấn nhỏ này. “Cô” ca sĩ và họa sĩ tóc dài sống chung với nhau suốt ba năm, cuối cùng anh họa sĩ tóc dài muốn kết thúc mối quan hệ yêu đương chẳng lấy gì làm đẹp đẽ này nên giờ đây hai người họ đường ai nấy đi.

    Bao Triển trầm ngâm suy nghĩ về dòng chữ khắc trên vách gỗ, sau đó thông qua việc kiểm định chữ viết, anh được biết dòng chữ đó do chính Triệu Tiêm Tiêm viết trước khi cô bé mất tích mấy ngày. Những bức tranh do Triệu Tiêm Tiêm vẽ cũng thu hút sự chú ý của tổ chuyên án, ngoại trừ những bức vẽ phong cảnh và tĩnh vật ra thì cô bé chỉ vẽ hai người, một là bản thân, cô bé ôm chiếc hũ sành đứng bên bờ sông, người còn lại chính là họa sĩ tóc dài, có những bức tranh vẽ anh đang hút thuốc, có cả những bức phác họa anh ta cúi đầu trầm ngâm suy tư.

    Trong những bức tranh vẽ phong cảnh và tĩnh vật của Triệu Tiêm Tiêm có một số bức vẽ phác thảo, có một số lại vẽ kí họa vài công trình kiến trúc trong thị trấn bao gồm cả nhà lão mù và vườn nhà bác sĩ thú y.

    Tổ chuyên án triệu tập “cô” ca sĩ đến văn phòng Giáo sư Lương và Tô My đích thân thẩm vấn.

    “Cô” ca sĩ mặc quần áo phụ nữ, để lộ bờ vai gầy mảnh, trên người còn phảng phất mùi nước hoa thanh mát, cô ta bôi son, bờ môi đỏ thắm, hàm răng trắng bóng, bất kể nhìn ngoại hình hay nghe giọng nói thì đều thấy cô ta chẳng khác nào một phụ nữ thứ thiệt.

    Tô My lên tiếng hỏi trước: “Xin hỏi mạo muội một chút chúng tôi nên coi cô là nam hay nữ?”

    “Cô” ca sĩ đáp tỉnh queo: “Nữ!”

    Giáo sư Lương nói: “Chúng tôi đã tiến hành điều tra và biết chứng minh thư mà cô đang sử dụng là giấy tờ giả. Chúng tôi cũng đã tìm hiểu lai lịch trong quá khứ của cô.”

    “Cô” ca sĩ nói: “Ồ! Tôi cho rằng đó là quyền tự do cá nhân.”

    Tô My hỏi: “Cô thích làm phụ nữ sao? Tôi chú ý thấy cô có yết hầu.”

    “Cô” ca sĩ thản nhiên trả lời: “Tôi chính là phụ nữ! Trong lòng tôi luôn nghĩ mình là phụ nữ.”

    Giáo sư Lương không nén được tò mò hỏi: “Thế bình thường cô đi nhà vệ sinh dành cho nam hay nhà vệ sinh dành cho nữ?”

    “Cô” ca sĩ đáp chỏng lỏn: “Nhà vệ sinh nữ!”

    Giáo sư Lương nói: “Làm vậy là vi phạm đạo đức. Tuy bề ngoài nhìn cô có vẻ rất giống phụ nữ, hơn nữa lại khá xinh đẹp nhưng đặc trưng sinh lí của cô vẫn là nam giới.”

    “Cô” ca sĩ không lấy làm bực tức, chỉ nói: “Tôi chưa hề làm tổn thương bất kì ai, ngoại trừ bản thân.”

    Giáo sư Lương hỏi tiếp: “Cô rất yêu anh họa sĩ đó có phải không?”

    “Cô” ca sĩ quả quyết: “Đúng vậy! Tôi sẵn sàng giết người vì anh ấy.”

    Tô My hỏi: “Khoảng tám giờ tối ngày mùng một tháng bảy và cả ngày mười lăm tháng bảy, anh ở đâu?”

    Cô ca sĩ đáp: “Tôi hát trong quán trà.”

    Giáo sư Lương hỏi: “Cô quen Triệu Tiêm Tiêm không? Ý tôi là cả Triệu Tiêm Tiêm mất tích ba năm trước và Triệu Tiêm Tiêm mới mất tích mấy hôm trước.”

    Cô ca sĩ đáp: “Có quen! Ba năm trước, cô ấy theo tôi học diễn kịch. Tôi rất thích diễn kịch. Có cần tôi hát một đoạn cho ông nghe không?”

    Giáo sư Lương gật đầu: “Được thôi! Nếu cô có nhã hứng.”

    Cô ca sĩ bắt đầu ngây dại nhìn ra ngoài ô cửa sổ phòng thẩm vấn và cất cao tiếng hát, giọng hát thánh thót mượt mà và uyển chuyển.

    Ra hoa đã nở muôn hồng nghìn tía, diễm lệ nhường kia, kiều mị nhường kia mà mọc ngay nơi giếng đổ tường nghiêng. Cao xanh hỡi! Buổi sớm trong lành thế? Phong cảnh hữu tình thế! Ta biết phải làm sao? Chẳng rõ chốn tiên bồng tiêu hoang này là vườn nhà ai?

    Sau khi buổi thẩm vấn kết thúc, giáo sư Lương liền triệu tập tất cả thành viên của tổ chuyên án vào văn phòng, ông nói: “Tôi đã biết hung thủ là ai!”

    Chương 4Thùng sắt
    Chủ tịch thị trấn vội vàng chạy tới cho kịp cuộc họp, mọi người đều đợi giáo sư Lương đưa ra đáp án của câu đố kì bí này.

    Nhưng giáo sư Lương lại cố tình vong vo, tung hỏa mù cho mọi người rối loạn: “Có một số vụ án người ta không chỉ suy đoán xem nào nhiều khả năng là hung thủ nhất mà đôi khi ngược lại người ta lại suy đoán kẻ nào ít bị tình nghi giết người nhất.”

    Bao Triển gật đầu nói: “Theo tôi, trong vụ án này kẻ tình nghi ít khả năng giết người nhất chính là ba cô gái bị mất tích.”

    Chủ tịch thị trấn nói: “Ba cô bé đó đều chết cả rồi! Ba chiếc váy đỏ vớt dưới sông đều vấy máu.”

    Giáo sư Lương lập tức bác bỏ: “Hiện tại chỉ xác định được Hoàn Ngọc đã gặp nạn và tử vong, còn hai cô bé kia mới chỉ mất tích, chưa tìm thấy bóng dáng, cũng không phát hiện thấy tử thi, váy dính vết máu không hề biểu thị họ đã chết.”

    Họa Long nói: “Lẽ nào Mạc Phi và Triệu Tiêm Tiêm vẫn còn sống và họ là hung thủ, hoặc chí ít một trong hai số họ là hung thủ chăng?”

    Chủ tịch thị trấn ra sức lắc đầu vẻ không thể nào tin nổi: “Làm gì có chuyện đó! Họ đều là nạn nhân, nạn nhân sao có thể trở thành hung thủ được?”

    Giáo sư Luơng nói: “Thực ra trong vụ án này có đến bốn Triệu Tiêm Tiêm.”

    Lời giáo sư Lương vừa thốt ra khiến mọi người bàng hoàng, ông bắt đầu giải thích rõ mọi suy đoán và phân tích của mình. Triệu Tiêm Tiêm vốn biến mất từ ba năm trước, đến giờ tung tích bất minh, điều đó chứng tỏ hai khả năng, một là cô bé đã chết, hai là cô bé vẫn còn sống. Nếu cô bé đã chết thì Triệu Tiêm Tiêm xuất hiện ở thị trấn Ô Đường sau ba năm chắc chắn không phải cô bé mà chỉ là kẻ mạo danh. Vậy ai đã mạo danh Triệu Tiêm Tiêm? Có hai khả năng: kẻ đó là nam hoặc kẻ đó là nữ.

    Cô ca sĩ vốn là đàn ông cải trang thành đàn bà kia khiến người ta tin chắc rằng một người đàn ông hoàn toàn có thể đóng giả đàn bà, bịt mắt tất cả mọi người và lừa họ một cách ngoạn mục.

    Bốn Triệu Tiêm Tiêm lần lượt là: Triệu Tiêm Tiêm đã mất tích ba năm về trước, Triệu Tiêm Tiêm trở lại lớp học vẽ ở thị trấn Ô Đường sau ba năm mất tích để rồi lại mất tích một lần nữa, Triệu Tiêm Tiêm do một người nữ đóng giả và Triệu Tiêm Tiêm do một người nam đóng giả.

    Giáo sư Lương xác định lại phương hướng phá án. Họa Long và chủ tịch thị trấn tiếp tục tìm kiếm hiện trường vụ hung án đầu tiên, các thành viên khác của tổ chuyên án cũng đã tìm ra lai lịch thực sự của Triệu Tiêm Tiêm. Đó chính là trọng điểm của quá trình phá án.

    Tô My liên lạc với công an hộ tịch trên sở để tìm kiếm thông tin về hộ khẩu của Triệu Tiêm Tiêm. Luật hộ tịch quy định, nếu một người mất tích từ hai năm trở lên thì gia quyến có thể trình báo với cơ quan chức năng rằng người đó đã mất tích hoặc chết, nhưng kì lạ thay khi giở sổ hộ khẩu, Tô My phát hiện tên của Triệu Tiêm Tiêm vẫn chưa bị gạch đi. Mọi hiện tượng cho thấy Triệu Tiêm Tiêm vẫn còn sống. Tô My tiếp tục tiến hành tìm kiếm từ xa học bạ của Triệu Tiêm Tiêm. Theo phản ánh của phía nhà trường thì ngoài Triệu Tiêm Tiêm vẫn còn xuất hiện trong sân trường cấp ba, nơi cô bé từng theo học. Một thầy giáo quen mặt Triệu Tiêm Tiêm đã nhìn thấy cô bé trở về trường cũ, ngồi một mình trên ghế xích đu trong sân thể dục suốt hồi lâu.

    Thầy giáo đó chính là thầy chủ nhiệm năm lớp mười hai của Triệu Tiêm Tiêm. Ông kể với tổ chuyên án qua điện thoại: “Thời đi học, Triệu Tiêm Tiêm là học sinh ưu tú kể cả về đạo đức và học lực, cô bé rất đa tài, điểm thi luôn đứng trong TOP đầu. Trong kì nghỉ hè trước khi thi đại học, cô bé đến thị trấn Ô Đường học vẽ, rồi mất tích từ đó. Cha mẹ cô bé đau đớn đến chết đi sống lại, phía cảnh sát và gia đình tìm kiếm khắp nơi nhưng không có kết quả, sau đó cha mẹ cô bé đành ra nước ngoài sinh sống để quên đau buồn, họ cũng không ôm hi vọng con mình sống sót nữa. Nhưng điều kì lạ là sau hai năm mất tích, thầy chủ nhiệm lại đột nhiên thấy Triệu Tiêm Tiêm xuất hiện lần nữa trong sân thể dục của nhà trường, thầy chủ nhiệm vội bước đến gần hỏi chuyện, nhưng Triệu Tiêm Tiêm cứ lẳng lặng ngồi xích đu ngây dại nhìn khoảng không trước mắt không đếm xỉa gì đến thầy chủ nhiệm, sau đó cô bé bỏ đi.

    Giáo sư Lương hỏi: “Thầy có nhớ hôm đó cô bé mặc quần áo như thế nào không?”

    Thầy chủ nhiệm đáp: “Hôm ấy cô bé mặc váy đỏ. Tôi còn nhớ rất rõ Tiêm Tiêm thích mặc váy đỏ.”

    Giáo sư Lương lại hỏi: “Sao thầy biết cô bé mặc váy đỏ ấy chính là Triệu Tiêm Tiêm? Thầy có chắc chắn không? Biết đâu chỉ là hai người nhìn hao hao giống nhau?”

    Thầy chủ nhiệm khẳng định: “Quần áo giống hệt nhau, kiểu tóc giống hệt nhau, ngay cả nốt ruồi đón lệ ở khóe mắt cũng y chang, vì thế dù hai năm không gặp nhưng tôi chắc chắn người mình gặp ở sân thể dục chính là em ấy.”

    Giáo sư Lương quay sang, nói với Bao Triển: “Rất có thể kẻ thần bí đó bắt đầu đóng giả Triệu Tiêm Tiêm từ một năm trước. Thật đáng sợ!”

    Bao Triển hỏi: “Thầy có nhớ khi còn học trong trường Triệu Tiêm Tiêm từng yêu ai không? Cô bé có nhiều bạn nam quý mến không?”

    Thầy chủ nhiệm đáp: “Nhiều lắm! Em ấy luôn là người nhận được nhiều thư tình và thiệp chúc mừng nhất lớp. Tôi nhớ vào hôm Giáng Sinh một năm nào đó, thư tình và thiệp chúc mừng trên bàn Tiêm Tiêm chất cao như núi, nhưng cũng giống như đa số học sinh cấp ba, Tiêm Tiêm phải đối mặt với kì thi tốt nghiệp đầy cam go, nên em ấy luôn đặt việc học lên hàng đầu. Tôi chưa từng nghe nói em ấy yêu ai.”

    Bao Triển lại hỏi: “Trong số những nam sinh thích Tiêm Tiêm, thầy có để ý thấy ai biểu hiện kì quặc không?”

    Thầy chủ nhiệm gắng nhớ lại, lát sau bật thốt lên: “Nhớ ra rồi! Có một em tên là Mã Lưu, cậu ta ngồi cùng bàn với Tiêm Tiêm. Toàn thể giáo viên và học sinh trong trường đều biết Mã Lưu thầm yêu Tiêm Tiêm. Có năm, nhân dịp Giáng sinh, trong khi các bạn nam khác đều tặng thiệp chúc mừng thì Lưu tặng Tiêm Tiêm một hộp giấy to. Sau khi mở ra thì mấy con chuột trong hộp lúc nhúc bò ra làm Tiêm Tiêm khiếp đảm hét lên thất thanh. Bình thường em ấy rất sợ chuột mà! Một lần khác Mã Lưu lại tặng Tiêm Tiêm một chiếc lọ nhỏ. Cậu ta nói trong bình đựng nước mắt của chính mình. Tiêm Tiêm cảm thấy ghê tởm nên lỡ tay đánh rơi chiếc lọ. Mã Lưu rất tức giận liền nhặt mảnh vỡ cứa lòng bàn tay của Tiêm Tiêm làm chảy máu, sau đó tự cứa lòng bàn tay mình. Cậu ta ép Tiêm Tiêm phải áp lòng bàn tay của cô bé vào lòng bàn tay của cậu ta để máu của hai người hòa vào nhau. Sau vụ này, nhà trường đuổi học Mã Lưu. Sau đó tôi mới đến lớp Tiêm Tiêm làm chủ nhiệm, bởi vậy tôi không biết mặt Mã Lưu, ngay cả chuyện này cũng chỉ nghe mọi người kể lại.”

    Cậu học sinh biến thái Mã Lưu đã lộ diện, những hành vi kì quặc của cậu ta khá trùng hợp với các nét tính cách của hung thủ trong vụ án. Tổ chuyên án quyết định chia hai hướng điều tra. Bao Triển và Tô My điều tra hộ tịch để tìm ra tung tích của Mã Lưu. Giáo sư Lương và Họa Long vẫn tìm hiện trường vụ giết người đầu tiên ở thị trấn Ô Đường.

    Lực lượng cảnh sát của thị trấn có hạn, Họa Long và đội dân phòng chia nhau đi tìm, mỗi người phụ trách một khu vực, họ gõ cửa từng nhà và tiến hành lục soát.

    Phạm vi khu vực Họa Long phụ trách lại chính là khu vực nhà lão mù và bác sĩ thú y. Cảnh sát từng lục soát hai hộ này rất nhiêu lần nhưng không phát hiện thấy điều gì bất thường. Họa Long không nản lòng, anh quyết tâm kiểm tra lại lần nữa, ông lão mù vẫn ngồi trong vườn, đàn mèo vẫn nô đùa trong bụi cỏ, trăng vẫn treo vắt vẻo trên bầu trời…

    Cảm giác thấy Họa Long đến gần mình, ông lão bất chợt khóc nghẹn ngào, hố mắt khô khốc chảy ra dòng lệ đùng đục.

    Họa Long hơi bất ngờ, anh chưa kịp hiểu chuyện gì đang xảy ra thì ông lão nói một câu càng khiến anh không thể nào giải thích nổi: “Lão mù nhưng lòng sáng như trăng. Lão không nhìn thấy nhưng vẫn nghe thấy, không những thế còn nghe rất rõ.”

    Họa Long ngờ vực hỏi: “Thế ông nghe thấy gì?”

    Lão mù đáp: “Lão nghe thấy cháu lão bị người ta giết hại. Lão biết rõ như vậy!”

    Họa Long tròn mắt, vô thức kêu nhỏ: “Hả? Cháu ông bị ai giết? Và bị giết ở đâu?”

    Lão mù nói: “Lão nghe thấy nó hét gọi “Ông ơi…”“

    Họa Long hỏi đi hỏi lại nhưng lão mù vẫn một mực nói ông lão nghe thấy đứa cháu hét lên thất thanh kêu cứu trước khi chết, nhưng ông không biết ai đã giết cháu mình, cũng như không biết nó bị giết ở đâu. Họa Long cảm thấy ông lão hơi lẩn thẩn, ông cụ chăng thể đưa ra bất cứ bằng chứng gì, chỉ nói tối qua khi kéo đàn nhị thì đứt mất một dây, ông cụ linh cảm cháu mình đã bị người ta sát hại.

    Tuy Họa Long không tin lời ông lão nhưng nó lại khiến anh vô thức nâng cao cảnh giác.

    Họa Long bắt đầu ngẫm nghĩ lại toàn bộ vụ án này, trong đầu anh loang loáng hiện ra từng hoạt cảnh giống như từng thước phim quay nhanh, trong đó có hai điểm rất khả nghi, thứ nhất là anh nghĩ đến việc Triệu Tiêm Tiêm từng thực hiện tiểu phẫu vá màng trinh, có khả năng cô bé từng bị ai đó cưỡng bức. Điểm khả nghi thứ hai là những bức tranh của Triệu Tiêm Tiêm. Trong số những bức vẽ phác họa các công trình kiến trúc trong thị trấn, anh thấy một vài bức tranh vẽ nhà lão mù và sân vườn nhà bác sĩ thú y.

    Họa Long ngây người suy ngẫm, rồi đột nhiên anh nghĩ đến một chuyện – Khi vẽ những bức họa này, Triệu Tiêm Tiêm đã đứng ở vị trí nào?

    Vẽ phác họa giống như chụp ảnh, nếu một người có thể chụp được cánh cổng lớn của công trình kiến trúc thì người đó ắt hẳn phải đứng ở phía đối diện với cổng.

    Tranh của Triệu Tiêm Tiêm tạo cảm giác cô bé dùng thị giác bao quát toàn cảnh, điều đó chứng tỏ cô bé phải đứng ở vị trí rất cao ở phía đối diện nhà lão mù và bác sĩ thú y. Họa Long chợt nhìn thấy một căn gác ở chếch phía đối diện, đó là ngôi nhà bằng gỗ cũ nát, cửa sổ đóng chặt, một chiếc thuyền sơn đen đậu chênh vênh ngay dưới bậc thềm sát ngôi nhà.

    Họa Long bước qua chiếc cầu đá và gõ cửa. Một thanh niên tầm ngoài hai mươi bước ra mở cổng. Họa Long nói rõ mình là cảnh sát, giờ muốn vào trong kiểm tra thiết bị phòng cháy một chút. Cậu thanh niên rất nhiệt tình mời anh vào. Sân vườn sâu hun hút, đi xuyên qua hai cánh cổng, Họa Long thấy trên cầu thang vắt vài tấm lưới đánh cá, xem ra chủ hộ là dân chài lưới. Trên gác không có đèn, cậu thanh niên bảo đi lấy đèn pin rồi quay lại sau. Họa Long bước vào căn gác, trong bóng tối anh lờ mờ nhìn thấy mấy chiếc thùng sắt đặt ở góc nhà, một mùi hôi thối xộc thẳng vào mũi, không những vậy anh còn ngửi thấy mùi dấm lan toả khắp căn phòng.

    Tuy không có khứu giác thính nhạy như Bao Triển, nhưng Họa Long cũng dần dần ngửi thấy một mùi khác lạ giữa hỗn độn những mùi hôi thối ẩm mốc quấn quanh ngôi nhà. Đúng vậy! Đó chính là thứ mùi khủng khiếp mà anh vô cùng quen thuộc: Mùi phân huỷ của xác chết. Nó đang thoang thoảng đưa tới mũi anh từng đợt từng đợt…

    Trong căn gác này từng có người chết và đến tận giờ mùi hôi thối của xác chết thối rữa vẫn chưa bay hết.

    Họa Long định rút súng nhưng anh hốt hoảng phát hiện mình không mang súng theo, anh vội vàng quay ngoắt đầu lại, vừa hay nhìn thấy gã thanh niên với khuôn mặt trắng bệch đang đứng sừng sững chắn ngay trước cửa. Y không cầm đèn pin mà cầm tấm lưới đánh cá. Y sải mạnh tay quăng tấm lưới. Tấm lưới như bàn tay của tử thần chụp xuống người Họa Long.

    Gã thanh niên lấy gậy giáng mạnh vào đầu Họa Long, vài giây sau anh đã choáng váng ngã xuống. Họa Long lấy hết sức giãy giụa, nhưng mãi vẫn không thể thoát khỏi tấm lưới. Gã thanh niên hơi hoảng loạn, y đổ dịch lỏng trong chiếc bình lớn lên người Họa Long rồi nhanh chóng rời khỏi phòng và đóng cửa lại. Dịch lỏng là ête ethyl, một chất rất dễ bay hơi, trong môi trường chật hẹp và khép kín thì chỉ cần một phút là có thể khiến người ta bất tỉnh nhân sự. Họa Long tức điên người, anh chửi rủa như tát nước, rồi liên tục giãy giụa mong thoát ra khỏi lưới nhưng chỉ vài phút sau anh bắt đầu cảm thấy ý thức của mình rơi vào trạng thái mơ hồ, chẳng bao lâu sau anh đã ngất lịm…

    Khi tỉnh lại, Họa Long phát hiện mình đang nằm trong thùng sắt, hai tay bị bẻ quặt ra đằng sau, buộc chặt bằng dây thép, hai chân cũng bị trói, miệng nhét đầy giẻ, còn dán mấy vòng băng dính, chắc hung thủ muốn đề phòng trường hợp anh nhổ giẻ ra kêu cứu. Họa Long cố gắng giãy giụa, nhưng dây thép buộc cổ tay rất chắc chắn, thậm chí nó thít cả vào da thịt, đầu dây thép xoắn lại thành hình vặn thừng, không thể tháo ra được.

    Xung quanh Họa Long lúc nhúc chuột. Khi một người bị chuột vây kín khắp người, trong lòng phải sợ hãi đến chừng nào?

    Họa Long ý thức được mình đang rơi vào hoàn cảnh của Hoàn Ngọc – anh sắp bị chuột gặm chỉ còn trơ bộ khung xương.

    Đây là chiếc thùng sắt hình chữ nhật, đặt nằm dọc ngay cạnh cửa sổ. Chắc chiếc thùng này dùng để nuôi cá giống, nó dài hai mét, rộng một mét, cao một mét kết cấu khép kín, vô cùng kiên cố, trên nắp chỉ có mấy lỗ thoát khí to bằng đồng tiền xu. Chiếc nắp đã được khóa chặt bằng khóa đồng.

    Chiếc thùng sắt này thực chẳng khác nào chiếc quan tài. Rất có khả năng đây chính là mồ chôn Họa Long!

    Họa Long ngồi dậy, lũ chuột xung quanh liền nhào lộn theo động tác lên xuống của anh. Không gian trong thùng rất chật chội, đầu anh chạm phải vách thùng. Từ lỗ thoát khí, anh nhìn thấy cửa sổ của căn gác.

    Họa Long chỉ có hai lựa chọn, thứ nhất là ngồi chờ chết, đợi người khác đến cứu nhưng khi đội cứu hộ đến được đây và lôi anh ra ngoài thì rất có thể họ chỉ tìm thấy bộ xương của anh. Lựa chọn thứ hai là anh phải tự cứu mình. Trước khi bị chuột gặm trơ xương, anh phải thoát khỏi thùng sắt này, nhưng vấn đề là anh phải làm sao mới thoát được bây giờ?

    Chương 5Vực thẳm tình yêu
    Họa Long từng trải qua muôn vàn nguy hiểm trong đời, anh biết mình buộc phải bình tĩnh mới có thể hoá nguy thành an.

    Họa Long nghiên cứu kĩ hoàn cảnh của mình, một vài con chuột bắt đầu mon men gặm nhấm chân anh. Anh ngồi im bất động, nghé mắt nhìn thấy cửa sổ qua lỗ thoát khí. Càng lúc càng nhiều chuột cả gan lao đến cắn anh. Họa Long lật người lại, đè chết mấy con liền một lúc. Ngón tay anh chợt chạm phải sợi dây thép trói cổ chân.

    Đột nhiên Họa Long nảy ra một sáng kiến. Anh đã nghĩ ra cách thoát hiểm.

    Trong tình trạng bị trói quặt cổ tay ra sau và trói cả cổ chân, thì người ta chỉ cần uốn cong người hoặc làm tư thế giống như quỳ là có thể dùng tay cởi được nút thắt ở cổ chân. Họa Long cố gắng nhịn cơn đau do bị chuột cắn, anh với tay nới lỏng đầu xoắn của đây thép. Dây thép giúp anh tìm lại hi vọng, bởi nó sẽ trở thành phương tiện cứu mạng duy nhất của anh.

    Nếu hai tay được giải phóng thì anh có thể uốn dây thép thành hình móc, luồn qua lỗ thoát khí rồi móc vào thành cửa sổ, kéo chiếc thùng vào gần mép cửa sổ, sau đó lật người, chiếc thùng sẽ rơi từ cửa sổ xuống con kênh gần đó. Thế là anh sẽ có cơ hội được cứu thoát.

    Ngặt nỗi hiện giờ hai tay Họa Long lại bị trói chặt, anh không thể tự cởi dây thép đang thít chặt nơi cổ tay.

    Theo quán tính tư duy thì tay là bộ phận linh hoạt nhất, nhưng riêng với bộ đội đặc công và cảnh sát vũ trang thì đôi chân của họ lại vô cùng linh hoạt bởi họ thường xuyên phải trải qua các bài tập huấn luyện dùng chân bắn súng. Họa Long là sĩ quan cảnh sát vũ trang, nên đôi chân anh càng đặc biệt linh hoạt. Đôi chân vừa được giải phóng, anh liền đá chết mấy con chuột những mong mình có thêm thời gian sống sót. Không gian trong thùng sắt vô cùng chật chội, người Họa Long dính đầy máu chuột, tanh hôi đến lợm giọng.

    Họa Long dùng chân uốn đầu móc thép thành hình móc câu, rồi luồn qua lỗ thoát khí, thận trọng ngoắc vào bậu cửa sổ, sau mấy lần điều chỉnh, Họa Long đã tìm ra tư thế thích hợp nhất, hai chân thay nhau kéo dây thép, nhờ sức khỏe phi thường cuối cùng anh cũng dựng được thùng sắt đứng lên.

    Họa Long lại lấy chân đạp vào vách thùng, rồi rung lắc mấy cái, nhân lúc thùng sắt nghiêng ngả, anh đập mạnh thùng sắt vào cánh cửa sổ gá hờ, chiếc thùng rơi tõm xuống nước.

    Cả quá trình diễn ra đúng là kinh thiên động địa!

    Khi thùng sắt rơi xuống kênh, lão mù đang ngồi cứng đơ như pho tượng trong sân, ông không nhìn thấy nhưng bù lại thính giác vô cùng nhạy bén, nhất là khi chiếc thùng sắt rơi từ căn gác đối diện xuống nước nghe “Ùm!” một tiếng, bọt bắn tứ tung, ngay cả bác sĩ thú y cũng nghe thấy. Cuối cùng hai người họ xúm lại vớt chiếc thùng sắt lên bờ và cứu Họa Long thoát khỏi nấm mồ tăm tối.

    Họa Long dẫn theo dân phòng trở lại căn nhà tội ác kia, nhưng gã thanh niên đã biến mất dạng.

    Khi mở hai thùng sắt khác trong căn gác ra thì thấy mỗi thùng đều chứa một thi thể. Sau khi kiểm định, kết quả cho thấy hai cỗ thi thể đó lần lượt là của Mạc Phi và đứa cháu trai của lão mù.

    Tô My đưa cho Họa Long nhận diện ảnh của Mã Lưu. Anh lập tức nhận ra. Tuy gã thanh niên đó đã chỉnh sửa khuôn mặt nhưng anh vẫn biết y chính là Mã Lưu.

    Theo lời kể của chủ cho thuê phòng trọ, Mã Lưu mới thuê căn gác này được một thời gian ngắn, thường ngày rất ít khi ra khỏi phòng, cũng rất ít người đến đây thăm y.

    Giáo sư Lương nói: “Y chỉ sử đụng căn gác này để gây án mà thôi, còn ngày thường y đóng giả thành Triệu Tiêm Tiêm, hoặc có thể nói y biến thành Triệu Tiêm Tiêm. Chỉ khi giết người y mới trở về đúng con người mình.”

    Qua suy đoán và phân tích, giáo sư Lương cho rằng Triệu Tiêm Tiêm đã gặp nạn và tử vong. Ba năm trước Mã Lưu đã giết chết Triệu Tiêm Tiêm, đồng thời rất có khả năng y vô tình biết được Triệu Tiêm Tiêm từng bị cưỡng hiếp tại thị trấn Ô Đường. Vậy là ba năm sau Mã Lưu giả dạng Triệu Tiêm Tiêm đến thị trấn Ô Đường để truy tìm hung thủ đã bức hại cô bé. Vì căm thù những người mặc váy đỏ nên gã thanh niên biến thái đã lần lượt giết chết Hoàn Ngọc và Mạc Phi, sau đó y điều tra ra chính đứa cháu trai của lão mù đã cưỡng hiếp Triệu Tiêm Tiêm nên y đã ra tay giết chết cậu ta.

    Chủ tịch thị trấn ngạc nhiên hỏi: “Trông đứa bé đó có vẻ rất thật thà, lý nào nó dám làm chuyện ấy?”

    Giáo sư Lương nói: “Đây chỉ đơn thuần là phân tích và phỏng đoán của cá nhân tôi chứ chưa hẳn là sự thật, chỉ khi truy bắt đưọc Mã Lưu thì mới biết rõ chân tướng.”

    Cảnh sát lập tức phát lệnh truy nã nhưng mãi vẫn chưa bắt được Mã Lưu. Gã thanh niên ấy như thể bốc hơi thành không khí vậy. Không một người nào nhìn thấy nữa! Theo như mô tả trên lệnh truy nã thì kẻ này thường ngụy trang thành phụ nữ nên rất khó nhận diện, có lẽ bởi thế nên chẳng ai nhận ra y.

    Trong thành phố mà chúng ta đang sống, bất kì cô gái mặc váy đỏ nào cũng có khả năng là Mã Lưu!

    Mấy ngày sau, tay họa sĩ tóc dài và “cô” ca sĩ cũng biến mất khỏi thị trấn. Có người phát hiện một bài thơ trong phòng thay y phục ở quán trà:

    Hoàn Ngọc hồn cốt hóa trần ai

    Ô Đường tàn mộng tình thế thái

    Tiêm Tiêm khuất bóng hương thoáng bay

    Phi Phi một đi không trở lại

    Lầu xuân cưỡng bức nhành hoa nhài

    Vườn lê văng vẳng kúc bi ai

    Chuyện cũ khóa chặt quan tài sắt

    Ai người hay biết thuở sơ khai.

    Bài thơ này viết trên một trang giấy, nét chữ mềm mại, thanh thoát, trên tờ giấy còn đặt một con dao dính máu!

    Tô My và Bao Triển đi lòng vòng mấy lượt cuối cùng cũng tìm thấy nhà của Mã Lưu. Hai bố mẹ y đã qua đời, một mình y sống trên tầng trên cùng của một khu tập thể cũ nát. Tô My, Bao Triển và cảnh sát địa phương cùng xô cửa xông vào. Phòng ngủ của Mã Lưu bám đầy bụi, nom như khuê phòng của con gái. Qua ảnh Bao Triển phán đoán Mã Lưu cố tình trang hoàng phòng của mình giống hệt với phòng của Triệu Tiêm Tiêm. Đôi lúc anh không thể không nể phục khả năng của con người. Bởi y cơ hồ đã sao chép căn phòng của mình giống phòng của Triệu Tiêm Tiêm như đúc. Từ giường ngủ, gối đầu, bàn học đến chiếc đèn bàn nhỏ nhắn đều không hề có điểm nào khác biệt. Chắc chắn y phải rất tốn công tốn sức mới tìm được đầy đủ vật dụng như vậy. Trong một bức thư, Mã Lưu viết rằng y từng trốn dưới gầm giường nhà Triệu Tiêm Tiêm, từng dùng cắt móng tay của cô bé, lén lấy trộm chìa khóa phòng của cô bé.

    Trong ngăn kéo bàn học, Tô My tìm thấy một hộc đầy những lá thư không gửi. Từ màu mực và nét chữ có thể phán đoán số thư này được viết tại nhiều thời điểm khác nhau. Một vài chữ còn bị nhòe nước, chứng tỏ kẻ viết thư từng khóc khi lưu lại những dòng đầy tâm huyết này.

    Tất cả đều là thư gửi cho Triệu Tiêm Tiêm.

    Có thể trích ra một đoạn như sau:

    Tiêm Tiêm! Mọi mật mã của anh đều là ngày sinh của em, từ trước đến nay luôn vậy và sau này sẽ mãi mãi là vậy. Vì em, anh đã giữ rất nhiều thói quen. Trước đây anh không thích ăn ô mai, lần đầu tiên nếm thử vị ô mai chính là lần em đưa cho anh, sau đó anh hình thành thói quen thích ăn ô mai. Thỉnh thoảng anh còn đi mua ô mai lúc nửa đêm. Những khi nhớ em, anh lại ăn ô mai.

    Tóc em rất thơm. Để tìm được dầu gội đầu em dùng anh đã mua hết các nhãn hiệu và thử từng loại một, cuối cùng anh đã tìm thấy mùi hương của em. Vì mùi hương ấy khiến anh cảm nhận được sự tồn tại của em.

    Anh bắt chước nét chữ của em, nét chữ của chúng ta dần dần hòa thành một.

    Em đã bước vào cộc đời anh, đâu đâu quanh anh cũng có hình bóng em, em ẩn nấp trong từng ngóc ngách cuộc sống của anh. Khi anh làm những động tác tự nhiên nhất của thường nhật, trong từng cử chỉ, khi anh đi trên phố một mình, ăn cơm một mình xem tivi nột mình, khi anh ngồi một mình nhìn nước mưa thấm ướt lá cây ngoài cửa sổ, anh đều có cảm giác chúng ta đang ở bên nhau.

    Tiêm Tiêm, em biết không? Mỗi lần đi cầu thang anh đều đi về phía bên tay vịn, vì lần cuối cùng em vai kề vai xuống cầu thang anh đúng phía tay vịn, còn em đứng cạnh anh.

    Tiêm Tiêm, anh biết em có thói quen gấp chăn rất vuông vắn, bởi vậy ngày nào anh cũng học gấp chăn, bây giờ anh có thể gấp chăn vuông như miếng đậu phụ giống hệt anh lính gấp chăn trong doanh trại. Chỉ duy nhất một lần anh muốn từ bỏ, lần đó anh úp mặt xuống chăn khóc nức nở. Từ nhỏ đến lớn em đều kiên trì gấp chăn, vậy mà sao em không thể kiên trì yêu anh? Em đã từng yêu anh bao giờ chưa? Dẫu chỉ một phút một giây?

    Anh dùng bao nhiêu cách để nhớ em, để nói chuyện với em, nhưng… chưa bao giờ em biết anh yêu em đến nhường nào!

    Chắc em biết mỗi khi trời mưa, giữa không gian tĩnh lặng và u buồn đó, anh luôn nhớ em nhiều nhất.

    Chắc em biết mỗi khi tuyết rơi, giữa không gian trầm mặc và cô đơn đó, anh luôn nhớ em nhiều nhất.

    Chắc em biết anh lấy chìa khóa khắc rất nhiều chữ lên bức tường dưới tầng em ở, anh đợi ở đó cả đêm chỉ vì muốn thoáng nhìn thấy dáng em lúc đi học buổi sáng sớm. Em quàng khăn, mặc chiếc áo jacket nàu đỏ. Anh lặng lẽ đi theo em, chỉ vì muốn nhìn thấy em.

    Anh đã từng đứng sau lưng em một cách chân thành như thế và nhìn theo bóng lưng yêu kiều của em. Mùa hè em thường mặc váy đỏ, khi tuyết rơi em mặc áo lông làu đỏ, em khép chặt vạt áo vào người cho ấm, rồi cứ thế cắm đầu bước một mạch về phía trước. Chỉ cần em quay đầu nhìn lại là sẽ thấy anh, nhưng chưa bao giờ em ngoái về phía sau. Anh muốn đuổi theo em biết bao nhiêu để ôm đôi tay lạnh giá của em vào lòng. Anh thích đứng trước cửa sổ lớp học ở tầng bốn, trong khi em ngây người ngắm cảnh thì anh ngây người ngắm em. Khi em rời đi, anh đứng vào chỗ em vừa đứng, nhìn về phía em đặt lòng bàn tay áp vào vị trí em vừa để tay lên đó. Anh luôn ở sau em, nhưng… em chưa bao giờ quay đầu lại.

    Dẫu thời gian trôi như nước chảy nhưng màu của hoa hồng chưa bao giờ nhạt phai.

    Mấy năm nay mưa đổ rào rào, chẳng khác gì bao nhiêu bể bơi trên thiên đình bị rơi vỡ xuống mặt đất, rồi biến mất không tăm tích, giống như nước mắt của anh rơi xuống vì em. em. Tiêm Tiêm, em có biết anh đã rơi bao nhiêu nước mắt vì em không?

    Anh lấy lọ để đựng nước mắt của mình, lấy lồng ngực để đựng những lời thở than.

    Tình yêu của anh còn sâu hơn cả đáy biển sâu nhất. Nếu em chịu nhìn anh dù chỉ một thoáng thôi em sẽ thấy vực thẳm, thấy cá bơi lội trong mắt anh. Thể xác của em nằm bên cạnh anh hết ngày này sang ngày khác, hết đêm này sang đêm khác, mộ địa của em và tang lễ của em đều ở trong vòng tay anh.

    Anh đuổi theo con bướm em từng đuổi, cúi đầu ngửi bông hoa em từng ngửi.

    Anh đi qua con phố em từng đi, quanh quẩn nơi ngã ba em từng tha thẩn, quẩn quanh.

    Anh yêu em đến mức yêu luôn cả quần áo em mặc!

    Anh yêu em đến mức yêu luôn cả chiếc váy em mặc!

    Anh yêu em đến mức anh muốn biến thành em!

    Em không biết anh thích cảm giác ngủ dưới gầm giường của em đến mức nào đâu! Khi mặc quần tất của em, anh thấy rất xấu hổ? Lần đầu tiên mặc quần tất đi trên phố là một ngày mùa đông, anh đã rất hồi hộp bên ngoài quần tất là quần đông xuân và quần len, bởi vậy chẳng ai nhận ra anh mặc quần tất. Anh thích cảm giác ấy. Cuối cùng anh cũng dám mặc váy ra đường vào một ngày hè. Anh đã biến thành em! Ngay cả anh cũng không thể nhận ra chính mình.

    Mỗi sáng khi rửa mặt, anh lại ngây dại hôn bản thân mình đắm đuối qua gương.

    Không phải anh đang hôn tấm gương mà là đang hôn em.

    Em đã biết anh yêu em đến nhường nào chưa?

    Bức thư cũ kĩ đã ố vàng. Mỗi lá thư đều nặng tình như thế! Mỗi lá thư đều biến thái như thế!

    Trong phòng phủ lớp bụi dày, Tô My và Bao Triển phát hiện một thi thể nằm trên giường cạnh bàn học, thi thể đang trong tư thế nằm nghiêng, đầu gá trên gối, bên cạnh còn đặt một chiếc gối nữa, có thể thấy từng có người đã ôm thi thể này ngủ.
     
    Last edited by a moderator: 21/3/17
    Gum, Dung dung, Trandinhanh and 5 others like this.
  12. Nhím Nhím

    Nhím Nhím Member
    • 344/373

    Bài viết:
    41
    Đã được thích:
    422
    Tập 1: BÓNG MA ĐÊM MƯA
    PHẦN 9: VỤ ÁN ĂN THỊT NGƯỜI​


    Lời dẫn

    Tôi chỉ biết mỗi một điều duy nhất là tôi không biết gì cả – Socraes.



    Trong đại học Lam Kinh có hai sinh viên đang chơi trò cơ bút. Cơ bút là trò chơi biến tướng của nghi lễ cầu cơ và chấp bút, đó là phương pháp tâm linh cổ xưa. Họ cầm một cây bút sao cho cán bút đứng thẳng trên giấy, rồi nhắm mắt lại, rũ bỏ mọi tạp niệm, một sinh viên khấn: “Bút tiên! Bút tiên! Xin ra đây! Xin hãy vẽ một vòng tròn!” Dường như có một sức mạnh thần kì điều khiển bàn tay họ, có lẽ đó là sức mạnh của ý niệm trong linh hồn, cũng có thể là một loại sức mạnh thần bí nào đó mà khoa học chưa thể lí giải được, ngòi bút dần dần di chuyển thành một vòng tròn trên giấy.

    Một vòng tròn gần như hoàn hảo – con người không thể vẽ nên một vòng tròn như máy vẽ vậy được!

    Cô sinh viên hỏi: “Xin hỏi bút tiên họ là gì?”

    Cây bút viết lên giấy một chữ “Điêu”.

    Cô sinh viên lại hỏi: “Thế bút tiên tên là gì?”

    Trên giấy lại hiện ra hai chữ “Ái Thanh”.

    Ba chữ “Điêu Ái Thanh” khiến hai cô sinh viên lạnh tóc gáy! Tất cả cảnh sát và cư dân ở thành phố Lam Kinh đều vô cùng quen thuộc cái tên này.

    Vụ án Điêu Ái Thanh hay còn gọi là “vụ án băm xác 19.1 Lam Kinh” hoặc “vụ án băm xác ở Đại học Lam Kinh”. Vụ án này xảy ra vào ngày 19 tháng 1 năm 1996, người bị hại là cô sinh viên tên Điêu Ái Thanh, sinh viên năm thứ nhất khoa Giáo dục người lớn Đại học Lam Kinh.

    Di thể của nạn nhân bị băm thành nhiều khúc sau chín ngày mất tích, tức sáng sớm ngày 19 tháng 1, một nữ công nhân vệ sinh đã phát hiện thấy thi thể của nạn nhân trên đường Hoa Kiều tại thành phố Lam Kinh.

    Hung thủ đã thủ tiêu vật chứng bằng cách băm xác nạn nhân thành hai ngàn mảnh rồi nấu chín, phần đầu và nội tạng cũng được nhúng chín, riêng phần nội tạng được thái thành từng miếng rất đều đặn, thậm chí ruột còn được gấp lại gọn gàng, sau đó dùng túi nilon gói lại vuông vức. Thi thể được chia thành bốn túi lớn, vứt ở bốn địa điểm khác nhau. Buổi sáng hôm ấy, nữ công nhân vệ sinh phát hiện một túi nilon màu đen, ngỡ bên trong đựng thịt lợn nên cô mang về nhà mở ra rửa sạch cẩn thận và định bày ra ăn, kết quả khi đang rửa cô phát hiện ba ngón tay người. Cô sợ đến nỗi run lập cập, liền hốt hoảng chạy đi báo án.

    Vụ án này làm chấn động cả giới cảnh sát thành phố Lam Kinh. Lực lượng cảnh sát ồ ạt vào cuộc nhưng cả quá trình điều tra đều không có tiến triển mang tính đột phá.

    Cứ vậy mười năm trôi qua, tuy cảnh sát Lam Kinh luôn dốc toàn lực điều tra vụ án này, song đến nay hung thủ vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật.

    Hai cô sinh viên chơi trò cơ bút cũng nghe nói đến vụ án Điêu Ái Thanh nên một trong hai cô run rẩy hỏi: “Ai đã giết bút tiên?”

    Cô sinh viên kia cũng mạnh dạn hỏi thêm: “Vậy hung thủ là ai?”

    Một sức mạnh thần bí khiến cây bút bắt đầu chạy nhanh trên giấy, hồ như nó mang theo cả sự phẫn nộ và lời nguyền rủa, bút tích hỗn loạn không theo bất kì quy tắc nào, trông các nét vẽ vừa giống như một tấm bản đồ chỉ đường, lại vừa giống như hình phác họa một loài động vật nào đó, mà giống hơn cả là thứ văn tự rất khó nhận diện, cuối cùng một tiếng “cách” vang lên, ngòi bút gẫy làm đôi.

    Chương 1Ngàn dao băm thây
    Đồng hồ điện tử trên tường chỉ chín giờ tối, phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc ôm vẻ mặt nghiêm trọng bước vào văn phòng tổ chuyên án. Muộn như vậy rồi mà ông vẫn đến chứng tỏ vừa xảy ra một vụ trọng án vô cùng khác thường, điều kì lạ là lần này ông không hề mang theo bất kì hồ sơ hay tài liệu gì. Khi ấy tại văn phòng, giáo sư Lương và Bao Triển đang đánh cờ vây phó cục trưởng yêu cầu Bao Triển lập tức gọi Họa Long và Tô My đến. Bao Triển ý thức vụ án lần này chắc chắn vô cùng quan trọng nên vội vàng làm theo lời ông. Sau khi bốn thành viên tổ chuyên án tề tựu đông đủ, phó cục trưởng nói: “Tôi muốn các vị đều mặc cảnh phục khi tham gia phá vụ án này!”

    Họa Long cười hỏi: “Sếp, chuyện gì xảy ra vậy? Vụ án lớn cỡ nào mà sếp làm quan trọng thế? Lại còn phải mặc cả cảnh phục nữa chứ!”

    Phó cục trưởng nghiêm túc đáp: “Vụ án này là nỗi nhục của ngành cảnh sát chúng ta. Những vụ án không thể giải phá luôn luôn là nỗi đau trong lòng các cảnh sát.”

    Bao Triển nói: “Vụ án không thể phá giải ư? Thế nghĩa là án tồn và án kì bí sao?”

    Phó cục trưởng thở dài trả lời: “Chắc các vị đều nghe nói đến vụ án băm xác 19.1 rồi chứ?”

    Giáo sư Lương bảo: “Vụ án đó có tầm ảnh hưởng rất lớn, không chỉ giới cảnh sát trong nước biết tiếng mà ngay cả giới truyền thông nước ngoài cũng nhiều lần đăng tải về vụ án này.”

    Tô My nói: “Nhưng vụ án đó đã xảy ra mười năm trước rồi mà? Khi ấy cảnh sát Lam Kinh đã huy động toàn bộ lực lượng để phá án, nhưng rốt cuộc vẫn không thể bắt được hung thủ.”

    Phó cục trưởng nhíu mày nói: “Bây giờ hung thủ đã xuất hiện trở lại!”

    Đêm ngày mùng 10 tháng 1 năm 1961 nữ sinh viên Điêu Ái Thanh của trường đại học Lam Kinh ăn cơm tối xong liền ra ngoài đi dạo, nghe nói trước đó vì các bạn cùng phòng vi phạm nội quy nhà trường khi sử dụng thiết bị điện khiến trưởng phòng Điêu Ái Thanh phải chịu kỉ luật trước trưởng ban kí túc xá, cô thấy oan ức và buồn bực nên định ra ngoài dạo vài vòng cho nguôi ngoai, nhưng sau đó không thấy Ái Thanh về kí túc nữa. Trước khi bỏ đi, nạn nhân đã trải sẵn chăn nệm, điều đó chứng tỏ cô định về phòng ngủ, cũng thể hiện rõ cô không hề có ý định đi xa. Nhân chứng cuối cùng trông thấy nạn nhân trước khi cô bị sát hại là ở đường Thanh Đảo, khi đó cô mặc chiếc áo khoác màu đỏ.

    Chín ngày trôi qua! Cô nữ sinh mới hai mươi tuổi đó không bao giờ trở về nữa.

    Ngày 19 tháng 1 năm 1996, sau trận tuyết lớn, thi thể của Điêu Ái Thanh được phát hiện, một nữ công nhân vệ sinh môi trường đã nhặt được chiếc túi xách tay trên đường Hoa Kiều ở đầu phố Lam Kinh mới, trong túi nilon thịt, sau đó cô công nhân mang thịt về rửa sạch thì phát hiện có ba ngón tay, cô hoảng sợ lập tức báo án. Sau này, các bộ phận khác của thi thể nạn nhân lần lượt được phát hiện tại đường Thủy Hữu Cương và trên núi Long Ngọc, tất cả đều được gói bằng tấm ga trải giường và bỏ vào túi xách đen. Những miếng thịt được thái cẩn thận, vuông vắn, nội tạng và ruột được sắp xếp ngay ngắn, điều đó chứng tỏ mức độ tàn nhẫn và yếu tố tâm lí cực kì vững vàng của hung thủ.

    Vụ án gây rung động cả thành phố Lam Kinh, ai ai cũng bàng hoàng, hoảng sợ, phía cảnh sát dốc toàn bộ lực lượng tiến hành đi sâu điều tra từng chi tiết ngóc ngách. Đội đặc nhiệm lập tức đến đại học Lam Kinh, toàn thể giáo viên, học sinh trong trường cùng hầu hết dân cư quanh đó đều bị thẩm vấn, bao gồm cả tài xế lái taxi trong thành phố.

    Sau bao nhiêu năm, một phu kéo xe vẫn có thể hồi tưởng lại cảnh tượng lúc đó, cảnh sát đã hỏi anh ta có nhìn thấy ai xách mấy chiếc túi không, còn hỏi có quen ai là thợ săn không.

    Thời điểm ấy, trường đại học Lam Kinh chỉ kín đáo truyền tai nhau về vụ án này, sau đó lãnh đạo nhà trường chính thức dán ảnh nữ sinh bị hại lên bảng thông báo của nhà trường. Nghe nói tất cả sinh viên trong trường đều bị xét hỏi, mỗi người đều phải đưa ra chứng cứ chứng minh mình không ở hiện trường vào đêm gây án. Khi ấy, giới truyền thông đăng tải rất nhiều tin tức và nhận định về vụ án giết người rùng rợn này. Phía cảnh sát ra thông cáo sẽ thưởng cho ai cung cấp được manh mối hữu ích trong việc tìm ra hung thủ, đồng thời họ công bố hình ảnh về bốn chiếc túi chứa thi thể và một tấm ga trải giường in hoa.

    Một nhóm người tự nhận mình nhìn thấy có kẻ cầm chiếc túi xách in hình phong cảnh sông núi Quế Lâm mắt la mày lém lui tới khu vực đường Hoa Kiều, chiếc túi có hình dạng giống hệt chiếc túi trong ảnh mà cảnh sát cung cấp, lại có người nói nhìn thấy hai người xách hai chiếc túi kiểu cũ, trên túi in hình máy bay, quai xách còn móc khóa đồng.

    Cảnh sát địa phương thu thập manh mối từ đông đảo quần chúng nhân dân nhưng vụ án vẫn không hề có tiến triển.

    Một viên sĩ quan tham gia vào điều tra vụ án 19.1 năm đó, đến tận giờ ông vẫn còn nhớ như in từng tình tiết của vụ án. Khi trả lời phỏng vấn của phóng viên, ông nói: “Bao nhiêu năm đã trôi qua, tuy tôi từng xử lý rất nhiều vụ án, nhưng chưa bao giờ gặp phải vụ án nào kì bí và dã man như vụ án này. Hung thủ thực sự quá tàn nhẫn. Mỗi miếng đều được thái rất vuông vắn. Từ kĩ thuật thái của hung thủ, ta có thể nhận thấy y là một kẻ rất chuyên nghiệp, có trình độ nhất định về kiến thức giải phẫu. Tôi tận mắt nhìn thấy tang vật.”

    Vì năm đó vẫn chưa có kĩ thuật xét nghiệm AND nên bác sĩ pháp y chỉ thông qua đặc tính về lông tóc trên cơ thể, tổ chức thớ thịt v.v… để xác định nạn nhân là nữ.

    Theo hồi ức của viên sĩ quan nọ, năm đó vì muốn phá giải vụ án này nên cảnh sát thành phố Lam Kinh đã phát động chiến thuật “biển người”, họ tiến hành điều tra trên diện rộng, điều tra đến từng ngóc ngách. Có thể nói, khi ấy hầu như mọi cảnh sát ở thành phố Lam Kinh đều tham gia vào vụ án này với mức độ nông sâu khác nhau. Một số cảnh sát được điều trực tiếp vào đội đặc nhiệm, còn đa phần phụ trách công tác điều tra tại khu vực mình quản lí.

    Trong khi đó đa số địa điểm vứt xác mà hung thủ lựa chọn là ở các khu phố đông đúc, nên việc điều tra càng trở nên khó khăn hơn.

    Viên cảnh sát nói: “Mọi đối tượng từng xuất hiện tại địa điểm vứt xác ví dụ như thùng rác, người đi đổ rác đều bị chúng tôi điều tra kĩ lưỡng, thời điểm ấy đúng là rất căng thẳng, bởi vì ai cũng có khả năng là kẻ tình nghi, chúng tôi chỉ sợ để lọt mất một manh mối, dẫu là nhỏ nhất. Căn cứ vào địa điểm mà hung thủ vứt xác và các tình tiết điều tra có liên quan, chúng tôi suy đoán có lẽ hung thủ sống gần khu vực trường đại học Lam Kinh không những thế rất có thể y đạp xe đi vứt xác.”

    Căn cứ vào tay nghề băm thái của hung thủ, cảnh sát Lam Kinh từng nhận định có thể hung thủ hành nghề y hoặc nghề giết mổ gia súc. Cảnh sát đã điều tra tất cả những đối tượng làm trong hai ngành nghề này mà phù hợp với điều kiện gây án.

    Viên sĩ quan nói tiếp: “Sau khi tập hợp được các thông tin qua nhiều kênh, chúng tôi lại mở rộng đối tượng điều tra…”

    Nạn nhân Điêu Ái Thanh là sinh viên năm thứ nhất, tính tình tương đối hướng nội và hiền lành, thường ngày chỉ thích đọc sách văn học. Bạn học của Ái Thanh là Ngô Hiểu Khiết kể rằng cô nhớ Ái Thanh từng đọc cuốn “Thánh niên Liêu Ninh”, “Văn học điện ảnh”… Mỗi lần dạo phố vào cuối tuần, Ái Thanh chỉ quanh quẩn trước mấy quầy sách. Cô sống khá hòa nhã với bạn bè, không để xảy ra mâu thuẫn gì. Mối quan hệ xã hội của Điêu Ái Thanh khá đơn thuần và ít ỏi, một vài người mà cô quen biết đều không bị liệt vào danh sách tình nghi gây án. Trong số những manh mối thu thập được có một manh mối từng thu hút sự chú ý của cảnh sát trước khi Điêu Ái Thanh bị sát hại vài ngày, cô khoe mình quen một nhà văn. Cảnh sát lập tức tiến hành điều tra tất cả các nhà văn ở thành phố Lam Kinh, nhưng vẫn không gặt hái được thông tin nào có giá trị.

    Khi xảy ra vụ huyết án rùng rợn được đặt tên là vụ án 19.1 này, cảnh sát lập tức triển khai điều tra trên quy mô lớn, nhưng cánh cửa bí mật của vụ án vẫn kiên quyết đóng im ỉm trước sự sôi sục của bao cảnh sát…

    Mười hai năm đã trôi qua, oan hồn của cô nữ sinh bị hại vẫn vất vưởng lang thang nơi trần thế, chẳng biết đến khi nào mới được yên nghỉ! Chẳng biết đến khi nào hung thủ mới bị sa lưới pháp luật!

    Hàng năm, dường như thỉnh thoảng lại có người đăng tải trên trang mạng cá nhân một bài viết liên quan đến vụ án này vào nhiều điểm thời gian khác nhau. Có người cho rằng oan hồn của người chết đã sai khiến một vài người phải quan tâm đến vụ án, bởi rốt cuộc hung thủ vẫn chưa bị bắt về quy án, nội tình vụ án vẫn chưa được làm sáng tỏ. Có người lại nói hung thủ cắn rứt lương tâm, nên đăng bài xem một hành vi hối cải. Có người cho rằng hung thủ đang khoe khoang thủ đoạn phạm tội của mình và thách thức cảnh sát. Còn có người bảo những người biết nội tình vụ án đang tìm cách vạch trần tội ác, liên tục đưa ra ám thị chỉ đường cho cảnh sát.

    21 giờ 49 phút ngày 19 tháng 6 năm 2008, người có nickname là Black Mass đã đăng tải một bài viết trên mạng xã hội ảo với tiêu đề là “Một vài suy nghĩ về vụ án băm xác tại đại học Lam Kinh.”

    Black Mass đã đưa ra những suy đoán tường tận về vụ án này trong bài viết, đồng thời còn vẽ cả chân dung phác họa hung thủ. Anh ta viết như sau: “Thi thể người bị hại bị chia nhỏ, đồng thời sắp xếp rất ngay ngắn, chỉnh tề ngay cả quần áo của nạn nhân cũng được gấp gọn gàng, điều đó chứng tỏ hung thủ là kẻ có tâm lí vô cùng vững vàng, đồng thời rất am hiểu về kiến thức y học. Từ đó suy ra hung thủ là kẻ có trình độ văn hóa tương đối cao, có lẽ đã học lên khá cao, chí ít phải cao hơn đa số công dân có trình độ phổ thông chúng ta. Thử nghĩ mà xem, một kẻ thô lỗ chỉ học hết cấp hai hoặc cấp ba thì làm sao đủ tư cách thu hút sự chú ý của một nữ sinh đại học? Hơn nữa cũng đâu đủ khả năng bình tĩnh băm xác người thành từng mảnh một cách gọn ghẽ dường kia sau khi đã ra tay sát hại nạn nhân? Bởi vậy tôi cho rằng khả năng hung thủ là thợ giết mổ gia súc, đầu bếp hoặc thợ rèn không lớn lắm, bởi vì trình độ văn hóa và tố chất tâm lí của những người hành nghề đó không mấy cao. Còn suy đoán hung thủ là bác sĩ, tôi chỉ biết nói rằng khả năng này có thể xảy ra bởi trước mắt vẫn chưa hề có bất kì chứng cứ nào chứng tỏ suy luận đó chính xác.”

    Black Mass còn đưa ra phỏng đoán chủ quan rằng: “Người bị hại mới nhập học chưa được bao lâu, một lần đi dạo ở cổng trường cô ấy tình cờ gặp một cửa hàng bán đĩa CD… Hung thủ đã xuất hiện vào lúc ấy, y chủ động giới thiệu đĩa nhạc cho người bị hại…”

    Ở cuối bài viết, Black Mass miêu tả về hung thủ thế này: “Hung thủ là đàn ông, thời điểm gây án có lẽ y khoảng ba mươi đến bốn mươi tuổi, cũng có khả năng chưa đến ba mươi tuổi, dung mạo có vẻ đứng đắn và chín chắn, tính cách hướng nội, hòa nhã với mọi người, vẫn độc thân, trình độ học vấn và văn hóa khá cao, thích nghe nhạc, có khả năng là người yêu văn học, sống một mình gần khu vực đại học Lam Kinh, hiểu một số kiến thức về lĩnh vực y học, nhưng không ai biết điều này.”

    Black Mass đăng tải bài viết này đã thu hút đông đảo cộng đồng mạng tham gia bình luận. Lúc 14 giờ 12 phút ngày 20 tháng 6 người có nickname là Rất nhiều đã bình luận bài viết của Black Mass bằng bài viết dài mấy ngàn chữ. Anh ta phân tích cái tên Black Mass, cách dùng từ trong bài viết của Black Mass cùng những quá trình viết bài dưới nhiều góc độ, cuối cùng để kết thúc bài trường thiên tiểu thuyết đó, anh ta đưa ra kết luận: Black Mass chính là hung thủ!

    Cư dân mạng lại bắt đầu rầm rộ điều tra về Rất nhiều. Người có nickname là Chủ nhân khóc kiệu hồng phát hiện Rất nhiều từng viết một đoạn như sau trong blog của chính mình:

    “Vì lớn lên trong môi trường đặc biệt nên tôi hoàn toàn vô cảm với những việc như phanh thây băm xác… Chớ hiểu lầm! Tôi không bao giờ làm những việc đó, chủ yếu là do hồi nhỏ tôi sống trong kí túc xá của bệnh viện, bệnh viện vốn là nơi khiến người ta phải “mở rộng tầm mắt”, có điều bây giờ bệnh viện quản lí rất nghiêm ngặt nên muốn “mở rộng tầm mắt” cũng rất khó.

    Trong một lần đăng bài trả lời vào lúc 1 giờ 12 phút 33 giây ngày mùng 9 tháng 6 năm 2008, Rất nhiều từng miêu tả một dị nhân vô cùng quái đản và đặc biệt:

    Mỗi lần giết người xong, đều nói với nạn nhân một câu: Tạm biệt, xxx.Thường ngày thích đút tay vào túi quần, nếu không nhất thiết phải dùng đến tay thì sẽ không dùng, thậm chí cần mở cửa cũng chỉ đứng đợi có người mở trước rồi mình chỉ việc theo sau.Mỗi lần đến một nơi nào đó đều nhất định thuê ba phòng, nếu không sẽ không quen. Đồng thời trong ba phòng đó, nhất định có một phòng thuê chung, như vậy sẽ không cần phải mang theo chìa khóa.Mỗi lần nghe ai đó nói “không giết phụ nữ”, thì đều lập tức quẳng lại một câu “Thần kinh!” ngay tại chỗ.Không bao giờ uống sữa, cũng không bao giờ cất vũ khí trong hộp đựng đàn dương cầm, chưa bao giờ đeo mặt nạ.Biết rõ môi trường nơi mình sinh sống, khi lên xuống cầu thang luôn đếm bậc thang và nhớ rất kĩ có tất cả bao nhiêu bậc để đảm bảo có thể đi lại thông thạo ngay trong đêm.Mỗi khi đến nơi nào đó đều phải xem chợ họp ở đâu và nhớ kĩ tất cả các lối ra.Luôn để một chiếc xe đạp ở dưới tầng một và không bao giờ khóa xe, nếu chẳng may bị mất trộm sẽ lập tức mua ngay một chiếc khác, nhưng vì xe đạp đều là loại cũ nát nên từ trước đến giờ chưa bao giờ bị mất trộm.Khi thấy ai đăng tải một bài viết kì quặc nào đó thường có thói quen đưa ra những bình luận kì quặc.
    Sau đó không lâu, người có nick name là WCAT666 cũng tham gia bình luận:

    “Vì sao lại chặt thi thể? Vì sao lại xếp nội tạng và quần áo một cách gọn gàng, ngay ngắn? Nhiều người từng thắc mắc hai vấn đề này. Tôi chỉ có thể nói mọi người đã nghĩ quá phức tạp. Tôi cho rằng vấn đề này vô cùng đơn giản, chẳng qua hung thủ muốn hưởng thụ mà thôi, y muốn hưởng thụ quá trình đó. Giống như khi bạn đọc một cuốn tiểu thuyết mà mình yêu thích nhất, bạn đâu nỡ đọc một lèo cho xong. Hoặc giống như khi chúng ta ăn món ăn mà mình yêu thích nhất, chúng ta cũng đâu nỡ cho tất cả vào miệng, nhai nhồm nhoàm và nuốt ực một cái là hết. Cả quá trình với mùi hương mà y ngất ngây, từng dòng máu chảy túa ra, thêm một làn gió mát, không gian tràn ngập mùi tanh tanh, ngọt ngọt. Ánh sáng trong phòng tù mù bởi hai hôm trước bóng đèn mới bị hỏng một tóc nên giờ chỉ còn lại một tóc. Có lẽ vì chỉ còn một dây tóc nên thời gian sử dụng không được bao lâu, bóng đèn chập chờn lúc sáng lúc tối, lại còn phát ra tiếng lẹt xẹt khiến mỗi động tác của y đều được phóng to gấp mấy lần. Tuy chiếc bóng lớn tiếm hết ánh sáng khiến y không tiện hành động, nhưng lại khiến y tăng thêm khoái cảm. Ở một nơi ẩm thấp, y không nhìn thời gian, rất lâu rồi y không có thói quen đeo đồng hồ, nhưng bóng tối và sự tĩnh lặng bao trùm ngoài căn phòng, đôi khi lại có bóng người loang loáng quét qua càng làm y thấy hưng phấn… Cảnh tượng buổi tối hôm ấy cứ bóp nghẹt tim y, không biết bao nhiêu lần y nằm mơ, rồi so sánh, phân tích, tìm kiếm vị trí và độ ra sức thích hợp nhất, tìm kiếm cảm giác đó. Mãi đến tận giờ này phút này, y mới tìm thấy cảm giác rõ ràng và sâu sắc nhất, tất cả đều đạt đến độ vừa vặn.”

    Những bạn đọc tinh ý sẽ phát hiện Rất nhiều và WCAT666 cùng sống ở thành phố Lam Kinh, hơn thế nữa rất có thể họ quen nhau.

    Mười hai năm sau, vụ án kì bí đó lại lần nữa xuất hiện trở lại, những cuộc thảo luận và suy đoán của cộng đồng mạng khiến nhiều người thấy lạnh gáy.

    Suốt mười hai năm nay, hung thủ vẫn chưa bị sa lưới pháp luật, có thể hàng ngày y vẫn đi dạo trên phố xá ngang dọc thành phố Lam Kinh, rất có thể y cũng tham gia phân tích các tình tiết vụ án với cư dân trên mạng, rất có thể khi nhìn thấy những dòng chữ này, y lại muốn tái hiện vụ án lần nữa…

    Sớm tinh mơ ngày 11 tháng 9 năm 2008, cạnh thùng rác ở đầu phố Lam Kinh mới, có người nhặt rác phát hiện chiếc túi nilon đen, trong túi là một sọ người. Sau khi cảnh sát nhận được tin báo, họ lại phát hiện thấy hai túi chứa tử ở đường Thủy Hữu Cương và trên núi Long Ngọc. Vụ án này hoàn giống y hệt vụ án băm xác 19.1 của mười hai năm về trước, bất kể phương thức gây án và tuyến đường vứt xác đều hoàn toàn đồng nhất. Để tránh gây hoang mang trong xã hội, cảnh sát thành phố Lam Kinh lập tức phong tỏa tin tức, liệt vụ án này vào loại tuyệt mật, đồng thời trình báo tình hình vụ án cho cơ quan công an cấp cao nhất và yêu cầu tổ chuyên án đến trợ giúp.

    Giáo sư Lương nhận xét: “Rất có thể hung thủ vụ án băm xác mười hai năm về trước và hung thủ vụ án băm xác mười hai năm sau là cùng một người.”

    Bao Triển bổ sung: “Cũng có khả năng là một người khác mô phỏng lại vụ án của mười hai năm trước.”

    Tô My rùng mình nói: “Vụ án này quá khủng khiếp! Đảm bảo là vụ khủng khiếp nhất từ khi chúng ta thành lập tổ chuyên án đến nay.”

    Họa Long bảo: “Bây giờ đã chín giờ tối, sáng mai chúng ta sẽ lập tức khởi hành đến Lam Kinh.”

    Phó cục trưởng gạt đi: “Không thể đợi đến mai! Bây giờ phải lập tức xuất phát, tôi đã sắp xếp sẵn một chuyên cơ cho các vị!”

    Họa Long sáng mắt: “Hàng tốt đấy! Lần này đụng độ phải vụ lớn thật rồi!”

    Phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc trịnh trọng tuyên bố: “Với tư cách người sáng lập ra tổ chuyên án, tôi chỉ có hai yêu cầu, thứ nhất các vị phải mặc cảnh phục xuất hiện trước hơn tám triệu dân của thành phố Lam Kinh; thứ hai, tuy chúng ta là cảnh sát nhưng không nhất thiết phải phá giải vụ án này bằng được, chỉ hi vọng các vị có thể hành động xứng đáng với sự kì vọng và ủy thác của nhân dân. Tôi muốn tặng các vị bảy chữ trước khi lên đường: Đừng để hổ thẹn với lương tâm!”

    Chương 2Nỗi ám ảnh suốt mười hai năm
    Bốn thành viên tổ chuyên án đều cảm thấy vụ án này vô cùng nghiêm trọng, sau khi xuống máy bay, họ thấy các lãnh đạo cấp cao của ủy ban nhân dân thành phố Lam Kinh đều đang đứng đợi, đội đón đoàn rất long trọng, cậu thư kí bước đến gần tổ chuyên án và giới thiệu các đồng chí lãnh đạo gồm: bí thư thành ủy chủ tịch thành phố, giám đốc sở an toàn công cộng, giám đốc sở cảnh sát, bí thư ủy ban chính pháp, phân cục trưởng các phân cục tại thành phố Lam Kinh… Các lãnh đạo lần lượt bắt tay từng thành viên của tổ chuyên án. Trên nét mặt và trong ánh mắt họ đều toát lên vẻ kì vọng và ủy thác.

    Khi tổ chuyên án đến sở cảnh sát thành phố Lam Kinh thì đã mười một giờ khuya, cả tòa nhà vẫn thắp đèn sáng choang, trước cửa có rất nhiều cảnh sát đứng xếp hàng nghênh đón, đứng đầu là một ông già tầm ngoại lục tuần, ông chính là cựu giám đốc sở cảnh sát của sở cảnh sát thành phố Lam Kinh, nay đã nghỉ hưu. Mười hai năm trước, ông nắm vai trò tổng chỉ huy đội đặc nhiệm chuyên trách nhiệm phá giải vụ án băm xác 19.1.

    Cựu giám đốc sở cảnh sát bắt tay giáo sư Lương và nói: “Thật đáng hổ thẹn! Vụ án băm xác 19.1 vẫn chưa phá được, nay lại xảy ra một vụ án băm xác nữa.”

    Giáo sư Lương nói: “Vụ án động trời nào cũng có ngày phải lộ rõ trắng đen! Chúng tôi sẽ cố gắng làm hết sức mình, bây giờ kĩ thuật điều tra hình sự rất tiên tiến nên hi vọng khả năng phá án sẽ cao hơn.”

    Cựu giám đốc sở giới thiệu những chiến sĩ cảnh sát đang xếp hàng chào đón tổ chuyên án, đó đều là những cảnh sát hình sự từng tham gia vào quá trình điều tra vụ án băm xác 19.1 mười hai năm về trước, bây giờ họ đều đã già, một số người còn phơ phơ tóc bạc. Cựu giám đốc sở chủ động muốn ra quân lần này, ông nói với tổ chuyên án rằng mình muốn lần nữa tham gia vào cuộc điều tra, lòng ông luôn đau đáu với vụ án chưa được phá giải suốt mười hai năm ấy. Cựu giám đốc sở cảnh sát tâm sự: “Mười hai năm rồi! Ngày đó tôi từng thề với cha của nạn nhân và thề trước toàn thể nhân dân thành phố Lam Kinh rằng nhất định sẽ bắt được hung thủ về quy án, vậy mà giờ đây, bao nhiêu năm đã trôi qua mà tôi vẫn chưa tóm được hung thủ. Hầy! Làm sao tôi còn xứng đáng mặc bộ cảnh phục trên người nữa!”

    Một viên cảnh sát trong đội cũng thốt lên đầy cảm khái: “Mười hai năm rồi Vụ án băm xác 19.1 là vụ án đầu tiên của tôi, đó là ngày đầu tiên tôi bắt đầu làm cảnh sát, tôi cũng từng gặp cha của Điêu Ái Thanh, đó là một người nông dân hiền lành, chất phác. Suốt hơn chục năm nay, tôi thường nghĩ đến hai câu chuyện, thậm chí ngay cả trong mơ hai câu chuyện đó cũng xuất hiện khiến giấc ngủ của tôi luôn trong trạng thái chập chờn.

    Rồi viên cảnh sát kể về hai câu chuyện nhỏ mà mình biết khi thẩm vấn cha mẹ của Điêu Ái Thanh vào năm ấy.

    Điêu Ái Thanh không thích đi xe đạp, cô xuất thân trong một gia đình bần hàn, thuở nhỏ cha thường đạp xe chở cô ngồi đằng sau. Lúc xảy ra vụ án, cha Điêu Ái Thanh nói mỗi lần đạp xe một mình trên con đường nhỏ ở thôn quê, ông cứ ngoảnh đầu lại nhìn gác baga sau xe theo quán tính, bấy giờ mới phát hiện con gái mình không còn trên cõi đời này nữa.

    Sau khi con gái bị hại, mẹ Điêu Ái Thanh cũng trở nên u sầu, ít nói, bà làm việc trong xưởng lắp ráp động cơ diesel, thỉnh thoảng bà lại ngồi thẫn thờ nhớ đến một lần nói chuyện với con gái.

    Mẹ Điêu Ái Thanh hỏi: “Ái Thanh! Sau tai con sao lại có nốt ruồi thế kia?”

    Điêu Ái Thanh cười đáp: “Để về sau lỡ con mất tích, mẹ còn biết đường mà tìm!”

    Giáo sư Lương lập tức quyết định thành lập đội án tồn, thành viên là tất cả các cán bộ cảnh sát đã từng tham gia điều tra vụ án băm xác 19.1, đơn vị chỉ huy đội án tồn là tổ chuyên án. Văn phòng chỉ huy tạm thời đặt tại tòa nhà văn phòng số 5 của đội cảnh sát hình sự thuộc sở cảnh sát thành phố Lam Kinh. Ba lực lượng điều tra hình sự gồm cựu giám đốc sở cảnh sát, đội trưởng đội cảnh sát hình sự số 5, phân cục trưởng khu vực Cổ Lâu đều tập trung ở đây và cùng làm việc với tổ chuyên án.

    Đêm đó, bộ chỉ huy vụ trọng án đến từ các ban ngành cảnh sát thuộc các cấp thành phố, tỉnh và trung ương nhanh chóng thành lập, tổ chuyên án chịu trách nhiệm lãnh đạo hạt nhân và tổng chỉ huy, nếu lực lượng cảnh sát chưa đủ thì rút thêm từ tuyến tỉnh, nếu nhân viên chưa đủ thì rút thêm từ các ban ngành khác, tóm lại tất cả cần đảm bảo để tiến hành công tác phá án, tất cả phải hết sức giúp đỡ và tạo điều kiện cho lực lượng phá án. Phía dưới bộ chỉ huy còn có các tổ chuyên đi điều tra và thăm dò dư luận, tổ pháp y, tổ khám nghiệm hiện trường, tổ phân tích vật chứng, tổ kĩ thuật tính toán, số liệu, tổ giám định dấu vết, tổ quản lí hồ sơ, tổ thu thập các manh mối từ quần chúng nhân dân…

    Sáng hôm sau, phó cục trưởng Bạch Cảnh Ngọc điều động đội quân tinh nhuệ nhất trong giới cảnh sát cả nước và thành lập đội chuyên gia, rồi ra lệnh khẩn cấp triệu tập tại thành phố Lam Kinh tham gia vào bộ chỉ huy vụ trọng án, trong đó bao gồm các chuyên gia phục dựng hình tội phạm, chuyên gia xét nghiệm ADN, chuyên gia phân tích mẫu máu, mẫu răng, giám định dấu vết và cả nhà tâm lí học chuyên phân tích tâm lí biến thái của tội phạm, mỗi chuyên gia đều lừng danh khắp cả nước.

    Có thể nói bộ chỉ huy chuyên án đều là những nhân vật vô cùng ưu tú, thế trận trước khi xuất binh vô cùng dũng mãnh.

    Tổ chuyên án mở cuộc họp hàng trăm người, họ vạch ra nguyên tắc làm việc chung và phân công nhiệm vụ cụ thể đồng thời cho rằng lần này phải phá cả vụ 19.1 và vụ 1l.9, hồ sơ vụ án cũ đã bị niêm phong suốt mười hai năm, nay lại phải mở ra lần nữa. Tổ chuyên án vào phòng lưu trữ hồ sơ, bấy giờ giáo sư Lương mới hiểu ra vì sao phó cục trưởng không cầm tập hồ sơ vụ án đến cho ông như mọi lần, hồ sơ vụ 19.1 quá nhiều, chất đầy mấy gian phòng.

    Phần đầu bị hung thủ nấu chín của Điêu Ái Thanh được bảo quản đông lạnh mười mấy năm. Hàng loạt ảnh chụp hiện trường cho thấy cảnh tượng xảy ra vào nhiều năm trước. Mười mấy năm trước, cảnh sát thành phố Lam Kinh từng đăng tin tìm kiếm manh mối thông qua truyền hình, họ đưa ra hai chiếc túi đựng thi thể: một là chiếc ba lô bằng vải bò, một là chiếc túi xách tay kiểu cũ, còn có một tấm ga trải giường in hoa để gói từng mảnh tử thi, hi vọng mọi người dân thành phố cung cấp những thông tin có liên quan.

    Giáo sư Lương cử vài cảnh sát đi lấy mẫu máu và ADN của cha mẹ Điêu Ái Thanh, đồng thời đề nghị xét nghiệm lại mẫu ADN ở phần đầu và ở các mảnh thi thể của nạn nhân, kiểm tra chất vi lượng dính trên chiếc túi và khăn trải giường chứa tử thi, hòng tìm ra những vật chứng nhỏ bé nhất mà hung thủ để lại, nếu có thể lấy được ADN của hung thủ thì hoàn toàn có thể hi vọng vào khả năng phá được vụ án này.

    Một chuyên gia xét nghiệm ADN than phiền: “Sao hung thủ lại dùng khăn trải giường màu đỏ nhỉ? Hầy! Nếu là màu trắng thì chúng tôi sẽ phát hiện được nhiều chi tiết vụn vặt hơn.”

    Chuyên gia giải thích, ga giường màu đỏ thẫm, vật liệu bị nhuộm màu là vật liệu khó đối phó nhất khi tiến hành xét nghiệm ADN.

    Phương pháp gây án của vụ băm xác mười hai năm trước và phương pháp gây án của vụ băm xác 11.9 tương đồng nhau, địa điểm vứt xác cũng vô cùng trùng hợp, tổ chuyên án thảo luận rất sôi nổi trong cuộc họp, mọi người đưa ra hai luồng ý kiến trái chiều, một bên cho rằng hai vụ án này do cùng một hung thủ gây ra, bên còn lại cho rằng hung thủ của vụ thứ hai là một kẻ khác y đã cố tình bắt chước vụ án thứ nhất.

    Ba địa điểm vứt xác của vụ án 11.9 đều được cảnh sát bảo vệ nghiêm ngặt. Giáo sư Lương yêu cầu Bao Triển dẫn theo chuyên gia tiến hành khám nghiệm lại hiện trường, họ bắt đầu cố định những vật rơi rụng, đánh dấu kí hiệu và chụp ảnh lấy tang chứng từ khu vực trung tâm. Đầu tiên Bao Triển chụp ảnh toàn cảnh hiện trường và cảnh trung tâm hiện trường, sau đó triển khai tìm kiếm trong phạm vi bán kính hai ngàn mét, nhưng vẫn không phát hiện thấy bất kì vật chứng khả nghi nào. Cảnh sát vác cả thùng rác vứt túi chứa tử thi về bộ chỉ huy, lôi tất cả rác rưởi trong thùng ra, chụp ảnh lấy tang chứng, mấy chục người làm việc quên ngày quên đêm suốt ba hôm, nhưng ngoại trừ túi đựng xác ra, thì không thu lượm được gì hơn.

    Bộ chỉ huy thành lập phòng thí nghiệm.

    Ba tổ gồm tổ khám nghiệm hiện trường, tổ phân tích vật chứng và tổ giám định dấu vết kết hợp với nhau tạo thành phòng thí nghiệm, họ được cung cấp rất nhiều thiết bị khoa học tối tân, bao gồm kính hiển vi quét điện tử, máy đo quang phổ hồng ngoại Fourier, máy đo độ sáng quang phổ siêu vi, máy đo phức hợp sắc ký khí và hối phổ GC-MS, máy đo sắc kí khí, máy đo sắc khí lỏng, hệ thống đèn led chuyên thí ghiệm và xác nhận, máy đo quang phổ tử ngoại, máy quét siêu mỏng, thiết bị phân tích hình ảnh pháp y, máy khuếch tán ADN, máy xét nghiệm và sắp xếp ADN, trạm công tác phân biệt ngôn ngữ, máy kiểm nghiệm giấy tờ… và các loại thiết bị thực nghiệm khác.

    Giáo sư Lương yêu cầu các chuyên gia kiểm tra túi chứa tử thi và túi nilon ở mức chi tiết hết sức có thể, để tìm kiếm những vết máu còn lưu lại, nước bọt, dịch đờm, lông tóc, móng tay, vết bẩn, vết dầu bắn, gầu hoặc tổ chức tế bào của cơ thể người.

    Phần đầu của nạn nhân vụ 11.9 đã bị làm chín, nên mặt mũi đều biến dạng, nhưng thông qua xét nghiệm ADN, các chuyên gia kết luận nạn nhân là nam, khoảng bốn mươi tuổi.

    Hai vụ án bắt đầu xuất hiện điểm khác biệt, trong vụ thảm án 19.1 xảy ra mười hai năm trước, nạn nhân là nữ, hai mươi tuổi, còn vụ thảm án 11.9 xảy ra mười hai năm sau, nạn nhân lại là nam, bốn mươi tuổi.

    Các tình tiết mới phát hiện khiến vụ án trở nên phức tạp hơn, tổ chuyên án thảo luận và đưa ra các phân tích, Bao Triển đặt một giả thiết khá táo bạo, anh nói có thể nạn nhân bốn mươi tuổi kia chính là hung thủ trong vụ băm xác 19.1, nên một người biết rõ nội tình nào đó đã báo thù cho người chết, y bị giết bằng chính phương pháp mà y đã từng sử dụng để giết người. Ngoài ra còn một khả năng nữa, người đàn ông đó chính là kẻ biết rõ nội tình hoặc kẻ vô tình chứng kiến màn giết người của hung thủ nên anh ta đã bị hung thủ thủ tiêu để bịt đầu mối.

    Hai giả thiết trên đều khiến người ta rùng mình ớn lạnh.

    Hung thủ đã giết chết người biết rõ nội tình sau bao nhiêu năm ư?

    Hay kẻ biết rõ nội tình đã ra tay giết chết hung thủ sau bao nhiêu năm?

    Khả năng nào tiệm cận với chân tướng sự thật hơn?

    Tận dụng khả năng sử dụng máy tính, Tô My đã tìm thấy những người từng đăng bài viết về vụ án 19.1 trên mạng xã hội. Black Mass đồng ý trả lời thẩm vấn của cảnh sát tại phân cục Cổ Lâu, cậu ta tự nhận mình xuất thân trong gia đình toàn người học luật, từng công tác tại văn phòng luật sư và tòa án, hiện tại làm việc tại một ngân hàng. Nickname trên mạng của anh ta là Black Mass, sở dĩ lấy nickname này vì anh ta thích nghe nhạc Rock thể loại Heavy Metal.

    Giáo sư Lương nói: “Năm 1996, cậu mới mười bốn tuổi khi ấy cậu chỉ là một học sinh cấp hai nên có thể loại trừ cậu ra khỏi danh sách tình nghi.”

    Phân cục trưởng phân cục Cổ Lâu hỏi: “Vì sao cậu lại quan tâm đến vụ án đã xảy ra mười mấy năm trước và vì sao cậu lại nghĩ đến chuyện đăng bài phỏng đoán hung thủ vụ án trên mạng xã hội?”

    Black Mass đáp: “Tôi chú ý đến vụ án này từ năm 2006 sau khi đọc những bài đăng tải trên mạng xã hội nói về vụ án này. Mục đích ban đầu của tôi khi đăng bài viết là muốn thu hút các cao thủ nhảy vào cuộc, thảo luận về vụ án mà thôi, nhưng chẳng ngờ có người lại nghi ngờ tôi là hung thủ.”

    Giáo sư Lương nói: “Tôi đã đọc hết bài viết mà cậu đăng trên mạng xã hội. Thực ra những suy đoán và phân tích của cậu cũng khá có lí, chúng tôi sẽ đi sâu điều tra thêm. Cậu cho rằng “Hung thủ là đàn ông, thời điểm gây án có lẽ y khoảng ba mươi đến bốn mươi tuổi, cũng có khả năng chưa đến ba mươi tuổi, ngoại hình toát lên vẻ đứng đắn và chín chắn, tính cách hướng nội, hòa nhã với mọi người, vẫn độc thân, trình độ học vấn và văn hóa khá cao, thích nghe nhạc, có khả năng còn là người yêu thích cả văn học, sống một mình gần khu vực đại học Lam Kinh, am hiểu một số kiến thức về lĩnh vực y học, nhưng không ai biết điều này”, nhưng có một điểm cực kì quan trọng mà cậu lại bỏ qua đấy!”

    Black Mass tò mò hỏi: “Điểm gì vậy?”

    Giáo sư Lương nghiêm giọng cảnh báo: “Đây là vấn đề cần được bảo mật bởi vậy tôi hi vọng sau khi nghe xong cậu phải tuyệt đối giữ miệng!”

    Black Mass hứa: “Được! Tôi sẽ ngậm miệng!”

    Giáo sư Lương chậm rãi nói: “Trong vụ án 19.1, cảnh sát không tìm thấy một phần nội tạng và xương của nạn nhân. Cậu thử đoán xem, chúng biến đi đâu?”

    Black Mass nói: “Khả năng chúng bị hung thủ vứt đi hoặc cũng có thể hung thủ đã chôn chúng.”

    Giáo sư mập mờ gợi ý: “Còn một khả năng nữa đấy! Cậu thử nghĩ theo hướng kinh dị nhất xem nào!”

    Black Mass bỗng tái mặt, cậu ta lắp bắp hỏi lại: “Lẽ nào… Trời ơi! Chẳng lẽ hung thủ là con ác quỷ ăn thịt người sao?”

    Chương 3Ngõ nhỏ tối tăm
    Hai người đăng bài trên mạng xã hội còn lại cũng bị cảnh sát gọi đến thẩm vấn, rất nhiều dường như vô cùng húng thú với vụ án này, thậm chí khi cảnh sát muốn moi lời khai của anh ta thì anh ta còn hỏi vặn lại cảnh sát: “Hung thủ có súng phải không?”

    Giáo sư Lương và phân trưởng phân cục Cổ Lâu đưa mắt nhìn nhau, cuối cùng phân cục trưởng hỏi: “Sao cậu lại hỏi vậy?”

    Anh ta trả lời: “Mười hai năm trước khi cảnh sát tiến hành thẩm vấn hàng loạt dân cư quanh khu vực này, rất nhiều lần họ hỏi có để ý nhà ai cất giữ thuốc nổ hoặc gần đây có ai là thợ săn không. Chi tiết này vô cùng quan trọng, rất có thể trên các phần tử thi của Điêu Ái Thanh hoặc trên vỏ túi, trên mặt ga trải giường còn lưu lại dấu vết thuốc súng. Giả sử Điêu Ái Thanh bị bắn chết thì nhiều khả năng người dân quanh đó sẽ nghe thấy tiếng súng vang lên vào đêm cô bị sát hại. Còn nếu những suy diễn của tôi là sai thì tại sao cảnh sát lại hỏi về thuốc súng và thợ săn?”

    Phân cục trưởng ý nhị nói: “Cậu đừng đoán mò! Nhiều chuyện không nên biết sẽ tốt hơn. Đôi khi hôm nay ta biết chuyện hôm sau ta mất mạng.”

    Giáo sư Lương nói: “Thời điểm đó sắp đến tết nên có thể đó chỉ là thuốc pháo hoặc pháo hoa gì đó. Tốt nhất cậu đừng suy đoán lung tung!”

    Sau khi xảy ra vụ án thảm khốc này, cảnh sát xác định lai lịch của nạn nhân chính là trọng điểm cần phá giải. Trong vụ án băm xác 11.9, đường nét trên mặt nạn nhân đều vẹo vọ, không thể nhận diện được nữa. Sáu chuyên gia làm việc quần quật suốt nửa ngày để tìm ra những dấu vết nhỏ nhất, họ lợi dụng kĩ thuật phục chế để phục dựng lại chân dung nạn nhân. Đây là một phương pháp khoa học điều tra rất kì diệu, thậm chí một hộp sọ đào dưới mộ lên cũng có thể phục chế thành khuôn mặt của người còn sống lúc ban đầu. Bức ảnh hiện ra! Người chết là một người đàn ông trung niên, mắt to, lông mày rậm, khuôn mặt khá lớn, mũi diều hâu, đeo kính cận.

    Tất cả cảnh sát của thành phố Lam Kinh đều đứng dậy bắt tay ngay vào việc, mỗi người cầm một tấm ảnh, tìm kiếm và điều tra lai lịch của nạn nhân trong phạm vi toàn thành phố.

    Tổ chuyên gia lại có thêm một bước tiến triển mới, họ yêu cầu lập tức triệu tập cuộc họp công bố về vụ án. Họ muốn đưa ra cao kiến gì đây? Một chuyên gia giám định dấu vết thay mặt tổ chuyên gia đứng lên phát biểu, ông ta cao giọng khẳng định: “Rất có khả năng hung thủ là một phụ nữ!”

    Lời vừa dứt thì cả hội trường vang lên tiếng xôn xao bàn luận, nhiều người ghé tai người bên cạnh thầm thì điều gì đó.

    Chỉ cần phạm tội nhất định sẽ để lại dấu vết.

    Trong vụ án băm xác 11.9, hung thủ cho thi thể nạn nhân vào túi nilon màu đen, các chuyên gia lấy kính hiển vi tìm kiếm từng vết tích lưu lại trên túi. Họ thấy đó là chiếc túi còn mới tinh, chưa qua sử dụng, điều đáng tiếc là họ không lấy được dấu vân tay của hung thủ, sau đó túi nilon này bị vứt vào thùng rác, các chuyên gia tốn rất nhiều công sức và thời gian để làm các giám định. Đầu tiên họ loại bỏ các dấu vết rác rưởi dính trên túi nilon, sau đó họ liền phát hiện thấy một vết bẩn rất nhỏ lưu trên quai xách của túi.

    Dường như vết bẩn đó do hung thủ để lại.

    Tổ chuyên gia phóng to các thành phần vết bẩn lên một trăm lần, lần lượt giám định các thành phần vi chất chứa trong đó. Vết đó chỉ là một chấm màu đỏ, nhỏ như lỗ kim châm. Ban đầu các chuyên gia ngỡ đó là vết máu. Nếu đó là máu của hung thủ dính vào thì không còn nghi ngờ gì nữa, đó sẽ chính là điểm đột phá của vụ án. Quá trình giám định vật chứng diễn ra vô cùng nghiêm ngặt, đầu tiên các chuyên gia phải xác định xem chấm màu đỏ đó có phải máu không thông qua phương pháp thực nghiệm hóa học. Kết quả khiến mọi người thất vọng tràn trề.

    Chấm đỏ đó không phải máu người!

    Quá trình giám định hoàn toàn sáng tỏ, từ thành phần của vết bẩn, các chuyên gia phát hiện đó là vết dầu trộn lẫn sữa bò, còn màu đỏ là màu son môi!

    Chuyên gia giám định dấu vết tiếp tục trình bày: “Vết son cho phép chúng ta suy đoán có thể hung thủ là phụ nữ.”

    Tô My hỏi: “Các anh có chắc chắn thành phần chứa trong vết bẩn là sữa bò không? Hay đó là sữa người? Điều này vô cùng quan trọng.”

    Chuyên gia giám định dấu vết nói: “Chúng tôi đã thực hiện phép so sánh, thành phần protein trong sữa bò cao gấp ba lần sữa người, mà thành phần chủ yếu trong protein của sữa bò là casein, trong khi thành phần chủ yếu trong protein của sữa người là albumin.”

    Bao Triển thắc mắc: “Anh vừa nói có dầu trên vết bẩn ư? Đó là loại dầu gì? Dầu diesel, xăng hay dầu ăn?”

    Chuyên gia giám định dấu vết trả lời: “Đó là loại dầu ăn thường để rán xào hàng ngày.”

    Bao Triển nói: “Thế thì chúng ta có thể hình dung quá trình vứt xác diễn ra như thế này. Sớm tinh mơ, khi trời còn chưa sáng hẳn, đường phố nhá nhem tối, có một người phụ nữ bôi son đỏ đi xe đạp điện nhưng không bật đèn xe, trong giỏ xe là mấy chiếc túi nilon màu đen và ba lô chứa thi thể nạn nhân. Khi xe chạy đến gần thùng rác, cô ta không dừng hẳn mà chỉ đi chậm lại, rồi vứt túi vào thùng. Rất có khả năng lúc ấy cô ta vô tình quệt lên môi, nên bị son dính vào ngón tay, khi vứt rác, vết son lưu lại trên quai túi…”

    Giáo sư Lương hỏi: “Loại dầu thực vật mà các anh nói là dầu đỗ tương, dầu mè hay dầu hạt cải?”

    Chuyên gia giám định dấu vết luống cuống đáp: “Chuyện đó… chúng tôi cần giám định thêm mới kết luận được.”

    Giáo sư Lương lập tức phê bình tốc độ làm việc và mức độ tỉ mỉ của tổ chuyên gia, ông yêu cầu họ phải nhanh chóng cho biết thành phần của loại dầu dính trên quai túi.

    Cuộc họp vừa giải tán, các chuyên gia giám định dấu vết lập tức trở về phòng kiểm định lại, kết quả cho thấy đó là loại dầu hạt bông. Các gia đình rất ít khi sử dụng loại dầu này để nấu ăn, hơn nữa các chuyên gia sử dụng máy chuyên dụng của cục an toàn vệ sinh để đo mức độ ôxi hóa trong dầu, họ nhúng đầu kim loại của máy vào dầu, mười phút sau, thiết bị này hiển thị chỉ số “42”, điều đó cho thấy loại dầu này bị tái sử dụng nhiều lần. Các chuyên gia còn phát hiện ra kiềm và phèn chứa trong dầu ăn.

    Chuyên gia giám định vội vàng đi tìm giáo sư Lương và báo tin tốt cho ông.

    Ông ta hớn hở khoe: “Anh Lương! Tôi xác định chắc chắn rồi! Đó là dầu dùng để chiên quẩy.”

    Giáo sư Lương vui mừng hỏi lại: “Anh chắc chắn không?”

    Chuyên gia giám định gật đầu khẳng định: “Tuyệt đối không thể sai được! Đó chính là loại dầu thường dùng để chiên quẩy, nó bị sử dụng lại nhiều lần, trong dầu còn có thành phần kiềm và phèn, đó là những chất dùng để chế biến quẩy.”

    Giáo sư Lương bảo Họa Long lập tức xuất phát, triệu tập tất cả chủ hàng bán quẩy ở gần khu vực vứt xác đến đồn cảnh sát để thẩm vấn. Họa Long đến địa điểm cần điều tra mới biết ở đó chỉ có một hàng quẩy duy nhất. Chủ cửa hàng là người đàn ông tầm ngoại ngũ tuần, mặc tạp dề, nom khá quê mùa và chất phác.

    Hàng ngày ông thường cùng con dâu dậy bày hàng bán quẩy từ lúc bốn giờ sáng. Quán của ông ta rất đông khách, đa số đều là dân quanh vùng. Ông ta không có ấn tượng đặc biệt với bất kì khách mua hàng nào, cũng không nhớ ra trong số khách hàng của mình có ai là phụ nữ tô son đỏ hay không.

    Giáo sư Lương nói: “Ông cố nhớ lại xem sao!”

    Bao Triển gợi ý: “Ngày 11 tháng 9, lúc trời còn lờ mờ tối, trong số khách hàng ngồi ăn sáng trong quán ông có khách hàng nào là phụ nữ, tô son đỏ, đi xe đạp, trong giỏ xe có một vài túi nilon màu đen không?”

    Ông chủ hàng quẩy nghĩ một hồi rồi lắc đầu, nhưng sau đó ông ta đột nhiên hỏi: “Hai người dò hỏi chuyện này có phải liên quan đến vụ băm xác xảy ra hơn chục năm trước không?”

    Giáo sư Lương trả lời nửa vời: “Ông đừng sợ! Chúng tôi chỉ muốn tìm hiểu chút thôi! Nếu ông nhớ ra điều gì thì báo lại cho chúng tôi nhé!”

    Sau khi ông chủ hàng quẩy rời đi, giáo sư Lương liền xác định lại phương hướng điều tra, “Rất có thể hung thủ từng mua quẩy, có lẽ y sống ở gần khu vực bán quẩy. Tổ điều tra và thăm dò dư luận lấy hàng quẩy làm trung tâm bắt đầu mở rộng phạm vi điều tra, dẫu lần này không thu hoạch được gì thì chí ít cũng thu hẹp được phạm vi điều tra, đối tượng điều tra trọng điểm là những công dân độc thân hoặc từng có tiền án tiền sự ở quanh khu vực dân cư.”

    Không biết vì sao Bao Triển lại thấy nghi nghi lão bán quẩy, ánh mắt ông cho thấy dường như ông ta đang giấu giếm cảnh sát điều gì đó, hơn nữa trên người cũng tỏa ra mùi rất lạ. Bao Triển dẫn hai nhân viên điều tra lại đến nhà ông chủ hàng quẩy lần nữa.

    Ông chủ hàng quẩy sống trong một ngõ nhỏ.

    Đây là con ngõ rách nát với những ngôi nhà kiểu cũ vừa thấp bé vừa tồi tàn, bờ tường bong tróc, trong ngõ có nhiều hàng quán nhỏ được tu sửa từ nhà dân, trông rất bẩn thỉu và mất vệ sinh. Ngõ nhỏ không có đèn đường nên bóng chiều vừa nhập nhoạng đổ xuống, cả con ngõ đã chìm trong âm u, tăm tối. Những căn nhà thấp lè tè ở đây đều được lợp bằng tấm lợp fibro xi măng, trong sân nhà nào cũng trồng một vài cây hòe hoặc cây du, thỉnh thoảng có con mèo đen thoắt ẩn thoắt hiện trên bờ tường. Nếu phải đi một mình trong con ngõ âm u này vào buổi tối khách bộ hành ắt thấy ớn lạnh.

    Thật khó tưởng tượng giữa lòng đô thị phồn hoa và hào nhoáng lại tồn tại một ngõ hẻm tồi tàn và cũ kĩ như vậy. Thật trùng hợp, con ngõ lại nằm ngay cạnh đại học Lam Kinh!

    Có thể khẳng định chắc chắn rằng mười năm trước nạn nhân Điêu Ái Thanh từng đi lại trong ngõ nhỏ âm u này.

    Mười năm trước, trong ngõ còn có cửa hàng cho thuê truyện, thuê đĩa. Điêu Ái Thanh rất thích đọc sách, sau khi xảy ra vụ án thảm khốc, cảnh sát liền điều tra cửa hàng đó, nhưng không phát hiện thấy manh mối khả nghi nào. Bao Triển nói với ông giám đốc sở cảnh sát: “Từ khi Điêu Ái Thanh mất tích cho đến khi tìm thấy thi thể của cô ấy trải qua những chín ngày, khoảng thời gian này thừa sức để hung thủ dọn sạch hiện trường.”

    Cựu giám đốc sở thừa nhận điều này, ông lấy làm tiếc vì khi đó cảnh sát không bắt tay điều tra ngay từ khi phát hiện Điêu Ái Thanh mất tích, nếu vậy thì có thể đã phá giải được vụ án 19.1, sinh viên mất tích mà nhà trường không hề hay biết, rõ ràng nhà trường không thể chối bỏ phần trách nhiệm của mình.

    Bao Triển và hai cảnh sát đứng trong ngõ, gió thổi hiu hiu, chẳng biết vong hồn mười mấy năm trước lượn lờ quanh ngõ nhỏ này bao giờ mới được siêu thoát?

    Ông chủ hàng quẩy sống trong ngôi nhà có sân vườn bao quanh ở cuối ngõ, đó là ngôi nhà ba gian lợp fibro xi măng, giữa vườn có một gốc ngô đồng, trên tường gạch cắm mảnh thuỷ tinh vỡ để đề phòng trộm bò vào. Con trai chủ nhà hơn ba mươi tuổi, anh ta mở quán mì thịt dê, quán mì chính là một ngôi nhà khác của gia đình nằm ở phố bên cạnh, cô con dâu rất đảm đang và chịu thương chịu khó, sáng sớm đã cùng cha chồng ra đầu phố bán quẩy, xong việc lại chạy về nhà giúp chồng bán mì.

    Trong vườn ứ đầy nước tù đọng vàng khè, rác rưởi vương vãi lung tung khắp nơi, vì con ngõ không có rãnh thoát nước nên đa phần các hộ gia đình sinh sống tại đây đều chọn cách đào một giếng ngầm ngay trong vườn nhà mình. Bao Triển chú ý đến những vết máu loang lổ quanh miệng giếng, hai viên cảnh sát đi theo cũng lập tức cảnh giác. Con trai chủ nhà giải thích rằng nhà anh ta mới giết dê trong vườn, Bao Triển quệt tay vào vết máu, ngửi một lát rồi gật đầu không nói gì.

    Bao Triển lấy hai bức ảnh ra cho anh ta nhận diện, đó là di ảnh của Điêu Ái Thanh và ảnh phục dựng của nạn nhân vụ băm xác 11.9. Con trai và con dâu chủ nhà không có ấn tượng gì về nhân vật trong ảnh, nhưng khi ánh mắt ông chủ hàng quẩy liếc thấy ảnh của Điêu Ái Thanh, ông ta thoáng vẻ hoảng hốt, nhưng lại nói tránh rằng hơn chục năm trước cảnh sát cũng cầm bức ảnh y như vậy đưa cho ông ta xem.

    Bao Triển hỏi: “Năm 1996 ông làm nghề gì?”

    Ông chủ hàng quẩy trả lời: “Bán quẩy chứ làm gì! Tôi bán quẩy đã hơn chục năm rồi!”

    Một viên cảnh sát đùa: “Thế thì thành cụ quẩy rồi còn gì!”

    Ông chủ hàng quẩy cười đáp: “Cậu nói chí phải! Tôi rất thích biệt danh này!”

    Bao Triển lại hỏi về buổi sáng sớm ngày 11 tháng 9, khi mới mở hàng bán quẩy ông ta có để ý thấy người nào khả nghi không. Cô con dâu nghĩ một lát rồi buột miệng nói: “Ồ! Có một người! Tôi phải kể cho các anh nghe một chuyện rất lạ.”

    Ông chủ hàng quẩy lập tức ngắt lời con dâu: “Hừ! Đừng nhiều lời!”

    Bao Triển yêu cầu cô tiếp tục nói, ông chủ hàng quẩy trừng mắt nhìn cô con dâu lắm mồm rồi quay người bỏ đi. Cô gái định nói rồi lại thôi, Bao Triển phải khích lệ mấy lần, cuối cùng cô mới ấp a ấp úng kể lại câu chuyện. Sáng tinh mơ hôm ấy trời còn chưa sáng hẳn, cô con dâu cùng bố chồng đã dậy bày hàng, có một gã gù đi xe ba bánh đến mua quẩy, trên xe ba bánh lùm lùm mấy túi nilon màu đen. Cô con dâu tò mò hỏi gã: “Gì trong túi nilon thế anh?”

    Gã gù đáp: “Nhân thịt!”

    Gã gù đi rồi, bố chồng liền mắng cô một trận, cô gái cảm thấy rất ấm ức vì trận mắng vô cớ của bố.

    Lúc bấy giờ ông bố mới thì thầm nói với con dâu: “Mày biết thằng gù đó là ai không?”

    Cô con dâu vẫn giận bố, nên dằn dỗi đáp: “Làm sao con biết anh ta là ai!”

    Ông bố chồng cố ghìm nhỏ giọng nói: “Bố biết thằng đó là ai. Nó chính là thằng gù trong nhà hỏa táng, là công nhân hỏa táng của nhà tang lễ đấy!”

    Chuyện này quả nhiên kỳ quái thật! Gã gù đi mua quẩy vào buổi sớm tinh mơ, trên xe ba bánh lại có một bọc nhân thịt, trong khi hắn không mở quán cơm cũng không bán bánh bao hoặc nhân bánh, mà hắn chỉ là công nhân chuyên hỏa táng xác chết trong nhà tang lễ. Vì nhát gan và sẵn tính thận trọng nên ông chủ hàng quẩy không dám hở môi tiết lộ chuyện này cho cảnh sát. Bao Triển hoàn toàn có thể lí giải được tâm lí của ông ta.

    Một viên cảnh sát chợt hỏi: “Có phải gã gù mà cô nói đến vừa đen lại vừa lùn, đầu hói, mắt tam giác, khóe mắt còn có nốt ruồi lớn đúng không?”

    Cô con dâu xác nhận: “Đúng! Đúng!”

    Viên cảnh sát hít ngược một hơi, rồi hỏi tiếp: “Hắn khoảng năm mươi tuổi phải không?”

    Cô con dâu lại xác nhận: “Đúng thế!”

    Bao Triển hỏi: “Chẳng lẽ gã gù ở nhà hỏa táng từng phạm tội gì sao?”

    Viên cảnh sát thoáng rùng mình, gật đầu đáp: “Hắn ăn thịt người!”

    Chương 4Ác quỷ
    Trên thế giới từng xảy ra một số vụ án ăn thịt người hãi hùng và ghê rợn, nổi tiếng nhất phải kế đến vụ “đồ tể của Rostov” xảy ra ở Liên bang Nga và vụ “quái vật ở Milwaukee” xảy ra tại Mỹ.

    Đồ tể Rostov có tên thật là Andrel Romanovich Chikatilo, y còn có các biệt danh khác như máy xới Đỏ hay máy xới Rostov, bị buộc tội tấn công tình dục, đánh đập và giết hại ít nhất năm mươi hai phụ nữ và trẻ em giữa những năm 1978 và 1990 tại Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga. Chikatilo thú nhận giết hại tổng cộng năm mươi sáu người, trong đó năm mươi ba vụ đã được chứng minh tính đến tháng 4 năm 1992. Phương pháp giết người của y là giày vò nạn nhân cho đến chết, rồi hành hạ xác, cuối cùng là ăn. Suốt hai mươi năm, địa điểm phạm tội của y lan rộng khắp liên bang Nga, nhưng địa bàn hoạt động chủ yếu là ở Rostov, chính vì thế y mới có biệt danh đồ tể của Rostov. Bề ngoài Chikatilo là một thầy giáo đáng kính, nên ngay từ đầu cảnh sát đã loại trừ y ra khỏi danh sách tình nghi kẻ giết người hàng loạt, nhưng thực tế y lại chính là hung thủ sát hại rất nhiều người. Đồ tể của Rostov là kẻ gặp trở ngại về khả năng sinh lí, chỉ sau khi giết người y mới thực hiện được hành vi tình dục. Từ năm 1978 đến năm 1992, y từng nhiều lần bám theo các bé gái ở các bến tàu, bến xe. Sau khi các bé gái mất tích, cảnh sát chỉ tìm thấy những thi thể đã bị giết hại.

    Quái vật Milwaukee có tên thật là Jeffrey Lionel Dahmer, thực tế là một kẻ đồng tính, Jeffrey được mệnh danh là tiến sĩ ăn thịt người trong phim “Sự im lặng của bầy cừu” phiên bản đời thực. Y là kẻ giết người hàng loạt và tội phạm tình dục, với những tội danh hiếp dâm, giết người và chặt xác mười bảy đàn ông và các bé trai trong khoảng thời gian từ năm 1978 tới năm 1991, trong đó rất nhiều vụ y còn quan hệ tình dục với tử thi, ăn thịt người và cả chiếm giữ vài bộ phận cơ thể, đặc biệt những bộ phận liên quan tới cấu trúc xương người. Y rất chú trọng đến phương pháp chế biến tử thi, đầu tiên y chọn bộ phận mình thích ăn, cắt ra cho vào tủ lạnh, phần còn lại ném vào bể Axit sulfuric đặc chế trong nhà bếp để phi tang. Trong hơn chục vụ án, y từng nhiều lần thử nghiệm giết hại hai anh em nhà nọ, khủng khiếp nhất là lần y mở nắp hộp sọ, đổ thuỷ ngân vào não họ. Cuối cùng y bị kết án chung thân và chết do chấn thương sọ não khi đang ở trong tù. Một bạn tù đã đánh y đến chết, tù nhân đó nói rằng y cảm nhận được mệnh lệnh của thượng đế, phải giết chết con quái vật ăn thịt người để thay trời hành đạo. Cuối cùng con quái vật đã kết thúc cuộc đời như thế!

    Trong lịch sử Trung Quốc cũng từng xảy ra một số vụ án ăn thịt người, nhưng giới cầm quyền tuyệt đối không bao giờ để lộ sự việc này, những bài luận văn của trường đại học Luật mà ta đọc được chỉ lén chụp lại một góc tảng băng trôi, ví như bài luận văn “hạ gục anh hùng xã hội đen Vương Lợi Quân” chỉ viết vắn tắt thế này “ứng dụng kĩ thuật phục dựng sọ người trong các vụ án đốt xác, ăn thịt người.” Giới truyền thông cũng từng đăng một số vụ án ăn thịt người đã được giải mã, và những vụ án giết người hàng loạt nào đó.

    Tên tội phạm họ Trương chặt một cô gái ra thành tám khúc, nhưng cảnh sát chỉ tìm thấy bốn khúc, hai khúc còn lại bị y thái thành miếng mỏng và làm chín…

    Tên ác quỷ giết người họ Lý giết liền năm cô tiếp viên trong vòng nửa năm.

    Trong nhà hỏa táng thành phố Lam Kinh từng xảy ra một vụ án kì lạ, người báo án nói rằng con gái mình bị mất một bên ngực trước khi được đưa vào lò hỏa táng. Sau khi điều tra, cảnh sát cho rằng gã gù làm việc tại nhà hỏa táng là kẻ tình nghi số một, nhưng gã không nhận tội. Về phía đơn vị hỏa táng, vì muốn giữ danh dự nên họ bồi thường cho gia đình nạn nhân một ít tiền cuối cùng vụ này được ẻm đi êm đẹp, gia quyến nạn nhân cũng rút lại đơn kiện.

    Chẳng bao lâu sau, nhà hỏa táng lại xảy ra vụ hãm hiếp tử thi. Chuyện này ầm ĩ đến nỗi cả thành phố đều biết chuyện, độ nổi tiếng của gã gù còn vượt qua cả thị trưởng thành phố, dân chúng có thể không biết tên của thị trưởng, nhưng hễ nhắc đến chuyện gã gù hãm hiếp xác chết thì ai cũng có thể kể lại hết sức sống động. Dường như quần chúng nhân dân có hứng thú với vụ việc này còn hơn cả những tin tức mang tính thời sự. Trong quá trình người nọ truyền tai người kia, mỗi người lại tự thêm mắm thêm muối cho sinh động. Một người dân kể rằng gã gù trong nhà hỏa táng rất nóng tính, có lúc điên lên hắn còn lấy gậy đánh vào xác chết, rồi quát lớn: “Mẹ mày! Có giỏi thì đứng dậy tao xem nào!”

    Vụ việc gã gù âu yếm xác chết được một nữ công nhân chuyên trang điểm cho xác chết chứng thực. Hơn nữa, nữ công nhân ấy không chỉ kể câu chuyện này một lần cho người khác nghe.

    Cô lễ tân của một cơ quan nhà nước nọ chẳng may mắc bệnh tim và qua đời. Cô được đưa đến nhà hỏa táng. Trước khi thực hiện thủ tục hỏa táng tử thi, lãnh đạo công ty và gia quyến luống cuống thế nào mà quên không mang chứng minh thư của người chết nên đành phải về nhà lấy, vì đường xa, ít nhất hai ngày mới lên đến nơi nên đêm hôm ấy gia đình cô lễ tân đành phải gửi tử thi lại nhà xác.

    Gã gù là nhân viên chuyên hỏa táng xác chết, hắn phụ trách trông coi nhà xác. Cuộc sống tình ái của hắn cũng dính nhiều điều tiếng vì thường quan hệ với gái mại dâm. Gã gù xấu xí, lại làm việc ở nhà hỏa táng nên chẳng cô gái nào chịu làm vợ hắn. Ngoại tứ tuần mà hắn vẫn đơn thân lẻ bóng.

    Nhà xác là phòng an nghỉ tạm thời, ở đó có các thiết bị đông lạnh, nhiệt độ ở đây luôn rất thấp, không khí âm u, đáng sợ. Gã gù ở gian phòng ngay cạnh nhà xác, trong phòng hắn chất đầy vòng hoa và các đồ tế lễ khác như vàng, hương, tiền giấy… Trước cửa còn có hai cây cổ thụ được kết bằng giấy trắng.

    Cô lễ tân nom vô cùng xinh đẹp, nằm yên lành trên cáng trong nhà xác, vì mới chết chưa lâu nên thân thể chưa cứng đờ, thêm vào đó cô còn được trang điểm và mặc áo dài nên trông chẳng khác gì người đẹp đang ngủ say. Gã gù nhìn thấy dung mạo cô gái xinh đẹp như tiên giáng trần thì động lòng, gã không kiềm lòng được bèn ôm lấy thi thể cô lễ tân, hôn lấy hôn để, và làm các hành vi biến thái đồi bại.

    Gã gù thở hổn hển như bò rống, rồi hét to một tiếng, cuối cùng bùng phát cao trào. Một lát sau, hắn nằm im và lại bắt đầu hôn xác chết say đắm.

    Những tử thi tựa vào tường làm khán giả kia mỗi người một tư thế, thậm chí có những tử thi chết vì tai nạn giao thông, chỉ còn nửa thân trên bấy máu. Ánh đèn halogen sáng trắng soi rõ từng ngóc ngách của nhà xác, gã gù đang hôn nữ thi chợt thấy một bóng người đứng bất động ở cạnh tường, bóng dáng ấy đứng thẳng như cán bút, chăm chăm nhìn y.

    Gã gù cứ ngỡ chiếc bóng đó chỉ là một tử thi mà không hề chú ý rằng xác chết làm sao mà đứng được!

    Gã gù tiếp tục vục mặt vào xác chết…

    Bóng người đó chính là cô công nhân chuyên trang điểm cho người chết trong nhà tang lễ, cô vô tình chứng kiến cảnh tượng kinh dị đó. Ngay hôm sau, cô liền xin nghỉ việc, rồi báo chuyện này cho cảnh sát. Khi cảnh sát ập đến hiện trường thì tử thi đã bị mang đi hỏa táng. Gia quyến cô gái nói họ không hề nhận thấy điểm gì khác thường, cơ thể cô lễ tân vẫn nguyên vẹn trước khi hỏa táng, quần áo vẫn mặc đàng hoàng. Họ không hề biết rằng lưỡi của cô gái đã biến mất.

    Vì thiếu chứng cứ nên cảnh sát không thể xử lý gã gù nhưng từ đầu ngõ đến cuối hẻm đều lan truyền câu chuyện về gã gù biến thái hãm hại tử thi trong nhà xác. Ban đầu phía nhà xác cũng muốn đuổi việc gã gù, nhưng lại nghĩ khó mà tìm được người thay thế hắn, bởi chẳng ai muốn làm công việc thiêu xác người thế là cuối cùng họ đành nhắm một mắt mở một mắt bỏ qua.

    Nghe viên cảnh sát kể xong câu chuyện, Bao Triển quyết định dẫn viên cảnh sát đó đến nhà hỏa táng điều tra chân tướng, có điều anh tài xế lại khăng khăng không chịu lái xe đưa họ đi, anh ta phân bua rằng tuần sau mình lấy vợ, mà cha lại vừa qua lễ mừng thọ tròn sáu mươi, nên không muốn đến nơi nhiễm đầy âm khí như nhà hỏa táng.

    Bao Triển và viên cảnh sát đành gọi taxi đến nhà hỏa táng bác lái taxi nói: “Đến nhà xác thì phải thêm tiền.”

    Bao Triển hỏi: “Thêm bao nhiêu?”

    Bác tài nói: “Thêm một đồng! Đây là luật ngầm của dân lái.”

    Tài xế taxi ở nhiều thành phố đều không muốn đưa khách đến nhà tang lễ hoặc nhà hỏa táng, họ lấy thêm một đồng vì muốn lấy may và cầu được yên lòng. Đó chỉ là một cách làm mê tín mà thôi, những xe chở người chết đều phải buộc một dải lụa đỏ để trừ tà.

    Bác tài nói: “Nhìn nhân viên nhà xác ăn trứng tráng hẹ mà tôi muốn buồn nôn.”

    Bao Triển hỏi: “Bác tài, bác làm nghề này bao lâu rồi? Bác đã nghe kể về gã gù ở nhà xác bao giờ chưa?”

    Bác tài đáp: “À! Thằng gù ăn thịt người chứ gì? Trước đây nó làm nghề kéo xe, nên cũng coi như là đồng nghiệp của tôi.”

    Bao Triển bảo viên cảnh sát lấy hai bức ảnh trong túi ra đưa cho bác lái xe nhận dạng. Bác tài xế không hề có ấn tượng gì về người đàn ông trong vụ án 11.9 trong ảnh, nhưng khi nhìn thấy ảnh của Điêu Ái Thanh thì ông như chợt nhớ ra điều gì đó liền lập tức phanh xe lại. Phản ứng dữ dội của bác tài khiến Bao Triển cảnh giác, anh liền giơ thẻ cảnh sát ra yêu cầu thẩm vấn. Bác tài giải thích rằng vào năm 1996 hàng tháng các tài xế lái taxi lại phải về công ty tham gia khóa học về an toàn giao thông, nhưng nội dung của những khóa học trong mấy tháng đó lại để phối hợp với cuộc điều tra của cảnh sát, cảnh sát yêu cầu họ phải nhớ lại trong thời gian gần đây có chở nạn nhân hoặc nghi phạm giết người không, bởi vậy ông có ấn tượng vô cùng sâu sắc về bức ảnh chụp chân dung của nạn nhân. Cảnh sát còn công bố hai chiếc túi trên bảng thông báo yêu cầu hỗ trợ điều tra. Ông còn nhớ rõ trong số đó có chiếc ba lô du lịch kiểu cũ in hình máy bay.

    Kể xong bác tài xế từ chối không đưa Bao Triển đi tiếp nữa, ông nói dẫu Bao Triển có cáo buộc ông không phối hợp với cảnh sát thì ông cũng không muốn đến nhà hỏa táng. Bao Triển bất lực, chỉ biết ghi nhớ số xe của ông ta, sau đó cùng viên cảnh sát đi bộ đến nhà xác.

    Trước cửa nhà xác có hàng lan can sắt, đi qua lan can là một đại sảnh kê mấy chiếc bàn dùng để làm thủ tục bàn giao thi thể, sát tường đặt vài vòng hoa và bình đựng tro cốt, cuối đại sảnh còn một dãy lan can nữa, bên trong chính là gian phòng đặt xác người chết, đa phần đều là thi thể tạm thời để đó chờ hỏa táng cũng có một vài tử thi vô danh không ai đến nhận. Đi qua hành lang của nhà xác là nhìn thấy một cánh cửa sắt khóa chặt. Đó là phòng bảo vệ trực ban. Gã gù sống ở đó.

    Người quản lí nhà xác đi cùng Bao Triển và viên cảnh sát đến phòng của gã gù để tiến hành thẩm vấn.

    Bao Triển và viên cảnh sát ngồi trước bàn làm thủ tục nhập tử thi, gã gù ngồi phía đối diện, vẻ mặt hung hãn, đôi mắt hình tam giác, khóe mắt vắt vẻo một cục mụn thịt, mái tóc bù xù trùm qua tai, hắn cúi đầu, lơ đễnh nhìn xuống đất rồi nhổ toẹt ngụm nước bọt.

    Viên cảnh sát đập bàn quát: “Ngẩng đầu lên!”

    Gã gù nghênh mặt đốp lại: “Muốn hỏi gì thì hỏi nhanh lên! Đừng dọa đây! Người chết đây còn chẳng sợ, sợ đếch gì người sống!”

    Bao Triển đi thẳng vào vấn đề: “Sáng sớm ngày 11 tháng 9 anh đi mua quẩy phải không?”

    Gã gù ngẫm nghĩ một lát rồi đáp: “Đúng thế!”

    Bao Triển lại hỏi: “Hôm đó anh đi xe ba bánh, trên xe chất túi nilon đen, nhân thịt trong túi lấy từ đâu ra?”

    Gã gù đáp: “Mua ở chợ, đó là thịt thái sợi chứ không phải thịt băm làm nhân bánh. Buổi sáng tôi thường mua thức ăn cho quán mì kiếm thêm ít tiền tiêu.”

    Bao Triển hỏi tên và địa chỉ của quán mì để điều tra và đối chiếu. Sau đó anh quay sang hỏi người quản lí nhà xác: “Trong vòng hai ngày trước ngày mùng 11 tháng 9, nhà xác có tiếp nhận thi thể nữ tô son đỏ nào không?” Người quản lý lắc đầu phủ nhận.

    Bao Triển tiếp tục hỏi gã gù: “Anh bắt đầu làm việc ở nhà xác từ bao giờ?”

    Gã gù khai ngay khi tốt nghiệp trung học, hắn đã nối nghiệp cha làm nghề này cho đến tận giờ.

    Viên cảnh sát lấy ra hai bức ảnh đưa cho gã gù nhận dạng. Trong lúc hắn xem ảnh, Bao Triển chú ý quan sát vẻ mặt của hắn, nhưng gã gù vô cùng trấn tĩnh, hắn hồ như không hề có bất kì phản ứng gì với ảnh của hai nạn nhân, chỉ nói nhẹ tênh rằng mình chưa bao giờ gặp hai người này.

    Cuộc thẩm vấn kết thúc mà không thu hoạch được bất kì manh mối có giá trị nào, gã gù đứng lên bảo: “Nếu không có việc gì thì tôi đi ăn cơm đây!”

    Vừa nghe thấy hai từ “ăn cơm”, Bao Triển lập tức cảnh giác, anh cố hít mạnh mấy hơi, trong không khí phảng phất mùi là lạ lẫn với mùi hồ tiêu, anh đứng dậy đi về phía phòng ở của gã gù, cửa phòng vẫn khóa, Bao Triển yêu cầu gã gù giao nộp chìa khóa, gã gù bắt đầu căng thẳng, định quay đầu bỏ chạy, nhưng viên cảnh sát đã nhanh tay chộp được hắn và bập còng số tám vào cổ tay.

    Trong phòng gã gù chất đầy đồ cúng bái như vàng mã, hương hoa, trước cửa có hai cây cổ thụ kết bằng giấy trắng, đồ đạc trong phòng lộn xộn, chiếc chăn trên giường rách nát và cáu bẩn, lòi cả lõi bông đen sì, góc phòng có hai chiếc ghế gấp, bàn ăn của hắn là một cỗ quan tài.

    Trên quan tài đặt một nồi lẩu nhỏ, bên cạnh là chén rượu và một đôi đũa. Trong nồi là món canh miến ghê tởm!

    Chương 5Treo tiền thưởng tìm thi thể
    Trong quan tài có một vài bộ quần áo lót của phụ nữ, nhìn có vẻ đã cũ, gã gù nói đó là nội y hắn lấy trên người các tử thi nữ. Bao Triển phát hiện trong phòng còn có mấy vỏ chai nước ngọt, mở nắp chai ra thì thấy bên trong đựng một loại dịch lỏng nhìn và ngửi đến tởm. Lúc thẩm vấn, gã gù nói với cảnh sát tốt nhất đừng nên biết trong chai đựng gì thì hơn. Sau khi mang các tang vật đi hóa nghiệm thì thấy nội y không phải di vật của nạn nhân bị băm xác, còn dịch lỏng đựng trong chai là đờm mà gã gù khạc ra. Gã gù có thói quen nhổ nước bọt, lại mắc chứng viêm mũi mỗi khi bị cảm cúm, hắn lại khạc đờm đặc vào vỏ chai nước ngọt, ngày qua tháng lại cuối cùng hắn tích được mấy chai.

    Giáo sư Lương hỏi: “Sao anh lại khạc đờm ra chai?”

    Gã gù đáp: “Vui mà!”

    Họa Long hỏi: “Thế vì sao anh ăn thịt người?”

    Gã gù đáp: “Tôi mắc bệnh hen suyễn.”

    Tô My lợm giọng: “Anh thật ghê tởm!”

    Gã gù cười hì hì bỡn cợt Tô My: “Thật thế à?”

    Bao Triển hỏi: “Anh còn có sở thích gì nữa không?”

    Gã gù thản nhiên đáp: “Tôi còn thích đốt xác.”

    Gã gù nói thích nhìn tử thi cháy rừng rực rồi dần dần hóa thành tro bụi: Bao nhiêu năm nay, hắn đã hỏa thiêu hàng ngàn hàng vạn thi thể. Lò thiêu xác trong nhà hỏa táng có lỗ nhòm. Gã gù phủ nhận chuyện mình thường hãm hại tử thi, hắn biện minh rằng nữ công nhân trang điểm cho người chết đó thầm thích hắn, nhưng hắn chẳng buồn để mắt đến cô ả, sau này cô ả bị đuổi việc, nên đi đâu cũng rêu rao đổ tiếng ác cho hắn. Dĩ nhiên cảnh sát không tin lời giải thích của gã gù. Gã gù nói hắn ấn tượng rất sâu sắc về tử thi của cô lễ tân, hắn tận tay đưa cô vào lò hỏa thiêu.

    Khi gã gù đến bệnh viện lượm xác chết, hắn thường xin các bác sĩ sản khoa nhau thai của sản phụ và những đứa trẻ bị buộc phải ra khỏi bụng mẹ trước khi kịp chào đời. Từ xưa nhau thai đã là một vị thuốc trong đông y, có tên gọi là Tử hà sa, nhiều nơi vẫn ăn nhau thai vì nghe nói bài thuốc này có thể trị bệnh hen suyễn và bệnh lao phổi vô cùng công dụng.

    Tuy mọi hành vi của gã gù đều vô cùng biến thái nhưng lại không có chứng cứ gì chứng minh hắn liên quan đến hai vụ án giết người băm xác, chuyện âu yếm tử thi cũng không cách nào tìm được cách chứng thực. Thể theo luật không có bằng chứng thì phải thả nghi phạm, cảnh sát chỉ giam hắn vài ngày rồi đành phóng thích.

    Khi được thả, gã gù tỏ vẻ vô cùng bất ngờ, hắn nghênh mặt thách thức cảnh sát: “Thả tôi ra à? Rồi các người sẽ hối hận!”

    Một viên cảnh sát nóng tính không nhịn được liền xông đến tẩn cho gã gù một trận mà quên mất hành vi của mình vi phạm pháp luật.

    Vụ án lần nữa rơi vào tình trạng bế tắc, nghi phạm duy nhất lại không phải hung thủ.

    Bộ chỉ huy vụ trọng án mở cuộc họp thảo luận về tình hình vụ án, cựu giám đốc sở cảnh sát nói: “Chúng tôi đã thành lập chiến thuật công kiên án tồn nhưng vì vụ án băm xác 19.1 xảy ra đã quá lâu nên kho dữ liệu không còn toàn vẹn, việc tra cứu vật chứng vô cùng khó khăn, lai lịch của nghi phạm lại không rõ ràng, mặc dù đã làm xét nghiệm ADN các phần tử thi và phần đầu của Điêu Ái Thanh, ngay cả chiếc túi và ga giường bọc thi thể cũng mang đi giám định chất vi lượng nhưng vẫn không phát hiện thấy vật chứng siêu nhỏ mà hung thủ vô tình để lại.”

    Vụ án hoàn toàn sa lầy!

    Viên cảnh sát phụ trách tổ điều tra và thăm dò dư luận ủ dột nói: “Tuy đã điều tra và thẩm vấn khắp nơi, nhưng vẫn không tìm ra lai lịch của nạn nhân vụ băm xác 11.9. Rốt cuộc nạn nhân thần bí này là ai? Có lẽ chúng ta phải mở rộng phạm vi điều tra thêm nữa thì mới mong tìm ra thân thế nạn nhân.”

    Một viên cảnh sát lẩm bẩm: “Hay nạn nhân vụ băm xác 11.9 là người ngoại tỉnh?”

    Một cảnh sát khác than thở: “Nếu là người ngoại tỉnh thì chúng ta biết đi đâu mà tìm? Lẽ nào lại mở rộng phạm vi điều tra ra toàn quốc sao?”

    Giáo sư Lương nói: “Tôi có cách!”

    Viên cảnh sát phụ trách tổ điều tra và thăm dò dư luận vội hỏi: “Cách gì?”

    Bao Triển đáp: “Trong số hơn tám triệu dân của thành phố Lam Kinh ắt có người biết anh ta hoặc từng gặp anh ta mới phải!”

    Giáo sư Lương gật đầu tán thành: “Đúng vậy! Chúng ta hãy lợi dụng truyền hình để phát động hơn tám triệu dân thành phố Lam Kinh cùng đi tìm tung tích nạn nhân và xác minh lai lịch anh ta!”

    Tổ chuyên án đề nghị các đơn vị truyền thông như đài truyền thanh, đài truyền hình, các báo, tạp chí hết sức phối hợp với cảnh sát, ông yêu cầu họ đăng tải mẫu tin treo thưởng cho người nào biết lai lịch của nạn nhân, đồng thời công bố rộng rãi các tình tiết của vụ án trước công chúng. Dựa vào nguồn lực của hơn tám triệu dân không chỉ điều tra được tung tích của nạn nhân mà còn có thể tìm ra được nơi ẩn náu của hung thủ.

    Cựu giám đốc sở cảnh sát lập tức phản đối ý kiến của tổ chuyên án. Ông cho rằng khi xảy ra vụ án 19.1, cảnh sát đã đăng tin vắn tắt lên truyền hình để thu thập manh mối phá án nhưng chẳng những không thể phá giải được vụ án mà ngược lại còn khiến dư luận xã hội thêm hoang mang, khiếp sợ. Bây giờ vụ giết người băm xác 11.9 lại diễn ra giống hệt vụ giết người băm xác 19.1 từng xảy ra mười hai năm về trước nên chắc chắn người dân cho rằng hung thủ lại tái xuất giang hồ. Điều đó khác nào giáng hẳn một quả bom nguyên tử xuống thành phố Lam Kinh, lần nữa khiến dân chúng rơi vào trạng thái sợ hãi khôn cùng.

    Trưởng phòng phòng điều tra hình sự số 5 cũng đồng tình với ý kiến của cựu giám đốc sở: “Vụ án li kì nhất, nghiêm trọng nhất trong lịch sử nước Mỹ là vụ giết người hàng loạt của sát thủ Zodiac. Cảnh sát Mỹ đã huy động tất cả lực lượng truyền thông để thu thập manh mối, nhưng mấy chục năm qua rồi chẳng phải vẫn không thể phá án sao?”

    Phân cục trưởng phân cục cảnh sát khu vực Cổ Lâu nói: “Nếu quả thực định lợi dụng truyền thông để thu thập manh mối thì tôi phải chuẩn bị thêm mấy gian phòng trống nữa mới đủ chứa hồ sơ vụ án. Ta cứ tưởng tượng, sau khi công khai vụ án băm xác 11.9 lên truyền hình thì rất nhiều manh mối sẽ cùng ập đến giống như lăn vô số hoa tuyết thành trái bóng, trái bóng đó càng lăn càng to, cuối cùng ngay cả tòa nhà này của chúng ta cũng không thể chứa nổi, vả lại có thể khẳng định những manh mối giá trị sẽ không nhiều, trong khi phải hao tổn sức lực của lực lượng cảnh sát khổng lồ đi điều tra những manh mối vô dụng.”

    Giáo sư Lương khăng khăng: “Tổ chuyên án có quyền chỉ huy! Ngày mai tất cả các tờ báo của thành phố Lam Kinh đều phải đăng thông báo treo giải thưởng tìm lai lịch nạn nhân lên trang nhất. Cứ quyết định thế đi!”

    Trưởng phòng tuyên truyền ái ngại: “Tôi chỉ e một điều sau khi công bố vụ án sẽ ảnh hưởng rất lớn đến xã hội, nếu không phá được án thì mặt chúng ta biết gác vào đâu? Chúng ta còn dám mặc bộ cảnh phục trên người mà đi trên phố không?”

    Giáo sư Lương nói chắc chắn như chém đinh chặt sắt: “Nếu không thể phá nổi vụ án này thì tôi không bao giờ làm cảnh sát nữa! Tôi sẽ rút khỏi tổ chuyên án! Giải tán!”

    Bao Triển, Tô My và Họa Long đều thầm chấn động trong lòng, họ không ngờ, giáo sư Lương lại đưa ra lời hứa nặng nề như vậy, thực chẳng khác nào vạc vỡ thuyền chìm, áp lực đè lên vai ba người họ lập tức trở nên nặng hơn bình thường gấp ngàn lần, muốn giữ cho tổ chuyên án được tròn vẹn thì họ buộc phải phá giải vụ án này, không còn đường lui.

    Tô My yêu cầu họa sĩ truyền thần phục dựng lại hai bức chân dung của nạn nhân để chuẩn bị đăng tin trên báo ngày mai, một bức mang kính cận và một bức không mang kính cận. Bao Triển xác nhận lại lần nữa với bác sĩ pháp y xem nạn nhân có đeo kính hay không, vì anh không tìm thấy kính của nạn nhân trên hiện trường vứt xác, chuyên gia pháp y khẳng định căn cứ vào nếp hằn và sắc tố da trên sống mũi và vành tai có thể chắc chắn thường ngày nạn nhân luôn đeo kính, giống như một số người trưởng thành đeo nhẫn quanh năm vậy, dẫu ngón tay đeo nhẫn có nấu chín đi chăng nữa thì vết hằn trên đó vẫn còn.

    Chi tiết này vô cùng quan trọng đối với việc xác minh lai lịch của nạn nhân và tóm cổ hung thủ.

    Trưa hôm sau, đài truyền hình địa phương của thành phố Lam Kinh đã đăng tin về vụ án thảm khốc giết người băm xác xảy ra vào ngày 11 tháng 9 năm 2008, đồng thời đăng cả thông báo treo giải thưởng cho ai đưa ra được manh mối về nạn nhân, không chỉ thế đài truyền hình còn giới thiệu trước rằng vào tám giờ tối nay sẽ đăng tải những tin tức sâu hơn về vụ án trong bản tin thời sự. Người dẫn chương trình hớn hở nói với giám đốc nhà đài: “Chắc chắn tỉ lệ theo dõi chương trình trong bản tin tám giờ tối nay của đài ta sẽ tăng vọt cho xem!” Vị giám đốc lọc lõi gật gù rồi bảo: “Đúng thế! Có lẽ chúng ta nên tăng giá quảng cáo vào thời điểm trước và sau khi phát chương trình thời sự thông báo về vụ án.”

    Tám giờ tối, người dẫn chương trình nói trước những người dân toàn thành phố đang ngồi đợi trước màn ảnh nhỏ: “Ngay sau đây chúng tôi lập tức tiết lộ những tin tức bổ sung về vụ án giết người băm xác đặc biệt dã man xảy ra ở thành phố của chúng ta vào ngày 11 tháng 9 năm 2008. Đến tận thời điểm này, cảnh sát vẫn chưa xác định được lai lịch của nghi phạm, giới tính cũng như nơi ở của y, chỉ biết có lẽ y sống gần địa điểm vứt xác.” Sau đó màn ảnh ti vi hiện lên hình ảnh chiếc túi xách tang vật và địa điểm vứt xác, Người dẫn chương trình lại tiếp tục thuyết minh: “Trước khi xảy ra vụ án, hung thủ đã mua túi nilon màu đen, mua quẩy ở hàng bán quẩy gần trường đại học Lam Kinh, rồi đi xe đạp điện đến thùng rác ở đầu phố Lam Kinh mới vứt xác nạn nhân. Cần nhấn mạnh một điểm rằng rất có thể giờ này phút này tên sát nhân biến thái giết người và băm xác nạn nhân cũng đang xem truyền hình, hung thủ có thể ngồi ngay cạnh bạn, nên mong những khán giả đang ngồi theo dõi trước màn ảnh nhỏ nên quay sang nhìn những người xung quanh mình một lát, xem ai phù hợp với đặc điểm mà chúng tôi mô tả nhất, sau đó hãy gọi đến đường dây nóng của cảnh sát hiển thị trên màn hình. Chúng tôi sẽ tuyệt đối giữ bí mật các thông tin của người chỉ điểm, những ai cung cấp được manh mối giúp cảnh sát phá án sẽ được thưởng một trăm ngàn tệ!”

    Sau khi tin tức này được phát đi, chẳng bao lâu sau đường dây nóng của cảnh sát liền rơi vào trạng thái quá tải. Căn cứ vào những manh mối mà người dân cung cấp trên địa phận thành phố Lam Kinh có chí ít hơn bảy mươi hung thủ. Đa phần đều cho rằng hàng xóm kế bên nhà họ chính là hung thủ, thậm chí có học sinh còn gọi điện đến thề thốt rằng thầy giáo dạy vật lí của cậu ta đã giết người, hoang đường hơn cả là một đứa trẻ đã gọi điện đến tố cáo cha mình là hung thủ, đồng thời không quên hỏi liệu mình có được tiền thưởng hay không bởi vì cậu ấy rất cần tiền để mua một chiếc máy tính.

    Manh mối cung cấp lai lịch của tử thi cũng rất nhiều, phần đa dân chúng nói rằng người chết là người thân hoặc bạn bè của họ, cảnh sát điều tra những người mất tích hoặc lai lịch bất minh trong các manh mối được gửi đến, rồi so sánh với ảnh trong hồ sơ hộ tịch, nhưng họ thất vọng hết lần này đến lần khác.

    Trong việc tìm lai lịch nạn nhân, giáo sư Lương vẫn là người nhìn thấu mọi việc trước tiên, ông đặc biệt ghi chú thêm một dòng: “Có khả năng nạn nhân không phải người Lam Kinh, mà có lẽ anh ta là người ngoại tỉnh đến đây thăm bạn bè, du lịch hoặc đi công tác.”

    Thông tin này vô cùng quan trọng, bởi cuối cùng manh mối do viện trưởng của một bệnh viện cung cấp đã giúp cảnh sát xác minh được lai lịch của nạn nhân.

    Vị viện trưởng nọ kể rằng nạn nhân có thể là bác sĩ ngoại khoa của thành phố bên cạnh tên là Hoàng Bách Thành. Bốn năm trước, anh ta từng đến Lam Kinh tham gia một cuộc hội thảo khá nổi tiếng bàn về học thuật. Sở dĩ viện trưởng có ấn tượng về anh ta rất sâu sắc là bởi vì tấm ảnh chụp chung với anh ta khi ấy luôn đặt trên bàn ông. Chỉ cần liếc mắt nhìn qua, ông đã thấy Hoàng Bách Thành giống với ảnh phục dựng mà cảnh sát cung cấp như đúc từ một khuôn ra. Họa Long lập tức xuất phát tới thành phố bên cạnh lấy mẫu AND của người là Hoàng Bách Thành, thông qua xét nghiệm và đối chiếu gen cho thấy, nạn nhân chính là Hoàng Bách Thành!

    Vụ án đã có điểm đột phá quan trọng!

    Gia đình Hoàng Bách Thành phản ảnh một điểm rất đáng ngờ, trước khi xảy ra án mạng, Hoàng Bách Thành nói đi công tác ở Nam Hải, nhưng cảnh sát lại phát hiện thấy điện thoại di động của anh ta ở thành phố Lam Kinh. Bộ chỉ huy kết hợp với ban bưu chính viễn thông sử dụng thiết bị định vị GPS để định vị tọa độ và căn cứ vào tín hiệu phát ra vào thời điểm gần nhất để tìm tung tích chiếc điện thoại. Cuối cùng, họ thấy chiếc điện thoại bị ném xuống một hồ nước nhân tạo.

    Cảnh sát còn vớt được chiếc áo đẫm máu của anh ta dưới hồ!

    Cảnh sát yêu cầu ban bưu chính viễn thông tìm kiếm nhật kí cuộc gọi trong máy di động của Hoàng Bách Thành. Ban bưu chính cho biết một người tên là Hạ Vũ Bình đã gọi và nhắn tin cho anh ta trước khi xảy ra vụ án. Trong tin nhắn còn để lại cả địa chỉ. Cảnh sát lập tức tiến hành điều tra và chứng thực Hạ Vũ Bình là người Lam Kinh, nữ, ba mươi sáu tuổi, độc thân. Địa chỉ nhắn trên di động của Hoàng Bách Thành là một khu tập thể cũ ở thành phố Lam Kinh, nơi đó vừa vặn gần địa điểm vứt xác và hàng quẩy.

    Địa chỉ sở tại là một căn phòng trong tòa nhà cũ nát, trước phòng có cánh cổng sắt riêng biệt bị khóa trái, phía sau cửa có mấy bậc cầu thang, đi qua hành lang thấy có một chiếc xe đạp điện dựng ở chiếu nghỉ.

    Cảnh sát phá cửa xông vào, các chuyên gia giám định dấu vết phân tán ra các nơi, cúi người lần tìm dấu vết theo từng bậc cầu thang. Dưới ánh đèn cường quang, họ phát hiện thấy những vết máu lâu ngày đã khô cứng mà mắt thường không thể nào phát hiện được, sau đó căn cứ vào đặc trưng cách đi của con người, họ tìm ra vị trí những dấu chân nhuốm máu giờ đã biến mất. Các chuyên gia lấy dung dịch hóa học Tetramethylbenzidine quết lên mặt đất, những khu vực dính máu lập tức phản ứng với dung dịch hiện ra ánh sáng màu xanh lam. Nhờ vậy những dấu tất đẫm máu được gia tăng độ rõ lên mấy lần, chúng từ từ hiện nguyên hình.

    Tô My đặt biển số cho từng dấu chân rồi lấy máy ảnh chụp lại.

    Trong hành lang nồng nặc mùi dung dịch, mùi nồng hắc xộc thẳng vào mũi, cảnh sát thực hiện từng công đoạn một cách tỉ mẩn và thứ tự.

    Bao Triển và Họa Long đứng ngoài, đưa mắt nhìn qua cánh cổng nan sắt đã han gỉ loang lổ, họ nhìn thấy trên nền nhà ở ban công có vết chân đi tất nhuốm máu rất rõ rệt, vết chân nhỏ nhắn, chứng tỏ đó là vết chân của một đứa trẻ. Họa tiết in trên tất giúp ta phán đoán đứa trẻ ấy là bé gái. Đúng như dự liệu của mọi người, căn phòng này chính là hiện trường vụ án giết người băm xác xảy ra vào ngày 11 tháng 9 năm 2008. Giờ đây điều khiến mọi người lo lắng nhất là bé gái đó còn sống hay đã chết?

    Ta có thể tưởng tượng thế này: Một bé gái chạy ra từ hiện trường vụ án, cô bé không đi giày, điều đó chứng tỏ trong lòng đang vô cùng hoảng sợ, chân cô bé dính đầy máu, cô bé đứng chôn chân trước cánh cổng sắt đã khóa chặt, không còn đường chạy trốn. Hung thủ đã xuất hiện sau lưng bé gái!
     
    Last edited by a moderator: 21/3/17
    Gum, Dung dung, Trandinhanh and 5 others like this.
  13. Nhím Nhím

    Nhím Nhím Member
    • 344/373

    Bài viết:
    41
    Đã được thích:
    422
    Tập 1: BÓNG MA ĐÊM MƯA
    PHẦN 10: CHÂN TƯỚNG

    Lời dẫn

    Đích đến của quá trình tìm kiếm chính là điểm xuất phát khi bắt đầu – Thomas Stearns Eliot.



    Đây chính là hiện trường thứ nhất của vụ hung án giết người xẻ thây.

    Mùi thối nồng nặc bủa vây khắp gian phòng. Bát đũa ngổn ngang trên bàn, những món ăn vốn rất thịnh soạn giờ đều đã rữa nát, biến chất.

    Bao Triển chú ý đến một chi tiết: Trong phòng có ba người chết nhưng trên bàn lại bày những bốn đôi đũa!

    Chương 1Bữa tiệc thịt người
    Cảnh sát dùng máy cưa để mở khóa chống trộm, rồi lấy búa đập vỡ cánh cửa bên trong. Một mùi hôi thối khiếp người xộc thẳng vào mũi, dòi bọ bò lổm ngổm đến nỗi không còn chỗ trống mà đặt chân. Tô My chụp một vài bức ảnh, gập người cố nén cảm giác buồn nôn. Bao Triển thay bộ trang phục cách ly P3 loại dùng một lần, đeo găng tay cao su không bột, xách theo hộp đựng dụng cụ giám định bước vào trong phòng.

    Họa Long theo sau, anh chỉ lên bàn ăn đầy thức ăn đã rữa nát và pha trò: “Ồ! Bốn món mặn, một món canh! Đúng là đãi ngộ dành cho các cán bộ ở nông thôn nhá!”

    Chuyên gia giám định cúi xuống nhìn, nói: “Toàn thịt người đấy! Anh muốn nếm thử không?”

    Bao Triển lấy kẹp thận trọng gắp mấy con dòi, bỏ vào túi đựng tang vật. Một bác sĩ pháp y đi ra đóng chặt cửa lại để đề phòng ruồi nhặng bay ra ngoài. Ruồi nhặng và dòi bọ trên hiện trường vụ án có thể giúp cảnh sát phán đoán thời gian tử vong.

    Sau khi hoàn tất quá trình giám định hiện trường ở phòng khách, Họa Long nhẹ nhàng mở cửa phòng tắm. Một cảnh tượng rùng rợn đập thẳng vào mắt anh!

    Cảnh tượng ấy thê thảm khiến người ta phải ngoảnh mặt quay đi mà vẫn thấy da đầu tê bì. Nước hòa lẫn máu trong bồn tắm đã biến thành màu đen, bề mặt đông đặc. Trong bồn có ba người chết, một phụ nữ, một bé gái và bộ khung xương của một thi thể không đầu. Vào khoảnh khắc cánh cửa bật mở, lũ ruồi nhặng túa ra như ong vỡ tổ, tiếng đập cánh nghe “ong ong”. Lũ ruồi bay đi để lộ ra ba thi thể đã phân hủy ở mức độ cao. Phần biểu bì và các tổ chức tế bào của tử thi đã mềm nhũn, chảy kéo sợi như kẹo mạ, một cánh tay buông thõng ngoài bồn tắm, bề mặt da sùi bong bóng thể hiện quá trình rữa nát rất rõ ràng. Phần ngực và phần mặt của tử thi chi chít lỗ thủng nhỏ, dòi chui ra lúc nhúc.

    Trên nền nhà tắm là dịch lỏng vàng khè chảy ra sau khi tử thi rữa nát, chúng hòa lẫn với máu tạo thành màu vàng cam trông đến ghê tởm.

    Cạnh bồn tắm có một con dao gọt hoa quả.

    Điều tra viên còn phát hiện thấy hai con dao đang nằm trên thớt, một con dao thái rau và một con dao chặt xương, trên lưỡi dao đều đọng vết máu. Xem ra đó chính là hung khí được hung thủ sử dụng để chặt xác nạn nhân.

    Cửa sổ phòng bếp không có rèm, ngoài cửa sổ là một tòa nhà khác. Chúng ta có thể tưởng tượng khi hung thủ giết người băm xác trong phòng bếp thì người láng giềng ở tòa nhà đối diện không hề nghĩ rằng miếng thịt mà hung thủ đang thái lại là thịt người.

    Cạnh thùng rác đặt trong nhà bếp có một cuộn túi nilon màu đen, loại túi giống hệt với chiếc túi nilon mà hung thủ vụ băm xác 11.9 từng sử dụng để đựng hơn hai ngàn miếng tử thi.

    Trên ga giường ở phòng ngủ cũng có vết máu, vết máu nằm ở gần giữa, nghiêng về phía cuối giường. Tô My chụp ảnh, chỉ vào vết máu rồi hỏi: “Sao không phải tia máu bắn tung tóe mà lại là vũng máu đọng nhỉ?”

    Một nữ pháp y giàu kinh nghiệm giải thích: “Nếu nạn nhân chết trên giường là nam thì có lẽ chúng ta không thể tìm thấy dương vật của anh ta trên thi thể. Rất có khả năng kẻ đó đã giằng đứt nó ra.”

    Tô My rỉ mồ hôi lạnh, cô rùng mình: “Phải căm hận đến mức nào mới có thể trả thù dã man đến vậy!”

    Nữ pháp y cười nhạt thếch: “Cũng có thể không phải là căm hận mà vì quá yêu!”

    Cảnh sát lấy từng món ăn đặt trên bàn làm mẫu vật, một chuyên gia giám định xẻ đôi viên sủi cảo, trong sủi cảo lộ ra một sợi tóc hơi quăn. Nữ pháp y liếc nhìn một thoáng rồi nói với Tô My: “Giờ mọi người đã biết nhân bánh làm bằng gì rồi nhé!”

    Tô My bụm miệng mà không kìm được cảm giác lợm giọng: “Oẹ! Không thể chịu nổi!”

    Máy tính trong phòng ngủ vẫn bật! Tô My chụp ảnh lại rồi lấy dấu vân tay trên chuột máy tính, sau đó cô đeo găng tay lắc con chuột mấy cái, màn hình thoát khỏi chế độ tạm nghỉ và sáng lên. Nền màn hình là ảnh bông hồng mới hái đỏ thắm, nổi lên hình nền là ảnh chụp chung của một người phụ nữ và một bé gái, nom họ có vẻ là hai mẹ con.

    Trên màn hình còn hiển thị một trang web được để ở chế độ thu nhỏ. Tô My mở ra thì phát hiện đó là một bức thư điện tử trống trơn.

    Đột nhiên Tô My chợt nhớ ra điều gì, tinh thần cảnh giác cao độ của cảnh sát khiến cô linh cảm trong máy tính có thể sẽ lưu giữ những bí mật liên quan đến vụ án. Tô My nhấn chuột phải, chọn mục paste, trên màn hình liền hiện ra một đoạn nội dung đã được copy. Đó là một bức thư. Sau khi đọc xong, Tô My gọi mọi người lại. Bao Triển và Họa Long các điều tra viên khác lập tức chạy đến vây quanh cô.

    Tô My thuật lại vắn tắt nội dung bức thư. Cô kể bằng ngữ điệu không thể tin nổi: “Trời ạ! Hai người bạn trên mạng trải qua tình một đêm. Sau đó cô gái về nhà phát hiện mình mang bầu nhưng lại không muốn bỏ cái thai đó đi. Cô âm thầm sinh con, rồi nuôi đứa bé đến năm nó bốn tuổi. Suốt bốn năm đó, anh chàng kia không hề hay biết mình đã có một đứa con. Mãi mấy hôm trước, cô gái mới nói cho anh kia biết bí mật mà mình luôn giấu kín trong lòng. Nhưng dường như cuối cùng cô gái không gửi thư mà xóa nó đi. Có điều trước khi xóa cô ấy lại lưu nó vào một file khác…”

    Bao Triển nhận xét: “Tâm lí của cô gái này rất mâu thuẫn!”

    Khi ấy, giáo sư Lương và lãnh đạo chính quyền ủy ban thành phố cũng lái xe đến hiện trường. Thường ngày giáo sư chỉ ngồi trong văn phòng chỉ đạo từ xa, nay ông đích thân đến tận nơi chứng tỏ trong lòng ông rất sốt ruột muốn biết tiến triển mới nhất. Bao Triển báo cáo vắn tắt với giáo sư và lãnh đạo thành phố về diễn tiến của vụ án và kết quả giám định bước đầu tại hiện trường: Phát hiện thấy ba thi thể trong nhà tắm, trong đó có một thi thể không đầu. Có lẽ đó chính là nạn nhân của vụ băm xác 11.9 Hoàng Bách Thành, nhưng vẫn cần xét nghiệm AND để chứng thực. Hai tử thi còn lại là cặp mẹ con, chính là Hạ Vũ Bình và con gái, nguyên nhân tử vong đều do cắt cổ tay, mất máu quá nhiều dẫn đến vong mạng.

    Lãnh đạo thành phố bàng hoàng hỏi: “Lại chết thêm hai mạng người nữa sao? Thế hung thủ là ai?”

    Bao Triển nói: “Tôi phân tích và cho rằng Hạ Vũ Bình đã giết hại Hoàng Bách Thành, nhưng trước mắt chưa thể xác định nguyên nhân cái chết của cô ta và con gái là do tự sát hay bị sát hại. Trên hiện trường xuất hiện một điểm rất đáng ngờ, trong phòng có ba tử thi nhưng trên bàn ăn lại có bốn đôi đũa, điều đó chứng tỏ khả năng trong phòng còn có mặt một nhân vật bí ẩn nữa.”

    Giáo sư Lương chợt hỏi: “Có phát hiện thấy chứng cứ gì liên quan đến vụ băm xác 19.1 không?”

    Bao Triển lắc đầu: “Trước mắt chưa phát hiện thấy chứng cứ trực tiếp.”

    Giáo sư Lương nói: “Tôi đã xem sổ hộ khẩu của Hạ Vũ Bình. Cô ta ba mươi sáu tuổi, người Lam Kinh. Tôi nghĩ nếu Điêu Ái Thanh còn sống đến thời điểm này thì có lẽ cô ấy cũng ba mươi sáu tuổi rồi nhỉ?”

    Một viên cảnh sát vỗ đầu như thể nhớ ra điều gì: “Hạ Vũ Bình à? Tôi biết cô này! Cô ta tốt nghiệp trường đại học Lam Kinh, là bạn cùng trường với Điêu Ái Thanh. Có lẽ cô ta cùng nhập học một năm với Điêu Ái Thanh. Năm nay Hạ Vũ Bình ngoài ba mươi tuổi, chưa kết hôn, làm nghề bán vé xe, nghe nói cô ta nhận nuôi một đứa con, ở nhà thường gọi là Quýt nhỏ.”

    Lãnh đạo thành phố nghi ngờ: “Bạn cùng trường sao? Cả hai lại cùng học ở trường đại học Lam Kinh à? Thật là trùng hợp!”

    Tô My báo cáo tiếp: “Tôi phát hiện thấy một bức thư điện tử đã bị xóa bỏ ở phần thư nháp trong máy tính của Hạ Vũ Bình. Bức thư có một câu mang tính uy hiếp, chắc anh từng nghe nói đến vụ án băm xác 19.1 ở thành phố Lam Kinh rồi nhỉ? Tôi biết một chút nội tình vụ án. Nếu anh dám phụ lòng tôi và con gái, tôi sẽ băm anh ra thành ngàn mảnh, vứt vào thùng rác y hệt như vụ băm xác 19.1 kia!”

    Căn phòng cạnh phòng của Hạ Vũ Bình là căn hộ cho thuê, quanh năm không có ai ở, cảnh sát liên hệ với chủ nhà đề nghị cho thành phố trưng dụng địa điểm này để làm văn phòng tạm thời của tổ chuyên án. Bộ chỉ huy tạm thời được đặt tại đồn công an khu vực sở tại.

    Vụ án bị rò rỉ ra ngoài, người dân sống quanh đó liền ùn ùn kéo đến trước cổng nhà Hạ Vũ Bình. Mọi người đứng ngoài vạch kẻ giới nghiêm của cảnh sát xôn xao bàn tán. Trên mái nhà và tầng thượng đều có người đứng lổn nhổn, thậm chí có người còn lấy ống nhòm quan sát tình hình xảy ra bên trong hiện trường gây án.

    Các kết quả giám định hiện trường càng đi vào chiều sâu thì tình tiết của vụ án càng dần sáng tỏ. Cảnh sát phát hiện thấy những phần thi thể. Trong túi rác có những thanh quẩy khô cong queo và một hộp sữa đã uống hết. Trong ngăn kéo bàn trang điểm có một thỏi son đỏ. Son đỏ, sữa bò, vết dầu chiên quẩy chính là những manh mối về vụ án băm xác 11.9 mà cảnh sát hiện đang nắm trong tay.

    Các chuyên gia giám định dấu vết tìm dấu chân đi tất nhuốm máu của bé Quýt nhỏ nhờ vào thiết bị định vị. Sau khi dọn sạch hết đám dòi bọ trên sàn nhà, các chuyên gia bắt đầu tiến hành kiểm nghiệm bằng ánh sáng phát quang Luminol, họ nhìn thấy đôi tất dính máu chạy từ phòng tắm ra cửa, rồi đứng trên ban công một lát, cuối cùng lại chạy ngược về phòng tắm. Từ vị trí của dấu chân và vết bàn tay trong phòng khách có thể suy đoán cô bé từng qùy gối trên nền đất cầu xin tha mạng.

    Lãnh đạo thành phố tò mò hỏi: “Cô bé cầu xin ai tha mạng? Hung thủ ư?”

    Bao Triển nói: “Rất có thể bé gái đó cầu xin mẹ mình tha mạng.”

    Bao Triển mô phỏng lại hành vi phạm tội tại hiện trường. Lần này anh đóng vai bé gái. Người mẹ ra ngoài vứt xác, bé gái nằm ngủ một mình trên chiếc giường một trong nhà, lúc này trời vẫn chưa sáng rõ, trong phòng tối om, bé gái tỉnh dậy, nó mở to đôi mắt chứa đầy vẻ khiếp đảm nhìn vũng máu trên chiếc giường đôi ngay bên cạnh. Bé gái bước vào phòng tắm, cảnh tượng khủng khiếp hiện ra trước mắt khiến nó sợ hãi khóc nức nở, trong bồn tắm là một thi thể không đầu. Đứa bé sợ hãi đến cùng cực, nó cố hết sức chạy ra ngoài mở cửa, rồi đứng trên ban công, nó đi đôi tất trắng, trong lúc chạy nó giẫm phải vũng máu trên sàn nhà và để lại vết chân trên suốt dọc đường chạy từ phòng tắm tới ban công. Bé gái mặc chiếc váy ngủ màu trắng, khuôn mặt trắng nhợt, nó nhìn màn đêm tối lờ mờ qua những nan sắt sừng sững chắn trước mặt, nó sợ đến mức không khóc nổi nữa, chỉ trân trân đứng đó bất động. Mẹ bé gái đã về! Lúc bấy giờ bé gái mới dám òa khóc thật to. Người mẹ vội vàng bịt miệng con gái, lôi nó trở về phòng khách, rồi lấy dao ra, bắt con gái nhắm mắt lại.

    Bé gái sợ hãi quỳ xuống dập đầu lạy mẹ xin tha mạng, vừa dập đầu vừa cầu cứu: “Mẹ ơi! Đừng giết con! Mẹ ơi! Đừng giết con!”

    Nhưng người mẹ vẫn nhẫn tâm hạ dao cứa một đường lên cổ tay nhỏ xíu của cô con gái mới bốn tuổi, sau đó cô ta ôm con bước vào trong bồn tắm.

    Người mẹ cũng cắt tay tự sát, ba người lẳng lặng ngồi bất động trong bồn tắm.

    Bé gái ngồi trong bồn, khe khẽ gọi mẹ, tiếng gọi càng lúc càng nhỏ dần, yếu dần, rồi tắt hẳn.

    Có lẽ khi ấy người mẹ sẽ nói với con gái câu này: “Con biết không? Người ngồi bên cạnh chính là cha con đấy!”

    Chương 2Trái tim người tình
    Ánh nhìn nghệ thuật có mặt khắp mọi nơi và trong mọi hoàn cảnh. Bằng con mắt nghệ thuật, chúng ta có thể tưởng tượng thế này về cả quá trình vụ án 11.9.

    Máu bay lên khỏi mặt đất, thịt trở về, cơ thể khôi phục hình dạng ban đầu và sống lại. Lá cây rời cành xoay theo chiều gió, cánh hoa rơi rụng tơi bời bay trở lại thân cây theo quá trình trôi ngược của dòng chảy thời gian.

    Năm 2004, hai chú ốc sên gặp mặt, chúng chạm râu vào nhau.

    Hơn ba mươi tuổi nhưng vẫn chăn đơn gối chiếc, Hạ Vũ Bình liền đăng quảng cáo tuyển đối tượng kết hôn trên mạng xã hội, nỗi khổ não của những nàng gái ế quá lứa lỡ thì, áp lực của gia đình, miệng lưỡi của thế tục những lời giục giã của bạn bè thân thiết khiến cô chỉ muốn nhanh chóng cáo biệt đời độc thân, tìm một đối tượng ưng mắt rồi gả phắt cho xong. Đối tượng tìm đến cô khá nhiều, nhưng cô lại dùng ánh mắt của công chúa kén phò mã để chọn chồng tương lai cho mình, cũng bởi vậy nên chẳng ai lọt vào mắt xanh của cô. Mãi đến khi cô gặp Hoàng Bách Thành…

    Hoàng Bách Thành là bác sĩ ngoại khoa sống ở thành phố kế bên. Trong mắt cô, mọi điều kiện của gã đều rất tuyệt vời, có nhà, có xe, lương tháng hơn chục ngàn tệ, nom mặt mũi lại đầy vẻ tri thức.

    Sau một thời gian trò truyện trên mạng, họ bắt đầu yêu nhau.

    Đó là mối tình đầu của cô!

    Có những người đàn bà cả đời không yêu ai, nhưng hễ yêu một người là vô cùng si mê, đắm đuối.

    Thời gian đó, cô cứ ngỡ bàn phím máy tính nở đầy hoa rực rỡ, hai người dốc bầu tâm sự với nhau hết ngày dài cho đến đêm thâu, họ nhung nhớ, quyến luyến như đôi tri kỉ tự kiếp nào.

    Hạ Vũ Bình ngàn vạn lần không ngờ Hoàng Bách Thành lại là một gã lừa đảo.

    Trong mục kết bạn tìm đối tượng kết hôn thường có một số gã chuyên lừa tình, bọn họ lợi dụng tin đăng kí kết bạn trên mạng làm mồi câu, rồi điên cuồng lừa tình lừa tiền. Hoàng Bách Thành lại vừa vặn là một trong số đó. Gã đã có vợ nhưng lại mạo danh mình là trai tân, cuối cùng gã đã phải trả giá bằng cả tính mạng vì hành vi lừa đảo của mình.

    Hoàng Bách Thành đi công tác ở Lam Kinh. Hạ Vũ Bình đến nhà ga đón gã.

    Họ gặp nhau vào một ngày mưa, gã và cô che chung một chiếc ô, sóng vai đi bên nhau. Mưa càng lúc càng nặng hạt, họ dừng chân bên mái hiên ven đường. Gã ôm cô, dịu dàng xoa nhẹ sống lưng ướt lướt thướt nước mưa của cô. Cô ao ước xiết bao thời gian mãi mãi ngưng đọng ở khoảnh khắc này, mãi mãi ngừng lại ở hành động này. Hai người đứng yên bất động như hai pho tượng.

    Hạ Vũ Bình không có vẻ ngoài ưa nhìn, nhưng khi gió trêu đùa tà váy của cô, cuốn nó bay bay theo chiều gió thì nom cô lại thoáng nét dễ thương, nhất là khi nước mưa khiến bóng lưng của cô ướt mèm, trông cô càng cô đơn hơn bao giờ hết.

    Trong căn phòng của nhà nghỉ, trên chiếc giường với chăn chiếu xô lệch như vừa xảy trận chiến, họ đã trao gửi yêu thương. Gã vào phòng vệ sinh, ngẩng đầu nhìn mình trong gương và cười nhếch mép. Người đàn bà trên giường giờ mềm như sợi bún nằm thở dốc. Người đàn bà yêu lần đầu đã lần đầu được trải nghiệm thế nào là cảm giác cao trào, những cú va chạm của gã khiến cô phải rên xiết. Cô thích vô cùng cảm giác tuyệt vời này.

    Hoàng Bách Thành nói rằng mình phải ra nước ngoài nửa năm, nhân tiện nhập lậu một lô thiết bị y tế từ nước ngoài về, ngặt nỗi trong tay hiện lại thiếu tiền nên gã muốn vay tạm Hạ Vũ Bình một ít. Gã nói sau khi về nước họ sẽ kết hôn. Hạ Vũ Bình nhẹ dạ tin lời nói dối của gã Don Juan, cô mang gần hết số tiền mình tiết kiệm được suốt bao năm nay đưa cho gã. Họ ở bên nhau một tuần lưu luyến không muốn rời xa. Rồi từ đó Hoàng Bách Thành biến mất như bốc hơi vào không trung. Hạ Vũ Bình mất hết mọi phương thức liên lạc với gã.

    Thế mà, cô lại phát hiện mình có mang.

    Cô bắt đầu điên cuồng tìm gã, nhưng tìm đâu cũng không thấy bóng dáng. Cô không biết địa chỉ gia đình cũng như địa chỉ nơi gã công tác. Số điện thoại gã cho cô không thể liên lạc được nữa, còn biểu tượng avatar của gã luôn trong trạng thái offline. Cô chỉ còn cách gửi thư điện tử cho gã hết lần này đến lần khác trong vô vọng.

    Nhưng cô thường tự an ủi mình thế này: “Anh ấy ra nước ngoài rồi! Mình phải kiên nhẫn đợi anh ấy về!”

    Trời lại chẳng mấy khi chiều lòng người! Cái bụng lùm lùm của cô mỗi lúc một lớn dần, nỗi tủi nhục của gái không chồng mà chửa khiến cô càng thêm áp lực. Bạn bè và đồng nghiệp bắt đầu lời ong tiếng ve, họ quan tâm đến cô hơn mức bình thường, thử dò la thông tin qua những lời cô kể để chứng thực phỏng đoán của mình. Cô tức điên người trước thái độ quan tâm giả tạo của họ đến nỗi có những lúc cô từng muốn phá bỏ cái thai.

    Nhưng khi Hạ Vũ Bình ngồi trên chiếc ghế nhựa trên hành lang của bệnh viện phụ sản, chờ đến lượt mình làm tiểu phẫu, thì tiếng khóc của một em bé sơ sinh văng vẳng vọng đến tai cô. Cô khẽ gật như khẳng định cho câu trả lời nằm sẵn trong đầu, bao nhiêu hoang mang và do dự trào lên giờ bỗng nhiên biến sạch trơn. Lúc bác sĩ gọi đến tên cô thì thấy hành lang vắng tanh không còn bóng người. Trên đường rời khỏi bệnh viện, cô tự nhủ: “Dẫu anh ta là kẻ lừa tình thì cùng lắm mình làm mẹ đơn thân nuôi con suốt đời!”

    Tình yêu khiến con người trở nên mù quáng, tình yêu cũng khiến con người trở nên cuồng dại. Người con gái chìm đắm trong bể ái tình là người con gái ngốc nghếch nhất trần đời!

    Nhưng tình yêu là gì thì chẳng ai định nghĩa được.

    Cô xin phép đơn vị cho nghỉ phép vài tháng rồi âm thầm sinh con. Người đàn bà ấu trĩ và ngây thơ là cô nói với mọi người rằng đứa trẻ này cô mới nhận về nuôi, nhưng người nào cũng ý nhị mỉm cười trước lời thanh minh của cô và sự xuất hiện kì bí của đứa trẻ. Họ không gật cũng không lắc.

    Cô thường cảm thấy một nỗi bi thương luôn dâng trào trong lòng, tim đau ngâm ngẩm.

    Hạ Vũ Bình hay ngồi thẫn thờ để mặc bầu vú giỏ sữa tong tong giữa canh khuya. Cô là nhân viên bán vé ở trạm xe, mỗi khi nhìn thấy biển xe của thành phố kế bên, cô lại có suy nghĩ bồng bột rằng muốn trèo lên chiếc xe đó. Đã bao lần cô nói với con gái: “Mẹ sẽ dẫn con đến một nơi, mẹ muốn tìm bố của con.” Thực ra xe không hề chuyển động, nó chỉ đứng yên trên mặt nước dập dềnh của thành phố, mặc cho bèo dạt mây trôi cuốn nó đến nơi mà con người muốn đến.

    Nhiều năm sau đó, cô đều dùng tiếng sấm để cảnh báo gã đàn ông biến mất kia rằng trong im lặng cũng có tiếng sấm, cô dùng ánh sét để cảnh báo gã trong màn đêm không chỉ có bóng tối. Suốt bốn năm trời, cô luôn ra sức tìm gã. Cô ước ao được ôm gã vào lòng biết bao, ôm cho đến khi gã thành một cuộn không khí, cho đến khi cả hai cùng già nua, cho đến khi xương sườn lộ cả ra ngoài và gió luồn qua khoang ngực. Cô ước ao được nhìn thấy gã đứng dưới ô, muốn nhìn thấy gã trong màn mưa như thác đổ. Giống như bốn năm trước, gã cùng cô che chung một chiếc ô đứng trong mưa. Cô gói ghém thật kĩ tình cảm của mình, trước khi cô lùi về kỉ phấn trắng và giấu nó vào trong một tảng đá.

    Hạ Vũ Bình chẳng mang theo hành lí gì ngoài một nụ cười và một đứa trẻ. Cô đặt chân lên hết chiếc xe này đến chiếc xe khác tới thành phố kế bên.

    Cô dùng cách ngốc nghếch nhất là mang ảnh của người tình đến từng bệnh viện khắp thành phố đó, hỏi từng phòng khám, từng bác sĩ, cuối cùng trời cũng nhỏ lệ thương tình cho phép cô tìm thấy gã.

    Tối hôm ấy, trong ánh đèn ấm áp ở một ngôi nhà nọ có ba người ăn tối bên nhau, ti vi đang chiếu chương trình thời sự.

    Ngoài cửa sổ, mưa đổ ào ào, có người đàn bà lặng lẽ chứng kiến tất cả những cảnh ấy, tay cô còn dắt một bé gái.

    Ánh chớp rạch bầu trời, tiếng sấm nổi lên ì ùng, mây đen kéo đến cuồn cuộn báo hiệu một trận mưa dữ dội chuẩn bị ập xuống.

    Cậu con trai nói với Hoàng Bách Thành: “Bố ơi! Hình như ở ngoài có người nhòm vào nhà mình! Trông ghê lắm!”

    Hoàng Bách Thành ngẩng đầu nhìn ra cửa sổ, nhưng gã không thấy ai đứng bên ngoài, chỉ có những vệt nước mưa chảy dài bên hiên nhà, giống như nước mắt của một người.

    Mấy ngày sau, Hạ Vũ Bình gọi điện thoại đến số máy văn phòng của Hoàng Bách Thành, hai người im lặng hồi lâu.

    Cuối cùng Hạ Vũ Bình lên tiếng trước: “Em biết nhà anh ở đâu, một người bạn làm bác sĩ tình cờ nói với em điều đó. Em cũng biết anh còn có vợ và con trai.”

    Hoàng Bách Thành ấp úng: “Ừm… Anh có… có lỗi với em! Bình Bình, chuyện là thế này, khi anh ra nước ngoài…”

    Hạ Vũ Bình ngắt lời gã, cô chỉ nói gọn lỏn: “Em vừa trúng sổ xố.”

    Hoàng Bách Thành ngớ người, ngây ngô hỏi lại: “Trúng sổ xố ư?”

    Hạ Vũ Bình nói tiếp: “Vâng! Nên em không cần đến số tiền em cho anh vay nữa. Giờ em có nhiều tiền rồi!”

    Hoàng Bách Thành vội hỏi: “Em trúng bao nhiêu?”

    Hạ Vũ Bình nói ra một con số.

    Hai mắt gã sáng rỡ, gã lắp bắp: “Thật… Thật không?”

    Hạ Vũ Bình thản nhiên nói tiếp: “Anh có thể cùng em đi đối chiếu số trúng thưởng và lĩnh tiền không? Từ khi chia tay lúc nào em cũng nhớ anh, đến giờ em cũng chưa kết hôn.”

    Hoàng Bách Thành lập tức nhận lời: “Đương nhiên là được! Bình Bình, đàn bà con gái như em đi lĩnh tiền một mình nguy hiểm lắm.”

    Hạ Vũ Bình bảo: “Anh nói dối em chuyện anh đã có gia đình, em đã tha thứ cho anh. Em rất muốn gặp anh, dẫu chỉ là lần sau cuối cũng được, hay là anh đến nhà em nhé!”

    Hoàng Bách Thành lại giở bài cũ, gã hứa hẹn: “Anh sẽ li dị, em cho anh chút thời gian nhé! Bình Bình, thực ra anh chẳng còn tình cảm gì với vợ…”

    Hạ Vũ Bình gật đầu như thể cô rất tin gã: “Vâng! Em chờ anh! Số điện thoại của em vẫn không thay đổi, bao nhiêu năm nay em luôn chờ cuộc gọi của anh.”

    Rồi Hạ Vũ Bình cay đắng khóc thành tiếng, Hoàng Bách Thành không ngừng an ủi, dỗ dành cô, gã hứa với cô ngày mai sẽ dẫn cô đi đối chiếu số trúng thưởng. Tối hôm ấy, Hoàng Bách Thành lên mạng tra cứu thông tin trên trang sổ xố kiến thiết. Tin ngay trang nhất trên tờ báo của tỉnh đăng tải như sau: “Một công dân của thành phố Lam Kinh đã may mắn trúng giải thưởng lớn giá trị hàng chục triệu tệ, nhưng nhân vật thần bí này vẫn chưa xuất hiện để lĩnh tiền.”

    Những dòng chữ ấy khiến gã tin sái cổ rằng Hạ Vũ Bình vừa trúng giải độc đắc. Lòng tham khiến gã cắm đầu chạy vào con đường không có lối về.

    Hôm sau, tức thứ ba ngày mùng 10 tháng 9 năm 2008, Hoàng Bách Thành đáp chuyến xe đầu tiên khởi hành từ mờ sáng đến thành phố Lam Kinh. Hạ Vũ Bình chuẩn bị sẵn bữa sáng chờ gã đến. Dựa theo địa chỉ mà Hạ Vũ Bình nhắn tin, Hoàng Bách Thành đã tìm thấy nhà cô. Sau khi bước vào nhà, hai người ôm nhau và trao nhau nụ hôn nhẹ. Một bé gái đứng cạnh Hạ Vũ Bình, cô bảo đó là con của chị gái.

    Hoàng Bách Thành cúi xuống bảo đứa bé: “Chào chú đi nào!”

    Bé gái lắc đầu. Hạ Vũ Bình khẽ mỉm cười.

    Hoàng Bách Thành liên tục hỏi dò về chuyện trúng thưởng, nhưng Hạ Vũ Bình cố tình lảng sang chuyện khác. Sau khi ăn xong hai thanh quẩy, mấy chiếc bánh bao nhỏ và một hộp sữa, Hoàng Bách Thành cảm thấy đầu óc hơi choáng váng, gã toan đứng dậy nhưng thấy trời đất chao đảo, quay mòng mòng, gã ngã vật xuống đất. Khi tỉnh lại, gã phát hiện thấy mình nằm trên giường, chân tay bị trói cố định vào bốn điểm trên thành giường.

    Hoàng Bách Thành hoảng hốt hỏi: “Cô làm gì thế? Cô vừa cho tôi ăn gì vậy?”

    Hạ Vũ Bình chậm rãi đáp: “Thuốc ngủ! Từ khi anh bỏ đi, đêm nào em cũng mất ngủ.”

    Hoàng Bách Thành liền đổi giọng dỗ dành: “Bình Bình! Em đừng manh động! Anh sẽ lấy em, đợi sau khi chúng ta đi lĩnh tiền về, anh sẽ lập tức li hôn với vợ và kết hôn với em.”

    Hạ Vũ Bình nhỏ nhẹ nói: “Anh biết không, em đã sinh cho anh một đứa con, giờ nó đã bốn tuổi rồi.”

    Hoàng Bách Thành thảng thốt: “Hả? Chẳng phải em viết thư cho anh nói rằng em đã bỏ cái thai đó rồi sao? Thế nó tên là gì?”

    Hạ Vũ Bình trả lời: “Hoàng Tiểu Quất.”

    Rồi cô kéo tay con gái lại gần và bảo: “Quýt nhỏ! Con gọi bố đi! Đây chính là bố con, người mà chúng ta đã đi tìm ròng rã suốt bốn năm. Rất vất vả đúng không con?”

    Quýt nhỏ ngọng nghịu gọi: “Bố!”

    Hạ Vũ Bình hỏi con: “Con thấy trông bố bây giờ giống chữ gì nào?”

    Quýt nhỏ đáp: “Chữ đại[1] ạ!”

    Hạ Vũ Bình lắc đầu, rồi mỉm cười bảo: “Không phải! Bây giờ trông bố giống chữ thái[2], nhưng chút nữa thôi mẹ sẽ biến bố thành chữ đại!”

    Hạ Vũ Bình đưa Quýt nhỏ đi nhà trẻ, trước lúc đi, cô ta còn cẩn thận lấy băng dính dán chặt miệng Hoàng Bách Thành lại.

    Ngoài ô cửa, mưa bắt đầu rả rích, rồi đổ ào ào giống hệt lần đầu tiên họ gặp mặt.

    Hạ Vũ Bình nói: “Tôi đã âm thầm điều tra và biết năm 1996 anh thực tập tại một bệnh viện ở thành phố Lam Kinh. Đúng thời điểm ấy, ở Lam Kinh xảy ra một vụ án mạng rất dã man. Chắc anh còn nhớ chứ? Vụ giết người rồi băm xác nạn nhân ấy! Bây giờ tôi sẽ tái hiện lại vụ án ấy lần nữa, tôi sẽ chặt xác anh thành từng mảnh nhỏ và vứt vào thùng rác.”

    Hai mắt Hoàng Bách Thành trợn trừng, lộ tia nhìn khiếp đảm đến cùng cực.

    Cô ta bắt đầu hôn gã, gã nhoài người ra sức tránh né nụ hôn của cô ta bởi lưỡi cô ta giống như lưỡi rắn. Cô ta hôn từ cổ gã lướt xuống khuôn ngực, rồi cứ trượt mãi xuống… Hoàng Bách Thành đau đến cứng người, gã liền rơi vào trạng thái hôn mê và từ đó không bao giờ tỉnh lại.

    Hạ Vũ Bình lấy dao dỡ băng dính dán quanh miệng gã ra, cô ta nâng đầu người tình và hôn lên trán. Máu tươi dấp dính chảy lên người cô ta. Cô ta bật khóc.

    Chưa vội nói đến tình yêu điên cuồng của cô ta, thì bản thân vụ án này đã đủ kinh thiên động địa, chấn động tâm can cả cõi thế tục này rồi. Mỗi nhát dao đều là một nghi thức của tình yêu.

    Hàng trăm hàng ngàn nhát dao Hạ Vũ Bình nhẹ nhàng nói: “Em sẽ chôn trái tim anh trong lòng em, để không ai có thể chia lìa chúng ta được nữa!”

    Hạ Vũ Bình bày bốn đôi đũa lên bàn ăn. Ngày thường cô ta luôn bày ba đôi đũa lên bàn khi dọn cơm mặc dù trong nhà chỉ có hai mẹ con. Cô ta thường nói với con gái thế này: “Có thể hôm nay bố sẽ đến ăn cơm với mẹ con mình đấy!” Còn ngày hôm đó, cô ta bày bốn đôi đũa, rốt cuộc đôi đũa thừa ra dành cho ai, chúng ta không thể nào biết được!

    Mưa tạnh hạt! Sắc trời âm u! Lúc xế chiều, cô ta đón con gái ở nhà trẻ về. Vết máu đọng trong phòng khách làm đứa trẻ thấy hơi sợ, cô bé chẳng may trượt chân ngã vào vũng máu, hai tay và hai chân chống trên sàn nhà, cô bé phải quỳ hai chân xuống để đứng lên – chứ không phải cô bé dập đầu cầu xin mẹ tha mạng giống như suy luận và phỏng đoán của cảnh sát. Trên thực tế người mẹ đã cho con uống thuốc an thần. Cô bé nhanh chóng chìm vào giấc ngủ say.

    Hoa dạ hương bừng nở, đưa hương thơm ngát trong mưa, những giọt nước long lanh như ngọc đọng trên đóa hoa trắng muốt.

    Hoa dạ hương tàn úa, rơi rụng khi trời sáng, cô ta phải xử lí xong tử thi của gã trước lúc mặt trời mọc.

    Cô ta tất bật suốt một đêm, rồi đạp xe vứt các phần thi thể người tình cùng quần áo đẫm máu vào thùng rác.

    Xong đâu đấy, Hạ Vũ Bình trở về nhà, khóa cổng sắt lại vứt chìa khóa vào trong bồn cầu, ôm đứa con bé bỏng trong tay, thì thầm vào tai nó: “Con ơi! Lẽ ra con không nên đến thế giới này!” Rồi cô ta nhẫn tâm dùng dao cứa đứt cổ tay con gái, sau đó đặt con vào bồn tắm.

    Cô ta cũng bước vào bồn tắm, ngồi xuống đó cắt cổ tay tự sát bằng dao gọt hoa quả.

    Mẹ và con gái cùng ngồi trong bồn tắm, chờ đợi thần chết đến đón về nơi cần đến, người sẽ lên thiên đường kẻ sẽ xuống địa ngục. Cạnh họ còn có một thi thể không đầu.

    Đây là một gia đình ba người!

    Nếu tình yêu không đủ lời lẽ để biểu đạt, thì cô ta nguyện lấy sinh mạng để chứng minh.

    Có lẽ bởi người mẹ không nhẫn tâm làm mạnh tay, nên vết thương trên cổ tay bé gái không sâu lắm, đứa trẻ không chết ngay, nó vùng tỉnh dậy vì đau đớn, chạy ra khỏi phòng tắm, chạy qua phòng khách, mở cửa ra, đứng trên ban công. Cổng sắt đã khóa.

    Đứa bé ngơ ngác nhìn thế giới u tối, sau đó nó quay lại, cổ tay vẫn giỏ máu, nó trở về phòng tắm và ôm lấy mẹ.

    Chương 3Định đoạt trần ai
    Vậy là bao nỗi trần ai của vụ án băm xác 11.9 đã hạ màn, hôm sau tổ chuyên án định rời khỏi thành phố Lam Kinh, nhưng vụ án này vẫn còn rất nhiều điều bỏ ngỏ bởi hung thủ đã chết, người ta chỉ có thể suy đoán và phân tích về những ẩn số còn lại. Cảnh sát thành phố Lam Kinh tiếp tục đi sâu điều tra hơn về thân thế của Hoàng Bách Thành, trong lí lịch của gã ghi rằng năm 1996, gã thực tập tại một bệnh viện ở thành phố Lam Kinh, khi ấy gã thuê nhà trọ ở gần trường đại học Lam Kinh. Những thông tin mới khiến cảnh sát lập tức liên hệ gã với hung thủ trong vụ băm xác Điêu Ái Thanh.

    Cựu giám đốc sở cảnh sát nói: “Ngay từ lúc ấy chúng tôi đã nghi ngờ hung thủ sát hại Điêu Ái Thanh hành nghề bác sĩ ngoại khoa hoặc đầu bếp.”

    Giáo sư Lương hỏi: “Có thể tìm thấy nơi Hoàng Bách Thành thuê trọ năm 1996 hiện ở chỗ nào không?”

    Cựu giám đốc sở đáp: “Năm ngoái người ta đã phá dỡ khu dân cư đó rồi!”

    Bao Triển nói: “Có thể trước khi khu nhà bị phá dỡ, Hạ Vũ Bình đã đến đó điều tra, không biết cô ta đã phát hiện thấy điều gì.”

    Tô My nêu nghi vấn: “Trong thư điện tử, Hạ Vũ Bình viết cô ta biết chút ít nội tình về vụ án băm xác 19.1. Không hiểu nội tình mà cô ta muốn ám chỉ là chuyện gì nhỉ?”

    Họa Long bổ sung thêm: “Hạ Vũ Bình tốt nghiệp trường đại học Lam Kinh, lại là bạn học cùng khóa với Điêu Ái Thanh. Chúng ta cần hết sức lưu ý đến điểm trùng hợp ngẫu nhiên này.”

    Tuy có nhiều điều nghi vấn nhưng trên thực tế chẳng hề có bất kì chứng cứ nào chứng thực Hoàng Bách Thành và Hạ Vũ Bình có liên quan đến vụ án băm xác 19.1 xảy ra vào mười năm trước, có điều rất nhiều điểm trùng hợp khiến người ta không thể không đặt dấu hỏi. Liệu có phải một trong hai người Hạ Vũ Bình hoặc Hoàng Bách Thành chính là thủ phạm giết Điêu Ái Thanh? Liệu có phải Hạ Vũ Bình chỉ đơn thuần muốn mô phỏng vụ án thảm khốc đó?

    Còn một điểm nữa, tại hiện trường vụ án 11.9, cũng chính là tại nhà của Hạ Vũ Bình, cảnh sát phát hiện bốn đôi đũa đặt trên bàn ăn, trong khi trên hiện trường chỉ có ba xác chết. Phải giải thích thế nào về chuyện này?

    Trong lúc ăn trưa, vấn đề đôi đũa thứ tư đã tìm thấy lời giải đáp!

    Vụ án băm xác 11.9 đại cáo thành công, sở cảnh sát thành phố Lam Kinh tổ chức buổi tiệc mừng công để chúc mừng tổ chuyên án và các chiến sĩ cảnh sát, tất cả các thành viên đều tham dự đầy đủ. Giám đốc sở cảnh sát long trọng đứng lên phát biểu, ông ta bày tỏ lòng cảm ơn và trân trọng sâu sắc đối với những gì lực lượng cảnh sát trong cả thành phố đã thể hiện. Trong tiếng vỗ tay vang dội như sấm dậy, các thành viên của tổ chuyên án cũng được mời lên phát biểu, giáo sư Lương và Tô My nói một vài câu khách sáo thể hiện tổ chuyên án không dám coi đây là công lao của riêng mình, mỗi một vụ án được phá giải đều dựa trên sự nỗ lực và công lao của mỗi thành viên trong đội.

    Họa Long chỉ nói một câu: “Cảnh sát luôn có hai danh xưng là “anh hùng” và “anh hùng rơm”, muốn chọn danh xưng nào tùy thuộc vào lựa chọn của mỗi cảnh sát.”

    Toàn bộ cảnh sát dưới khán đài đều im phăng phắc, rồi sau đó từng tràng pháo tay rộ lên vang dội, mọi người đều hô lên khen hay.

    Họa Long đưa micro cho Bao Triển. Anh bước lên khán đài với vẻ thẹn thùng vì không biết nói gì trước bao nhiêu người thế này. Mọi người đều im lặng chờ đợi, Bao Triển khẽ hắng giọng rồi nhắc lại nguyên văn lời tuyên thệ anh từng đọc khi gia nhập tổ chuyên án.

    “Thề trước quốc kì, từng lời nói hành động của cảnh sát tuyệt đối không dây bẩn sao vàng. Thề trước hiến pháp, từng suy nghĩ ý thức của cảnh sát tuyệt đối không phạm tới tôn nghiêm của pháp luật. Thề trước nhân dân suốt đời suốt kiếp của cảnh sát tuyệt đối không phụ sự kì vọng của nhân dân. Trước quốc kì và quốc huy, tôi xin thề: Sẽ đấu tranh không ngừng nghỉ đến giọt máu cuối cùng với mọi hoạt động phạm tội vì sự hưng thịnh của quốc gia, vì an ninh của nhân dân! Tôi thề sẽ làm tất cả vì sứ mệnh thần thánh, vì sự hi sinh cao cả của các chiến hữu. Được làm cảnh sát và đứng ở đây là vinh dự của cả đời tôi!”

    Mặc dù lời tuyên thệ ấy không hợp thời hợp lúc nhưng vẫn lay động bầu nhiệt huyết của tất cả cảnh sát có mặt ở hiện trường, mọi người vỗ tay vang dội.

    Bốn thành viên của tổ chuyên án trở lại bàn tiệc, giám đốc sở cảnh sát Lam Kinh và cựu giám đốc sở cảnh sát liền đến chúc rượu. Ly thứ nhất, cựu giám đốc sở tưới lên mặt đất, ông xúc động nói: “Tuy vụ án này đã được phá giải, nhưng tôi vẫn không thể vui nổi. Ly rượu này tôi dành cho những nạn nhân vô tội. Cháu bé trong vụ án 11.9 đáng thương quá, cả cô Điêu Ái Thanh nữa, suốt mười hai năm ròng vất vưởng ở dương gian, biết lúc nào mới có thể an lòng mà nhắm mắt xuôi tay?”

    Giám đốc sở cảnh sát thành phố Lam Kinh thở dài bảo: “Tôi nhận được bưu kiện do một sinh viên gửi tới. Cậu ta không phải cảnh sát nhưng từ mấy năm trước luôn âm thầm ra sức điều tra vụ án 19.1. Bắt đầu từ khi vào cấp ba đến giờ, cậu ta đã thu thập tất cả tư liệu liên quan đến vụ án mà mình biết, từ việc cắt tin tức đăng tải trên báo cho đến tự ghi chép những nhận định của mình, thậm chí cậu ta còn ghi chép cả những điều mà bản thân điều tra được. Tất cả tư liệu này phải nặng đến chục cân. Đối diện thùng bưu kiện, tôi thấy rất xấu hổ.”

    Tô My nói: “Rất nhiều người tham gia mạng xã hội quan tâm đến vụ án này. Có thể nói đó là vụ án đạt tỉ lệ quan tâm cao nhất trên mạng. Tôi cảm thấy hung thủ… Chỉ là suy đoán của cá nhân tôi thôi nhé…”

    Giáo sư Lương cắt ngang: “Tôi thấy thế này, chúng ta hãy nêu phân tích và suy đoán của mình, nghĩ thế nào cứ mạnh dạn nói ra, không cần phải chịu trách nhiệm về những phán đoán đó, cũng không cần nghĩ đến chứng cứ hay tính thận trọng làm gì. Chúng ta cứ nói ra tự nhiên giống như cư dân mạng thảo luận với nhau ấy!”

    Tô My gật đầu bảo: “Vâng! Thế thì tôi xin nói tiếp. Lẽ thường không khảo thì ba năm sau kẻ trộm cũng xưng, nhưng hung thủ giết Điêu Ái Thanh vẫn không bị sa lưới, đến giờ y vẫn tiêu dao tự tại ngoài vòng pháp luật chắc chắn y cảm thấy rất đắc ý, bao nhiêu năm trôi qua, y cho rằng mình đã an toàn bởi vậy y mới hùng hồn lên mạng bàn tán tình hình vụ án với các cư dân mạng khác, thậm chí còn cố tình hé lộ một số tình tiết vụ án. Hồ như y rất thích phân tích và thảo luận. Một số suy luận của cư dân mạng khiến hắn cũng hơi hoảng, vì cẩn tắc vô áy náy nên y lặn mất tăm. Nhưng một thời gian sau, y không chịu được cô đơn nên lại tái xuất giang hồ… Có lẽ hung thủ là một trong những cư dân mạng tham gia thảo luận về vụ án. Tôi để ý và thấy rằng cứ cách một thời gian thì lại có người đăng bài hoặc chia sẻ những topic liên quan đến vụ án, rất có khả năng kẻ làm việc đó chính là hung thủ. Chỉ có điều chúng ta không thể khảo chứng được trong nguồn tin tức khổng lồ xuất hiện trên mạng.

    Bao Triển phản bác: “Tôi lại nghiêng về nhận định hung thủ là kẻ chuyên giết mổ gia súc. Có thể y là một tay bán thịt lợn ngoài chợ, còn độc thân hoặc đã li dị, y sống một mình trong ngôi nhà có vườn bao quanh, trong khu vườn hoang tàn ấy đựng chiếc xe ba bánh. Một số người suy đoán phương tiện vận chuyển mà hung thủ sử dụng khi đi phi tan thi thể nạn nhân là xe đạp hoặc xe hơi loại nhỏ, vì không ai nghĩ đó là xe mô tô ba bánh nhỉ? Loại xe nông dụng này rất phù hợp với những tay chuyên giết mổ gia súc hoặc bán thịt gia súc ngoài chợ. Có lẽ chiếc xe đó rất cũ kĩ, không có đèn, phanh không ăn. Ngày 19 tháng 1 năm 1996, nhiệt độ ngoài trời hạ xuống âm bốn độ C, thành phố Lam Kinh bị tuyết bao phủ hoàn toàn, vì trước đó vừa xảy ra trận tuyết lớn. Rất có khả năng Điêu Ái Thanh mất tích vì bị tai nạn giao thông. Hung thủ lái mô tô ba bánh, vì khi ấy trời vô cùng giá rét, mặt đất đóng băng nên hung thủ vô tình đâm phải Điêu Ái Thanh đang đi tản bộ vào buổi tối. Điêu Ái Thanh không chết nhưng bị thương nặng, hung thủ lấy lí do đưa cô ấy đến bệnh viện để bế cô lên xe. Nhưng giữa đường y chợt thay đổi ý định, y kéo nạn nhân vào trong nhà giết người diệt khẩu. Vì bệnh nghề nghiệp nên y chọn cách phi tang thi thể bằng cách chặt xác nạn nhân. Căn cứ vào loại ba lô kiểu dáng xưa cũ, ta có thể đoán cuộc sống của hung thủ không lấy gì làm dư dả và hoàn toàn phù hợp với thân phận của một kẻ giết mổ gia súc hoặc bán thịt ngoài chợ.”

    Họa Long cũng đưa ra nhận định: “Đối với vụ án 19.1, tôi có suy đoán thế này: Nạn nhân Điêu Ái Thanh mất tích ngày mùng 10 tháng 1 năm 1996, thi thể được phát hiện vào ngày 19 tháng 1, trải qua chín ngày thi thể mới được phát hiện, nhưng tại sao lại là chín ngày? Sau khi giết người, việc hung thủ muốn làm nhất là tiêu hủy xác chết, vậy mà mãi chín ngày sau y mới đi vứt xác. Phải chăng thời gian chín ngày là hơi dài? Liệu trong đó có ẩn chứa uẩn khúc nào không? Điều đáng phải đặt một dấu hỏi là hai con số 110 và 119[3]. Mọi người đều biết hai con số này đại diện cho điều gì phải không? Đó chính là hai số điện thoại khẩn cấp báo cảnh sát chúng ta. Điều này có nghĩa gì? Chúng ta có thể lí giải động cơ của hung thủ thông qua thông điệp mà y gửi đến không? Theo tôi y chính là một phạm nhân đã ra tù từng phải chịu sự đối xử bất công hoặc chịu một cú sốc nào đó do các cơ quan pháp luật gây ra, y lợi dụng vụ án giết người này để thách thức và khiêu khích cảnh sát!”

    Cựu giám đốc sở phá lên cười: “Ha ha! Tôi thấy suy đoán vô căn cứ này khá thú vị đấy! Nói thực tôi luôn nghi ngờ một người, nhưng cũng chẳng có chứng cứ xác thực nào cả. Mọi người đã mạnh dạn nói ra phỏng đoán của mình thì tôi cũng không ngại chia sẻ suy nghĩ của mình với mọi người. Tôi cảm thấy trong quá trình điều tra phá án và thăm dò dư luận chắc chắn chúng ta từng chạm trán với hung thủ, nhưng vì quá ít manh mối nên chúng ta đã để y lọt mất. Tôi cho rằng hiện trường vụ án thứ nhất là ở một ngõ nhỏ hoặc ở một đoạn nào đó trên đường Thanh Đảo. Khi ấy chúng tôi cũng tiến hành điều tra, rà soát tại hai vị trí trọng điểm trên, cảnh sát gõ cửa từng nhà tìm kiếm nghi phạm. Khi ấy chúng tôi nghĩ rằng mặc dù manh mối nắm trong tay vô cùng ít ỏi nhưng chỉ cần rà soát đại trà là có thể thu hẹp phạm vi. Lúc lục soát một quán mì, tôi đặc biệt để ý đến chủ quán, đó là người đàn ông ngoài ba mươi tuổi. Theo dân quanh vùng phản ánh thì anh ta là kẻ vô cùng ki bo, keo kiệt, tinh thần cũng hơi bất bình thường, dáng người khá cao, vai rộng, da đen nhẻm. Nếu nhìn bề ngoài thì nom anh ta không hề nanh ác hay nham hiểm, nhưng không hiểu sao khi nhìn anh ta, tôi lại thấy lạnh người. Tôi làm cảnh sát từng ấy năm, gặp biết bao loại tội phạm, nhưng chưa bao giờ tôi cảm thấy sợ như thế. Hai mắt anh ta nhìn chằm chằm vào người đối diện, ánh mắt ngây dại. Chúng tôi tìm thấy một cuốn sổ tay trong nhà anh ta, đó là một cuốn sách cổ đã cũ kĩ, chữ bên trong được viết bằng bút lông, nom đã khá nhiều năm rồi. Nội dung cuốn sổ là các thủ pháp lăng trì, giảng giải khá chi tiết về các thao tác tiến hành kiểu khổ hình này. Sau khi tra hỏi, anh ta khai ông nội của ông nội anh ta là đao phủ, chuyên lăng trì phạm nhân. Cuốn sổ này do tổ tiên truyền lại đến đời anh ta. Khi ấy, trong đầu tôi chợt nảy ra một suy nghĩ, liệu hậu thế của tay đao phủ đó có tiện tay tóm cổ một người bất kì rồi thực hiện xử phạt người đó bằng khổ hình lăng trì giống như nội dung ghi trong cuốn sổ hay không?”

    Họa Long cắt ngang: “Quán mì đó bán những loại mì gì?”

    Cựu giám đốc sở đáp: “Nhiều loại lắm! Mì thịt sợi rau cải, còn có cả thịt xiên nướng nữa! Ta không thể định tội cho một người chỉ vì người ấy có cuốn sổ chép tay ghi các nội dung liên quan đến lăng trì nên chuyện cũng chỉ dừng lại ở đó. Nhưng đến tận giờ tôi vẫn nhớ như in ánh mắt của kẻ đó. Sau khi thành lập đội án tồn, tôi liền dẫn cảnh sát đến đó thăm dò lần nữa nhưng quán mì đó không còn nữa, khu dân cư đã bị phá dỡ từ lâu, không rõ kẻ đó chuyển đi đâu? À mà đúng rồi! Khi ấy Hoàng Bách Thành thuê trọ chính trong khu dân cư đó.”

    Giám đốc sở cảnh sát đưa ra quan điểm của mình: “Tôi cho rằng khả năng tập thể gây án không lớn lắm. Một vụ án nghiêm trọng như thế này không thể do một tập thể cùng thực hiện được bởi một miệng thì kín chín miệng thì hở, chẳng ai dám đảm bảo đối phương sẽ vĩnh viễn giữ được bí mật, càng chẳng biết lúc nào những ân oán cá nhân sẽ bùng phát, chẳng ai dám tin bí mật này sẽ mãi mãi được đào sâu chôn chặt cùng thời gian. Bởi vậy vụ án này do một người gây ra, nói cách khác, hung thủ là một cá nhân chứ không phải một tập thể. Mà thời điểm ấy, Điêu Ái Thanh vừa mới vào năm thứ nhất, các mối quan hệ vô cùng đơn giản, có khả năng hung thủ và cô ấy không hề quen nhau. Đây chỉ đơn thuần là vụ án mạng ngẫu nhiên, mà loại án mạng này lại khó phá giải nhất. Điêu Ái Thanh thích văn học, hung thủ có thể là một ông chủ hiệu sách, khi cho cô ấy mượn sách, hai bên xảy ra mâu thuẫn nên ông chủ đã lỡ tay giết người, sau đó tìm cách phi tang vật chứng. Ngoài ra còn một khả năng nữa, khi ấy nhà trường còn rộ lên phong trào trao đổi nhật kí, trước khi gặp nạn, Điêu Ái Thanh từng nói mình quen một nhà văn, có lẽ gã nhà văn đó và cô ấy từng viết thư qua lại cho nhau, rồi hẹn gặp mặt. Vào ngày hai người gặp nhau, gã nhà văn đã cưỡng bức cô và giết người diệt khẩu. Y làm tất cả những việc còn lại với tử thi chỉ vì muốn tiêu hủy tang chứng mà thôi.”

    Giáo sư Lương nói: “Còn tôi thấy vụ án này xuất hiện hai nghi vấn mà nghĩ nát óc mãi vẫn không ra. Thứ nhất là gã gù làm việc trong nhà hỏa táng, tên này có thói quen biến thái ăn thịt người. Căn cứ theo điều tra của chúng ta thì năm 96 hắn làm nghề phu xe, nhưng trong quá trình thẩm vấn hắn lại phủ nhận điều này, hắn nói mình nối nghiệp cha từ khi tốt nghiệp cấp hai và làm việc tại nhà hỏa táng liên tục từ đó đến nay. Vì sao hắn lại cố tình giấu giếm thời gian đi kéo xe đó? Liệu có phải khi hắn đang kéo xe trên phố thì Điêu Ái Thanh đã vô tình lên xe hắn, để rồi vụ án 19.1 xảy ra ngay sau đó? Còn một điểm nghi vấn nữa…”

    Trên bàn tiệc có sáu người với sáu đôi đũa, giáo sư Lương cầm một đôi đũa, đặt lên bàn, rồi chậm rãi nói: “Trong vụ án 11.9 lại thừa một đôi đũa, điều này có nghĩa gì? Ai có thể nói cho tôi biết được không?”

    Sau một lát ngây người nhìn đôi đũa, cuối cùng Họa Long ngẩng mặt lên nói: “Tôi biết đáp án.”

    Bao Triển vội hỏi: “Nó có nghĩa gì?”

    Họa Long nâng ly rượu uống cạn, vẻ mặt thoáng nét bi thương, anh kể: “Trước đây, tôi cũng tham gia một bữa tiệc mừng công, lẽ ra bữa tiệc ấy phải có ba cảnh sát tham gia, chúng tôi là một nhóm cảnh sát nằm vùng, nhưng hai đồng nghiệp ấy đều hi sinh trong khi làm nhiệm vụ, chỉ còn mình tôi sống sót. Bữa tiệc mừng công diễn ra rất rôm rả, nhiều cảnh sát tham gia giống như hôm nay, chỉ có tôi lặng lẽ rời khỏi bữa tiệc, một mình tìm quán rượu nhỏ, gọi mấy món nhậu. Hôm ấy, tôi uống say khướt, rồi khóc tu tu như trẻ con. Mặc dù chỉ uống rượu một mình, nhưng tôi lại đặt ba đôi đũa trên bàn ăn, tôi cảm thấy hai người kia vẫn còn sống, họ đang ngồi ngay cạnh tôi…”

    Tô My hỏi: “Ý anh là đôi đũa thừa ra đó dành cho người chết sao?”

    Giáo sư Lương trầm ngâm tiếp lời: “Người chết! Lẽ nào đôi đũa ấy để cho Điêu Ái Thanh?”

    Chương 4Tuyến đường vứt xác
    Chiều muộn ngày hôm đó cũng chính là đêm trước tổ chuyên án rời khỏi thành phố Lam Kinh, đồn công an phân cục Cổ Lâu nhận được một cú điện thoại báo án gọi đến từ phòng bảo vệ của trường đại học Lam Kinh. Một đêm khi bảo vệ đi tuần xung quanh bốn khu kí túc xá ở phía nam nhà trường, họ đã gặp sự việc quái lạ. Khu kí túc xá phía nam của trường có một gian phòng luôn luôn trong trạng thái khóa trái. Một cậu bảo vệ mới đến công tác đi cùng một bác bảo vệ giàu kinh nghiệm công tác tại trường, bác bảo vệ già khuyên: “Tốt nhất không nên đi tuần ở đây!”

    Cậu bảo vệ mới ngạc nhiên hỏi: “Vì sao vậy? Chẳng lẽ trong đó có ma à?”

    Bác bảo vệ già đáp: “Cậu không nên biết thì hơn.”

    Lòng hiếu kì thúc giục cậu bảo vệ mới đêm nào cũng đi một vòng quanh kí túc xá phía nam để xem xét tình hình. Cậu ta bật đèn pin tuần tra tòa nhà cũ kĩ, khi đến trước cánh cửa đóng chặt, cậu ta dừng lại, cơn âm phong lạnh teo teo càn quét hành lang, cậu ta soi đèn pin vào cánh cửa đang đóng kín. Ổ khóa đã bị han gỉ, từ bản lề và móc khóa có thể thấy rõ cánh cửa này đã không mở trong nhiều năm rồi.

    Giờ thì cánh cửa đã mở!

    Cậu bảo vệ không nén được tò mò thò tay giật ổ khóa xuống, ốc vít đã han gỉ nên trở nên lỏng lẻo, sau mấy lần giật, ổ khóa đã bị giật tung ra khỏi móc khóa.

    Sau đó nhiều người đã hỏi cậu bảo vệ nhìn thấy gì khi mở cửa, cậu bảo vệ chỉ trầm ngâm không muốn nói nhiều.

    Có người trêu: “Hay anh nhìn thấy một cô gái mặc áo trắng?”

    Cậu bảo vệ cười cười lắc đầu.

    Có người lại hỏi: “Hay phía sau cửa là một cô gái tóc tai xõa xượi?”

    Cậu bảo vệ đành trả lời: “Trong đó chẳng có người nào hết!”

    Ngay cả đội trưởng đội bảo vệ cũng tò mò hỏi dồn: “Thế cậu nhìn thấy gì?”

    Nói ra thật khiến người ta khó tin, sau khi mở cửa ra, cậu bảo vệ thấy căn phòng trống tênh, bụi phủ thành lớp dành, mùi ẩm mốc xộc thẳng vào mũi, cậu soi đèn lên, vừa lúc ấy có một tờ giấy từ không trung chầm chậm bay xuống, rơi ngay dưới chân.

    Có lẽ trong sát na cửa mở, tờ giấy đó đã bị gió thổi bay xuống đất.

    Cậu bảo vệ hỏi: “Trên tờ giấy viết một cái tên. Điêu Ái Thanh là ai?”

    Đội trưởng đội bảo vệ nhìn cậu bảo vệ trẻ tuổi, cậu ta còn chưa đến hai mươi, mười hai năm trước chỉ là một thằng nhóc vắt mũi chưa sạch. Đội trưởng kể: “Năm 96, trong kí túc có một nữ sinh tên là Điêu Ái Thanh bị giết hại, hung thủ băm xác cô ấy ra thành ngàn mảnh, đến giờ cảnh sát vẫn chưa bắt được hung thủ. Vì vụ án này quá khiếp đảm nên từ đó đến nay kí túc đó vẫn để trống, không ai dám vào ở.”

    Cậu bảo vệ lấy tờ giấy mà mình phát hiện trong kí túc ra cho mọi người xem, trên đó viết tên Điêu Ái Thanh, ngoài ra còn vẽ những đường vòng kì quái, thoạt xem thì hao hao giống một chú dê, nhưng nhìn kĩ lại thấy giống bản đồ chỉ đường kì bí nào đó. Sau khi phòng bảo vệ của nhà trường điều tra thì biết đó là tờ giấy mà hai nữ sinh trong trường đã chơi trò cơ bút. Trò cơ bút là một trò chơi cầu cơ, mời gọi thần thánh linh hiển, trò này rất thịnh hành trong giới sinh viên, theo luật thì sau khi mời gọi thần linh về, người chơi phải đốt tờ giấy đi, nhưng hai nữ sinh nọ quá sợ hãi nên họ lẳng lặng nhét tờ giấy vào trong căn phòng kí túc mà khi xưa mà Điêu Ái Thanh từng ở.

    Đội trưởng đội bảo vệ phản ánh sự việc này cho đồn công an phân cục Cổ Lâu, phân cục trưởng lại báo cáo tình hình cho tổ chuyên án.

    Rất nhiều cảnh sát trong đó có cả phân cục trưởng đều cho rằng cơ bút là trò mê tín dị đoan vớ vẩn và không đáng tin nên cho rằng bộ chỉ huy vụ trọng án sắp giải tán này sẽ không quan tâm, bởi rốt cuộc cảnh sát chỉ phá án dựa trên những căn cứ khoa học, chỉ duy Tô My kiên quyết bảo vệ ý kiến của mình, cô cho rằng cơ bút là trò chơi bói toán rất kì lạ, nó có thể nói cho chúng ta biết những việc từng xảy ra trong quá khứ cũng như những việc sắp xảy ra trong tương lai. Hồi còn học đại học, cô cũng chơi trò này.

    Giáo sư Lương đề nghị mọi người bỏ phiếu biểu quyết nếu vượt quá bán thì bộ chỉ huy sẽ ra lệnh tiếp tục đi sâu điều tra theo manh mối này.

    Tô My là người đầu tiên giơ tay.

    Bao Triển sinh ra và lớn lên ở vùng nông thôn nên anh luôn tin vào những điều thần bí, bởi vậy anh cũng giơ tay.

    Họa Long hỉ mũi tỏ vẻ xem thường. Anh không giơ tay, chỉ nói: “Đúng là mê tín dị đoan!”

    Giáo sư Lương không có động thái gì, nếu ông bỏ cuộc thì vụ án sẽ chấm dứt tại đây, ngày mai tổ chuyên án sẽ rời khỏi thành phố Lam Kinh và trở về tổng bộ. Tô My căng thẳng nhìn ông, Bao Triển cũng chờ đợi quyết định của giáo sư Lương. Họa Long cười nhạo: “Nếu bảo trò cơ bút này linh thiêng thật thì giáo sư cứ để bút tiên đưa ra quyết địnhh xem thế nào.”

    Giáo sư Lương nhìn tờ giấy và nói: “Trước khi đến đây phó cục trưởng đã tặng chúng ta bảy chữ “Đừng để hổ thẹn với lương tâm”, có thể tờ giấy này chẳng hề có chút giá trị nào, nhưng những việc cần làm chúng ta vẫn phải làm, dẫu cho nó vô ích. Như thế mới không cảm thấy có lỗi với bản thân.”

    Giáo sư Lương yêu cầu tất cả thành viên của tổ chuyên án đều mặc cảnh phục giống như lúc mới đến. Họ muốn xuất hiện trước đông đảo sinh viên trường đại học Lam Kinh trong trang phục trang nghiêm của cảnh sát, để ngầm nói với họ rằng cảnh sát không bao giờ buông tay trước vụ án Điêu Ái Thanh, không bao giờ bỏ qua hung thủ.

    Họa Long lái xe đưa tổ chuyên án đến trường đại học Lam Kinh. Màn đêm bắt đầu giăng mắc khắp nơi, giáo sư nhìn đồng hồ, bây giờ chính là thời gian Điêu Ái Thanh rời khỏi trường và mất tích. Đội trưởng đội bảo vệ chạy ra tiếp đón tổ chuyên án, hiệu trưởng và các lãnh đạo trường khác cũng vội đến ngay sau đó. Trước tiên, tổ chuyên án gọi hai nữ sinh đã chơi trò cơ bút đến, rồi thẩm vấn cậu bảo vệ phát hiện ra tờ giấy. Cậu bảo vệ trình bày: “Họ đã điều tra, căn cứ vào dấu vết in trên tờ giấy thì phát hiện hai nữ sinh này đã nhét tờ giấy vào phòng kí túc của Điêu Ái Thanh qua khe cửa.” Hai nữ sinh cũng khai: Họ nghe các anh chị khóa trên nói trước đây Ái Thanh ở gian kí túc đó.

    Tờ giấy cầu cơ là một trang A4, trên đó viết tên của Điêu Ái Thanh và vẽ cả những đường kẻ khá phức tạp và bất quy tắc.

    Bốn thành viên của tổ chuyên án đứng trước cửa phòng kí túc mà Điêu Ái Thanh ở năm xưa. Căn phòng trống trơn không có bất kì đồ đạc gì ngoài bụi trần. Đèn không sáng. Mọi người lặng lẽ nhìn vào bóng đêm. Năm 1996, nữ sinh Điêu Ái Thanh đã rời khỏi căn phòng này, để rồi sau đó biến mất trong thành phố này. Mãi chín ngày sau, từng phần thi thể của cô mới được phát hiện.

    Đây chính là xuất phát điểm!

    Giáo sư Lương giơ tờ giấy lên, soi đèn pin xuyên qua nó, nheo mắt quan sát kĩ, rồi lẩm bẩm như đang nói với oan hồn: “Rốt cuộc cháu muốn mách bảo điều gì cho chúng tôi nhỉ?”

    Bao Triển cũng nhìn tờ giấy, anh thấy rất rõ điểm đặt bút.

    Như chợt nhớ ra điều gì, giáo sư Lương đột nhiên lớn giọng nói: “Mang bản đồ thành phố Lam Kinh ra đây! Bản đồ năm 96 ấy! Nhanh lên!”

    Phòng bảo vệ nhà trường lập tức đi tìm bản đồ, cứ ngỡ bản đồ năm 96 rất khó kiếm nhưng chẳng ngờ lại thấy nhanh đến vậy – Một bác lái taxi già trong trường vừa vặn có tấm bản đồ thành phố từ năm 96.

    Giáo sư Lương lấy bút đỏ chấm vài điểm trên bản đồ, những điểm đánh kí hiệu bằng mực đỏ chính là những địa điểm vứt xác năm đó, sau đó lấy điểm xuất phát là trường đại học Lam Kinh, rồi úp tờ giấy vẽ những đường nhằng nhịt, phức tạp lên bản đồ, chẳng ngờ tất cả các điểm vứt xác ấy lại nằm trên đường kẻ của tờ giấy cầu cơ. Sự trùng hợp này khiến người ta chỉ biết tròn mắt kinh ngạc.

    Bao Triển nói: “Chẳng lẽ đây là tuyến đường vứt xác năm đó của hung thủ?”

    Tô My tiếp lời: “Có thể hiện trường băm xác của vụ án thứ nhất ở đoạn nào đó trên tuyến đường này.”

    Giáo sư Lương lập tức ra lệnh: “Họa Long! Mau lái xe!”

    Họa Long ngần ngừ: “Bác Lương, bác không đùa đấy chứ? Chúng ta là cảnh sát, lẽ nào lại đi tìm hung thủ dựa trên tuyến đường viết trên tờ giấy cầu cơ sặc mùi mê tín này sao?”

    Giáo sư Lương vỗ vai anh: “Thì cậu cứ coi như chúng ta đang đi dạo thành phố Lam Kinh là được chứ gì? Cứ đi theo tuyến đường này, ắt sẽ tìm thấy đích đến.”

    Quá trình tìm kiếm này giống như một trò chơi, các nét vẽ trên tờ giấy che phủ cả bản đồ thành phố, có điều chẳng thể phán đoán được tỉ lệ và phương vị của bản đồ, chỉ cần sai lệch một chút thì khoảng cách giữa hai con phố, hai con đường hoặc vị trí của hai khu dân cư sẽ bị sai lệch hoàn toàn. Họa Long nổ máy dẫn đường, bốn thành viên của tổ chuyên án chẳng hề ôm hi vọng trong lòng, giống như giáo sư nói, coi như họ đi thăm thú cảnh đẹp của thành phố Lam Kinh mà thôi. Họ biết đây là chuyến tìm kiếm vô nghĩa, chỉ có điều họ làm vậy để lương tâm mình được thanh thản.

    Từ xuất phát điểm, chiếc ô tô từ từ rời khỏi trường đại học Lam Kinh. Trong màn đêm u tối, có lẽ ai đó đã dẫn đường cho họ.

    Tô My nghe nhạc bằng máy MP3, Họa Long hỏi: “Bài gì thế?”

    Tô My đáp: “Bèo dạt, một bài hát xưa cũ!”

    Lo chi ngày sau kết thúc thế nào

    Ta từng gặp mặt chẳng phải sao

    Cần gì lao tâm tìm cách trói

    Cần gì lời hứa hái trăng sao.

    Này cô thiếu nữ đương độ tuổi hoa bị giết hại một cách tàn nhẫn từ mười năm trước! Em có nghe thấy không? Đây chính là bài hát mà em từng thích nhất đấy!

    Hãy để chúng tôi đi đến tận cùng thành phố Lam Kinh! Em hãy hiển linh và nói cho chúng tôi biết ai là hung thủ và hắn đang ở đâu?

    Hãy để gió dẫn chúng tôi đi tìm hung thủ! Hỡi linh hồn phiêu bạt khắp chốn nhân gian chẳng được an nghỉ của em hãy dẫn đường cho chúng tôi!

    Chương 5Tờ giấy thần bí
    Mười năm! Thành phố này đã thay đổi đến điên đảo quay cuồng, chỉ duy một thứ không thay đổi đó là những người mưu sinh bằng nghề nhặt rác. Người phát hiện ra tử thi của Điêu Ái Thanh là một nữ công nhân vệ sinh, cô ấy cũng nhặt rác, khi phát hiện một thanh sắt phế thải cô đã rất vui mừng, huống hồ còn phát hiện hẳn một bọc thịt, vì thế cô định mang về nhà ăn. Hơn chục năm trôi đi, bể rác đắp bằng xi măng được thay bằng các thùng rác nhựa màu xanh da trời, hết đám người nhặt rác này đi lại có một đám người khác đến, họ nhặt phế liệu tìm kiếm tài vận từ những thứ chúng ta vứt đi.

    Người nghèo trong thành phố giống như những cánh hoa bồ công anh, chúng xoay xoay, bay bay, trôi dạt trên nền xi măng theo chiều gió, chúng mang theo hi vọng có thể lịm tắt bất cứ lúc nào, vô vọng tìm kiếm từng hạt đất để cắm rễ nảy mầm.

    Đặc điểm nổi bật của thùng rác là vô cùng thành thật, chúng không biết nói dối, lại vô cùng công bằng, coi người giàu cũng như kẻ nghèo. Đó chính là nơi người người công bằng theo nghĩa đích thực, mọi vật đều trở lại bộ dạng ban đầu của nó, mỗi vật đều tìm thấy điểm cuối của cuộc đời. Những chiếc răng giả dối trá cuối cùng cũng trở thành răng giả đơn thuần, những bình rượu chứng kiến bao cuộc bán trác hủ bại cuối cùng cũng trở thành bình rượu đơn thuần. Đầu lọc thuốc mà anh công nhân vừa hút, quả táo mà bà mệnh phụ phu nhân vừa cắn dở gặp nhau ở thùng rác, hình đầu người người trên tờ tiền rách và bọt đờm gói trong giấy vệ sinh cũng gặp nhau ở thùng rác. Những chiếc mặt nạ ngụy trang đầy giả tạo bị lật bỏ – thùng rác có ý nghĩa hình tượng như vậy đấy!

    Họ lái xe đi loanh quanh thành phố này, lượn qua ngõ Tiểu Phấn, nhà hỏa táng, rồi vòng qua đường Thanh Niên, đường Hoa Kiều, gặp phải mấy ngõ cụt, lại ngang qua hiện trường vứt xác lúc gây án, rồi xuyên qua rất nhiều con đường và khu dân cư… Suốt quá trình đó, họ còn bị lạc đường, nhưng cuối cùng họ cũng đến đích.

    Bốn thành viên của tổ chuyên án xuống xe, đó là một quảng trường rộng lớn, người đi lại như mắc cửi, rất nhiều nhóm tập thể dục hoặc khiêu vũ. Vừa nhìn là biết quảng trường này mới được xây dựng chưa lâu, xung quanh vẫn còn một vài ngôi nhà kiểu cũ, có lẽ nhiều năm trước, nơi này từng là khu dân cư cũ nát. Ở chính giữa quảng trường có đài phun nước, cạnh đài phun nước đặt vài thùng rác.

    Một cậu học sinh nhỏ tuổi ngồi trên thành hồ.

    Tô My đẩy xe giúp giáo sư Lương đến gần đài phun nước, mọi người nhìn ngó xung quanh, một bài hát ở đâu đó bất giác vang lên.

    Giáo sư Lương cúi xuống dịu dàng bảo cậu bé dáng chừng mới học tiểu học: “Một mình cháu chơi ở đây à? Thế bố mẹ đâu? Cháu đừng chạy lung tung kẻo bố mẹ không tìm thấy nhé!”

    Cậu bé chợt nói: “Khi nãy cũng có một người hỏi cháu y như ông vậy!”

    Tô My giật thột vội hỏi: “Người đó hỏi cháu chuyện gì?”

    Cậu bé đáp: “Hỏi cháu sao lại chơi một mình ở đây, rồi hỏi bố mẹ cháu đâu.”

    Bao Triển hỏi: “Thế người ấy là ai?”

    Cậu bé trả lời: “Cháu không quen.”

    Giáo sư Lương gợi ý: “Thế người đó trông như thế nào?”

    Cậu bé lắc đầu, bảo: “Trông như mọi người thôi ạ!”

    Có lẽ cậu bé này mới học lớp một, đòi hỏi một đứa trẻ mới học lớp một miêu tả hình dáng và khuôn mặt của một người là điều vô cùng khó khăn, cậu bé ngẫm nghĩ một lát rồi nói tiếp: “Người ấy mặc áo may ô, quần yếm, đeo găng tay trắng.”

    Họa Long ngạc nhiên hỏi lại: “Găng tay trắng ư? Cháu có chắc người ấy đeo găng tay không?”

    Cậu bé gật đầu với vẻ đầy khẳng định.

    Bốn thành viên tổ chuyên án lập tức cảnh giác, giờ đang là tháng chín, thời tiết rất nóng bức, một người đeo găng tay giữa mùa này quả là đáng nghi.

    Giáo sư Lương vội hỏi: “Thế người ấy tầm bao nhiêu tuổi?”

    Bao Triển chỉ về phía một người trung niên tầm hơn bốn mươi, gần năm mươi tuổi đang đứng trên quảng trường, rồi hỏi: “Cháu thấy người đó có tầm tuổi chú kia không?”

    Cậu bé lại gật đầu.

    Giáo sư Lương hỏi tiếp: “Thế người đó còn làm gì?”

    Cậu bé nói: “Chỉ đi vứt rác thôi ạ!”

    Họa Long và Bao Triển lập tức lật tung thùng rác, căn cứ theo lời mô tả của cậu bé, họ tìm thấy một tờ giấy bị vo tròn do người lạ mặt ném vào thùng rác, từ nét chữ và tờ giấy ngả vàng, có phần mềm mủn của tờ giấy có thể đưa ra phán đoán bước đầu là tờ giấy này được giữ gìn ít nhất mười năm trở lên. Tờ giấy vốn rất phẳng, chỉ vừa bị vò nát mà thôi, còn trước đó có lẽ nó được kẹp trong một cuốn sách nào đó.

    Nội dung trên đó lẫn tạp một vài từ địa phương và những lời chửi tục thô lỗ, xem ra người viết là một kẻ vô văn hóa, nhưng điều kì lạ là nét chữ lại rất đẹp, đáng ngờ hơn là khoảng cách giữa các chữ lại không đồng nhất, một vài chữ đứng xa các chữ còn lại một cách rõ nét, nom nó trơ trọi đến nỗi chỉ cần nhìn một cái là phát hiện ra ngay.

    Nội dung toàn văn như sau, để phân biệt những chữ đứng độc lập, tổ chuyên án còn cố tình bôi đậm:

    “Xã hội bây giờ tối như hũ nút, làm đếch gì cũng phải luồn cửa sau, phải có quan hệ. Kẻ nhiều tiền thì ít mà người rỗng túi thì nhiều như quân Nguyên. Mấy đứa chuyên hát hò, đóng phim đúng là người làm trò, vậy mà chúng chỉ cần ngoáy mông vài cái là hái ra tiền, còn những người không tiền thì làm mệt phờ râu trê, tối ngày chổng đít lên trời vẫn chả kiếm nổi mấy đồng, một tháng chỉ vài trăm tệ là cùng, chả đủ tiền mà cưới vợ, không có tiền ai thèm nghe mình nói. Mấy thằng ôn phá dỡ nhà cửa người ta tanh bành hết cả, mẹ chúng nó chứ! Lại còn mấy trò lừa đảo của bọn cảnh sát nữa, cảnh sát là người ăn cơm nhà nước mà toàn nói nhảm, làm ăn đại khái, trong khi lòng tham thì vô đáy, tóm được lá củ cải liền mang đổi lấy rau cải, rồi lại lấy rau cải đổi lấy lá cà rốt. Ông mày làm trâu làm chó cả đời thử hỏi biết sống làm sao? Thời gian cứ ngày một trôi, người lại ngày một già. Đừng hỏi ông mày muốn làm gì, ông mày chỉ muốn sống sung sướng và thoải mái hơn bây giờ chút thôi! Đầu tiên ông phải tìm thằng nào đó, rồi chặt béng cổ nó ra, róc ngón tay, ngón chân nó cho hả dạ.”

    Tất cả có bảy chữ, nom nổi bật hẳn trên cả đoạn văn, có lẽ người viết đã cố tình để cách ra, bảy chữ đó lần lượt là: rỗng, mệt, là, ôn, mà, và, tiên.

    Đoạn văn này rất giống màn tự sự của hung thủ. Họa Long lập tức lao ra quảng trường tìm người đàn ông trung niên mặc quần đùi, áo may ô và đeo găng tay trắng, dòng người đi lại trên quảng trường nhộn nhịp và liên tục di chuyển, ngay gần đó có một ngã tư, nếu một người định bụng rời khỏi đây thì chỉ cần mười phút là có thể hoàn toàn mất hút trong màn đêm, mất hút giữa biển người mà không thể nào tìm thấy nổi.

    Giáo sư Lương và Bao Triển hỏi cậu bé thật tỉ mỉ xem người đàn ông đó trông như thế nào, nhưng cậu bé không thể mô tả một cách chuẩn xác, chỉ nói rằng người đó trông rất bình thường, không hề có đặc điểm gì nổi bật hay đặc biệt, ông ta giống như bao người khác đang đi trên phố.

    Thực ra mỗi người bình thường mà chúng ta nhìn thấy cạnh mình đều có một khuôn mặt bí mật ở sau lưng mà chúng ta không tài nào phát hiện ra.

    Rất có thể tổ chuyên án đã đi sượt qua vai hung thủ thực sự mà không hề hay biết.

    Sau khi trở về sở cảnh sát, tổ chuyên án tiến hành phân tích, họ cho rằng xuất phát từ tâm lí biến thái, một số hung thủ có thói quen lưu giữ lại một vài kỉ vật của nạn nhân, phần thi thể mà cảnh sát phát hiện thấy không phải cơ thể hoàn chỉnh của Điêu Ái Thanh, rốt cuộc y đã vứt những những bộ phận còn khuyết ở đâu mà cảnh sát mãi vẫn không thể tìm ra? Theo thói quen vứt xác của hung thủ thì rất có khả năng y đã vứt chúng vào thùng rác.

    Có lẽ những dòng chữ này là do hung thủ viết.

    Tổ chuyên án tràn trề hi vọng tiến hành kiểm định nét chữ, nhưng kết quả lại khiến ai nấy đều ủ dột, những chữ đó không phải của gã gù, lại càng không phải của Hạ Vũ Bình hay Hoàng Bách Thành. Họ kiểm tra thông đêm tất cả các nét chữ của từng nghi phạm xuất hiện trong vụ án nhưng không có nét chữ nào trùng khớp với nét chữ trên trang giấy.

    Trời hửng sáng! Tổ chuyên án định bỏ cuộc, họ ngồi ngâm cứu, phân tích bảy chữ đó suốt một đêm ròng, nhưng vẫn không thể giải mã được câu đố, thế là hoài công cả một đêm! Họ mệt mỏi ngồi nghỉ ngơi một lát rồi chuẩn bị ra máy bay rời khỏi Lam Kinh.

    Giáo sư Lương nhìn ra ngoài cửa sổ, tia hừng đông đầu tiên đang le lói phía chân trời, ông chợt nói: “Ồ! Chúng ta quên chưa đối chiếu nét chữ của một người nữa!”

    Tô My hỏi: “Ai vậy?”

    Giáo sư Lương đáp mập mờ: “Nét chữ của một người chết!”

    Họa Long nói: “Những người cần đối chiếu, chúng ta đã đối chiếu hết rồi còn gì?”

    Bao Triển thăm dò: “Lẽ nào… ý của bác là…”

    Giáo sư Lương gật đầu tiếp lời: “Đúng vậy! Nét chữ của Điêu Ái Thanh!”

    Tên sát thủ lừng danh ở Mỹ có biệt danh là Keystone từng bắt nạn nhân lê ruột của mình đi quét dọn hiện trường. Tên sát thủ có biệt danh Đứa con của Sam và tên sát thủ có biệt danh là Zodiac thậm chí còn cố tình gửi thư cho cảnh sát trước khi gây án, thậm chí Đứa con của Sam còn cố tình để lại kí hiệu gợi ý cho cảnh sát.

    Giáo sư Lương nhận định có khả năng hung thủ đã ép Điêu Ái Thanh phải viết những dòng chữ này trước khi xử tử cô, chỉ vậy mới lí giải được nguyên nhân vì sao nội dung văn bản tục tĩu, thô lỗ nhưng chữ viết lại rất đẹp và ngay ngắn. Điêu Ái Thanh là sinh viên đại học, cô là người có văn hóa, có đầu óc, khi ấy cô chắc chắn biết rằng mình đang rơi vào tình thế vô cùng nguy hiểm, bởi thế cô mới cố tình để lại manh mối, tách bảy chữ ra khỏi các chữ khác làm thành bảy mật mã ngầm ám chỉ lai lịch của hung nếu giải đáp được câu đố này có thể sẽ tìm ra chân tướng sự thật.

    Tô My nói: “Có thể các nét chữ của bảy chữ đó tổ thành một số điện thoại hoặc số nhà gì đó.”

    Họa Long bổ sung thêm: “Cũng có thể là mã code BB, mười năm trước đang thịnh hành loại máy BB call này mà!”

    Bao Triển chậm rãi nói: “Tôi đã đoán ra được ba từ phía trước, còn bốn từ phía sau thì chịu.”

    Giáo sư Lương kinh ngạc bật hỏi: “Thật không? Ba từ, đó nghĩa là gì?”

    Bao Triển giải thích: “Từ “rỗng” được cấu thành bởi bốn chữ cái, từ “mệt” được cấu thành bởi ba chữ cái, có một từ ghép rất quen thuộc với chúng ta cũng được cấu thành bởi cụm bốn – ba chữ cái hai từ này, rồi thêm từ “là”, nối lại chúng lại với nhau, ta sẽ được một cụm từ có nghĩa.”

    Giáo sư Lương sốt ruột: “Thôi cậu đừng giải thích vòng vo nữa! Mấy từ còn lại mọi người sẽ cùng đoán sau, giờ cậu mau nói ra ba từ đầu tiên nghĩa là gì đi đã!”

    Bao Triển thả từng chữ: “Hung thủ là…”

    [1] Chữ “đại” trong tiếng Hán có hình dáng giống như người nằm dang tay, dang chân “大”.

    [2] Chữ “thái” tiếng Hán viết là “太”.

    [3] Trong tiếng trung, ngày 10/01 và ngày 19/01 được viết theo thứ tự ngược lại là 1/10 à 1/19, viết tắt sẽ thành 110 và 119. Cùng với 112, thì 110 và 119 là ba số gọi cho cảnh sát Trung Quốc khi xảy ra tình trạng khẩn cấp.

    HẾT TẬP 1
     
    Chỉnh sửa cuối: 26/3/17
    Gum, Dung dung, Trandinhanh and 5 others like this.
  14. Nhím Nhím

    Nhím Nhím Member
    • 344/373

    Bài viết:
    41
    Đã được thích:
    422
    MƯỜI TỘI ÁC TẬP 2: HIỆN TRƯỜNG VỤ ÁN
    Thể Loại : TRINH THÁM, KINH DỊ
    Tác Giả : TRI THÙ
    Độ Dài : 5 tập
    Nguồn:
    Sưu tầm
    [​IMG]


    LỜI GIỚI THIỆU


    Tập 2 bộ tiểu thuyết trinh thám “Mười tội ác” tiếp tục tái hiện mười vụ án có thật từng xảy ra tại Trung Quốc, tên nhân vật và địa điểm xảy ra vụ án đã được thay đổi. Những vụ án biến thái và man rợ xảy ra ngay giữa cuộc sống đời thường, nhưng do mức độ nghiêm trọng, các thông tin liên quan đến các vụ việc này đều bị phong tỏa và dần trở thành những vụ kỳ án.

    Tình tiết các vụ “Thang máy có ma”, “Sát thủ hoa Tường Vi”, “Đứa trẻ ma”… cùng những câu chuyện từng gây sốt trên mạng khác khiến người đọc phải nổi da gà. Từng bước lần theo dấu vết, từng bước cảm nhận sự sợ hãi! Mười tội ác – Cuốn tiểu thuyết khiến bạn phải hét lên vì kinh hãi!

    Vì sao chúng lại bạo lực như vậy? Vì sao chúng lại biến thái nhường ấy?

    Sự méo mó về mặt tâm lý là bẩm sinh, hay do xã hội hiện đại gây ra?

    Tìm ra chân tướng sự thực không phải mục đích cuối cùng của chúng ta!​
     
    Chỉnh sửa cuối: 21/3/17
    Gum, Đương duy, Dung dung and 5 others like this.
  15. Nhím Nhím

    Nhím Nhím Member
    • 344/373

    Bài viết:
    41
    Đã được thích:
    422
    MƯỜI TỘI ÁC TẬP 2: HIỆN TRƯỜNG VỤ ÁN
    PHẦN 1: THANG MÁY CÓ MA
    Lời dẫn
    Quá khứ thuộc về thần chết, tương lai là của chính ta – Tuyết Lai.


    Một bà mẹ trẻ dắt theo đứa con trai quay trở lại công ty tìm chiếc chìa khóa để quên.

    Văn phòng công ty cô nằm ở tầng bốn mươi của một tòa nhà lớn, một tòa cao ốc văn phòng đầu tư Quốc tế với bốn khu thang máy độc lập, tuy nhiên những thang máy này đều đã “quá tuổi” và hết hạn sử dụng từ rất lâu rồi.

    Trong bốn thang máy này, chỉ có hai được bật vào ban đêm, nhưng một trong số đó đang xảy ra sự cố chờ sửa chữa, nên chỉ còn sót lại duy nhất một mà thường ngày thường được dùng để vận chuyển hàng hóa, đây cũng là thang máy duy nhất không có camera theo dõi.

    Rất nhiều người trong tòa cao ốc này từng đồn thổi chuyện thang máy có ma, và cũng không ít nhân viên ở đây từng gặp phải những hiện tượng kì dị, như: Thang máy bỗng dưng không chạy nữa, cửa thang tự động mở ra một cách vô cớ tại tầng thứ mười tám, mặc dù bên ngoài không hề có người bấm nút. Hoặc có khi bước ra khỏi thang máy lúc nửa đêm, bỗng nghe thấy sau lưng vọng ra tiếng cười lạnh lẽo, nhưng khi quay đầu lại thì không hề thấy bóng ai. Thậm chí, trước đây camera theo dõi của thang máy có lần còn ghi lại một sự việc hết sức khó giải thích. Khi đoạn phim ở vào khoảng một phút, trong hình hiện ra hai nhân viên văn phòng nam bước vào trong chiếc thang máy trống không. Đến khoảng một phút mười sáu giây, thang máy dừng lại, hai nhân viên đó vừa nói chuyện vừa bước ra khỏi thang máy. Nhưng điều khủng khiếp là phía sau lưng họ không biết từ khi nào đã có thêm một bà lão đứng cúi đầu khom lưng ở đó.

    Người mẹ trẻ chưa bao giờ tin vào chuyện thang máy có ma, cô dắt tay cậu con trai bước vào trong thang máy và đi thẳng lên tầng bốn mươi. Lúc này, cả tầng lầu đã không còn một bóng người, không gian vắng vẻ và ảm đạm, bốn bề yên lặng như tờ, ánh đèn hành lang cũng chỉ mờ mờ không rõ. Người mẹ lục lọi tìm kiếm chiếc chìa khóa để quên trong công ty, giữa chừng cô còn gọi điện nói chuyện với người chồng đang đi công tác. Sau mười mấy phút tìm kiếm, cuối cùng cô cũng thấy thứ mình cần, rồi dắt con quay trở về chỗ thang máy, nhưng không hiểu sao thang máy giờ này lại đang dừng ở tầng bốn mốt.

    Nghĩ rằng có người đã bấm nút ở tầng trên, vì trong tòa nhà này việc các nhân viên làm thêm giờ đến tận tối đêm cũng không phải hiếm, nên cô chẳng lấy gì làm lạ.

    Thoáng nhìn thấy dây giày của cậu con trai bị tuột từ lúc nào, người mẹ dặn cậu bé giữ chặt nút bấm thang máy, còn mình thì cúi xuống thắt lại dây giày cho con.

    Chẳng mấy chốc, thang máy đã xuống tới nơi, cánh cửa tự động mở ra, chỉ không hiểu vì sao cậu bé bỗng buông tay, rồi đứng chết lặng tại chỗ, đôi mắt thẫn thờ nhìn vào bên trong.

    Cánh cửa đóng lại, rồi cũng đi nhanh như khi nó đến. Người mẹ thắt xong dây giày, lên tiếng trách móc con vì sao để thang máy chạy mất, còn cậu bé, không biết đã nhìn thấy thứ khủng khiếp gì, mà sợ hãi đến mức mặt cắt không còn giọt máu, miệng á khẩu không nói nên lời. Người ta vẫn bảo, đôi mắt của trẻ thơ vô cùng thuần khiết, có thể nhìn thấy những điều kì lạ.

    Người mẹ vừa bấm nút thang máy lại một lần nữa, vừa hỏi một cách tò mò về thứ mà cậu vừa nhìn thấy.

    Cậu bé kể: “Trong thang máy có một chị mẹ ạ!”

    Người mẹ nhẹ nhàng trách móc: “Thế thì có gì mà phải sợ? Con đúng là nhát gan.”

    Cậu bé vẫn run run, hỏi: “Nhưng mẹ ơi, người không có chân thì họ đi kiểu gì ạ?”

    Người mẹ trả lời: “Người tàn tật ấy à? Họ có thể ngồi xe lăn, hoặc là chống nạng.”

    Cậu bé nói tiếp: “Nhưng… Nhưng chị đó, không có xe lăn, cũng chẳng chống nạng ấy.”

    Những câu hỏi tiếp theo của cậu bé khiến người mẹ toát mồ hôi hột, đứng phắt dậy, có phần sợ hãi.

    Người mẹ nói: “Thế thì chị ấy có thể ngồi dưới đất, lấy hai tay chống xuống và bò ra ngoài con ạ!”

    Cậu bé vẫn nói với vẻ rất ngờ vực: “Dáng người chị ấy còn cao hơn cả người thường cơ.”

    Lúc này, người mẹ cũng bắt đầu cảm thấy có gì đó không ổn. Cô quỳ xuống gần cậu con trai, nhẹ nhàng hỏi: “Chị đó, đứng trong thang máy, mà không có chân hả con?”

    Cậu bé sợ hãi ôm chặt lấy mẹ mình, lí nhí: “Chị ấy. Chị ấy không đứng trên nền đất mẹ ạ.”

    Người mẹ ôm con vào lòng, một cơn gió lạnh thổi qua, cô vã mồ hôi, sống gáy lạnh ngắt. Chiếc thang máy lại đang quay trở lại. Trong cơn hoang mang, do dự, cô không biết mình có nên đưa con bước vào bên trong chiếc thang máy này hay không nữa? Nhưng thực lòng cô cũng không đủ dũng cảm, thang bộ từ tầng bốn mươi xuống. Vừa chờ đợi, trong đầu cô vừa hiện ra một cảnh tượng kinh hoàng: Lúc cánh cửa thang máy mở ra, có khi nào sẽ xuất hiện một ma nữ bay, tóc dài, áo đỏ, lưỡi dài lê thê nhỏ máu hay không nhỉ?

    Cuối cùng, buồng thang máy cũng dừng lại trước mặt. Cánh cửa từ từ mở ra.

    Sự sợ hãi mà những chiếc thang máy đưa tới cho chúng ta là: Bạn không bao giờ biết trước được mình sẽ nhìn thấy gì khi nó mở ra.

    Chương 1
    Cái xác đứng trong thang máy

    Ngày 17 tháng 10 năm 2008, một người mẹ đưa cậu con trai của mình trở lại văn phòng công ty để tìm chìa khóa, sau khi cánh cửa thang máy mở ra, một vật thể lăn về phía chân người mẹ. Cô kinh hãi thét lên những tiếng thất thanh khi nhận ra đó là một chiếc đầu người. Trước cảnh tượng đó, cậu bé ánh mắt đờ đẫn, nhìn vào trong thang máy, sợ hãi không nói nên lời.

    Người mẹ sau khi định thần, ngước mắt nhìn vào bên trong, thì thấy một xác người, điều kì lạ là cái xác không đầu đó… vẫn đang đứng trong thang máy.

    Bốn phía thang máy còn dính những vệt máu chưa khô. Trong ánh đèn mờ ảo, một người phụ nữ không đầu đang đứng thẳng.

    Cảnh tượng kinh hoàng trước mắt khiến người mẹ sợ hãi suýt ngất ngay tại chỗ. Cô ôm cậu con trai vào lòng, định rời khỏi nơi đáng sợ đó, nhưng sự sợ hãi tột cùng khiến chân cô mềm nhũn, trên người không còn chút sức lực nào. Cô run rẩy mò lấy chiếc điện thoại, và phải mất mấy lần mới bấm được số điện thoại cảnh sát 110[1]

    Trung tâm chỉ huy 110 nhanh chóng thông báo cho cơ quan cảnh sát khu vực, và chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, cảnh sát địa phương đã có mặt tại hiện trường. Cơ quan quản lý và bảo vệ tòa nhà rất tích cực trong việc phối hợp công tác, an ủi hai mẹ con đang trong tình trạng tinh thần bị hoảng loạn, và ngay lập tức ngắt nguồn điện dẫn tới thang máy nơi xảy ra vụ án.

    Phía cảnh sát phân làm hai nhóm, một nhóm phụ trách việc hỏi và ghi chép thông tin, nhóm còn lại tiến hành kiểm tra hiện trường.

    Công tác kiểm tra diễn ra suốt cả đêm.

    Hiện trường vụ án được bảo vệ rất tốt, và tổ chuyên án cũng tới nơi ngay trong buổi sáng sớm ngày hôm sau. Một đồng chí cảnh sát họ Chu chịu trách nhiệm về hiện trường có phần thất vọng khi nói chuyện cùng tổ chuyên án, vì mặc dù đã làm việc suốt đêm, nhưng đến giờ họ vẫn chưa xác định được đây là vụ án tự sát, giết người hay một tai nạn ngoài ý muốn, và mong nhận được sự hợp tác giúp đỡ từ phía tổ chuyên án.

    Họa Long nói: “Đầu đã rơi rồi, chẳng lẽ lại có thể là tự sát sao?”

    Cảnh sát Chu trả lời: “Tôi chưa từng thấy một vụ án nào kì lạ như thế này, mọi người có tin trên đời có ma không?”

    Nạn nhân là một cô gái tên Ôn Tiểu Uyển, hiện đang làm biên tập cho một Công ty xuất bản nằm ở tầng bốn mươi hai, và cũng là tầng trên cùng của tòa nhà này. Trong ngày xảy ra vụ án, cô ta ở lại làm thêm giờ một mình đến tận tối khuya, và khi trở về thì chết trong thang máy trong tình trạng trên và hai tay bị một chiếc khăn lụa buộc về phía sau. Một người phụ nữ cùng cậu con trai đứng ở tầng bốn mươi chờ thang máy đã tình cờ phát hiện ra vụ án và gọi điện báo cảnh sát.

    Căn cứ vào những tường thuật và miêu tả từ phía nhân chứng và báo cáo khám nghiệm tử thi bước đầu, phía cảnh sát phán đoán rằng:

    Thời gian tử vong – Khoảng mười một giờ đêm.

    Địa điểm tử vong – Thang máy, đây cũng chính là hiện trường đầu tiên của vụ án.

    Nguyên nhân tử vong – Nguyên nhân phi tự nhiên.

    Cảnh sát Chu cho biết, sau kết quả điều tra bước đầu, mấy ngày trước đây, nạn nhân Ôn Tiểu Uyển chia tay bạn trai, nên tâm trạng buồn bã không vui, và có khuynh hướng tự sát. Trong ngày xảy ra sự việc, do có sai sót trong quá trình xử lí công việc, Ôn Tiểu Uyển bị lãnh đạo phòng biên tập trách móc và yêu cầu cô phải làm thêm giờ để hoàn thành công việc, và khi ra về thì chết trong thang máy. Cậu bé, một trong hai nhân chứng của vụ án, từng nhìn thấy nạn nhân đứng lơ lửng trên không, nên phía cảnh sát phán đoán rằng lúc đó có thể nạn nhân đang bị treo trong thang máy.

    Theo lời kể lại, cậu bé chỉ nhìn thấy một người phụ nữ đứng lơ lửng trong thang máy mà không thấy có người nào khác, nên phía cảnh sát suy đoán rằng có thể nạn nhân đã tự sát. Nhưng tại hiện trường vụ án không hề phát hiện thấy dấu vết gì của các vật hình sợi như dây hay thừng. Kì lạ hơn nữa, trên trền buồng thang máy cũng không có dấu vết gì của việc treo vật nặng.

    Nguyên nhân dẫn đến việc đầu rời khỏi cơ thể là do bị ngoại lực kéo. Xảy ra vụ thảm án như thế này khi thang máy đang có sự cố, phía cảnh sát căn cứ vào vệt máu trên tường, về cơ bản có thể loại trừ khả năng nạn nhân chết do tai nạn ngoài ý muốn. Vết cứa ở cổ không phải do vật sắc gây nên, mà giống như bị một sợi dây siết chặt. Hoặc cũng có thể thủ phạm đã treo cô gái lên, rồi bám vào hai chân, dùng sức nặng cơ thể của mình, để tác động vào đầu nạn nhân.

    Họa Long phản bác: “Tôi nghĩ không thể có khả năng đó, vì cho dù hung thủ có khỏe đến mức nào, cũng không thể siết đứt cổ nạn nhân được.”

    Cảnh sát Chu phân tích tiếp: “Quan sát những vết máu để lại trên tường, thì lúc đó trong thang máy chỉ có một mình nạn nhân. Khi đầu rời khỏi cổ, xung quanh không có người nào khác, nên không thấy dấu vết đường máu phun ra bị thứ gì chắn lại. Nếu có, thì khi cảnh sát kiểm tra hiện trường chắc chắn sẽ phát hiện ra rồi!”

    Tô My lên tiếng: “Rất nhiều phụ nữ đều sợ phải đi thang máy một mình, vì họ sợ ma hoặc sợ bị kẹt trong đó.”

    Bao Triển hỏi thêm: “Chiếc khăn lụa buộc hai tay nạn nhân là của ai?”

    Cảnh sát Chu trả lời: “Là của chính nạn nhân. Vết buộc không chặt lắm! Nhưng đó là hành động của hung thủ hay của chính nạn nhân, thì đến nay vẫn chưa xác định được. Chúng tôi cũng căn cứ vào điểm đó, mà phỏng đoán vụ án này đến tám chín phần là một vụ giết người. Tuy nhiên, trước đây cũng từng xảy ra nhiều vụ án nạn nhân tự buộc tay mình rồi treo cổ hoặc nhảy xuống sông tự vẫn, nên lần này vẫn cần phải điều tra thêm một bước nữa mới có thể kết luận được.”

    Giáo sư Lương giờ mới lên tiếng: “Trực giác của tôi cho rằng đây là một vụ giết người, một vụ án tưởng chừng như không thể xảy ra. Nhìn bề ngoài và các lô-gíc của sự việc, thì đó dường như là điều không thể nào xảy ra trong hiện thực. Tuy nhiên, hung thủ là một kẻ vô cùng thông minh và hiểu rất rõ các điểm mấu chốt của việc giết người trong phòng kín, nên chúng ta sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc phá giải vụ án này!”

    Kết quả kiểm tra hiện trường cho thấy, hung thủ dường như biến mất trong không khí, hoặc nói cách khác, kẻ đó chưa từng xuất hiện ở đó bao giờ. Hiện trường không hề có dấu vân tay, không cả dấu giày, không hung khí. Hắn không để lại cho chúng ta bất cứ một manh mối phá án nào. Vụ án này giống như có một linh hồn hay một tên ác quỷ nào đó, hắn tóm lấy người con gái đi thang máy một mình, và dùng sức mạnh kinh người kéo đứt cổ nạn nhân.

    Tô My nói tiếp: “Đây là lần đầu tiên tôi thấy một người chết đứng như thế này.”

    Cảnh sát Chu lên tiếng đồng ý: “Đúng thế, mà còn là xác mất đầu nữa! Thôi, chúng ta cứ nghe xem bên pháp y giải thích thế nào đã.”

    Theo giải thích từ phía pháp y, hiện tượng xác chết có thể đứng được, là một trạng thái co thắt cơ thể đặc biệt. Đây là một hiện tượng rất hiếm gặp.

    Hiện tượng cơ thể bị co thắt xảy ra ngay trong khoảnh khắc chuyển giao giữa sự sống và cái chết, do các cơ thịt đột ngột co cứng khiến cho tư thế và biểu cảm của nạn nhân bị dừng lại ngay tại thời điểm chết.

    Co thắt cơ thể là một hiện tượng co cứng cơ thịt vô cùng hiếm gặp. Cơ thể người sau khi chết không trải qua giai đoạn giãn lỏng cơ thông thường, mà tất cả các cơ thịt đều bị co thắt và cứng lại như tại khoảnh khắc ngay trước khi chết, và trạng thái này được giữ nguyên đến cả sau khi chết. Hiện tượng này thường chỉ xảy ra trong trường hợp hệ thần kinh căng thẳng quá độ hoặc não bộ bị tổn thương, đôi khi cũng xuất hiện khi cuống não dưới bị thương nặng.

    Hiện tượng co thắt cơ thể có thể xảy ra cục bộ hoặc trên toàn cơ thể. Trường hợp co thắt cục bộ chỉ lưu giữ được trạng thái của một số bộ phận cơ nhất định trên cơ thể trước khi chết, và hiện tượng này gặp tương đối nhiều. Ví dụ, một số kẻ tự sát bằng dao hoặc dùng súng tự sát, sau khi chết trong tay vẫn nắm rất chặt hung khí, hay những kẻ thắt cổ tự sát, sau khi chết, trong tay vẫn còn giữ nguyên dây thắt cổ. Hoặc như những nạn nhân chết đuối, khi chết bàn tay thường ở trạng thái co lại như chân chim, là do tay họ luôn cố gắng bám vào cây cỏ hoặc bùn đất. Một số trường hợp chết do trúng độc, nạn nhân có thể vẫn còn giữ nguyên vẻ mặt và biểu cảm đau đớn trước khi chết. Đối với việc co thắt trên toàn cơ thể, khiến thi thể giữ lại toàn bộ tư thế và nét mặt trước khi chết, có thể lấy ví dụ như: Trên chiến trường, một số chiến sĩ sau khi hi sinh vẫn giữ nguyên tư thế bắn súng, hoặc ôm chặt đối phương, liều mình nguyện chết cùng kẻ thù. Nhưng các trường hợp xuất hiện hiện tượng co thắt cơ thể chỉ chủ yếu là co thắt cục bộ, rất hiếm khi có co thắt toàn thân.

    Đầu của Ôn Tiểu Uyển rời khỏi cổ, nhưng trong khoảnh khắc trước khi chết, do hiện tượng co thắt toàn thân, nên thi thể nạn nhân hoàn toàn không bị đổ xuống, thậm chí còn đứng rất vững vàng trong thang máy. Do hai mẹ con nhân chứng ở tầng bốn mươi nhấn nút gọi thang máy, thang máy bị dừng lại, đã khiến chiếc đầu bị xóc mà rơi xuống sàn.

    Tổ chuyên án đứng trước cửa thang máy tầng bốn mươi hai, nơi nạn nhân Ôn Tiểu Uyển đã đứng trước khi bước vào trong chiếc thang máy tử thần.

    Giáo sư Lương lệnh cho bảo vệ tòa nhà bật nguồn điện thang máy, rồi bảo cảnh sát Chu đứng dưới tầng một tòa nhà ghi chép lại thời gian vận hành thang. Tiếp đó người bảo vệ được sắp xếp đứng ở tầng bốn mươi và bấm nút gọi thang để tiến hành một cuộc kiểm tra về quá trình vận hành của nó theo đúng như tại thời điểm xảy ra vụ việc.

    Cánh cửa thang máy từ từ mở ra, những vết máu vẫn chưa được làm sạch, từ phía trong xông ra một mùi tanh khó ngửi.

    Tô My đưa tay phe phẩy rồi nói: “Có nhất định phải vào cái thang máy này không ạ? Chúng ta có thể không…”

    Bao Triển bỗng ngửi được mùi gì đó khác lạ đang lẩn khuất giữa mùi tanh trong thang máy, hình như đó là một thứ mùi cháy khét.

    Bao Triển lên tiếng cảnh báo mọi người: “Tốt nhất chúng ta chưa nên vào đó, chiếc thang máy này có vấn đề.”

    Họa Long cười nhạo hai kẻ nhát gan cạnh mình, rồi cứ thế đẩy theo giáo sư Lương đang ngồi trên xe lăn đi vào phía trong. Bao Triển và Tô My đành miễn cưỡng bước theo sau. Giáo sư Lương thông báo cho cảnh sát Chu và người bảo vệ tại tầng bốn mươi chuẩn bị ghi chép thời gian cánh cửa thang máy cũng theo đó mà từ từ đóng lại.

    Trong ánh đèn mập mờ của thang máy, bốn người của tổ chuyên án im lặng không nói với nhau lời nào, tất cả họ đều đang hướng về cùng một suy nghĩ, vào thời điểm xảy ra vụ việc, nạn nhân cũng đang đứng ngay trong buồng thang máy này.

    Giáo sư Lương quan sát xung quanh một cách tỉ mỉ. Vết máu xung quanh dưới ánh đèn lờ mờ trông thật đáng sợ. Tấm thảm trải nền chắc đã lâu không thay, sau khi bị máu ngấm vào thì càng thêm cứng lại. Quạt thông gió phía trên đã hỏng từ khi nào không rõ, còn các trang bị cứu hỏa khẩn cấp thì càng không cần phải nói đến nữa.

    Thang máy dừng lại tại tầng bốn mươi, người bảo vệ bấm ngưng đồng hồ rồi báo cáo thời gian cho giáo sư Lương. Giáo sư gật đầu, rồi rất nhanh sau đó, chiếc thang máy lại tiếp tục đóng cửa đi xuống.

    Bỗng dưng, bóng đèn trong thang chập chờn mất lượt rồi tắt phụp. Mất điện! Bên trong thang máy chỉ còn lại một màu đen. Chiếc thang máy quá tuổi này không được trang bị bất cứ một phương án dự phòng nào, và cứ thế rơi tự do từ tầng bốn mươi xuống. Rất nhiều người cho rằng khi thang máy có sự cố, những người trong đó có thể nhảy lên khỏi mặt sàn khi thang máy tiếp đất, để tránh tối đa việc xảy ra thương tích.

    Nhưng trong thực tế đó là điều không thể vì tất cả đều đang trong trạng thái rơi tự do, hoàn toàn mất trọng lượng.

    Trong khoảnh khắc giữa sự sống và cái chết, nếu thang máy rơi xuống tới tầng cuối cùng, cũng chính là tầng hầm của tòa nhà, thì chắc chắn cả bốn con người đang ở trong đó đều sẽ chỉ còn lại một đống thịt xương lẫn lộn. Tô My hét lên sợ hãi. Họa Long vẫn giữ bình tĩnh liên tục bấm mấy nút trên bảng điều khiển thang máy. Bốn người nín thở hồi hộp. Như một phép màu, chiếc thang máy đang rơi tự do nhưng không hiểu sao bỗng dừng lại ở tầng một.

    Các thang máy thông thường đều có chế độ khóa tự động, khi tốc độ đi xuống vượt quá tốc độ rơi cho phép, hệ thống sẽ tự động khóa lại.

    Thang máy giờ vẫn tối om, nhưng bốn người của tổ chuyên án đã thở phào nhẹ nhõm, cảm giác như vừa “nhặt” lại được mạng sống vậy.

    Bấy giờ, đèn thang máy bỗng nhấp nháy mấy lần rồi sáng trở lại. Có lẽ đó là do thang máy vừa bật hệ thống điện dự phòng.

    Cánh cửa hé mở, cảnh sát Chu vô cùng kinh ngạc, hỏi dồn: “Mọi người… Sao lại xuống nhanh thế?”

    Bốn người tổ chuyên án vẫn còn tim đập chân run, khắp người toát mồ hôi lạnh.

    Họa Long đưa tay quệt ngang vệt mồ hôi trên trán, rồi đẩy xe của giáo sư Lương ra khỏi thang máy, vừa đi vẫn vừa nói đùa: “À, chúng tôi vừa trở về từ địa ngục đấy mà!”

    Bao Triển vừa đi vừa dìu Tô My giờ sắc mặt đã tái nhợt ra khỏi thang máy, vừa nói: “Chiếc thang máy này có sự cố, phải ngừng sử dụng ngay!”

    Giáo sư Lương bỗng lên tiếng: “Tìm thấy hung khí rồi!”

    Cảnh sát Chu vội hỏi: “Ở đâu thế?”

    Giáo sư Lương trầm ngâm, đáp: “Chiếc thang máy này chính là kẻ sát nhân!”

    Chương 2
    Cô gái giữa không trung

    Tổ Chuyên án yêu cầu cảnh sát Chu triệu tập các đồng chí khác, tiến hành ngay cuộc họp bàn về vụ án. Khác với thường lệ, lần này giáo sư Lương không hề phân tích về tình tiết vụ án và phân chia nhiệm vụ cho mọi người, mà đầu tiên Giáo sư đặt ra cho mọi người một câu hỏi.

    Câu hỏi này cũng chính là câu hỏi thi trong phần phán đoán hành vi phạm tội của cục điều tra liên bang Mỹ FBI. Chỉ có ai trả lời được câu hỏi trong vòng một phút, mới có cơ hội được bước chân vào FBI.

    Trong phòng họp, các cảnh sát đều vô cùng tích cực và hưng phấn, mọi người đang nóng lòng chờ đón câu hỏi của giáo sư.

    Câu hỏi như sau: “Một cụ già ngồi xe lăn đi thang máy xuống dưới lầu, trong thang máy không hề có người nào khác ngoài cụ, nhưng khi xuống đến nơi, mọi người phát hiện cụ già đã chết, trên lưng găm một con dao găm, hỏi hung hủ đã làm cách nào?”

    Mọi người đều bàn tán rất xôn xao, trong thang máy vừa nhỏ hẹp, lại không có ai khác ngoài nạn nhân, vậy con dao kia phải giải thích thế nào?

    Trong khi khoảng thời gian một phút đang dần trôi đi, các cảnh sát dù đã nghĩ nát óc vẫn không có được câu trả lời hợp lí.

    Bỗng Bao Triển cất tiếng: “Lợi dụng dây chun đàn hồi và lực phát động khi thang máy rơi xuống để bắn con dao đi, đây là cách để hung thủ không cần xuất hiện tại hiện trường gây án.”

    Mọi người có vẻ đã hiểu ra sự việc, nhưng một cảnh sát đặt câu hỏi, hung thủ làm thế nào để xác định được vị trí của cụ già?

    Bao Triển giải thích: “Vị trí của người ngồi xe lăn trong thang máy chắc chắn sẽ ở gần bảng điều khiển, con dao của hung thủ chỉ cần ngắm đúng chỗ đó là được. Trước tiên, hung thủ buộc một đoạn dây chun có sức đàn hồi lớn vào chuôi dao, rồi luồn sợi dây qua chỗ quạt thông gió, một đầu dây còn lại mắc vào một vật cố định nào đó phía trên trần thang máy. Khi thang máy di chuyển nhanh xuống dưới, dây chun sẽ ngày càng giãn ra, và khi đạt đến độ dài tối đa, dây chun sẽ căng và tự đứt còn con dao sẽ bay ra giống như một cung tên tự động, giết chết nạn nhân.”

    Giáo sư Lương gật đầu tán dương: “Câu trả lời rất chính xác! Công việc tiếp sau đây, chúng ta phải tìm kiếm gì, chắc không cần tôi phải nói các đồng chí cũng tự hiểu rồi đúng không?”

    Bao Triển chủ động nói tiếp: “Trong đường hầm thang máy hoặc phía trên trần thang máy chắc chắn vẫn còn dấu vết hung thủ để lại, cháu nghĩ nhất định sẽ tìm được. Nhưng chỉ có điều không biết hung thủ dùng dây thừng, dây thép, dây ni lông mảnh, hoặc biết đâu lại là dây cáp Cacbon thì sao?”

    Giáo sư Lương trả lời: “Thế thì chúng ta thử tìm hiểu về vết thương ở cổ nạn nhân trước đã!”

    Tô My cầm ra một tờ sơ đồ giải phẫu vùng cổ đã được chuẩn bị sẵn từ trước. Trên bản đồ chỉ rõ cấu tạo từng phần. Ngoài cùng là lớp da, tiếp theo đó là phần cơ và hạch, nằm dọc hai bên có hệ thống các mạch máu và dây thần kinh, phía trước là đường hô hấp và đường tiêu hóa, phía sau lớp màng cơ là cột sống. Cổ là bộ phận rất yếu gồm nhiều phần mềm, chỉ có duy nhất một xương trụ là phần cột sống cổ. Các đốt sống ở cổ hình dẹt được nối với nhau bằng các gân, nơi mà những đao phủ thời xưa đều cố gắng nhắm trúng để có thể nhẹ nhàng hoàn thành nhiệm vụ chỉ bằng một nhát dao duy nhất.

    Tổ chuyên án phân tích kỹ càng cả quá trình gây án.

    Vết thương trên cổ nạn nhân nằm ở vị trí tam giác dưới hàm, chỉ có máy móc mới đủ sức kéo đứt như vậy. Giả sử hung khí giết người là một sợi dây thép, sợi thép này quàng qua cổ nạn nhân, hai đầu dây được treo vào một nơi nào đó trong đường hầm thang máy. Khi thang máy hoạt động, “cỗ máy” này sẽ sinh ra một lực rất lớn, trong tình huống thang máy không ngừng đi xuống, nạn nhân ban đầu sẽ bị treo lên cao, đầu bị kéo tới sát trần thang máy. Sợi thép ngày càng thu ngắn lại, cổ nạn nhân cũng dần bị siết chặt. Và cuối cùng, đầu nạn nhân bị đứt rời, còn sợi thép nhanh chóng biến mất sau những lỗ thông khí trên trần thang máy.

    Cả quá trình gây án diễn ra rất nhanh, dường như chỉ trong tích tắc.

    Do thời gian dùng lực rất ngắn, nên dù da vết thương ở cổ nạn nhân có phần giống vết giằng xéo, nhưng nhìn chung vết cắt rất “ngọt”.

    Tiếp theo, căn cứ vào sơ đồ phân bố và đường phun của vết máu, có thể xác định được rằng, nạn nhân vẫn luôn đứng thẳng sau khi chết. Sau khi bị sợi thép cứa đứt cơ thể nạn nhân co cứng và rơi xuống sàn thang máy.

    Thi thể đứng thẳng trong thang máy, máu vẫn không ngừng phun ra bốn phía, và bắn lên tường giáo sư Lương giải thích: “Sợi dây giết người rất mảnh, bền chắc và có độ đàn hồi cao, chiều dài ít nhất cũng phải bằng hai tầng tòa nhà.”

    Cảnh sát Chu thắc mắc: “Chúng ta vẫn chưa tìm thấy sợi dây thép, làm sao biết được độ dài của nó?”

    Giáo sư Lương trả lời: “Nạn nhân Ôn Tiểu Uyển vào thang máy từ tầng bốn hai, sau khi bước vào bên trong nhất định sẽ bấm nút xuống tầng một. Nhiều khả năng hung thủ lúc đó cũng đang ở trong thang máy. Hắn quàng sợi dây thép vào cổ nạn nhân, trói tay ra phía sau, và ra khỏi thang máy tại tầng bốn mốt. Nhân chứng của chúng ta đứng ở tầng bốn mươi là hai mẹ con, người mẹ đang cúi xuống thắt dây giày cho cậu bé, không nhìn thấy những gì xuất hiện trong thang máy, chỉ có cậu bé thấy một người treo giữa không trung, điều đó cho thấy sợi dây phải dài ít nhất là hai tầng lầu.”

    Họa Long giải thích thêm: “Cậu bé nhất định không phải nhìn thấy một cái xác treo giữa không trung, mà lúc đó nạn nhân có thể vẫn còn sống, nhưng đang bị treo trong thang máy và vùng vẫy, hai chân đang cố đạp về phía sau. Đây cũng là lí do vì sao cậu bé nói rằng chị ấy không có chân. Sau đó, khi thang máy quay trở lại nhân chứng mới nhìn thấy một cái xác đứng trơ như thế.”

    Cảnh sát Chu đặt câu hỏi: “Thời gian thang máy chạy từ tầng bốn hai đến tầng bốn mốt chỉ có vài giây, hung thủ làm sao kịp trói ngược tay nạn nhân lại, còn quàng dây vào cổ nạn nhân nữa?”

    Giáo sư Lương đáp lời: “Câu hỏi này hiện tại vẫn chưa thể giải đáp được. Thời gian gây án của hung thủ vẫn đang còn là một câu đố.”

    Trước khi kết thúc cuộc họp, giáo sư Lương giao nhiệm vụ cho từng người. Bao Triển phụ trách kiểm tra kỹ đường hầm thang máy, tìm kiếm hung khí và các dấu vết gây án của hung thủ. Tô My sẽ lấy thông tin từ các đồng nghiệp của nạn nhân tại Công ty để tìm hiểu thêm về các vấn đề liên quan khác, đặc biệt phải nắm bắt được những ai từng xảy ra mâu thuẫn với nạn nhân.

    Họa Long và cảnh sát Chu chịu trách nhiệm điều tra những người còn ở lại trong tòa nhà vào thời gian xảy ra vụ án, trọng điểm là phòng kiểm soát thang máy và những người biết thông tin nạn nhân làm thêm giờ, tất cả phải cho ra một bảng danh sách cụ thể.

    Mọi người nhanh chóng bắt tay vào thực hiện nhiệm vụ của mình.

    Vụ án xảy ra vào ngày thứ sáu. Hai ngày sau đó, tất cả các nhân viên làm việc trong tòa nhà đều đã đi làm trở lại.

    Thông tin về một nữ biên tập làm thêm giờ đến tận khuya, bị sát hại trong thang máy, đầu lìa khỏi cổ nhưng vẫn đứng thẳng bùng nổ như một trái bom ném xuống cả tòa nhà. Các đồng nghiệp cùng Công ty xuất bản của Ôn Tiểu Uyển đều kinh sợ đến mức không còn tâm trí làm việc, và ngay ngày hôm đó đã có ba nhân viên nộp đơn xin thôi việc. Hàng ngày họ đều phải đi thang máy lên xuống chỗ làm, cứ nhìn thấy chiếc thang máy nơi xảy ra vụ án đã thấy vô cùng sợ hãi, và chắc chắn trong một thời gian dài, bất cứ một người đồng nghiệp nào khi nhìn thấy chiếc thang máy cũng không tránh khỏi cảm giác đó.

    Tô My đến gặp vị Tổng biên tập của Công ty xuất bản, cô hỏi: “Bạn trai của Ôn Tiểu Uyển cũng nằm trong số ba người xin thôi việc đó phải không?”

    Tổng biên tập trả lời: “Đúng thế! Việc biên tập xuất bản nhảy việc, hay việc nhân viên bỏ đi nơi khác đều là những điều hết sức bình thường.”

    Tô My có vẻ không đồng tình, nói: “Tôi thì lại thấy điều đó có liên quan đến vụ án này nhiều hơn mới phải. Công ty ông có đối thủ cạnh tranh nào không?”

    Tổng biên tập đáp: “Cạnh tranh rất khốc liệt là đằng khác ấy chứ! Mỗi đơn vị xuất bản đều có thể coi là một đối thủ cạnh tranh của chúng tôi. Công ty ở ngay tầng bốn mươi dưới kia, cũng là một Công ty về mảng Văn hóa.”

    Tổng biên tập cũng cho biết thêm, Công ty xuất bản của ông và Công ty văn hóa ở tầng bốn mươi mặc dù cùng nằm trong một tòa nhà, nhưng vì quan hệ cạnh tranh, nên trước đây đã từng xảy ra một vụ tranh chấp, và phải nhờ đến pháp luật giải quyết, kết quả cuối cùng Công ty văn hóa đã thua kiện.

    Tô My lấy bút ghi chép cẩn thận những gì Tổng biên tập nói, rồi hỏi thêm thông tin về bạn trai của Ôn Tiểu Uyển. Theo thông tin có được, anh ta tên Dương Tử, là đồng nghiệp của Ôn Tiêu Uyển, hiện đang phụ trách mảng biên tập sách dự án, từng thực hiện không ít các cuốn sách liên quan đến chủ đề kinh dị huyền bí. Sau khi xảy ra vụ án, phía cảnh sát từng đến chỗ ở của Dương Tử để điều tra, nhưng không phát hiện bất cứ điểm nghi vấn nào.

    Khi được hỏi, Dương Tử tỏ ra vô cùng bình tĩnh thái độ rất rõ ràng, rằng việc này không có liên quan gì đến anh ta, vì hai người họ đã chia tay rồi.

    Tô My hỏi lại: “Nhưng hai người mới chỉ chia tay một tuần, các đồng nghiệp khác có thể làm chứng. Hơn nữa, tình cảm của hai người trước giờ đều rất tốt, duy chỉ có khi chia tay là cãi nhau thôi đúng không?”

    Dương Tử ngoảnh đầu sang một bên, giọng nói hết sức bình thản, trả lời: “Có cặp tình nhân nào khi chia tay mà không như thế đâu!”

    Tô My tiếp tục nói: “Mắt anh có phần sưng đỏ, cho thấy anh đã khóc rất nhiều. Theo những gì chúng tôi điều tra được, anh từng tặng Ôn Tiểu Uyển một chiếc khăn lụa phải không?”

    Dương Tử thoáng liếc nhìn Tô My, cúi đầu, nước mắt tràn ra.

    Dương Tử kể rằng, trước khi chia tay, Ôn Tiểu Uyển từng đi duỗi tóc, rồi lại uốn xoăn, buổi tối còn không dám ngủ vì sợ làm hỏng nếp tóc. Dương Tử biết một mẹo nhỏ, là lấy một tấm vải voan hoặc một thứ bằng tơ thật trải lên trên gối, thì khi ngủ dậy tóc sẽ không bị mất nếp, nên đã mua tặng bạn gái một chiếc khăn lụa.

    Tô My cảm thán: “Xem ra mối quan hệ của hai người cũng khá tốt đấy chứ! Nhưng nhật kí trên mạng của anh có viết một đoạn thế này, để tôi đọc lại cho anh nghe nhé!”

    “Mỗi một mối tình của tôi đều là mối tình đầu. Cả đời chỉ yêu một người là điều không thể. Thế gian này biết bao người xinh kẻ đẹp, tôi luôn muốn cảm nhận những người phụ nữ khác nhau, cảm nhận những thứ tình yêu khác nhau. Có thứ tình yêu rực nóng như lửa, có thứ tình cảm khắc cốt ghi tâm, và có thứ cảm giác nồng nàn mãi mãi. Sống cuộc đời như vậy mới không phải hối tiếc. Trên đời bao món ngon, dựa vào đâu mà bắt tôi cả đời chỉ ăn một món?”

    Dương Tử bực dọc ngắt lời Tô My nói: “Đó là quan niệm về tình yêu của tôi, thế thì đã sao nào?”

    Tô My hỏi: “Những gì anh viết trên đó là cố tình chọc tức người yêu mình thôi đúng không?”

    Dương Tử cao giọng, đáp: “Tôi chán ngán cô ta rồi, lòng đố kị của cô ta quá lớn, suốt ngày chỉ biết ghen tuông. Tôi xem ảnh các cô gái cũng dở chứng, còn đòi kiểm tra tin nhắn điện thoại của tôi, không cho tôi làm cái này, không cho tôi làm cái khác. Tôi không thể nào chịu đựng nổi nữa, chia tay là điều đương nhiên.”

    Công tác điều tra của Họa Long và cảnh sát Chu chưa có kết quả gì khả quan. Các bộ phận quản lý công tác chung của tòa nhà được chia làm nhiều tổ khác nhau, gồm có tổ bảo vệ, tổ sửa chữa, tổ vệ sinh, tổ điện nước. Trong thời gian xảy ra vụ án, mỗi tổ đều có một vài người trực ca đêm. Phòng theo dõi thang máy vốn có hai người trực ban, nhưng vì trong buổi tối xảy ra vụ án, chiếc thang máy duy nhất còn hoạt động lại không được lắp đặt camera theo dõi, nên hai người trực ban đã xin nghỉ và về nhà từ trước đó. Hai nhân viên của tổ bảo vệ khi đi tuần giữa đêm cũng không phát hiện thấy có gì bất thường.

    Họa Long và cảnh sát Chu hỏi từng người một, rồi yêu cầu họ viết bản tường trình về quan hệ của mình với nạn nhân và những gì mình đã làm khi xảy ra vụ án.

    Ôn Tiểu Uyển không quá xinh đẹp, nhưng có một thân hình bốc lửa, lối ăn mặc thời thượng, mái tóc dài tha thướt nhìn từ phía sau rất hút hồn người khác. Kết quả giám định cho thấy, cô không hề bị xâm hại, những người trực ban buổi tối hôm đó cũng không hề biết cô là ai, chỉ có một vài người có chút ấn tượng vì từng gặp mặt.

    Bao Triển kiểm tra kỹ lưỡng trước một lượt phòng máy của thang máy. Trong đó có các ròng rọc cuộn và ròng rọc điều hướng. Dưới đáy thang không phát hiện bất cứ vết treo sợi thép nào. Hơi thất vọng, Bao Triển tiếp tức kiểm tra phía dưới đường hầm, hy vọng có thể tìm thấy dấu vết của sợi dây giết người, nhưng ngoài rác ra, thì chẳng có gì khác.

    Ngay trước khi định bỏ cuộc, Bao Triển phát hiện một vết treo trên giá điều hướng nằm trên nóc đường hầm, vết cọ sát còn rất mới, lớp sơn chống gỉ đã bị tróc mất. Rất dễ dàng để nhận ra rằng nơi đó từng treo một vật nặng. Xem ra đây chính là nơi buộc sợi dây thép gây án.

    Thế nhưng, trong đầu Bao Triển lại nảy ra điểm nghi ngờ mới: Hung thủ đi vào đường hầm thang máy bằng cách nào được?

    Chỉ có hai cách:

    Cách thứ nhất: Thông qua phòng máy thang máy. Phòng này chỉ có thể mở được bằng chiếc chìa khóa ba cạnh, nhưng chiếc chìa khóa này tất cả những ai trực ban đều có.

    Cách thứ hai: Đi vào đường hầm ngay từ thang máy. Hung thủ có thể mở cánh cửa phía trên đỉnh buồng thang máy, chui lên trên và buộc sợi dây vào giá điều hướng.

    Mặc dù không tìm được sợi dây thép nghi là hung khí gây án, nhưng Bao Triển tìm thấy một vật rất kì lạ lẫn trong thùng rác.

    Bao Triển nói: “Tôi đã kiểm tra thùng rác ngoài cửa thang máy tầng bốn hai, bốn mươi mốt và bốn mươi, hy vọng có thể tìm thấy hung khí gây án mà hung thủ tình cờ để lại và đã tìm thấy một vật rất kì lạ. Vật này chúng ta hàng ngày vẫn hay nhìn thấy, nhưng giờ đây lại không bình thường chút nào.”

    Họa Long sốt ruột lên tiếng: “Rốt cục là thứ gì? Lần sau cậu cứ nói toẹt ra đi, tôi chả thích trò úp úp mở mở tí nào!”

    Tô My tủm tỉm cười: “Bao Triển trước nay đều cẩn thận như thế mà! Nhưng rốt cục đó là thứ gì thế?”

    Bao Triển lôi ra một chiếc túi đựng vật chứng, nói: “Đó là một quả chuối rất lạ! Bên ngoài cuốn chặt băng dính, nhưng bên trong thì trống rỗng.”

    Giáo sư Lương lên tiếng: “Bao Triển, cậu tìm thấy nó ở tầng nào thế?”

    Bao Triển đáp: “Ở trong thùng rác tầng bốn mốt ạ, xem ra đã hai ngày không có ai dọn rác rồi!”

    Bên trong chiếc túi ni lông trong suốt là một quả chuối, vỏ vẫn còn hoàn chỉnh, nhưng bên trong không hề có ruột. Thế nhưng, kì lạ ở chỗ trên vỏ quả chuối này còn bọc một lớp băng dính.

    Giáo sư Lương suy nghĩ một hồi, rồi hỏi mọi người: “Ai có thể nói cho tôi biết, quả chuối này dùng để làm gì?”

    Chương 3
    Mười điều cấm kị trong thang máy

    Quả chuối này rất hiển nhiên là của nam giới dùng rồi, vì bên trong còn phát hiện thấy chất dịch và một phần sữa rửa mặt dùng để bôi trơn.

    Tổ chuyên án nhờ người mua về một vài quả, rồi chọn ra một quả có kích thước tương đương vỏ chuối tìm được. Trước tiên, Bao Triển dùng băng dính trong suốt cuốn kín xung quanh, sau đó cắt một đường ở dưới cuống, rồi nắn cho phần ruột bên trong tuột ra ngoài. Khi nắn phải rất cẩn thận để vỏ quả chuối được hoàn chỉnh. Tiếp đó đổ vào một ít sữa rửa mặt, như thế đã hoàn toàn giống như quả chuối rỗng ruột tìm thấy trong thùng rác.

    Quả chuối không biết nói, nhưng rõ ràng nó đang chỉ cho cảnh sát biết: “Trong tòa nhà này có một kẻ biến thái!”

    Chẳng khó gì để tìm ra kẻ biến thái này. Mặc dù hắn không để lại dấu vân tay trên lớp băng dính, nhưng thông qua việc kiểm tra ADN của các nhân viên nam trong tòa nhà có thể tiến hành xác thực danh tính chủ nhân. Thế nhưng, căn cứ vào những chứng cứ hiện có, tổ chuyên án vẫn chưa thể khẳng định quả chuối này có liên quan gì đến vụ án hay không. Việc kiểm tra ADN rất tốn thời gian và công sức, bỏ ra bao nhiêu cố gắng như thế, nhưng rất có thể kết quả cuối cùng lại không hề có liên quan gì đến vụ án, nên tổ chuyên án cần cân nhắc kỹ hơn nữa trước khi quyết định.

    Phương hướng chính của tổ chuyên án hiện giờ vẫn là tìm kiếm hung khí gây án. Toàn bộ lực lượng an ninh được điều động để kiểm tra các thùng rác và những nơi có thể vứt bỏ đồ vật, nhưng đáng tiếc vẫn không thấy có dấu vết gì.

    Giáo sư Lương động viên mọi người không nên nhụt chí. Việc không tìm thấy hung khí càng chứng tỏ một điều, nạn nhân không phải là kẻ tự sát.

    Tổ chuyên án đưa ra những mô tả ban đầu về hung thủ như sau: Hung thủ lợi dụng thang máy để giết người, chứng tỏ hắn phải hiểu rất rõ về kết cấu và phương thức vận hành của thang máy. Người sửa chữa thang máy, người kiểm soát vận hành thang, bảo vệ tuần đêm, người dọn dẹp thang máy đều nằm trong danh sách khả nghi, cần tăng cường điều tra. Sau khi giết người, hung thủ mang theo cả hung khí, không để sót lại bất kì chứng cứ nào, có thể nói kế hoạch đã được thực hiện một cách hoàn hảo, điều đó chứng tỏ hung thủ là một kẻ vô cùng thông minh và chú trọng đến từng chi tiết. Hung thủ rất có thể thường xuyên đọc các tiểu thuyết trinh thám, và đáng nghi nhất là các biên tập trong Công ty, nơi nạn nhân đang làm việc, đặc biệt là các biên tập viên mảng sách về phá án cần được tăng cường điều tra.

    Cảnh sát Chu nói: “Nạn nhân chỉ là một biên tập viên bình thường, không có nhiều tiền, các tài sản khác cũng không bị mất, nên động cơ gây án chỉ có thể là vì tình hoặc vì thù hận.”

    Giáo sư Lương lên tiếng: “Chúng ta không thể xem xét vấn đề một cách đơn giản như thế được. Động cơ gây án có rất nhiều, kể cả là vì thù hận cũng chưa chắc đã là thù với nạn nhân. Việc gây ra vụ huyết án trong thang máy, gây sợ hãi cho mọi người, rất có thể hung thủ có thù oán với tất cả mọi người trong tòa nhà này, hoặc mục tiêu nhắm đến chính Công ty xuất bản nơi nạn nhân đang làm việc. Còn nếu gây án vì tình, thì vẫn cần phải xét đến khả năng yêu đơn phương hoặc tình yêu đồng tính nữa.”

    Đội cảnh sát được chia làm hai nhóm. Họa Long và cảnh sát Chu chịu trách nhiệm điều tra những nhân viên làm việc trong tòa nhà, còn Bao Triển và Tô My tiến hành điều tra Công ty xuất bản nơi nạn nhân làm việc. Trong lần này, giáo sư Lương yêu cầu hai nhóm phải thu được danh sách những kẻ tình nghi, đồng thời cần hết sức chú ý an toàn, vì có thể hung thủ vẫn đang ở đâu đó trong tòa nhà.

    Rất may, cả hai nhóm đều có những phát hiện mới.

    Bao Triển và Tô My lấy lời khai từ người đồng nghiệp ngồi bàn đối diện của Ôn Tiểu Uyển. Cô là một biên tập viên truyền thông, thường được mọi người gọi là tiểu biên Chung. Trong quá trình lấy lời khai, tiểu biên Chung rất căng thẳng, nói năng lắp bắp, cả buổi chỉ cúi đầu bứt ngón tay. Trong cuốn giáo trình trinh sát và thẩm vấn có nhắc đến việc thái độ và hành động của những người nói dối. Theo đó, ánh mắt của những người này lúc nào cũng liếc ngang liếc dọc, không dám nhìn chính diện, đặc biệt họ thường xuyên có những hành động tự giằng xé cơ thể mình.

    Bao Triển cho rằng tiểu biên Chung chắc chắn không phải là hung thủ, vì tố chất tâm lí của cô ta quá thấp. Nhưng trực giác cho cậu biết rằng cô gái này có biết bí mật gì đó.

    Tô My khuyên cô bỏ qua hết mọi khúc mắc trong lòng và thành thật trả lời các câu hỏi.

    Tiểu biên Chung cho biết, nạn nhân Ôn Tiểu Uyển từng bị Tổng biên tập của Công ty quấy rối. Nhưng việc cấp trên quấy rối nữ nhân viên cấp dưới đã là chuyện không còn lạ lẫm gì, và đây là tình trạng chung tại hầu hết các Công ty lớn. Chính tiểu biên Chung cũng từng bị Tổng biên tập có những hành động bất nhã, nhưng điều thực sự khiến cô sợ hãi là trong thang máy của tòa nhà, cô từng nhiều lần chứng kiến những sự việc kì lạ không giải thích được.

    Một lần, khi tiểu biên Chung ở lại làm thêm buổi, cô bỗng nghe ngoài hành lang có tiếng gõ bát. Khi cô chạy ra xem, cả hành lang không một bóng người, chỉ thấy xa xa tại góc khuất rẽ xuống cầu thang bộ, có ai đó đang đốt nến, đổ bóng người lập lòe ra phía hành lang. Nhưng khi đó trong tòa nhà không hề mất điện.

    Còn có một lần, khi đã tối muộn, tiểu biên Chung một mình đi thang máy xuống để ra về. Đến tầng mười thang máy bỗng dừng lại rất lâu rồi mới từ từ mở ra. Hành lang phía ngoài tối om không ánh điện. Một người mặc đồ đen bước vào trong thang máy. Nhưng điều đáng nói ở chỗ, người này đi thang máy trong khi trên tay vẫn đang che một chiếc ô.

    Tô My hỏi dồn: “Hôm đó trời có mưa không?”

    Tiểu biên Chung trả lời: “Không, hôm ấy còn có trăng sáng cơ mà! Mà dù trời mưa đi chăng nữa, vào thang máy cũng đâu cần che ô cơ chứ!”

    Bao Triển lên tiếng: “Người đó che ô, thực ra là để che mặt của mình thôi.”

    Trên trang cá nhân của mình, tiểu biên Chung có một bài viết, tựa đề là “Mười điều cấm kị khi đi thang máy”. Điều đó cho thấy cô biên tập nhát gan này có phần mê tín. Nội dung bài viết như sau:

    1. Nghe nói thang máy là một cánh cửa âm dương, có thể kết nối giữa địa ngục và nhân gian, nên thường xuyên có ma quỷ ra vào. Thang máy hiện đại đều sử dụng hợp kim chống gỉ, rất bóng và sáng. Các bạn khi đi thang máy một mình vào buổi tối cần nhớ không được nhìn chằm chằm vào hình ảnh mình phản chiếu trên đó đâu nhé! Nghe nói nếu nhìn quá năm giây, bạn sẽ thấy những thứ không hay xuất hiện.
    2. Những bạn nữ thích trang điểm cần chú ý, nếu làm rơi đồ lúc trong thang máy, khi cúi xuống nhặt không nên nhìn ra phía sau qua khoảng trống giữa hai chân. Nếu đánh rơi gương, khi nhặt lên không được nhìn thẳng vào gương đó, vì có thể bạn sẽ nhìn thấy một khuôn mặt… “không quen biết” xuất hiện ở đó.
    3. Khi bạn chuẩn bị bước vào thang máy, nếu thấy bên trong chỉ có một người lạ, mà người đó cứ nhìn thẳng vào bạn, thì tốt nhất hãy nói bạn bấm nhầm, và đợi đến chuyến sau. Nghe nói đó chính là ma quỷ, vì người thường trong trường hợp đó sẽ ngay lập tức chuyển hướng nhìn sang phía khác.
    4. Nếu bạn đang đi một mình trong thang máy mà thấy có người lạ bước vào và nhìn bạn chằm chằm, thì hãy bước ngay ra khỏi đó. Lý do cũng giống như ở trên.
    5. Nếu bạn chẳng may gặp phải một trong hai trường hợp trên, thì hãy nhớ rằng, nếu đối phương hỏi bạn mấy giờ rồi, đừng bao giờ nói cho hắn biết, vì đó sẽ là giờ kết thúc cuộc đời bạn. Hãy tìm một lí do nào đó, như quên đồng hồ, hoặc là đồng hồ chết rồi để tránh phải trả lời.
    6. Khi đi thang máy hãy nhớ đừng bao giờ hỏi giờ người khác mấy giờ, để tránh bị hiểu lầm ấy mà! Hơn nữa, nếu đúng là có quỷ đang đứng cạnh bạn, thì thời gian hắn trả lời bạn sẽ chính là lúc bạn lìa đời. Nhớ kỹ nhé!
    7. Các bạn nữ nếu đi cùng thang máy với một người lạ khác giới, hãy nhớ không bao giờ được đứng trước hoặc sau lưng, mà phải đứng song song cùng người đó. Nghe nói, bất kể là ác quỷ hay ác nhân thì đều thích tấn công người khác từ phía trước hoặc từ phía sau. Hơn thế nữa, việc đứng song song có thể giúp bạn có những phản ứng kịp thời.
    8. Nếu khi thang máy mở cửa ở vị trí lơ lửng, chỉ lộ ra một nửa mặt đất, thì không nên tự ý trèo ra ngoài, mà hãy bấm nút báo động. Nghe nói sự cố thường xảy ra khi bạn đang cố gắng leo lên hoặc leo xuống, khiến bạn trong tích tắc bị kẹp chết.
    9. Nếu trong thang máy chỉ có một đôi dép, thì đừng có bước vào. Nghe nói đó chính là nơi quỷ đang đứng, chỉ là bạn không nhìn thấy mà thôi.
    10. Nếu thấy có người che ô đi vào trong thang máy, hãy rời khỏi đó ngay lập tức. Nếu thấy trong thang máy có người đang che ô, thì cũng đừng dại mà bước vào.
    Tiếp theo, Bao Triển và Tô My đến hỏi Tổng biên tập. Ông là một phần tử tri thức đã ngoại tứ tuần, dáng vẻ lịch sự và nho nhã, giọng nói cũng rất từ tốn. Tổng biên tập phủ nhận việc mình quấy rối các nhân viên nữ cấp dưới, và còn cho biết một số cô còn có ý đồ mồi chài ông, thậm chí có cả những tác giả nữ cũng muốn thông qua con đường này để ông giúp đỡ xuất bản sách của mình. Bao Triển và Tô My không hỏi nhiều về những vấn đề này, mà đi thẳng vào các câu hỏi liên quan đến khoảng thời gian xảy ra vụ án.

    Câu trả lời của Tổng biên tập là: “Hôm đó là cuối tuần. Sau khi tan làm tôi đi nghe kịch hài ở nhà hát gần cầu đi bộ, đến tận mười hai giờ khi chương trình kết thúc mới về.”

    Bao Triển hỏi: “Chỉ có một mình ông thôi sao?”

    Tổng biên tập đáp: “Tất nhiên là còn rất nhiều người khác bên cạnh nữa chứ? Trong nhà hát thì thiếu gì người.”

    Bao Triển lại hỏi: “Nhà hát cách đây gần lắm sao?”

    Tổng biên tập trả lời: “Rất gần! Lái xe chỉ mất khoảng mười phút là tới. Nếu cậu vẫn không tin, tôi có thể kể chi tiết buổi kịch hài cho hai người nghe.”

    Người đầu tiên được gạt khỏi danh sách tình nghi là Dương Tử – bạn trai của Ôn Tiểu Uyển. Bạn thuê cùng nhà của anh ta đã làm chứng rằng anh ta ở nhà cả tối cuối tuần. Hai căn phòng mà họ thuê cách âm không được tốt cho lắm, nên khi một người có động tĩnh gì thì người phòng bên đều nghe thấy hết.

    Sau cuộc điều tra, tổ chuyên án đã lập xong bản danh sách tình nghi. Ngoài Tổng biên tập ra, còn có hai người bảo vệ và một người trực phòng điều khiển thang máy.

    Trong buổi tối xảy ra sự việc, hai người bảo vệ này có trách nhiệm đi tuần tra an ninh trong tòa nhà, nên họ chính là những người có cơ hội tiếp xúc với nạn nhân nhiều nhất. Hai người bảo vệ một cao một thấp. Người cao có biệt danh là Cao Kều Ngố, người thấp biệt danh là Túi Quần, cả hai đều có sở thích đọc tiểu thuyết trinh thám suy luận, và đã từng mượn sách ở Công ty của nạn nhân để đọc. Một nhân viên trực ban khác có sở thích cắt các đoạn phim ghi lại rất nhiều cảnh các cô nhân viên văn phòng xinh đẹp đứng một mình trong thang máy chỉnh sửa lại quần áo hoặc cởi tất chân từ những đoạn phim lấy ra từ camera theo dõi. Trong đó có một đoạn phim đã được truyền đi rất nhiều trong ban bảo vệ, mà hai người Cao Kều Ngố và Túi Quần cũng từng xem, đó là đoạn Ôn Tiểu Uyển nhét đệm áo ngực lúc một mình trong thang máy.

    Tổ chuyên án tiến hành thẩm vấn từng người một. Khi giáo sư Lương đặt vỏ quả chuối lên bàn, Cao Kều Ngố tỏ ra rất tò mò, rồi đưa tay bịt miệng nhưng vẫn bật cười ra tiếng ngốc nghếch. Cao Kều Ngố ăn nói chậm chạp, phản ứng hơi giống một người có chút vấn đề về thần kinh. Khác với Cao Kều Ngố, Túi Quần người thấp bé và còn tương đối trẻ. Khi nhìn thấy chiếc vỏ chuối, mặt anh ta bỗng nhiên biến sắc.

    Giáo sư Lương lên tiếng chất vấn: “Chúng tôi có lẽ nên viết một tờ thông báo “tìm đồ vật” dán ở đại sảnh tòa nhà thì phải!”

    Túi Quần ra vẻ tỉnh bơ: “Tôi không hiểu ông đang nói gì.”

    Họa Long cúi lại, thì thầm vào tai Túi Quần: “Người anh em, vỏ chuối này có phải là đồ “thất lạc” của cậu không? Phải thì cứ nói đàn ông với nhau cả, có gì là không thông cảm được chứ!”

    Bao Triển nói tiếp: “Chúng tôi có thể xét nghiệm DNA. Muốn biết nó là “tài sản” của ai cũng có gì khó đâu chứ!”

    Túi Quần xuống giọng: “Đúng vậy! Tôi thừa nhận đã từng có thứ này.”

    Giáo sư Lương hỏi tiếp: “Dùng ra sao? Trong hoàn cảnh nào?”

    Túi Quần trả lời: “Khi ở phòng trực ban một mình.”

    Bao Triển ngắt lời: “Đừng có lừa bọn tôi! Trên băng dính không có dấu vân tay, chắc chắn cậu đã đeo nó theo mình và cố tình đứng sau các cô gái trong thang máy để không bị phát hiện đúng không?”

    Túi Quần cũng lớn tiếng: “Các anh có chứng cứ gì không? Kể cả là như thế, cũng không thể chứng minh tôi đã giết chết cô gái đó. Sao? Tiếp sau đây các anh còn định đánh người chứ gì?”

    Kết thúc quá trình thẩm vấn, tổ chuyên án đều cảm thấy hai người bảo vệ này rất đáng nghi, nhưng không hề có chứng cứ gì chứng minh họ là hung thủ.

    Bao Triển nhớ lại tiểu biên Chung từng nhắc đến một người mặc áo đen che ô trong thang máy và về những tiếng gõ bát ngoài hành lang. Rất có thể trong tòa nhà này có một kẻ bị bệnh thần kinh, và đã từng có không ít hành động kì quái. Nhưng cũng có thể chính hắn cũng không ý thức được mình bị bệnh, thậm chí không nhớ được là mình đã từng giết người nữa.

    Nếu là một người bình thường, chắc chắn không thể có những hành động theo kiểu nửa đêm gõ bát, không mất điện mà vẫn thắp nến, rồi lại còn một mình che ô đi thang máy nữa.

    Chương 4
    Mười cách để “gặp ma”

    Hiện giờ hai người bảo vệ là những kẻ đáng nghi nhất, nhưng phía cảnh sát vẫn không nắm được bất kì chứng cứ gì xác thực. Cả hai người này đều ở trong căn phòng dưới tầng hầm tòa nhà. Cảnh sát Chu lấy lí do kiểm tra an toàn phòng cháy chữa cháy, xuống kiểm tra đột xuất phòng ở của họ, nhưng không phát hiện thấy dấu vết gì của sợi thép hung khí, mà chỉ thấy đầu giường họ đặt rất nhiều sách.

    Túi Quần rất thích xem các loại sách trinh thám, còn Cao Kều Ngố lại hay đọc các loại sách kinh dị huyền bí.

    Tất cả những cuốn sách này đều được mượn từ Công ty xuất bản về, và một vài cuốn trong số đó chính là tác phẩm do Ôn Tiểu Uyển biên tập.

    Tổ chuyên án phân tích lại từ đầu các tình tiết vụ án. Ở đây thực sự có quá nhiều điều ly kì, nhưng tới giờ vẫn chưa tìm được điểm đột phá để giải quyết. Chẳng lẽ họ đã để sót mất manh mối nào hay sao? Thế nhưng tất cả đều tin rằng trong tòa nhà này có một kẻ bị bệnh thần kinh. Chỉ có những người không bình thường mới có những hành động lạ lùng như vậy, nhưng liệu người đó có liên hệ gì với hung thủ thực sự hay không?

    Tổ chuyên án chuyển hướng từ việc tìm kiếm hung thủ sang điều tra về kẻ bị bệnh thần kinh bí ẩn trong tòa nhà.

    Từ xưa tới nay, tầng lớp dễ xuất hiện hiện tượng thần kinh bất thường nhất chính là những người thông minh vượt trội.

    Trong tòa nhà này, hầu hết các nhân viên đều là người có học thức cao, mà những người IQ và EQ cao thì càng ăn khớp với những đặc điểm của vụ án phức tạp này.

    Phía cảnh sát tiến hành kiểm tra góc khuất lối rẽ cuối cầu thang bộ, trên nền vẫn còn sót lại vết nến chảy, điều đó chứng tỏ những gì tiểu biên Chung khai báo là hoàn toàn có thật.

    Tô My cho gọi tiểu biên Chung vào phòng họp của Công ty xuất bản để thẩm vấn một lần nữa, nhưng lần này cô không hề ghi chép bất cứ thông tin gì.

    Tô My nói: “Tiểu biên Chung này! Tôi muốn nói chuyện với cô một chút, chúng ta cứ nói chuyện thoải mái thôi nhé! Cô có thấy trong Công ty cô có ai bị thần kinh không?”

    Tiểu biên Chung đỏng đảnh đáp: “Tôi không muốn nói xấu người khác sau lưng chút nào!”

    Tô My nói tiếp: “Chỉ là nói chuyện vui thôi, những thông tin này không bị ghi vào hồ sơ đâu mà sợ, chẳng qua là câu chuyện phiếm giữa hai cô gái với nhau thôi mà!”

    Tiểu biên Chung thở phào đáp: “Thế hả? Thế thì được! Tôi thấy bọn họ đều bị thần kinh hết lượt. Ông Tổng biên tập thì khỏi phải nói rồi, thần kinh có vấn đề, mọi người ai chẳng biết! Ông này ấy hả, chân mùi đến mức có thể hun chết cả phòng, thế mà cả mùa hè cũng cứ đi giày da, gớm chết lên được. Thế mà còn cứ nghĩ mình phong độ lắm, trông cái dáng thì bụng béo tai to, mà còn dùng cả mỹ phẩm của phái nữ nữa! Thật là biến thái! Giọng nói thì như đàn bà, tôi nghi ông ta có vấn đề về giới tính thì phải. Nhưng mà… nói thật là… tôi vẫn không thích nói xấu người khác sau lưng đâu!”

    Tô My gặng hỏi: “Còn ai nữa không? Người nào có biểu hiện khác thường ấy?”

    Tiểu biên Chung suy nghĩ rồi đáp: “À! Còn một người nữa! Nhưng cô không được nói với ai là do tôi nói đâu nhé! Cô đứng dậy nhìn xem, đứa con gái ục ịch ngồi ở bàn bên cạnh cửa sổ ấy. Cô ta tính khí cáu bẳn, kẹt xỉ thì không ai bằng, một tháng chẳng thèm thay đồ lót, bột giặt thì đi mượn, tuýp kem đánh răng dùng hết còn phải lấy gậy cán bột cán lại một lần cho hết. Nhưng mà như thế đã ăn thua gì, hâm nhất là cô ta nghĩ tất cả đàn ông trên đời đều yêu mình. Cái giọng thì như vịt đực, nói chuyện õng à õng ẹo, đến cả khi nói chuyện với con gái cũng thế, phát buồn nôn! Điện thoại thì dùng hàng nhái, còn giả vờ gọi điện thoại rồi cố tình nói to cho chúng tôi nghe thấy. Nào là tổng giám đốc này à hôm nay ăn cơm ở đâu, nào là tổng giám đốc kia à mấy giờ đến đón cô ta. Đồng nghiệp có tò mò hỏi một câu thì ra vẻ kiêu kì bảo mọi người đoán đi, gợi ý rằng đó là một người được nằm trong bảng Hurun[2] đấy nhé! Đúng là bốc phét không biết đâu là điểm dừng. Mỗi lần mua đôi giày mới, là phải khoe mẽ nửa buổi mới thôi. Cô ta thích đi dép cao gót rồi đánh mông qua đánh mông lại. Hay để tôi gọi cô ta sang đây chơi cô cứ nhìn dáng đi là đủ biết.”

    Tô My khẽ cười mỉm, rồi ngắt lời tiểu biên Chung nói: “Thế còn Dương Tử – bạn trai của Ôn Tiểu Uyển thì sao? Anh ta trước đây có hành động gì kì quặc không?”

    Tiểu biên Chung lại được dịp thao thao bất tuyệt về Dương Tử, cô nói: “Dương Tử ấy à? Ngoài cái tật trăng hoa ra, nói chung anh ta tương đối bình thường. Mà thực ra, có tên đàn ông nào không trăng hoa chứ? Có chăng chỉ trừ mấy gã nhát gan thôi! Mà cô bạn gái Ôn Tiểu Uyển của anh ta còn tự bỏ ra mấy nghìn tệ để đi học một lớp tâm lí học và giải mã các chòm sao nữa cơ đấy! Cô nói xem như thế không phải bị thần kinh thì là gì!”

    Tiểu My hỏi: “Việc đó xảy ra từ khi nào thế?”

    Tiểu biên Chung trả lời: “Ngay trước khi họ chia tay thôi! Ôn Tiểu Uyển ghen tuông kinh khủng lắm! Đã thế còn hay so đo với người khác, thích tìm hiểu về các chòm sao. Cô ta là chòm Bạch Dương, tôi nhớ điều này là vì cô ta suốt ngày lải nhải mấy thứ ấy. Nào thì chòm Bạch Dương là chòm sao hay ghen nhất, tâm lí sở hữu mãnh liệt, nếu ai động vào họ, thì nhất định sẽ gây ra đại họa. Còn Dương Tử là chòm Song Ngư, bản tính lãng mạn lại hay mộng mơ, thêm chút đa tình, khi còn yêu thì sống chết vì nửa kia, nhưng một khi đã thất vọng sẽ không bao giờ quay trở lại nữa. Ôn Tiểu Uyển căn cứ vào những kiến thức về chòm sao của mình để lập ra một danh sách đen, và không cho phép bạn trai qua lại với những người thuộc các chòm sao trong danh sách đó vì lo sợ họ sẽ nảy sinh tình cảm. Ngày sinh nhật của bạn trai, tất cả quà do đồng nghiệp tặng đều bị cô ta ném vào sọt rác. Cô ta không chỉ ngấm ngầm điều tra bạn trai mình, mà còn soi mói cả các đồng nghiệp nữ. Cô ta nghi ngờ một vài đồng nghiệp nữ có vấn đề với bạn trai mình, mà trong đó có cả tôi nữa. Cô thử nghĩ xem, như thế có phải bị thần kinh không?”

    Tô My hỏi tiếp: “Thế còn cô, cô đã bao giờ có biểu hiện khác thường chưa?”

    Tiểu biên Chung hỏi giật lại: “Ý cô là gì? Tôi hoàn toàn bình thường! Bạn trai tôi cũng là giám đốc một công ty IT đấy nhé! Ôn Tiểu Uyển chết thì cũng chết rồi, tôi thì có liên quan gì chứ! Mà thực ra tôi không thích kể mấy chuyện này đâu… Thôi, tôi phải về đây!”

    Cả tòa nhà trông như một bông hướng dương rực rỡ. Các nhân viên trong đó đều đều hàng ngày từ chín giờ sáng tới năm giờ chiều, mỗi người có cho mình một khoảng riêng trong tòa nhà rộng lớn. Những con người nội tâm luôn căng tràn sức sống, nhưng vẫn đang mê man giữa dòng đời vô định. Cuộc sống xô bồ, áp lực công việc, và chẳng khó để nhận ra rằng họ không hề vui vẻ, giữa các đồng nghiệp với nhau chỉ có sự đố kị và ganh ghét.

    Thu nhập của Ôn Tiểu Uyển không cao, nhưng cô dám bỏ ra số tiền mấy nghìn tệ để đi học lớp tâm lí học và giải mã chòm sao thì quả là không được bình thường cho lắm!

    Sau khi phân tích một hồi, cuối cùng tổ chuyên án cũng đồng ý với lối suy nghĩ của Tô My – Tất cả đều do tình yêu mà ra! Tình cảm là thứ không thể điều khiển được Ôn Tiểu Uyển quá yêu Dương Tử, và cô chỉ muốn thông qua một cách đặc biệt để nghiên cứu, tìm hiểu về người yêu mình và nội tâm của anh ta mà thôi!

    Tổ chuyên án thảo luận tình tiết vụ án đến tận đêm khuya. Tô My sau khi nhập các từ khóa tra cứu trên mạng thì đã có một số phát hiện mới. Theo đó, các hành động đốt nến, gõ bát, che ô trong thang máy đều có chung một mục đích: Gọi hồn!

    Tô My nói: “Trong tòa nhà này có ai đó đang gọi hồn!”

    Bao Triển nói: “Như thế chẳng rõ là bị thần kinh rồi sao? Sao trên đời lại có những người vô công rỗi nghề đến thế chứ!”

    Họa Long lên tiếng đồng tình: “Đúng là “Diệp Công thích Rồng[3]” lúc đấy mà hồn ma về thật, có mà lại chẳng sợ chết khiếp ấy!”

    Tô My phản đối: “Mọi người cũng đừng có phủ nhận tuyệt đối như thế. Trước đây tôi cũng xem nhiều tiểu thuyết và phim kinh dị, trong đó có nhắc tới một số cách gọi hồn. Rất nhiều sinh viên đại học còn tổ chức các nhóm bắt ma để tìm cảm giác mạnh và mạo hiểm nữa. Không ít nhà khoa học còn đặt cả camera tại những nơi xảy ra án mạng, những ngôi nhà cũ, nhà ma, nhà hoang, rồi làm phép gọi hồn, mong sẽ ghi lại được hình ảnh gì đó đáng giá nữa kia.”

    Họa Long nói: “Cô là cảnh sát chứ có phải học sinh tiểu học đâu mà còn thích mấy thứ linh tinh cổ quái này thế hở!”

    Tô My nguýt dài một cái rồi lên giọng: “Ai cần anh quan tâm chứ!”

    Tô My ngồi thu thập và sắp xếp lại “Mười cách để gặp ma” lưu truyền trên mạng. Nghe nói, cả mười cách này đều có thể giúp người ta gặp được ma.

    Cách 1: Tìm một chỗ tối, ví dụ như một căn nhà không người và đầy bụi bặm, hoặc một góc khuất của cầu thang cũ, đợi đến canh ba nửa đêm rồi liên tục gõ bát. Linh hồn nghe được tiếng gõ bát sẽ từ từ xuất hiện phía sau lưng bạn.

    Cách 2: Ba giờ đêm, mang những đồ ăn đã chuẩn bị sẵn, đặt xuống một ngã tư không người, hoặc một ngả đường ngoại ô hoang vắng. Đốt thêm hai ngọn nến, các linh hồn ngang qua sẽ dừng lại hưởng thụ đồ ăn do bạn chuẩn bị.

    Cách 3: Buổi tối, mò mẫm bước lên những cầu thang không bật đèn. Khi bước lên bậc tam cấp giả đi như động tác của Cương Thi[4], hai tay duỗi thẳng ra phía trước, mặt vô hồn, hai chân đồng thời nhảy bật lên từng bậc. Lên được một đoạn lại nhảy xuống, cứ như thế cho tới khi cảm thấy hoa mắt chóng mặt, hồn ma sẽ xuất hiện.

    Cách 4:

    Trăng rằm Bắc Đẩu chuyển di,

    Quỷ môn rộng mở, ta đi ta tìm.

    Đêm trăng rằm dắt theo một con mèo đen vào trong nghĩa địa. Treo một chiếc chuông vào cổ mèo và thả nó ra. Tới khi bạn không còn nghe tiếng chuông, và không tìm thấy con mèo nữa, bạn sẽ tìm thấy… quỷ.

    Cách 5: Nếu bạn sống gần một cái chợ, thì những tối ở nhà một mình là cơ hội tuyệt vời để tìm gặp ma. Việc bạn cần làm là cầm theo kim chỉ, nửa đêm đứng phía sau cửa nhà mình và gõ từ bên trong. Chỉ một lát sau, hồn ma sẽ gõ. Những hồn ma này thường là ma trước đây bị chém đầu oan nên họ cần kim chỉ để khâu liền thân thể của mình.

    Cách 6: Nửa đêm soi gương chải đầu, dần dần bạn sẽ phát hiện ra “mình” trong gương ngày càng xa lạ, rồi cuối cùng biến thành một người hoàn toàn khác. Cũng giống như khi bạn nhìn vào một con chữ nào đó quá lâu sẽ cảm thấy mình không còn biết đó là chữ gì nữa. Đó là do trên đời, mỗi một “tôi” luôn luôn tồn tại hai “mình” khác nhau.

    Cách 7: Cách này cần có một thứ đạo cụ đặc biệt – Tóc của người đã chết. Đặt nhúm tóc bên cạnh gối của mình khi đi ngủ bạn sẽ mơ thấy hình hài người đó lúc sinh thời. Nếu giật mình tỉnh dậy giữa giấc mơ, nửa đêm mở mắt, bên cạnh bạn có thể đã xuất hiện thêm một người nào đó…

    Cách 8: Nơi thường thấy ma nhất là kí túc xá nữ, vì ở đây chỉ có các nữ sinh nên âm khí rất nặng. Khi kí túc đã tắt điện, hãy bật một cái đèn pin lên nhưng không được để các bạn khác tỉnh giấc. Đưa đèn soi lên mặt của một bạn đang ngủ, ánh đèn càng mờ yếu càng tốt, rồi từ từ quan sát. Một lát sau sẽ thấy từ dưới gầm giường của bạn đó có một nữ sinh bò ra vào góc tường. Nhưng nhớ rằng không được dùng đèn pin chiếu vào “người” đó nếu không cô ta sẽ biến mất ngay lập tức.

    Cách 9: Mặc một bộ quần áo màu đen, đứng che ô trong một không gian kín, chẳng hạn như thang máy, hoặc một căn phòng cũ đã đóng kín cửa.

    Cách 10: Cách cuối cùng để gặp được ma đó là… Trở thành ma!

    Họa Long cảm thấy thật nực cười. Những cách đó hoàn toàn là mấy kiểu mê tín dị đoan từ thời phong kiến, dù có người đã từng thử thật cũng không thể nào thành công được.

    Giáo sư Lương lại cho rằng: “Tại sao chúng ta lại không thử một chút nhỉ?”

    Tô My hốt hoảng: “Giáo sư, nửa đêm nửa hôm thế này, bác đừng đùa cháu nữa, cháu không dám thử đâu!”

    Giáo sư Lương nghiêm giọng: “Đã là cảnh sát của tổ chuyên án, cháu sớm đã phải xóa bỏ hai chữ “sợ hãi” ra khỏi đầu rồi! Vì những gì chúng ta phải đối mặt là những vụ án giết người tàn nhẫn nhất từ trước đến nay cơ mà!”

    Họa Long giải thích: “Cháu thì chẳng sợ, nhưng chỉ thấy chúng ta làm thế liệu có ích gì không?”

    Bao Triển thì cho rằng: “Đây thực ra cũng là một dạng dựng lại hiện trường phạm tội. Chúng ta muốn hiểu được kẻ thần kinh kia nghĩ gì, thì cách tốt nhất là hãy biến thành một kẻ điên như hắn.”

    Giáo sư Lương gật đầu, nói: “Chính xác! Muốn biết kẻ đó vì sao lại phải gọi hồn, hắn có mục đích gì, thì cách tốt nhất là phải tự mình trải nghiệm.”

    Bao Triển chọn cách thứ nhất: “Gõ bát.”

    Họa Long chọn cách nhảy cầu thang như Cương Thi. Thực ra, Họa Long không hề sợ ma, mà chỉ sợ nếu có ai thấy anh trong tư thế duỗi tay nhảy cầu thang như thế thì sẽ cho rằng anh thật hoang đường và đáng chế nhạo. Nghĩ tới đây, anh cũng chỉ còn biết nhếch mép cười đau khổ.

    Tô My có phần căng thẳng, giọng nói của cô run run: “Giáo sư, thực sự cháu không muốn đi đâu!”

    Giáo sư Lương không lên tiếng, chỉ giơ một ngón tay lắc lắc tỏ ý từ chối.

    Tô My cắn môi, đưa tay cầm chiếc ô rồi lủi thủi bước ra khỏi cửa. Hành lang tòa nhà giờ đây không một bóng người.

    Bước tới trước cửa thang máy, cô cắn răng cố gắng lấy hết can đảm bấm nút gọi thang.

    Tô My mặc một chiếc áo khoác cảnh sát màu đen bên trong là sơ mi trắng, mái tóc mượt cột gọn phía sau, một đôi giày cao gót màu đỏ làm tôn thêm dáng người cao ráo và hấp dẫn, đôi tất mỏng màu đen khiến cô càng thêm uyển chuyển và quyến rũ.

    Thang máy đã tới, Tô My hít một hơi thật dài, bật chiếc ô rồi bước vào bên trong. Thang máy từ từ chạy một mạch lên đến tầng trên cùng. Cả quá trình đó Tô My tim đập chân run, vừa sợ hãi vừa căng thẳng, nhưng trong thang máy hoàn toàn không xảy ra bất cứ điều gì kì lạ. Cô thở phào một hơi, chuẩn bị xuống tầng một, coi như nhiệm vụ “gọi hồn” lần này đã hoàn thành.

    Khi cánh cửa thang máy đang từ từ đóng lại, bỗng có một cánh tay thò vào chặn cửa thang.

    Tô My giật mình hoảng sợ.

    Đó là Túi Quần – Người bảo vệ của tòa nhà. Anh ta mặc bộ quần áo đồng phục, đeo găng tay, trông có vẻ như đang làm nhiệm vụ tuần tra.

    Túi Quần nhìn thấy Tô My che ô đứng trong thang máy cũng khựng lại trong giây lát, sắc mặt lo lắng, nhưng rồi cũng bước vào bên trong.

    Cả hai không ai nói câu gì, im như ngậm hạt thị.

    Cửa thang máy nhanh chóng đóng lại. Tô My nâng cao cảnh giác, vì người bảo vệ đang đứng cạnh cô lúc này cũng là một kẻ bị tình nghi.

    Đến tầng thứ mười tám, ma xui quỷ khiến thế nào mà lại gặp sự cố. Thang máy bỗng nhiên đứng khựng lại, Tô My giậm chân kêu lên “Không xong rồi!” Chẳng bao lâu sau đó, đèn thang máy tắt, cả không gian chỉ còn một màu đen thui, không nhìn thấy gì nữa.

    Bị kẹt trong thang máy tối om cùng với tên bảo vệ biến thái, Tô My có phần căng thẳng, hỏi: “Sao lại thế này? Nút gọi cứu trợ khẩn cấp ở đâu? Anh có đèn pin không?”

    Tên bảo vệ trả lời bình tĩnh như không có chuyện gì xảy ra: “Không có! Nút gọi cứu trợ khẩn cấp hỏng rồi, chẳng ích gì đâu.”

    Tô My hỏi tiếp: “Thế bây giờ phải làm thế nào?”

    Túi Quần đáp: “Đành chờ đến khi nguồn điện dự phòng bật lên thôi!”

    Tô My có phần gắt gỏng: “Chờ bao lâu?”

    Túi Quần từ từ đáp: “Cũng không nói trước được người đẹp cảnh sát ạ! Vài giây! Hê hê! Cũng có thể là vài phút. Hoặc có thể là mười mấy phút cũng không biết chừng.”

    Giọng cười của tên bảo vệ có phần đểu cáng. Tô My muốn gọi điện thoại nhờ trợ giúp, nhưng nhớ ra trong thang máy không có sóng. Cái khó ló cái khôn, Tô My bình tĩnh đối đáp: “Cảnh sát tất nhiên luôn mang theo súng, tốt nhất anh nên biết đường dè chừng một chút!”

    Tô My không bật điện thoại. Cô sợ ánh đèn sẽ khiến kẻ tình nghi kia phát hiện ra trên tay cô không hề mang theo súng, từ đó mà sinh ra ý đồ ác độc.

    Túi Quần rút ra một chiếc bật lửa, châm một điếu thuốc, liếc mắt nhìn Tô My, đập tan “âm mưu” của cô cảnh sát trẻ đẹp.

    Đầu thuốc cháy phập phù lúc sáng lúc tối. Chùm sáng dù yếu ớt vẫn đủ soi hồng khuôn mặt kẻ tình nghi, nhưng chẳng mấy chốc nguồn sáng đã sắp cháy hết.

    Thang máy vẫn đứng yên bất động, mọi thứ trở về với màu đen, một thứ màu đen “thuần khiết” không pha trộn bất cứ một chút ánh sáng nào dù là yếu nhất.

    Tô My như sắp gục ngã, tay nắm chặt chiếc ô, từ từ nép vào một góc thang máy, bất lực không biết phải làm gì. Giữa bóng tối, một bàn tay không biết từ đâu chạm vào người khiến cô giật bắn mình, thét lên trong giận dữ: “Đừng động vào tôi!” Túi Quần đứng ở một góc khác lên tiếng: “Ai mà thèm động vào cô!” Tô My chợt nhớ ra mình vẫn đang cầm “chiếc ô gọi hồn”, bèn vội vàng gập ô lại, người run rẩy nhưng vẫn cố giữ chặt nó làm vũ khí phòng thân.

    Tô My nghe tiếng Túi Quần có vẻ thở gấp, cô đoán được đang có việc gì xảy ra. Trong lúc còn đang hoang mang chưa biết xử lí thế nào thì điện trong thang máy bỗng bật sáng. Túi Quần quay lưng lại phía Tô My hắn có vẻ như đang xếch quần.

    Cửa mở, thang máy đang ở tầng mười tám.

    Khi cánh cửa mở ra, Tô My và Túi Quần vừa nhìn rõ đường hành lang phía ngoài thì đều hét lên kinh hãi.

    Chương 5
    Cánh cửa trên tường

    Cánh cửa mở ra, hiện ra trước mặt họ là một bức tường. Mép phía trên bức tường có một khe hở. Xem ra thang máy đã dừng lại giữa hai tầng lầu. Phía ngoài khe hở là một hành lang trong ánh đèn u ám. Nhưng điều khiến Tô My và Túi Quần cảm thấy vô cùng kinh hãi đó là… có một đôi chân đang treo lửng lơ trong hành lang trước mặt.

    Tô My cuống cuồng bấm nút gọi cứu trợ khẩn cấp, nhưng không thấy có phản ứng gì. Cô tiếp tục ấn nút đi lên, rồi đi xuống, nhưng thang máy vẫn chết đứng không hề động đậy.

    Túi Quần bồn chồn không yên, định trèo ra khỏi thang máy. Hắn bấu tay lên nền nhà ở khe hở phía trên, rồi đạp chân vào cánh cửa thang máy, kéo cả thân người lên phía trên, chui đầu qua khe hở. Đúng lúc đó, thang máy bỗng dưng hoạt động trở lại, Túi Quần gắng hết sức cố bò lên trên. Không kịp nghĩ gì hơn, Tô My kéo mạnh Túi Quần xuống khỏi khe hở. Cánh cửa đóng lại, chỉ vừa kịp để tên bảo vệ không bị đứt đầu.

    Cánh cửa lại mở ra, họ nhìn thấy giữa hành lang có người treo cổ.

    Cao Kều Ngố chết treo trong hành lang tầng mười tám, mặt hướng về phía thang máy vẫn còn vết máu.

    Tổ chuyên án lập tức tiến hành kiểm tra hiện trường. Cao Kều Ngố được xác định là tự sát. Công cụ tự sát là một sợi dây đàn Piano rất mảnh, phía trên móc vào cửa thông gió điều hòa nằm giữa hành lang. Cảnh sát tìm thấy dấu chân của Cao Kều Ngố trên đáy thùng rác hợp kim bị úp ngược bên cạnh. Xem ra Cao Kều Ngố đã đứng lên thùng rác đó để tự tử, tâm thế vô cùng kiên quyết, không một chút do dự hay sợ hãi. Dây đàn vô cùng bền chắc siết chặt cổ nạn nhân. Đầu hắn cúi gằm.

    Phía trên của sợi dây đàn tình cờ phát hiện có vết máu khô. Điều đó cho thấy sợi dây này trước đây cũng từng “giết” chết một người.

    Không ai bảo ai, giáo sư Lương và Bao Triển cùng lên tiếng hỏi: “Chẳng lẽ chính Cao Kều Ngố đã giết Ôn Tiểu Uyển, rồi bây giờ tự kết liễu mình?”

    Tô My kể cho Họa Long về hành động đáng xấu hổ của Túi Quần lúc trong thang máy. Họa Long tức giận giáng cho kẻ biến thái vài cú rồi còng tay lôi về phòng trị an. Suốt đêm hôm đó, tổ chuyên án tiến hành thẩm vấn, Túi Quần mặt xanh mũi đỏ, tâm trí hoang mang.

    Bốn thành viên của tổ chuyên án không ai lên tiếng, chỉ nhìn thẳng vào tên biến thái, trong giây lát, không khí tại phòng thẩm vấn trở nên im lặng khác thường.

    Một lúc sau, Túi Quần căng thẳng toát mồ hôi hột. Hắn không trụ vững nỗi nữa, đành cúi đầu lí nhí: “Tôi cũng đâu có phạm tội gì to tát lắm đâu!”

    Giáo sư Lương lên tiếng: “Cậu Triển, nói cho cậu ta biết tội quấy rối phải chịu phạt bao nhiêu năm?”

    Bao Triển trả lời: “Quấy rối bằng các hình thức cưỡng chế, xúc phạm phụ nữ, những trường hợp nghiêm trọng có thể phạt tù năm năm hoặc hưởng án treo có quản thúc.”

    Họa Long gằn giọng: “Cậu còn định giở trò cả với cảnh sát?”

    Túi Quần vã mồ hôi càng run rẩy, trả lời: “Oan cho tôi quá!”

    Họa Long đập bàn giận dữ: “Tội của cậu tù mười năm cũng đáng.”

    Túi Quần ấp úng: “Tôi… Tôi lấy công chuộc tội, thì sẽ được khoan hồng chứ?”

    Mặt Tô My lạnh lùng đáp: “Đồ khốn? Đừng có giở trò đặt điều kiện ở đây!”

    Túi Quần cố cãi: “Tôi nói khoan hồng là nói chuyện ở trong thang máy ấy, chứ phải tù mười năm, năm năm thì lâu quá.”

    Giáo sư Lương lên tiếng: “Ý của cậu là cậu không giết người, mà chỉ quấy rối người khác thôi đúng không?”

    Túi Quần hốt hoảng khua khua tay giải thích: “Tôi có giết người đâu! Tôi cũng chẳng phạm tội gì to tát cả, cũng không che giấu hung thủ, vì…”

    Bao Triển quát lên: “Vì sao?”

    Túi Quần chắp tay cầu khẩn: “Xin các vị nương tay. Cô cảnh sát xinh đẹp ơi, coi như tôi cầu xin cô vậy! Tất cả là lỗi của tôi, thế mà vừa nãy cô vẫn cứu mạng tôi coi như tôi nói ra là để tạ ơn cứu mạng của cô vậy!”

    Tô My cao giọng: “Để xem thái độ của anh thế nào đã!”

    Giáo sư Lương đưa mắt ra hiệu nhắc Họa Long mở còng tay cho Túi Quần, rồi đưa cho hắn một điếu thuốc. Vừa hút thuốc hắn vừa xuýt xoa cổ tay rồi nói: “Tôi không che giấu hung thủ, vì thực sự không hề có hung thủ nào cả. Cô biên tập đó chết do tự sát thôi!”

    Tổ chuyên án cảm thấy vô cùng bất ngờ, giáo sư Lương bảo Túi Quần từ từ kể tường tận tất cả những gì mình biết được về vụ án.

    Cũng giống như hình tháp các giai tầng xã hội, trong tòa nhà này cũng phân ra ba hạng người.

    Thứ nhất, là những người nằm trên đỉnh tháp, như giám đốc hay tổng biên tập. Họ có nhà, có xe, có vợ con và có cả người tình, có một cuộc sống xa xỉ về đêm.

    Thứ hai, là những người ở tầng lớp trung đẳng, là các nhân viên văn phòng. Họ chẳng có tiền, chẳng có xe riêng, tất cả đều lấy tàu điện ngầm và xe buýt là đôi chân chung. Họ không mua nổi nhà, nên đành chấp nhận thuê ghép với người khác. Và trong chính cuộc sống như vậy, họ chọn cho mình những người yêu có hoàn cảnh tương xứng, rồi cứ thế lái “cỗ xe tình yêu” lãng mạn chạy tới với những cuộc hôn nhân thời hiện đại. Kết cục sẽ hoặc là lật xe, hoặc là tai nạn.

    Thứ ba, là những người thuộc lớp dưới cùng của hình tháp. Họ là những người bảo vệ, những lao công, quét dọn. Họ phải sống ở những căn phòng chật hẹp dưới tầng hầm. Họ không có gì cả, không tiền, không xe, không nhà, không học thức, và không cả bạn gái. Những con người làm thuê này phần lớn đến từ những vùng quê nghèo khó. Vì mong muốn chinh phục ước mơ, họ rời bỏ quê nhà, nhưng sau bao năm làm việc vất vả, đổi lại vẫn chỉ là mức lương ba cọc ba đồng, và những dằn vặt trong tình cảm. Không biết đã có bao nhiêu mồ hôi của tuổi trẻ đổ xuống thành phố này, nhưng cuối cùng lại bị cả thành phố lãng quên. Sự khuyết thiếu trong đời sống sinh lí khiến họ đành phải tìm cách để giúp đỡ chính mình.

    Cao Kều Ngố và Túi Quần, một người phương Bắc, một kẻ miền Nam, hai cánh Bồ Công Anh lưu lạc đến căn phòng nhỏ đưới tầng hầm của tòa nhà này.

    Phương Bắc núi non điệp trùng, miền Nam rừng cây khắp chốn. Hàng ngày, hai người họ cùng nhau khoác lên mình tấm áo người bảo vệ, tuần tra khắp cả khu nhà, rồi đôi khi cởi trần rủ nhau đi uống rượu, lại có lúc nằm dài trên giường đọc sách với nhau, không biết từ khi nào, tình bạn của họ trở nên thân thiết lạ kì. Cao Kều Ngố hơi có chút vấn đề về thần kinh, lúc nào cũng trầm ngâm ít nói, tính tình hướng nội, đến cả khi cười cũng phải dùng tay che miệng vì ngượng ngùng. Túi Quần thì luôn cho rằng mình có phần thông minh. Không chỉ đọc sách hình sự trinh thám, hắn còn thích xem cả “Binh pháp Tôn Tử[5]” và “Hậu Hắc Học[6]”. Túi Quần thỉnh thoảng cũng nói đùa với Cao Kều Ngố: “Sau này tao sẽ kiếm tiền, có tiền rồi tao sẽ mua lại cả tòa nhà này cho mà xem.”

    Cao Kều Ngố cũng hùa theo: “Thế mày có để tao được lên chức trưởng phòng bảo vệ, được làm quản lí không?”

    Túi Quần được thể lên giọng: “Đến lúc ấy mày cần gì làm bảo vệ! Tao đã là ông chủ rồi, mày cũng phải làm trợ lí chứ!”

    Cao Kều Ngố vẻ mặt mơ màng, mường tượng: “Hê hê! Mới nghĩ đến thôi thấy sướng rồi!”

    Túi Quần bỗng quay sang hỏi: “Này, thế mày có suy nghĩ hay ước mơ gì không?”

    Cao Kều Ngố hơi buồn, đáp: “Tao chỉ muốn được gặp lại mẹ tao thôi!”

    Túi Quần dịu giọng: “Đừng có ngốc thế nữa, mẹ mày đã mất lâu rồi còn gì!”

    Sau khi điều tra, phía cảnh sát cho biết, mẹ của Cao Kều Ngố đã mất vì treo cổ tự vẫn năm hắn mới sáu tuổi. Cha của hắn là một thầy bói làng, ngoài việc giả thần giả quỷ thỉnh thoảng còn xem bói xem tướng cho người ta. Khi còn nhỏ, Cao Kều Ngố từng có thời dùng một cây trúc nhỏ, dắt người cha giả mù của mình đi khắp thôn cùng ngõ hẻm, từ những ngày hè hoa hòe rợp bóng, sang những chiều thu hương quế thơm lừng, biết bao con đường quê miền Bắc đã từng in dấu chân hai cha con.

    Một ngày mùa xuân, tiếng sấm vọng qua sườn đồi cạnh nhà, mấy chùm hoa cúc bên đường lắc lư theo gió. Một cậu bé lăn chiếc lốp xe nóng chạy trên con đường nhựa. Một cơn mưa bất chợt trút xuống, nước từ bốn phía dồn về, đứa bé lăn nhanh chiếc lốp xe về tới nơi rồi chạy xộc vào nhà.

    Phía sau cánh cửa, xác người mẹ đang treo lơ lửng trên không.

    Bấy giờ, Cao Kều Ngố mới vừa sáu tuổi.

    Cậu bé vô cùng sợ hãi. Trên chiếc giường tre bên cạnh đã đặt sẵn mấy chiếc quần len, tất cả được sắp xếp cẩn thận từ cỡ nhỏ đến lớn. Trước khi qua đời, người mẹ đã kịp đan cho cậu con trai của mình tất cả số quần len để mặc từ khi cậu còn nhỏ đến khi trưởng thành. Tất cả có sáu chiếc. Cậu bé xông về phía trước, ôm chặt lấy mẹ, khóc nấc lên từng hồi. Tiếng khóc đó cứ thế theo cậu đến tận nhiều năm sau này.

    Mẹ ơi mẹ à! Mẹ dệt áo hoa!

    Trong đêm khuya vắng, đèn kia nhạt nhòa!

    Kim hỡi kim à! Đừng đâm mẹ nha!

    Đau bàn tay mẹ! Đau vào tim ta!

    Mẹ ơi mẹ à! Mẹ đan quần hoa!

    Ngày đông tuyết trắng, ấm lòng con xa!

    Kim hỡi kim à, đừng đâm mẹ nha!

    Đau bàn tay mẹ! Đau vào tim ta!

    Cậu bé lớn lên thành người, vẫn mặc chiếc quần len do chính tay mẹ đan xuống thành phố, bắt đầu cuộc mưu sinh mới. Cậu bé ngày nào giờ thân hình đã cao lớn, chiếc quần len mẹ đan đã có phần chật và nhỏ. Khi ở trong kí túc, Túi Quần từng trêu đùa Cao Kều Ngố vì cậu mặc một chiếc quần len nhỏ như quần bó ép. Đó cũng là lần đầu hên Cao Kều Ngố nổi giận với người bạn của mình, cậu ta nói: “Đây là quần do mẹ tao đan, dù có chết tao cũng phải mặc xuống mồ.”

    Và thực sự, con người cố chấp này đã mặc nó cho đến lúc chết.

    Hai ngày trước khi vụ án xảy ra, hai người bảo vệ khi đi tuần tra có thấy hai nhân viên ở lại làm thêm giờ. Cao Kều Ngố định nhắc nhở họ khi về nhớ tắt điện, nhưng Túi Quần ngăn không cho cậu lên tiếng.

    Túi Quần ghé tai Cao Kều Ngố thì thầm: “Kệ đi mày, thử rình xem chúng nó có… gì gì không. Gì gì ấy! Mày hiểu chứ?”

    Cao Kều Ngố chỉ cười hì hì không nói.

    Hai nhân viên kia bắt đầu cãi vã. Hai tên bảo vệ đang nhìn trộm có phần thất vọng vì không có trò gì hay để nhìn!

    Dương Tử cất giọng dứt khoát: “Em quên anh đi! Anh cũng sẽ quên em. Thực sự chúng ta không hợp nhau. Anh mong em sẽ hạnh phúc!”

    Ôn Tiểu Uyển thút thít trả lời: “Sau này em sẽ không bao giờ còn hạnh phúc được nữa rồi! Anh sẽ phải hối hận! Anh hãy nhớ đấy!”

    Dương Tử vẫn tiếp tục nói to: “Em bình tĩnh một chút có được không? Thất tình thì có gì to tát đâu chứ! Trong đời này ai mà không phải trải qua thất tình chứ!”

    Ôn Tiểu Uyển nói trong tuyệt vọng: “Tôi sẽ không thất tình! Tất cả con người này tôi đã dâng hiến cho anh. Dâng tất cả!”

    Dương Tử bực dọc, nói: “Em đừng có nói khó nghe như thế được không?”

    Ôn Tiểu Uyển cũng nổi cơn tức giận: “Bây giờ anh thấy khó nghe rồi hả?”

    Dương Tử càng khó chịu gắt lên: “Em đừng có ép người quá đáng như thế! Tình cảm của chúng ta chính vì em mà kết thúc đấy em biết không? Em là một cô gái thông minh, nhưng trong chuyện tình cảm em đã cư xử quá đáng quá rồi đấy!”

    Ôn Tiểu Uyển nghiêm giọng: “Anh trả lời em lần cuối, anh có còn yêu em không?”

    Dương Tử xuống giọng: “Tình yêu giống như một bình hoa. Mỗi lần cãi nhau trên bình hoa sẽ thêm một vết rạn nứt. Chiếc bình hoa tình yêu một khi đã vỡ sẽ không thể nào còn gắn lại được nữa, em hiểu chưa?”

    Ôn Tiểu Uyển lại quay ra gặng hỏi: “Anh có còn yêu em không? Em cảnh cáo anh, đây là lần cuối cùng em hỏi, anh nhất định phải có câu trả lời dứt khoát!”

    Dương Tử nghiêm giọng: “Anh không thể chịu nổi em nữa rồi. Quên anh đi! Chúng ta đều quên nhau, quên cả cuộc tình này, hãy làm bạn lại từ đầu được không?”

    Ôn Tiểu Uyển lạc giọng: “Được! Anh muốn quên tôi? Không dễ như thế đâu! Tôi sẽ khiến anh cả đời này không quên được tôi, để anh cả đời này phải mơ ác mộng.”

    Ôn Tiểu Uyển vì tình yêu đã trao tấm thân trong trắng của mình cho Dương Tử. Sau khi chia tay, cô đau đớn muôn phần. Người con gái có lòng đố kị lớn hơn ai này, vì tình yêu mà có thể đi học lớp tâm lí và phân tích các chòm sao. Cô còn vì ghen tuông, mà gần như đắc tội với hầu như tất cả các đồng nghiệp nữ trong công ty.

    Không thể lấy lại trái tim của người yêu, cô chỉ còn nghĩ đến cái chết. Những người con gái có thể tự sát vì tình thực sự là những con người quá ư cố chấp.

    Vài ngày sau đó, Ôn Tiểu Uyển tìm đến một cửa hàng chuyên bán nhạc cụ để tìm mua một cuộn dây dương cầm. Sau khi xảy ra sự việc Cao Kều Ngố tự sát, cảnh sát đã tìm đến tiệm nhạc cụ này và xác nhận thông tin là chính xác. Ông chủ cửa hàng cho biết, vị khách nữ lúc đến mua hàng vẫn còn đang nước mắt lưng tròng.

    Trong ngày quyết định tự tử, Ôn Tiểu Uyển một mình ở lại văn phòng đến tận khuya. Từ ngoài hành lang vọng lại tiếng gõ bát. Cô lần theo âm thanh đó thì thấy một người bảo vệ đang quỳ ở góc khuất cầu thang cũ gõ vào chiếc bát đựng đầy cơm và thịt kho, trước mặt còn đốt hai cây nên trắng.

    Người đó không ai khác chính là Cao Kều Ngố.

    Anh ta vừa gõ bát vừa nói: “Mẹ ơi, mẹ về ăn cơm đi!”

    Ôn Tiểu Uyển từng biên tập nhiều sách về thể loại kinh dị, nên cô biết người này đang muốn gọi hồn.

    Ôn Tiểu Uyển đứng sau lưng Cao Kều Ngố, rồi nhẹ nhàng hỏi: “Anh rất muốn gặp ma sao?”

    Cao Kều Ngố quay đầu lại, nhận ra Ôn Tiểu Uyển chính là cô gái từng cãi nhau với bạn trai mấy hôm trước trả lời: “Đúng thế. Tôi đang gọi hồn đây.”

    Ôn Tiểu Uyển chầm chậm lên tiếng: “Chính là tôi đây.”

    Cao Kều Ngố đứng phắt dậy, đứng sát vào người trước mặt, dụi dụi mắt, rồi kết luận: “Cô không phải ma!”

    Ôn Tiểu Uyển trả lời: “Chỉ lát nữa thôi, tôi sẽ biến thành ma đấy!”

    Cao Kều Ngố ngoảnh đầu quay đi, nói: “Tôi chẳng tin.”

    Ôn Tiểu Uyển vẫn nói tiếp: “Tôi đang chuẩn bị đi tự, sát đây!”

    Ôn Tiểu Uyển kể lại việc cô bị người yêu bỏ rơi, nên mua dây đàn chuẩn bị tự sát cho Cao Kều Ngố nghe. Cô cảm thấy mình không thể sống thêm được nữa và chỉ có cái chết mới giúp cô giải thoát được mà thôi. Cao Kều Ngố khuyên cô mấy câu, nhưng trong lòng bỗng chợt nhớ tới người mẹ xấu số của mình, nên không nói gì nữa. Nhưng trong lòng anh ta luôn canh cánh một câu hỏi: “Vì sao họ lại chọn việc treo cổ chứ không phải nhảy lầu? Nhảy từ trên này xuống dưới kia… Chẳng phải đơn giản hơn sao?”

    Câu trả lời của Ôn Tiểu Uyển là: “Tôi không muốn nhảy lầu mà tôi muốn treo cổ chết trong thang máy. Tôi muốn kẻ phụ tình kia phải ám ảnh cả đời. Để mỗi lần anh ta đi thang máy đều phải nghĩ đến tôi, suốt kiếp không quên!”

    Ôn Tiểu Uyển nhờ Cao Kều Ngố treo giúp sợi dây đàn vào trong thang máy.

    Cao Kều Ngố cũng có chút tư lợi. Anh ta muốn nhờ Ôn Tiểu Uyển chuyển vài lời đến mẹ mình dưới suối vàng, nên nhiệt tình giúp đỡ. Ôn Tiểu Uyển giữ nút thang máy, không cho cửa đóng lại, Cao Kều Ngố lôi thùng rác ngoài hành lang vào bên trong, đứng lên đó, dùng tay mở nắp cửa thông khí phía trên. Một đầu sợi dây được buộc chặt vào phía trên buồng thang máy, một đầu xuyên qua lỗ thông khí, rồi thắt nút lại, sau đó đặt thùng rác chặn trước cửa thang.

    Sau khi mọi việc đã xong, Cao Kều Ngố nói với Ôn Tiểu Uyển: “Nếu cô chết thật, sang đến thế giới bên kia, nhớ giúp tôi nói nhỏ với mẹ tôi một câu, là tôi rất nhớ mẹ, nhớ suốt bao nhiêu năm nay rồi, bảo mẹ tôi về báo mộng cho tôi biết nhé!”

    Ôn Tiểu Uyển gật gật đầu, đi vào trong thang máy. Cô thắt chiếc khăn lụa thành hình số tám, rồi luồn tay mình vào từ phía sau.

    Ôn Tiêu Uyển đưa đầu vào trong thòng lọng dây đàn, nước mắt dâng tràn, chỉ nói một câu: “Tạm biệt!”

    Cao Kều Ngố kéo thùng rác ra, đặt vào chỗ cũ, cánh cửa thang máy từ từ đóng lại. Cao Kều Ngố cũng nói một câu: “Tạm biệt! Nhớ chuyển lời tới mẹ tôi nhé!”

    Ôn Tiểu Uyển muốn tự sát, Cao Kều Ngố giúp đỡ, hai người lợi dụng lẫn nhau, một người muốn chết, một người muốn gặp người thân đã mất.

    Sau này, khi phân tích vụ án, tổ chuyên án cho rằng Ôn Tiểu Uyển cố tình buộc tay mình về phía sau để vu oan cho bạn trai Dương Tử, hoặc cũng có thể vì cô ta sợ đến phút chót mình lại đổi ý, không muốn tự sát nữa. Khi Ôn Tiểu Uyển tự sát, có thể thang máy đã xảy ra sự cố. Một mình cô đứng đợi chờ cái chết giữa bóng tối bao trùm.

    Khi lật lại những di vật cô để lại, tổ chuyên án phát hiện ra một trang giấy, trên tờ giấy để lại có viết: “Dương Tử đã giết tôi!” Nhưng mặt giấy phía sau lại là một bức thư tình. Câu cuối cùng trong bức thư đó là: “Cho dù có phải đánh đổi cả thế giới này, em cũng không thể để mất anh.”

    Cao Kều Ngố trở về phòng, kể lại mọi chuyện với Túi Quần. Túi Quần vừa sợ hãi vừa tức giận, không biết nói gì hơn, chỉ tay vào Cao Kều Ngố mắng: “Mày… Mày đúng là đồ hâm. Mày thành kẻ giết người rồi có biết không hả? Cảnh sát sẽ đến tóm cổ mày tống vào tù cho mà xem!”

    Cao Kều Ngố vẫn ngơ ngác: “Nhưng tao có giết người đâu, tao chỉ giúp một tay thôi mà!”

    Túi Quần tức giận với sự ngây thơ của Cao Kều Ngố: “Hiện trường có dấu vân tay và dấu giày của mày, đến lúc đó mày còn giải thích được gì nữa?”

    Túi Quần ngày thường rất thích xem các cuốn sách trinh thám, nên rất hiểu các cách phá án của phía cảnh sát. Để giúp người bạn của mình tránh bị tình nghi, Túi Quần yêu cầu Cao Kều Ngố xóa sạch vết chân và dấu vân tay tại hiện trường, rồi tháo sợi dây đàn, vứt đi.

    Hai người bắt tay nhau cùng tìm cách ứng phó với cảnh sát, nên suốt một thời gian dài phía cảnh sát điều tra không hề tìm được bằng chứng gì nghi ngờ họ.

    Sau khi vụ án xảy ra vài ngày, Cao Kều Ngố cũng treo cổ tự vẫn. Tổ chuyên án không hiểu vì sao anh ta lại chọn tầng mười tám. Túi Quần nói, có thể nơi đó giống như mười tám tầng địa ngục. Cao Kều Ngố dù có phải tìm khắp mười tám tầng địa ngục, cũng phải tìm ra mẹ của mình. Túi Quần cho biết, trong sách có viết về “Mười cách để gặp ma”. Cao Kều Ngố đã lần lượt thử hết tất cả các cách đó, nhưng không có kết quả gì. Có thể các cách đó đều không có tác dụng. Nhưng cách cuối cùng thì nhất định sẽ thành công, nhất định có thể đưa người con trai đáng thương đến gặp lại me mình, đó là… cái chết!

    Sau khi vụ án được giải quyết. Quản lí tòa nhà đã thay toàn bộ thang máy mới. Khi lắp đặt trong đường hầm thang máy, công nhân thi công nhìn thấy bên dưới đoạn tường ở tầng mười tám có một cái cửa.

    Tô My và Túi Quần khi bị kẹt trong thang máy ở tầng mười tám không hề để ý trên tường.

    Đây chính là một cánh cửa được vẽ trên tường, có màu đỏ nhạt.

    [1] 110: Số điện thoại báo cảnh sát khẩn cấp của Trung Quốc.

    [2] Bảng Hurun: Bảng xếp hạng một trăm người giàu nhất Trung Quốc.

    [3] “Diệp Công Thích Rồng”: Ý nói chỉ tỏ vẻ yêu thích bên ngoài, nhưng thực tế không phải thích thật, thậm chí có phần sợ hãi, phản cảm.

    [4] Cương Thi: Một xác chết biết đi trong văn hóa Trung Quốc. Theo truyền thuyết, ban ngày Cương Thi nằm trong quan tài hoặc ẩn nấp tại những nơi tối tăm, đến đêm thì lang thang với hai cánh tay duỗi thẳng về phía trước. Nó giết chết mọi thực thể sống gặp được để hấp thụ “khí” (nguồn sống) từ các thực thể này.

    [5] Binh pháp Tôn Tử: Cuốn sách chiến lược chiến thuật, do Tôn vũ soạn thảo vào năm 512 TCN, vào thời Xuân Thu của Trung Quốc, được tôn xưng là Tuyệt tác binh thư hàng đầu của thế giới cổ đại.

    [6] Hậu Hắc Học: Nghĩa là mặt dày tâm đen, là tác phẩm của Lý Tôn ngô, chính thức được truyền bá từ năm 1934. Tác phẩm chế giễu một cách sâu cay sự đen tối và những thói hư tật xấu trong một số chế độ xã hội Trung quốc cũ.
     
    Gum, Đương duy, Dung dung and 4 others like this.
  16. Nhím Nhím

    Nhím Nhím Member
    • 344/373

    Bài viết:
    41
    Đã được thích:
    422
    MƯỜI TỘI ÁC TẬP 2: HIỆN TRƯỜNG VỤ ÁN
    PHẦN 2: QUÁN TRỌ KINH HOÀNG


    Lời dẫn
    Bàn chân nào giẫm lên khóm Violet, hương hoa sẽ lưu lại trên bàn chân đó. Và lòng khoan dung chính là như vậy! – Andrew Matthews.


    Rất nhiều người có chung một thói quen khi ở khách sạn hay nhà nghỉ, đó là kiêng ở phòng cuối hành lang.

    Những căn phòng ở vị trí này âm thịnh dương suy, thường xuyên xảy ra những sự việc rất kì quái. Ví dụ như nửa đêm có tiếng gõ cửa, nhà vệ sinh tự động xả nước, hay ti vi tự động bật. Những người mê tín tin rằng những căn phòng như thế này thường dễ có ma. Không chỉ có con người ở trong các khách sạn nhà nghỉ, mà người ta cho rằng ngay cả các cô hồn dã quỷ cũng coi đó là chốn dừng chân sau chặng đường dài.

    Đó tất nhiên chỉ là những lời vô căn cứ, nhưng có một sự thật, rất nhiều vụ án mạng đều xảy ra tại những căn phòng cuối hành lang như thế.

    Tháng 3 năm 2009, trong chuyến công tác của mình, một người phụ nữ nghỉ lại tại phòng 101 của khách sạn Hoàng Thành. Đây là căn phòng nằm cuối hành lang tầng một của khách sạn.

    Tối đó, cô bật máy tính nói chuyện trực tuyến cùng người chồng sắp cưới. Trong lúc đang nói chuyện vui vẻ, hòa theo tiếng nhạc du dương, cô đứng dậy nhảy múa vui vẻ cùng một nửa của mình đang ở đầu bên kia. Người chồng sắp cưới nhìn cô say đắm, hòa theo nụ cười và sự uyển chuyển của nàng, khen ngợi người vợ sắp cưới yêu kiều diễm lệ.

    Đang vui vẻ nhìn ngắm nửa kia của mình, bỗng người chồng sắp cưới thấy chiếc rèm cửa sổ phòng khách sạn sau lưng cô gái động đậy. Cửa sổ phòng lúc đó chắc chắn đang đóng chặt, nên không thể có gió lùa vào, lẽ nào có người nấp sau rèm cửa?

    Người chồng sắp cưới giật mình hoảng sợ, vội vàng gõ lên cửa sổ nói chuyện nhắc nhở cô gái.

    Cô quay đầu nhìn lại, không thấy rèm cửa sổ có gì khác lạ. Lấy hết can đảm, cô bước lại gần, đưa tay vén bức rèm lên, phía sau không hề thấy gì bất thường.

    Cô trở lại chỗ máy tính, viết lại cho chồng tương lai: “Ông xã, anh xấu quá, định dọa em đấy à!”

    Người chồng sắp cưới trả lời một cách miễn cưỡng: “Có lẽ là do anh hoa mắt, nhìn nhầm thôi?”

    Cô gái tiếp tục với điệu múa của mình. Lúc này, ánh mắt của người chồng sắp cưới đã không còn tập trung vào cô được nữa, mà chuyển sự chú ý sang bức tường phía sau tấm rèm cửa sổ. Anh càng nhìn càng thấy căn phòng này có gì đó không bình thường, dường như trên bức tường kia có thấp thoáng bóng dáng một người nào đó.

    Một bóng đèn trong phòng bỗng nhiên vụt tắt. Nhìn qua máy tính, căn phòng có phần tối đi rất nhiều.

    Đúng lúc đó, có tiếng gõ cửa, cô gái ghé mắt nhìn qua mắt mèo trên cửa… Không có ai, khắp hành lang cũng chẳng có lấy một cái bóng nào.

    Cô gái vừa quay người về phòng, thì lại nghe có tiếng gõ cửa. Khi cô ghé sát vào mắt mèo xem đó là ai thì vô cùng kinh hoàng khi thấy một con mắt đỏ ngầu phía ngoài đang nhìn chằm chằm vào mình.

    Chương 1
    Xác người trong bức tường

    Ngày 19 tháng 3 năm 2009, tại khách sạn Hoàng Thành xảy ra một vụ án mạng. Một cô gái vào thuê căn phòng số 101 của khách sạn. Tại phòng đối diện, một người đàn ông, sau khi uống say đưa một cô gái bán hoa về phòng. Do xảy ra bất đồng về tiền thù lao, người đàn ông đánh đập cô gái. Cô gái thương tích đầy mình, gục xuống trước cửa phòng 101, không ngừng gõ cửa cầu cứu sau khi cô gái tại phòng 101 báo cảnh sát, người đàn ông say rượu mua dâm đã bị bắt giữ.

    Khi thực hiện ghi chép lời khai, phía cảnh sát phát hiện thấy căn phòng 101 có gì đó khác thường. Trong không khí có mùi như mùi xác chết.

    Cảnh sát lập tức tiến hành kiểm tra. Căn phòng này nằm cuối hành lang tầng một của khách sạn, trông rất cũ kĩ, điều hòa có dấu vết bị lửa hun cháy đen, các vết mốc lốm đốm khắp tường. Một bóng đèn đầu giường đã cháy, nhà vệ sinh tối tăm ẩm ướt, chiếc gương cũ loang lổ soi vào chỉ còn thấy lờ mờ không rõ bóng người. Trong nhà vệ sinh còn có một chiếc cửa sổ gỗ vuông đã bị đóng chặt, mốc meo.

    Một cảnh sát sau khi đứng quan sát tỉ mỉ hồi lâu trước bức tường đã phải hét lên gọi mọi người. Anh phát hiện ra trên tường mập mờ hình khuôn mặt của một ai đó.

    Sau quá trình điều tra sơ bộ bước đầu, phía cảnh sát kết luận rằng trong bức tường này có thể đang giấu một xác người. Thi thể trong trạng thái bị xây kín sẽ tự phân hủy. Dung dịch chảy ra dần dần ngấm vào tường, rồi ngấm ra bên ngoài, hình thành lên hình ảnh đúng như dáng người đã chết.

    Cảnh sát sử dụng khoan máy, chùy lớn, xà beng cùng nhiều công cụ khác, khoan dỡ đoạn tường nghi ngờ có thi thể. Sau hơn ba giờ đồng hồ cố gắng, cuối cùng cả đội cũng ngả được đoạn tường bê tông hình chữ nhật xuống. Sau khi đưa vào chụp X-Quang, hình ảnh bộ xương nằm trong bức tường bê tông đã hiện ra rõ ràng trước mắt.

    Câu chuyện về xác người trong bức tường, hoặc cũng có người gọi với cái tên “tường giấu xác” làm chấn động cả thành phố.

    Nhận được lời mời của cảnh sát địa phương, tổ chuyên án lập tức tới ngay khách sạn Hoàng Thành. Chi đội trưởng phụ trách mảng trinh sát hình sự đưa bốn người của tổ chuyên án vào phòng pháp y. Tuy nhiên, họ gặp phải một vấn đề nan giải, làm cách nào để lấy được thi thể ra khỏi tấm bê tông một cách hoàn thiện?

    Các bác sỹ pháp y đã bó tay, còn những thiết bị giải phẫu đứng trước tấm bê tông đồ sộ này thì hoàn toàn vô tác dụng.

    Một cậu cảnh sát dùng khoan điện khoan một lỗ nhỏ trên tấm bê tông. Một thứ dịch màu vàng chảy ra. Trong dịch có độc, mùi vô cùng khó ngửi, khiến mọi người đều phải đưa tay bịt mũi.

    Giáo sư Lương ngay lập tức ngăn cản hành động vừa rồi của cậu cảnh sát. Thi thể nạn nhân ẩn chứa một lượng lớn thông tin quan trọng, một khi những thông tin đó bị hư hỏng, việc phá án sẽ trở nên vô cùng khó khăn. Giáo sư Lương yêu cầu phía cảnh sát Hoàng Thành tìm một vài người thợ điêu khắc đá, và rất nhanh chóng, họ đã có mặt tại phòng pháp y.

    Người thợ cả giận dữ, nói: “Tôi là thợ đục đá chứ có phải thợ đục bê tông đâu?”

    Chi đội trưởng cũng hơi gắt gỏng: “Thì có khác nhau là mấy!”

    Người thợ cả hỏi tiếp: “Đục thành hình gì đây? Có bản vẽ không?”

    Chi đội trưởng giờ mới nhẹ nhàng, nói: “Trong tấm bê tông này có một xác người, các anh đục cẩn thận, đừng để hư hỏng cái xác…”

    Vừa nghe đến đấy, cả đội thợ cong đuôi chạy hết, phía cảnh sát hứa trả thêm tiền công cũng nhất định không ai dám chịu làm. Chi đội trưởng cũng không miễn cưỡng, để họ ra về. Bỗng anh nhớ ra một người có thể giúp họ thực hiện việc này. Anh có một người bạn là nhà điêu khắc. Bất kể trên chất liệu gỗ hay đá, người này đều có một tay nghề đáng nể. Các tác phẩm của anh ta đã từng đạt nhiều giải thưởng lớn trong nước.

    Chi đội trưởng cho mời nhà điêu khắc đến phòng pháp y. Nhà điêu khắc đồng ý giúp họ giải quyết bài toán khó này. Trước tiên, anh nhìn tổng thể cả tấm bê tông, trên đó vẫn còn in hằn một hình mặt người. Bằng những công cụ chuyên dụng như thước ba chiều, đục, rìu khoan, máy mài, sau nửa ngày vất vả, nhà điêu khắc cuối cùng cũng bóc tách thành công phần phức tạp nhất, đó là phần đầu. Tiếp đó, anh tiến hành đẽo gọt phần thân. Sau một hồi lâu, hình dáng một người đang đứng hiện ra trước mắt, nằm lẫn giữa những sợi cốt thép nhưng vẫn rất rõ ràng, và chỉ còn phủ một lớp xi măng mỏng.

    Nhà điêu khắc nói với chi đội trưởng: “Đây là tác phẩm tuyệt vời nhất của tôi!”

    Chi đội trưởng tiễn nhà điêu khắc về, rồi hứa buổi tối sẽ mời người bạn nhiệt tình này đi ăn. Nhà điêu khắc trước khi rời khỏi đó còn muốn chụp một bức hình với “tác phẩm” kia để làm kỉ niệm, nhưng phía cảnh sát đã từ chối khéo.

    Bao Triển và bác sỹ pháp y dùng búa nhỏ gõ hết lớp xi măng mỏng còn lại trên mặt thi thể. Một khuôn mặt sưng phù lạ thường, đã phân hủy rất nhiều xuất hiện trước mắt họ, nhưng đã rất khó để nhận ra hình dạng của ngũ quan. Giáo sư Lương yêu cầu Bao Triển và bác sỹ pháp y nhanh chóng tiến hành kiểm tra, kể cả những miếng bê tông được bóc ra cũng phải mang đi xét nghiệm rõ ràng. Cùng lúc, Chi đội trưởng và Họa Long tiến hành điều tra về công ty xây dựng đã nhận thầu công trình này, thu thập một danh sách các đối tượng tình nghi. Còn Tô My tìm kiếm danh sách những người được báo mất tích trong thang máy mấy năm vừa qua.

    Sau hai ngày trời vất vả, các thành viên đã tìm được rất nhiều các manh mối. Giáo sư Lương triệu tập mọi người mở cuộc họp báo cáo và triển khai tình hình.

    Khách sạn Hoàng Thành nằm ở gần trạm xe cuối cùng của cả đoạn đường dài. Khu vực này tập trung đông người ngoại tỉnh, tình hình trị an tương đối phức tạp. Khách sạn Hoàng Thành được xây dựng xong vào khoảng nửa năm trước, do Công ty Xây dựng Hoàng Thành đứng thầu. Một viên quản lý dự án cho biết, do nguồn lao động thay đổi rất nhanh, nên giờ đây về cơ bản đã không còn tìm được những người thợ thi công của năm đó nữa, dẫn đến việc lập danh sách tình nghi vô cùng khó khăn. Chi đội trưởng phải tạo áp lực với Giám đốc công ty, mới có được một bảng lương cũ từ thời gian đó. Nhưng trên bảng lương chỉ có tên công công nhân thi công, mà không có bất cứ thông tin địa chỉ hoặc điện thoại, hay cách thức liên lạc nào khác, khiến cho công tác điều tra gặp rất nhiều khó khăn.

    Bao Triển và bác sỹ pháp y đã làm xong báo cáo. Theo kết quả phân tích xương, thi thể là một nam giới tầm sáu mươi tuổi. Trên thân người chỉ mặc duy nhất một chiếc quần đùi, ngón tay có đeo một chiếc nhẫn vàng. Thi thể nạn nhân bị nhét vào một cột trụ bê tông của tòa nhà. Trong cột trụ có cốt thép, và thi thể bị kẹt trong chính những đoạn thép đó và đổ bê tông vào. Từ việc phân tích bản thiết kế thi công tòa nhà cho thấy, ban đầu nơi này vốn được dự kiến xây thành một khu thương mại, nhưng giữa chừng phải ngừng thi công một thời gian, rồi sau đó mới sửa lại thành khách sạn. Kết cấu chịu tải của tòa nhà này được thiết kế một cách kiên cố lạ thường, và khu vực tường nơi phát hiện thi thể cũng được xây dày hơn các công trình dân sinh thông thường khác rất nhiều.

    Chi đội trưởng lên tiếng hỏi: “Nếu thi thể bị chôn kín trong bê tông thì sẽ thế nào?”

    Bác sỹ pháp y trả lời: “Thi thể bị lớp xi măng bọc kín, khi xi măng khô lại sẽ vẫn còn rất nhiều những lỗ khí nhỏ, nước và không khí vẫn có thể xâm nhập. Hơn nữa, khi xi măng khô lại, sẽ trở về môi trường trung tính, tốc độ phân hủy vô cùng chậm, xương cốt có thể lưu giữ trong thời gian dài, do đó rất khó đánh giá về tình trạng hiện thời của thi thể này. Thông thường trong giai đoạn đầu sau khi chết, một thi thể sẽ bắt đầu bằng giai đoạn hạ nhiệt, tím tái, cứng lại, khô cục bộ, giác mạc đục lại, rồi tự phân giải. Giai đoạn tiếp theo, thi thể có thối rữa, hoặc trở thành xác khô, giữ nguyên hiện trạng. Các biểu hiện của thi thể là những dấu hiệu quan trọng giúp các bác sỹ pháp y phán đoán thời gian tử vong. Thế nhưng cái xác vùi trong bê tông này có những phần đã phân hủy, lại có những phần vẫn còn tương đối hoàn chỉnh, nên rất khó phán đoán thời gian tử vong chính xác. Theo những đánh giá sơ bộ, ít nhất nạn nhân cũng đã chết từ nửa năm trước.”

    Giáo sư Lương có ý định mời các chuyên gia trong nước giúp đỡ, nhất định phải làm rõ được thời gian tử vong.

    Tô My nhìn vào bản báo cáo khám nghiệm tử thi, quay sang nói với Họa Long: “Trời ạ! Ông cụ này bị giết đến tận hai lần cơ à!”

    Bao Triển trả lời: “Không! Ba lần chứ!”

    Họa Long nhìn qua bản báo cáo, lên tiếng xác nhận: “Ừ! Đúng thế!”

    Hộp sọ của người chết có nhiều chỗ bị vỡ, lõm xuống. Xương sườn khu vực trước ngực có vết bị vật nhọn đâm. Một mũi tên hợp kim nhôm xuyên từ trực tràng đến khoang bụng. Cả ba đều là những vết thương chí mạng. Điều đó cho thấy, hung thủ vô cùng tàn nhẫn quyết dồn nạn nhân vào chỗ chết. Mũi tên hợp kim nhôm thuộc loại dành cho cung nỏ cao cấp, ngoài ra không phát hiện thấy hung khí gây sát thương nào khác.

    Tổ chuyên án và cảnh sát Hoàng Thành bắt đầu thảo luận. Mọi người đều phân tích cho rằng mũi tên kia, nhiều khả năng là do hung thủ dùng tay đâm nạn nhân, chứ không phải do cung bắn.

    Việc quan trọng tiếp theo là cần xác định danh tính nạn nhân. Tô My so sánh danh sách những người mất tích trong khu vực với những đặc điểm nhận dạng của nạn nhân, và nhanh chóng tìm thấy người có nhiều điểm trùng khớp. Ông cụ này mất tích cách đây hơn nửa năm, người thân đã nhiều lần báo án, và còn đăng tin tìm người thân trên truyền hình, nhưng chưa có kết quả. Ông cụ khi mất tích đi một đôi dép lê và mặc một chiếc quần đùi rộng, cởi trần, rất ăn khớp với đặc điểm của nạn nhân. Qua kết quả xét nghiệm DNA, danh tính của ông cụ đã được xác định.

    Họa Long và Chi đội trưởng tiến hành điều tra tại nơi ở của nạn nhân. Mọi người thường gọi ông là chú Lỗ.

    Vợ chú Lỗ đã qua đời cách đây mấy năm. Sau khi về hưu, ông chỉ ở nhà, sống bằng số tiền lương dưỡng lão. Ngoài việc đưa đón đứa cháu nội đi học, ông không còn việc gì khác nên hàng ngày thích đi bộ trên phố, hoặc vào công viên chơi cờ.

    Hàng xóm cho biết, tiếng tăm của chú Lỗ không được tốt cho lắm, ông thường rất thích vào cửa tiệm cắt tóc gội đầu ở ngoài mặt phố.

    Một cô gái cho cảnh sát biết, có lần khi cô đi học thêm về nhà buổi tối, thấy chú Lỗ đứng trong một con ngõ tối và có những hành động rất kì quặc.

    Con trai của chú Lỗ ban đầu không muốn nhắc đến chuyện này, nhưng sau khi được Họa Long và Chi đội trưởng làm công tác tư tưởng, cộng thêm tâm lý muốn tìm ra kẻ đã giết hại cha mình, con trai chú Lỗ sau hồi do dự cũng ngập ngừng kể một sự việc rất ngượng ngùng từng xảy ra.

    Ở mỗi thành phố đều có những tiệm cắt tóc gội đầu mà không cắt tóc hành nghề chính đáng. Những cô gái mặt đầy son phấn, áo quần hở hang đứng sau tấm cửa kính mời chào khách qua đường.

    Có lần, con trai chú Lỗ đi ngang qua một cửa tiệm như vậy. Anh thấy một thiếu phụ ăn mặc hở hang đứng sau cánh cửa ngoắc ngón tay chào mời. Không vượt qua được cám dỗ, anh quyết định đi vào. Nhưng, vừa bước vào bên trong, anh ta đã thấy cha mình cũng đang ở đó.

    Chú Lỗ có lẽ đã chán cảnh đứng từ xa nhìn vào trong cửa tiệm, nên đã lấy hết dũng cảm bước vào đó.

    Khi con trai hỏi, chú Lỗ trả lời rất bình tĩnh: “Tao đến cắt tóc chứ làm gì nữa!”

    Anh con trai hỏi lại: “Chẳng phải bố vừa cạo trọc đầu tuần trước rồi còn gì?”

    Sau một vài câu xã giao qua lại, anh con trai quyết định ra về, còn chú Lỗ đi theo người thiếu phụ vào một căn phòng khác qua con đường bí mật phía sau tủ quần áo để tránh bị công an phát hiện.

    Chương 2
    Bê tông giấu xác

    Trong lịch sử tội phạm của thế giới, có hai vụ án dùng bê tông giấu xác từng gây chấn động một thời!

    Vụ thứ nhất là vụ thảm sát một em bé trong bê tông xảy ra tại huyện Nghi Lan, Đài Loan. Một cô bé năm tuổi bị người tình của mẹ là Ngô Văn Hoành sát hại. Cảnh sát tìm thấy dưới rãnh nước phía sau ngôi nhà thuê trong một khối bê tông hình chữ nhật, nặng khoảng sáu mươi cân, rất khả nghi. Sau khi đưa về nhà xác dùng khoan điện từ từ khoan khối bê tông trong vòng một tiếng đồng hồ, cảnh sát đã phát hiện xác cô bé nằm co ro bên trong. Cô bé đã chết cách đó hơn một năm, khi mới năm tuổi. Cảnh sát phát hiện hốc mắt nạn nhân sâu rỗng, hai bên má có nhiều vết bầm tím, chân tay và trên cơ thể cũng có nhiều vết thương. Cô bé vẫn mặc bộ váy hoa và đeo chiếc vòng cổ vỏ sò. Khi bị chôn trong khối bê tông, cô bé ở tư thế cuộn người, giống như đang ngồi co ro, trông vô cùng đáng thương.

    Vụ án thứ hai là vụ sát hại một nữ sinh trung học tại Tokyo, Nhật Bản, từng gây chấn động cả thế giới. Hung thủ gồm bốn học sinh thất học tuổi từ mười sáu đến mười tám. Chúng thấy cô bé xinh xắn đi chiếc xe trượt liền cố ý đâm vào, rồi giả bộ chạy lại giúp, sau đó bắt cóc nạn nhân. Chúng giam giữ cô bé bốn mươi mốt ngày, hãm hại rồi giết người diệt khẩu. Xác cô bé bị chôn bằng bê tông trong một thùng nhựa đường rỗng, rồi ném xuống dòng sông Wasaku phía Đông Miyako, Tokyo (Gần công viên biển Wasaku hiện nay). Các chuyên gia Nhật Bản gọi những vụ án mạng kiểu này là “Bữa tiệc điên cuồng” của “Những con sói qua đường”. Vụ án đã gây một cú sốc lớn với xã hội thời bấy giờ, và còn được nhắc tới rất lâu sau này.

    Trong buổi họp phân tích tình hình vụ án, một cảnh sát tên Hồ Hạo Nhiên đã có phần phân tích rất xuất sắc.

    Vụ án xác người giấu trong khối bê tông lần này có ba điểm cần đặc biệt lưu ý.

    Thứ nhất, nạn nhân chỉ là một ông cụ trên sáu mươi tuổi, không phải là người giàu có, chiếc nhẫn vàng trên tay cũng vẫn còn, chứng tỏ động cơ giết người không phải vì cướp của.

    Thứ hai, thi thể nằm trong cột trụ, có một lớp dây cốt thép phía ngoài rồi mới đổ xi măng lên. Những ai từng làm thi công đều hiểu rõ, sau khi buộc xong cốt thép, đại đa số công nhân đều đã nghỉ rồi. Do diện tích thi công rộng, nên việc trộn bê tông thường phải làm về đêm. Một số xe trộn bê tông vì không có giấy phép hoạt động, nên càng phải đợi đến ban đêm mới có thể vận hành công việc. Thông thường chỉ có một người lái xe trộn là ở lại trực đêm, cùng một vài công nhân ở lại trông coi là đủ. Hung thủ đặt xác nạn nhân vào phía trong lớp dây thép, phía ngoài còn có một lớp tấm sắt chặn, nên giữa lúc đêm tối, công nhân thi công không nhận ra có gì lạ thường cũng là điều dễ hiểu. Công nhân trộn bê tông lúc đó rất có thể chỉ là người ngoài cuộc, không hề biết gì. Và sau khi cột trụ được đổ xi măng, sẽ không ai còn nhìn thấy gì hết nữa.

    Thứ ba, mũi tên hợp kim nhôm là loại mũi tên vừa có tính đàn hồi vừa có độ cứng, hơn thế nữa có thể tự vặn thành các hình dạng phức tạp mà mình thích. Ví dụ như một số loại mũi tên hợp kim nhôm, hai bên được làm hơi bẹt, ở giữa tròn, giúp giảm tình trạng mũi tên bị bay lệch. Đây là loại sản phẩm cao cấp, và hiện tại ở Hoàng Thành vẫn chưa có cửa hàng nào bán sản phẩm này. Vì thế hung thủ có thể là một kẻ có tiền, và đã mua mũi tên đó trên mạng gửi về.

    Theo những phân tích phía trên, cảnh sát Hồ cho rằng hướng điều tra tiếp theo là chủ đầu tư khách sạn, chứ không phải công nhân thi công hay những cô gái bán hoa trong tiệm gội đầu, vì họ chắc sẽ không bỏ qua chiếc nhẫn, và cũng chẳng bao giờ nghĩ đến việc mua mũi tên kia.

    Giáo sư Lương tán đồng quan điểm của cảnh sát Hồ, và còn đưa ra một câu hỏi: “Mũi tên kia đáng lẽ phải phóng ra từ cung tên, nhưng tại sao ở đây hung thủ lại dùng tay đâm từ dưới lên? Đây chỉ là một hành động nhất thời, hay phản ánh tâm lý khác thường của hung thủ?”

    Họa Long trả lời: “Ông cụ này có thói quen thích đi cửa sau, nên mới gặp phải họa sát thân này. Có khả năng nào là do một cô ả nào đó được đại gia lắm tiền “bao” gây ra không nhỉ? Tôi đồng ý với suy nghĩ của cảnh sát Hồ. Giả sử đại gia đó là chủ đầu tư, thì ba điểm nghi vấn kia có thể xâu thành một chuỗi rồi. Ông lão vì xung đột nên đã mất mạng chăng?”

    Bao Triển lên tiếng: “Vẫn còn một vấn đề nữa. Bấy giờ ở đó là công trường thi công nhưng liệu đây có phải là hiện trường đầu tiên xảy ra vụ án không?”

    Bác sỹ pháp y bổ sung thêm: “Chúng ta tìm thấy vết phân trên cạp quần phía sau của nạn nhân. Vì nạn nhân chỉ mặc mỗi chiếc quần đùi, nên có thể nạn nhân bị tấn công lúc đang đi vệ sinh. Do bị tấn công nhưng chưa chết hẳn, nên ông cụ vừa kéo quần vừa bỏ chạy, dẫn đến việc vẫn còn phân dính vào cạp phía sau.”

    Giáo sư Lương hỏi: “Phân tích trong đó có những gì?”

    Bác sỹ pháp y trả lời: “Kết quả kiểm tra cho thấy, ông cụ này trước khi chết có ăn nấm kim châm.”

    Tô My ngạc nhiên, nói: “Nấm kim châm á? Thứ đó thật kinh khủng! Tôi chưa bao giờ đụng đến nó.”

    Kết thúc cuộc họp, giáo sư Lương sắp xếp công việc để mọi người chia nhau thực hiện. Phía cảnh sát Hoàng Thành tập trung toàn bộ lực lượng, chia làm ba nhóm phụ trách những công việc riêng.

    Nhóm thứ nhất có nhiệm vụ mở rộng phạm vi điều tra, tăng cường dò hỏi thông tin từ các nguồn xa hơn. Bao Triển và cảnh sát Hồ tập trung điều tra thân thế và địa vị xã hội của chủ đầu tư, đồng thời phải thu thập tin tức cụ thể từ phía các nhân viên khách sạn và các cửa hàng xung quanh.

    Nhóm thứ hai do Tô My phụ trách, điều tra rõ nguồn gốc của mũi tên hợp kim nhôm. Nhiệm vụ của cô là bắt buộc phải tìm ra lai lịch của hung khí quan trọng đó, và lập một danh sách những người trong thành phố có sở hữu loại mũi tên đắt tiền này.

    Nhóm thứ ba do Họa Long và Chi đội trưởng dẫn đầu. Trong vòng một tuần phải làm gắt gao việc càn quét các nhóm người và đơn vị có hành vi mua bán dâm trên địa bàn thành phố, tìm ra những người đã từng tiếp xúc với nạn nhân để tăng cường thẩm vấn, tìm ra những nhân vật khả nghi trong vụ này.

    Sau một tuần vất vả, Tô My vẫn không có thêm được đầu mối gì. Loại mũi tên đặc biệt này rất khó điều tra vì nó thuộc dòng sản phẩm bị cấm lưu hành. Các cửa hàng hầu như không bày bán và cũng không dám tiết lộ việc mình có bán hay không. Chỉ có một số cửa hàng trên mạng có rao bán. Cung nỏ là loại vũ khí có tính sát thương cao, được đặt trong danh mục các sản phẩm cần tăng cường quản lý của nhà nước. Bất cứ cá nhân hay doanh nghiệp nào khi chưa được phép đều không có quyền tự ý sản xuất, kinh doanh hay mua bán sản phẩm này.

    Khác với Tô My, nhóm càn quét gái mại dâm lại thành công rực rỡ. Gần như toàn bộ các cô gái làng chơi đều bị “tóm” chỉ sau vài “mẻ lưới”, nhân dân trong thành phố đều vô cùng tán thưởng.

    Trong quá trình bủa vây, cảnh sát còn bắt được một cậu học sinh lớp chín. Hàng ngày đi học cậu đều phải đi ngang qua một dãy phố gội đầu như thế này. Không kìm được sự tò mò của tuổi mới lớn, cậu đã đánh mất mình trong những nơi không đàng hoàng ấy.

    Cảnh sát tiến hành thẩm vấn từng cô gái bán hoa, đưa ảnh của nạn nhân ra để họ nhận dạng. Có bốn cô gái thừa nhận từng tiếp xúc với chú Lỗ. Trong số những cô gái này có một cô bé mới vừa tròn mười tám tuổi tên là Mao Mao. Nhưng điều khiến cảnh sát bất ngờ là kẻ đứng sau ổ mại dâm nơi cô bé đang làm lại chính là bố mẹ cô bé.

    Bố mẹ Mao Mao mở một cửa tiệm mát-xa chân, rồi không quan tâm đến nơi đến chốn nên không biết con gái mình cũng bị ép bán thân trong đó cùng với hai người chị em họ của mình.

    Cảnh sát lục soát thấy một cuốn sổ ghi tiền trong quán mát-xa chân, và còn có một cuốn nhật kí bị khóa.

    Mao Mao ghi lại quãng đời đau khổ phải làm gái bán hoa của mình, những oán hận với bố mẹ, cùng mối tình của mình với một vị khách làng chơi vào trong nhật kí.

    Ở đoạn cuối của mỗi bài nhật kí, cô bé đều viết một câu giống nhau: “Chúc công việc ngày càng phát đạt! Cố lên! Cố lên!”

    Trong cuốn nhật kí của mình, Mao Mao cũng nhắc đến chú Lỗ! cô bé viết: “Hôm nay lão già kia lại mò đến. Tôi dẫn lão ta vào phòng phía sau. Ngày xưa lão ta từng mắc lừa một lần vì tưởng tôi vẫn còn là “con gái”. Tôi chỉ muốn được đi học như các bạn khác, nhưng biết làm sao bây giờ. Thôi, lại chúc công việc ngày càng phát đạt vậy! Cố lên! Cố lên!”

    Nhóm của Bao Triển và cảnh sát Hồ cũng thu được một manh mối quan trọng. Ông cụ sửa giày đối diện khách sạn cho biết, khách sạn này chứa gái mại dâm. Ông thường xuyên thấy các cô gái trang điểm đậm, ăn mặc hở hang đi vào trong đó, chẳng cần nói ra nhưng ai cũng biết họ làm nghề gì.

    Rất nhiều khách sạn đều có tấm biển nhỏ ghi số điện thoại dịch vụ mát-xa ở đầu giường. Nơi nào không có thì những cô gái làng chơi cũng tìm cách nhét mấy tờ quảng cáo vào cửa.

    Cảnh sát Hồ và Bao Triển vây bắt toàn bộ số gái làng chơi trong khách sạn, và ra lệnh cho khách sạn tạm ngừng kinh doanh để chỉnh đốn.

    Ông cụ sửa giày còn tiết lộ với Bao Triển và cảnh sát Hồ một tình tiết quan trọng. Mấy tháng trước, có một người đến sửa giày và nhờ ông cụ chụp giúp anh ta một bức ảnh. Cách nói chuyện của vị khách đó giờ nghĩ lại thì hình như có liên quan đến vụ án trong khách sạn. Bao Triển gặng hỏi nhiều lần, nhưng ông cụ sửa giày vẫn không thể nào nhớ lại được hình dáng và đặc điểm của vị khách lạ đó, chỉ nhớ rằng người đó còn rất trẻ.

    Lúc đó, vì cuộc nói chuyện của ông cụ với vị khách lạ vô cùng kì cục, nên ông mới nhớ lâu như thế.

    Vị khách trẻ ngồi trên ghế, dáng ngồi rất mẫu mực. Anh ta rút điện thoại bật sang chế độ chụp hình, rồi đưa cho ông cụ, nói: “Bác! Giúp bọn cháu chụp bức ảnh chung với!”

    Ông cụ sửa giày cầm lấy chiếc điện thoại, hỏi: “Cái này dùng thế nào đấy? Tôi có biết dùng đâu!”

    Người thanh niên đáp: “Bác cứ quay lưng máy về phía cháu, rồi bấm cái nút ở giữa ấy là được mà!”

    Ông cụ làm theo hướng dẫn, nhưng lại thấy là lạ, rồi hỏi lại: “Có mỗi mình cậu à?”

    Người thanh niên tỉnh bơ, đáp: “Vâng!”

    Ông cụ cười phá lên, bảo: “Ôi giời! Có mỗi một mình mà lại bảo là chụp ảnh chung cho chúng cháu!”

    Người thanh niên trả lời: “Vâng ạ! Phía sau cháu vẫn còn một người nữa mà?”

    Sau này khi nhớ lại câu nói của vị khách trẻ, ông cụ bỗng cảm thấy dựng tóc gáy. Lúc đó rõ ràng phía sau cậu ta không hề có ai. Ông cụ cứ nghĩ cậu ta nói đùa, nên cũng chẳng để ý. Sau này, khi vụ giết người giấu xác trong tường khách sạn vỡ lở, ông cụ mới nghĩ ra khung cảnh nền của bức ảnh đó chính là căn phòng nơi xảy ra vụ án.

    Chương 3
    Nhật ký bán hoa

    Bao Triển và cảnh sát Hồ dẫn ông cụ sửa giày về đồn cảnh sát. Do thời gian đã qua khá lâu rồi, nên ông cụ không thể nào hồi tưởng lại được hình dáng của người đó, vì thế chuyên gia dựng hình cũng không có cách nào dựng lại được khuôn mặt của kẻ bị tình nghi. Ông cụ cố gắng nghĩ một hồi lâu, rồi bổ sung thêm một đặc điểm nữa. Người thanh niên đó nhìn bề ngoài rất gọn gàng trắng trẻo, nhưng hai tay anh ta lại có rất nhiều vết chai sần.

    Giáo sư Lương đặt một câu hỏi quan trọng: “Thế sau đó anh ta đi đâu bác có nhớ không?”

    Ông cụ trả lời rất nhanh, không cần suy nghĩ: “Cậu ta đi vào khách sạn đó rồi!”

    Trong tường của khách sạn có một cái xác. Hung thủ sau khi phi tang xong rất nhiều khả năng sẽ quay lại hiện trường kiểm tra. Trong biết bao nhiêu vụ án chôn xác, kẻ giết người cho rằng mình đã an toàn, nên sẽ quay trở lại hiện trường nơi phi tang. Hắn sẽ đứng trên mặt đất, trên đồng cỏ xanh, hoặc ở một góc nào đó của công viên, nơi mà chỉ hắn mới biết… Dưới chân mình có một xác người.

    Giáo sư Lương yêu cầu Bao Triển và cảnh sát Hồ ngay lập tức điều tra những người đã từng đến ở trong khách sạn này, đặc biệt là những ai ở trong căn phòng hiện trường phi tang đó.

    Những thành phần đến đăng kí ở trong khách sạn rất phức tạp, trong đó không ít khách là người ngoại tỉnh. Bao Triển và cảnh sát Hồ phải mất liên tục nhiều ngày đêm kiểm tra danh sách khách hàng, rồi sau đó nhờ phía cảnh sát đi xác nhận danh tính từng người. Những công việc điều tra như thế này rất mất thời gian và công sức, nên trong một khoảng thời gian ngắn chưa thể tìm ngay ra được kẻ tình nghi.

    Các mối quan hệ xã hội của chú Lỗ tương đối đơn giản. Họ hàng làng xóm đều không ai có thù sâu oán đậm gì. Phía cảnh sát cho rằng động cơ gây án của hung thủ là để trả thù. Như vậy, khi tìm được người có mâu thuẫn xung đột với chú Lỗ là có thể giải quyết được vấn đề mấu chốt của vụ án. Phía cảnh sát một lần nữa chú ý đến những nhân vật làng chơi. Số lượng gái bán hoa trong thành phố tương đối nhiều, công tác vây quét cũng đã thực hiện tương đối triệt để.

    Tổ chuyên án đặt việc điều tra những cô gái có tiếp xúc với chú Lỗ lên hàng đầu. Trong quá trình thẩm vấn, Mao Mao cứ ấp a ấp úng, dường như có điều gì đó khó nói.

    Sau khi được giáo sư Lương và Tô My làm công tác tư tưởng, Mao Mao mới khai rằng, mẹ cô bé cũng từng có quan hệ với chú Lỗ.

    Trong một lần khi vừa lĩnh tiền dưỡng lão, chú Lỗ đến quán mát-xa chân và yêu cầu mẹ cô bé phục vụ. Bố Mao Mao đứng ngoài canh chừng cảnh sát. Một gia đình chỉ vì tiền mà mất hết cả liêm sỉ.

    Đại đa số các cô gái đều không thích thú gì với thói quen của chú Lỗ, nhưng mẹ của Mao Mao là một trong số ít những người còn lại. Mẹ Mao Mao không chỉ là tú bà, mà còn kiêm luôn cả việc bán hoa cho khách.

    Giáo sư Lương vô cùng tức giận, cho gọi bố Mao Mao vào thẩm vấn.

    Giáo sư nghiêm giọng hỏi: “Đó là vợ và con gái đẻ của anh, mà anh nỡ để nó phải đi làm cái nghề đó sao?”

    Bố Mao Mao vẫn giảo biện: “Mát-xa có gì là xấu đâu!”

    Tô My đứng một bên tức giận quát lên: “Khốn nạn! Một đứa trẻ mới có mười tám tuổi.”

    Bao Triển cũng to tiếng: “Chỗ của con bé phải là ở trường học, chứ không phải ở tiệm cắt tóc gội đầu, mát-xa thế này. Có một người cha như ông, tôi thật sự cảm thấy đau đớn thay cho cô bé.”

    Bố Mao Mao cúi gằm mặt lải nhải: “Đi học thì được ích lợi gì? Tốt nghiệp xong rồi liệu có tìm được công việc tử tế không? Tất cả chẳng phải đều chỉ vì kiếm tiền thôi sao? Mà thôi không phải nói nhiều. Tôi đáng chết! Tôi có tội! Tôi đáng bị phạt! Bao nhiêu tiền? Tôi nộp! Được chưa?”

    Giáo sư Lương nghiêm mặt, nói: “Lần này không đơn giản như thế đâu! Việc càn quét hoạt động mại dâm không phải do chúng tôi quản lí. Mà anh cũng đừng tưởng cứ nộp tiền phạt là sẽ được thả về.”

    Họa Long tức giận đấm mạnh xuống bàn, gào vào mặt kẻ vô lương tâm: “Mày có phải là con người nữa không hả? Đúng là đồ lòng lang dạ sói! Nhìn cái gì mà nhìn! Còn nhìn nữa tao cho mày mấy quả trời giáng bây giờ!”

    Bố Mao Mao sợ sệt cúi đầu, không dám nhìn thẳng vào mặt Họa Long đang nổi giận.

    Tổ chuyên án cho rằng, trong quá trình thẩm vấn Mao Mao có phần cố ý làm nhẹ sự việc. Cô bé bán hoa này dường như đang muốn giấu điều gì đó. Tổ chuyên án tiến hành phân tích nội dung trong cuốn “Nhật kí bán hoa” của cô bé, hy vọng sẽ tìm ra được manh mối nào đó quan trọng. Trong cuốn nhật kí của mình, Mao Mao nhiều lần nhắc đến một vị khách làng chơi mà cô gọi là “Bảo Bối” và câu chuyện tình yêu giữa hai người họ.

    Cục trưởng Cục công an Hoàng Thành phân tích cái tên “Bảo Bối” nhiều khả năng là một biệt danh, cách mà những người đang yêu dùng để gọi nửa kia của mình.

    Bốn người trong tổ chuyên án quay sang nhìn nhau, Họa Long không nhịn nổi cười, thủ thỉ với Bao Triển và Tô My: “Nói thế thì thà không nói còn hơn!”

    Cục trưởng tiếp tục phân tích: “Bước tiếp theo, chúng ta cần thẩm vấn Mao Mao sâu hơn nữa, nhất định phải bắt cô ta mở miệng.”

    Tổ chuyên án yêu cầu Mao Mao giải thích về người có tên “Bảo Bối” được nhắc tới trong cuốn nhật kí của mình. Mao Mao có phần hốt hoảng. Cô bé cắn môi chảy máu cũng không chịu khai người đó là ai. Xem ra, cô bé này vô cùng lo sợ người trong mộng của mình bị cảnh sát bắt. Cô nguyện dùng cái chết để bảo vệ tình yêu của mình.

    Cuốn “Nhật kí bán hoa” được đặt trên bàn của Cục trưởng Cục công an Hoàng Thành, bên cạnh còn đặt một bản thảo cho bài phát biểu của Cục trưởng do thư kí của ông chuẩn bị sẵn. Công tác loại bỏ hoạt động mại dâm được người dân trong thành phố vô cùng hưởng ứng, Chủ tịch Thành phố sẽ tuyên dương và khen thưởng tổ công tác trong hội nghị tổng kết công tác xử lí tệ nạn xã hội lần này.

    Bài phát biểu của Cục trưởng được in trên giấy A4, từng câu từng chữ mượt mà, trôi chảy. Trong mỗi dấu ngoặc đơn còn có phần ghi chú đặc biệt mà thư kí viết cho cục trưởng.

    Trong cuốn “nhật kí bán hoa” có rất nhiều chữ viết sai chính tả, cuốn sổ đã vô cùng cũ kĩ, nhưng mỗi một trang đều chứa đựng rất nhiều kí ức và dấu ấn trong cuộc đời của Mao Mao.

    Sau đây là một phần trích từ bài phát biểu của Cục trưởng.

    “Thưa các đồng chí! Hôm nay thành phố Hoàng Thành tổ chức hội nghị tổng kết công tác xử lí tệ nạn xã hội toàn thành phố. Tôi cho rằng đây là một việc làm vô cùng quan trọng. Việc triển khai công tác quét sạch các ổ nhóm mại dâm có ý nghĩa chỉ đạo rất lớn đối với thành phố chúng ta.

    Sau đây, tôi đề nghị chúng ta dùng một tràng pháo tay thật lớn để cảm ơn sự ủng hộ từ các cấp lãnh đạo của Ủy ban Nhân dân và Hội đồng Nhân dân Thành phố.

    Về những lời vừa rồi của Chủ tịch Vương, tôi thấy rằng đó là những điều rất tuyệt vời và đáng ghi nhớ, giống như chúng ta vừa được học một tiết học có ý nghĩa sâu sắc. Hy vọng các đồng chí đang ngồi tại đây sẽ suy nghĩ sâu hơn nữa, để hiểu về những gì Chủ tịch Vương vừa chỉ dạy chúng ta. Sau khi trở về, mọi người nên truyền đạt lại những tinh thần mà Chủ tịch Vương vừa nói, và thực hiện một cách nghiêm chỉnh, để công tác quét sạch hoạt động mại dâm trong thành phố được đi sâu, đi rộng hơn nữa, cố gắng tạo dựng một thành phố văn minh hơn.”

    Cuốn “Nhật kí bán hoa” của Mao Mao, sau khi sửa lại những chỗ sai chính tả, tóm tắt lại như sau:

    “Tôi vẫn còn nhớ như in, ngày Bảo Bối đẩy cửa bước vào tiệm là một ngày mưa gió. Và cũng từ đó, tôi đã trở nên yêu những ngày mưa một cách lạ kì.

    Tôi và Bảo Bối đã quen nhau được gần ba tháng. Anh vì tôi mà tiêu tốn không biết bao nhiêu bạc tiền. Tình yêu đích thực là hóa thân của Thiên sứ, còn chướng duyên chẳng qua là trò đùa của ma quỷ. Tôi và Bảo Bối rốt cục là tình yêu, hay là chướng duyên đây?

    Hôm nay là một ngày mệt mỏi. Cánh công nhân nhận lương xong kéo đến ùn ùn. Thực sự tôi không hiểu mình đang sống vì cái gì? Chẳng lẽ là vì mấy đồng tiền sao? Cuộc sống như thế này có đáng để sống không?

    Đời người thực sự là bể khổ sao? Hay chỉ có những đứa trẻ là phải chịu như thế?

    Bảo Bối! Anh vẫn luôn hùng hồn nói với em rằng mọi thứ với anh đều không quan trọng. Bây giờ vì điều đó mà chúng ta cãi vã đến mức này, thực sự là một điều đáng buồn. Người con gái hoàn hảo trong mắt anh có phải là người có thể hằng ngày cùng anh đi dạo? Thường xuyên cùng anh xem phim? Em không phải là người ấy. Anh chỉ luôn nghĩ cho mình mà không nghĩ vì em. Em chỉ mong anh hiểu em mà thôi. Có sự động viên của anh, em như có thêm sức mạnh! Bây giờ em đang dần vì anh mà thay đổi. Em mong tình yêu của chúng mình sẽ vượt qua được mọi thử thách!

    Cho dù trong bất kì hoàn cảnh nào tôi cũng luôn tin tưởng anh ấy. Tôi tin Bảo Bối của tôi yêu tôi chân thành. Anh sẽ vì tôi mà gánh đỡ trách nhiệm. Hôm ấy, anh nói với tôi: “Chúng ta cùng nhau tiết kiệm tiền để tính chuyện tương lai em nhé?” Đó là một ý tưởng tuyệt vời. Và tôi phải cố gắng hơn nữa!

    Bảo Bối không biết rằng tôi là một cô bé rất tự ti. Tôi chẳng phải đứa con gái tốt đẹp gì, tất cả mọi người đều nhìn tôi bằng ánh mắt khinh miệt.

    Tôi bảo anh đừng đến nữa. Đừng vung tiền vào những nơi như thế này, vì như thế không đáng, nhưng anh không nghe, cứ vài ba hôm lại tìm đến tôi.



    Nghe nói từ nhỏ tôi chưa được ăn Pizza bao giờ, Bảo Bối hôm nay chạy đến Pizza Hut mua cho riêng tôi một cái thật lớn, tôi cảm động vô cùng. Hai chị họ dặn tôi nên cẩn thận. Những người làm cái nghề như chúng tôi không được phép có tình yêu đâu! Chẳng lẽ đó là sự thật hay sao?

    Chị bảo: “Tìm mối tình đầu trên thân kĩ nữ, thật đáng buồn cười!”

    Bảo Bối, anh có biết không? Anh là mối tình đầu của em. Cả cuộc đời này em chỉ muốn cùng anh sống cuộc sống bình thường như bao người khác, dù cho có phải đi đến cuối biển cùng trời.

    Đôi lúc, em vẫn thường nghĩ, những cô gái khác được đến trường, vì sao số phận của em lại không được như họ? Nếu cuộc sống không như bây giờ, chắc Bảo Bối đã có thể bên em cười nói suốt ngày! Ai ya! Thôi đừng mơ mộng nữa! Còn quá nhiều những việc khiến em phải đau đầu phiền não. Thôi thì em sẽ lại cố gắng kiếm tiền vậy! Mẹ đã hứa, chỉ cần hai năm nữa, em sẽ được về nhà.

    Cố lên! Cố lên! Em tin rằng số phận nhất định sẽ không quay lại đùa giỡn với em một lần nữa. Vì giấc mơ tương lai, em phải vững tin bước tiếp! Go! Go!



    Hôm nay nguy hiểm quá, xém chút nữa là bị tóm rồi! Nghe thấy ám hiệu của bảo kê, em đẩy khách qua lối cửa sau bỏ chạy! Thôi vậy! Người còn vẹn nguyên là tốt rồi! Dạo này cảnh sát làm gắt gao, ở đây cũng bị quản chặt hơn, mấy cửa tiệm xung quanh đã dừng hoạt động từ mấy hôm trước rồi, chỉ nhà em là còn cố mãi đến bây giờ.

    Bảo Bối à! Tự nhiên em thấy mình thật là đê tiện. Rõ ràng có một người yêu em, thương em, sẵn sàng làm mọi thứ vì em, ấy thế mà tại sao em vẫn sống cuộc sống như thế này? Em tự cảm thấy mình thật mất mặt? Anh càng đối xử tốt với em, cảm giác tội lỗi trong em lại càng thêm nặng.



    Gần đây công việc không được thuận lợi cho lắm! Cả ngày hôm nay chỉ có hai khách, tổng cộng được tám mươi tệ. Bố mẹ ngồi than vãn, còn em thì mở cờ trong bụng. Hôm nay, người khách thứ hai còn chưa về, Bảo Bối đã đến. Tại lão dê già ấy đến mà Bảo Bối của em nổi máu ghen, rồi quay lưng bỏ về, sau đó còn gửi tin nhắn trách móc. Thế là hai đứa cãi nhau.

    “Lúc ăn cơm cũng nhớ em! Xem ti vi cũng nhớ em! Trời mưa cũng nhớ em! Đi đường một mình cũng nhớ em!”

    Tin nhắn này em sẽ luôn lưu trong điện thoại. Đó là tin anh gửi đến lúc trưa nay. Chiều nay mưa lại rơi, em ngồi ngẩn ngơ nhìn ra ngoài trời. Em tin anh. Em tin đến khi chúng ta có đủ tiền, em sẽ bỏ nghề, em phải là cô dâu của anh, em phải thành vợ anh trong một chiều mưa lãng mạn.”

    Thật nực cười khi chúng ta mang đặt một bài phát biểu kiểu Nhà nước và Chính phủ bên cạnh nhật kí của một cô bé bán hoa. Nhưng hỡi ôi, bài phát biểu kia chứa đựng những gì ngoài mấy lời sáo rỗng? Còn những dòng nhật kí của một cô bé thất học lại chan chứa tình yêu và sự chân thành đến vậy.

    Bốn người trong tổ chuyên án không tham gia hội nghị tổng kết lần này, họ còn phải toàn tâm toàn ý, chăm chút tìm kiếm những điểm nghi vấn ở đây, rồi triển khai việc điều tra kĩ càng hơn. Đã ba ngày ba đêm Bao Triển không được chợp mắt, tinh thần và sức chịu đựng của anh khiến các cảnh sát Hoàng Thành đều vô cùng cảm phục. Mọi người đều tận tâm tận lực, bỏ hết thời gian nghỉ lễ, chuyển đến ăn ở tại Cục công an, đi điều tra cả mấy trăm người, cuối cùng cũng có được những bước tiến quan trọng. Bao Triển cuối cùng đã tìm thấy người nhờ ông cụ sửa giày chụp ảnh. Vài tháng trước đây, người đó vào thuê phòng tại khách sạn Hoàng Thành, và ngủ lại một đêm ngay chính tại căn phòng “giấu xác”.

    Chương 4
    Hung thủ

    Chi đội trưởng cảm thấy cái tên này rất quen. Người từng ngủ lại một đêm tại phòng “giấu xác” không ai khác mà chính là bạn của anh – Nhà điêu khắc!

    Người này bị tình nghi hàng đầu về hành vi gây án. Việc chụp ảnh chứng tỏ anh ta hoàn toàn biết bên trong bức tường có giấu xác người, thậm chí còn cố ý ở lại căn phòng đó một đêm. Trong đêm hôm đó, anh ta đã làm gì? Liệu có phải cả đêm ngồi đó nhìn chằm chằm vào bức tường, hoặc lấy tay gõ gõ vào tường rồi nói chuyện cùng “người trong tường” cho vui?

    Trong bộ môn tâm lý phạm tội, những tên biến thái thường có một đặc điểm chung, đó là giết người chỉ là một sự bắt đầu, chứ không phải kết thúc.

    Hung thủ sẽ thường xuyên nhớ lại quá trình gây án. Đối với những kẻ thần kinh biến thái đó, giết người giống như là một bộ môn nghệ thuật.

    Tên “sát nhân dã thú Serhiy Tkach[1]” từng gây hàng trăm vụ giết người, thậm chí còn tham gia cả lễ tang của nạn nhân. Hắn ta giống như đang đến tham gia một bữa tiệc âm nhạc lớn vậy, thật trang nghiêm, thật đĩnh đạc, lẳng lặng quan sát “thành quả” của mình mà không hề rơi một giọt lệ.

    Khi Họa Long và Chi đội trưởng nhận được lệnh truy bắt, nhà điêu khắc đã đưa vợ và con cao chạy xa bay. Trước khi đi, hắn còn nói với hàng xóm rằng gia đình mình đi ngoại ô nghỉ mát, và còn mang theo toàn bộ những giải thưởng mình có. Ngay ngày hôm sau, bức ảnh một tác phẩm điêu khắc đã được đăng trên trang báo của tỉnh. Tác phẩm đó chính là bức tượng khắc bê tông có xác chết. Có lẽ hôm đó, nhân lúc phía cảnh sát lơ là, hắn đã dùng điện thoại chụp lại được xác nạn nhân. Tô My liên lạc với biên tập viên của tờ báo. Phía biên tập tờ báo không hề biết bên trong “bức tượng điêu khắc” có một xác người. Họ chỉ biết nhà điêu khắc này là nhân vật có tiếng trong tỉnh, nên đã đồng ý đăng bức hình điêu khắc đó. Ông ta nói, đây là tác phẩm đẹp nhất của mình, có thể làm rúng động cả thế giới!

    Hôm đó, tất cả số báo đã được bán hết sạch, tiếng của nhà điêu khắc bị tình nghi giết người cũng lan như sấm chớp. Chỉ trong một đêm, anh ta đã trở thành nhân vật tiêu điểm. Bức ảnh về bức tượng bê tông chứa xác người là chủ đề sôi nổi nhất tại các bàn trà, quán rượu. Phóng viên khắp nơi đổ về Hoàng Thành, khách sạn nơi xảy ra vụ án ngày nào cũng có phóng viên đến chụp ảnh đăng tin. Ông cụ sửa giày phải trả lời cả trăm lượt phỏng vấn. Cục trưởng Cục công an Hoàng Thành dưới áp lực dư luận không thể không mở cuộc họp báo.

    Trước hôm diễn ra cuộc họp báo, các bên đăng tin đều đã chuẩn bị các loại thiết bị chuyên nghiệp nhất để đón chờ, nhưng họ chờ mãi, chờ mãi, vẫn không thấy ai của Cục cảnh sát đến.

    Cục trưởng Cục công an Hoàng Thành, Chi đội trưởng, cảnh sát Hồ và tổ chuyên án xảy ra bất đồng ý kiến.

    Cục trưởng cho rằng nên lợi dụng sức mạnh truyền thông, gửi đi lệnh truy nã mức độ B, để tiến hành vây bắt nhà điêu khắc trên phạm vi cả nước.

    Cảnh sát Hồ lại cho rằng nên hủy buổi họp báo. Trước khi bắt được hung thủ, không nên để tiết lộ quá nhiều thông tin liên quan.

    Chi đội trưởng là bạn của nhà điêu khắc, rất hiểu các mối quan hệ xã hội của anh ta. Anh có ý muốn tự mình dẫn một đội truy bắt tìm ra ngoại thành để điều tra tung tích của nghi phạm, như thế cơ hội bắt sống hoặc dụ được nghi phạm ra là rất cao.

    Mỗi người một ý kiến, không ai muốn thay đổi. Tổ chuyên án không ai lên tiếng. Bao Triển ngáp ngắn ngáp dài. Đã mấy ngày nay anh chưa được ngủ. Tô My và Họa Long đều có phần mất tập trung. Giáo sư Lương nhìn vào tập hồ sơ vụ án, hình như đang suy nghĩ gì.

    Phía cảnh sát hỏi ý kiến của tổ chuyên án. Giáo sư Lương lên tiếng một cách quyết đoán: “Nhà điêu khắc đó không phải là hung thủ.”

    Kết luận của giáo sư Lương như một quả bom làm nổ tan hết mọi công sức của phía cảnh sát. Các cảnh sát đã cố gắng rất nhiều ngày mới tìm được một nghi phạm, nay lại bị một câu nói của tổ chuyên án phủ nhận tất cả.

    Cục trưởng lên tiếng hỏi: “Nếu không phải là hung thủ, làm sao hắn biết được trong bức tường có người chết?”

    Giáo sư Lương giải thích: “Chỉ có một khả năng duy nhất… Anh ta là người chứng kiến sự việc.”

    Cảnh sát Hồ cũng hỏi thêm: “Nhà điêu khắc này là một nghi phạm, hơn nữa hiện giờ mọi bằng chứng đều đang chỉ về phía anh ta, các nhà báo cũng cho rằng anh ta chính là kẻ đã giết chú Lỗ. Nếu anh ta chỉ là một người chứng kiến vô tội, thì tại sao lại phải bỏ chạy? Còn lừa gạt biên tập báo, đăng ảnh bức tượng bê tông. Mọi thứ rõ ràng như thế, tôi nghĩ đây chính là hành động điên cuồng của kẻ giết người khi biết mình đã hết đường thoát.”

    Tô My nói: “Nhà điêu khắc coi xác người trong tường là một tác phẩm nghệ thuật.”

    Họa Long chen vào: “Lúc đó, Chi đội trưởng gọi nhà điêu khắc đến giúp đỡ đó là một nhân tố ngẫu nhiên. Nếu anh ta đúng là hung thủ giấu xác trong tường, sau thời gian hơn nửa năm, cảnh sát lại tìm ta đến để dỡ bỏ lớp bê tông bên ngoài ra, thì thực sự là trùng hợp quá mức.”

    Giáo sư Lương lên tiếng: “Tại sao anh ta lại chụp trộm cái xác? Rồi lại cho công khai đăng trên báo chí nữa? Câu trả lời là: Anh ta muốn trở nên nổi tiếng.”

    Bao Triển hỏi: “Còn một điều quan trọng nữa, chiếc nhẫn trên tay chú Lỗ là ở đâu ra? Chúng ta còn chưa làm rõ vấn đề này.”

    Chi đội trưởng lật qua lật lại hồ sơ vụ án, rồi nói: “Đó là chiếc nhẫn của con dâu chú Lỗ, còn cụ thể nguyên nhân thì không rõ.”

    Giáo sư Lương cũng lật xem hồ sơ rồi bỗng nói chắc nịch: “Rõ rồi! Đi thôi, chúng ta đi ra chỗ cuộc họp báo đã.”

    Cục trưởng không hiểu có chuyện gì xảy ra vội hỏi: “Rõ cái gì hả?”

    Giáo sư Lương đáp: “Tôi biết hung thủ là ai rồi.”

    Cục trưởng nói vẻ đầy thách thức: “Thôi được, tổ chuyên án của các anh cứ đi mà họp báo, chúng tôi không tham gia, tội vạ đâu các anh tự chịu.”

    Trong buổi họp báo, tổ chuyên án cho mọi người học một tiết học trinh thám suy luận vô cùng đặc sắc. Tô My dùng máy chiếu trình chiếu hết hình ảnh những chứng cứ mà cảnh sát hiện đang có, và có kèm phần giải thích cụ thể. Bao Triển chỉ cho mọi người biết những điểm mấu chốt trong đó, ví dụ như: Trong phân có nấm kim châm, mũi tên hung thủ để lại, chiếc nhẫn trên tay nạn nhân, v.v…

    Giáo sư Lương hỏi mọi người: “Trong phân của nạn nhân vì sao lại có nấm kim châm?”

    Một kí giả bật cười trả lời: “Thì tại ông ta ăn vào chứ sao!”

    Giáo sư Lương nói tiếp: “Đúng như thế! Đây chính là hướng suy luận đơn giản nhất.”

    Một nhà địa chất học không nhất thiết phải nhìn thấy thác nước Takakkaw[2] mà chỉ từ một giọt nước cũng có thể phán đoán rằng trên đời có thể đang tồn tại một thác nước như thế. Dùng một đồng tiền xu có thể tính toán được khoảng cách trung bình từ trái đất đến mặt trăng. Giả thuyết của Goldbach[3] và “thuyết nhật tâm[4]” của Cô-péc-ních[5] cũng chính là dựa vào việc suy luận mà có. Mặc dù kết quả từ việc suy luận không nhất định chính xác, nhưng đó là con đường quan trọng giúp chúng ta tìm ra chân lí.

    Trong quá trình trinh thám điều tra, suy luận là một phương thức phá án không thể thiếu.

    Việc suy luận được xây dựng thông qua phân tích các đầu mối và các nhân chứng vật chứng, rồi đưa ra kết luận. Vụ án cháy nổ ở Công ty Edison là một trong những vụ án suy luận tiêu biểu trên thế giới. Tiến sĩ, nhà tâm lí học tội phạm Brussels chỉ bằng một bức thư nặc danh của hung thủ, mà có thể đoán được giới tính, lứa tuổi, nơi ở của kẻ tội phạm, thậm chí còn biết kẻ đó mắc bệnh gì nữa. Cuối cùng, đã giúp ích rất nhiều cho cảnh sát trong việc bắt giữ hung thủ.

    Giáo sư Lương đưa chiếc nhẫn của chú Lỗ ra để mọi người quan sát. Các nhà báo thi nhau chụp hình. Giáo sư Lương hỏi: “Ai có thể cho tôi biết, ông ta ăn trộm chiếc nhẫn của con dâu để làm gì?”

    Một nhà báo lên tiếng: “Có thể ông ta hết tiền, nên lấy trộm đi bán chăng?”

    Một nhà báo khác nói: “Cũng có thể ông ta lấy để làm quà cho ai đó.”

    Giáo sư Lương trả lời: “Không sai! Cả hai trường hợp trên đều có khả năng xảy ra. Chúng ta phải loại trừ đi một phương án. Đầu tiên, tôi có thể chắc chắn rằng, thời gian tử vong của nạn nhân là vào khoảng mười giờ tối…”

    Chi đội trưởng lắc đầu phản đối: “Thi thể bị chôn giữa tảng bê tông lâu ngày, đến bác sĩ pháp y còn không thể phán đoán được thời gian tử vong, giáo sư dựa vào bằng chứng nào để có kết luận như thế?”

    Giáo sư Lương giải thích tiếp: “Các loại thức ăn khác nhau, thời gian tiêu hóa cũng khác nhau. Nấm kim châm thông thường sẽ bị phân giải sau hai giờ đồng hồ. Từ hình dạng của nấm kim châm tìm thấy được, có thể thấy hệ tiêu hóa của nạn nhân không được tốt. Hung thủ không thể nào nhét xác nạn nhân vào trụ cột thép lúc trời còn sáng vì trên công trường có rất nhiều người. Nên chỉ còn một khả năng, đó là nạn nhân bị hại lúc trời tối. Khi cộng thời gian ăn tối mùa hè, với thời gian tiêu hóa thức ăn, chúng ta có thể phần nào đoán được thời gian nạn nhân tử vong. Hơn thế nữa, khoảng thời gian nạn nhân thường đi tìm các cô gái trong tiệm cắt tóc gội đầu trá hình cũng đều vào khoảng mười giờ tối.”

    Một nhà báo hỏi tiếp: “Thế tại sao nạn nhân lại ăn trộm chiếc nhẫn?”

    Giáo sư Lương trả lời: “Vào khoảng mười giờ tối, các cửa hàng vàng bạc đều đã đóng cửa cả rồi, nên có thể loại trừ khả năng chú Lỗ đi đổi chiếc nhẫn lấy tiền. Như vậy, thì còn một khả năng nữa, đó là chiếc nhẫn được dùng làm quà, tặng sinh nhật cho một kĩ nữ.”

    Giáo sư Lương sử dụng phương pháp suy luận mắt xích trong phá án. Sau khi chứng minh xong một giả thiết, sẽ sử dụng kết quả đó làm tiền đề suy luận cho giả thiết tiếp theo. Cứ như thế từng bước từng bước suy luận vấn đề cho tới khi có được kết luận cuối cùng.

    Các sự việc về sau đã chứng tỏ rằng suy luận của giáo sư Lương là hoàn toàn chính xác. Chiếc nhẫn đó chú Lỗ muốn mang làm quà sinh nhật cho Mao Mao. Hôm sinh nhật tròn mười tám tuổi của Mao Mao, chú Lỗ lấy trộm chiếc nhẫn của con dâu mình định mang tặng cho cô bé vui lòng. Sau này Mao Mao khai với phía cảnh sát về việc này như sau:

    Chú Lỗ hỏi Mao Mao: “Cháu có biết chú không rửa mặt bao lâu rồi không?”

    Mao Mao trả lời cộc lốc : “Hai tuần?”

    Chú Lỗ: “Sai rồi!”

    Mao Mao: “Hai tháng?”

    Chú Lỗ lắc đầu, nói: “Cho đoán lại!”

    Mao Mao thấy thật vô vị, chẳng buồn đoán nữa. Chú Lỗ cười híp mắt nói: “Lần rửa mặt trước là vào lần tắm trước, là từ hồi tết rồi. Hôm nay chú rửa mặt rồi, còn lau người sạch sẽ nữa. Chú trả tiền rồi, hôm nay sinh nhật cháu, chú phải đưa cháu ra ngoài đi chơi chứ. À, đây, chú còn mua cho cháu cả cái nhẫn nữa này, xem xem, đẹp không?…”

    Chú Lỗ đeo chiếc nhẫn vào ngón giữa cho Mao Mao.

    Mao Mao bĩu môi, nói: “Cháu không cần, ai mà biết là đồ thật hay đồ giả.”

    Một nhà báo nữ lên tiếng nói: “Chú Lỗ này cũng lãng mạn đấy chứ.”

    Lúc này, các nhà báo bắt đầu chuyển sang vấn đề về nhà điêu khắc. Giáo sư Lương không muốn nói vấn đề này, ra hiệu cho Bao Triển và Họa Long lên tiếng nói sang vấn đề khác.

    Bao Triển nói: “Hung thủ có ba người, hoặc trên ba người!”

    Một nhà báo đã có tuổi hỏi: “Làm sao các anh biết hung thủ có ba người? Cũng là bằng cách suy luận sao?”

    Bao Triển không trả lời, Họa Long đưa mũi tên ra, các nhà báo lại bắt đầu chụp ảnh. Họa Long nói: “Hung thủ có trong tay loại mũi tên này.”

    Các nhà báo như bắt được vàng, vội tranh nhau hỏi thông tin về ba hung thủ, nhưng bốn người trong tổ chuyên án đều không tiết lộ thêm điều gì nữa.

    Khi buổi họp báo kết thúc, giáo sư Lương nói với các nhà báo: “Chúng tôi muốn mượn sức ảnh hưởng của giới truyền thông, khuyên hung thủ nên ra đầu thú. Đây là mong muốn lớn nhất của chúng tôi. Chúng tôi chỉ có thể đợi trong vòng bảy ngày. Sau thời gian đó, nếu hung thủ vẫn không ra đầu thú, thì chúng tôi sẽ tiến hành vây bắt. Cho dù kẻ đó có chạy đến cùng trời cuối biển, cũng chỉ trốn được trong thời gian ngắn. Kẻ đó sẽ phải mang trên mình bản án truy nã, đêm ngủ không yên cho tới khi chúng tôi bắt được kẻ đó về quy án. Trên thực tế chúng tôi đã có những thông tin chi tiết về hung thủ, tiếp theo đây, chúng tôi sẽ đợi hung thủ tự ra đầu thú, cho hung thủ một cơ hội để được hưởng khoan hồng.”

    Chương 5
    Đêm mưa

    Trên người nạn nhân chú Lỗ có ba vết thương chí mạng: Đỉnh đầu bị vật tù đập vào, trước ngực có vật sắc đâm vào, và một mũi tên xuyên từ trực tràng lên đến khoang bụng.

    Khả năng một hung thủ mang theo ba thứ hung khí giết người là rất ít, vì thế có thể dễ dàng phán đoán được rằng hung thủ gồm có ba người.

    Tổ chuyên án lợi dụng báo giới để tiết lộ kết luận “hung thủ có ba người”, đây là một kế sách sáng suốt.

    Sau khi lập giả thiết, bây giờ đến việc kiểm chứng giả thiết đó. Cho dù việc đưa ra giả thiết là đúng hay sai thì điều đó cũng giúp việc phá án có được bước đột phá quan trọng. Nếu điều giả thiết là đúng, thì người thân, bạn bè, hàng xóm của hung thủ có thể thông qua những vật chứng mà phía cảnh sát cung cấp, để nhận ra hung thủ, phía cảnh sát sẽ có được những đầu mối quan trọng trong việc phá án. Nếu giả thiết là sai, thì người chứng kiến sự việc, chính là nhà điêu khắc kia, có thể sẽ bị áp lực mà nói hết sự thật với phía cảnh sát. Tổ chuyên án khẳng định rằng hung thủ có ba người, nhà điêu khắc đi ra ngoại ô mang theo cả vợ và con gái, anh ta sẽ rất dễ cho rằng phía cảnh sát đang nghi ngờ cả gia đình mình là hung thủ. Để tránh bị truy nã, rửa sạch oan cho cả gia đình, người đàn ông thích nổi tiếng kia sẽ phải chủ động liên lạc với phía cảnh sát.

    Chiêu một mũi tên trúng hai đích này của giáo sư Lương vừa có thể dùng giới truyền thông để ép nhà điêu khắc lên tiếng, vừa có thể khiến hung thủ thực sự suy nghĩ về hoàn cảnh hiện tại của mình. Cho dù những suy đoán trên là đúng hay sai, phía cảnh sát vẫn có thể có được những đầu mối mới về hung thủ.

    Ngay ngày hôm sau, một vị lãnh đạo trong cục thể dục thể thao đưa con trai mình đến tự thú.

    Sang ngày thứ hai, thêm thiếu niên mười tám tuổi nữa cũng được phụ huynh đưa đến thú tội.

    Vài ngày sau, nhà điêu khắc xuất hiện trước cửa phòng công an tỉnh. Sau một hồi do dự, nhà điêu khắc dùng chân dập tắt điếu thuốc đang hút dở, bước vào bên trong.

    Sau khi phá xong vụ án, mọi người mới biết được dụng ý sâu xa và lòng nhân từ của giáo sư Lương. Ba hung thủ giết người đều còn ở tuổi vị thành niên. Việc ra đầu thú có thể giúp chúng có cơ hội được hưởng khoan hồng của pháp luật. Sau thời gian giáo dục cải tạo, chúng vẫn có thể trở về hòa nhập lại với xã hội.

    Những giọt nước mắt của chúng ta lẽ ra nên rơi kể từ trận mưa rào đầu tiên.

    Trong kí ức của mỗi người chúng ta đều có một ngày mưa như vậy. Một trận mưa lớn nhất trong đời, mãi mãi không quên.

    Mỗi người đều từng đi ngang qua những quán gội đầu cắt tóc như vậy. Những người ngồi trong đó, và cả những cô gái đứng ở ven đường vẫy khách kia cũng chỉ là vì cuộc sống. Họ nở nụ cười không phải vì vui vẻ, mà chỉ là để che giấu đi sự chua chát trong lòng. Rất nhiều câu chuyện về những cô gái làng chơi đáng thương hơn là đáng trách. Số phận của Mao Mao cũng vậy.

    Mao Mao cũng là một cô gái bán hoa.

    Cô thích những ngày mưa, nó khiến cho không khí có một vẻ bi thương lạ kì và vô cớ. Mỗi khi trời mưa, khách đến tìm cô cũng ít, và cô có thể được yên tĩnh một hồi. Khi ngoài đường không còn ai đi lại, cô giống như một cái cây trồng trong phòng kín, chỉ biết nhìn ra cơn mưa bên ngoài. Đường phố vắng, cô đơn, cũng giống như nội tâm nàng thiếu nữ. Chỉ có những giọt mưa không ngừng rơi xuống, giúp cô thả hồn theo nước trôi đi. Có rất nhiều câu hỏi cô không tìm nổi câu trả lời, chỉ cảm thấy mê man và u uất, giống như những gì cô viết trong cuốn nhật kí của mình: “Đời người thực sự là bể khổ sao? Hay chỉ có những đứa trẻ là phải chịu như thế?”

    Lẽ ra ở tuổi này, cô đang phải bù đầu với bài tập, nhưng giờ lại phải ngồi đây suy nghĩ về nỗi khổ của đời kĩ nữ. Một cô bé mới mười tám tuổi, một cô bé đáng thương.

    Nếu một người con gái quá khổ cực, nước mắt chảy quá nhiều thì thượng đế từ bi sẽ ban cho cô một người trong mộng, để cô không còn cảm thấy cô đơn.

    Đêm đó trời mưa tầm tã, Mao Mao đứng trước cửa tiệm ngây ngô không biết nghĩ gì. Một cậu bé đẹp trai đeo ba lô bước vào. Nước mưa làm ướt mái tóc phía trước của cậu. Cậu cảm thấy hơi lạnh, nhưng trên mặt vẫn nở nụ cười rạng rỡ đến mê hồn. Mao Mao nhìn cậu, ra ngoài khóa cửa, rồi dẫn cậu vào trong.

    Một thiếu nữ luôn thích những thiếu niên anh tú.

    Một kĩ nữ cũng luôn thích những khách làng chơi ưa nhìn.

    Cậu bé là một học sinh, tuổi đời cũng tầm Mao Mao. Cậu ngồi trên giường, vẻ mặt bình tĩnh, dường như không hề có chút căng thẳng nào.

    Mao Mao có chút cảm tình với vị khách trước mặt, nên nói năng cũng có phần e thẹn: “Bóp vai năm mươi tệ, đấm lưng một trăm tệ.”

    Cậu bé có phần ngạc nhiên, hỏi: “Cái gì mà đấm lưng, bóp vai cơ?”

    Mao Mao hơi ngượng ngùng: “Sao cậu lại hỏi thế, biết rồi còn cứ hỏi.”

    Cậu bé thấy lạ lùng, nói: “Ơ, tớ không hiểu thật mà!”

    Mao Mao bực mình hỏi: “Thế cậu vào đây làm gì? Cậu đến đây lần đầu tiên đúng không?”

    Cậu bé vội giải thích: “Tớ chỉ vào đây trú mưa thôi, bên ngoài mưa to quá.”

    Mao Mao hơi giận dữ, bảo: “Cậu nhanh nhanh lên đi đừng lãng phí thời gian nữa. Chỗ chúng tôi có phải chỗ trú mưa đâu. Trả tiền trước đi!”

    Cậu bé lấy ra tờ một trăm tệ nói: “Tớ không bóp vai, cũng không đấm lưng gì cả, chúng ta ngồi nói chuyện thế này thôi được không?”

    Mao Mao cầm lấy tiền. Đây là lần đầu tiên cô bé gặp một vị khách làng chơi lại không cần phục vụ. Hai người ngồi đó, Mao Mao không biết nên nói gì, đành giữ im lặng. Cả hai có vẻ ngượng ngùng, bên ngoài tiếng sấm vẫn vang rền, mưa càng rơi càng nặng hạt.

    Cậu bé rút điện thoại, mở một bài hát. Cả hai chỉ ngồi yên lặng lắng nghe. Về sau, mỗi khi trời mưa, Mao Mao vẫn thường ngâm nga bài hát đầy kỉ niệm này.

    “Câu chuyện dù đẹp rồi cũng có hồi kết

    Em ra đi là hồi kết của tôi

    Nhìn bóng em xa dần rồi xa mãi

    Như số kiếp này trời đã định vậy thôi!

    Nhưng em ơi, tôi muốn nói bao lời

    Rằng tôi nhớ, rằng nhớ em nhiều lắm!

    Em trong đời tôi là thiên thần trái đắng

    Trọn kiếp này cũng chẳng thể lãng quên.

    Cho dù mưa không ngừng trút trong đêm

    Cho dù em bỏ tôi trong giấc mộng.

    Thì em ơi, tôi vẫn luôn khát vọng

    Giấc mộng này, là giấc mộng thiên thu.



    Mưa tạnh, cậu bé ra về, bóng cậu khuất dần trong đêm thanh vắng.

    Đây là câu chuyện truyền thuyết lãng mạng chỉ dành cho nàng kĩ nữ. Vào một ngày, trời bỗng đổ mưa, một chàng trai tuấn tú bước tới trước mặt cô bé. Không phải khách làng chơi, không làm bất cứ điều gì, họ chỉ ngồi đó, nói chuyện, những câu hỏi và những câu trả lời bâng quơ. Ánh mắt họ không dám nhìn thẳng vào nhau, họ ngồi cùng nghe nhạc, tiếng nhạc lẫn trong tiếng mưa thì thào.

    Mao Mao cảm thấy cậu bé này không giống những người khác. Nhưng chị họ nhắc cô bé phải cẩn thận, rất có thể đó là một tên công tử bột giả nai.

    Mao Mao lại có thêm niềm hy vọng mới. Mỗi khi đứng ngoài cửa chào khách, ngoài việc vẫy tay mời chào, giờ đây cô còn mong được gặp lại chàng trai kia một lần nữa.

    Vài hôm sau, chàng trai lại đi ngang qua cửa tiệm. Mao Mao nhìn trộm cậu một cái rồi lập tức cúi người nấp sau cánh cửa. Trái tim cô thiếu nữ đập liên hồi, mặt bỗng dưng ửng đỏ, đến hơi thở cũng thấy không còn bình thường nữa. Chàng trai liếc mắt nhìn vào trong tiệm mát-xa chân, nhưng phải đợi cậu đi khuất, Mao Mao mới dám đứng dậy nhìn theo.

    Cô bé vui mừng khoe với người chị họ: “Em nhìn thấy cậu ấy rồi! Nhìn rõ mồn một. Cậu ấy trông thật đẹp trai. Hi hi!”

    Nhưng rồi cô lại lập tức buồn rầu nói: “Nhưng cậu ấy không vào đây. Em… Em cũng mong cậu ấy vĩnh viễn đừng bao giờ tới nơi này. Chỗ của chúng ta không phải là nơi để cậu ấy đến. Nhưng… Nhưng em vẫn muốn được gặp cậu ấy lần nữa. Không biết bao giờ mới tới lúc ấy nhỉ? Ai ya, cậu ấy lẽ ra không nên xuất hiện thì hơn.”

    Kể từ đó mỗi lần bâng khuâng nhìn về một nơi xa xăm, cô bé lại mường tượng ra một khu vườn, nơi mọc đầy những khóm hoa mà chỉ cô mới có thể nhìn thấy, ngửi thấy. Trong tim mỗi nàng thiếu nữ đều có một vườn hoa đầy sắc màu như vậy.

    Mưa, được làm từ hai thành phần không thể tách rời, ấy là nước và nỗi nhớ.

    Mỗi khi có mưa đêm, biết bao nhiêu người sẽ mất ngủ, sẽ hướng mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, vô hồn, rồi bỗng vô cớ cảm thấy cô đơn, buồn tủi. Tất cả những điều ấy đều vì trong lòng đang nhớ đến một ai đó.

    Lần mưa thứ hai, Mao Mao nhìn thấy chàng trai đang bước về phía cửa tiệm. Cô cảm thấy vô cùng căng thẳng, đôi chân nhẹ vò lên nhau, trong lòng nghĩ: “Đừng đến, đừng đến, đừng có đến!”

    Nhưng chàng trai đã bước vào. Cậu rút ra tờ một trăm tệ đưa cho Mao Mao rồi lại cùng cô ngồi trên chiếc giường nhơ nhám. Lần này Mao Mao không giới thiệu những dịch vụ của cửa tiệm cho cậu nữa. Cô căng thẳng đến suýt khóc, trong lòng vừa chỉ mong chàng trai mau mau rời khỏi nơi bẩn thỉu này, vừa hy vọng cậu sẽ ngồi lại mãi.

    Chàng trai kể về những câu chuyện trong trường học, kể về những người bạn của mình.

    Mao Mao chỉ cúi đầu lắng nghe, trong lòng bỗng cảm thấy vô cùng buồn tủi. Từ nhỏ đến lớn, dường như cô chưa từng có người bạn nào.

    Chàng trai nói: “Ngưỡng mộ cậu thật đấy, cậu chẳng cần phải đi học.”

    Mao Mao buồn bã đáp: “Thực ra, tớ muốn được đi học lắm!”

    Chàng trai nói tiếp: “Nếu thế, chúng ta học cùng lớp, ngồi cùng một bàn là được rồi.”

    Mao Mao càng hụt hẫng, nói: “Nhưng… Nhưng tớ…”

    Chàng trai an ủi: “Trong trường không có ai bắt nạt được cậu đâu. Bạn bè của tớ nhiều lắm, đánh nhau cũng rất giỏi nữa.”

    Mao Mao tủi thân đáp: “Tớ… Tớ không được đi học. Tớ chỉ có thể ở đây thôi, đến bạn bè cũng chẳng có.”

    Chàng trai cười đáp: “Tớ là bạn của cậu là đủ rồi.”

    Mao Mao do dự: “Ừ! Nhưng cậu biết không, tớ là một…”

    Chàng trai chen ngang quả quyết: “Chẳng sao cả!”

    Sau lần nói chuyện đó, Mao Mao biết tên chàng trai là Tiểu Bắc. Trong cuốn nhật kí bí mật của mình, cô dũng cảm gọi cậu là Bảo Bối. Hai người trở nên thân thiết rất nhanh, chàng trai mỗi lần đến lớp và tan trường đều cố ý đi qua trước cửa tiệm nhà Mao Mao. Cả hai chỉ nhìn nhau cười rồi chia tay bằng ánh mắt. Cũng có lúc Tiểu Bắc đến tiệm chơi. Mao Mao nói dối mẹ rằng cậu ta chỉ vào bóp vai thôi, vì lo tốn tiền của cậu. Nhưng Tiểu Bắc lại rất phóng khoáng, lúc nào cũng trả đủ tiền chỉ để được nói chuyện một cách “vụng trộm” với cô bạn.

    Chàng trai thích được ngồi cùng cô gái.

    Với họ tình yêu là thứ lớn lao hơn rất nhiều điều tầm thường khác trên đời.

    Có lần, cô gái lấy hết can đảm nói với chàng trai: “Cậu biết không, tớ có hơi thích cậu đấy!”

    Một tháng sau, trong ngày sinh nhật của Tiểu Bắc, Mao Mao lén lút lấy tiền rồi chạy đi mua rất nhiều quà sinh nhật cho cậu. Không biết Tiểu Bắc thích quà gì, Mao Mao liền mua một dây móc treo điện thoại, một con gấu bông đáng yêu, một chiếc áo mưa, và cả một bông hoa hồng giống như người lớn hay tặng nhau nữa. Tất cả được đặt trong một chiếc túi bóng bình thường, đưa cho Tiểu Bắc. Theo Tiểu Bắc đến quán karaoke cùng bạn bè cậu, Mao Mao cảm thấy hơi ngượng ngùng, ngồi nép vào một góc ghế, chỉ im lặng. Tiểu Bắc và bạn bè mải mê hát hò, uống rượu cùng nhau. Đến khi tiệc sắp tàn, Tiểu Bắc mới để ý thấy bông hoa trong chiếc túi đã bị đè gần nát.

    Tiểu Bắc kéo Mao Mao sang một bên, cầm lấy micro, dõng dạc tuyên bố với những người anh em của mình: “Giới thiệu với các bạn, Mao Mao là bạn gái của tôi!”

    Mao Mao cảm động muốn khóc. Cô bé chưa bao giờ cảm thấy hạnh phúc như lúc này, nhưng trong lòng lại càng cảm thấy tự ti.

    Hôm đó cô nấp sau áo mưa của bạn trai, khom người, bám vào vai cậu. Lúc qua đường, tiếng còi ô tô inh ỏi, nhưng cô không hề cảm thấy sợ hãi. Bố mẹ của Tiểu Bắc đều đi công tác cả, cậu đưa Mao Mao về nhà chơi.

    Bình nóng lạnh nhà Tiểu Bắc hỏng, nhưng Mao Mao nhất quyết đòi đi tắm. Cô nói rằng, dù phải tắm nước lạnh, cô cũng muốn mình gột sạch bụi trần, vì người trước mặt là người cô yêu.

    Mối tình đầu của một cô bé kĩ nữ và cậu học sinh cấp ba thật đẹp nhưng cũng thật buồn.

    “Mối tình đầu” là một từ rất đẹp, những cảm xúc đặc biệt trong kí ức, những buồn thương không thể phai mờ. Một trận mưa rơi trên tâm hồn của mỗi con người, từng giọt, đều kéo chúng ta trở về với những tháng ngày ngây dại ấy.

    Khi một chàng trai đang trong mối tình đầu, rất dễ vì một chút chuyện nhỏ nhặt mà có hành động điên cuồng. Tại Đài Loan từng có vụ án một chàng trai đâm chết người yêu giữa phố vì ghen tuông, hay vụ hai học sinh vị thành niên ở Mỹ xả súng giết chết một giáo viên và mười hai bạn khác, rồi cũng tự kết liễu đời mình, mà đến nay vẫn không rõ nguyên nhân vụ việc. Nhưng phía cảnh sát phán đoán rằng hai học sinh lúc đó đang thất tình nên đã có những hành động quá khích.

    Trong ngày sinh nhật của Mao Mao, Tiểu Bắc và hai người bạn của cậu đã chuẩn bị cho cô một bữa tiệc.

    Chú Lỗ hôm đó đến tiệm yêu cầu bao cả đêm. Sau khi đàm phán giá đã trả tiền trước luôn cho tiệm. Chú Lỗ đưa Mao Mao đến khách sạn thuê phòng. Trên đường đi, Tiểu Bắc và hai người bạn chặn đường chú Lỗ. Mao Mao không muốn đến khách sạn cùng chú Lỗ nhưng không có cách nào để bỏ chạy, suốt chặng đường chỉ nghĩ đến Tiểu Bắc, trong lòng vô cùng đau khổ. Tiểu Bắc muốn đưa Mao Mao đi, nhưng chú Lỗ nhất quyết không đồng ý, còn buông lời chửi mắng ba cậu học trò. Mao Mao chỉ khóc, không biết phải làm gì khác. Chú Lỗ kéo Mao Mao sang một bên, rồi mắng ba cậu bé: “Nó chỉ là một đứa con gái tiệm mát-xa, tao đã trả tiền. Ba thằng oắt chúng mày khôn hồn thì tránh ra, đừng có làm lỡ việc của tao.”

    Ba cậu học sinh định xông vào cướp Mao Mao. Tiểu Bắc hét lên: “Đánh lão ta đi!”

    Chú Lỗ không phải tay vừa, lôi trong túi ra một chiếc dao cạo từ thời xưa, giơ về phía ba cậu bé, cảnh cáo: “Nói tử tế chúng mày không nghe hả? Thích thì vào đây!”

    Ba cậu học trò chạy về nhà Tiểu Bắc ở gần đó lấy vũ khí rồi quay trở lại. Cha Tiểu Bắc là lãnh đạo Cục thể dục thể thao. Tiểu Bắc cầm theo chiếc cung do hội bắn cung tặng cha mình đi làm vũ khí. Hai người bạn còn lại một cầm dao, một cầm ống thép. Ba cậu đằng đằng sát khí đi tìm chú Lỗ nhưng không thấy ông ta đâu nữa, chỉ thấy Mao Mao đang đứng một mình bên cạnh một công trường đang xây dựng. Mao Mao nói chú Lỗ đau bụng, phải đi vệ sinh. Ba cậu bé tìm thấy chú Lỗ trong công trường, giết chết ông ta và quẳng xác vào một cột trụ chưa kịp đổ bê tông. Tất cả quá trình đó đã bị một người nhìn thấy.

    Tối hôm đó, nhà điêu khắc đến công trường lấy ít đất sét, vì chỉ có ở công trường xây dựng khi người ta đào đất xuống dưới sâu mới có. Nhà điêu khắc định làm một tác phẩm bằng chất liệu này. Khi đến công trường, anh ta vô tình nhìn thấy vụ xung đột và cả quá trình phi tang xác của ba cậu học sinh.

    Anh ta không đi báo án, vì thực tế rất nhiều người lựa chọn phương án đó. Một viên cảnh sát hình sự từng phát biểu trước báo chí rằng, đứng trên góc độ cá nhân, người chứng kiến sự việc nhưng không tự nguyện báo án là một sự thật rất nhiều người đều hiểu. Chủ yếu là do sợ bị trả thù hoặc gây khó dễ, đây cũng là tâm lý chung của nhiều người trong xã hội.

    Sau khi vụ án được đăng báo, hai cậu học sinh đã ra đầu thú, còn một cậu đã bỏ trốn khỏi nhà.

    Bố mẹ của Tiểu Bắc nhận ra mũi tên trong các bức ảnh trên báo là của gia đình mình, hơn nữa hộp mũi tên lại vừa hay thiếu một chiếc. Cậu con trai Tiểu Bắc dạo gần đây tinh thần bấn loạn, không dám đến trường, không dám xem ti vi. Bố mẹ cậu sau nhiều lần gặng hỏi mới thuyết phục được cậu con trai kể ra toàn bộ sự tình. Sau khi suy nghĩ kĩ, bố mẹ cậu đã đưa con ra đầu thú.

    Bố mẹ Tiểu Bắc nói với cậu con trai đang đeo còng tay của mình: “Con vẫn chỉ là một đứa trẻ, đưa con đi đầu thú tốt hơn là bao biện để con ở nhà. Bố làm thế này là vì yêu con. Có thể con chưa hiểu thế nào là yêu. Sau mấy năm cải tạo, trở lại với cuộc sống đời thường, nếu con vẫn yêu cô bé ấy, bố mẹ sẽ tôn trọng chọn lựa của con.”

    Tổ chuyên án nói cho Mao Mao biết việc Tiểu Bắc đã đến tự thú. Mao Mao vô cùng lo lắng, hỏi: “Liệu cậu ấy có bị xử tử hình không?”

    Giáo sư Lương trả lời chân thành: “Cậu ấy tự ra đầu thú nên sẽ được giảm nhẹ tội, không bị xử tử hình đâu.”

    Mao Mao lại hỏi: “Thế cậu ấy sẽ bị giam giữ bao nhiêu năm ạ?”

    Bao Triển nghĩ một hồi, rồi trả lời bằng một con số đại khái.

    Mao Mao nói: “Em sẽ đợi cậu ấy, cho dù là mười năm hay hai mươi năm.”

    Họa Long lên tiếng: “Mọi tính toán của con người đều có thể thay đổi theo thời gian cô bé ạ!”

    Mao Mao trả lời: “Em sẽ không bao giờ thay đổi. Làm sao em có thể thay đổi được chứ?”

    Tô My hỏi: “Nhưng đến lúc đó, có khi cả hai đều đã thành mấy bác trung niên rồi.”

    Mao Mao trả lời: “Cậu ấy dám bảo vệ em, em nhất định phải đợi cậu ấy. Nếu cậu ấy vẫn còn muốn lấy em, em sẽ làm vợ cậu ấy.”

    Tổ chuyên án rời khỏi phòng thẩm vấn, bên ngoài mặt trời chói lọi, không một làn gió, cũng chẳng có mưa. Mao Mao vẫn ngồi một mình trong phòng thẩm vấn, miệng ngâm nga khúc hát kỉ niệm:

    Câu chuyện dù đẹp rồi cũng có hồi kết

    Em ra đi là hồi kết của tôi

    Nhìn bóng em xa dần rồi xa mãi

    Như số kiếp này trời đã định vậy thôi!

    Nhưng em ơi, tôi muốn nói bao lời

    Rằng tôi nhớ, rằng nhớ em nhiều lắm!

    Em trong đời tôi là thiên thần trái đắng

    Trọn kiếp này cũng chẳng thể lãng quên.

    Cho dù mưa không ngừng trút trong đêm

    Cho dù em bỏ tôi trong giấc mộng.

    Thì em ơi, tôi vẫn luôn khát vọng

    Giấc mộng này, là giấc mộng thiên thu.

    [1] Serhiy Tkach: Cựu cảnh sát điều tra hình sự, tại Nga, sinh 1952. Năm 2010 bị bắt tại Ukraina vì tội giết người hàng loạt.

    [2] Thác Takakkaw: Thác nước tại vườn quốc gia Yoho, Canada. Chiều cao 381m, được đánh giá là một trong những thác nước hùng vĩ nhất hành tinh.

    [3] Goldbach (1690 – 1764): Tên đầy đủ là Christian Goldbach, là nhà toán học nổi tiếng với học thuyết mang tên mình.

    [4] Thuyết Nhật Tâm: Học thuyết cho rằng Mặt trời là trung tâm của vũ trụ/hay của hệ mặt trời.

    [5] Cô-péc-ních (1473-1543): Tên đầy đủ là Ni-cô-lát Cô-péc-ních, là nhà Thiên văn học nổi tiếng của Ba Lan.
     
    Chỉnh sửa cuối: 26/3/17
    Gum, Đương duy, Dung dung and 4 others like this.
  17. Nhím Nhím

    Nhím Nhím Member
    • 344/373

    Bài viết:
    41
    Đã được thích:
    422
    MƯỜI TỘI ÁC TẬP 2: HIỆN TRƯỜNG VỤ ÁN
    PHẦN 3: SÁT THỦ HOA TƯỜNG VI


    Lời dẫn
    Khi tôi về với cát bụi, người sẽ thấy nụ cười của tôi! – Lỗ Tấn.


    Một học sinh tiểu học có viết trong bài làm văn của mình thế này: “Nếu tôi là một người quản lí trật tự thành phố, khi nhìn thấy mẹ phải bán khoai dọc đường, tôi sẽ từ từ “đuổi” bà về.”

    Một học sinh khác viết trong giấy xin phép nghỉ học của mình như sau:

    “Kính gửi: Cô giáo Ngô.

    Ngày hôm kia, mẹ em bị quản lí trật tự Thành phố đánh bị thương, hiện giờ vẫn đang phải truyền nước tại bệnh viện Đông Nam. Sáng nay em phải đi trông mẹ nên không thể đến lớp được. Em viết giấy này, mong cô cho em nghỉ buổi học sáng ngày hôm nay.

    Em xin chân thành cảm ơn!”

    Chương 1
    Hiện trường vụ án

    Ngày 24 tháng 10 năm 2008, trên tờ “Thời báo thành phố” đăng một bài viết, trích dẫn như sau:

    “Hôm qua, ngày 23 tháng 04 năm 2008, một cụ ông bảy mươi ba tuổi đánh xe lừa vào trong thành phố bán khoai lang. Cụ cho chúng tôi biết, cả xe khoai này đều là do nhà cụ trồng ra. Con trai cụ bị bại liệt nằm một chỗ, cụ chỉ còn cách đi bán khoai, kiếm chút tiền lo thuốc thang cho con mình. Ông cụ đánh xe lừa đi mất tám tiếng đồng hồ mới tới được đầu chợ đường Giải Phóng, thuộc khu công nghiệp của thành phố. Vừa dừng xe lại nghỉ ngơi, bỗng một chiếc xe của lực lượng trật tự an ninh thành phố tiến đến. Những người “chấp pháp” trên xe vừa nhảy xuống đã mắng chửi rồi như một đội hung thần chạy lại và bắt đầu ném những củ khoai từ trên xe lừa của cụ xuống đất.

    Một nhân chứng cho hay, ông cụ còng lưng, cố sức bảo vệ xe khoai lang của mình nhưng bất lực, chỉ còn biết quỳ sụp xuống đường khóc.

    Một chủ cửa hàng gần đó cho biết, cụ già chạy lại kéo áo cầu xin một người trong đội quản lí trật tự, hình như là đội phó. Nhưng đội phó không những không nghe mà còn quay lại tát ông cụ liền mấy cái. Ông cụ quỳ sụp xuống đất van xin, nhưng viên quản lí trật tự vẫn không mềm lòng, còn mắng chửi: “Cút ngay! Không được bán hàng ở đây! Còn lảng vảng nữa thì cứ chờ mà ăn đòn!”

    Cô Triệu, một người dân sông gần đó cũng chứng kiến cảnh này. Cô cho biết: “Ôi! Nhìn cảnh ấy mà xót cả lòng! Ông cụ trông còn nhiều tuổi hơn cả bố tôi cũng nên. Sao họ nỡ lòng mà làm thế cơ chứ! Lúc ấy, biết bao nhiêu người túm lại xung quanh, có người không nhịn nổi còn hô hào đập nát xe của đội quản lí trật tự nữa. Thấy tình hình dân chúng bị kích động, tên quản lí vừa đánh ông cụ vội lên xe rồi chạy thẳng. Lúc ấy mà không chạy nhanh, đến đàn bà con gái như chúng tôi cũng phải xông vào lật úp cái xe của bọn họ ấy chứ! Thật là quá đáng quá!”

    Bài báo nhanh chóng được truyền đi khắp Trung Quốc, và trở thành tin tức nóng nhất trên các bảng xếp hạng báo mạng.

    Ba ngày sau, đội phó đội quản lí trật tự thành phố bị ám sát. Một người dân trong khi đi tập thể dục buổi sáng đã phát hiện ra xác nạn nhân nằm ngay tại cửa đơn vị đội quản lí trật tự, nơi nạn nhân hàng ngày vẫn đi làm. Ban đầu, người đi tập thể dục buổi sáng nghĩ rằng đó là một người say ngủ gục trước cửa. Nhưng khi lật lại thì kinh hãi khi thấy trong miệng nạn nhân ngậm một cánh tay, mà không gì khác, đó là cánh tay của chính nạn nhân.

    Xung quanh cái xác, có những cánh hoa Tường Vi bị gió thổi tung, rơi lả tả dưới đất.

    Đội phó đội quản lí trật tự bị giết, cánh tay bị chặt đứt nhét vào miệng chính mình. Tin tức giật gân đó ngay lập tức được truyền đi với tốc độ chóng mặt. Từ đầu đường cuối ngõ, cho tới khắp các ngóc ngách của Thành phố, mọi người đều bàn tán chủ đề này. Dân chúng cứ thế truyền tai nhau, và cuối cùng đặt cho “hung thủ” một cái tên thật mĩ miều: Sát thủ hoa Tường Vi!

    Dân chúng vốn là những người có trình độ văn học vô cùng cao siêu. Mỗi người khi tham gia vào câu chuyện này lại mang đến cho nó một cái gì đó mới mẻ. Câu chuyện cứ thế truyền đi, và rồi được chốt lại với nội dung thế này: “Sát thủ hoa Tường Vi võ công cao cường, từng tầm sư học đạo tại chùa Thiếu Lâm mười tám năm ròng. Sau khi xuống núi bắt đầu đi khắp nơi trừ gian diệt ác, bảo vệ dân lành, cướp của người giàu chia cho người nghèo, mỗi khi kết liễu một kẻ ác, đều để lại trên đất những cánh hoa Tường Vi.”

    Không ai biết sát thủ hoa Tường Vi là ai. Cơ quan cảnh sát địa phương điều động một lực lượng lớn cảnh sát tiến hành điều tra vụ việc, nhưng không phát hiện ra bất cứ manh mối nào. Những người trong đội quản lí trật tự thành phố đều tim đập chân run, ăn không ngon ngủ không yên. Các cấp lãnh đạo quyết định thông báo truy nã, và sẽ thưởng số tiền một trăm nghìn Nhân Dân Tệ cho ai cung cấp đầu mối về hung thủ của vụ án này.

    Một ngày trôi qua.

    Bí thư Tiêu, Bí thư Ủy ban Chính trị Pháp luật hỏi: “Có bao nhiêu người gọi đến đường dây nóng rồi?”

    Nhân viên trực điện thoại trả lời trong thất vọng: “Không có ai cả!”

    Trong rất nhiều vụ án, khi phía cảnh sát có thông báo sẽ thưởng cho người cung cấp đầu mối hữu ích, đường dây nóng sẽ liên tục nhận được những cú điện thoại cung cấp thông tin từ phía nhân dân của Thành phố. Thế nhưng, trong vụ án này, ngay đến một người gọi điện đến cũng không có.

    Bí thư Tiêu báo tin về cho cơ quan công án cấp cao hơn, xin trợ giúp từ phía tổ chuyên án.

    Sau khi xem xong hồ sơ vụ án, giáo sư Lương nói: “Trước khi xảy ra sự việc, đội phó đội quản lí trật tự đánh người. Hung thủ chặt tay, giết chết nạn nhân, rõ ràng là một hành động báo thù. Theo kết quả giám định pháp y, sau khi bị chặt tay, viên đội phó vẫn sống, còn vết thương chí mạng nằm ở vùng ngực nạn nhân, do một vật sắc đâm trúng tim. Vết thương tại cánh tay cũng được cắt một nhát rất ngọt, xem ra hung thủ là một kẻ có sức khỏe hơn người, hành động gọn nhẹ và nhanh chóng. Còn việc vì sao hắn lại nhét cánh tay đứt vào miệng nạn nhân thì tạm thời chưa thể làm rõ được. Vì nạn nhân là người của đội quản lí trật tự thành phố, nên bất cứ một nhân vật yêu chính nghĩa nào cũng có thể là hung thủ. Từ những bức ảnh chụp lại hiện trường có thể thấy rằng, gần hiện trường gây án không hề trồng hoa Tường Vi, do đó những cánh hoa này chính là dấu hiệu hung thủ muốn để lại.”

    Tô My nói: “Đây là một giống Tường Vi cũ, còn gọi là Tường Vi dại, thường mọc ở những khu đất hoang vùng ngoại ô, sức sống rất dẻo dai, mùa hoa có thể kéo dài tới tận cuối tháng mười.”

    Bao Triển cũng không chịu im lặng, lên tiếng: “Sát thủ hoa Tường Vi, cái tên của kẻ giết người này nghe cũng nên thơ ra phết ấy nhỉ!”

    Họa Long có vẻ không thoải mái, hỏi: “Chúng ta có nhất thiết phải nhận vụ này không Giáo sư? Sao không để cho mấy ông Cảnh sát địa phương tự tìm đường mà giải quyết? Nói thực lòng, loại người như hắn chết cũng đáng. Ngày trước cháu cũng từng đánh nhau với một tên quản lí trật tự Thành phố. Còn sát thủ hoa Tường Vi ấy, cháu thấy đó là một người anh hùng. Nếu gặp mặt, chắc cháu phải mời anh ta đi uống một trận cho hả hê!”

    Bạch Cảnh Ngọc lên tiếng: “Quốc có Quốc pháp, xã hội pháp trị không cần đến anh hùng.”

    Họa Long hơi tức giận, bật lại cấp trên: “Thưa sếp lớn tôi muốn xin nghỉ phép. Từ ngày gia nhập tổ chuyên án, rất lâu rồi tôi không được về nhà. Lần này xin sếp phê duyệt cho.”

    Bạch Cảnh Ngọc nghiêm giọng: “Không duyệt! Chuẩn bị lập tức xuất phát!”

    Bí thư Tiêu, Bí thư Ủy ban Chính trị Pháp luật trực thuộc Cục công an Thành phố đích thân lái xe tới sân bay đón tổ chuyên án. Vốn dĩ giáo sư Lương yêu cầu thực hiện điều tra một cách thầm lặng, không lộ liễu, nhưng Bí thư Tiêu cho biết, Cục công an đã sắp xếp sẵn một buổi chào đón, đồng thời còn mở cuộc họp tổng động viên lực lượng Cảnh sát Công an Thành phố, để đưa ra mục tiêu thời gian phá vụ án lần này.

    Chiếc xe đi vào trung tâm Thành phố, tổ chuyên án quan sát thấy hai bên đường không hề trồng hoa Tuờng Vi.

    Tô My lên tiếng hỏi: “Tôi xem trên hồ sơ, thấy ghi hoa Tường Vi là biểu tượng của Thành phố, vì sao trong trung tâm lại không thấy có khóm nào?”

    Bí thư Tiêu giải thích rằng, hoa Tường Vi đúng là biểu tượng của Thành phố này. Ở những khu ngoại ô và ngoài bờ những cánh đồng, hoa Tường Vi dại mọc ngợp trời. Loại thực vật thân leo có sức sống dai dẳng này nếu trồng trong Thành phố sẽ phát triển rất nhanh, đe dọa đến những thực thể xanh khác. Vì thế mặc dù là biểu tượng của Thành phố, nhưng chúng chỉ có thể mọc dại ở vùng ngoại ô, chứ trong Thành phố thì hoàn toàn không có.

    Xe tiếp tục chạy đến đầu đường Giải Phóng, giáo sư Lương bảo lái xe dừng lại. Đây chính là nơi đội phó đội quản lí trật tự đập phá xe khoai lang của Ông cụ đáng thương. Nơi này xe cộ nườm nượp, biết bao người qua kẻ lại, người bán người mua tấp nập, quả là một cảnh tượng phồn vinh.

    Giáo sư Lương hỏi Bí thư Tiêu: “Anh không đi chợ mua rau bao nhiêu lâu rồi?”

    Bí thư Tiêu trả lời: “Cũng lâu lắm rồi thì phải! Hàng ngày công việc bận rộn, không có cả thời gian để nghĩ đến chuyện đi chợ mua rau nữa.”

    Giáo sư Lương nói tiếp: “Thôi được rồi! Thế thì bây giờ chúng ta đi mua rau. Tô My, cháu về thông báo với bên Cục để hủy buổi chào đón hôm nay nhé! Trưa nay chúng ta sẽ tự nấu cơm ăn.”

    Giáo sư Lương, Họa Long, Bao Triển và Bí thư Tiêu xuống xe. Giáo sư Lương cho rằng, đây mới chính là hiện trường gây án đầu tiên, là nơi khởi nguồn của vụ án. Bao Triển đẩy giáo sư Lương trên chiếc xe lăn tiến vào con đường chính giữa khu chợ, xuyên qua các quầy bán rau quả tươi rợp một màu xanh mát mắt. Bí thư Tiêu bỗng dâng lên một cảm giác lạ, cảm giác của một vị quan khi mặc thường phục đi vi hành. Mua rau vốn là một việc làm hết sức nhỏ bé, nhưng với một người lãnh đạo mà nói, đó lại là một điều không dễ thực hiện.

    Sát thủ hoa Tường Vi rất có thể chính là một trong những chủ tiệm chủ sạp trong khu chợ này.

    Tài xế lái xe đưa Tô My đến Cục công an, nhưng khi vừa bước chân vào đại sảnh, cô đã cảm thấy có gì đó rất lạ lùng. Rất đông người đang đứng tại đại sảnh, không chỉ có những người mặc đồng phục Cảnh sát, mà còn có cả lực lượng quản lí trật tự Thành phố. Tại hành lang đi tới phòng hội nghị, thậm chí còn có cả những người phụ nữ đang bế con đi đi lại lại, Cục công an lúc này trông loạn như ngoài chợ bán rau.

    Đứng cạnh Tô My lúc này là một cậu cảnh sát nhỏ con, dáng người thấp bé, đang mải mê nghịch điện thoại. Xem ra cậu ta là người mới vào nghề, khuôn mặt non choẹt, vẫn còn nguyên cả mụn tuổi dậy thì.

    Tô My quay sang hỏi: “Cho hỏi một chút, cậu có biết ai phụ trách tiếp đón tổ chuyên án không? Phòng tiếp đón ở đâu cậu biết không?”

    Cảnh sát trẻ giờ mới ngẩng đầu lên, nhìn Tô My giây lát rồi nói: “Tổ chuyên án đến ngay bây giờ đấy? Cô cũng muốn gặp tổ chuyên án à? Người mới hả? Trước kia tôi chưa gặp cô ở đây bao giờ?”

    Tô My biết anh chàng Cảnh sát trẻ này lầm tưởng cô là đồng nghiệp trong Cục cảnh sát, đang định giải thích thì anh ta hạ giọng nói thầm: “Chính là tôi đây!”

    Tô My không hiểu ý, hỏi lại: “Anh là gì cơ?”

    Cảnh sát trẻ trả lời: “Tổ chuyên án có bốn người, được chọn ra từ những Cảnh sát xuất sắc nhất trong cả nước. Thực ra, tôi chính là người thứ năm, chẳng qua là bây giờ vẫn chưa công khai, còn đang phải bảo mật thôi.”

    Tô My cố nhịn cười, ra vẻ tò mò hỏi tiếp: “Thế anh đã gặp bốn người trong tổ chuyên án bao giờ chưa?”

    Cảnh sát trẻ lại tiếp tục cúi đầu nghịch điện thoại, nói: “Ôi dào! Tôi thì quá quen với họ rồi. Giáo sư Lương, anh Họa Long, anh Bao Triển, cả My My nữa. Anh Họa Long võ công xuất chúng, mấy hôm trước tôi còn tập tán thủ cùng anh ấy cơ mà, sau đó còn đeo giáp đấu mấy hiệp, kết quả hòa nhau, nhưng thực ra là tôi nhường anh ta thôi! Dù gì tôi cũng vừa vào tổ chuyên án, phải để cho người ta chút thể diện chứ, phải không! Nhưng mà lần sau tôi sẽ không nương tay như thế đâu, để anh ta khỏi không coi ai ra gì. Anh Bao Triển da ngăm ngăm, nhìn như than ấy, trông cứ tưởng vừa chui ra từ đống khói bụi nào ấy! Nhưng anh Triển lợi hại lắm, không có gì là qua được mắt anh ấy đâu! Còn ông giáo sư họ Lương ấy à, chúng tôi đều gọi là “Ông cụ” Lương.”

    Tô My không thể nhịn được nữa, bật cười hỏi: “Thế cậu thấy cô Tô My ấy thế nào?”

    Cậu Cảnh sát trẻ vẫn thao thao bất tuyệt: “Hacker ấy mà! Biết một chút về máy tính, nhưng cũng chỉ như bình hoa trưng bày thôi, chẳng mấy tác dụng, nhưng mà…”

    Tô My tò mò hỏi: “Nhưng mà sao?”

    Cảnh sát trẻ nhún vai, nói: “Nhưng mà ai bảo My My lại là bạn gái của tôi cơ chứ!”

    Chàng cảnh sát trẻ mạo danh thành viên tổ chuyên án chính là con trai của Bí thư Tiêu. Anh chàng rất thích ăn Pudding[1] hoa quả, nên mọi người chẳng mấy ai gọi cậu bằng tên thật, mà gọi là Pudding. Từ nhỏ, Pudding đã mơ ước trở thành một Cảnh sát dũng cảm. Cậu vô cùng sùng bái tổ chuyên án. Trong mắt cậu ta, tổ chuyên án chẳng khác gì những minh tinh trên màn ảnh.

    Tổ chuyên án tới nơi, buổi chào đón đã được hủy bỏ, giáo sư Lương gọi Pudding vào phòng làm việc của Bí thư Tiêu gặp mặt.

    Pudding mở cửa bước vào, đứng nghiêm giơ tay chào theo đúng nghi thức, nhưng trông cậu có vẻ hơi căng thẳng vì vừa rồi đã dám mạo danh thành viên tổ chuyên án.

    Họa Long khởi động cổ tay, bẻ bão rắc rắc mấy tiếng, rồi nói: “Ê nhóc! Cậu chẳng phải muốn hạ gục tôi sao? Tôi chính là Họa Long đây.”

    Pudding vẫn đứng nghiêm tại chỗ, mặt hơi biến sắc, rồi nhe răng cười ngượng ngùng, nói: “Anh Họa Long, em chỉ nói đùa thôi mà, anh đừng cho là thật nhé!”

    Tô My bước lại trước mặt cậu ta, vừa cười vừa nói: “Cậu đã đủ mười tám tuổi chưa hả? Nhóc con to gan, còn định tán tỉnh cả tôi nữa cơ à? Lại còn cái gì mà “My My là bạn gái của tôi” chứ!”

    Pudding cảm thấy rất xấu hổ và ngượng ngùng, ấp úng nói: “Em… Em… Hai mốt tuổi rồi ạ!”

    Giáo sư Lương nghiêm nghị, nói: “Cởi đồng phục Cảnh sát ra!”

    Trán Pudding toát mồ hôi hột, vội vàng nhận lỗi: “Cháu sai rồi, mong mọi người tha lỗi. Cháu không nên mạo danh thành viên tổ chuyên án như thế! Cháu…”

    Bí thư Tiêu đang đứng bên cạnh lên tiếng nói đỡ cho con trai: “Cháu nó còn trẻ dại, tôi xin thay mặt nó xin lỗi mọi người.”

    Giáo sư Lương nói tiếp: “Tôi chỉ bảo cởi đồng phục ra, chứ có bảo cậu không được làm Cảnh sát nữa đâu! Mà tôi cũng làm gì có cái quyền ấy cơ chứ! Chỉ là muốn cậu đi làm trinh sát thôi!”

    Pudding có phần mông lung chưa hiểu ý giáo sư Lương.

    Bao Triển nói đùa: “Trong thời gian trinh sát, cậu sẽ không được ăn Pudding nữa đâu.”

    Giáo sư Lương cũng nói nửa thật nửa đùa: “Ăn vụng bất cứ thứ gì cũng không được.”

    Theo những phân tích ban đầu, tổ chuyên án cho rằng, sát thủ hoa Tường Vi chính là một trong những người bán hàng trong chợ. Do nảy sinh mâu thuẫn với đội phó đội quản lí trật tự, nên đã ra tay hạ sát nạn nhân. Nhưng do quần chúng nhân dân không muốn cung cấp đầu mối thông tin, tổ chuyên án quyết định phải phái một trinh sát đi bí mật điều tra. Trong quá trình phá án hình sự, người cảnh sát cần vào vai rất nhiều nhân vật trong cuộc sống, để có được những đầu mối tốt nhất. Trong phim chúng ta thường thấy cảnh sát đóng giả khách làng chơi, hoặc giả làm người mua thuốc phiện, rồi cả trinh sát nằm vùng. Những phương pháp điều tra phá án trên đều rất hữu ích.

    Nhân vật mà Pudding sắp vào vai là một người bán hàng rong ở đường phố.

    Giáo sư Lương nói: “Chúng tôi sẽ sắp xếp người đặt một chiếc xe ba gác và một vài loại hoa quả trong một phòng chứa đồ của khu nhà ở thuộc bộ công an gần đường Giải Phóng. Hàng ngày khi trời chưa sáng, cậu tới đó dắt xe đi bán, đến tám giờ tối thì dọn hàng về nghỉ. Nhiệm vụ của cậu là tiếp cận những người bán hàng rong thực thụ ở đó, để dò la tin tức. Công tác trinh sát của cậu có vai trò rất lớn trong việc phá án lần này.”

    Pudding gật gật đầu, nói: “Cháu hiểu ạ! Cháu hứa sẽ cố gắng hết sức hoàn thành nhiệm vụ.”

    Bao Triển dặn thêm: “Cậu phải luôn nhớ một điều cậu không phải là Cảnh sát, không phải con trai của Bí thư Tiêu, mà là một người bán hoa quả rong, hiểu không?”

    Giáo sư Lương trịnh trọng tuyên bố: “Tổ chuyên án chỉ có bốn người. Bây giờ, tôi quyết định kết nạp thêm một người nữa.”

    Pudding vừa vui mừng vừa bất ngờ, há hốc miệng chỉ thốt ra một tiếng: “Dạ?”

    Giáo sư Lương nói: “Bây giờ, tôi chính thức tuyên bố, Pudding là thành viên tạm thời của tổ chuyên án.”

    Tô My nói đùa: “Cậu nhóc! Phá xong vụ này cậu có thể dõng dạc nói với bất cứ ai rằng mình là thành viên thứ năm của tổ chuyên án rồi nhé!”

    Chương 2
    Đối đầu đội quản lý trật tự

    Trước khi tổ chuyên án tới nơi, phía cảnh sát địa phương đã tiến hành những điều tra bước đầu. Trước khi xảy ra vụ án, đội phó đội quản lí trật tự đi uống rượu cùng các đồng nghiệp của mình đến tận mười giờ tối. Ông chủ quán nhậu cho biết, viên đội phó uống say bí tỉ. Trước khi về còn đứng ở cửa tiệm gọi ba cú điện thoại. Lúc nói chuyện, mỗi câu anh ta phải lặp đi lặp lại nhiều lần, mà giọng nói thì càng ngày càng lớn, nên chủ quán nhớ rất rõ nội dung của ba cuộc điện thoại này.

    1. “A lô! Tiểu Mẫn hả? Anh đây… Ừ! Anh đưa em ra ngoài đi hát nhé!… Gì cơ? Muộn rồi á?… Khoảng cách của chúng ta có thể gần hơn chút nữa được không em? Anh có ăn thịt em đâu nào! Em sợ gì chứ? A lô! A lô! Mẹ kiếp, dám cúp điện thoại của ông mày à!”
    2. “Phương Phương hả em? Em đang ở đâu thế? Ừ… Thôi đừng đi làm nữa, anh đây chẳng phải là vị khách lớn nhất của em rồi hay sao? Giờ anh đi thuê một phòng khách sạn, em bắt xe sang ngay nhé! Yên tâm đi… Sẽ không thiếu của em một xu nào cả! Đã là khách quen cả rồi mà còn cứ…. Đêm nay phải phục vụ anh đến nơi đến chốn đấy nhá!”
    3. “Mình à! Đêm nay anh phải đi công tác ngoại tỉnh gấp, tối nay không về với em được rồi!”
    Chỉ bằng ba cú điện thoại cũng đủ biết lối sống của vị đội phó đội quản lý trật tự này dơ bẩn và thối nát đến mức nào. Hắn nấc ợ một cái vì no bụng, rồi một mình lảo đảo rời khỏi quán nhậu. Tại nơi cách đó không xa, trong lùm cây um tùm ven đường, tìm thấy điện thoại và dấu vết nước tiểu của nạn nhân. Tổ chuyên án qua phân tích cho rằng, đây chính là nơi đội phó bắt đầu mất tích. Hung thủ khả năng là nam giới, từ việc hắn có thể bằng một nhát dao chặt đứt tay, rồi một nhát kết liễu tính mạng của đội phó chứng tỏ kẻ đó có sức mạnh phi thường. Hung thủ có thể có xe hơi làm phương tiện đưa đội phó đến chỗ khác, nếu không với thân hình hộ pháp của anh ta, hung thủ dù có khỏe đến đâu cũng khó lòng vác đi một đoạn đường dài như thế.

    Hiện trường đầu tiên của vụ án rất có thể nằm tại khu ngoại ô cách đó không xa, nơi mọc rất nhiều hoa Tường Vi dại.

    Tổ chuyên án yêu cầu cảnh sát địa phương đặc biệt chú ý kiểm tra ngôi làng của ông cụ bán khoai lang xem trong làng có ai là họ thàng thân thích của ông cụ mà lại làm nghề giết mổ gia súc hay không? Nếu người đó còn có cả phương tiện vận chuyển như xe ba gác hoặc công nông nữa, thì phải liệt ngay vào danh sách cần theo dõi.

    Tô My lấy lại toàn bộ các đoạn phim từ camera tại các ngả đường phố trong đêm xảy ra vụ việc. Hệ thống camera theo dõi gần như đã được lắp đặt khắp nơi trên các thành phố lớn của Trung Quốc. Từ những khu trọng điểm về an ninh trật tự, những chốt giao thông đông đúc, những khu dân cư từ nhỏ đến lớn, tới các trung tâm thương mại, các bến xe, quảng trường đều có đầy đủ hệ thống camera ghi hình, điều đó đã giúp ích rất nhiều cho phía cảnh sát trong việc chống tội phạm, bảo vệ trật tự trị an, giữ gìn bình yên cho thành phố. Tô My liệt kê ra gần một trăm chiếc xe khả nghi, công tác tiếp theo đó là kết hợp với phía cảnh sát để tìm ra chiếc xe chở xác trong số những chiếc xe đó.

    Sau vài ngày, bốn người tổ chuyên án quyết định đến khu chợ tại đường Giải Phóng xem xét tình hình trinh sát nằm vùng của Pudding.

    Pudding vừa chân ướt chân ráo vào Cục cảnh sát đã được tổ chuyên án trọng dụng, cậu cảm thấy vô cùng hào hứng. Nhưng sau những giây phút hào hứng đó, cậu mới nhận ra, công việc của một người cảnh sát hình sự khó khăn và vất vả hơn nhiều so với những gì mà cậu tưởng tượng. Chàng công tử từ nhỏ được bố mẹ nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa này nào đã bao giờ phải chịu cảnh khổ nhọc như thế này. Mỗi sớm tinh mơ, cậu phải đẩy chiếc xe ba gác đến góc đầu đường Giải Phóng bày hàng vỉa hè bán hoa quả. Ban đầu, cậu không tìm được chỗ nào để đặt xe hàng. Vì chiếm mất chỗ của một người bán mía rong, mà hai bên suýt nữa xảy ra xung đột. Cuối cùng người bán mía cũng đồng ý nhường cho cậu một chỗ để bán cùng. Pudding để ý thấy trên nền đất có rất nhiều thứ linh tinh: Một chiếc bao cũ rách, một hòn đá, một chiếc bát sứt, một đốt mía, một đoạn đây thừng,…

    Những thứ mà từ trước tới nay chúng ta không hề chú ý tới này được dùng để đặt dấu cho từng người. Nó nằm ở đâu thể hiện đó là nơi chủ nhân vật đó đã “xí chỗ” trước.

    Trước đây Pudding luôn có một thắc mắc, vì sao những người này phải tranh giành chỗ ngoài lề đường, mà không vào bên trong chợ bán hàng cho đàng hoàng?

    Nhưng đến khi cậu chính thức từ con trai một Bí thư trở thành một người bán hàng rong, thì cậu đã hiểu ra rằng, muốn có một vị trí trong chợ, cần phải nộp phí quản lí, phí vệ sinh, còn phải nộp thuế. Những người buôn bán lẻ tẻ thế này mỗi ngày chỉ kiếm được vài chục tệ, thì lấy đâu ra tiền mà nộp những thứ chi phí kia cơ chứ. Vì thế, họ đành “chiếm lấy” một góc đường để kiếm kế sinh nhai.

    Những người bán rong và những người bán hàng nhỏ lẻ đều nghèo khó như nhau, họ sống dựa vào nhau giống như cây cỏ này dựa vào cây cỏ bên cạnh mà đứng. Pudding rất nhanh chóng đã trở nên thân thiết với người bán mía bên cạnh. Người bán mía một ngày chỉ kiếm được chừng ba mươi tệ, nhưng phải nuôi sống cả một gia đình bốn miệng ăn.

    Pudding ngồi trên chiếc ghế mây nhỏ, mắt nhìn về phía dòng người xe tấp nập. Lần đầu tiên trong đời, cậu thực sự suy nghĩ nghiêm túc về cuộc sống.

    Phía bên trái “quán hàng” của cậu là một người bán hạt dẻ rang đường, “bà chủ” là một người phụ nữ thất nghiệp với đứa con nhỏ vẫn còn phải bồng bế. Phía bên phải là một chiếc xe máy ba bánh, người bán mía rong đang dùng dao róc từng cây mía, chặt vào túi cho khách. Hai bên ven đường còn không biết bao nhiêu những người bán hàng rong như thế. Người thì bán kẹo hồ lô, người bán bánh nướng kẹp thịt, lại có người bán quần áo, có người bán hàng một giá hai tệ… Tất cả đều là những sạp bán vệ đường, và trên con đường trước mặt cùng với dòng người tấp nập lại qua, cả một khu phố trở nên vô cùng huyên náo.

    Bỗng Pudding nghe thấy tiếng hoan hô, cậu đứng dậy ngẩng đầu xem có chuyện gì, thì thấy trên khu đất trống cạnh đường có rất nhiều người đang túm tụm. Một nhóm học sinh của trường võ dưới sự chỉ dẫn của thầy giáo, đang tổ chức quyên góp ủng hộ đồng bào vùng bị động đất.

    Các học viên biểu diễn Kungfu Thiếu lâm, khí công, Nam quyền và Thái Cực quyền, được mọi người vô cùng tán dương và hưởng ứng.

    Một cô bé mải xem lỡ tay làm tuột quả bóng bay lên cột đèn đường, cô bé tủi thân sắp khóc nhưng cũng chỉ biết ngẩng đầu nhìn tiếc nuối. Các học sinh trường võ trong trạng thái không có bất cứ một công cụ hỗ trợ nào, bỗng xếp lại thành hình một tòa kim tự tháp bằng người thật cao. Người giáo viên mặc bộ đồ thể thao màu đỏ nhanh như cắt leo lên đỉnh “kim tự tháp”, tóm lấy quả bóng bay rồi nhảy xuống, lộn mấy vòng khi tiếp đất. Anh trao lại quả bóng vào tay cô bé, mọi người xung quanh vỗ tay vang giòn, những người đứng xem dồn lên quyên góp.

    Người bán mía bên cạnh lên tiếng kể: “Ông thầy kia lợi hại lắm đấy! Một mình có thể địch lại cả chục người một lúc, giành được không biết bao nhiêu giải thưởng rồi!”

    Pudding buột miệng nói: “Không biết anh ta với anh Họa Long của tôi mà đấu với nhau thì ai hơn ai kém nhỉ!”

    Người bán mía cười nhạo Pudding, bảo: “Cậu ăn rồi cả ngày ngồi đấy mà bốc phét! Nào là quen người này quen người kia! Nói mà cũng không thấy ngượng mồm tí gì cả!”

    Pudding lôi ra một chiếc điện thoại, lắc qua lắc lại trước mặt, bảo: “Ai bảo tôi bốc phét nào!”

    Người bán mía vẫn vừa cười vừa nói: “Cái điện hoại hàng nhái này của cậu kiếm ở đâu ra thế! Chắc cũng phải đến cả… tám trăm tệ ấy nhỉ? Ha ha!”

    Pudding có phần bực dọc, bảo: “Hừm! Cái gì mà hàng nhái? Cái gì mà tám trăm tệ? Bỏ ra tám trăm tệ tôi cho anh sờ vào nó một cái vẫn còn rẻ chán!”

    Người bán mía bình tĩnh lại, nói: “Cậu bật bài “Câu Phật” đi, hay là “Nước hoa có độc” cũng được, nghe cho lòng thoải mái cái nào!”

    Người bán mía xắn tay áo, hắng giọng rồi cất tiếng hát một câu, Pudding ôm bụng gập người cười như nắc nẻ.

    Pudding vừa cười vừa hỏi: “Này, người mấy hôm trước giết thằng quản lí trật tự chắc võ công cũng phải giỏi lắm đấy nhỉ! Anh có nghe kể gì về chuyện này không?”

    Người bán mía trả lời chắc như đinh đóng cột: “Tôi biết thừa đấy là ai! Nhưng mà để tôi đi giải quyết nỗi buồn cái đã, lát về kể cậu nghe. Cậu trông hàng giúp tôi cái nhá!”

    Pudding cố giữ bình tĩnh, trả lời: “Anh cứ đi đi!”

    Người bán mía vừa đi còn vừa dặn: “Nếu mấy thằng quản lí trật tự mà đến thì nhớ kêu tôi một tiếng nhá!”

    Pudding trả lời: “Hứ! Bọn đấy thì có gì mà phải sợ! Cục trưởng Cục công an còn phải sợ bố tôi một phép ấy chứ!”

    Người bán mía đưa tay đập vào đầu Pudding một cái đau điếng, bảo: “Ha ha! Thằng nhóc con này đúng là bốc phét không ai bằng!”

    Pudding đưa tay xoa xoa đầu, cãi lại: “Không tin thì thôi! À, mà việc đấy tóm lại là do ai làm thế?”

    Người bán mía cố nói với lại mấy câu: “Hôm đấy, lúc thằng đội phó đánh ông cụ bán khoai lang, tôi cũng chứng kiến. Mà thôi, đợi tôi về rồi nói, nhịn không nổi nữa rồi.”

    Bốn người tổ chuyên án tìm thấy xe hoa quả của Pudding, giả vờ đến mua hàng. Nhìn thấy họ, Pudding vô cùng vui mừng, vừa cân vừa nói nhỏ với tổ chuyên án, rằng thân phận thật của sát thủ hoa Tường Vi đã sắp được làm sáng tỏ rồi. Tô My cầm một quả táo, đưa lên mũi ngửi, giáo sư Lương gật gật đầu, lớn tiếng hỏi: “Xe hoa quả này của cậu bán hàng có chạy không?”

    Pudding vui mừng ra mặt, trả lời: “Cũng tàm tạm bác ạ! Hay là bác mua cho cháu nhiều một chút! Chị gái xinh đẹp ơi, lấy hai cân táo nhá!”

    Tô My nguýt cậu một cái, rồi bỏ quả táo lại chỗ cũ.

    Đúng lúc ấy, bỗng đầu đường có tiếng hỗn loạn, mấy chiếc xe đang tiến lại, tiếng phanh xe và tiếng loa hòa vào nhau đinh tai nhức óc. Có người hô to “Quản lí trật tự đến đấy! Mau chạy đi!” Từ trong loa phóng thanh của xe quản lí trật tự vọng ra một giọng nói vừa nghiêm khắc vừa giận dữ: “Đã nhắc bao nhiêu lần là không được bày hàng ở đây cơ mà! Xới hết sạp hàng lên cho ta, thu hết cân về đây!”

    Mấy chục viên quản lí trật tự hùng hổ tiến đến. Xem ra đây là một đợt hành động quy mô lớn.

    Những người bán rong mới nghe tiếng đội quản lí trật tự đã hồn bay phách lạc, vội vàng bỏ chạy, cả một đoạn đường loạn như chim vỡ tổ. Người thì nhảy lên chiếc xe ba gác điện của mình, rú ga phóng thẳng vào trong ngõ nhỏ, có người đạp xích lô kéo vào khu dân cư bên cạnh “lánh nạn”, những người chậm chân thì bị đội quản lí trật tự tóm được, cả sạp hàng bị xới tung, cân bị ném vỡ làm đôi, hàng hóa lăn lóc khắp nơi, những tiếng kêu gào không ngừng vang lên. Những người qua đường đều dừng lại, một số cụ già khi nhìn thấy hình ảnh chấp pháp một cách bạo lực như thế này, trong lòng không biết có gợi nhớ lại những hình ảnh buồn của một thời quá khứ hay không?

    Một tên phốp pháp mặc đồng phục, miệng vẫn còn ngậm tăm, dẫn theo hai người mặc thường phục tiến về phía xe hoa quả của Pudding. Tên béo lớn tiếng quát tháo: “Ai cho mày bày hàng ở đây hả?” Sau khi bốn người tổ chuyên án rút lui vào một nơi an toàn, Pudding cũng lớn tiếng hỏi: “Các ông có giấy tờ gì không hả?” Tất nhiên, câu hỏi đó khiến tên béo nổi trận lôi đình. Hắn lật úp xe hoa quả của Pudding xuống đất, lấy chân giẫm nát một quả táo, nhổ chiếc tăm xuống đường rồi trừng mắt nhìn Pudding gào lên: “Đây chính là giấy tờ đấy!”

    Người phụ nữ bán hạt dẻ rang đường bên cạnh mặt cắt không còn giọt máu, vội vã thu gom hạt dẻ vào trong túi giấy. Hai người mặc thường phục đứng bên cạnh đưa tay giật lấy túi hạt dẻ, rồi vác luôn mấy thùng còn lại ném lên xe. Người phụ nữ quỳ xuống ôm chặt đùi tên béo cầu xin, đứa con của chị đứng bên cạnh sợ hãi khóc thét ầm. Chị phân trần rằng mình là người thất nghiệp, số hạt dẻ này cũng là dùng tiền đi vay mua về làm kế mưu sinh, cầu xin họ tha cho chị lần này.

    Câu trả lời của tên béo là: “Đập nát cái nồi của nó cho tao!”

    Một tên mặc thường phục giơ một quả cân lớn, giáng xuống cái nơi rang đánh rầm một tiếng.

    Con giun xéo lắm cũng quằn, người phụ nữ bán hạt dẻ rang đường như người phát điên, rồi bỗng hành động một cách vô cùng cực đoan. Chị chạy lại giơ đứa con của mình lên đầu, vừa khóc vừa nới bằng giọng đã khàn đặc: “Không trả lại hạt dẻ cho tôi, tôi sẽ ném chết đứa bé này trước mặt các người!”

    Đứa trẻ vô tội mới chừng bốn tuổi, không hiểu vì sao mẹ mình lại có hành động như vậy, chỉ sợ hãi khóc lớn và không ngừng gọi Mẹ… Mẹ…

    Hoàn cảnh trước mắt khiến Họa Long tức giận sôi máu, anh cởi bỏ đồng phục cảnh sát, chỉ còn lại chiếc áo sơ mi trắng phía trong, rồi kéo cao tay áo, cởi mấy cúc trước ngực, lộ ra thân hình săn chắc.

    Họa Long nắm chặt tay quyền, những đường gân xanh trên tay nổi lên rõ rệt. Bao Triển vội vàng ôm chặt lấy Họa Long sợ anh mất bình tĩnh mà xông lên thì hỏng việc.

    Người mẹ đáng thương vừa giơ đứa con trên đầu vừa khóc như mưa, trong mắt chỉ còn lại những lời khẩn cầu tuyệt vọng. Tên béo quả thực là kẻ lòng dạ sắt đá, hắn chỉ cười nhạt rồi chửi thề một câu, sau đó đưa chân đạp vào người mẹ khiến hai mẹ con cùng ngã lăn xuống đất.

    Giáo sư Lương lạnh lùng nói một câu: “Họa Long, cậu còn chờ gì nữa?”

    Cơn giận đã dồn lên đến não, không thể tiếp tục nhẫn nại, Họa Long hét lên một tiếng rồi lăng người trên không, nghiêng mình dùng hết sức đạp mạnh vào đầu tên béo. Chỉ nghe một tiếng “Rầm!”, tên béo không kịp kêu lên đã nằm sõng soài dưới đất. Họa Long tóm cổ một tên mặc áo thường phục, thân người có phần gầy gò đang đứng cạnh đó, ném lên không trung rồi lại một cước đạp hắn bay ra xa. Tên còn lại vội hô hào “đồng đội” đang ở cạnh đó. Mấy chục tên quản lí trật tự xông tới bao vây Họa Long. Dân chúng thấy thế cũng dạt ra ngoài, để lại một khu vực trống, xe cộ cũng phải dừng lại không dám đi qua.

    Họa Long đứng ở chính giữa, mấy chục vị quản lí trật tự như những hung thần bao vây lấy anh. Mọi người đều cảm thấy lo lắng cho Họa Long đang một mình đối mặt với một tập đoàn toàn những kẻ chấp pháp nhưng lúc này chẳng khác gì du côn. Chúng thường xuyên ẩu đả với những người bán rong nên đã hình thành thói quen bạo lực, trong tay còn cầm theo cả vũ khí như thanh sắt, thép ống.

    Xung quanh bỗng trở nên yên tĩnh lạ lùng. Một làn gió thổi qua làm rơi chiếc lá vàng xuống đường phố đầy hỗn loạn.

    Đúng lúc Họa Long định ra tay, thì thấy một bóng người mặc đồ thể thao màu đỏ đánh ngã mấy tên quản lí trật tự, phá vòng vây xông vào. Trong tay anh ta cầm hai chiếc côn trắng, một chiếc đưa cho Họa Long, rồi dùng quy tắc giang hồ của những người học võ, đưa tay lên chào Họa Long, xưng: “Giáo viên trường võ Thiếu Lâm, Trịnh Tuyết Kiếm, nguyện cùng anh sát cánh kề vai.”

    Họa Long đưa tay nhận lấy cây côn, rồi cũng đưa tay chào lại theo đúng lễ nghĩa, nói: “Hân hạnh! Huấn luyện viên Cảnh sát vũ trang, Họa Long.”

    Mấy chục tên quản lí trật tự hét lên rồi xông vào. Họa Long và Trịnh Tuyết Kiếm múa côn như chớp, chỉ kịp nghe thấy những tiếng gậy đập vang lên liên tục, không ít tên quản lí trật tự bị đánh lăn lê trên đất. Trịnh Tuyết Kiếm dùng côn pháp của Thiếu Lâm, Họa Long khi còn nhỏ cũng từng bái sư học võ, và được dạy bài Lục Hợp Côn Pháp[2] nổi tiếng. Hai người kết hợp, mỗi đường côn như hổ báo uy phong, những chiêu thức được kết hợp nhuần nhuyễn.

    Họ giống như những anh hùng đang tỉ thí võ nghệ, vừa chiến đấu vừa có lời khen ngợi đối phương, rồi cũng cố gắng để mình không bị thua kém.

    Một tên quản lí trật tự xông đến, Họa Long dùng một đầu côn lao xuống bàn chân đối thủ, rồi kéo côn giật lên phía trên. Tiếp đó anh xoay một đường, quật ngang người. Cả ba đòn nhanh như chớp, trong nháy mắt đã khiến hắn ngã vật xuống đường.

    Một tên khác ép Trịnh Tuyết Kiếm vào một góc, nhưng Trịnh Tuyết Kiếm nhanh chân tiến lại, dùng chiêu thức côn thuật Thiếu Lâm với tốc độ chóng mặt, khiến mọi người hoa mắt, rồi chỉ nghe một loạt tiếng động, tám chỗ trên cơ thể đối phương, như đùi, gối, ngực, bụng,… đều đã trúng đòn. Chiêu cuối, Trịnh Tuyết Kiếm nhắm thẳng cổ đối phương, hắn ngã gục trên đất, chỉ còn biết kêu cứu.

    Chẳng mấy phút, sau màn ánh côn ánh kiếm, đội quản lí trật tự thành phố bị dạy cho một bài học, chỉ còn lại mấy kẻ đang đứng vòng ngoài. Họa Long và Trịnh Tuyết Kiếm đều bỏ côn xuống, dường như cả hai đều muốn mượn cơ hội này để thể hiện một chút quyền cước của mình. Thế nhưng, mấy kẻ còn lại sau hồi do dự đã không dám xông lên, mà quay lưng bỏ đi. Những kẻ còn đang nằm trên đất cũng lổm ngổm bò dậy, rồi dìu nhau cuốn gói, trông không khác gì một đội quân tan đàn xẻ nghé.

    Những người đứng xem xung quanh vui mừng vỗ tay ầm ĩ cả đoạn đường.

    Một lúc sau, phóng viên của Đài truyền hình mang heo máy quay phim đến. Phía Đài truyền hình vốn định làm một phóng sự về việc đội quản lí trật tự giúp làm thay đổi diện mạo thành phố. Tại hiện trường, người dân vẫn đang vui mừng cười nói sau vụ đội quản lí trật tự bị đánh tơi bời.

    Trước khi phỏng vấn, phóng viên Đài truyền hình đã tìm sẵn ba người thuộc ba thế hệ, dặn họ đứng trước ống kính nói theo những gì đã chuẩn bị. Ông cụ vì trí nhớ không được tốt, cứ ấp a ấp úng, mấy lần không xong: “Cảm ơn… ờ… ờ… môi trường thành phố. Không còn những khu bán hàng rong, tôi đi ra ngoài tản bộ cũng cảm thấy thoải mái!”

    Phóng viên đứng trước máy quay, tay cầm micro, miệng tươi cười nói vào ống kính: “Trong mấy ngày gần đây cơ quan quản lí trật tự Thành phố có đợt ra quân lớn nghiêm khắc chỉnh đốn những đơn vị kinh doanh không giấy phép, các quán hàng lấn chiếm đường phố, vỉa hè. Vừa rồi chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn với ba người thuộc ba thế hệ của thành phố, mọi người đều thể hiện sự ủng hộ nhiệt tình đối với hoạt động này. Điều đó cho chúng ta thấy, trong thành phố không bị ảnh hưởng gì lớn, tâm lí quần chúng nhân dân vẫn rất ổn định, cuộc sống tại đây vẫn diễn ra theo trật tự như những gì vốn có…”

    Một người đứng xem tại đó bỗng hắng giọng một câu: “Hừ! Ổn định trật tự cái con mẹ khỉ ấy à!”

    Mọi người xung quanh nghe thế cũng cười ầm ĩ, khiến phóng viên xấu hổ đỏ cả mặt, vội vàng kết thúc phóng sự rồi rời đi nơi khác.

    Cảnh sát 110 cũng đã tới. Xem ra, trong lúc diễn ra cuộc ẩu đả có người đã báo cảnh sát. Phía cảnh sát hỏi một người trung tuổi đang đứng xem cạnh đó.

    Người này dường như hơi bị nặng tai, xua tay, nhíu mày tỏ ý không hiểu. Cảnh sát phải hỏi mấy lần mới nghe rõ.

    Ông tỉnh bơ nói: “Ở đây làm gì có gì xảy ra đâu! Làm gì có ai đánh quản lí trật tự đâu!”

    Cảnh sát hỏi tiếp: “Thế những vệt máu trên đường ở đâu ra bác có biết không?”

    Ông giơ bốn ngón tay lên trời thề thốt: “Tôi xin thề! Tôi… không biết!”

    Chương 3
    Đại hiệp Hô Lan

    Nếu ta tập trung lắng nghe, tại những ngóc ngách bị lãng quên của cuộc sống, sẽ thấy mỗi cây cỏ yếu ớt cũng đều có những tiếng nói nhỏ bé nhưng vang vọng. Nếu chúng ta dừng lại, cúi xuống gần hơn với mặt đất, sẽ phát hiện ra từng chú kiến nhỏ cũng có nụ cười buồn bã mà kiên cường.

    Mấy ngày hôm sau, những người bán hàng rong lại quay về lấn chiếm lòng đường vỉa hè. Những gì đội quản lí trật tự, đã gây ra và hứng chịu chỉ giống như một cơn gió thoảng qua. Trên nét mặt những con người bươn chải này không hề thấy dấu tích gì của “cơn bão” mới quét qua đó. Đội quản lí trật tự, cũng không điều tra ra ai là kẻ đã đánh họ tơi bời như thế, nên yêu cầu phía công an vào cuộc. Tuy nhiên do có sự can thiệp từ phía Bí thư Ủy ban Chính trị Pháp luật, việc điều tra mãi vẫn không thể thực hiện được.

    Nét mặt Bí thư trầm xuống, ông trả lời đội trưởng đội quản lí trật tự thế này: “Tôi không biết ai đã đánh các anh, tôi chỉ biết chính các anh đã đánh con trai tôi thôi!”

    Pudding được một phen hú vía. Lúc đội quản lí trật tự lật xe hoa quả của cậu, quệt vào làm đầu gối cậu bị thương. Tuy nhiên, không vì thế mà Pudding dừng công tác trinh sát, và chẳng bao lâu sau đó, cậu đã nghe ngóng được một tin tức quan trọng:

    “Sát thủ hoa Tường Vi tên là Hô Lan!”

    Người bán mía gọi anh ta là Hô Lan[3]. Khi nhắc đến cái tên này, người bán mía rất kính cẩn giơ tay lên làm động tác chào của nhà võ, thể hiện sự kính trọng với người được nhắc đến.

    Hai người ngồi ở góc đường tấp nập người xe qua lại, không khí hôm nay thật trong lành, ánh mặt trời sáng lạn. Pudding vừa châm điếu thuốc cho người bán mía, vừa nghe anh ta kể.

    Đại hiệp Hô Lan, có lẽ tên thật không phải là như thế. Anh ta từng gây ra rất nhiều án mà tới giờ vẫn chưa phá giải được, vì thế không ai biết tên thật của người này là gì. Nhưng điều duy nhất có thể khẳng định được rằng đó là một người vùng Đông Bắc. Có người gọi anh ta là Zorro[4] của Trung Quốc. Có người nói anh ta thực ra là một phần tử khủng bố. Người đó võ công cao cường, đến rồi đi không bao giờ để lại dấu tích. Ban đầu anh ta là một tên trộm, chỉ chuyên lấy của người giàu có, rồi mang tiền chia cho những người nghèo khổ. Một ông cụ nhặt rác sống trong căn phòng rách cạnh bờ sông, hồi tết vừa rồi có dập đầu cầu nguyện, hi vọng khi ra đường sẽ nhặt được một túi tiền. Sáng sớm mồng một, có tiếng gõ cửa, nhưng khi ra mở lại không thấy có ai. Ông cụ nhìn thấy trước cửa đặt một bọc tiền, còn người mang nó đến thì đã không thấy đâu nữa. Còn một chi tiết nữa kì lạ hơn, là lúc đó trời đang rơi tuyết, nhưng trên nền đất không hề có dấu chân người nào. Bọc tiền kia cứ như rơi từ trên trời xuống thật. Sau đó, đại hiệp Hô Lan phạm phải án giết người. Anh ta bắt đầu đi hết nơi này đến nơi khác trên đất nước. Mỗi khi đến một thành phố nào đó, anh ta đều ra tay “hạ” vài tên tham quan. Khác với những hung thủ giết người khác, anh ta chưa bao giờ giấu giếm thân phận của mình. Luôn để lại trên tường hoặc bên cạnh nạn nhân dòng chữ “Đại hiệp Hô Lan”. Có người bảo, anh ta đã giết mười mấy người rồi, có người lại bảo là giết mấy chục người, nhưng con số cụ thể thì không ai rõ. Có những kẻ còn không dám đi báo cảnh sát. Một tên tham quan lương tâm bất chính, nhưng may mắn thoát chết khi trở về cũng không dám báo án. Một người bạn cảnh sát khi đến bệnh viện thăm hắn thì tình cờ biết chuyện. Khi kiểm tra hiện trường, cảnh sát phát hiện ra một két bảo hiểm, được khóa bằng mật mã âm thanh nên không thể nào mở ra được. Cuối cùng, đành phải gọi tên tham quan đại nạn không chết kia tới mở. Khi hắn đọc “Thanh chính liêm minh, vì dân chấp pháp”, cánh cửa két bảo hiểm lập tức bật mở. Một hòm đầy vàng bạc châu báu khiến mọi người đều vô cùng kinh ngạc.

    Tên tham quan đó là người duy nhất từng nhìn thấy mặt đại hiệp Hô Lan. Nhưng điều khiến cảnh sát bất ngờ nhất, là kẻ đó cuối cùng đã chết trong bệnh viện, với một nhát dao. Phía cảnh sát sau nhiều năm điều tra, lấy chứng cứ, nghiên cứu, phân tích, do thám, nhưng vẫn không có được đầu mối có giá trị nào, vụ án không hề tiến triển. Lãnh đạo tổ điều tra từng tuyên bố: “Đừng nói đến việc bắt được hung thủ, bất cứ ai có thể cung cấp manh mối về hung thủ, cá nhân tôi sẽ thưởng người đó một trăm nghìn tệ!” Cũng trong năm đó, ngày 26 tháng 9, vị lãnh đạo này chết thảm ngay tại nhà mình. Hung thủ dùng một con dao tự chế, khắc lên tường một dòng chữ, rồi cắm con dao lên đó. Có thể thấy rằng người đó có sức mạnh phi thường như thế nào. Nghe nói con dao đó được mài từ mảnh bom, có dùng cả đời cũng không hỏng nổi. Hàng chữ trên tường như sau: “Đây chính là con dao của tôi! Để lại cho các người làm kỉ niệm vậy!” Và từ đó, đại hiệp Hô Lan mai danh ẩn tích, không còn xuất hiện nữa.

    Pudding nghe chuyện mà mắt tròn mắt dẹt, hỏi lại với giọng đầy nghi ngờ: “Chuyện này là thật hay giả đấy?”

    Người bán mía kéo tay áo lên, đưa mắt nhìn về phía xa xăm, nói với giọng đầy cảm thán: “Đại hiệp Hô Lan quay trở lại rồi!”

    Pudding vừa cười vừa nói: “Cái anh này, chắc lại đọc tiểu thuyết kiếm hiệp nhiều quá đây mà!”

    Người bán mía nói với giọng nghiêm chỉnh: “Biết đâu, một người nào đó trong đám người qua kẻ lại trên con đường này, lại chính là đại hiệp Hô Lan ấy chứ. Người đó có thể là cậu, cũng có thể là tôi.”

    Pudding dọn dẹp xe hàng, rồi trở về báo cáo lại với tổ chuyên án. Cậu hỏi lại tổ chuyên án về thực hư người có tên đại hiệp Hô Lan, và trong hồ sơ bí mật của phía cảnh sát có ghi chép gì về đại hiệp Hô Lan này không?

    Giáo sư Lương nghĩ một lát, gật đầu rồi lại lắc đầu. Tô My định nói gì đó, nhưng thấy giáo sư Lương không lên tiếng, lại thôi.

    Tối hôm đó, một vụ án mạng lại xảy ra. Đội trưởng đội quản lí trật tự bị chết trong sân cơ quan quản lí trật tự. Chân phía dưới bị nhét vào miệng.

    Tổ chuyên án lập tức đến ngay hiện trường, khi đi đưa theo cả Pudding. Giáo sư Lương sợ phía quản lí trật tự nhận ra Họa Long, nên để tránh phiền phức sau này, đành bảo anh lánh mặt không xuất đầu lộ diện. Đây là lần đầu tiên trong đời cảnh sát của mình Pudding được tận mắt điều tra hiện trường một vụ án mạng, trong lòng cảm thấy vừa mong chờ vừa căng thẳng.

    Đội trưởng đội quản lí trật tự chính là tên béo đã lật xe hoa quả của cậu. Hắn còn đạp ngã mẹ con chị bán hạt dẻ bên cạnh. Lúc này, hắn nằm đó, ngay chính tại nhà xe của cơ quan, im lìm không động đậy. Một vết thương chí mạng ngay giữa ngực, một nhát dao đoạt mệnh trúng tim. Vết cắt tại chân hắn cũng “ngọt” như cánh tay của tên đội phó. Trên nền xi măng của nhà xe, có thể nhận ra một vết rìu. Lúc đội trưởng đội quản lí trật tự gặp nạn, trong văn phòng vẫn còn vài người nữa.

    Theo những gì họ khai báo, sau khi hết giờ trực ban, đội trưởng đi xuống lấy chiếc xe điện chuẩn bị về nhà, và bị hung thủ giết hại tại đó. Phía cảnh sát phát hiện ra một điều trùng hợp – Trên nền đất tại hiện trường cũng thấy sự xuất hiện của những cánh Tường Vi.

    Hai vụ huyết án, hai người đứng đầu đội quản lí trật tự mất mạng, tại hiện trường đều phát hiện ra những cánh Tường Vi, xem ra đây là do cùng một người thực hiện.

    Giáo sư Lương bật chiếc đèn kiểm tra hiện trường, Tô My lấy máy ảnh chụp lại. Pudding quay sang hỏi Bao Triển: “Em phải làm những gì bây giờ ạ? Anh dạy em với!”

    Bao Triển nói: “Đeo găng tay vào, xem xem trên bóng đèn của chiếc xe điện có để lại dấu vân tay không? Trước khi gây án, hung thủ có thể sẽ vặn tắt đèn xe đấy!”

    Pudding làm theo những gì Bao Triển nói, nhưng không phát hiện có dấu vết gì trên đèn xe. Trên nền nhà xe cũng không phát hiện thấy dấu chân nào.

    Bao Triển gọi cậu lại: “Pudding, lại đây! Chúng ta cùng đi tìm xem sao! Tới những chỗ xung quanh tìm xem có vết leo trèo nào không?”

    Trong sân của đội quản lí trật tự có một cây bạch dương, nằm ngay cạnh nhà xe nơi xảy ra vụ án. Rất có thể hung thủ đã nấp trên đó, chờ cho tới khi đội trưởng xuất hiện thì nhảy xuống gây án, sau đó lại trèo trở lại rồi chạy dọc theo nóc nhà xe thoát ra ngoài. Pudding phát hiện ra một số vết chân trên nóc nhà xe, bước đầu phán đoán rằng hung thủ đi một đôi giày đế cao su.

    Nhưng hung thủ làm cách nào để vào được bên trong? Các cánh cửa sắt của đơn vị quản lí trật tự đều đóng kín, chỉ mở một cánh rất nhỏ, ngoài phòng bảo vệ còn có người trông coi, hung thủ không thể mạo hiểm đi vào từ cổng chính được.

    Bao Triển lấy đèn soi, kiểm tra cột điện phía ngoài bờ tường, nhưng không có phát hiện gì. Cột điện cách tường bao tương đối xa, cho dù là người có thân thủ phi phàm thế nào, cũng khó có thể nhảy từ cột điện sang tường bao được.

    Tô My cũng đẩy xe lăn của giáo sư Lương ra ngoài. Khi ánh đèn kiểm tra hiện trường vừa sáng lên, mọi người đều vô cùng kinh ngạc…

    Trên tường có đến tận năm vết chân!

    Hung thủ đã chạy năm bước trên bờ tường dựng đứng!

    Bao Triển lấy thước đo lại độ cao của tường bao, Tô My lấy máy quay lại dấu chân từ nhiều góc độ rồi mang thước phim về Cục. Giáo sư Lương lập tức gọi Họa Long đến, rồi bảo Bí thư Tiêu gọi thêm vài cảnh sát vũ trang. Mọi người tìm một bức tường để làm thí nghiệm. Bức tường bao phía ngoài hiện trường cao hơn bốn mét. Sau khi chạy lấy đà, hung thủ dùng tay không trèo lên tường. Điều này ngoài Họa Long ra, không có ai trong đội Cảnh sát vũ trang có thể làm được.

    Trong lần thử đầu tiên, Họa Long cũng thất bại vì tốc độ chạy lấy đà quá nhanh, suýt nữa đâm cả vào tường.

    Lần thứ hai, Họa Long điều chỉnh lại tốc độ, chạy thẳng tới bức tường dựng đứng trước mặt. Bước đệm chân đầu tiên lên trên tường vô cùng quan trọng. Lòng bàn chân nhất định phải tiếp xúc hết với mặt tường, để lấy lực đẩy lớn nhất có thể, hướng thân mình lên phía trên. Vị trí đặt chân quá cao hoặc quá thấp cũng không được khi cơ thể bắt đầu vào giai đoạn rơi xuống, phải trong chớp mắt bám được vào thành trên của tường, rồi leo lên.

    Leo tường là một kĩ thuật rất khó, đòi hỏi sự kết hợp hài hòa về tốc độ, lực bàn chân, lực cơ sườn, lực tay,…

    Họa Long chỉ có thể bước bốn bước trên tường, Bao Triển và Pudding thì chỉ được hai bước.

    Họa Long lắc đầu, nói: “Nghe nói Trần đạo trưởng của phái Võ Đang có thể leo tường cao năm mét, các vận động viên Parkour[5] của nước ngoài cũng có thể leo cao năm mét, nhưng tôi không tin lắm. Có điều, nếu được luyện tập thêm một thời gian nữa, có thể tôi cũng sẽ làm được.”

    Giáo sư Lương bảo Bao Triển kiểm tra dấu giày trên cùng, đồng thời yêu cầu phía pháp y làm việc thông đêm để khám nghiệm tử thi. Khi trời sáng, bản báo cáo của bên pháp y đã chuẩn bị xong, giáo sư Lương cho mở cuộc họp về tình hình vụ án, để có những nhận dạng ban đầu về sát thủ hoa Tường Vi.

    Sát thủ hoa Tường Vi là nam giới, chiều cao khoảng một mét bảy năm, cân nặng tầm sáu tám cân, cỡ giày bốn ba, độ tuổi từ hai mươi đến hai lăm tuổi. Đây là một người thân thủ phi phàm, có thể là người từng tập luyện võ thuật hoặc là một cao thủ Parkour. Là người rất căm ghét cái ác, thích gặp chuyện bất bình ra tay tương trợ. Khi xảy ra vụ đội phó đội quản lí trật tự đánh ông cụ bán khoai và đội trưởng đạp ngã hai mẹ con chị bán hạt dẻ, hung thủ đều có mặt tại hiện trường.

    Pudding ngắt lời giáo sư Lương, nói: “Lúc đó, chúng ta cũng có mặt tại hiện trường, như thế có nghĩa là sát thủ hoa Tường Vi khi ấy đang ở ngay cạnh chúng ta sao?”

    Giáo sư Lương trả lời: “Đúng thế! Hung thủ đã chính mắt nhìn thấy cảnh đội quản lí trật tự hành hung dân thường. Hắn ngấm ngầm theo dõi mục tiêu, rồi có sự chuẩn bị nhất định, dùng một loại hung khí giống như rìu để chặt chân và tay của nạn nhân. Đây là biểu hiện của một hành động trừng phạt. Tay và chân đánh người bị nhét vào miệng ý muốn nói rằng họ phải tự nhận lấy quả báo về mình.”

    Bao Triển lên tiếng: “Có một người rất ăn khớp với những đặc điểm trên.”

    Họa Long hỏi: “Ai cơ?”

    Bao Triển trả lời: “Chính là anh chàng giáo viên trường võ từng kề vai sát cánh với anh trong trận ẩu đả vừa rồi ấy!”

    Bí thư Tiêu chuẩn bị vài phương án vây bắt, nhưng giáo sư Lương cho rằng chưa có chứng cứ xác thực nào chứng tỏ Trịnh Tuyết Kiếm là hung thủ. Họa Long quyết định một mình đến trường võ tìm Trịnh Tuyết Kiếm. Giáo sư Lương lo cho sự an toàn của Họa Long, nhắc anh nhất định phải mang theo súng.

    Họa Long lái xe đến trường võ, Trịnh Tuyết Kiếm đang giảng bài cho các học trò:

    “Chúng ta học võ là để làm gì? Đừng nói với tôi là để tăng cường sức khỏe. Đó là hành động của kẻ nhu nhược. Thế nào là “võ đức”? Đó là báo đáp nước nhà, giúp đỡ dân lành, gặp chuyện bất bình ra tay tương trợ, đó mới là “võ đức” thực thụ! Khi chúng ta nhìn thấy kẻ xấu ức hiếp người tốt, chúng ta sẽ làm gì? Bi kịch lớn nhất của xã hội này không phải là sự hoành hành của kẻ xấu, mà là sự im lặng của người tốt. Chúng ta không những không thể im lặng, mà còn phải ra tay giúp đỡ. Các con muốn cả đời làm kẻ nhu nhược hay muốn thành một vị anh hùng, cho dù điều đó chỉ kéo dài trong vài phút ngắn ngủi. Những gì các con cần có không chỉ là lòng dũng cảm…”

    Họa Long đứng cạnh đó vỗ tay tán thưởng, Trịnh Tuyết Kiếm quay lại cười vui vẻ, cho các học sinh giải tán, rồi bước lại chào Họa Long.

    Họa Long giải thích lí do tới gặp Trịnh Tuyết Kiếm, rồi nói chân thành rằng mình không mang theo súng, chỉ mang theo một chai rượu.

    Trịnh Tuyết Kiếm cười một cách hào sảng, trả lời: “Thế thì tôi sẽ về đồn cùng anh, chúng ta vừa uống vừa nói chuyện, anh cần hỏi gì tôi sẽ trả lời tất cả.”

    Hai phòng thẩm vấn ở sát cạnh nhau. Họa Long đang lấy lời khai của Trịnh Tuyết Kiếm, vừa ghi chép được vài câu thì từ phòng bên cạnh vọng sang tiếng náo loạn. Không hiểu vì sao Bí thư Tiêu lại cho vây bắt người bán mía. Họa Long chưa rõ ngọn ngành, bảo Trịnh Tuyết Kiếm đợi mình một lát rồi đi ra khỏi phòng thẩm vấn. Bí thư Tiêu nói với Họa Long, khi cảnh sát kiểm tra những tài sản để lại của đội phó, thì phát hiện ra bị mất hai thẻ ngân hàng. Trong quá trình điều tra, phát hiện trên camera theo dõi thấy người bán mía từng dùng một trong hai thẻ đó để rút tiền.

    Họa Long bước vào phòng thẩm vấn còn lại, Pudding đang mặc đồng phục cảnh sát, giáo sư Lương đang ngồi bên cạnh cùng cậu thẩm vấn.

    Pudding hỏi: “Bây giờ anh biết tôi là ai rồi chứ? Tôi có bốc phét đâu nào. Cục trưởng Cục công an cũng phải nghe lời bố tôi phải không?”

    Người bán mía vẫn chưa bình tĩnh lại sau cú sốc vừa rồi, chỉ gật đầu lia lịa.

    Pudding nói tiếp: “Tôi là cảnh sát, không phải người bán hoa quả, điện thoại của tôi cũng không phải hàng nhái.”

    Người bán mía lắp bắp hỏi: “Người… Người anh em, nhưng sao cậu lại bắt tôi?”

    Pudding nói: “Người đang đứng cạnh anh bây giờ chính là anh Họa Long mà tôi kể đấy!”

    Người bán mía ngẩng đầu nhìn Họa Long, nhận ra anh chính là người đã đánh nhau với đội quản lí trật tự hôm đó, vội vàng rút trong túi ra một bao thuốc lá, mời Họa Long một điếu.

    Pudding đập bàn: “Còn không chịu khai mau? Anh đã giết đội trưởng và đội phó như thế nào?”

    Người bán mía mặt mày tái nhợt, tay run lẩy bẩy làm rơi cả điếu thuốc xuống đất, vừa muốn cúi xuống nhặt lên lại vừa không dám, rồi lắp bắp nói không nên lời: “Tô… Tôi… Khô… Không dám!”

    Giáo sư Lương nói nhỏ vào tai Pudding: “Lúc thẩm vấn không được ngượng ngùng, hỏi thẳng vào vấn đề chính!”

    Pudding hắng giọng mấy cái, hỏi tiếp: “Hôm qua anh đi rút tiền đúng không? Thẻ ngân hàng lấy ở đâu ra? Không ngờ anh náu mình cũng kĩ đấy chứ nhỉ! Anh có biết võ không? Chẳng lẽ… Anh chính là đại hiệp Hô Lan mai danh ẩn tích kia?”

    Chương 4
    Anh hùng lãng mạng

    Người bán mía cho biết, sau khi anh dọn xe hàng về nhà, thì phát hiện trong thùng xe có một thẻ ngân hàng. Phía sau thẻ còn viết sáu con số, trông có vẻ giống mật mã thẻ. Vì không chắc chắn, nên anh ta cứ thử tìm một cây rút tiền ATM để thử xem sao. Do tâm lí lo lắng, đến lần thứ hai anh ta mới nhập chính xác mật mã. Số dư tài khoản làm người bán mía thót tim – Ba mươi nghìn Nhân dân tệ. Không biết phải làm thế nào, người bán mía rút thử ra mấy trăm tệ trước, rồi lóng ngóng cầm thẻ và tiền rời khỏi đó.

    Giáo sư Lương hỏi: “Tội lừa đảo thẻ ngân hàng, mức khởi phạt là bao nhiêu?”

    Bao Triển trả lời: “Năm nghìn tệ!”

    Giáo sư Lương hỏi người bán mía: “Cậu rút ra bao nhiêu tiền rồi?”

    Người bán mía vội trả lời: “Năm trăm tệ ạ, cháu muốn mua cho vợ cái áo khoác lông vũ.”

    Giáo sư Lương nói: “Cũng may là cậu không phải kẻ quá tham lam, cho dù là dùng thẻ ngân hàng nhặt được để rút tiền, nếu vượt quá năm nghìn tệ, thì cậu đã phạm vào tội hình sự rồi đấy!”

    Đội phó mất hai thẻ ngân hàng. Người bán mía tìm thấy một chiếc, thì chiếc còn lại cũng sẽ nhanh chóng xuất hiện thôi. Ngay khi chị bán hạt dẻ cầm chiếc thẻ còn lại chuẩn bị đi rút tiền, đã bị bảo vệ ngân hàng bắt tại chỗ. Khi thẩm vấn, chị ta cho biết chiếc thẻ ngân hàng này cũng là do mình nhặt được ở dưới đáy thùng giấy đựng hạt dẻ.

    Họa Long thẩm vấn Trịnh Tuyết Kiếm cũng đã có kết quả. Trong thời gian xảy ra hai vụ án mạng, anh ta đều có bằng chứng ngoại phạm. Họa Long vui vẻ tự mình đưa Trịnh Tuyết Kiếm quay trở về trường.

    Giáo sư Lương yêu cầu thả hai người bán hàng rong ra, nhưng Bí thư Tiêu cho rằng nên tạm giữ họ nửa tháng, tăng cường thẩm vấn và đến nhà hai người này lục soát tìm thêm chứng cứ. Giáo sư Lương giải thích rằng, trong tay họ có thẻ ngân hàng của nạn nhân không có nghĩa họ chính là hung thủ, và không có chứng cứ xác đáng để định tội. Cho dù không phá được vụ án này, cũng không thể tùy tiện bắt giam những người vô tội được. Pudding cũng lên tiếng xin với bố mình. Trong mấy ngày đóng giả người bán rong, cậu cũng phần nào hiểu được sự khó khăn của họ. Người bán mía kia có cả một gia đình cần nuôi sống, còn chị bán hạt dẻ vẫn còn con nhỏ ở nhà phải chăm sóc, bây giờ đứa bé chắc chắn đang vô cùng sợ hãi.

    Cuối cùng, Bí thư Tiêu cũng bị thuyết phục, đồng ý thả hai người bán rong về, nhưng vẫn cho người theo dõi.

    Giáo sư Lương cho rằng việc đó không cần thiết, và không ngần ngại nói thẳng: “Hung thủ là một người khác!”

    Cùng với việc các tình tiết vụ án ngày một đi sâu hơn, Bao Triển và chuyên gia giám định dấu vết đã có những kết quả mới. Trên áo của nạn nhân thứ hai, tức đội trưởng đội quản lí trật tự, phát hiện ra sợi dệt thô, trên chiếc áo dính máu có vết hằn của bao tải. Khi gây án, hung thủ dùng bao tải trùm kín nửa người trên của nạn nhân, dùng hung khí đâm vào ngực nạn nhân, máu chảy ra và để lại vết hằn của mặt bao trên áo.

    Tổ chuyên án lật lại từ đầu quá trình gây án:

    Hung thủ là một người, nạn nhân là hai người, cả hai nạn nhân đều bị cùng một hung thủ hành thích.

    Hung thủ có xe, bất kể đó là xe ba gác, xe máy, hay ô tô, thì hung thủ cũng có một chiếc để làm công cụ vận chuyển xác. Nơi nạn nhân thứ nhất bị giết là ở khu ngoại ô, nơi có những bụi Tường Vi mọc um tùm. Qua việc giám định chữ viết, có thể thấy rằng hung thủ đã ép nạn nhân phải viết ra mật mã của thẻ ngân hàng. Sau khi hoàn thành “công việc”, hung thủ không hề giữ lại số tiền ấy cho mình, mà vài ngày sau đó mang hai chiếc thẻ lén ném cho hai người bán rong nghèo khó. Nạn nhân thứ hai bị giết ngay tại đơn vị của đội quản lí trật tự, chứng tỏ hung thủ là kẻ rất to gan. Hắn đi giày đế cao su, dùng bao tải đựng rìu và dao găm làm hung khí gây án. Trước tiên, hắn ném bao tải lên nóc nhà mái bằng trong đơn vị của đội quản lí trật tự, sau đó lấy đà chạy thật nhanh và trèo lên tường bao. Bức tường cao hơn bốn mét, trên tường có năm dấu chân. Kĩ thuật này đến Họa Long cũng rất khó thực hiện được, và tại Trung Quốc, những người làm được như thế cũng không nhiều. Nếu hung thủ là một kẻ bán hàng rong, thì chắc chắn phải là một người có tài năng phi thường nhưng mai danh ẩn tích.

    Bao Triển nói: “Tại hiện trường xuất hiện những cánh hoa Tường Vi, có thể là do đổ ra từ trong bao tải.”

    Tô My nói: “Nếu đó là một người bán hàng rong, thì vì sao hắn phải bỏ hoa Tường Vi vào trong bao tải cơ chứ? Tên sát thủ này cũng lãng mạn quá nhỉ?”

    Theo những phân tích của tổ chuyên án, vào lúc nửa đêm, sát thủ hoa Tường Vi vác theo một chiếc bao tải, trong đó có những cánh hoa Tường Vi và vũ khí. Hắn là kẻ căm ghét cái ác, giết người không phải vì tiền, mà chỉ muốn giúp những người không quen biết báo thù, lấy lại công bằng cho kẻ yếu. Hắn thấy rất rõ những đen tối và bất công của xã hội, trong tim luôn có một ngọn lửa tức giận không bao giờ tắt. Hắn có thể leo tường nhẹ nhàng như một cao thủ võ lâm, nấp sau những cành cây chờ mục tiêu đến, sau đó nhảy xuống đất, dùng một cách thức cực đoan nói với kẻ ác rằng, gieo nhân nào gặt quả ấy, sớm muộn một ngày nào đó những kẻ xấu sẽ phải lãnh hậu quả do chính mình gây ra.

    Hắn là một hung thủ, nhưng xét ở một khía cạnh nào đó cũng là một người anh hùng lãng mạn!

    Đội trưởng và đội phó đội quản lí trật tự bị giết hại, hung thủ vẫn ngoài vòng pháp luật, người thân của nạn nhân kéo nhau lên Cục công an gây áp lực, yêu cầu phá án. Họ cho rằng lực lượng quản lí trật tự và cảnh sát vốn là “người một nhà”, đều là đơn vị chấp pháp. Đúng là như thế, quyền của lực lượng quản lí trật tự thành phố là quyền hạn của những cảnh sát công chức, nhưng tại Trung Quốc lại không hề có đơn vị nào quản lí những cảnh sát này, và cũng không có bộ luật quốc gia nào quy định rõ quyền hạn nghĩa vụ đối với những cán bộ ấy. Nhìn từ thực trạng tại các thành phố Trung Quốc, quy định về chức năng và quyền hạn của đội quản lí trật tự thành phố cũng không có gì thống nhất. Ví dụ, những sạp bán đồ nướng thường thấy trong các khu dân cư gây khói than làm ảnh hưởng đến cuộc sống của cư dân xung quanh, Cục bảo vệ môi trường, Cục Vệ sinh an toàn thực phẩm, Cục công an, Cục công thương đều có quyền quản lí, nhưng chẳng có điều khoản nào quy định rõ ràng, dẫn đến việc đùn đẩy trách nhiệm. Để giải quyết vấn đề về việc trùng lặp trách nhiệm nhiều bên, dẫn đến giảm sút hiệu quả quản lí, năm 1997, chính phủ Trung Quốc đã đưa ra đường lối “quản lí chấp pháp chung”, và bắt đầu thực hiện từ đó. Cho đến nay, lực lượng quản lí trật tự vẫn đang trong thời gian thí điểm, chứ chưa hề có một “danh phận” rõ ràng.

    Người thân của nạn nhân không đồng ý hỏa táng, rời khỏi Cục công an, đưa xác nạn nhân sang Cục xây dựng, rồi lại sang Phòng quản lí chính trị Thành phố. Các lãnh đạo Ủy ban Thành phố bị gây áp lực, nên yêu cầu cơ quan công an tăng cường công tác điều tra, ra hạn thời gian phá án. Người nhà nạn nhân lại đưa xác nạn nhân quay về Cục công an.

    Bí thư Tiêu đích thân đến an ủi gia đình nạn nhân, sau đó mở cuộc họp khẩn cấp, ra hạn định ngày phá án, đồng thời tăng mức treo thưởng lên hai trăm nghìn nhân dân tệ. Thông báo treo thưởng được dán khắp các ngõ ngách, rồi đăng báo, lên truyền hình, với hi vọng có thể nhận được những đầu mối tích cực từ các tầng lớp xã hội. Chỉ cần cung cấp đầu mối phá án, hoặc hỗ trợ phía cảnh sát bắt được hung thủ, số tiền thưởng sẽ được chuyển cho người cung cấp đó một cách tuyệt mật.

    Giáo sư Lương hoàn toàn phản đối phương thức phá án bằng việc treo tiền thưởng. Ông cho rằng hung thủ đang tìm kiếm giá trị bản thân mình, khi thấy mức tiền thưởng tăng cao, rất có thể sẽ có thêm những vụ án khác. Nhưng Bí thư Tiêu vẫn giữ nguyên ý kiến của mình. Ông làm như thế chủ yếu vì muốn an ủi những người thân trong gia đình nạn nhân mà thôi.

    Vài ngày sau, lại có thêm một vụ án mạng nữa xảy ra. Lần này sự việc xảy ra ngay trong thành phố lúc đông người qua lại. Giữa thanh thiên bạch nhật, sát thủ hoa Tường Vi đã xuất đầu lộ diện.

    Sau khi đội trưởng và đội phó gặp nạn, người đảm nhận chức vụ đội trưởng mới nhậm chức xử lí mọi việc văn minh hơn rất nhiều, đôi khi còn cúi chào những người bán hàng rong. Trong ngày xảy ra vụ án, đội trưởng mới dẫn theo đội của mình đi thị sát các con phố. Rất nhiều người đang túm lại xem một thầy tu mãi võ ở đầu đường. Đội quản lí trật tự tiến tới định đuổi thầy tu đi, nhưng ông vẫn tiếp tục mãi võ kiếm tiền mà không để ý tới đội quản lí trật tự. Đội trưởng mới đang định tịch thu đồ đạc của người chống đối thì thầy tu cầm lên một viên gạch, giận dữ nói: “Muốn đánh nhau hả? Tôi không sợ các anh đâu!” Rồi ông hét lên một tiếng, dùng tay đập nát viên gạch. Đội trưởng mới giật mình kinh hãi, vội giải thích: “Chúng tôi chỉ làm đúng luật ông đừng có vội động thủ, người xuất gia không nên gây chuyện ẩu đả chém giết mới phải!” Sau lời khuyên của đội trưởng mới, thầy tu lầm bầm vài tiếng rồi thu dọn đồ đạc, kéo tay áo bỏ đi.

    Những người xung quanh bật cười ầm ĩ.

    Đội quản lí trật tự tiếp tục làm nhiệm vụ. Khi họ đến tịch thu hộp đèn quảng cáo bên ngoài một cửa tim bán hoa tươi ven đường thì xảy ra xung đột. Chủ hàng là một cô gái, cô ôm lấy hộp đèn không cho đội quản lí mang đi. Bạn trai của cô tiến đến lí luận vài câu với đội trưởng mới. Vốn đã nén sẵn sự tức giận vì vừa bị thầy tu lôi ra làm trò cười, đội trưởng mới không còn nhịn nổi cơn tức giận, một chân đạp lên chiếc hộp đèn.

    Cô gái hét lên: “Các người không sợ sát thủ hoa Tường Vi sao?”

    Đội trưởng mới nhìn những người xung quanh với một ánh mắt đằng đằng sát khí, nói: “Mẹ kiếp! Sát thủ hoa Tường Vi là thằng nào? Có giỏi thì đứng ra đây ta xem nào? Ông đây mà lại sợ mày à!”

    Đội trưởng một tay chống nạnh, một tay chỉ vào mặt những người xung quanh, chửi rủa một cách khó nghe.

    Bỗng nhiên, trên thùng xe của đội quản lí trật tự từ lúc nào đã xuất hiện một người đeo mặt nạ màu đen, tay cầm một chiếc rìu cứu hỏa, dáng uy nghiêm. Những người đứng xung quanh giật mình sợ hãi. Không ai biết người đó đã đứng trên thùng xe từ lúc nào, mà chỉ kịp thấy hắn nhảy vút lên cao, động tác nhanh như cắt vung rìu theo một đường vòng cung, nhằm vào đầu đội trưởng mới…

    Tại hiện trường vụ án còn để lại một chiếc rìu cứu hỏa, bên cạnh lốp xe có một chiếc bao tải, bên trong có những cánh hoa Tường Vi và một con dao nhỏ…

    Khi sát thủ hoa Tường Vi bỏ đi, những tên quản lí trật tự đều xanh mặt, không ai dám tiến lên một bước chặn hung thủ lại. Đám người huyên náo đứng dạt sang hai bên mở lối. Sát thủ hoa Tường Vi rẽ vào một con ngõ nhỏ rồi biến mất.

    Sau khi nhận được thông báo, Bí thư Tiêu điều động một lượng lớn cảnh sát nhanh chóng bao vây toàn bộ hiện trường vụ án. Tổ chuyên án tiến hành lấy lời khai của gần một trăm người chứng kiến sự việc, nhưng mỗi người kể một kiểu:

    “Anh ta đeo mặt nạ, còn có cả găng tay đen nữa, mặc một bộ đồ thể thao, nhưng tôi không thấy mặt.”

    “Ôi dồi ôi! Sợ chết khiếp! Tí nữa thì não thằng cha quản lí trật tự bắn cả vào người tôi rồi. Người bịt mặt kia cứ như là “Đội Phi Hổ[6]” trong phim Hồng Kông ấy!”

    “Lúc ấy mọi người đều đang tập trung nghe đội trưởng đội quản lí trật tự mắng chửi, nên tôi cũng chẳng biết anh ta đứng trên xe từ lúc nào nữa.”

    “Giữa ban ngày ban mặt, trước sự chứng kiến của bao nhiêu người, mà dám ra tay giết người như thế, đúng là gan to tày trời. Cảnh sát các anh không biết dùng vào việc gì nữa.”



    Giết người giữa chợ, hung thủ chạy thoát, vụ án làm rúng động cả một thành phố. Bí thư Tiêu và tổ chuyên án lập tức triển khai công tác. Giáo sư Lương lệnh cho Họa Long đến trường võ của Trịnh Tuyết Kiếm điều tra trọng điểm tìm ra những học viên có khuynh hướng tư tưởng chống đối và bất mãn với xã hội. Tô My điều tra tất cả những máy quay theo dõi gần hiện trường vụ án. Bao Triển điều tra phân tích những hung khí mà hung thủ để lại tại hiện trường. Trên chiếc rìu cứu hỏa phát hiện thấy vết máu của cả ba nạn nhân, chiếc bao tải và con dao cũng được xác nhận là có liên quan đến hai vụ án trước. Ba vật chứng này tuy có thể khẳng định sát thủ hoa Tường Vi chính là hung thủ trong cả ba vụ án, nhưng không hề cung cấp được đầu mối gì hữu ích cho việc tìm ra hung thủ cả.

    Hung thủ để lại hung khí gây án, nhưng không tìm thấy dấu vân tay hay bất cứ thứ gì thể hiện thân phận của hắn.

    Bí thư Tiêu cả đêm không chợp mắt được, thấp thỏm như kiến ngồi chảo nóng, đi đi lại lại mãi trong phòng làm việc. Hôm sau, ông tăng số tiền treo thưởng lên ba trăm nghìn tệ, và yêu câu đài truyền hình phải đưa vụ án vào mục bản tin tiêu điểm buổi trưa, đồng thời không ngừng cho chạy dòng chữ về số tiền thưởng ở phía dưới màn hình. Bất cứ một vụ án hình sự nào, nếu không có sự phối hợp của lực lượng quần chúng, thì phía cảnh sát sẽ rất khó phá án. Khi số tiền thưởng lên tới hai trăm nghìn tệ, đã bắt đầu có những người gọi, điện cung cấp đầu mối. Hiện giờ, số tiền đã lên đến ba trăm nghìn, số người gọi điện đến đường dây nóng lại càng ngày càng nhiều.

    Đến đêm thứ ba kể từ ngày xảy ra vụ án, một cô gái gọi điện đến 110 báo án.

    Cô gái chính là chủ cửa hàng hoa tươi nơi xảy ra vụ án thứ ba. Tối hôm đó, khi cô và bạn trai kéo cửa cuốn xuống, chuẩn bị đóng cửa, thì bỗng có một người đàn ông mình đầy hơi rượu kéo cửa xông vào. Nhìn kĩ thì đó là một thanh niên trẻ tuổi, khôi ngô tuấn tú, uống say đến mức mặt đỏ như mặt trời, hai mắt mở trừng trừng.

    Anh ta nói muốn mua một bó hoa, nhưng sau đó lại bảo quên không mang tiền.

    Cô gái nói: “Thế thì để ngày mai quay lại vậy?”

    Người thanh niên đó bỗng tỏ ra vô cùng căng thẳng, hỏi cô gái có nhặt được thứ gì không? Cô gái hỏi lại đó là thứ gì? Anh ta trả lời đó là một chiếc máy ghi âm mà mấy hôm trước vô tình để rơi trước cửa tiệm. Khi cô gái lắc đầu nói không thấy, bỗng dưng người thanh niên đùng đùng nổi giận, túm chặt cổ cô gái, rồi rít giọng qua kẽ răng: “Mau trả lại máy thu âm cho tao, nếu không tao giết!”

    Bạn trai cua cô gái sau hồi do dự, đưa tay với một chiếc bình hoa bên cạnh, đập lên đầu hung thủ khiến hắn ngất ngay tại chỗ.

    Sau đó họ gọi cho 110 báo án.

    Cảnh sát 110 bắt kẻ say rượu về đồn, tiến hành thẩm vấn sơ bộ. Những vụ việc thế này xảy ra thường xuyên, nên không ai để ý đến người thanh niên say rượu này cả. Thế nhưng, trong khi làm ghi chép lời khai, câu nói đầu tiên của hắn khiến người cảnh sát lấy lời khai phải giật mình hoảng hốt.

    Cảnh sát hỏi: “Tên gì?”

    Hắn ngẩng đầu lên, nói: “Sát thủ hoa Tường Vi.”

    Chương 5
    Câu chuyện hoa Tường Vi

    Sát thủ hoa Tường Vi sa lưới, thông tin đó nhanh chóng truyền đi trong nội bộ cảnh sát, mọi người đều cảm thấy vô cùng lạ lùng. Sát thủ hoa Tường Vi gây án không để lại vết tích, thân thủ siêu phàm, ba vụ án đều cho thấy đây là một con người rất cẩn thận và tỉ mỉ. Một hung thủ giết người giữa ban ngày cũng không để lại một dấu tay nào, một người võ công cao cường có thể chạy năm bước trên tường cao như thế, lại có thể uống say bí tỉ rồi đến một cửa hàng bán hoa tươi gây sự, cuối cùng bị cô gái chủ tiệm tống vào đồn cảnh sát.

    Lúc đó, người cảnh sát tiến hành ghi chép lời khai báo cáo cấp trên như sau:

    “Tôi không nghĩ rằng việc bắt được sát thủ hoa Tường Vi là một điều ngẫu nhiên, đó là một kết quả chỉ mang tính thời gian mà thôi. Những kẻ làm việc bất nghĩa sẽ có ngày sa bước. Lưới trời lồng lộng, thưa nhưng không lọt. Dưới sự thẩm vấn một cách có chiến lược của tôi, phòng tuyến tâm lí cuối cùng của hung thủ đã bị công phá. Sát thủ hoa Tường Vi đã khai nhận hoàn toàn quá trình và hành vi phạm tội của mình trong ba vụ án trên.”

    Tổ chuyên án cũng tiến hành thẩm vấn sát thủ hoa Tường Vi. Bí thư Tiêu và Pudding ngồi bên cạnh theo dõi.

    Trước mặt họ là một thanh niên tuấn tú, mặc trên người bộ đồ thể thao, khuôn mặt hắn đầy những dấu vết ẩu đả, chân mang xích, tay đeo còng, đây cũng là “đãi ngộ” dành cho những tên trọng phạm. Nét mặt hắn vẫn rất bình tĩnh, không có vẻ gì hoang mang, các nét trên khuôn mặt rõ ràng và sắc nét, dù sẽ rơi vào cảnh lao tù nhưng thần thái vẫn rất ung dung tự tại.

    Giáo sư Lương: “Tên gì?”

    Sát thủ hoa Tường Vi: “Trần Quảng.

    Giáo sư Lương: “Bao nhiêu tuổi?”

    Trần Quảng: “Hai mươi hai.”

    Giáo sư Lương: “Nghề nghiệp?”

    Trần Quảng: “Nhà báo…”

    Ôi những ngày thơ dại ta bước trên con đường đầy hoa cỏ.

    Ôi những năm tuổi nhỏ ta đi dưới ánh đèn chiếu khắp xóm thôn.

    Nhà của Trần Quảng nằm ở vùng ngoại ô. Bốn gian nhà gạch mái bằng nằm giữa cây cỏ ngàn hoa. Trên giậu thưa trước sân, bên cạnh đống rơm vàng, cho đến ven bờ ao, trên nóc trạm thủy điện, đều mọc um tùm những khóm hoa Tường Vi. Những khóm Tường Vi dại này có sức sống mãnh liệt, người dân trong thôn làng hàng năm đều phải mang dao ra phát quang, tia sửa lại, nếu không chúng sẽ mọc lan vào trong sân, rồi lên đến nóc nhà nóc bếp.

    Bố của Trần Quảng là một công nhân trong nhà máy thép cán nguội, quanh năm suốt tháng phải làm việc trong khu xưởng mịt mù bụi gỉ sắt, rồi bị ung thư phổi mà qua đời.

    Mẹ của Trần Quảng bán sủi cảo chiên, một món ăn vặt ngoài đường phố. Thời gian trôi đi cùng những tháng ngày mưa gió, chẳng mấy chốc mà mẹ cậu đã bán bánh được hai mươi năm.

    Ngày còn nhỏ, Trần Quảng hận mẹ vô cùng. Cậu trách mẹ không có một công việc nên hồn. Mỗi cuối tuần không phải đi học, mới sáng sớm tinh mơ cậu đã phải kéo xe hàng vào trong thành phố để bán đồ ăn sáng. Mẹ đứng ở giữa, cậu và chị gái đứng hai bên, ba mẹ con dồn sức kéo chiếc xe đi trên con đường làng rải nhựa cũ kĩ. Hai bên vệ đường, những đám Tường Vi nở rộ, chân trời tràn ngập màu hoa tươi. Mặt ao in bóng những lùm hoa phủ thêm lớp sương sớm như làn khói mờ ảo. Nhưng tất cả những điều đó đều chẳng có liên quan gì đến những ý thơ lãng mạn hay một bức họa đồng quê bắt mắt. Vì trên chiếc xe của họ bấy giờ đang chở theo nào bột mì, dầu mỡ, lá hẹ, miến dong, ghế ngồi, bàn nhỏ, gậy tre, bếp lò và cả xoong nồi bát đũa.

    Hai đứa trẻ nhỏ xếp sẵn những bộ bàn ghế nhỏ xuống dưới chân bức tường thành cũ kĩ, rồi dựng những chiếc gậy tre thành khung lều, giăng mấy tấm nhựa áo mưa lên trên gọi là có nơi che mưa che nắng.

    Người mẹ nhào bột, bỏ nhân hẹ và miến vào trong, làm thành bánh, cho vào nồi dầu sôi rán lên vàng ruộm, rồi vớt ra để trên chiếc giá sắt bên trên chảo dầu cho ráo bớt. Từ lúc tờ mờ sáng cho đến giữa trưa, mặc dù không ít khách đến ăn hàng, nhưng vì mua bán nhỏ lẻ, thu nhập vẫn chẳng được là bao.

    Những tháng ngày phải cùng mẹ đi bán sủi cảo chiên là quãng thời gian Trần Quảng cảm thấy gian nan nhất. Cậu sợ mình sẽ gặp phải bạn bè cùng lớp, sẽ bị chê cười.

    Bất cứ đứa trẻ nào lớn lên trong một gia đình nghèo khó đều có thể hiểu được chút tư tưởng hư vinh này của cậu bé. Tính cách của cậu càng ngày càng tự ti, sống nội tâm, âm trầm ít nói, và chẳng mấy khi thấy cậu cười vui vẻ. Cậu bé đứng ngồi không yên nơi quán cóc vệ đường, mãi mãi nhớ một câu mẹ từng nói: “Quảng à! Sau này con vào Đại học, sẽ không phải đi bán sủi cảo với mẹ thế này nữa rồi!” Điều đó trở thành động lực khiến cậu luôn cố gắng phấn đấu hơn người. Cậu muốn thoát khỏi cuộc sống thui thủi với nghèo đói này, và cậu đã làm được khi thi đậu vào một trường đại học về truyền thông.

    Chị gái gả chồng rất xa, tới tận một thị trấn vùng biên giới. Chị gái và anh rể của cậu cũng bắt đầu bán sủi cảo ở đầu kia của thị trấn nhỏ. Cậu vẫn thường tự viết thêm vào những câu ca dao đại ý như thế này:

    Con vua thì lại làm vua

    Con sãi ở chùa thì quét lá đa

    Con nhà nghèo đói như ta

    Mạt đời suốt kiếp vẫn là dân đen.

    Đời cha thời đã làm quan

    Đời con đâu lẽ không nên cơ đồ

    Cha giàu nứt vách đổ kho

    Con thời nào phải âu lo ba đời!

    Mỗi lần nhìn thấy món trứng gà tráng, Trần Quảng lại nhớ về chị gái. Lúc còn nhỏ, trong những ngày tháng tuổi thơ chua chát ấy, nhà cậu đến trứng gà cũng chẳng có mà ăn. Trên cây Vu trước sân có một tổ ong, dưới gốc cây là ổ gà đẻ. Sáng nào cậu cũng theo chị ra đó xem gà có đẻ trứng hay không. Chị gái cậu là cô bé rất biết điều. Mỗi lần tráng được đĩa trứng gà, cô đều để dành cho mẹ nửa đĩa, phần còn lại đều nhường hết cho em trai, và chỉ vài miếng là Trần Quảng đã ngốn sạch tinh.

    Chị gái thèm quá cũng chỉ nuốt nước miếng, rồi cầm chiếc bánh bao chay lên cắn một miếng thật to, thêm một miếng hành lớn cho đến khi nước mắt nước mũi giàn giụa.

    Tình cảm chị em dù thân thiết nhưng cũng có những lúc chành chọe nhau, đứa này túm tóc đứa kia mà kéo.

    Chị gái quát: “Bỏ tay ra!”

    Em trai cũng không vừa: “Không bỏ ra đấy!”

    Chị gái quát tiếp: “Mày muốn ăn chửi hả?”

    Em trai chẳng chờ chị kịp chửi đã nói ngay: “Con mẹ mày!”

    Chị gái tức giận lườm em trai, chửi lại: “Bố nhà mày!”

    Người mẹ nhìn thấy vội chạy lại kéo hai đứa nhỏ ra. Khi đó bố chúng vẫn còn sống, nhưng ông hay uống rượu. Ngày tháng trôi qua, những vỏ chai rượu của bố chúng đã chất khắp nhà. Cứ một thời gian, hai chị em lại lấy chiếc bao tải bỏ đống chai vào rồi vác xuống chợ bán phế liệu. Chị gái không nỡ tiêu số tiền của mình, nên tích cóp dần trong một cái chai nhỏ, còn Trần Quảng được đồng nào là mang đi mua sách về học.

    Sau này, khi bố đã mất, mẹ phải vất vả lắm mới nuôi được hai chị em khôn lớn thành người.

    Một ngày nọ, mẹ nói với con gái: “Nê à! Con cũng không còn nhỏ nữa rồi! Đã đến lúc phải kiếm một tấm chồng rồi con ạ! Đừng đi học nữa!”

    Chị gái Trần Quảng bùi ngùi nói: “Mẹ ơi! Con vẫn còn nhỏ mà! Con muốn học Đại học!”

    Người mẹ khuôn mặt u uất buồn rầu, bảo: “Cả hai chị em, mẹ không nuôi nổi! Số tiền sính lễ của con vừa hay có thể để em Quảng của con nộp tiền học phí!”

    Chị gái Trần Quảng rưng rưng dòng lệ, nói: “Mẹ ơi, sao số con khổ thế này!”

    Ngày cậu em trai thi đỗ vào Đại học, hai chị em cùng nhau chạy xuống dưới phố thông báo với mẹ tin mừng. Cả hai cứ thế chạy mãi, chạy mãi, trong lòng vui sướng đuổi bước chân trên nẻo đường quê, những khóm hoa Tường Vi hai bên đường cũng đã ngoi ra đến gần mặt nước, soi bóng dưới ao. Chúng chạy qua con đường rải nhựa giữa làng, những cành Tường Vi ở đây như những cánh tay vui mừng vươn ra chào đón, một số trong đó vươn quá dài đã bị xe cộ đè lên khi qua lại. Cứ thế, chúng chạy đến quán cóc bên dưới chân tường thành cũ kĩ, mà thực ra bức tường thành ấy từ lâu đã không còn ở đó nữa rồi, chỉ có những đứa trẻ như chúng mới nhớ về bức tường như thế. Mấy năm gần đây, quy mô thành phố mở rộng, những mảng tường rũ đã bị dỡ đi để thay bằng tường bao và những ngôi nhà mới.

    Quán cóc của mẹ chúng bị đội quản lí trật tự xới tung, chảo dầu bị họ đập cái rầm một tiếng. Dầu sôi trong chảo bắn lên miệng, lên mặt người mẹ đáng thương. Lưỡi mẹ chúng phỏng một vết, một nửa mặt da tróc thịt bầm.

    Trên nền đất mọi thứ tan hoang, người mẹ đang lăn lóc trên chính nơi tan hoang ấy, chị gái khóc lớn lạc cả giọng.

    Đội quản lí trật tự lạnh lùng bỏ đi, họ không nhìn thấy trong ánh mắt trầm lặng của chàng thiếu niên đang cuộn lên sự căm thù và oán hận.

    Người mẹ được đưa vào bệnh viện, không ăn uống được gì, phải nằm trên giường nửa năm mới phục hồi sức khỏe. Dưới sự hòa giải của ban quản lí thôn xóm, đội quản lí trật tự đền bù cho mẹ con Trần Quảng một ít tiền. Sau khi ra viện, người mẹ đã gầy đi rất nhiều và vì khuôn mặt không còn bình thường, bà gần như không bao giờ bước chân ra khỏi nhà nữa, cả ngày chỉ quanh quẩn với nỗi buồn u uẩn. Khoảng một năm sau, người mẹ trúng phong mà qua đời. Chị gái Trần Quảng nói rằng, mẹ cô vì tức mà chết. Bà không thể nào hiểu được vì sao mình có thể bán quán dưới chân tường thành suốt hai mươi năm mà giờ đây lại không được bán nữa.

    Chẳng lẽ hình ảnh thành phố quan trọng hơn quyền lợi và sự mưu sinh của dân chúng hay sao?

    Sau khi tốt nghiệp Đại học, Trần Quảng được nhận vào thực tập tại một tòa báo. Vương Văn Đào là một đồng nghiệp vô cùng có kinh nghiệm, thường ngày yêu thích luyện Karate. Vương Văn Đào động viên cậu đi học võ, Trần Quảng rất có năng khiếu, khả năng bật cao khiến mọi người đều kinh ngạc, khi còn trên ghế Đại học cậu từng giành danh hiệu quán quân nhảy cao của trường. Chỉ sau vài tháng, Trần Quảng đã có thể thực hiện nhiều động tác khó của Karate.

    Vương Văn Đào nói với cậu: “Mục đích học Karate của anh là để phòng thân thôi, chứ anh chẳng biết thế nào là “gặp chuyện bất bình, rút dao tương trợ” cả!”

    Trần Quảng hỏi: “Làm phóng viên nguy hiểm lắm phải không anh?”

    Vương Văn Đào trả lời: “Làm phóng viên thì không nguy hiểm, nhưng muốn làm một phóng viên có lương tâm thì không an toàn chút nào! Thỉnh thoảng có thể sẽ bị đánh, hoặc là bị bắt gì đấy!”

    Trần Quảng hỏi lại: “Lương tâm, chẳng phải là thứ đạo đức tối thiểu mà một người phóng viên cần có hay sao?”

    Vương Văn Đào cười nhạt trả lời: “Cái gì mà đạo đức lương tâm hả chú! Trước tiên chú phải giữ được công việc của mình đã rồi hẵng hay! Có một số việc chúng ta không được phép viết, không được phép đưa tin đâu?”

    Trần Quảng hỏi: “Là những việc gì ạ? Em vừa vào nghề, nên còn phải học hỏi nhiều lắm. Có gì anh cứ chỉ dạy!”

    Vương Văn Đào nói: “Ở nước ngoài, một đoạn tin về vùng thiên tai có thể truyền đi khắp thế giới chỉ trong vòng mười phút. Còn ở Trung Quốc chúng ta, có những sự việc có thể khiến tất cả các đơn vị truyền thông trong vòng mười phút phải câm lặng!”

    Trần Quảng vẫn còn mơ hồ, hỏi lại: “Em vẫn chưa hiểu lắm, anh có thể nói cụ thể hơn được không?”

    Vương Văn Đào nói một cách thần bí về một con số, một tên người, và bốn chữ, là tên một văn bản nào đó.

    Trần Quảng dường như hiểu ra điều gì đó, chỉ cúi đầu gật gật.

    Sau khi làm công tác biên tập được ba tháng, lãnh đạo quyết định để cậu ta làm phóng viên chuyên phỏng vấn lấy tin. Vương Văn Đào lái một chiếc xe Jeep cũ kĩ đưa Trần Quảng ra ngoài làm việc. Tin bài đầu tiên cậu làm là câu chuyện về việc viên quản lí trật tự thành phố đánh ông cụ bán khoai. Bài viết đó nhanh chóng gây tiếng vang trong giới báo chí. Các đơn vị báo mạng trong nước và quốc tế truyền tin đi rất nhanh, trong một thời gian liên tục đó là tin tức nóng nhất trên mạng. Các cơ quan liên quan lo sợ bản tin này có thể gây ra những ảnh hưởng không tốt đến xã hội, nên đã ra lệnh cho tất cả các cơ quan truyền thông cấm không được đăng bài viết này. Đúng lúc Trần Quảng đang hồ hởi chuẩn bị đưa bài viết này lên báo giấy, thì lãnh đạo tòa báo đã quyết định cho cậu nghỉ việc.

    Mẹ Trần Quảng vất vả bao nhiêu năm nuôi dưỡng cậu nên người, ăn chẳng dám ăn mặc không dám mặc, tích cóp từng đồng để cậu đi học. Mẹ luôn dạy cậu phải làm người tốt, không được dối gian, thế mà giờ đây chỉ vì những lời nói thật, mà cậu bị cấp trên đuổi việc, làm sao cậu còn có thể tin được, trên thế giới này vẫn còn tồn tại thứ gọi là chính nghĩa và công lí nữa cơ chứ?

    Cậu lái chiếc xe Jeep cũ của Vương Văn Đào trở về nhà cũ. Cửa nhà vẫn đóng kín, bố mẹ đều đã qua đời. Chị gái lấy chồng xa. Cậu đẩy cửa bước vào, những kí ức ngày bé tràn về trong tâm trí, một cảm giác lạnh lẽo xâm chiếm tâm hồn.

    Khi tòa cao ốc lí tưởng trong lòng bỗng dưng sụp đổ cậu đã đứng lên trên chính đống đổ nát này.

    Chưa bao giờ cậu cảm thấy những thứ viết trên báo, trên truyền hình lại giả dối và xào xáo đến như vậy, những bài viết ca tụng người này việc nọ thì ra lại đáng khinh miệt đến thế. Chẳng lẽ cậu phải suốt đời viết ra những lời lẽ trái lương tâm như vậy sao?

    Cậu vốn dĩ muốn xé bỏ mặt nạ của kẻ khác, nhưng đến cuối cùng, lại tự đeo thêm mặt nạ cho chính mình.

    Ngày tiếp theo, cậu ngồi dựa dưới một gốc cây, tâm trạng đã bình lặng như chính mặt nước ao bên cạnh.

    Trong khoảnh khắc đó, cậu nghĩ đến việc tự thực thi công lý.

    Cậu đến một cửa hàng chuyên bán các dụng cụ cứu hỏa mua một chiếc rìu cứu hỏa và một con dao cứu sinh, rồi đến một cửa hàng bán đồ hóa trang mua một mặt nạ đội đầu, một đôi giày, và găng tay làm công cụ gây án.

    Là một phóng viên, cậu có thừa khả năng theo dõi và trinh sát. Cậu dừng xe tại một chỗ tối, nhìn thấy đội phó loạng quạng bước ra khỏi quán ăn. Cậu lái xe đi theo. Khi phát hiện đội phó đi tiểu ở vệ đường, cậu dừng xe lại, giả vờ hàn huyên với hắn mấy câu! Rồi nói sẽ đưa hắn về một đoạn. Đội phó nhận ra Trần Quảng là cậu phóng viên từng phỏng vấn mình nên không ngần ngại lên xe. Đội phó vì uống say nên vừa lên xe đã lăn ra ngủ, khi tỉnh dậy thì phát hiện ra mình đang ở trong một căn phòng tối om, trên cổ còn bị tròng một sợi xích.

    Đội phó đã tỉnh rượu một nửa, gào ầm ĩ, rồi cố gắng thoát ra, nhưng sợi xích vẫn không hề nhúc nhích.

    Trong bóng tối, một người tay chiếc cầm rìu cứu hỏa bước về phía hắn.

    Đội phó gào lên kinh hãi: “Đây là nơi nào? Mày đang làm gì thế hả?”

    Trần Quảng hỏi một cách lạnh lùng: “Đặc điểm của một kẻ súc sinh là gì?”

    Đội phó liếc nhìn cây rìu trong tay Trần Quảng, sợ hãi trả lời: “Tôi… tôi không biết!”

    Trần Quảng nói tiếp: “Không có nhân tính! Súc sinh là bọn mất hết nhân tính!”

    Trần Quảng kéo sáng đèn, cậu muốn tên đội phó phải nhìn rõ khuôn mặt mình, rồi hỏi: “Ông biết tôi là ai không?”

    Đội phó lắc đầu, bảo: “Chắc chắn là cậu nhận nhầm người rồi? Tôi chưa gặp cậu bao giờ cả, chúng ta không có oán thù gì cả.”

    Trần Quảng kể lại: “Tôi là con trai của một bà mẹ từng bị ông đánh và lật tung quán hàng trước đây. Bây giờ tôi lớn rồi, nhưng tôi sẽ không bao giờ quên được khuôn mặt của ông.”

    Đội phó biết mình đang rơi vào tình trạng nguy hiểm, hắn bỗng quỳ xuống xin tha, rồi rút từ ví ra hai chiếc thẻ ngân hàng, viết mật mã lên trên và đưa cho Trần Quảng, chỉ mong được tha chết.

    Trần Quảng nói với đội phó bằng giọng khinh miệt: “Ông nghĩ những người bán rong thì không có lòng tự trọng sao? Và ông có thể tự nhiên giẫm đạp lên họ như giẫm đạp lên bùn đất sao? Họ cứ phải cúi đầu, cúi nữa, cúi mãi, cúi đến khi sát mặt đất, không ngẩng đầu lên được, rồi cứ thế sống, cứ thế sinh tồn. Họ phải còng lưng mỏi gối, cười những nụ cười đáng thương, đứng giữa giá lạnh mùa đông run lên cầm cập, rồi lại phơi mình dưới nắng cháy người đẫm mồ hôi, tất cả chỉ vì muốn kiếm tiền nuôi sống một gia đình, vì muốn sống sót được trên đời này. Ông có nghe thấy tiếng gió thổi ngoài kia không? Ông đã bao giờ nghe thấy tiếng gió rít xuyên qua những rừng cây chưa? Những cơn gió thét gào đó, những cơn gió mang mưa bão đến đó, những cơn gió như những con sư tử khát máu đó ông có nghe thấy không? Nhắm mắt lại nghe kĩ vào đi, đồ điếc! Những ngọn cỏ bé nhỏ mà hàng ngày các ông không coi ra gì, những con người các ông gọi là bọn mọi, bọn dân đen ấy, tôi phải thay họ, tôi phải thay ông lão bán khoai, tôi phải thay người mẹ quá cố của mình, trừng trị ông, đồ súc sinh, lòng lang dạ sói!”

    Ngay sau đó, phía cảnh sát lập tức đến khám xét nhà Trần Quảng. Vết máu trên nền đất mặc dù đã được rửa khá sạch, nhưng bằng nghiệp vụ của mình, cảnh sát vẫn có thể xác định được đây chính là hiện trường đầu tiên của vụ án.

    Trước giậu nhà vẫn đặt mấy bao tải, bên trong là những cánh hoa Tường Vi. Mỗi khi đến cuối thu, những cánh Tường Vi tàn rơi rụng khắp nơi, mặt đất rợp một màu đỏ như máu. Những người dân trong làng bước trên những lớp cánh hoa Tường Vi dày đến mắt cá chân, hương hoa thơm nồng đôi khi khiến người ta say đến phát nôn. Những bông Tường Vi xinh đẹp bỗng trở thành thứ bỏ đi, người dân trong làng gom những cánh hoa lại thành từng bao tải, rồi vứt đi như vứt những bao rác.

    Quá trình vứt xác nạn nhân của Trần Quảng và hai vụ án phía sau tương đối gần với những phân tích của tổ chuyên án. Và vụ án đã đến hồi kết.

    Sát thủ hoa Tường Vi sa lưới, mặc dù vụ án đã được phá giải, nhưng vẫn còn một câu hỏi chưa lời đáp. Chiếc máy ghi âm mà Trần Quảng đánh rơi vẫn chưa được tìm thấy. Trần Quảng cho biết, trong đó có một số tư liệu phỏng vấn trong thời gian công tác, nhưng tổ chuyên án không tin, mà cho rằng trong đó nhất định ẩn chứa điều bí mật quan trọng nào đó.

    Bí thư Tiêu làm theo đúng lời hứa, trao cho cô gái chủ tiệm hoa tươi số tiền thưởng là ba trăm nghìn tệ. Ngoài ra, lãnh đạo Cục xây dựng và Phòng quản lí chính trị Thành phố cũng thưởng cho cô số tiền hai mươi nghìn tệ.

    Khi tổ chuyên án trở về, Pudding và Bí thư Tiêu lái xe tiễn họ ra tận sân bay. Trên xe, họ lại bàn luận về vụ án.

    Pudding nói: “Sát thủ hoa Tường Vi hóa ra cũng không phải ba đầu sáu tay gì. Tổ chuyên án chúng ta chưa làm gì thì hắn đã bị tóm rồi.”

    Bí thư Tiêu nói: “Pudding, con còn phải cố gắng nhiều hơn nữa, sau này giáo sư Lương nhất định sẽ trọng dụng con.”

    Pudding hỏi: “Khi nào thì cháu sẽ trở thành thành viên chính thức của tổ chuyên án ạ?”

    Giáo sư Lương cố ý chuyển đề tài, bảo: “Lần này, hung thủ sa lưới là một điều bất ngờ.”

    Họa Long hỏi: “Khi nào sẽ tuyên án Trần Quảng?”

    Tô My trả lời: “Đã chuyển vụ án cho bên tòa án thẩm vấn rồi! Sau khi tuyên án sẽ xử tử hình.”

    Bao Triển trầm ngâm: “Nói thật, cháu thấy cậu ấy giống như đi tự thú nhiều hơn!”

    Giáo sư Lương ho nhẹ một tiếng, rồi nói: “Người đã bị bắt rồi, nói những điều ấy thì còn ích gì nữa đâu?”

    Bao Triển im lặng không nói gì nữa, mấy người trên xe đều cảm thấy mọi thứ thật vô vị.

    Pudding bật đài radio, mở đến một chương trình ca nhạc.

    “Xin giới thiệu với mọi người Cục trưởng Vương, trưởng Cục quản lí nguồn nhân lực. Xin chào Cục trưởng! Hôm nay, trong ngày sinh nhật thứ sáu mươi của bác, con gái lớn của bác là chị Vương Hiểu Anh, chủ nhiệm Cục tài chính, cùng con rể cả là anh Lý Các Khôi, phó cục trưởng Cục giao thông thành phố, con gái thứ hai, chị Vương Hiểu Hà, trưởng phòng quản lí dân số, con rể thứ hai, anh Quách Lượng, viện phó bệnh viện trung tâm Thành phố, con trai út Vương Hiểu Phi, trưởng khoa kiểm định chất lượng Cục công thương, con dâu Trương Ninh, chủ nhiệm hội phụ nữ Thành phố, và người cháu nội duy nhất của bác là Vương Tiểu Soái lớp phó lớp thí điểm của Thành phố muốn tặng cho người cha, người ông của mình một bài hát mang tên “Cây cổ thụ”…”

    Mọi người đều im lặng lắng nghe bài hát. Tại một góc đường không xa, người bán mía đang xắn tay áo, cất giọng rao hàng.

    Ba tháng sau, Pudding gọi điện cho tổ chuyên án, thông báo đã tìm thấy chiếc máy ghi âm của Trần Quảng.

    Một đêm trước khi Trần Quảng bị xử tử hình, anh ta đã chủ động khai báo sự việc. Nhưng vì lệnh kết án đã được ban xuống, nên không thể thay đổi được nữa. Trước khi chết, Trần Quảng nói ra một nơi bí mật. Pudding dẫn đội cảnh sát đến nơi đó thì phát hiện ra một khoảng đất rộng ngập đầy cánh hoa Tường Vi đã khô héo. Bên dưới những cánh hoa đó có vùi một chiếc hộp sắt nắp kín, bên trong đặt một chiếc máy ghi âm.

    Giáo sư Lương hỏi: “Bên trong máy ghi âm ghi chép nội dung gì?”

    Pudding kể: “Trong đó có nhắc đến một cô gái. Cháu cũng không biết có nên cho cô ấy nghe đoạn ghi âm này hay không nữa.”

    Nội dung đoạn ghi âm như sau:

    “Chắc có lẽ em đã quên lâu rồi. Mấy năm trước, mẹ tôi bị bỏng ngã lăn trên đất. Khi đó em ngang qua, đang đạp một chiếc xe ba bánh chở đầy những bông hoa tươi. Em chẳng suy nghĩ gì nhiều, vứt hết những bông hoa của mình xuống đất, dùng xe đưa mẹ tôi vào viện. Lúc đó, tôi và chị gái chỉ mải chăm sóc mẹ, thậm chí quên cả việc nói lời cảm ơn em.

    Bốn năm Đại học, tôi chẳng yêu ai, vì trong mắt tôi không người con gái nào đẹp bằng em cả.

    Tôi thường đi ngang qua tiệm hoa tươi của em, chỉ để được nhìn thấy em một lát.

    Tôi thấy em mặc một chiếc váy màu trắng, cúi đầu khẽ ngửi một bông hoa màu hồng đỏ, thấy em vừa ngâm nga một khúc hát vừa dọn dẹp cửa hàng, thấy em cười với những người khách ghé thăm, thấy em gắn những sợi ruy băng lên từng bông hồng đỏ, thấy em trêu đùa một chú mèo hoang, thấy em viết lên trên cửa kính của tiệm hoa dòng chữ EVOL. Có lẽ lúc đó em chỉ vô tình viết ra mấy chữ đó, mà có thể em sớm đã quên mất điều đó, vì nó đã xảy ra quá lâu rồi.

    Nhưng, tôi vẫn còn nhớ như in, như thể mới diễn ra ngày hôm qua đây thôi vậy!

    Đó là một mùa Tường Vi nở rộ, tôi lại ngang qua trước cửa tiệm của em. Em đứng cạnh cửa kính, bâng quơ viết lên đó… EVOL, em quay ra, ánh mắt hai ta gặp nhau. Cả hai cùng nhìn đối phương, nhưng không phải cả hai đều quên lãng. Có lẽ với em, tôi chỉ là một vị khách qua đường trước cửa hàng hoa. Nhưng với tôi, em đã in sâu trong tim giống như những cây Tường Vi thâm căn cố đế.

    Tôi thậm chí còn không biết cả tên em, và em cũng chẳng rõ tôi tên gì.

    Đến tận phút cuối cùng, tôi cũng không đủ can đảm mở cánh cửa bước vào cửa tiệm của em.

    Tôi là đứa hướng nội và rất tự ti. Mỗi lần ngang qua nơi em đứng, trái tim tôi lại đập liên hồi. Nhìn thấy dáng em ở đó, tôi lại hồi hộp đến khó thở. Tôi nghĩ rằng tiến về phía em giống như tiến về một vườn hoa tuyệt mỹ. Đã bao lần, tôi muốn mở cánh cửa ấy, chỉ để bước vào mua một bó hoa như bao người khách khác. Có lúc tôi đã mơ tưởng rằng, mình bước vào nơi em đang đứng, mua một bó hồng. Em gói lại cẩn thận, đưa cho tôi rồi nhẹ nhàng hỏi: “Để tặng cho bạn gái anh hả?” Tôi sẽ đưa bó hoa lại cho em và nói: “Hoa này anh tặng em!”

    Đối với tôi mà nói, cửa hàng hoa của em giống như cánh cửa lên Thiên đường. Tôi càng cố gắng tiến lại gần, bước chân lại càng chậm lại, do dự, và do dự, rồi tôi sẽ mất hết dũng khí, tự mình không hiểu có chuyện gì đang xảy ra. Rồi cứ thế, và cho đến những lần sau cũng vậy, mỗi khi đặt chân tới gần đó, tôi lại cảm thấy mình không thể nào bước tiếp. Những xáo trộn và giày vò trong lòng đó không khác gì một cuộc đại chiến Thế giới, không biết em có hiểu không?

    Có lẽ Tường Vi thích hợp với tôi hơn.

    Tôi có thể cho em hàng trăm kỉ niệm về hoa Tường Vi nhưng lại không đủ dũng cảm tặng em một đóa hồng.

    Đến một ngày, tôi thấy em có bạn trai… Tôi nghe thấy em và người ấy than phiền việc không có tiền mua nhà.

    Tôi chỉ có thể chúc phúc cho hai người.

    Em có biết không, tôi đã khóc!

    Tôi không biết mình phải làm gì cho em.

    Bất kể thời gian có trôi đi như thế nào, đất trời có thay đổi ra sao, cho dù Tường Vi nở rồi lại tàn, tàn rồi lại nở, cho dù thành phố này có thay đổi thế nào, và dù cho tôi có còn hay đã chết, thì em cũng sẽ không bao giờ biết, ở nơi góc đường kia, dưới cột đèn đường, trong cơn mưa thành phố, có một người con trai cô độc đã yêu em như vậy…”

    [1] Pudding: Một món ăn dạng thạch.

    [2] Lục hợp côn pháp: Một bài côn đối kháng nổi tiếng và tinh túy của phái Thiếu Lâm.

    [3] Hô Lan: Một huyện thuộc Thành phố Cáp Nhĩ Tân. Trung Quốc. Những người ở đây có câu chuyện truyền tai về một nhân vật mang tên Đại Hiệp Hô Lạn, chuyên hành hiệp trượng nghĩa, diệt trừ nhũng kẻ ác và những Cảnh sát bất lương.

    [4] Zorro: Một nhân vật lịch sử hư cấi u trong t ểu thuyết “Lời nguyền của Caplstrano” của Nhà văn Johnston McCulley vào năm 1919. Zorro được coi là một người anh hùng giấu mặt đầu tiên trong tiểu thuyết Mỹ. Trong tiếng Tây Ban Nha, “Zorro” nghĩa là “Cáo”.

    [5] Parkour: Tên tiếng Anh khác là Free-Running, nghĩa là “Chạy tự do”, được coi như một môn nghệ thuật di chuyển, vừa có màu sắc Thể thao, lại pha chút Võ thuật, và có hơi hướng của một điệu nhảy. Những người tập Parkour có thể không ngừng di chuyển và vượt qua các chướng ngại vật bằng những bước chân thoăn thoắt và những cú nhào lộn ngoạn mục…

    [6] Đội Phi Hổ: Một nhóm cảnh sát đặc nhiệm chống khủng bố trong bộ phim cùng tên của điện ảnh Hồng Kông.
     
    Gum, Đương duy, Dung dung and 4 others like this.
  18. Nhím Nhím

    Nhím Nhím Member
    • 344/373

    Bài viết:
    41
    Đã được thích:
    422
    MƯỜI TỘI ÁC TẬP 2: HIỆN TRƯỜNG VỤ ÁN
    PHẦN 4: PHÁO HOA
    Lời dẫn
    Đóa hoa ấy của tôi đang ở trên một trong những vì sao kia. – Antoine de Saint Exupéry.


    Đó là một cô giáo thân hình phốp pháp, khuôn mặt núc ních những thịt. Không quản trời lạnh, cô vẫn mặc một chiếc váy da bó sát, trên người tỏa ra mùi nước hoa thơm nồng. Cô hích mông chen vào giữa dòng người đang ních lên xe buýt. Qua được vài trạm, trên xe đã không còn cả chỗ đứng. Một lát sau, không biết từ đâu bay ra mùi khét cháy, cô bỗng cảm thấy phía dưới mình có gì đó bất ổn, những thớ thịt trên mặt cô rung lên, cô hét một tiếng hốt hoảng rồi đẩy những người xung quanh dạt sang hai bên. Trước mặt biết bao nhiêu người, cô đưa tay kéo thấp chiếc quần xuống. Nhưng điều khiến mọi người kinh ngạc không phải là hành động của cô, mà là vì tay cô vừa lôi ra một vật gì đó sắp bốc cháy.

    Chương 1
    Cháy

    Thời đại học, chúng ta đều từng nghe rất nhiều những vụ án mạng kinh hoàng. Chẳng hạn như thầy giáo Triệu Lực Mạnh vừa hát vừa giết hại hai học sinh nam trong kí túc, hay như vụ thầy Đàm Huyền vì xích mích trong chuyện tình cảm với cô học trò mà ra tay với cô. Lại có vụ việc mấy chục sinh viên một trường Đại học ở vùng Hoa Trung đánh chết một tên trộm rồi mang chôn xác, rồi vụ hai sinh viên vì chơi game trực tuyến mà xảy ra xung đột, và cả vụ một học sinh lừa một bạn học uống axit sulfuric nữa…

    Ngày 20 tháng 11 năm 2008, tám giờ sáng, tại một trường kĩ thuật phía bắc Trung Quốc xảy ra một vụ án mạng li kì. Một nữ giáo viên bị nổ chết. Cô là giáo viên phụ đạo[1] của trường. Hiện trường vụ án vô cùng thảm khốc: Chiếc váy rách bươm thành từng sợi, cơ thể chịu sức nổ tung văng xa gần bốn mét.

    Lúc đó, một nữ sinh đi ăn sáng, ngang qua nhà vệ sinh đúng lúc có tiếng nổ vang lên. Nữ sinh đó sau này kể lại với các bạn: “Thảm lắm! Bùm một tiếng đã thịt nát xương tan!”

    Phía nhà trường và cảnh sát ngay lập tức phong tỏa thông tin, để tránh việc bàn tán sự việc gây ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày trong trường và các công tác liên quan trong quá trình điều tra. Thế nhưng, những thông tin đó vẫn được các học sinh truyền tai nhau, mỗi người kể một kiểu, nhưng “phiên bản”phổ biến nhất đó là: “Một cô giáo bị giết, hung thủ nhét một quả lựu đạn nhỏ vào người làm nổ tung cả thân xác cô giáo đó.”

    Sau khi vụ án mạng xảy ra, sự sợ hãi bao trùm cả trường học. Một dạo, giá phòng trọ bên ngoài trường tăng vọt, rất nhiều học sinh không dám ở trong kí túc xá, rủ nhau ra bên ngoài thuê phòng trọ.

    Sau khi tiến hành kiểm tra hiện trường, các chuyên gia phòng chống cháy nổ cho biết: “Hung thủ là một kẻ vô cùng thông minh và hiểu biết, cách chế tạo bom cũng rất chuyên nghiệp.”

    Quả bom nhỏ được ngụy trang rất tài tình trong người nạn nhân. Phía cảnh sát vừa điều tra về cách thức hung thủ dùng để kích nổ, vừa báo cáo tình hình lên cơ quan công an cao nhất, xin sự hỗ trợ của tổ chuyên án để giải quyết vụ việc này.

    Bao Triển nhìn qua một lượt hồ sơ vụ án, rồi ngượng ngùng hỏi Tô My xin xem một chiếc băng vệ sinh, Tô My trợn mắt, rồi lí nhí mắng Bao Triển là đồ biến thái, sau đó lấy ra để lên trên bàn. Bao Triển nghiên cứu một hồi lâu vẫn không thể giải thích nổi, làm sao người ta có thể ngụy trang được một quả bom vào trong đó. Họa Long vừa cười vừa nói: “Cánh đàn ông chúng ta đúng là chẳng hiểu tí gì về mấy thứ này của chị em phụ nữ. Nhưng mà tôi lại biết một loại thuốc nổ, tên là “Thuốc nổ dẻo” có thể có liên quan đấy.”

    Thuốc nổ dẻo, còn gọi là thuốc nổ C4, thành phần chủ yếu là Pôli-isô- butilen, dùng thuốc nổ trộn cùng nhựa dẻo mà thành, sức công phá rất lớn. Đây là một loại đạn dược dễ phát nổ với hiệu suất nó rất cao. Thành phần của nó gồm có Tri-nitơ-tôluen (TNT), Semtex (Thuốc nổ dẻo Semtex) và Phốt-pho trắng (WP), đều là các chất dễ cháy nổ, có thể tán thành dạng bột, dễ dàng trộn vào trong nguyên liệu dẻo, sau đó cán thành các hình dạng khác nhau. Nó có thể được giấu ở những vị trí rất kín đáo, và có thể dính vào các loại bề mặt khác nhau giống như kẹo cao su.

    Bạch Cảnh Ngọc giới thiệu thêm: “Thuốc nổ dẻo C4, có thể dễ dàng qua mắt hệ thống an ninh quét bằng tia X-Quang, vì thế các phần tử khủng bố rất ưa dùng loại thuốc nổ này. Trong hòm dụng cụ của các đặc công quốc tế đều mang theo “kẹo cao su” nổ đó. Quả bom hẹn giờ nhỏ nhất thế giới có thể chỉ bằng một viên đậu tương nhưng sức công phá của nó có thể làm nổ tung thủ cấp của một người.”

    Giáo sư Lương bổ sung: “Chúng ta cần hiểu rõ rằng, loại thuốc nổ dẻo mà đặc công sử dụng được ngụy trang giống hệt kẹo cao su, chỉ có một miếng rất nhỏ và mỏng thôi, nhưng có thể làm nổ tung một cánh cửa hoặc một bức tường, vì thế khi bị giấu trong vật dụng cá nhân của cô gái, nó hoàn toàn có thể khiến một con người phải thịt nát xương tan đấy.”

    Bạch Cảnh Ngọc nói tiếp: “Mọi người được quyền lựa chọn có tiếp nhận vụ án này hay không. Tổ chuyên án là do tôi một tay tập hợp lại, tôi cũng không muốn mình bị hao binh tổn tướng đâu!”

    Giáo sư Lương trả lời: “Xin cảm ơn! Tôi hiểu ý của cậu.”

    Quá trình phá một vụ án mạng lớn luôn luôn tiềm ẩn những nguy hiểm. Nhưng Bao Triển, Họa Long, Tô My đều không hiểu vì sao Bạch Cảnh Ngọc lại lo lắng khi họ nhận một vụ án về thuốc nổ như vậy. Bạch Cảnh Ngọc ho nhẹ một tiếng, rồi kể cho họ nghe một câu chuyện liên quan đến giáo sư Lương ngày trước. Trước đây, giáo sư Lương từng bắt được rất nhiều tên tội phạm nổi tiếng xảo quyệt, trong đó có một tên đã vượt ngục và giết chết một đồng nghiệp của giáo sư ở Cục cảnh sát. Khi giáo sư Lương tới được hiện trường, lật xác người đồng nghiệp lên, kẻ đó đã dùng điện thoại kích nổ quả bom được giấu trong xác người cảnh sát đó. Giáo sư Lương đại nạn không chết, nhưng nửa đời còn lại phải gắn với chiếc xe lăn là vì thế đấy.

    Giáo sư Lương ngắt lời Bạch Cảnh Ngọc, rồi nhẹ nhàng nói: “Xuất phát thôi!”

    Người phụ trách phía cảnh sát và hiệu phó nhà trường ra tiếp đón tổ chuyên án. Khắp nơi trong trường đều có thể thấy bóng dáng cảnh sát dắt những chú chó nghiệp vụ đi tuần tra lùng sục. Một số đồng chí tay cầm thiết bị dò tìm lần theo từng tấc đất trên nền sân bóng đá để tìm kiếm manh mối.

    Hiệu phó của trường là một nữ giáo viên, tuổi ngoài năm mươi. Bà cho biết, trường kĩ thuật này đã có lịch sử lâu đời, tổng số giáo viên và học sinh lên đến mấy chục nghìn người. Việc phát triển ngành khoa học kỹ thuật quốc phòng là sứ mệnh của trường, và trong rất nhiều năm đây đều là nơi đào tạo anh tài trong lĩnh vực này. Những người tốt nghiệp từ đây ra không chỉ có lãnh đạo trong giới chính trị, mà còn có các nhà thiết kế vũ khí hạt nhân và các nhà khoa học, viện sĩ trong các lĩnh vực khoa học kĩ thuật mũi nhọn. Mỗi năm cả trường có trên một nghìn hạng mục nghiên cứu. Trong trường, chỉ riêng các phòng thí nghiệm cấp quốc gia đã lên đến vài chục.

    Giáo sư Lương hỏi: “Trong trường có khoảng bao nhiêu người có thể chế tạo thuốc nổ?”

    Bao Triển phân tích: “Các vụ án nổ bom và các vụ phóng hỏa có một đặc điểm chung, đó là hung thủ rất thích gây ra chuỗi các vụ án liên tiếp.”

    Cô hiệu phó nghe đến đây thì hốt hoảng hỏi lại: “Ý cậu là vẫn có thể còn xảy ra những vụ án khác nữa sao?”

    Bao Triển trả lời: “Rất có thể là như thế!”

    Giáo sư Lương nói tiếp: “Chúng ta phải tìm được hung thủ, trước khi vụ nổ tiếp theo xảy ra!”

    Bao Triển tỏ ý đồng tình, nói: “Nếu có lần tiếp theo, số người chết có thể sẽ không chỉ là một người, mà có thể là vài người, thậm chí là cả một tòa nhà hoặc một khu kí túc xá.”

    Cô hiệu phó hốt hoảng nói: “Gì cơ? Cậu không nói đùa đấy chứ? Tôi thay mặt cả trường mong các đồng chí giúp đỡ nhanh chóng giải quyết vụ án này, sớm bắt hung thủ về quy án. Chúng tôi tình nguyện cung cấp tất cả mọi phương tiện hỗ trợ trong quá trình làm việc. Từ xe đưa đón, đến chỗ ở cũng sẽ đặt tại khách sạn năm sao đối diện trường để các đồng chí có điều kiện phá án làm việc tốt nhất.”

    Giáo sư Lương nói: “Tôi đã chọn xong vị trí ở và làm việc rồi!”

    Người phụ trách phía cảnh sát hỏi: “Ở đâu cơ?”

    Giáo sư Lương chỉ tay xuống chính sân bóng đá mà họ đang đứng. Sân bóng rất rộng, màu cỏ đã úa vàng. Từ trên các tòa giảng đường hay các khu kí túc xá của trường cũng đều có thể dễ dàng nhìn thấy nơi này, khung cảnh mênh mông bát ngát. Giáo sư Lương bảo đồng chí cảnh sát phụ trách dựng mấy chiếc lều ngay tại sân bóng để làm “phòng làm việc dã chiến” cho cả tổ chuyên án.

    Đồng chí cảnh sát phụ trách có phần e ngại, nói: “Các mối quan hệ xã hội của nạn nhân rất đơn giản, gần như không tìm thấy ai là kẻ tình nghi trong vụ này, mọi công việc điều tra vẫn đang được gấp rút tiến hành. Nếu hung thủ không phải giết người vì trả thù nạn nhân, thì rất có thể đây là một vụ án chống đối nhằm vào nhà trường hoặc xã hội, hung thủ nhiều khả năng sẽ chuyển hướng mục tiêu sang phía cảnh sát, để gây tâm lí hoang mang hoảng loạn cho mọi người.”

    Họa Long nói: “Trong mắt các phần tử khủng bố, cảnh sát luôn là đối tượng nhắm đến tuyệt vời nhất.”

    Bao Triển tiếp: “Bắt được hung thủ là điều không đơn giản. Chúng ta đang tìm hắn, hắn cũng sẽ đang theo dõi chúng ta.”

    Giáo sư Lương tán đồng ý kiến: “Đúng thế! Chúng ta phải khiến hung thủ dần dần đi từ chỗ tối ra chỗ sáng, cho tới khi rơi vào tầm ngắm của chúng ta.”

    Chẳng mấy chốc, lều trại đã được dựng xong trên nền sân bóng đá. Giáo sư Lương nhắc đồng chí cảnh sát phụ trách chuẩn bị thêm thảm và quần áo chống cháy nổ, và cả người máy phá bom nữa. Xung quanh lều trại không có đường cảnh giới, nhưng được lắp đặt thiết bị camera ghi hình, liên tục hai bốn giờ theo dõi những nhân vật muốn tiếp cận tổ chuyên án.

    Giáo sư Lương nhắc nhở Họa Long, Tô My và Bao Triển, trong trường học vào thời điểm này vô cùng nguy hiểm, bất cứ một ngóc ngách nào cũng có thể là nơi giấu bom. Dù là tổ chuyên án, họ cũng không được cho mình là anh hùng không sợ súng đạn, không được phép một mình ra khỏi lều trại, không được tùy ý chạm vào bất cứ thứ gì trong trường. Việc quan trọng hàng đầu hiện giờ là phải giữ được an toàn tính mạng cho chính mình, thì mới mong có thể phá giải được vụ án này.

    Thái độ và cách thức phá án có phần tiêu cực này của giáo sư Lương khiến mọi người đều cảm thấy áp lực.

    Bao Triển nghĩ, một người túc trí đa mưu lại cẩn thận như giáo sư Lương mà còn suýt mất mạng, chứng tỏ những hung thủ gài bom nguy hiểm đến mức nào.

    Để giúp tinh thần mọi người được thoải mái, giảm bớt căng thẳng, Giáo sư bảo mọi người kể về những câu chuyện thời đại học cho nhau nghe.

    Họa Long nhìn về phía những tòa giảng đường phía trước, giọng nói đầy cảm thán: “Những tháng ngày sinh viên cháu sống chả ra sao, không muốn nhớ lại tí nào cả!”

    Tô My thì khác, đôi mắt cô mơ màng hồi tưởng lại: “Ôi, những tháng ngày đau thương! Hồi ấy cháu cũng từng để mái ngố, rồi mặc váy trắng, tay ôm sách bước trên những con đường mòn đầy cây của trường. Nghe cũng lãng mạn nhỉ! Bây giờ ngồi nghĩ lại, không hiểu sao lại thấy tiếc thương thế chứ!”

    Giáo sư Lương hỏi: “Còn cậu Triển thì sao?”

    Bao Triển nhìn thẳng về một khu kí túc xá, mặt nghệt ra, rồi bỗng nhiên quay sang, trầm giọng, nói: “Ở đó có một người đang dùng kính viễn vọng theo dõi chúng ta.”

    Mọi người giả vờ như không có chuyện gì xảy ra, chỉ liếc mắt dùng một chút tầm nhìn quan sát, không để kẻ theo dõi nhận ra. Trên khu nhà kí túc xá đối diện quả nhiên có người đang dùng kính viễn vọng nhìn về phía tổ chuyên án. Giáo sư Lương lăn bánh xe đến một góc khuất mà kính viễn vọng không nhìn thấy được, gọi điện cho tổ phá bom lập tức chuẩn bị. Một lát sau, một chuyên gia phá bom hộc tốc chạy đến khu lều trại của tổ chuyên án, mệt đến mức thở không ra hơi!

    Giáo sư Lương hỏi dồn: “Tổ phá bom đến chưa?”

    Chuyên gia phá bom trả lời: “Chính là tôi đây!”

    Giáo sư Lương giật mình: “Chỉ có một mình anh thôi sao?”

    Chuyên gia phá bom trả lời: “Những người khác đều xin nghỉ cả rồi! Hung thủ khiến cả trường rơi vào tình trạng khủng hoảng, các đồng nghiệp của tôi cũng thế. Thực ra tôi là chuyên gia chống cháy nổ, nhưng cũng chưa thể gọi là chuyên nghiệp lắm, chỉ là tổ trưởng tổ chống cháy nổ thôi!”

    Họa Long vẫn lơ mơ, hỏi lại: “Có gì khác nhau ở đây sao?”

    Chuyên gia phá bom trả lời: “Tất nhiên là khác nhau rất lớn rồi! Tôi đã tháo quả bom nào bao giờ đâu!”

    Bao Triển nói nửa đùa nửa thật: “Những vụ án giết người bằng bom rất hiếm gặp, lần này coi như anh có đất dụng võ rồi nhé!”

    Phía cảnh sát bí mật tiến hành vây bắt kẻ đang theo dõi tổ chuyên án. Sau đó, chuyên gia phá bom cẩn thận kiểm tra từng ngóc ngách trong phòng kí túc xá của nam sinh viên này, nhưng không phát hiện ra bất cứ vật dễ nổ nào. Tuy nhiên, trong thùng rác của cậu ta phát hiện ra một thứ dạng băng vệ sinh đã sắp cháy thành than, trong ngăn bàn của cậu ta cũng còn vài miếng chưa sử dụng.

    Chương 2
    Nam sinh kỳ quặc

    Rất nhiều lãnh đạo không ngừng gọi điện thoại hỏi thăm tình hình vụ án. Đồng chí cảnh sát phụ trách hết lần này lượt khác phải trình bày lại từ đầu đến cuối tình hình sự việc. Đây là một vụ án cháy nổ đặc biệt, tạm thời đã bắt được kẻ tình nghi, và đang trong giai đoạn thẩm vấn.

    Một lãnh đạo nữ của bộ giáo dục, vừa kinh ngạc vừa sợ hãi hỏi: “Thứ đó làm sao có thể phát nổ được?”

    Cảnh sát phụ trách trả lời: “Hiện giờ chúng tôi vẫn đang điều tra, nên các thông tin của vụ việc không tiện tiết lộ.”

    Vị lãnh đạo này lại hỏi tiếp: “Thế cậu nói cho tôi biết nó có loại sản phẩm của nhãn hàng nào không?”

    Cảnh sát phụ trách lại giải thích tiếp: “Mong chị thông cảm, các chi tiết của vụ án chúng tôi chưa thể công bố lúc này, cũng mong chị giúp giữ bí mật cho!”

    Phía cảnh sát tiến hành điều tra nam sinh viên bị tình nghi. Sinh viên này là một “người có tiếng” trong trường. Rất ít người biết tên thật của cậu ta là gì, nhưng khi nhắc đến biệt danh “Ngỗng Già” thì không mấy ai không biết, thậm chí có thể kể rành mạch những chuyện lạ đời cậu ta từng gây ra.

    “Cái tên biến thái ấy ạ, em biết chứ! Hắn ta thích nhất trò dùng kính viễn vọng nhìn trộm kí túc xá nữ. Có lần gặp hắn thấy ghét quá em còn giơ cả ngón tay thối ra chửi nữa!”

    “Ngỗng Già theo đuổi một bạn hoa khôi của trường. Cách theo đuổi đã đạt tới cảnh giới nghệ thuật rồi ấy ạ! Cậu ra dùng máu viết một bức thư tình dán trong trường, còn mình trần chạy trong cơn mưa, mỗi lần uống rượu vào là lại gây chuyện.”

    “Chẳng lẽ Ngỗng Già có liên quan đến vụ án mạng trong trường sao ạ? Em học cùng lớp với cậu ta, nên rất hiểu. Cô giáo bị nổ chết đó là giáo viên phụ đạo của bọn em. Nếu bây giờ bỏ phiếu chọn ra ai là kẻ đáng nghi nhất trong trường, thì chắc chắn Ngỗng Già là kẻ tình nghi số một. Cậu ta sinh ra chính là để thành một kẻ giết người, đi học đại học là một sai lầm lớn. Em có thể khẳng định, Ngỗng Già dù chỉ vì mục đính muốn nổi tiếng thôi cũng dám giết người đấy ạ!”

    Tô My tra cứu nhật kí trên trang mạng nội bộ trường của Ngỗng Già. Khi vừa bước chân vào trường đại học, cậu ta kể với các bạn rằng nhà mình nuôi ngỗng. Nhưng vì mới lên thành phố, vẫn còn chất giọng quê đặc sệt, nên mọi người chẳng ai hiểu nhà cậu nuôi con gì cho tới khi cậu phải dùng tiếng kêu để mô phỏng. Và từ đó, mọi người đặt cho cậu biệt danh “Ngỗng Già”.

    Trong nhật kí trên mạng của mình, Ngỗng Già công khai nhận phòng cậu có thứ đồ phụ nữ đó. Cậu ta gặp phải rất nhiều bình luận chê cười, chế nhạo nhưng cậu vẫn tiếp tục đăng bài bất chấp mọi người nghĩ gì.

    “Thế mới có chuyện, hoa khôi trong trường còn phải tìm anh ta mượn băng vệ sinh chứ!”

    Bao Triển và Họa Long từng gặp cô bạn hoa khôi được nhắc đến trong bài viết đó. Cô sinh viên chỉ nói rằng Ngỗng Già là một kẻ biến thái.

    Ngỗng Già tuyên bố với tất cả những người mà hắn biết rằng hoa khôi của trường yêu đơn phương cậu. Lúc về kí túc xá, cậu làm mặt nghiêm trọng, kể với Đại Ca, người “đứng đầu” của phòng: “Làm thế nào bây giờ Đại Ca? Hoa khôi trường mình thích tao. Tao có nên làm cao một chút không nhỉ?”

    Đại Ca vỗ lên đùi Ngỗng Già, rồi cũng ra vẻ trầm ngâm đáp: “Người anh em, cứ thuận nước đưa thuyền thôi, nửa tiến nửa ngừng là được!”

    Ngỗng Già không hiểu trong đầu nghĩ gì, bỗng lên tiếng với thái độ kiên quyết: “Làm sao có thể như thế được! Chẳng lẽ Ngỗng Già này lại dễ dàng bị đốn đổ thế sao!”

    Đại Ca nói: “Cái đồ Ngỗng Già này! Bất kể là tự góc độ Hiến pháp, Luật hình sự, hay “Luật rừng”, thì người ta cũng có quyền yêu đơn phương mày, mày có hiểu không hả?”

    Ngỗng Già nhìn ra ngoài cửa sổ, thần trí mông lung, nói: “Tao nóng tính thế này, cô ta mà còn bám lấy nữa, thì đừng có trách tao.”

    Kể từ đó, Ngỗng Già cứ bám theo hoa khôi của trường như ruồi bám mật, cố tình sắp đặt những cuộc gặp tình cờ. Tại góc hành lang phòng học, Ngỗng Già cố tình gật đầu chào hoa khôi rồi nói: “Ơ, trùng hợp thế!”, rồi lại ai đi đường ấy. Tại nhà ăn của trường, khi cô bạn xinh đẹp đang tìm một chỗ ngồi ăn cơm, Ngỗng Già bỗng từ đâu chạy tới, rồi giơ tay chào thân thiết, cậu ta nở nụ cười với hàm răng “xanh tươi” như một khu rừng nhiệt đới (có lẽ vì vừa ăn bánh bao nhân lá hẹ chăng!)

    Cô giáo phụ đạo điều tra vấn đề đạo đức học sinh, nghi ngờ hoa khôi từng phá thai nên thẩm vấn hết lần này đến lần khác. Không thể chịu nổi, nữ sinh này và cô giáo phụ đạo đã có một vụ cãi vã nổ trời. Ngỗng Già bỗng nhiên không rõ từ đâu chạy tới, làm chứng với cô giáo phụ đạo rằng hoa khôi của trường vẫn còn trong trắng. Cô giáo đuổi cậu ta đi chỗ khác, khiến cậu vô cùng bực tức, đưa tay đẩy cô một cái suýt ngã. Vì chuyện này, Ngỗng Già bị cho vào danh sách kỉ luật, còn suýt nữa bị nhà trường đuổi học. Và cũng từ khi đó, bất cứ môn thi nào của cậu ta cũng chỉ được năm mươi chín điểm, và phải thi lại. Cô giáo phụ đạo động lỗi gì cũng trừ điểm chuyên cần của cậu, còn Ngỗng Già chỉ biết cố gắng nín nhịn cho qua chuyện.

    Một thời gian sau, trong lần cô giáo phụ đạo đang đi xe buýt, thì bỗng thấy phía dưới bốc cháy. Cho rằng có người cố ý dùng bật lửa đốt, cô nổi giận rồi cãi nhau với người khách nam đứng bên cạnh mình ngay trên xe.

    Mấy ngày sau đó, giáo viên này bị nổ chết tại nhà vệ sinh của trường.

    Tổ chuyên án đi thăm dò ý kiến khắp trường. Nữ giáo viên này không được mọi người ưa thích cho lắm. Không ít sinh viên có thành kiến với cô, và không chỉ một sinh viên được cô phụ đạo nói rằng cô ta có phần biến thái. Cô giáo này những lúc rảnh rỗi thường tiếp thị cho sinh viên các sản phẩm mình có. Cô giới thiệu cho các nam sinh những sản phẩm chức năng, và giới thiệu cho nữ sinh các sản phẩm chăm sóc da. Cô còn từng làm thí nghiệm cô đặc nước rửa bát để chứng minh với các sinh viên của mình về chất lượng sản phẩm. Thế nhưng, đối với những sinh viên thường xuyên thực hiện các thí nghiệm hóa học về chất nổ thì ngón nghề này của cô giáo chẳng thể nào qua mắt được họ. Có sinh viên còn hỏi thẳng thừng khi cô vừa làm thí nghiệm:

    “Thưa cô! Chúng em cũng chỉ dùng chúng để giặt quần áo, rửa bát dĩa, mua thứ đắt như thế làm gì ạ? Một lọ nước rửa bát mà đến tận ba mươi tệ.”

    “Còn nữa ạ! Nồi cơm mà cô giới thiệu, những tận sáu nghìn tệ. Mức giá trên trời như thế, mà em tính thử chi phí sản xuất chỉ có mấy trăm tệ. Dùng nồi cơm của cô, ông nội đã mất của em có sống lại được không ạ? Hay là nồi cơm ấy bắt được tín hiệu vệ tinh hả cô?”

    Nữ giáo viên vô cùng tức giận, lập tức lớn tiếng tranh luận với những sinh viên này. Về sau, một sinh viên vì nghỉ một tiết mà bị mời phụ huynh tới gặp, còn một sinh viên khác vì ngủ ngày bị trừ điểm chuyên cần.

    Ngỗng Già học chuyên ngành “Chế tạo đạn dược và kỹ thuật gây nổ”, nạn nhân chính là giáo viên phụ đạo của chuyên ngành này. Qua quá trình điều tra, cảnh sát khẳng định vật phát nổ được đặt trong vật dụng cá nhân của nạn nhân. Do Ngỗng Già lại có thói quen quái đản lưu trữ thứ đó, hơn nữa giữa hai người từng xảy ra mâu thuẫn, vì thế các điểm đáng nghi ngờ hiện nay đều chĩa về phía cậu ta.

    Trong quá trình thẩm vấn, Ngỗng Già nói rằng mình có nỗi khổ riêng khó nói. Việc cậu ta có thứ đó là do mình bị trĩ, thường xuyên chảy máu.

    Giáo sư Lương hỏi: “Thế tại sao cậu lại phải đốt bỏ đi như thế?”

    Ngỗng Già trả lời: “Vì cháu sợ các bạn phát hiện ra sẽ cười nhạo, nên ngầm đốt đi.”

    Bao Triển hỏi: “Còn việc cậu dùng kính viễn vọng để theo dõi chúng tôi thì sao? Chúng tôi còn điều tra được là cậu từng nhìn trộm các bạn nữ tắm và thay đồ nữa.”

    Ngỗng Già trả lời: “Chỉ là tò mò thôi ạ! Em chỉ muốn biết mọi người phá án như thế nào thôi! Nhưng em xin thề, em chưa bao giờ nhìn trộm phòng các bạn nữ cả.”

    Đến lượt Tô My lên tiếng: “Cậu và cô bé hoa khôi của trường có quan hệ như thế nào?”

    Ngỗng Già trả lời: “Cô ấy là bạn gái của em ạ! Trong trường mọi người đều biết mà!”

    Tô My nói tiếp: “Cô bạn gái mà cậu nói đã gặp và cho chúng tôi biết cậu từng nhiều lần bảo rằng mình sẵn sàng vì cô ấy mà giết người, cậu còn từng biểu diễn võ thuật dưới sân kí túc của cô ấy nữa đúng không?”

    Ngỗng Già trầm ngâm nghĩ một lúc, rồi bỗng ngã lăn xuống sàn, khắp người co rút, mắt trắng dã, các ngón tay quắp lại như chân gà, toàn thân co giật. Tô My giật mình sợ hãi, giáo sư Lương chỉ cười cười không nói. Bao Triển tiến về phía trước, nhưng anh không hề có hành động cấp cứu, mà dùng hai ngón tay cù vào nách và ức của Ngỗng Già. Ngỗng Già buồn quá không chịu nổi, vội xin tha: “Ối, em không giả vờ nữa, đừng cù nữa!”

    Họa Long vỗ tay tán thưởng: “Cậu diễn tốt lắm! Sao không đi học chuyên ngành biểu diễn?”

    Giáo sư Lương vừa cười vừa hỏi: “Tại sao cậu lại phải giả điên giả dại như thế?”

    Ngỗng Già cầu khẩn một cách đáng thương: “Chú cảnh sát ơi! Cháu không làm gì thật mà! Cháu xin mọi người nói với nhà trường vài câu dễ nghe một chút, nếu không chắc cháu sẽ bị đuổi học mất! Như thế tiền đồ của cháu cũng coi như đi đời rồi. Cháu còn mẹ già sáu mươi tuổi và một cô em gái 9x, các chú bắt nhầm người rồi! Hơn nữa cũng đâu có chứng cứ gì, cháu xin mọi người thả cháu về đi ạ, đừng giam giữ cháu ở đây, cháu sợ lắm…”

    Tổ chuyên án tịch thu kính viễn vọng của Ngỗng Già, rồi thả người ngay sau khi thẩm vấn xong. Mặc dù Ngỗng Già từng có khúc mắc với nạn nhân, và có động cơ gây án, nhưng các chứng cứ hiện tại vẫn không thể chứng minh cậu ta là hung thủ giết gười. Tổ chuyên án quyết định dùng kế sách vờ thả để theo dõi tiếp, cố tình để cậu ta lơi lỏng đề phòng, có thể sẽ tìm được nhiều manh mối hơn nữa.

    Mấy ngày hôm sau, trong một buổi sáng, có người phát hiện ra một chiếc hộp giấy, nghi là có đựng vật gây nổ được đặt trên cửa sổ của phòng giáo vụ.

    Người đi báo án chính là cô sinh viên hoa khôi của trường. Nữ sinh này cho biết khi mình đi lên phòng giáo vụ để nộp bản đăng kí thực tập ngoài trường, thì phòng này vẫn chưa mở cửa. Cô nhìn thấy trên cửa sổ có đặt một chiếc hộp giấy, trong có vẻ như có ai đó tình cờ đặt ở đây. Từ trong chiếc hộp lộ ra ngoài một bảng pin mặt trời, khiến cô sinh viên này cảm thấy bất ổn, và gọi điện báo với cảnh sát.

    Để tránh gây tâm lí hoang mang trong trường, tổ chuyên án không cho phép tin này lộ ra. Phía nhà trường thông báo do có buổi diễn tập phòng cháy chữa cháy, nên tiến hành sơ tán toàn bộ cán bộ giáo viên và sinh viên của tòa nhà ra ngoài.

    Sau khi những người không liên quan được đưa khỏi hiện trường, bốn người tổ chuyên án nhìn về phía chiếc hộp giấy, lắng tai nghe, nhưng bên trong không hề có tiếng đồng hồ kêu. Tuy nhiên, theo những gì quan sát được về cục pin mặt trời và những đường điện lộ ra ngoài, có thể khẳng định trong đó là một vật phát nổ.

    “Quả bom” này được chế tạo hết sức sơ sài, trông giống như một quả bom bán thành phẩm do một người trong lúc vội vàng đã làm ra, rồi thuận tay để lại trên cửa sổ. Hộp giấy không được đóng kín, mà đã mở ra một nửa, thò ra một phần bảng pin mặt trời trong đó. Trước tiên, chuyên gia tháo bom khởi động thiết bị cảm ứng, dò tín hiệu xung quanh, để tránh việc có người sử dụng điều khiển từ xa kích nổ quả bom. Sau đó, sử dụng máy quét tia X để chụp hình phía trong hộp giấy. Nhìn vào bức ảnh quét được, ông phải thốt lên: “Tác phẩm của bậc đại sư! Đây quả là quả bom hẹn giờ do người vô cùng kinh nghiệm chế tạo.”

    Chuyên gia phá bom cho biết: “Loại bom này gọi là bom nguyệt quang, cũng có thể gọi là bom mặt trời.”

    Ông giải thích tiếp: “Chế tạo bom hẹn giờ bằng đồng hồ hẹn giờ, thuốc nổ, ngòi dẫn nổ là công việc của những kẻ non tay. Bom kích nổ bằng điện thoại cũng chỉ có thể coi là hàng nghiệp dư thôi. Loại bom nguyệt quang này là sản phẩm của các cao thủ. Quả bom này được kích nổ bằng một chiếc nhiệt kế đơn giản. Lớp thuốc nổ và lớp thủy ngân nằm bên dưới bảng pin mặt trời, quả bom này được dẫn nổ bằng chính phần thủy ngân đó. Chỉ cần có ngoại lực dù rất nhỏ tác động vào chiếc hộp này, thì việc gì đến sẽ đến. Bên trong quả bom, ngoài hệ thống chống sóc thủy ngân, còn có đường dây hẹn giờ và quang trở. Vào buổi tối dưới ánh sáng mặt trăng, đặt quả bom này ở một nơi tích hợp, đến khi mặt trời mọc, ánh sáng mặt trời chiếu lên bảng pin, nhiệt độ tăng cao sẽ khiến quả bom tự động phát nổ.”

    Giáo sư Lương hỏi: “Cần phải đạt tới nhiệt độ nào mới phát nổ?”

    Chuyên gia trả lời: “Điều này, chỉ có người chế tạo quả bom mới biết được.”

    Mặt trời đã mọc rồi. Ánh sáng sắp chiếu đến tấm pin, và quả bom này có thể phát nổ bất cứ lúc nào. Bốn người tổ chuyên án và chuyên gia phá bom vẫn đứng yên tại chỗ, đến thở một hơi mạnh cũng không dám.

    Bao Triển hỏi: “Liệu có cách nào gỡ bỏ quả bom này không?”

    Chuyên gia trả lời: “Tôi không có kinh nghiệm trong việc này. Tôi chỉ biết ở nước ngoài từng có vài vụ gỡ bỏ không thành công.”

    Tô My nói: “Thế thì chúng ta mau rời khỏi đây thôi để tránh xảy ra thương vong.”

    Chuyên gia trả lời: “Bộ phận hẹn giờ tôi không thể gỡ bỏ được, nhưng có thể gỡ bỏ ngòi dẫn nổ thủy ngân bằng cách dùng cánh tay người máy. Để tôi thử xem!”

    Chuyên gia phá bom lấy ra một chiếc kẹp mỏ cá sấu, chuẩn bị phá hủy đường điện dẫn nổ của quả bom. Động tác của ông vô cùng chậm chạp và cẩn thận. Mặc dù chỉ là động tác đưa chiếc kẹp mỏ cá sấu vào bên trong thùng giấy, nhưng người ông đã toát hết mồ hôi, lưng áo ướt dầm.

    Giáo sư Lương, Bao Triển, Họa Long và Tô My cố gắng giữ bình tĩnh. Kể từ khi tổ chuyên án thành lập đến nay, họ đã trải qua không biết bao nhiêu nguy hiểm, nhưng chưa bao giờ lại có cảm giác đứng trước sự sống và cái chết như bây giờ.

    Trong đầu giáo sư Lương vẽ ra một hình chữ thập, Họa Long dùng mắt nhắc Bao Triển và Tô My lui về phía sau, Bao Triển đưa một tay lên ôm lấy cánh tay kia, không chút động đậy, còn Tô My căng thẳng đến không dám mở mắt.

    Nếu quả bom phát nổ, hậu quả sẽ vô cùng nghiêm trọng, bốn người của tổ chuyên án có thể sẽ có thương vong, thậm chí có thể chết cả đội…

    Chuyên gia phá bom lại cẩn thận, từ từ đưa tay từ trong hộp giấy ra, rồi ông vui mừng thông báo: “Thành công rồi!”

    Nhưng khi ông vừa nói xong, quả bom bỗng dưng phát nổ!

    Chương 3
    Bom nguyệt quang

    Trong khoảnh khắc quả bom phát nổ, cả bốn người của tổ chuyên án và chuyên gia phá bom đều nghĩ đến cùng một điều: “Chuyến này toi mạng rồi!”

    Ánh lửa bùng lên, khói đặc bay khắp phía. Mặc dù phát nổ, nhưng uy lực của quả bom không lớn, chỉ “đoàng” một tiếng như nổ một quả pháo cối mà thôi.

    Bốn người trong tổ chuyên án đều không hề hấn gì, chỉ có bàn tay của chuyên gia bị thương một chút. Mặc dù mọi việc chỉ có thể, nhưng tổ chuyên án vẫn toát mồ hôi lạnh. Nghe tiếng nổ, những cảnh sát đang đứng chờ bên ngoài vội xông vào, rồi nhanh chóng đưa vị chuyên gia đang bị thương lên cáng.

    Một pha thất kinh, xác giấy vẫn bay tứ tung trong gió, mùi lưu huỳnh tỏa khắp không gian.

    Họa Long nói: “Chuyện gì thế này nhỉ? Thế này là thế nào?”

    Giáo sư Lương giải thích: “Đây là một lời cảnh cáo của hung thủ gửi cho chúng ta.”

    Cảnh sát phụ trách nói: “Chúng ta nên cho kiểm tra toàn bộ kí túc xá sinh viên và các phòng thí nghiệm của chuyên ngành chế tạo đạn dược.”

    Bao Triển lại cho rằng: “Người có thể chế tạo bom không ngốc đến mức để chúng ta phát hiện ra anh ta giấu thuốc nổ dưới gầm giường đâu.”

    Tô My giờ mới lên tiếng: “Ôi, sợ quá! Tiếp theo chúng ta phải làm gì đây?”

    Giáo sư Lương nửa đùa nửa thật: “Nhặt rác!”

    Tổ chuyên án lập tức hành động. Họ thu thập toàn bộ những mảnh vỡ nổ ra từ quả bom, sau đó ghép chúng lại và tìm những manh mối hung thủ để lại trong đó.

    Với một vụ án nổ bom, nếu không có người chứng kiến hoặc camera theo dõi, thì rất khó để phá giải được. Vì sau khi nổ tung, tất cả mọi chứng cứ gần như đều bay theo những mảnh vỡ, hơn thế nữa công tác cứu hỏa và cấp cứu bệnh nhân có thể cũng sẽ phá hỏng hiện trường.

    Sau khi hoàn thành công tác kiểm tra hiện trường, Tô My dùng máy tính dựng lại toàn bộ quá trình phát nổ. Một giáo viên của khoa chế tạo đạn dược miêu tả chi tiết quá trình chế tạo loại bom nguyệt quang này như sau: “Bom nguyệt quang nhất định phải được chế tạo vào ban đêm. Các công cụ sử dụng cũng rất đơn giản, chỉ cần một chiếc nhiệt kế thông thường để làm thiết bị dẫn nổ. Sau khi lắp đặt xong, vạch thủy ngân sẽ tăng theo nhiệt độ môi trường, và khi mặt trời lên sẽ dần dần đạt tới nhiệt độ phát nổ.”

    Lượng thuốc nổ mà hung thủ cho vào quả bom vừa rồi không nhiều, vì thế sức công phá của nó không lớn. Theo phân tích của giáo sư Lương, đây là hành động cố ý của hung thủ. Mục đích của hắn không phải là giết người, mà chỉ muốn cảnh cáo phía cảnh sát mà thôi.

    Quả bom này là một lời cảnh cáo, hung thủ muốn thông qua cách này để nói với tổ chuyên án rằng, hắn ta hoàn toàn có thể cho cả đội tan xác, và để phía cảnh sát biết đường mà rút lui.

    Tô My lo ngại, nói: “Lần nổ bom tiếp theo, có lẽ sẽ không nhẹ như thế này đâu!”

    Họa Long đồng tình: “Tất nhiên rồi? Nhưng chúng ta có thế nào cũng vẫn phải tiến lên. Ai bảo chúng ta là tổ chuyên án cơ chứ?”

    Vật phát nổ được đặt trong một hộp giấy. Bao Triển dùng panh, kẹp một mẩu giấy vụn giơ lên, rồi đưa lại gần mũi ngửi thử. Anh ngẩng đầu, nhắm mắt, nói: “Ngoài kia mùi khét của khói, mùi lưu huỳnh, thì còn có cả mùi thơm nữa.”

    Giáo sư Lương nhắc nhở: “Cậu Triển, không phải tôi không tin vào cái mũi của cậu, nhưng chiếc hộp này có vai trò rất quan trọng đối với chúng ta, vì thế… mau đi làm kiểm nghiệm phân tách tàn dư đạn dược đi.”

    Phản ứng phân tách tàn dư đạn dược là một bước giám định của phía cảnh sát đối với các chất và thực thể còn sót lại trong một vụ nổ hoặc phóng đạn.

    Trong vụ án cướp xe chở tiền vào ngày 22 tháng 4 tại Hồng Kông, phía cảnh sát đã thông qua phương pháp điều tra này, xác định được trên cánh tay một chiếc áo có tàn dư của đạn dược, từ đó tìm ra chủ nhân của chiếc áo, cũng chính là kẻ đã thực hiện vụ cướp đó. Trong một vụ ám sát không thành công tổng thống Mỹ Kennedy, một viên đạn mang mã số C2788 của quân đội đã trở thành vật chứng để phá án. Ngoài dấu vân tay ra, những tàn dư đạn dược này cũng là một chứng cứ quan trọng để xác định hung thủ.

    Trước tiên, Bao Triển phun lên trên giấy lọc một số dung dịch hữu cơ, như Êtanol, Axêtôn, CTC, sau đó phủ giấy lọc lên trên mảnh vụn của giấy để bóc tách. Tiếp theo đó là quá trình phân chia phần bóc tách được thành các hạt thuốc nổ, bột kim loại, các sản phẩm cháy ra, còn lại chính là những tàn dư từ tay hung thủ sót lại, chỉ cần hung thủ từng chạm vào chiếc hộp, phía cảnh sát sẽ có cách sử dụng khoa học kĩ thuật để tìm ra đầu mối.

    Bao Triển sử dụng phương pháp kiểm nghiệm vật lí ưu điểm của cách này là không làm hỏng vật chứng.

    Thế nhưng, mặc dù Bao Triển đã sử dụng cả phương pháp quang phổ hấp thụ nguyên tử và phương pháp kiểm nghiệm phân tích huỳnh quang, nhưng vẫn không hề tìm thấy dấu hiệu của các tàn dư từ tay hung thủ. Tuy nhiên, có một điều anh rất chắc chắn, rằng mình đã ngửi thấy một mùi thơm, có lẽ đó chính là thứ hung thủ đã để lại.

    Bao Triển tiếp tục quan sát dưới kính hiển vi điện tử, không thấy dấu hiệu của mỹ phẩm. Kết quả này khiến Bao Triển có phần thất vọng, và khó hiểu, không biết mùi thơm đó từ đâu mà có?

    Trong lần thử nghiệm cuối cùng của mình, Bao Triển dùng phương pháp phân tích hoạt hóa phân tử, và xác định được mùi thơm đó đến từ một loại nước hoa.

    Tô My nói: “Chẳng lẽ người chế tạo và cài đặt quả bom đó là một phụ nữ?”

    Giáo sư Lương trả lời: “Nói chung, trên tay của người đặt quả bom đó có nước hoa, bất kể đó là nam hay nữ, khi hung thủ đặt chiếc hộp xuống, nước hoa trên tay kẻ đó đã dính lại trên hộp. Trên thế giới này, chỉ cần phạm tội, thì sẽ để lại dấu vết. Khắp địa cầu, vị trí của vật chất đều không ngừng thay đổi, tàn tích của một vụ nổ thiên thạch từ hàng trăm triệu năm trước mà còn có dấu vết để tìm lại, huống chi là quả bom chúng ta có thể dùng mắt thường nhìn thấy này.”

    Tô My nói: “Cái hộp giấy này cũng thật “biến thái”, ai mà lại đi mua cả một thùng băng vệ sinh để lấy vỏ hộp bao giờ chứ!”

    Họa Long bổ sung thêm: “Còn cả nguồn gốc của thuốc nổ nữa, đây sẽ là những điểm quan trọng để chúng ta tiếp tục phá án.”

    Mặc dù chỉ có một chút ít chứng cứ, nhưng vụ án coi như đã có manh mối, mọi người đều bắt đầu có suy nghĩ rằng hung thủ có thể là nữ giới.

    Giáo sư Lương sắp xếp công việc, mọi người lập tức thực hiện không hề chậm trễ. Đồng chí cảnh sát phụ trách tiến hành công tác điều tra quần chúng, hy vọng có thể tìm thấy người chứng kiến sự việc. Phía cảnh sát tiến hành thăm dò các sinh viên trưởng mỗi phòng kí túc, điều tra xem trong buổi sớm hôm xảy ra vụ bom nguyệt quang có ai từng nhìn thấy chiếc hộp giấy đó và người cầm hộp không? Giáo sư Lương dặn dò kĩ lưỡng đồng chí cảnh sát phụ trách phải chú ý tìm kiếm nguồn gốc của nước hoa, phòng của cô sinh viên hoa khôi và Ngỗng Già là đối tượng điều tra trọng yếu. Trong cả hai phòng này đều phát hiện có nước hoa. Đại ca cùng phòng của Ngỗng Già cũng bị cảnh sát cho vào danh sách tình nghi. Trong buổi tối xảy ra vụ việc, cậu ta từng rời khỏi kí túc xá, nhưng theo những gì đã khai nhận, nam sinh này nói mình ở cả đêm ngoài quán game.

    Giáo sư Lương lệnh cho Tô My điều tra chứng thực những lời cậu ta nói, đồng thời yêu cầu Bao Triển lấy mẫu nước hoa tìm thấy trong kí túc của hoa khôi và Ngỗng Già để so sánh với mẫu nước hoa tìm được. Kết quả kiểm định cần có thời gian. Thế nhưng, trong điều kiện thông thường, mùi thơm của nước hoa cao cấp có thể lưu giữ được đến bảy mươi giờ, mùi thơm tinh dầu hoa không dưới sáu mươi giờ, còn các loại nước hoa mà sinh viên sử dụng chủ yếu là nước hoa rẻ tiền, chỉ có thể lưu giữ được hai mươi bốn giờ. Vì thế thời gian của Bao Triển không còn nhiều, đầu mối duy nhất hiện nay có thể sẽ tan biến trong không trung bất cứ lúc nào.

    Theo thông tin phản hồi từ trinh sát đang theo dõi Ngỗng Già, trong đêm xảy ra vụ nổ, Ngỗng Già luôn ở trong kí túc xá. Một buổi sáng mấy hôm trước, con người vốn dĩ lôi thôi luộm thuộm này bỗng dưng làm rất nhiều việc, đi cắt kiểu đầu mới, còn xịt nước hoa của Đại Ca cùng phòng, mặc quần áo mới, tắm gội sạch sẽ. Theo những gì các bạn học cùng cho biết, Ngỗng Già vốn không có thói quen tắm rửa, lí do cậu ta đưa ra là để giữ nguyên mùi vốn có và bản chất của đàn ông.

    Ngoài những chi tiết đó ra, còn có một việc rất kì lạ. Trinh sát theo dõi cậu ta nói rằng Ngỗng Già bỗng nhiên mua rất nhiều nến, phải đến mấy chục cây, không biết để làm gì.

    Tổ chuyên án yêu cầu trinh sát này phải đề cao cảnh giác, tiếp tục theo dõi. Số nến mua về rất có thể được dùng để chế tạo bom.

    Tối hôm đó, những cây nến này cuối cùng đã được dùng vào đúng mục đích của nó.

    Ngỗng Già mang những cây nến này xuống dưới sân kí túc của hoa khôi, xếp thành hình trái tim. Không ít các bạn trong trường xúm lại, rất nhiều các cánh cửa sổ của kí túc xá nữ cũng mở ra, những nữ sinh tò mò còn thò đầu ra ngoài xem. Trinh sát báo về cho tổ chuyên án, tổ chuyên án lập tức chạy tới. Giáo sư Lương yêu cầu Họa Long chuẩn bị sẵn súng bắn lưới, một khi thấy Ngỗng Già có biểu hiện cực đoan, phải lập tức bắt ngay.

    Ngỗng Già ra vẻ tự đắc, chỉ vào tổ chuyên án rồi nói với mọi người: “Xem này, cả cớm cũng đến rồi! Chắc là đến cổ vũ cho tớ đây mà!”

    Các bạn bên cạnh cười ầm ĩ, tổ chuyên án không ai tỏ thái độ, chờ xem tiếp sau đây Ngỗng Già sẽ làm gì.

    Ngỗng Già dùng bật lửa đốt những ngọn nến. Dưới màn đêm, hình một trái tim sáng rực.

    Cách tỏ tình lãng mạn này trong các trường đại học không hề hiếm gặp. Để thể hiện tình cảm của mình, các bạn sinh viên thường nghĩ ra rất nhiều chiêu trò sáng tạo.

    Ngỗng Già đưa tay lên miệng, gọi to tên của hoa khôi, nhưng cánh cửa sổ phòng cô gái vẫn đóng kín. Khi đã thấm mệt, cậu ta quỳ dưới đất, bắt đầu gào lên từng tiếng “Anh yêu em!”. Mỗi lần gào thét như thế, cậu ta vẫn cố gắng vươn mình dậy, chỉ nhìn thôi cũng thấy thương tâm.

    Mọi người xung quang bắt đầu xì xào bàn tán, có những nữ sinh lấy điện thoại ra chụp ảnh Ngỗng Già lại.

    Ngỗng Già vẫn cố gắng hét lên thật lớn: “Anh yêu em!”

    Không thể chịu nổi, hoa khôi đẩy bật cửa sổ ra, nói: “Lắm chuyện! Phiền quá đi mất!”

    Ngỗng Già van nài: “Anh xin em, em xuống đây được không? Em xem, bao nhiêu người xung quanh đang đợi em đây này!”

    Hoa khôi bực tức nói: “Có giỏi thì cậu cởi đồ, chạy một vòng quanh trường đi, thì tôi sẽ xuống!”

    Các bạn xung quanh nghe vậy cười vang ầm ĩ, rồi bắt đầu vỗ tay cổ vũ. Ngỗng Già đứng phắt dậy, lột áo khoác ngoài, vứt bụp xuống đất. Cậu cắn răng nói một câu thật to: “Cởi thì cởi! Chạy thì chạy! Tất cả vì tình yêu! Làm tất!”

    Tiếng vỗ tay xung quanh càng lúc càng lớn, các bạn cổ vũ Ngỗng Già vì tình yêu mà thiếu vải chạy quanh trường.

    Tô My quay sang nói với Họa Long và Bao Triển: “Tự nhiên lại nhớ hồi còn đại học? Sao hồi ấy không có ai vì mình mà bán khỏa thân chạy khắp trường thế này nhỉ?”

    Họa Long đùa: “Chứ còn sao nữa, nếu không thì chắc cô sớm đã gả đi được rồi!”

    Bao Triển nói: “Thực ra Ngỗng Già cũng dũng cảm thật, việc như thế này có đánh chết tôi cũng không làm.”

    Ngỗng Già cứ thế cởi từng chiếc áo một, đến khi chỉ còn lại mỗi chiếc quần xà lỏn. Trời rất lạnh, Ngỗng Già chỉ biết đưa hai tay xoa xuýt lấy thân mình, run lên bần bật. Cậu ta tự lải nhải một mình: “Chạy thôi! Chạy thôi! Chạy một vòng là hết lạnh thôi!”

    Ngỗng Già bắt đầu chạy, mọi người vỗ tay cổ vũ nhiệt tình. Cậu ta chạy hết một vòng quanh trường, mệt đến thở không ra hơi phải dừng lại, giày cũng tuột ra mất, một thứ gì đó màu trắng từ trong giày rơi ra ngoài.

    Ngỗng Già xỏ giày lại, một bạn cúi đầu nhìn thứ màu trắng vừa rơi ra, rồi cười xảo quyệt trêu: “Ngỗng Già, “băng vệ sinh” của cậu rơi rồi này!”

    Ngỗng Già không phản ứng gì, mà lại bắt đầu đưa tay lên miệng, gọi tên hoa khôi và nói: “Anh yêu em! Anh đã chạy về rồi! Anh không lạnh! Anh đang rất nóng!”

    Trong tiếng hô hào gào thét của các bạn nữ, hoa khôi cuối cùng cũng xuất hiện. Cô bước xuống rồi tiến lại gần Ngỗng Già khiến cậu ta cảm động đến suýt khóc.

    Cậu dang rộng đôi tay, đợi chờ hoa khôi ngả vào lòng mình, giống như những gì hay xuất hiện trong phim Hàn Quốc hoặc những câu chuyện tình yêu đẹp. Trong đó, những người yêu nhau đứng bên nhau, xung quanh là những ngọn nến đang cháy xếp hình trái tim đầy thi vị.

    Hoa khôi không thèm ôm Ngỗng Già, cô cau có mặt mày giơ một tay ra. Ngỗng Già đơ người một hồi, rồi sau đó nắm lấy tay hoa khôi.

    Ngỗng Già nói có phần hơi xúc động: “Anh yêu em? Vì em anh có thể làm tất cả? Làm vợ anh nhé!”

    Hoa khôi mặt không biến sắc, nói: “Yêu? Đáng bao nhiêu tiền hả?”

    Ngỗng Già trả lời: “Vô giá!”

    Hoa khôi cười hắt ra một tiếng, giật tay mình ra khỏi tay Ngỗng Già, nói: “Thôi đi! Cậu quay về với thế giới thực tại đi! Không có tiền, muốn bước một bước còn khó. Tình yêu thời sinh viên chỉ là một trò chơi, một giấc mơ mà thôi! Tốt nghiệp rồi là chia tay hết. Cậu tỉnh lại đi! So với việc ngồi sau xe đạp của cậu cười vui, thì tôi thà ngồi khóc trong xe BMW còn hơn. Đợi đến bao giờ cậu lọt vào bảng Hurun thì tôi mới có thể nghĩ đến chuyện yêu cậu được. Tôi chỉ yêu người có tiền thôi, cậu hiểu không? Những cây nến này chỉ là mấy thứ đồ chơi rẻ tiền mà cũng muốn làm tôi cảm động sao, đúng là đáng buồn cười! Đến nhẫn kim cương còn không có mà đòi cầu hôn với tôi sao? Cậu làm như thế làm tôi thấy thật xấu hổ! Khi nào cậu có xe BMW thì hãy nghĩ đến việc mang nến đến và cầu hôn với tôi!”

    Hoa khôi đưa chân khua đổ mấy cây nến, rồi lạnh lùng bỏ đi, để lại Ngỗng Già vẫn còn đứng một chỗ thờ thẫn nhìn theo.

    Ngỗng Già trở về kí túc xá, lấy chăn trùm đầu ngủ một mạch. Theo những tin tức báo về từ phía trinh sát, Ngỗng Già mấy ngày liền đều tỏ ra rất âm trầm, u uất. Xem ra những câu nói của hoa khôi có ảnh hưởng rất lớn tới tâm lí của cậu. Nhưng chẳng được mấy hôm, tinh thần cậu lại lên dây cót trở lại. Lần này, cậu quyết tâm phải lấy được học bổng của trường.

    Cậu ta lại bắt đầu thở dài than ngắn với Đại Ca: “Cũng tại tao! Chẳng thể trách việc cô ấy từ chối được! Đến một cái nhẫn mà tao còn chẳng có nữa là!”

    Đại Ca an ủi: “Ê người anh em! Mày có thể không mua nổi nhẫn kim cương, nhưng một lọ thuốc chắc là mua được chứ? Mày mời con bé đi ăn rồi bỏ vào đó, thế là xong! Tối nay mời tao ăn cá nấu cay đi, để tao gọi con bé đó đến cho!”

    Ngỗng Già chẳng cần nghĩ ngợi đã nói: “Cá nấu cay á! Món này tao nấu ngon lành! Thế mình làm ở trong kí túc luôn vậy, món này quan trọng ở giai đoạn đun nóng dầu thôi!”

    Đại Ca tán đồng: “Hiểu? Hiểu! Phi hành sợi, gừng miếng, rồi cho tương ớt vào.”

    Ngỗng Già nói tiếp: “Lúc xào động tác phải nhanh gọn, xèo xèo xèo, một loáng là xong!”

    Đại Ca hỏi: “Có cần cho thêm ít giấm không? Khẩu vị sẽ ngon hơn đấy!”

    Ngỗng Già trả lời: “Không cần! Chả có mùi vị gì! Trước sau gì thì cũng là vị bột ngọt hết.”

    Đại Ca bỗng nhiên hỏi: “Này xong chưa hả? Tao quên mang giấy vào rồi!”

    Ngỗng Già lóng ngóng tìm, nói: “Chết tiệt? Tao cũng không mang rồi?”

    Thì ra, nãy giờ họ đang ngồi tám chuyện trong phòng vệ sinh công cộng của kí túc xá.

    Theo những gì tổ chuyên án tìm hiểu được, không ít sinh viên trong trường đều mong muốn giành được học bổng. Cô hiệu trưởng cho biết, học bổng dùng để cổ vũ sinh viên học tập và phát triển toàn diện, tạo ra một sân chơi học thuật tích cực, hỗ trợ những sinh viên nghèo vượt khó bằng phần thưởng và tiền mặt. Trước mắt đang trong giai đoạn xét duyệt và bình chọn học bổng của ngành “Chế tạo đạn dược và kĩ thuật gây nổ.”

    Tổ chuyên án quyết định lợi dụng cơ hội, “biến tướng” món học bổng này thành một phần treo thưởng, hy vọng có thể nhử hung thủ xuất đầu lộ diện.

    Một giảng viên nói: “Rất nhiều sinh viên đều chỉ hạn chế trong lí thuyết mà thiếu thực hành. Ngay cả tôi cũng không phải ngoại lệ, rất ít có cơ hội tiếp xúc với thực tiễn. Tôi cho rằng, những sinh viên có thể chế tạo được bom nguyệt quang hoặc bom có thể ngụy trang trong vật thể dạng băng vệ sinh kia không phải ít, nhưng người có thể làm được cả hai loại này thì lại không nhiều. Chúng ta sử dụng học bổng làm mồi nhử, sinh viên có thể làm được cả hai loại bom này, rất có thể chính là hung thủ.”

    Bao Triển nói: “Tôi nghĩ nguồn gốc thuốc nổ rất quan trọng.”

    Cô hiệu trưởng và giảng viên cho tổ chuyên án biết, trong trường chỉ có một lượng thuốc nổ nhỏ, dùng để thực hiện các thí nghiệm nghiên cứu khoa học, được cất tại phòng thí nghiệp dưới tầng hai tầng hầm. Tổ chuyên án nhìn quanh một lượt cả phòng thí nghiệm. Kiến trúc tầng hầm thường là kiểu nhà ống, được tạo thành bởi hành lang đường dẫn, phòng chính, phòng nhánh và cửa thông khí. Mỗi một phòng thí nghiệm dưới tầng hầm đều được thiết kế hai cửa ra vào, và cả hai cửa này đều mở cánh ra phía ngoài.

    Trong trường có hai phòng thí nghiệm có liên quan đến việc gây nổ. Thứ nhất là phòng thí nghiệm khoa học và kĩ thuật nổ. Thứ hai là phòng thí nghiệm chế tạo và điều khiển cơ điện. Ngoài những nơi đó ra, bên ngoài trường còn có một khu thí nghiệm Sêlen, thông thường các thí nghiệm liên quan đến phát nổ đều được thực hiện ở đó. Khu thí nghiệm này trang bị hai súng hiđrô, một cái để thực hiện thí nghiệm dưới nước, một cái dùng là thiết bị đo đạc các hiện tượng nổ.

    Trong buổi công bố tình hình phá án, tổ chuyên án phân tích cho rằng, hung thủ nhiều khả năng là sinh viên của chuyên ngành chế tạo đạn dược và kĩ thuật gây nổ. Trong quá trình thực hành thí nghiệm, đã lén lút lấy trộm thuốc nổ của trường, và quả bom rất có thể đã được chế tạo ngay chính tại phòng thí nghiệm này. Hung thủ là kẻ có thói quen xịt nước hoa, cùng với việc xuất hiện vỏ thùng giấy đựng băng vệ sinh, rất có thể hung thủ đó là một nữ sinh, và là người có thể dễ dàng ra vào phòng thí nghiệm và kí túc xá của người giáo viên phụ đạo xấu số.

    Bao Triển bỗng nhận ra cô hiệu trưởng cũng dùng nước hoa. Sau khi điều tra, được biết nạn nhân và hiệu trưởng từng có tranh cãi về vấn đề mâu thuẫn trong vấn đề quản lí đời sống sinh viên. Giáo viên phụ đạo từng nói rằng hiệu trưởng ăn hối lộ. Nhưng ấn tượng của mọi người xung quanh về cô lại rất tốt. Cô hiệu trưởng là người đức cao vọng trọng, thanh liêm vô tư, được mọi người trong trường rất kính nể. Cô đã vì việc chăm sóc người chị họ mất trí của mình mà suốt đời không kết hôn.

    Phía nhà trường tuyên bố với các sinh viên của chuyên ngành sản xuất đạn dược và kĩ thuật nổ, chỉ cần có người có thể chế tạo được hai loại bom trên, cho dù chỉ nằm trên lí luận, phía nhà trường cũng sẽ trao thưởng.

    Phía cảnh sát trong quá trình phá án có thể dùng tiền thưởng làm mồi nhử hung thủ xuất hiện. Ví dụ trong vụ án diệt môn tại Huệ Châu, phía cảnh sát đưa ra mức thưởng lớn, một người đến cung cấp đầu mối cho biết nạn nhân bị dây điện cuốn chết. Tình tiết này của vụ án chỉ có phía cảnh sát và hung thủ biết, từ đó đối tượng tình nghi được xác định chính là người đến cung cấp đầu mối phá án.

    Vài ngày sau, phía cảnh sát căn cứ vào những bài báo cáo của sinh viên, lọc ra bốn người khả nghi: Ngỗng Già, hoa khôi, Đại Ca và một nữ sinh tàn tật.

    Bài báo cáo của bốn sinh viên này đều có tính thực tiễn rất cao. Căn cứ vào những lí luận chuyên ngành họ đưa ra, đều có thể chế tạo được hai loại bom gây án. Trong bài luận văn của mình, hoa khôi viết: “Hiện tượng tự bốc cháy kia thực ra rất đơn giản. Các chất bén lửa khi gặp nước có rất nhiều, ví dụ như: Kali, Canxi, Rubiđi, Xêsi. Dùng bột nhôm và iốt rải trong tấm lót dạng mỏng như băng vệ sinh kia, sau đó cho thêm chất hỗ trợ sự cháy. Khi gặp nước, sẽ khiến các chất phản ứng với nhau, và thứ dạng tấm lót kia sẽ bốc cháy. Nếu nghiên cứu thêm một bước nữa, việc bốc cháy này có thể trở thành ngòi dẫn cho cho quả bơm đặt sẵn trong đó.”

    Bài báo cáo của Ngỗng Già và Đại Ca giống hệt nhau. Phía cảnh sát nghi ngờ rằng, họ vì học bổng mà chép bài của nhau. Bài báo cáo của họ viết về việc chế tạo bom nguyệt quang.

    Còn lại là một nữ sinh tàn tật, tên là Hứa Niệm. Cô là người duy nhất đưa ra được cách chế tạo cả hai loại bom.

    Hứa Niệm khi còn nhỏ bị mất đi đôi chân do gặp tai nạn giao thông, từ đó cô di chuyển dựa vào chiếc xe lăn của mình. Sinh viên tàn tật trong trường đại học không ít, nhưng những người ngồi xe lăn thì không nhiều. Rất nhiều bạn học đều biết Hứa Niệm, ấn tượng của mọi người về cô bạn này là: ngây thơ, trong sáng, đa tài, rất giỏi hội họa và âm nhạc.

    Trưởng phòng kí túc của Hứa Niệm kể với phía cảnh sát, có một lần, giáo viên đưa các sinh viên của câu lạc bộ hội họa ra ngoài đi thực tế, đến một sườn đồi vẽ ngựa. Thời gian đó chính vào mùa sinh sản của loài ngựa, phía bụng dưới của chúng xuất hiện một bộ phận để thu hút bạn tình. Tất cả các nữ sinh đều cố tình bỏ qua không vẽ chi tiết ấy, chỉ trừ Hứa Niệm. Điều đó khiến các bạn đều chỉ trích, cho rằng thực ra cô đâu có tâm hồn trong sáng.

    Tổ chuyên án phân tích, Hứa Niệm là nhân vật rất đáng tình nghi.

    Tuy nhiên cô hiệu trưởng lại phản đối quan điểm này. Cô giải thích với tổ chuyên án: “Nếu điều tra tất cả mọi người trong ngôi trường này, thì bất cứ ai cũng có thể là kẻ tình nghi, vì sao lại có thể khẳng định đó là Hứa Niệm được? Một cô bé trong sáng và lương thiện như thế làm sao có thể giết người được chứ? Hơn nữa, phòng của nữ giáo viên phụ đạo nằm ở tầng ba, Hứa Niệm ngồi xe lăn thì làm sao có thể đến phòng của giáo viên đó được, chứ chưa cần nói đến việc phải vào tận tủ đầu giường để đặt gì đó vào vật dụng cá nhân của giáo viên này nữa.

    Bao Triển hỏi lại ngay: “Sao cô lại biết nạn nhân đặt mấy thứ đó ở tủ đầu giường?”

    Chương 4
    Quả bom người

    Cô hiệu trưởng kể một câu chuyện để giải thích về điều nói trên.

    Trong trường đại học có xuất hiện những mối tình đồng tính. Cô giáo phụ đạo cho rằng thứ tình cảm này là vi phạm quy định đạo đức của nhà trường, có ảnh hưởng xấu đến môi trường đại hoc. Một lần nọ, giáo viên này nhìn thấy một đôi đồng tính công khai hôn nhau trên bãi cỏ, cô ấy đã nói lại với hiệu trưởng như sau: “Ôi, thật là buồn nôn! Thật kinh tởm! Tôi còn thấy cả nước miếng của chúng nữa!”

    Rất nhiều trường đại học đều có những quy định nghiêm ngặt.

    Trên mạng từng có một bài viết được rất nhiều người tìm đọc, mang tên “Tuyển tập những quy định khác người trong trường đại học”. Trong bài viết thu thập đến hơn hai mươi điều quy định “chẳng giống ai” của các ngôi trường, khiến cư dân mạng được dịp mở rộng tầm mắt.

    Có trường không cho phép sinh viên xem kênh truyền hình vệ tinh Hồ Nam, khuyến khích sinh viên xem đài Trung ương.

    Có những trường không cho phép nam nữ sinh viên cầm tay nhau.

    Có một số trường còn có những quy định rất buồn cười ví dụ như: Tóc mái dài quá lông mày không được đến lớp, sau khi tắt đèn không được đi vào nhà vệ sinh, sinh viên tăng một cân phạt tiền năm mươi tệ. Những quy định này đều có văn bản rõ ràng và có cả nấc thang thưởng phạt nữa.

    Cô hiệu trưởng vừa cười vừa phản bác lại quan điểm của giáo viên phụ đạo. Hiệu trưởng nói với giáo viên này rằng các sinh viên đại học đều đã là người trưởng thành, nên sẽ có pháp luật quản lí, không cần thiết phải đối xử một cách quá nghiêm khắc như thế.

    Những quy định không hợp lí của nhà trường cần phải được sửa đổi lại cho hoàn chỉnh.

    Giáo viên phụ đạo vẫn nghĩ sao làm vậy. Những sinh viên vi phạm quy định của nhà trường, chỉ cần để giáo viên này bắt gặp, thì coi như đen đủi ba đời. Một khi bị phát hiện, những sinh viên đó sẽ bị mất hết quyền tư cách tham gia bình chọn học bổng, bình chọn sinh viên ưu tú, không còn cơ hội lĩnh tiền trợ cấp học tập tiền vay ưu đãi cho học sinh sinh viên, và mất cả tư cách xét vào Đảng. Rất nhiều sinh viên đã phải chọn cách thương lượng với giáo viên phụ đạo, thông qua việc mua các sản phẩm giá cắt cổ mà cô giới thiệu, để cô ta vui lòng mà nương tay.

    Giáo viên phụ đạo bí mật điều tra, lập ra một danh sách những sinh viên đồng tính, với ý định công khai phê bình họ. Sau khi cô hiệu trưởng nghe nói việc này, liền lập tức ngăn cản hành động đó. Hai người tranh cãi nhau một trận lớn tại chính phòng kí túc của giáo viên phụ đạo. Cô hiệu trưởng vì thế mà tình cờ phát hiện đồ dùng cá nhân như băng vệ sinh của giáo viên này để trong tủ đầu giường.

    Giáo viên phụ đạo nói: “Tôi nghi ngờ rằng cô sinh viên hoa khôi của trường từng phá thai một lần, và tôi có chứng cứ. Còn sinh viên tên Ngỗng Già kia đã từng chơi bài đánh bạc trong kí túc xá, và bị tôi bắt quả tang ngay tại chỗ. Những sinh viên đang chơi trò tình yêu đồng tính kia, tôi nhất định phải đưa chúng ra ánh sáng, để mọi người lấy đó mà làm gương, chỉnh đốn lại tác phong trong trường đại học, không thể để như thế được.”

    Hiệu trưởng phản đối: “Các sinh viên đó đâu có sai phạm gì đâu! Cô làm như thế chẳng qua là một hình thức khác của việc “Cạo đầu bôi vôi, diễu đường thị chúng”, như thế là vi phạm nhân quyền cô biết không?”

    Giáo viên kia vẫn tiếp tục: “Mấy hôm nữa tôi sẽ cho công bố danh sách này. Có những sinh viên còn chửi tôi sau lưng, tôi phải cho chúng biết mặt.”

    Hiệu trưởng vẫn giữ thái độ kiên quyết, nói: “Tôi nhất định không cho phép cô làm như thế! Có phải vì những sinh viên đó không mua đồ của cô, nên cô muốn mượn cơ hội trả thù không? Cách thức tiêu thụ hàng hóa đó của cô chẳng khác nào bán hàng đa cấp. Mức giá sản phẩm cao trên trời, kết cấu hình tháp của những người mua kẻ bán, bất cứ một sinh viên học toán nào cũng đều hiểu rất rõ điều đó.”

    Giáo viên phụ đạo vẫn cãi già: “Cô đừng có vu cáo tôi như thế! Đừng có tưởng tôi không biết chuyện của cô.”

    Hiệu trưởng giải thích với tổ chuyên án rằng các vấn đề liên quan đến tài sản của mình đều rất sáng tỏ, bất cứ một khoản thu hay chi nào đều sẵn sàng phối hợp với phía cảnh sát để điều tra làm rõ. Sau khi Hiệu trưởng ra về, tổ chuyên án tổng hợp lại tình hình vụ án một cách sơ bộ.

    Hiện giờ, đang có năm đối tượng tình nghi chính, đó là: Hiệu trưởng, Ngỗng Già, hoa khôi, Đại Ca, và cô sinh viên tàn tật Hứa Niệm.

    Hiệu trưởng mặc dù từng xảy ra xung đột với nạn nhân, nhưng khả năng gây án không cao. Ngỗng Già và Đại Ca tuy có nhiều phong cách sống kì dị, nhưng tính cách cả hai người đều rất thích chơi trội, tính cách lạc quan cởi mở, không phù hợp với đặc điểm của một hung thủ giết người cực đoan và thù hận. Tất nhiên, cũng không loại trừ khả năng cả hai đang cố ý sắp xếp bố cục để đánh lừa phán đoán của phía cảnh sát.

    Hoa khôi đang chuẩn bị tốt nghiệp, giáo viên phụ đạo nắm được chứng cứ về việc cô từng phá thai, và nhiều lần uy hiếp. Hiện giờ cô sinh viên thích tiền này đang trong thời gian chịu sự quản lý và theo dõi của nhà trường. Nếu vi phạm quy định, có thể cô sẽ bị đuổi học. Xuất phát từ những điều lo lắng đó, cộng với việc giáo viên phụ đạo liên tục uy hiếp, tinh thần của nữ sinh này sẽ bị áp lực lớn, và rất có thể chính là hung thủ giết người diệt khẩu.

    Hứa Niệm là một sinh viên ưu tú. Nếu là một người đồng tính, thì mức độ tình nghi sẽ tăng cao hơn nữa. Giáo viên phụ đạo muốn công khai danh sách sinh viên đồng tính, điều đó có thể làm tiếng tăm của nữ sinh này hoàn toàn bị hủy hoại, ảnh hưởng đến con đường học hành của cô. Vì thế, việc giết người diệt khẩu là hoàn toàn có khả năng. Tuy nhiên, việc đặt bom trong người nạn nhân, chắc chắn phải có sự hỗ trợ của người khác.

    Các vụ án mạng trong trường đại học có một đặc điểm chung, hành động giết người thường là do mất bình tĩnh, do tranh chấp về một sự việc nào đó mà bị dồn đến thế cực đoan. Ví dụ như vụ việc Mã Gia Tước dùng búa giết bốn người, hay vụ một sinh viên tại trường Đại học Khoa học tự nhiên Florida, Mỹ dùng súng giết ba mươi hai người, đều là do mất bình tĩnh, không làm chủ nổi mình mà gây nên.

    Mục tiêu của vụ việc lần này đã có thể xác định tương đối rõ ràng. Về cơ bản, đây không phải là một vụ án mạng nhằm vào việc trả thù xã hội, hung thủ chỉ muốn nhắm vào một mình giáo viên phụ đạo mà thôi. Sau khi xảy ra vụ án, hung thủ lại chế tạo thêm một quả bom bữa, với ý định dọa dẫm, ngăn cản công tác điều tra của cảnh sát. Lối suy nghĩ này cũng phù hợp với những sinh viên chưa có nhiều kinh nghiệm xã hội.

    Cùng với việc đi sâu điều tra, tổ chuyên án đã nắm được nhiều chứng cứ hơn, tuy nhiên những điểm nghi vấn của vụ án lại ngày càng nhiều, và vẫn chưa thể vén được màn sương bí ẩn.

    Tổ chuyên án tổng hợp ra ba điểm quan trọng:

    Thứ nhất, chuyên gia phá bom cũng tốt nghiệp từ trường này ra. Mặc dù bàn tay khi xảy ra vụ nổ có bị thương nhẹ, nhưng ông luôn cố ý giấu việc này, điều đó khiến tổ chuyên án cảm thấy nghi ngờ. Kết quả điều tra cho biết, chuyên gia phá bom và nạn nhân không hề quen biết. Thời gian gần đây, chuyên gia này đang đi khắp các “cửa” để “vận động” cho việc thăng chức của mình. Ông đi tặng quà cho nhiều lãnh đạo, nhưng xem ra đối thủ của ông rất có ưu thế, hy vọng thăng tiến của ông không cao.

    Thứ hai, theo những phản ánh thì phía các cán bộ nhà trường, chị họ của hiệu trưởng mắc chứng bệnh mất trí nhớ hàng ngày rất ít ra ngoài. Hiệu trưởng không nỡ đưa chị gái vào viện tâm thần, đành tự mình chăm sóc cho chị. Tô My bí mật điều tra hộ tịch của hiệu trưởng, nhưng có một điều kì lạ, hiệu trưởng không hề có người chị họ nào hết. Điều khiến tổ chuyên án nghi ngờ là, vì sao Hiệu trưởng lại chăm sóc một người không có quan hệ huyết thống như thế? Còn chăm sóc cả đời, không tính đến chuyện lập gia đình nữa.

    Thứ ba, Hứa Niệm là một cô sinh viên ngây thơ trong sáng, suy nghĩ hết sức đơn giản. Cô trông cũng không xinh đẹp, nhưng đôi mắt rất to, làn da trắng, và có một mái tóc mây bồng. Tuy nhiên, cô chưa bao giờ vì đó mà tỏ ra tự hào, hay có những hành động chăm sóc thái quá, nhưng mái tóc của cô vẫn luôn đen tuyền óng mượt. Dáng dấp cô sinh viên này khi nhìn từ phía sau rất đẹp, không biết đã từng làm ngây ngất bao nhiêu chàng trai, nhìn bóng cô đi xe lăn thực sự vô cùng đáng thương. Có người từng nói với cô rằng, bên trong máy rút tiền ATM có một người đứng đó, đếm sẵn rồi đưa ra. Đó vốn chỉ là một lời nói đùa, nhưng Hứa Niệm lại tin là thật nên cô sinh viên thật thà này mỗi lần đi rút tiền đều nhìn vào máy ATM nói lời cám ơn!

    Hứa Niệm là một người rất có lòng yêu thương. Hàng ngày cô thích cho những chú mèo hoang ăn, và từng nuôi một con chim bồ câu bị thương trong kí túc. Ngày thả chú chim trở về với tự do, cô đã khóc và nói: “Bay đi! Bay đi chim nhỏ. Hãy bay tới với rừng sâu ngàn dặm. Ở nơi đó, sẽ không có con người để làm mày bị thương nữa.”

    Tổ chuyên án rất khó thuần phục mình rằng cô gái tốt bụng và ngây thơ này lại có thể giết người.

    Hứa Niệm và cô bạn trưởng phòng kí túc của mình tên Lan Tâm Huệ rất thân thiết. Lan Tâm Huệ thích mặc đồ trung tính, trông có phần giống một nam sinh. Tính cách cô rất hướng ngoại, là đàn chị của cả kí túc hàng ngày hay chăm sóc Hứa Niệm, nhưng tổ chuyên án không phát hiện ra họ có biểu hiện gì về tình yêu đồng tính.

    Giáo sư Lương vận động toàn bộ lực lượng cảnh sát đào sâu điều tra, chân tướng sự việc dường như đã đang dần hé lộ.

    Một buổi tối mấy hôm sau, tổ chuyên án cho mời hiệu trưởng tới, yêu cầu hiệu trưởng giải thích rõ về thân phận của người chị họ kia, và hai người có quan hệ như thế nào? Bỗng nhiên, Tô My nhìn vào màn hình theo dõi rồi nói: “Có người đang tiến đến chỗ chúng ta!”

    Người đó dáng đi hơi quái dị, thân thể cứng đơ, đang từng bước tiến về phía lều trại của tổ chuyên án.

    Vì vấn đề an toàn, xung quanh lều trại dã chiến này đều được đặt các thiết bị camera giám sát.

    Người kia càng lúc càng tới gần. Khi đã nhìn rõ mặt, mọi người bỗng nhận ra, đó chính là Lan Tâm Huệ.

    Bao Triển hỏi: “Cô ta đến làm gì nhỉ?”

    Họa Long chỉ vào màn hình, rồi vội vàng lớn tiếng kêu lên: “Mọi người rời khỏi đây ngay. Trên người cô ta có thể đang có bom!”

    Mọi người hoảng hốt, vội chạy ra khỏi lều, tìm kiếm một nơi ẩn náu. Cuối cùng tất cả nấp sau một chiếc xe ô tô gần đó.

    Lan Tâm Huệ mặc một chiếc áo lông vũ trông có vẻ rất chật chội, đang từng bước lò dò tiến về phía trước.

    Cô hiệu trưởng bỗng lên tiếng ra lệnh: “Lan Tâm Huệ, em làm cái gì thế hả? Mau dừng lại!”

    Đồng chí cảnh sát phụ trách cũng lớn tiếng: “Không được phép tiến lên nữa!”

    Lan Tâm Huệ dừng lại, dùng giọng đã khản đặc vừa khóc vừa nói: “Trên người em bị người ta đặt một quả bom. Mọi người mau cứu em với! Có ai đó cứu em với ạ!”

    Bao Triển hỏi tiếp: “Ai đã đặt quả bom trên người em?”

    Lan Tâm Huệ trả lời: “Là Ngỗng Già và Đại Ca. Em đi lấy báo cáo, định đi xuống phòng thí nghiệm. Vừa đẩy cửa bước vào đã bị hai người bọn họ khóa tay, rồi mặc cho em một chiếc áo ghi-lê. Họ nói đó là một quả bom điều hướng, chỉ cần em xoay người sang hướng khác là nó sẽ phát nổ.”

    Giáo sư Lương yêu cầu Lan Tâm Huệ đứng yên tại chỗ, không được động đậy. Phía cảnh sát tiến hành sơ tán toàn bộ sinh viên xung quanh. Tại lễ đường của trường, mọi người đang tập chuẩn bị cho dạ hội cuối năm. Các sinh viên nghe nói trong trường có bom, chen nhau chạy như ong vỡ tổ, hiện trường vô cùng hoảng loạn. Đồng chí cảnh sát phụ trách dùng loa chấn an: “Mọi người không phải căng thẳng quá như thế, từ từ rời khỏi hiện trường.” Họa Long dẫn theo một đội cảnh sát vũ trang với đầy đủ trang bị lập tức truy bắt Ngỗng Già và Đại Ca. Các cảnh sát chống cháy nổ mặc áo bảo hộ, từ từ tiến về phía Lan Tâm Huệ.

    Lan Tâm Huệ sợ hãi, đứng yên tại chỗ không dám động đậy chiếc áo lông vũ của cô vẫn chưa kéo khóa lên, bên trong lộ ra một chiếc áo ghi-lê màu đỏ chằng chịt dây điện. Thuốc nổ và ngòi nổ có lẽ đều đặt phía trong áo, Trước trán cô có một chiếc hộp hình vuông, đó chính là la bàn được nối với đường dây điện.

    Loại bom này có một điểm thần kì, đó là chỉ cần thực thể mang nó chuyển sang hướng khác, quả bom sẽ lập tức phát nổ.

    Nếu trên người ai đó có mang loại bom này, thì họ chỉ có thể đi thẳng về phía trước mà không thể quay lại hay xoay ngang được.

    Có hai sợi dây nối liền với la bàn, một màu xanh, một màu đỏ. Chỉ cần cắt chúng, sẽ có thể vô hiệu hóa quả bom. Còn nếu cắt sai, dẫn đến hiện tượng điện hồi lưu, quả bom sẽ lập tức phát nổ.

    Lan Tâm Huệ cũng là sinh viên chuyên ngành chế tạo bom, nên có những hiểu biết nhất định về loại bom này. Cô nhắm mắt nói với cảnh sát: “Cắt sợi màu đỏ, cứ nghe em, không sai đâu!”

    Cảnh sát chống cháy nổ toát mồ hôi, tay phải run run cầm chiếc kìm mỏ cá sấu ra, trong đầu do dự không biết có nên nghe lời Lan Tâm Huệ hay không. Có một điều dễ thấy, phía cảnh sát phòng cháy nổ không được quen lắm với việc gỡ bỏ một quả bom trên người như thế này. Một khi quả bom phát nổ, ngay đến chiếc áo chống nổ trên mình cũng không thể đảm bảo rằng họ sẽ giữ được giữ tính mạng. Nước ngoài từng có rất nhiều câu chuyện về việc cảnh sát trong lúc gỡ bom, do phán đoán không đúng, dẫn đến qua bom nổ ngay tại chỗ, và dù mặc áo chống nổ, họ vẫn không giữ nổi tính mạng mình.

    Lan Tâm Huệ vội giục: “Mau cắt sợi dây màu đỏ đi, em sắp không đứng vững nữa rồi!”

    Chương 5
    Nụ hôn bách hợp

    Tổ chuyên án từng kiểm tra phòng thí nghiệm. Bao Triển nhớ rất rõ rằng tất cả các cánh cửa của phòng thí nghiệm đều đẩy ra ngoài, nhưng Lan Tâm Huệ lại nói rằng cô “đẩy cửa bước vào”, chứng tỏ cô gái đang nói dối. Hơn thế nữa, Bao Triển ngửi thấy một mùi nước hoa phảng phất. Mùi thơm này và mùi lưu lại trên hộp đựng bom nguyệt quang là một. Bao Triển lập tức đoán ra Lan Tâm Huệ rất có thể chính là hung thủ, và quả bom kia cũng là do cô ta tự khoác lên người mình.

    Cùng với những điều tra của phía cảnh sát, chân tướng sự việc đang dần được hé lộ. Hung thủ có thể đang lựa chọn cách tự sát để kết thúc sự việc. Tâm lí của Lan Tâm Huệ lúc này đã sắp sụp đổ, hai tay cô nắm chặt lại, rồi không kiềm chế nổi, gào lên: “Các người đi chết hết cả đi!”

    Cảnh sát chống cháy nổ cho rằng đối tượng định tự cho nổ bom, vội lao ra, nằm sấp dưới nền cỏ. Rồi trườn ra ngoài, nấp sau một thân cây lớn. Đồng chí cảnh sát phụ trách dùng loa phóng thanh định khuyên Lan Tâm Huệ bình tĩnh, không được mất kìm chế, rồi lệnh cho mọi người lui về phía sau. Giáo sư Lương yêu cầu các tay súng bắn tỉa vào tư thế chuẩn bị. Hiện trường vô cùng hỗn loạn. Các sinh viên vây xung quanh ý thức được tình thế nguy hiểm vội bỏ chạy ra xa, chỉ còn một cô gái từ từ lăn xe lăn tiến thẳng về phía Lan Tâm Huệ đang cô độc một mình giữa sân cỏ mênh mông.

    Lan Tâm Huệ mắt ngấn lệ, lắc đầu nói: “Đừng tiến lại gần! Trên người mình có bom!”

    Cô gái kia không ai khác mà chính là Hứa Niệm. Hứa Niệm dường như không có ý dừng lại. Dưới ánh mắt quan sát của mọi người, cô từng bước từng bước tiến lại gần Lan Tâm Huệ. Bóng dáng cô trông thật cô độc và yếu ớt.

    Tô My nói: “Lan Tâm Huệ và Hứa Niệm có thể là một đôi.”

    Bao Triển tròn mắt quay sang.

    Đồng tính nữ vẫn chưa được xã hội chủ lưu hiểu và chấp nhận. Mặc dù họ có thể thả chú chim tâm hồn mình bay theo hy vọng, với mong muốn có một tương lại tốt đẹp hơn. Nhưng họ cũng có thể giết chết những hy vọng đó bất cứ lúc nào, sau đó tự nói với mình rằng tương lai chỉ là điều huyền hão. Mặc dù họ có thể tìm được người đồng hành, nhưng đối diện với xã hội xô bồ, họ cũng chỉ có thể nghe lời và thuận theo những nguyên tắc của nó.

    Chúng ta có thể nhìn thấy…

    Một cô gái hai năm sau sẽ uống thuốc tự tử, giờ đây đang đứng tại cửa nhà xe chờ đợi, chờ đợi gặp được một cô gái cũng bỏ nhà ra đi. Một cô gái ba năm sau sẽ bước vào Ủy ban đăng kí kết hôn, giờ này đang ngồi trên xích đu, đùa vui cùng một cô gái khác, hứa hẹn: “Em sẽ không bao giờ lấy một người đàn ông!”

    Lan Tâm Huệ và Hứa Niệm từng cùng nhau ngồi dưới mái hiên hành lang kí túc, bên ngoài một trời sương khói, các bạn khác che ô vội vàng bước qua trong cơn mưa. Nước mưa đổ xuống, chảy ròng theo chiếc chuông gió đầu hồi, vang lên những âm thanh vừa vui tai vừa có chút gì đó đau thương giằng xé. Những giọt mưa rớt xuống đôi bàn chân của hai cô gái trẻ, lấp lánh.

    Lan Tâm Huệ nói: “Đêm qua, mình thấy bạn khóc trong mơ.”

    Hứa Niệm trả lời: “Không phải trong mơ đâu. Mình không ngủ, mình đã khóc cả đêm.”

    Lan Tâm Huệ hỏi tiếp: “Tốt nghiệp rồi, chúng ta sẽ phải xa nhau phải không?”

    Hứa Niệm lắc đầu thủ thỉ: “Mình không muốn thế! Không muốn! Mình sẽ khóc, khóc mãi, mình sẽ tự dằn vặt mình!”

    Lan Tâm Huệ đau xót nói: “Cậu thật ngốc, ngốc đến nỗi khiến mình phải đau lòng. Chúng ta phải làm gì để có thể ở bên nhau được đây? Chúng ta đều là những cô gái!”

    Nước mắt Hứa Niệm dâng trào, bối rối không biết có phải mình đã nói sai gì không. Cô đưa tay định đánh vào mặt mình, nhưng Lan Tâm Huệ vội nắm chặt lấy tay cô. Mỗi lần nghĩ mình làm sai gì đó, cô gái bé nhỏ này lại lấy tay tự phạt mình, vừa đánh vừa khóc. Cô không biết thế nào là lời ngon tiếng ngọt, thế nào là cẩn trọng lời nói việc làm, thế nào là để ý xung quanh. Từ nhỏ tới lớn, có quá nhiều những điều đau khổ đã đến trong đời cô. Cô rất ít khi kể chuyện gì với người khác, và gần như chưa từng có bạn bè. Đôi khi cô tự hỏi mình vì sao lại ngốc nghếch như thế, vì sao chân tình lại không thể đổi lại chân tình? Vì sao không thể có được một người bạn chân chính! Hứa Niệm cảm thấy mình từ trước tới giờ đều thật ngốc nghếch, nên mới thấy buồn bã, cho đến một ngày khi cô gặp được Lan Tâm Huệ. Mùa đông năm thứ nhất cô đi xe lăn đến lớp, khó nhọc tiến từng bước trong lớp băng tuyết dày. Ngỗng Già trông thấy, vừa cười hì hì, vừa đứng phía sau giúp đẩy cô bạn lên lớp. Hứa Niệm quay đầu cười, rồi nói cảm ơn! Tới đoạn dốc, Ngỗng Già bỗng đẩy chiếc xe về phía trước, rồi cười nói thật to: “Như thế này cho nhanh!” Hứa Niệm sợ hãi hét lên, bánh xe vướng phải một cục băng, Hứa Niệm ngã nhoài trên tuyết. Thấy tình hình không ổn, Ngỗng Già sợ hãi quay người chạy mất dạng. Cô gái đáng thương một mình vật lộn. Xe lăn đã văng ra cách đó mấy mét, cô chỉ còn biết cố sức bò sang. Đúng lúc đó một cô gái khác bỗng cúi xuống, bế cô lên.

    Đó là cái ôm đầu tiên!

    Hứa Niệm chưa bao giờ nghĩ quá nhiều về cái kịch bản tình cờ ấy. Từ nhỏ cô đã cố rèn cho mình tính nhẫn nại và kiên cường. Sau này, Ngỗng Già mỗi lần nhớ lại sự việc đó đều cúi mặt ngậm ngùi nói với Hứa Niệm: “Xin lỗi nhé!” Nhưng Hứa Niệm đã sớm quên chuyện đó từ bao giờ chẳng hay, vì cô chỉ nhớ đến Lan Tâm Huệ. Cô gái trong sáng thuần khiết, vẫn hay nói cảm ơn, đến chiếc máy ATM này, cô gái từng cứu giúp một chú bồ câu bị thương này, chỉ vì một cái ôm, mà đã đong đầy tình yêu vào đó.

    Hứa Niệm là một cô gái tài hoa. Cô nghĩ đến những bông hồng nhưng đặt bút vẽ những bông bách hợp. Cô muốn ngồi dưới nắng hoàng hôn chơi ghi-ta, nhưng lại ngồi dưới trăng thổi kèn ắc-mô-ni-ca. Sự thương đau ẩn giấu sâu trong tâm hồn, để mưa gió dần dần xối đi, và chỉ có một người biết. Việc nghiên cứu điểm khởi nguồn của tình yêu cũng khó khăn như việc đi tìm nơi bắt đầu của vũ trụ. Không hiểu vì sao, và từ khi nào họ đã bắt đầu thương yêu nhau nhỉ?

    Trong một buổi sáng mặt trời mọc, hai chú chim vành khuyên đã bay lên khỏi thảm cỏ xanh, thẳng hướng lên không trung như thế nào nhỉ?

    Trong một buổi trưa đầy nắng rọi, một cốc cà phê đầy ngập làm thế nào để tiến lại gần một cốc khác giống hệt mình nhỉ?

    Trong một chiều mưa rả rích, hai cô gái đứng dưới ô bàn tay họ đã chạm vào nhau như thế nào nhỉ? Hai giọt nước mưa đã hòa vào nhau ra sao nhỉ?

    Trong một đêm đông tuyết lạnh, một căn phòng không có lò sưởi, không có điều hòa, họ làm cách nào để sưởi ấm cho nhau nhỉ?…

    Chúng ta đều biết, đóa hoa tình yêu luôn từ từ lớn dần rồi nở rộ. Không có tình yêu, những bông hoa trên thế giới này đều chẳng còn đẹp nữa. Mỗi một cành bách hợp đều là một thiên đường nhỏ bé. Lan Tâm Huệ nói: “Chúng ta là những chú nhím, không thể nào ôm mãi nhau trong vòng tay được, nếu không sẽ tự làm mình bị thương, và làm bị thương người khác.” Hứa Niệm nói: “Mình không quan tâm! Mình chỉ muốn được ở bên cậu thôi! Chúng ta đều quý mến nhau, vì sao lại không thể ở bên nhau được? Tại sao phải để ý đến những gì người khác nói? Từ nhỏ tới lớn, bọn họ đều chỉ biết cười nhạo mình, bắt nạt mình, nhưng mình không quan tâm.” Hai cô gái đều im lặng, Lan Tâm Huệ lấy ra một chiếc MP3, hai cô gái đeo mỗi người một tai nghe, Lan Tâm Huệ bắt đầu nhẹ nhàng hát, Hứa Niệm cũng hát theo, nghe nói đây là bài hát dành cho những người như họ.

    “Và rồi ta vẫn bên nhau

    Dù cho nhân thế khổ đau cũng đành

    Chân trời góc bể non xanh

    Miệng đời chát đắng, không đành buông tay

    Tình yêu là thứ chua cay

    Hai ta còn dám nắm tay đến cùng?

    Cùng nhau đi hết con đường

    Cần bao dũng cảm kiên cường lắm thay!

    Xin đừng buông lỏng bàn tay

    Dù bao sóng gió, chớp mây chẳng sờn!

    Người ơi! Tình ấy nếu còn!

    Ta xin ước hẹn, mãi còn bên nhau!”

    Tối hôm đó, thấy báo đăng rằng một giờ đêm sẽ có sao băng, Hứa Niệm vô cùng hào hứng ngồi ngoài sân, chờ đợi. Trời lạnh, cô gái sắp đông cứng đến nơi nhưng cô vẫn cắn răng chịu đựng, nhìn lên bầu trời đêm, chờ đợi! Chờ, chờ mãi! Đã hai giờ đêm vẫn không thấy có gì xảy ra, nhưng cô vẫn không có ý định bỏ về. Đúng lúc đó, cô hiệu trưởng đi ngang qua, họ nói chuyện với nhau thế này:

    Cô Hiệu Trưởng nói: “Bạn này, sao vẫn chưa đi ngủ thế!”

    Hứa Niệm trả lời: “Em chào cô! Em phải ước nguyện, em đang đợi mưa sao băng để mong điều ước của mình thành sự thật.”

    Cô hiệu trưởng khuyên nhủ: “Đã hai giờ đêm rồi, em mau đi ngủ đi! Em ngốc quá đi mất! Thế em định ước gì?”

    Hứa Niệm trả lời: “Em muốn được ở cùng người mình yêu, mãi mãi không xa rời!”

    Cô hiệu trưởng an ủi: “Tốt nghiệp rồi không có nghĩa tình yêu thời đại học sẽ kết thúc đâu em! Chỉ cần cả hai thực sự yêu thương nhau, sau này các em vẫn có thể kết hôn cơ mà!”

    Hứa Niệm ngậm ngùi: “Nhưng, chúng em vĩnh viễn không thể nào kết hôn được! Vì… bạn ấy cũng là con gái!”

    Cô hiệu trưởng hơi bất ngờ: “Ồ… Thì ra là thế! Cô hiểu rồi!”

    Hứa Niệm nói tiếp: “Em sẽ đợi cả đêm, chắc chắn sẽ gặp được sao băng. Sao băng sẽ giúp em thực hiện ước mơ của mình.”

    Cô hiệu trưởng nhìn Hứa Niệm trìu mến, nói: “Em quả là một cô gái trong sáng.”

    Hứa Niệm vừa cười buồn vừa trả lời: “Em đã thành người lớn rồi mà cô!”

    Cô hiệu trưởng hỏi lại: “Thế em có biết thế nào là tình yêu không?”

    Hứa Niệm lắc đầu đáp: “Không ạ!”

    Cô hiệu trưởng giải thích: “Tình yêu, không phải một ngày, một tháng, một năm, mà là một đời, một kiếp. Kể từ ngày hai người yêu nhau, cho đến khi về với cát bụi, chỉ có cái chết mới có thể chia lìa họ. Thiếu một ngày, thiếu một phút thôi, đều không được gọi là tình yêu em ạ! Chỉ có thứ tình yêu đến đầu bạc răng long, trọn đời trọn kiếp, mới là tình yêu đích thực.”

    Tổ chuyên án sau này điều tra phân tích, quả bom mà Hứa Niệm chế tạo, quả bom mà Lan Tâm Huệ đã đặt, hai cô gái phải giữ thứ tình yêu bí mật không được cuộc đời chấp nhận này, chỉ vì bị ép mới phải tìm cách giết hại giáo viên phụ đạo. Vụ án hết sức đơn giản, giáo viên phụ đạo bí mật điều tra các đôi đồng tính trong trường, muốn công khai tên của họ cho toàn trường biết. Trong một lần điều tra, Lan Tâm Huệ đã mất bình tĩnh mà cãi lại giáo viên phụ đạo. Những mâu thuẫn đó trở thành ngòi nổ cho sự việc ngày hôm nay. Giáo viên phụ đạo uy hiếp rằng, cô ta sẽ không chỉ công khai chuyện này, mà còn khai trừ Lan Tâm Huệ ra khỏi trường. Hai cô gái đành chọn cách diệt khẩu. Tổ chuyên án lấy số tiền học bổng làm mồi nhử, Hứa Niệm quá ngây thơ nên đã mắc câu, lọt vào tầm ngắm của cảnh sát. Lan Tâm Huệ muốn dùng cái chết của mình để đổ tội cho Ngỗng Già – kẻ đã từng bắt nạt Hứa Niệm, và cho đó là cách bảo vệ người mình thương yêu!

    Quả bom nguyệt quang đã chứng tỏ rằng, họ thực ra không hề muốn làm tổn thương ai nữa.

    Lan Tâm Huệ muốn lấy cái chết của mình để rửa sạch sự tình nghi của phía cảnh sát với Hứa Niệm. Cô muốn lấy nó để chứng minh cho tình yêu của mình.

    Trong giây phút cuối cùng, Hứa Niệm từ từ đi xe lăn tới trước mặt Lan Tâm Huệ, tất cả mọi người đều đứng như trời trồng, thời gian như ngừng lại, xung quanh im lặng như tờ, một vầng trăng trắng muốt treo trên bầu trời, mọi người đều dồn mắt về phía hai cô gái đứng ở giữa sân bóng đá. Hứa Niệm vừa mệt vừa thở không ra hơi, dường như cô đã đi một quãng đường rất dài, họ nhìn nhau, không nói một lời. Hứa Niệm bật khóc, cô đưa đôi tay của mình ra. Lan Tâm Huệ cúi xuống, nhẹ nhàng ôm lấy vai Hứa Niệm. Kim la bàn quay, quả bom phát nổ. Từ đây sẽ không còn ai có thể chia rẽ họ được nữa. Không cần phải nói lời yêu, chỉ cần một cái ôm cuối cùng trước mặt mọi người, họ đã cho cả thế giới biết rằng, họ thuộc về một thế giới riêng. Kể từ đó mọi thứ đã chỉ còn thuộc về cỏ xanh. Kể từ đó, chỉ còn lại những tháng ngày mãi mãi.

    Mấy ngày hôm sau, tại nhà của cô hiệu trưởng, một không khí vui mừng tràn ngập, giữa bàn đặt một chiếc bánh ga-tô lớn. Dưới ánh nến, rượu vang và quà tặng đã chuẩn bị sẵn sàng. Bốn người tổ chuyên án đứng ngoài cửa sổ, do dự không biết có nên vào từ biệt hiệu trưởng hay không?

    Một người phụ nữ nói: “Cô là ai? Vì sao lại đối xử với tôi tốt như vậy?”

    Hiệu trưởng cười trả lời: “Hôm nay là sinh nhật của chị!”

    Người phụ nữ kia cau mày suy nghĩ rồi hỏi: “Xin lỗi, tôi vẫn không nhớ ra cô là ai!”

    Hiệu trưởng đáp: “Ngày này năm nào em cũng phải làm sinh nhật cho chị!”

    Người phụ nữ ấy có vẻ cảm động, nhưng rồi lại chỉ vào những ngọn nến và hỏi: “Tại sao phải cắm nhiều nến thế kia? Tôi có phải năm sáu mươi tuổi đâu?”

    Hiệu trưởng nhẹ nhàng đáp: “Đúng thế! Chị mãi mãi mới tuổi đôi chín mà thôi!”

    Người phụ nữ mỉm cười, gật đầu: “Đúng thế! Tôi vẫn còn là thiếu nữ mà!”

    “Người thiếu nữ” ấy chắp đôi tay lại trước ngực, nhắm mắt, bắt đầu ước nguyện. Cô hiệu trưởng vừa cười vừa hát lên khúc hát mừng sinh nhật. Những ngọn nến được thổi tắt, khói trắng bay lên, ánh trăng từ ngoài lọt vào chỗ họ. “Người thiếu nữ” vừa cầu nguyện ấy là một người phụ nữ đã tóc bạc da mồi.

    [1] Giáo viên phụ đạo: Tại Trung Quốc, giáo viên phụ đạo không phải là giáo viên dạy một môn học chính thức nào tại trường. Tùy thuộc và phân công công việc dạy một môn học chính thức nào của nhà trường, công việc của giáo viên phụ đạo có thể là giáo viên kèm thêm ngoài giờ hoặc phụ trách các mảng đời sống, tác phong, kỷ luật, chuyên cần của học sinh sinh viên tại trường, v.v…
     
    Chỉnh sửa cuối: 26/3/17
    Gum, Đương duy, Dung dung and 4 others like this.
  19. Nhím Nhím

    Nhím Nhím Member
    • 344/373

    Bài viết:
    41
    Đã được thích:
    422
    MƯỜI TỘI ÁC TẬP 2: HIỆN TRƯỜNG VỤ ÁN
    PHẦN 5: ĐỨA TRẺ MA

    Lời dẫn
    Hôn nhân thực chất là một vụ “mua bán dâm” dài kỳ – Trương Ái Linh.

    Hai người phụ nữ ôm hai đứa trẻ của mình ngồi nói chuyện trong khoảng sân lộ thiên của một phòng khám nhi. Họ không hề quen biết, nhưng về bản năng khi một bà mẹ gặp một bà mẹ khác, họ luôn có thể tìm được những chủ đề chung để bàn luận. Dạo gần đây, nhiệt độ không khí bỗng dưng xuống thấp, những người như họ kéo đến những nơi như thế này chật cả chỗ. Bé thì ho hắng cảm mạo, bé thì tiêu chảy đường ruột, những đứa trẻ đi khám đông như đi hội.

    Họ bắt đầu kể cho nhau nghe về đứa trẻ của mình. Một người mẹ hỏi người mẹ kia: “Cu cậu này cũng ốm hả chị?”

    Người mẹ được hỏi vỗ nhẹ nhàng vào mông đứa trẻ như muốn an ủi cậu bé, vừa vỗ vừa đung đưa, trả lời: “Vâng! Cháu nhà tôi cứ trớ sữa suốt! Ăn vào là trớ hết ra!”

    Người mẹ kia thấy thế cũng ôm chặt đứa bé của mình vào lòng, cẩn thận kéo chiếc áo len che lại cho kín, rồi quay ra than thở: “Con bé Tiểu Nam nhà tôi cũng thế. Cả đêm không ngủ, cứ khóc trèo trẹo suốt.”

    Người mẹ được hỏi ban nãy vô tình nhìn đứa bé mà người mẹ đối diện đang bế. Trong chiếc, áo len choàng kín mít, lộ ra một khuôn mặt trẻ nhỏ trắng bợt. Người mẹ này bỗng giật mình sợ hãi, tóc tai dựng ngược, vì khuôn mặt đứa trẻ mà cô vừa nhìn thấy rõ ràng mang một màu trắng rất lạ, không giống màu da người chút nào. Trống ngực của cô đập liên hồi, rồi bỗng có một ý nghĩ không hay. Ý nghĩ đó khiến cô cũng tự cảm thấy nổi da gà, lạnh sống gáy. Chẳng lẽ người mẹ bên cạnh đang ôm một đứa trẻ đã chết sao?

    Một lát sau, đứa trẻ mà người phụ nữ kia đang bế bỗng cất tiếng gọi Bố, Mẹ. Giọng nói nhẹ nhàng và thanh thoát của đứa trẻ khiến cô gạt hết mọi suy nghĩ mông lung trong đầu. Nhưng rồi nghĩ lại ngay, đứa trẻ nhỏ như thế làm sao có thể gọi Bố Mẹ được?

    Sự hiếu kì khiến người mẹ quên hết cả sợ hãi. Cô giả bộ nhẹ nhàng vén chiếc chăn bà mẹ kia đang ôm ra một chút…

    Dưới ánh sáng mặt trời, một sự kinh hoàng đập vào mắt cô!

    Đứa trẻ mà người mẹ kia đang bế trong chiếc chăn và áo len kia không phải là một đứa trẻ, mà là một con búp bê trắng toát.

    Chương 1
    Đứa trẻ

    Ngày 16 tháng 12 năm 2008, tại khu trung tâm thành phố Bạch Cương xảy ra một vụ án giết người kinh hoàng, một người công nhân sửa đèn đường phát hiện ra xác một người phụ nữ tại cống thoát nước của thành phố. Nữ nạn nhân thân hình đầy đặn, quần áo trong ngoài toàn một màu trắng, chỉ có mái tóc nhuộm màu đỏ rượu vang, khuôn mặt đã bị hủy hoại không thể nhận diện được nữa.

    Bấy giờ đang giữa mùa đông giá rét dưới cống không hề có nước, nạn nhân nằm nghiêng trong đoạn rãnh khô, các ngón tay co quắp như chân chim, khuôn mặt cháy đen, hốc mắt sâu hoắm, lộ ra phần xương hốc.

    Theo kết quả kiểm tra pháp y, nạn nhân đã chết khoảng hai bốn tiếng, đường thực quản bị tổn thương, dẫn đến các vết loét. Dạ dày cũng có dấu hiệu bị thủng, từ trong dạ dày của nạn nhân phát hiện có Axit Clo-hiđric đậm đặc, và tàn dư một của loại thuốc tránh thai khẩn cấp có tên Mifeisi chưa tiêu hóa hết.

    Nạn nhân đã uống Axit Clo-hidric đậm đặc. Đây là loại chất lỏng có tính ăn mòn mạnh, và là nguyên nhân khiến nạn nhân tử vong tại chỗ.

    Thủ đoạn gây án của hung thủ khiến người ta phải dựng tóc gáy. Khuôn mặt nạn nhân bị đốt cháy không thể nhận diện được, vùng bụng bị rạch. Nhưng có một điều kì lạ, đó là quần áo trang phục của nạn nhân vẫn lành lặn không chút dấu vết nào. Tuy nhiên, điều khiến phía pháp y bất ngờ và sợ hãi nhất, là khi tiến hành kiểm tra, từ trong bụng nạn nhân phát ra tiếng trẻ con. Nữ bác sĩ dù vô cùng kinh hãi, nhưng khi trấn tĩnh lại, lôi từ trong bụng xác chết ra một con búp bê.

    Con búp bê trong bụng nạn nhân này mỗi khi bị chạm nhẹ vào tự động phát ra tiếng gọi “Bố! Mẹ!” Thứ âm thanh trong vắt và kì diệu được mô phỏng một cách xuất sắc, khi nghe được, bất cứ ông bố bà mẹ nào cũng có thể nghĩ đó chính là tiếng của một đứa trẻ thực sự.

    Theo phân tích từ phía cảnh sát điều tra hiện trường, hung thủ trước tiên ép nạn nhân uống Axit Clo-hiđric đậm đặc, khiến nạn nhân tử vong tại chỗ, sau đó hủy hoại khuôn mặt, tiếp đó rạch bụng nạn nhân, nhét một con búp bê vào, cuối cùng quẳng xác vào một chiếc giếng kín đáo.

    Tính chất vụ án vô cùng nghiêm trọng. Gần chiếc giếng nơi vứt xác nạn nhân có một khu nhà trông trẻ.

    Để đảm bảo an toàn cho các em nhỏ, phía nhà trường đã cho cán bộ nhân viên và các học sinh nhỏ của mình tạm nghỉ một thời gian, đoạn đường gần nơi xảy ra vụ án cũng được kiểm tra và quản lí nghiêm ngặt, các xe ô tô phải đi vòng đường khác. Ngay lập tức, các cán bộ nhân viên Phòng Công an thành phố tích cực vào cuộc, bắt đầu công tác điều tra thăm dò. Những tờ cáo thị tìm kiếm thân nhân của thi thể được dán khắp các đầu đường cuối ngõ.

    Lực lượng cảnh sát địa phương ngay lập tức báo cáo cơ quan lãnh đạo cấp trên, mong nhận được sự giúp đỡ từ phía tổ chuyên án, và có thông báo yêu cầu hỗ trợ điều tra đến các đơn vị công an xung quanh.

    Bốn người tổ chuyên án lập tức lên đường tới thành phố Bạch Cương. Ủy ban thành phố và lãnh đạo Cục Công an vô cùng coi trọng vụ việc lần này, đích thân đến hiện trường bỏ xác cùng tổ chuyên án. Trên đường đi, nữ bác sĩ pháp y báo cáo lại những thông tin chi tiết kết quả khám nghiệm tử thi.

    Axit Clo-hiđric đậm đặc tìm thấy trong dạ dày của nạn nhân là một loại nước rửa nhà vệ sinh, tính ăn mòn mạnh, thường được dùng để tẩy rửa những vết bẩn cứng đầu. Người phụ nữ này đã từng có con, nhưng trong cơ thể cô ta không thấy dấu hiệu nào của việc đặt vòng tránh thai. Theo quan sát vết máu trên quần áo nạn nhân, có thể phán đoán rằng hung thủ chỉ rạch bụng, nhét con búp bê vào sau đó chỉnh lại quần áo cho nạn nhân như cũ. Hung khí mà kẻ thủ ác sử dụng là một loại cưa máy, rạch một vết ở phần bụng của nạn nhân. Không phát hiện thấy dấu hiệu của sự xâm hại, nhưng tìm thấy dấu hiệu của nước tẩy rửa nhà vệ sinh tại vùng vết thương.

    Giáo sư Lương lên tiếng phân tích: “Việc hung thủ dùng nước tẩy rửa có thể vì mục đích phá hủy chứng cứ nào đó.”

    Bác sĩ pháp y nói: “Thời gian sống của tinh trùng tại môi trường ngoài rất ngắn. Các loại chất tẩy rửa hoặc chất sát trùng đều có thể giết chết chúng.”

    Tô My cầm bức ảnh chụp thi thể nạn nhân lên, nói: “Một người phụ nữ mặc đồ trắng toát, lại nhuộm tóc đỏ, mới nhìn vào đã thấy thật đáng sợ.”

    Bao Triển phân tích: “Hung thủ và nạn nhân có thể là người quen, hành động phá hủy khuôn mặt nạn nhân là để tránh việc người khác nhận ra nạn nhân.”

    Nữ bác sĩ pháp y đồng tình, nói: “Đúng thế! Đại đa số các vụ án giết người chôn xác đều là hành vi của người quen biết. Chồng giết vợ, bạn trai giết bạn gái, con giết cha, sau đó hủy xác phi tang.”

    Họa Long bức xúc, nói: “Giết người, mổ bụng, thật là ghê tởm và độc ác! Một con người tại sao lại có thể đối xử một cách tàn nhẫn với người thân của mình như thế được chứ, thật không bằng loài cầm thú! Để tôi bắt được nhất định phải tẩn cho hắn một trận nhớ đời.”

    Giáo sư Lương trầm ngâm: “Không đơn giản như thế đâu! Con búp bê trong bụng nạn nhân rốt cục là có hàm ý gì? Mức độ dã man của vụ án này chắc chắn nằm ngoài cả sức tưởng tượng của chúng ta.”

    Đoạn đường nơi xảy ra vụ án đã bị phong tỏa. Nữ bác sĩ pháp y vén sợi dây cảnh giới màu vàng vây quanh hiện trường lên, đưa bốn người của tổ chuyên án tới chỗ miệng giếng nơi tìm thấy cái xác.

    Bốn người nhìn làn nước dưới giếng, tất cả đều chỉ trầm ngâm không nói.

    Một cảnh sát tại đó cho biết, anh đã tham gia xử lý hàng nghìn vụ án giết người phi tang. Trong đó, giếng và sông hồ là địa điểm được chọn lựa nhiều nhất. Hung thủ có thể có hàng trăm hàng nghìn cách tẩu tán xác chết, nhưng nơi vứt bỏ thường có những đặc điểm chung.

    Một bé trai bốn tuổi tại Thâm Quyến vì ăn cơm quá chậm, bị chính cha đẻ của mình đánh đập đến chết rồi bỏ xác tại cống thoát nước cạnh ven đường ngay đối diện nhà mình.

    Một chàng trai người Trường Xuân vì không có tiền làm đám tang cho mẹ, đã bỏ xác mẹ xuống giếng nước.

    Một nữ ca sĩ xinh đẹp tại Bắc Kinh bị người tình giết hại, ném xuống cống thoát nước trong thành phố.

    Một thanh niên giết chết người yêu, sau đó lên mạng đăng bài hỏi về cách phi tang xác hiệu quả và bí mật nhất. Tuy nhiên, chỉ có một số ít người đọc khuyên hung thủ nên ra đầu thú, đại đa số còn lại đều tham gia vào một cuộc thảo luận về việc “làm cách nào để phi tang người chết”. Đã có rất nhiều ý kiến được đưa ra. Đối với phần địa điểm vứt xác, giếng và sông hồ là những nơi được nhắc tới nhiều nhất. Từ đó, chúng ta có thể dễ dàng hiểu rằng, chỉ cần nhìn vào bên trong một cái giếng, rất có thể tìm thấy những thi thể chưa bị phát hiện.

    Bao Triển và Họa Long dựng lại hiện trường phi tang xác bên cạnh chiếc giếng. Họ dùng một mô hình người để thay thế cho thi thể. Bao Triển lần lượt làm các động tác ném xác vào trong giếng và kéo xác tuồn xuống giếng, sau đó so sánh tư thế của xác chết giả với xác chết thật khi tìm thấy, để phán đoán số người tham gia vào hành động này.

    Sau khi lặp đi lặp lại quá trình mô phỏng, kết quả so sánh cho thấy việc hai người khiêng xác ném vào giếng là hợp lí nhất, và cũng gần với tình trạng hiện trường nhất. Mọi người đều nghiêng về giả thiết hung thủ có thể có hai hoặc trên hai người.

    Sau đó, thông qua các biện pháp kĩ thuật, tổ chuyên án phán đoán thời gian vứt xác vào khoảng một giờ đêm.

    Cuộc họp về tình hình vụ án được mở ngay tại hiện trường. Mọi người đều tụ lại một chỗ, giáo sư Lương bắt đầu phân tích: “Đây là một nơi vô cùng hẻo lánh, những cột đèn đường gần đây cũng đều đã hỏng. Vào khoảng thời gian một giờ đêm, lượng xe qua lại rất ít. Hung thủ chọn nơi này để tẩu tán xác nạn nhân, chứng tỏ kẻ đó tương đối quen thuộc khu vực này, và rất có khả năng chính là một người sống gần đây. Bước điều tra tiếp theo, chúng ta cần tăng cường điều tra những người dân sống quanh vùng này, nhất định phải làm vô cùng kĩ càng và chặt chẽ, không để lọt bất cứ một nhà, một người nào. Trong đó phải đặc biệt chú ý đến những, gia đình có cưa điện, đồng thời tìm kiếm xem có ai là người chứng kiến hoặc biết về sự việc hay không. Điểm mấu chốt để có thể phá được vụ án này là cần nhanh chóng xác định được thân phận của nạn nhân, nếu không chúng ta sẽ không có cách nào hoàn thành nhiệm vụ được.”

    Giáo sư Lương yêu cầu phía cảnh sát địa phương mở rộng khu vực điều tra, ngay lập tức triển khai công tác dò hỏi thông tin, đồng thời phân công công việc cho các thành viên của tổ.

    Tô My phụ trách tìm kiếm và lập danh sách những người phụ nữ mất tích trong thời gian gần đây, mục đích xác định thân phận chính xác của nạn nhân.

    Họa Long dẫn đầu một đội cảnh sát, đến điều tra tại tất cả các cửa hàng bán thuốc trên địa bàn thành phố, dò hỏi thông tin về một người phụ nữ mặc áo lông vũ màu trắng, tóc nhuộm màu đỏ, từng đến các cửa hàng để mua thuốc tránh thai. Một địa điểm khác nữa là các cửa hàng và siêu thị bán đồ chơi trẻ em trong thành phố, xác định nguồn gốc con búp bê tìm thấy trong bụng nạn nhân.

    Bao Triển và nữ bác sĩ pháp y tiếp tục công tác khám nghiệm tử thi, xác định nhãn hiệu loại nước tẩy rửa nhà vệ sinh và kích thước, quy cách lưỡi cưa sử dụng làm hung khí, cố gắng tìm kiếm nhiều hơn nữa những chứng cứ có thể chứng minh thân phận của nạn nhân, cũng như các đầu mối dù là nhỏ nhất mà hung thủ để lại.

    Phòng thí nghiệm bệnh lí pháp y của Cục công an nằm dưới tầng hầm thứ hai. Nằm giữa phòng giải phẫu và phòng hóa nghiệm chính là nơi bảo quản thi thể, bên trong có rất nhiều các ngăn kéo đông lạnh. Trong các ngăn kéo là những thi thể hoặc các phần cơ thể của các nạn nhân được bảo quản đông lạnh. Trên đó đều có mã hiệu riêng, và thuộc hàng những vụ án mà nhiều năm nay vẫn chưa thể phá giải được.

    Bao Triển mở thử mấy ngăn kéo ra, số lượng ngăn kéo còn trống đã không còn bao nhiêu.

    Bao Triển đậy ngăn lạnh lại và lên tiếng hỏi: “Tỉ lệ phá án ở thành phố này không được cao lắm nhỉ?”

    Nữ bác sĩ vừa cười vừa nói: “Vâng! Nếu không mời được tổ chuyên án đến, chắc chỗ này rồi sẽ đầy lên mất.”

    Nữ bác sĩ đẩy thi thể vào phòng giải phẫu, rồi lấy ra một thiết bị thu âm, vừa thu vừa tiến hành khám nghiệm theo đúng quy trình. Bao Triển đứng bên cạnh đảm nhiệm vai trò “trợ thủ”. Nữ bác sĩ nói vào trong máy thu âm: “Nạn nhân là nữ giới, khoảng bốn mươi tuổi, cao một mét bảy mươi, nặng bảy mươi cân, cơ thể phát triển bình thường, chế độ dinh dưỡng tốt…”

    Sau những kiểm tra ngoài bước đầu là phần kiểm nghiệm giải phẫu, hiện trường giải phẫu vô cùng đáng sợ.

    Nữ bác sĩ nói với Bao Triển, trong lần đầu tiên thực hiện một cuộc giải phẫu, cô đã sợ đến phát ngất. Trong thời gian thực tập, cô gặp một vụ án cần bật quan tài để giám định pháp y, thầy hướng dẫn còn không cho phép cô đeo khẩu trang, để đảm bảo khứu giác của người bác sĩ không bị ảnh hưởng, như thế mới có thể xác định chính xác nạn nhân có uống thuốc trừ sâu hay không.

    Nữ bác sĩ vừa cười vừa nói đùa: “Vì tính chất công việc, nên đến giờ tôi vẫn chưa có người yêu, bạn bè cũng chẳng mấy ai muốn đi ra ngoài ăn cơm cùng tôi cả.”

    Bao Triển hỏi: “Nạn nhân đã uống ít hay nhiều nước tẩy rửa, điều này cũng rất quan trọng.”

    Nữ bác sĩ trả lời: “Kết quả sẽ có ngay thôi! À, mà anh đã có người yêu chưa?”

    Bao Triển ngẩn người một lát, rồi ấp úng lảng sang chuyện khác: “Cô xem xem, bên trong cơ thể nạn nhân có dấu hiệu đặt vòng tránh thai không?”

    Nữ bác sĩ đặt con dao giải phẫu xuống, hất mái tóc sang một bên rồi nói: “Anh thấy tôi thế nào? Chúng ta có thể tìm hiểu nhau một thời gian được không?”

    Bao Triển có phần ngượng ngùng, mặt hơi ửng đỏ. Đây là lần đầu tiên anh gặp phải tình huống bị ngỏ lời một cách trực tiếp như thế này, trong giây lát không biết phải trả lời ra sao. Nhìn thấy con búp bê, Bao Triển vội vã đổi chủ đề: “Cô đã giải phẫu con búp bê chưa?”

    Nữ bác sĩ tiến hành kiểm tra con búp bê, và ghi âm lại những tiếng nói phát ra từ nó.

    Tổ chuyên án làm việc thông đêm, phân tích và không ngừng mở đi mở lại phần ghi âm những tiếng cười cùng tiếng gọi Bố Mẹ phát ra từ con búp bê. Giữa lúc nửa đêm, những tiếng nói trẻ em mô phỏng này khiến mọi người đều dựng tóc gáy.

    Họa Long lên tiếng: “Con gái cháu cũng từng có loại búp bê như thế này.”

    Tô My thắc mắc: “Hành động phạm tội này bắt nguồn từ động cơ nào nhỉ? Một con búp bê như thế này có thể đại diện cho điều gì được?”

    Bao Triển trả lời dứt khoát: “Sinh nở!”

    Giáo sư Lương nói: “Nạn nhân muốn có một đứa con, nên hung thủ đã tặng cho cô ta một đứa.”

    Một cảnh sát khu vực bước vào thông báo tình hình. Trong quá trình điều tra, phía cảnh sát tìm thấy một nhân chứng.

    Tổ chuyên án lộ rõ vẻ vui mừng, không đợi thêm được nữa vội bảo đồng chí cảnh sát nói tiếp. Nhưng lúc này, người cảnh sát khu vực lại thất vọng trả lời: “Nhân chứng là một người mù.”

    Vệ đường gần hiện trường vụ án có một trường mầm non. Phía tây của trường mầm non này là một khu rừng trồng cây ăn quả, phía đông có một khu nhà hai tầng cũ kĩ. Tầng một của khu nhà có cửa hàng bán sơn, cửa hàng bán đồ lao công quét dọn, và một tiệm mát-xa của người mù. Trong tiệm mát-xa có ba nhân viên: Một người phụ nữ, một ông cụ và một người trung niên to béo, tất cả họ đều không còn nhìn được ánh sáng. Cả ba người mù và nhân viên của cửa hàng bán sơn, cửa hàng bán đồ lao công quét đọn đều sống trên tầng hai. Họ chỉ có một cầu thang và một hành lang chung.

    Khoảng một giờ đêm hôm đó, người phụ nữ mù có phần đau đầu, nên xuống khỏi giường đi ra hành lang hóng gió cho thoáng mát. Đôi mắt cô đã không còn thấy gì, nhưng bù lại cô có đôi tai vô cùng nhạy bén.

    Viên cảnh sát khu vực hỏi lại nhiều lần, đêm hôm đó cô đã nghe thấy tiếng gì, cô đều khẳng định trên con đường phía dưới khu nhà có hai người, bước chân rất nặng nề, tiếp đó có tiếng ném đồ vật, rồi sau cùng là tiếng xe lái đi.

    Cảnh sát hỏi: “Cô có nghe ra đó là xe gì không?”

    Người phụ nữ mù chỉ lắc đầu.

    Cảnh sát hỏi tiếp: “Hai người đó có nói chuyện gì với nhau không?”

    Người phụ nữ mù gật đầu, nói: “Họ chỉ nói đúng một câu, tôi đã nghe thấy rất rõ.”

    Cảnh sát cướp lời: “Câu gì?”

    Người phụ nữ mù trả lời: “Bên kia có người!”

    Manh mối này được tổ chuyên án hết sức xem trọng. Giáo sư Lương yêu cầu người cảnh sát khu vực ngay trong ngày hôm sau phải đưa nhân chứng mù kia đến gặp tổ chuyên án để làm một cuộc thử nghiệm tiếng động cơ, hy vọng có thể tìm ra loại xe mà hung thủ đã sử dụng. Đêm hôm đó, Bao Triển cả đêm không chợp nổi mắt. Anh cảm thấy trong chuyện này có điều gì đó bất thường. Trời vừa tờ mờ sáng, Bao Triển đã vội gọi Họa Long dậy, rồi hốt hoảng nói: “Hung thủ nói câu “Bên kia có người!” chẳng phải ám chỉ người phụ nữ mù đó hay sao?”

    Ông cụ mù cũng suốt đêm không ngủ. Sau khi người cảnh sát khu vực rời đi, ông nghe đài đến tậm mười một giờ đêm. Khi ra hành lang thu dọn quần áo, ông phát hiện ra có ai đó cũng đang ở trong hành lang. Từ mặt cầu thang lên vọng lại tiếng bước chân rất nhẹ. Ông cụ nghĩ đó là hàng xóm nên cất tiếng hỏi thăm: “Vẫn chưa ngủ à? Đi đâu thế?”

    Người kia chỉ nói với ông cụ mù hai từ rồi bỏ đi ngay.

    Ông cụ trở về phòng, nằm xuống giường, trong lòng đắn đo mãi về hai từ vừa rồi, càng nghĩ càng thấy sợ hãi, không tài nào nhắm mắt ngủ cho nổi.

    Chương 2
    Lau sàn

    Người “hàng xóm” đó nói: “Lau sàn!”

    Ông cụ mù cảm thấy rất kì lạ. Đó không phải là hàng xóm nhà ông vì trước giờ ông chưa nghe tiếng người này xuất hiện ở đây bao giờ.

    Một người lạ mặt nửa đêm đến một hành lang lạ hoắc để lau sàn, đó là một điều không bình thường chút nào.

    Ông cụ bỗng cảm thấy lo lắng cho người phụ nữ mù ở gian bên cạnh, cả đêm thấp thỏm không chợp được mắt. Ông chỉ hi vọng sáng hôm sau người phụ nữ mù vẫn còn an toàn khỏe mạnh.

    Sáng sớm ngày hôm sau, Bao Triển và Họa Long dẫn theo một đội cảnh sát nhanh chóng tới khu nhà nọ. Tại góc chân cầu thang phát hiện một xác phụ nữ – người phụ nữ mù đã bị giết.

    Cảnh sát lập tức phong tỏa và bảo vệ hiện trường. Nữ bác sĩ pháp y nhanh chóng lái xe tới. Tay trái của cô còn cầm theo một túi bánh bao nhỏ vẫn đang còn nóng, tay phải cầm một túi ni-lông, trong đó là vài hộp sữa.

    Chỗ đồ ăn sáng này là do cô vừa mua từ một quán hàng bên kia đường của khu nhà.

    Nữ bác sĩ pháp y nói: “Mọi người ăn chút gì đó đi để có sức làm việc. Tổ chuyên án các anh chắc không đến nỗi nhìn thấy xác chết thì không nuốt trôi đồ ăn chứ?”

    Họa Long nhón một chiếc bánh bao cho vào miệng, hỏi: “Quá trình kiểm tra cần nhiều thời gian không?”

    Bao Triển tỏ ý mình không đói, rồi chỉ vào vết máu trên hành lang, nói: “Một buổi sáng chắc không hoàn thành được công tác kiểm tra. Hiện trường này đã bị hung thủ xóa một phần dấu vết rồi.”

    Hiện trường gây án chỉ khu vực hoặc địa điểm nơi hung thủ thực hiện hành vi giết người, giấu xác, chôn xác, ném xác hoặc các phần của xác nạn nhân. Do sự khác nhau về tâm lí, kinh nghiệm, động cơ, mục đích, thủ đoạn gây án, cùng với điều kiện nơi xảy ra vụ việc, hiện trường các vụ án mạng đều tương đối phức tạp.

    Hiện trường của các vụ án khác nhau đều có những đặc điểm đặc trưng riêng.

    Có những hung thủ tâm lí vô cùng vững vàng và lạnh lùng, sau khi gây án không lập tức rời khỏi hiện trường, mà cố ý hủy dấu vết hiện trường, xóa bỏ tất cả những dấu tích của mình tại đó.

    Đặc điểm của vụ án lần này đó là – Có rất nhiều vết máu.

    Trong và ngoài căn phòng đều có vết máu, và phân bố rất rộng. Vết máu là một trong những dấu vết để lại tại hiện trường một vụ giết người, và cũng là một bằng chứng quan trọng, có ý nghĩa làm chứng quan trọng và giúp giám định hiện trường một cách dễ dàng và chính xác hơn.

    Bao Triển phải chụp lại tất cả các vết máu đó dù chỉ là một giọt để lấy bằng chứng, nên lượng công việc cần làm rất lớn.

    Nữ bác sĩ pháp y đo đạc nhiệt độ trong và ngoài phòng nơi nạn nhân ở, sau đó đo nhiệt độ của xác chết.

    Người phụ nữ mù mặc một bộ quần áo lửng. Hiện trường đầu tiên của vụ án là tại phòng của nạn nhân. Căn cứ vào vết máu trên gối của nạn nhân, có thể phán đoán rằng người phụ nữ mù bị cứa cổ khi đang ngủ. Nữ bác sĩ đó đo chiều dài vết thương do hung khí gây ra, rồi quay sang nói với Họa Long: “Hung thủ này là một người khỏe mạnh và cường tráng. Từ trái sang phải, chỉ một nhát dao thôi đã đủ kết thúc mạng sống của nạn nhân.”

    Họa Long bước lại, hỏi: “Vết máu trên trần và dưới sàn nhà là sao vậy?”

    Nữ bác sĩ ngẩng đầu nói: “Đó là do máu phụt lên. Trong quá trình kiểm tra hiện trường, sau khi dùng phép phân tích, có thể căn cứ vào dấu vết để lại để phán đoán trạng thái của nạn nhân tại thời điểm bị hại.

    Nếu vết máu nhỏ thành vết tròn, chứng tỏ nạn nhân lúc đó đang trong tình trạng tĩnh, còn nếu vết máu có phần “đuôi” kéo dài ra, có thể kết luận nạn nhân đang ở trong tình trạng di chuyển.

    Bao Triển làm một cuộc mô phỏng quá trình gây án, Họa Long đến gặp các phòng bên cạnh. Sau khi công tác kiểm tra hiện trường kết thúc, Bao Triển và Họa Long trở về báo cáo chi tiết lại cho giáo sư Lương.

    Hung thủ chỉ có một người, là đàn ông. Cửa sổ phòng nạn nhân không có chấn song chắn mà chỉ là một lớp kính. Hung thủ dùng dao cắt gương cắt phần kính sổ rồi đột nhập vào phòng nạn nhân. Tay phải hung thủ cầm dao sát hại nạn nhân khi cô đang ngủ say. Máu của người phụ nữ mù phụt lên. Sau đó, hung thủ xóa dấu chân của mình bằng một cách vô cùng man rợ.

    Giáo sư Lương hỏi: “Xóa bằng cách nào?”

    Họa Long trả lời: “Dùng xác nạn nhân.”

    Bao Triển nói thêm: “Đây là một cách vô cùng thông minh và to gan lớn mật.”

    Hung thủ tóm lấy hai chân, dốc ngược nạn nhân, rồi từ từ kéo xác. Tóc của nạn nhân cứ thế xóa đi vết chân của hắn. Nạn nhân bị kéo từ trong phòng ra hành lang. Tại đây, hung thủ gặp phải ông cụ mù, và đã trả lời rằng mình đang “lau sàn” để lừa ông cụ. Tại góc tường cạnh cầu thang, hắn bỏ cái xác lại, rồi rời khỏi hiện trường.

    Giáo sư Lương thắc mắc: “Hung thủ đã có chuẩn bị trước khi đến, là một kẻ to gan lớn mật lại rất cẩn thận chu toàn, vậy tại sao hắn không giết ông cụ mù để diệt khẩu?”

    Họa Long cho rằng: “Hung thủ có thể đã phát hiện ra ông cụ là một người mù. Hơn nữa việc giết người ở hành lang rất nguy hiểm.”

    Giáo sư Lương phân tích: “Người phụ nữ mù là nhân chứng. Hung thủ có lẽ không biết cô ta cũng là một người mù.”

    Bao Triển nói: “Theo những gì điều tra được, người phụ nữ mù này mới làm việc ở tiệm mát-xa được vài ngày.”

    Giáo sư Lương hỏi: “Hai chữ “lau sàn” mà hung thủ nói là giọng phổ thông hay giọng địa phương?”

    Họa Long trả lời: “Giọng phổ thông.”

    Giáo sư Lương ra lệnh: “Lập tức điều tra những người từng đến tiệm mát-xa đó, đặc biệt chú ý đến những người nói giọng phổ thông. Hung thủ trước đây có thể từng đến tiệm mát-xa đó điều trị, nên khi hắn kéo cái xác xuống và gặp ông cụ ở hành lang đã không giết hại ông ấy, vì hắn biết ông cụ bị mù.”

    Những người dân nói giọng phổ thông ở vùng này không nhiều, nên phạm vi điều tra sẽ được thu hẹp không ít, chẳng mấy chốc đã có một danh sách những kẻ bị tình nghi. Gần đây, những người tới tiệm mát-xa của ông cụ chỉ có năm người nói giọng phổ thông: Một người là lái xe tải chở hàng, thường đến cạo gió bằng bình thủy tinh, một người là luật sư bị chứng thoát vị đĩa đệm, một người nông dân bị sai khớp chân, đến đó để nắn lại, một nữ kế toán đến mát-xa vùng vai gáy, và một vị cán bộ về hưu đến tiệm mát-xa người mù để tiêu tiền giả nhưng bị phát giác.

    Thính giác của người mù vô cùng nhạy cảm, trí nhớ cũng rất tốt. Theo những gì ông cụ nhớ lại, ông thấy giọng nói của hung thủ rất lạ, hình như trước đây chưa hề tiếp xúc lần nào.

    Bao Triển và Họa Long dựa theo địa chỉ trên hồ sơ bệnh án của từng người một, đến tận nhà điều tra. Có những địa chỉ rất mơ hồ, khiến công tác điều tra gặp nhiều khó khăn, phải mất một khoảng thời gian mới tìm thấy họ. Giáo sư Lương yêu cầu phải nắm rõ cả tư liệu về người thân trong gia đình của những người này, vì theo lẽ thông thường, người bệnh hay được người nhà đưa tới, hung thủ rất có thể chính là một trong những người đó.

    Giáo sư Lương bảo Tô My đến trước cổng các trường mầm non, tiểu học, các phòng khám nhi để dán thông báo tìm kiếm danh tính thi thể, hy vọng sẽ có người biết hoặc chứng kiến sự việc. Theo kết quả giám định pháp y, nạn nhân đã từng sinh con, vì thế cô ta nhất định đã từng đến những địa điểm nêu trên. Chỉ cần có người quen biết hoặc từng gặp mặt nạn nhân, sẽ có thể lần ra thân phận thực sự của xác chết.

    Vài ngày sau, một trận tuyết lớn đổ xuống thành phố này. Tổ chuyên án không ngại khó khăn, ngày đêm điều tra, cuối cùng vụ án cũng có bước đột phá quan trọng.

    Một người phụ nữ từng gặp mặt nạn nhân, cô kể lại cho phía cảnh sát nghe câu chuyện kì dị mà mình gặp phải. Con nhỏ của nhân chứng gần đây thường xuyên nôn trớ, cô đưa đứa trẻ đến một phòng khám nhi để thăm khám. Khi đang đứng chờ trong sân, cô và một người phụ nữ mặc chiếc áo lông vũ màu trắng có nói chuyện vài câu. Bỗng nhiên, cô dựng tóc gáy khi thấy “đứa trẻ” mà người mẹ kia đang ôm trong lớp chăn áo kia thực ra chỉ là một con búp bê!

    Lúc đó trời đã sâm sẩm tối, nhân chứng sợ quá vội rời khỏi đó, khi về nhà còn kể câu chuyện đó cho chồng mình nghe. Vài hôm sau, cô thấy trước cổng phòng khám nhi có dán thông báo tìm kiếm danh tính nạn nhân, cô liền lập tức tới báo án.

    Bao Triển thắc mắc: “Sau khi trời tối, nạn nhân có thể đi đâu được nhỉ?”

    Tô My rùng mình cảm thán: “Giữa đêm tối, mặc một bộ đồ màu trắng toát, đi loăng quăng giữa đường phố, đúng là khiến người ta sợ chết khiếp. Lại còn thêm bộ tóc đỏ rực, trên tay ôm một con búp bê nữa, mới nghĩ thôi đã dựng cả tóc gáy rồi!”

    Giáo sư Lương phân tích: “Nạn nhân từng sinh con, rất có thể đứa trẻ mất sớm, nên tinh thần có phần bị tổn thương.”

    Họa Long nói: “Nếu đúng như thế, có lẽ nạn nhân vẫn luôn tin rằng con mình chưa chết, nên luôn sống trong tưởng tượng.”

    Giáo sư Lương yêu cầu nhân chứng phối hợp cùng chuyên gia dựng hình tái tạo lại khuôn mặt của người chết Bao Triển và Họa Long lập tức tiến hành lấy thông tin tại phòng khám nhi kia. Nhưng không thể ngờ được, vừa nhìn thấy cảnh sát, ông chủ phòng khám nhi mặt mũi tái nhợt, hoang mang nói rằng mình không phải bác sĩ mà chỉ là bệnh nhân, rồi sau đó lấy cớ ra ngoài gọi điện thoại, định tẩu thoát. Họa Long chẳng mất mấy sức lực đã tóm được kẻ đào tẩu, dẫn hắn về đồn công an.

    Họa Long hỏi: “Vừa thấy cảnh sát đã chạy là sao?”

    Chủ phòng khám lắp bắp: “Sợ ạ! Trước đây tôi từng bị đánh!”

    Bao Triển hỏi tiếp: “Phòng khám của ông hoạt động bao lâu rồi?”

    Chủ phòng khám trả lời: “Năm sáu năm rồi!”

    Họa Long hỏi: “Có giấy phép kinh doanh không?”

    Chủ phòng khám vẫn cố ngụy biện: “Chứng nhận tư cách ngành y của tôi trong năm nay sẽ có!”

    Bao Triển hỏi tiếp: “Có thấy thông báo tìm kiếm danh tính thi thể chúng tôi dán trước cổng phòng khám của ông không? Ông có nhận ra người phụ nữ trong ảnh đó không?”

    Giáo sư Lương nãy giờ ngồi im lặng, bỗng lấy ra vài bức ảnh, đặt xuống trước mặt ông chủ phòng khám. Vừa nhìn thấy những bức ảnh chụp thi thể nạn nhân, chủ phòng khám đã kinh hãi suýt ngã nhào từ trên ghế xuống đất. Trong quá trình thẩm vấn, muốn tìm ra điểm đột phá cần đánh vào điểm bất cẩn và không có phòng bị trước của đối tượng, phá vỡ phòng tuyến tâm lí khiến chúng phải khai nhận đúng sự thật.

    Phòng khám chui này do chủ phòng khám và vợ cùng nhau dựng lên. Mặc dù không có giấy phép kinh doanh, cũng không có chứng nhận tư cách ngành y, nhưng vì giá rẻ, nên vẫn rất nhiều người đưa con đến khám. Do một số tranh chấp trong quá trình khám chữa, nơi này từng bị đóng cửa một thời gian, sau đó lại âm thầm mở cửa kinh doanh trở lại. Vài năm trước, một người phụ nữ họ Vân đưa con mình đến khám tại đây. Sau khi tiêm và uống thuốc, khi trở về nhà đứa trẻ bỗng tử vong không rõ nguyên nhân. Người mẹ đáng thương tập hợp họ hàng thân thích đến gần một trăm người, kéo tới phòng khám “hỏi tội” bác sĩ điều trị. Họ vừa khóc vừa kêu gào, giống như những kẻ điên, đập nát cả phòng khám. Sau đó, sau khi cảnh sát điều tra làm rõ, phía phòng khám phải bồi thường một khoản tiền lớn, phía nạn nhân mới thôi. Không ngờ, vài năm sau, do bị sốc tinh thần, người mẹ đó lại tìm đến phòng khám này.

    Chủ phòng khám cho biết: “Ôi! Lúc ấy tôi sợ chết khiếp! Cô ta ôm một đứa trẻ giả bằng búp bê, bắt chúng tôi phải tiêm cho đứa bé.”

    Bao Triển hỏi: “Cô ta đưa con búp bê đó đến mấy lần?”

    Chủ phòng khám đáp: “Tôi nhớ hình như là ba lần thì phải! Một lần bị chồng cô ta lôi về, còn một lần thì không vào hẳn, mà chỉ đi đi lại lại ngoài cổng thôi.”

    Tô My hỏi: “Anh có con không? Anh cũng tự khám cho con mình sao?”

    Chủ phòng khám trả lời: “Có chứ! Tôi có con trai mười tuổi. Việc đó đã qua cách đây mấy năm rồi tôi cũng đã đền tiền rồi, mọi người bảo cô ta còn đến tìm chúng tôi làm gì? Con cô ta chết ở nhà, đâu phải trách nhiệm của chúng tôi? Bây giờ, cô ta cũng chết rồi, nhưng như thế cũng đâu liên quan gì đến chúng tôi được.”

    Thân phận của nạn nhân đã được xác định. Dựa vào địa chỉ ông chủ phòng khám cung cấp, tổ chuyên án tìm đến nhà người phụ nữ họ Vân kia.

    Người phụ nữ này mở một trung tâm môi giới nhà đất, chồng cô là nhân viên đo đạc của Cục lâm nghiệp. Sau khi đứa con yêu quý của họ đột nhiên qua đời, tình cảm hai vợ chồng cũng ngày rạn nứt. Theo những gì hàng xóm cho biết, họ thường xuyên cãi vã, nhiều lần còn định li hôn.

    Nhà nạn nhân nằm cạnh đường cái. Trên một vách tường có ghi dùng chữ “Cho thuê nhà”, cổng đã đóng kín, trên nền sân bê tông trước cửa có một đôi giày trẻ em. Sau khi Bao Triển chụp ảnh lấy chứng cứ xong, Họa Long định nhảy qua trường rào, vào trong mở cửa. Mặt trên tường vây có những khoảng tuyết tàn. Họa Long đứng trên đó, nhưng mãi vẫn không nhảy vào trong.

    Bao Triển đứng dưới sốt ruột hỏi: “Sao thế?”

    Họa Long giọng thâm trầm, nói: “Đưa máy ảnh đây!”

    Tuyết đã ngừng rơi, trên lớp tuyết trong sân có một hàng vết chân nhỏ rất rõ nét, phía cảnh sát tìm thấy thi thể chồng nạn nhân trong nhà. Qua giám định pháp y người đàn ông này đã uống thuốc độc tự tử. Trong nhà vệ sinh tìm thấy bộ quần áo dính máu đã được giặt qua, còn có cả một lưỡi cưa điện. Kết quả kiểm tra cho thấy, người phụ nữ họ Vân đã bị giết ngay tại đây. Hiện trường không có dấu vết ẩu đả, trông có vẻ như người chồng tự sát để tránh tội.

    Trong phòng ngủ của người vợ, vẫn còn chiếc xe đẩy được giữ rất cẩn thận, còn có cả quần áo và giày trẻ em. Xem ra người mẹ đó vẫn không thể chấp nhận sự thật về việc mất con. Quần áo và giày trẻ em đều còn rất mới, có lẽ là đồ mới mua, chưa từng mặc lần nào.

    Họa Long chỉ vào một hộp giày trống rỗng, bảo: “Đôi giày ở trước cửa có lẽ là của chiếc hộp này.”

    Bao Triển nhìn quanh một vòng cả căn phòng, rồi nhìn ra nền tuyết và những dấu chân trên đó, nói: “Đây là một vụ mưu sát, hung thủ đã ngụy trang hiện trường.”

    Họa Long nói: “Nếu không phải là tự sát, chẳng lẽ hung thủ là một đứa trẻ sao? Hàng vết chân nhỏ ở ngoài sân là của ai để lại?”

    Tô My bỗng nhiên hỏi: “Nếu đứa con của người phụ nữ này còn sống, thì năm nay cũng sáu tuổi rồi nhỉ?”

    Chương 3
    Dấu chân trên tuyết

    Trong khoảng sân nhỏ phủ đầy tuyết, bên trong dãy tường bao không cao, góc tường có đặt một cái ang, trong ang trồng một khóm trúc đào. Những bông tuyết nặng trĩu vướng trên cành khiến những khóm trúc đào như sa gần xuống mặt đất. Bên ngoài cổng, phía cảnh sát đã vây một đường cảnh giới, hàng xóm láng giềng và người đường kéo lại xem. Một người cảnh sát hô to nói với đám đông: “Có ai quen người nhà của vợ chồng này không? Giúp chúng tôi thông báo họ với!”

    Tổ chuyên án quan sát kĩ hàng dấu chân trên lớp tuyết. Họ đang chờ đợi chuyên gia giám định dấu chân của thành phố đến hỗ trợ.

    Bao Triển nói: “Hung thủ không phải là gà, không thể bay được, chỉ cần còn để lại dấu chân, hắn sẽ không thể nào chạy thoát được.”

    Họa Long nói: “Tôi không tin hàng dấu chân này là của một đứa trẻ.”

    Tô My lại cho rằng: “Nhưng rõ ràng đây là dấu chân từ một đôi giày trẻ em, chân to làm sao có thể xỏ vào giày nhỏ được. Đến chân tôi cũng còn chẳng xỏ nổi nữa là.”

    Một dấu chân ẩn chứa tất cả thông tin liên quan đến một con người.

    Giới tính, chiều cao, cân nặng, độ tuổi, đặc điểm bước đi, có bị tàn tật hay không, nơi sản xuất giày, độ cũ mới, đã từng đi tới những chỗ nào v.v… Trong công tác phá án hình sự, có thể căn cứ vào dấu chân để có được những phán đoán mang tính khoa học.

    Xe của lãnh đạo cấp thành phố và giáo sư Lương đã đến. Chuyên gia giám định dấu chân còn đưa một đoàn sinh viên thực tập đi cùng để quan sát và học tập. Cả khoảng sân bỗng nhiên náo nhiệt hẳn lên, mọi người mò mẫm men theo bờ tường bước vào để không làm hỏng dấu chân trên nền tuyết, rồi đứng xếp thành một hàng trên hành lang ngôi nhà, ai nấy ánh mắt hiếu kì nhìn chuyên gia giám định bắt đầu công tác quan sát lấy mẫu.

    Trước đây, các thiết bị hỗ trợ cảnh sát hình sự còn sơ sài, những vết chân trên đất mềm chủ yếu dùng thạch cao để lấy mẫu, còn những dấu chân trên tuyết như thế này chỉ có thể chụp ảnh lại để nghiên cứu, rồi cứ thế nhìn những dấu vết hung thủ để lại từ từ tan theo làn nước.

    Chuyên gia giám định dấu chân nhìn một lượt chiếc giày, sau đó ông bốc lấy một nắm tuyết nắm chặt lại thành một cục, rồi lại bóp nát chúng ra, vứt sang một bên. Tiếp theo, ông lại cúi người xuống dùng mắt thường quan sát dấu chân kia. Cuối cùng ông cầm một chiếc kính lúp tiến lại cho vết chân rõ nét nhất ở giữa sân, quỳ xuống quan sát.

    Trong những cảnh sát thực tập trẻ tuổi có người cười rúc rích. Một lát sau, chuyên gia nói một câu khiến tất cả mọi người xung quanh đều im lặng không ai lên tiếng nữa.

    Chuyên gia giám định dấu chân dùng một giọng điệu khó tin nới với mọi người: “Sao có thể như thế được nhỉ? Tôi chưa bao giờ gặp dấu chân kì lạ như thế này.”

    Giáo sư Lương hỏi: “Có gì lạ ở đây sao?”

    Chuyên gia trả lời: “Đây… không phải là dấu chân con người.”

    Khuôn mặt mọi người biến sắc, một cảnh sát thực tập kinh ngạc hỏi: “Chẳng lẽ lại có ma sao?”

    Trong đầu cậu ra thoáng lóe lên một khung cảnh vô cùng đáng sợ: “Giữa đêm khuya khoắt, trong sân không một bóng người, trên nền tuyết bỗng nhiên xuất hiện hàng dấu chân, dường như có thứ gì đó đang bước đi trên đó. Dấu chân hướng về phía trước. Khi đang quan sát dấu chân thì… thấy một đứa trẻ đang leo trên tường. Rồi bỗng đứa trẻ quay đầu lại, lộ rõ khuôn mặt trắng nhợt, rồi từ từ biến mất.”

    Bao Triển hỏi: “Những dấu chân này có phải là dấu chân đi giật lùi không?”

    Chuyên gia lắc đầu phủ nhận.

    Họa Long lại hỏi: “Chẳng lẽ là giày xỏ ngược? Trái phải lẫn lộn?”

    Chuyên gia giờ mới lên tiếng giải thích: “Cũng không phải. Tôi phải lấy thiết bị giám định thêm mới có thể chắc chắn được.”

    Chuyên gia lấy ra một thiết bị quét la-de. Loại thiết bị này có thể giúp, họ lấy được mẫu dấu chân ba chiều một cách nhanh chóng và chính xác, lại không làm ảnh hưởng đến dấu vết gốc. Việc sử dụng thiết bị quét la-de 3D và kĩ thuật máy tính đã thực hiện được công tác lấy mẫu và ghi chép hiện trường bằng thiết bị ba chiều một cách hữu hiệu, lưu giữ và phân tích các thông tin, kích thước của mẫu vật một cách chính xác nhất.

    Tô My lấy máy tính dựng lại hiện trường dựa trên các số liệu thu thập được. Trong đoạn phim vừa dựng lên, có thể thấy rõ ràng đôi giày kia đã bước trên nền tuyết như thế nào, chỉ có điều không nhìn thấy người trên chiếc giày đó.

    Một cảnh sát thực tập hỏi: “Đó có thể là người như thế nào?”

    Chuyên gia trả lời: “Căn cứ vào các số liệu thu được, thì dấu chân này không phù hợp với đặc điểm đặt bàn chân, điểm chịu lực, cách thức nhấc bàn chân và đặt bước tiếp theo của một người trưởng thành. Dấu giày này giống dấu giày của một đứa trẻ thì đúng hơn.”

    Tô My lên tiếng: “Đứa con của họ đã chết từ lâu rồi, gia đình này không có trẻ con.”

    Chuyên gia vẫn cảm thấy rất khó hiểu, nói tiếp: “Tôi cũng không thể nào giải thích nổi. Đứa trẻ này rất kì lạ. Nếu lấy theo công thức: Chiều dài dấu giày – chênh lệch mặt trong và ngoài dấu giày + chênh lệch giữa các dấu chân để lại * Hệ số – Chiều cao cơ thể, thì đứa trẻ này cao đến một mét sáu mươi, nặng đến bốn mươi cân.”

    Họa Long nói: “Một đứa trẻ sáu tuổi cao một mét sáu, nặng bốn mươi cân thực sự là một điều khủng khiếp.”

    Giáo sư Lương cho rằng: “Đây có thể không phải là một đứa trẻ, mà là một người phụ nữ. Một người phụ nữ bó chân giống thời phong kiến, hoàn toàn có thể xỏ vào đôi giày trẻ em kia được. Và còn một khả năng nữa, ai ở đây có thể cho tôi biết. Nếu là hung thủ, mọi người sẽ rời khỏi đây bằng cách nào. Hung thủ sau khi gây án, muốn rời khỏi hiện trường bắt buộc phải đi ngang qua khoảng sân này, và chắc chắn sẽ để lại dấu tích. Như thế hẳn có thể ngụy trang bằng cách nào?”

    Đáp án duy nhất đó là: “Hung thủ để lại dấu chân của người khác, để đánh lạc hướng điều tra của cảnh sát.”

    Những cảnh sát thực tập tại hiện trường đều không nghĩ ra được đáp án, Bao Triển đành trả lời: “Hung thủ để lại dấu chân của một đứa trẻ, nhưng chiều cao và cân nặng cho thấy đó là một người phụ nữ. Cô ta lộn người, rồi dùng tay xỏ vào đôi giày, rời khỏi hiện trường vụ án.”

    Giáo sư Lương tán đồng ý kiến: “Đúng thế! Một tác giả chuyên viết tiểu thuyết hình sự của Mỹ tên Karl từng viết một cuốn tiểu thuyết rất kinh điển tên là “Dấu chân trên bầu trời”. Một mưu kế vô cùng ranh ma, một màn bước đi bằng tay đầy điêu luyện đã khiến tác giả giành được biệt danh “Ông vua mật thất” đầy xứng đáng.”

    Bao Triển ngượng ngùng nói: “Cuốn sách này cháu cũng từng xem qua. Cần phải cảm ơn tác giả đã cho cháu những linh cảm và suy đoán như trong trường hợp này.”

    Giáo sư Lương nói với những cảnh sát thực tập trẻ: “Quá trình suy luận các vụ án hình sự, chính là một chuỗi những tưởng tượng mang tính lô-gic. Những không gian lớn phía ngoài khoảng sân này mới là hiện trường phạm tội lớn. Tôi ra cho mọi người hai câu đố nữa liên quan đến dấu chân, xem ai có thể trả lời được. Bao Triển không cần trả lời nữa nhé! Một người già cô độc chết trong sân. Ông cụ bị vật nhọn đâm xuyên từ miệng, nhưng xung quanh không hề tìm thấy hung khí, và cũng chỉ có dấu chân của một mình nạn nhân. Hỏi, ai là hung thủ?”

    Chuyên gia giám định dấu chân không trả lời, nhưng chỉ lên những nhũ băng nhọn trên mái nhà.

    Giáo sư Lương gật gật đầu, nói: “Thêm một câu hỏi khó hơn một chút nhé. Đây là trường hợp có thật.”

    Một người phụ nữ làm nghề chặt củi chết trên nền tuyết. Cánh tay trái của cô ta bị đứt lìa, vết máu xuất hiện trên một cây khô, chiếc rìu được tìm thấy gần đó. Không tìm thấy cánh tay đứt. Tại khu vực đó có rất nhiều cây, bên trên còn có cả cáp treo, trên nền đất chỉ có dấu chân của người phụ nữ đó, kéo dài một đoạn khoảng vài trăm mét. Có thể đoán được rằng sau khi cánh tay bị đứt, người phụ nữ này còn bước đi trên nền tuyết một đoạn nữa. Vết quần áo rơi rải rác trên nền tuyết mấy trăm mét. Kết quả khám nghiệm tử thi cho thấy, trong cơ thể nạn nhân có phát hiện thấy dấu hiệu quan hệ với chồng còn sót lại… Sau nửa năm, tại một quán ăn gần hiện trường vụ án xảy ra vụ một người học việc bị bắt vì tội cưỡng hiếp chủ quán. Phía cảnh sát phát hiện trên tay của người này đeo chính chiếc nhẫn vàng mà người phụ nữ chặt củi bị mất. Hỏi, ai là hung thủ? Và hung thủ đã gây án thế nào?”

    Những cảnh sát trẻ bàn tán xôn xao, nhưng không ai trả lời được. Bao Triển cũng suy nghĩ một hồi lâu mà không nghĩ ra đáp án. Giáo sư Lương cho phép mọi người từ từ suy nghĩ. Còn tiếp theo đấy, các cảnh sát thực tập sẽ hỗ trợ tổ chuyên án tiến hành kiểm tra hiện trường. Mỗi ngóc ngách, mỗi vật phẩm trong ngôi nhà này đều phải kiểm tra một cách kĩ càng, tìm ra dấu tích dù là nhỏ nhất mà hung thủ để lại.

    Chồng của người phụ nữ họ Vân trước khi uống thuốc độc tự tử đã uống nước. Trên cốc nước chỉ có dấu vân tay của anh ta.

    Trong thùng rác phát hiện thấy vỏ chai nước tẩy rửa nhà vệ sinh, trên bàn máy tính đặt một chiếc bật lửa hiệu Zippo, loại bật lửa này cần có loại xăng chuyên dụng. Một cảnh sát thực tập tìm thấy một bình đựng xăng zippo trống dưới gầm giường. Vùng mặt của người vợ bị hủy hoại, có thể chính bằng loại xăng này. Giường chiếu rất ngăn nắp, chứng tỏ đã được sắp xếp lại Bao Triển dung nhíp lấy ra một sợi tóc từ chiếc lược.

    Chỉ cần dùng kính lúp là có thể dễ dàng nhìn thấy trên lược có dấu hiệu của bốn loại tóc khác nhau.

    Điều đó cho thấy, có bốn người từng ngủ trên chiếc giường này.

    Ngoài hai vợ chồng nạn nhân, còn có hai người khác. Nhưng hai người đó là ai?

    Họa Long nhìn chiếc giường lớn trong phòng ngủ, nói: “Bốn người ngủ trên cùng một chiếc giường, là thế nào nhỉ?”

    Giáo sư Lương bảo Tô My: “Tô My, cháu đi kiểm tra máy tính của họ xem.”

    Tô My khởi động khớp tay rồi nói: “Trong mắt mọi người, đây là một chiếc máy tính. Trong mắt tôi, đây là một miếng bọt biển. Tôi phải vắt toàn bộ nước trong miếng bọt biển này ra ngoài không sót một giọt.”

    Những thông tin thu được từ trong máy tính của đôi vợ chồng này khiến mọi người tròn mắt cứng họng.

    Họ tham gia một câu lạc bộ đổi gió. Câu lạc bộ này có một nhóm QQ[1] và diễn đàn riêng, phân chia nhóm nhỏ theo từng khu vực địa lí. Tại thành phố nơi đôi vợ chồng này sinh sống có đến hơn mười thành viên thuộc hàng VIP.

    Tô My phá mật khẩu, đăng nhập vào tài khoản QQ của hai vợ chồng nạn nhân. Trưởng nhóm “chat” đang thương lượng kế hoạch gặp mặt cuối tuần. Tô My không nói gì, cũng không cung cấp ảnh nên bị đẩy ra khỏi nhóm. Giáo sư Lương nhắc Tô My không được nóng vội, rất có thể hung thủ đang ẩn náu trong chính nhóm QQ này.

    Bao Triển nói: “Chi bằng chúng ta nhân lúc bọn họ họp gặp mặt, làm một mẻ lưới bắt tất luôn.”

    Tô My đồng tình với ý kiến của Bao Triển, nói: “Chúng ta có thể giả làm vợ chồng, trà trộn vào câu lạc bộ này, tham gia buổi gặp mặt.”

    Giáo sư Lương cho rằng: “Hung thủ vừa giết người, chưa chắc đã tham gia buổi gặp mặt này. Nhưng có thể loại trừ một số đối tượng tình nghi khác, thu hẹp phạm vi điều tra.”

    Trước khi gia nhập câu lạc bộ này, các thành viên phải trải qua một vòng chứng thực thân phận rất nghiêm ngặt. Họ phải có ảnh chụp của hai vợ chồng và bản sao giấy chứng nhận kết hôn. Sau khi bàn bạc, phía cảnh sát quyết định để Họa Long và Tô My, Bao Triển và nữ bác sĩ pháp y giả làm hai đôi vợ chồng trà trộn vào câu lạc bộ biến thái kia, nằm vùng theo dõi. Họ giao nộp ảnh và bản sao giấy chứng nhận kết hôn giả và đã dễ dàng lọt qua vòng kiểm soát.

    Chỉ còn vài ngày nữa là tới buổi gặp mặt, mọi người trong nhóm đều cảm thấy vô cùng hào hứng với cuộc trao đổi này. Theo thông tin nhận được từ trưởng nhóm, đã có năm đôi vợ chồng đăng kí tham gia, cộng thêm hai đôi mới đến, tất cả có mười bảy người, đây là một cơ hội hiếm có, đề nghị mọi người tích cực tham gia.

    Trưởng nhóm có tên “Ước hẹn của tâm hồn”, vợ hắn ta cũng chính là người quản lý nhóm tên là “Phu nhân áo hồng”.

    Họa Long lấy tên “Võ sĩ diệt rồng”, Tô My là “My giai nhân”, Bao Triển là “Bánh Bao”.

    Nữ bác sĩ pháp y tỏ ra là người rất quan tâm đến nhóm này, cô lấy cho mình một cái tên nghe rất tinh quái: “Cô em yếu đuối.”

    Sau đây là một đoạn nói chuyện trên nhóm QQ này:

    Cô em yếu đuối: 9:21:54: Em muốn được yêu!

    Anh chàng ít nói: 9:21:59: Cô em nhiêu tuổi rồi? Trước đây đã tham gia nhóm nào thế này chưa?

    Cô em yếu đuối: Em muốn tan chảy!

    Phượng hoàng lửa: 9:22:14: Ha ha! Cô em này mạnh mồm nhỉ!

    Ước hẹn của tâm hồn: 9:22:17: Chồng cô em đâu? Cho anh xem mặt cái nào?

    Cô em yếu đuối: 9:22:22: Quỷ sứ! Cho em xin! Đang ở công ty mà! Chồng em cũng đi làm chứ có ở nhà đâu. Mà chẳng phải đã kiểm tra chứng nhận rồi sao?

    Phu nhân áo hồng: 9:22.50: Ông chồng háo sắc kia! Để rồi xem ông bị cắm mấy cái sừng!

    Anh chàng ít nói: 9:22:58: My giai nhân có ở đó không?

    My giai nhân: 9:23:02: Có đây!

    Anh chàng ít nói: 9:23.58: Bật webcame đi, không thì gửi thêm vài bức ảnh xem nào. My giai nhân à, em đẹp quá!

    Ước hẹn của tâm hồn: Ha ha, My giai nhân là của tôi đấy nhé.

    My giai nhân: 9:24:56: Hứ! Các anh không sợ guốc của em à? Giẫm phải ai thì đau muốn chết nhé!

    Võ sĩ diệt rồng 9:25:01: Quy tắc gặp mặt của chúng ta là gì nhỉ?

    Phu nhân áo hồng: 9:25:16: Võ sĩ là ông xã của My giai nhân phải không? Quy tắc gì đâu! Tất cả là do chúng ta tự quyết định hết! Võ sĩ diệt rồng cũng đẹp trai ra trò nhỉ!

    Phượng hoàng lửa: 9:25:18: Còn em nữa này!

    Bánh bao: 9:25:18: Chào mọi người, Cô em yếu đuối là vợ tôi đấy!

    Ước hẹn của tâm hồn: 9:25:24: Mọi người tranh giành gì chứ? Tất cả phải nghe lời tôi chứ!

    My giai nhân: 9:25:26: Hứ! Em phải được quyền chọn người chứ!

    Anh chàng ít nói: 9:25:36: My giai nhân quả là có phong cách nữ vương, lạnh lùng và quyết đoán.

    Giấc mộng dịu êm: 9:25:43: My giai nhân! My nữ vương!

    My giai nhân: 9:26:19: Ôi, mệt rồi! Em out trước nhé!

    Cô em yếu đuối: 9:26:20: Mong đến cuối tuần quá đi! Cuộc gặp chắc sẽ vui lắm đây!

    Chương 4
    Vào hang cọp

    Năm 1980, một người phải rất dũng cảm mới dám mặc quần bò.

    Năm 1990, trên bàn của học sinh cấp một cấp hai đều có những đường phân cách. Giữa những người bạn khác giới có những giới hạn không thể vượt qua, nếu không đó sẽ bị coi là những hành động lưu manh lỗ mãng.

    Năm 2000, những cửa hàng hoa tươi vào ngày lễ tình nhân vô cùng đắt hàng. Những người khách của họ là những cặp vợ chồng, là những đôi đáng yêu hay là những người ngoại tình đây?

    Những nhận thức của chúng ta về vấn đề giới tính chủ yếu đến từ văn hóa nói tục và những câu chuyện cười thiếu tế nhị. Và không biết từ lúc nào, những vẻ đẹp truyền thống gặp phải những cơn sóng gió làm lung lay như thế này nhỉ? Ngày một nhiều những từ ngữ mới khiến chúng ta khó lòng tiếp nhận, những bà hai bà ba, những cô ả người tình đã trở thành một cái gì đó thường thấy. Những kẻ đồng tính không còn cần phải giấu giếm bản thân. Tất cả những điều đó đều đại diện và là một phần màu sắc tạo lên khuôn mặt của xã hội hiện đại.

    Tổ chuyên án lại mở cuộc họp về tình hình vụ án. Mọi người bắt đầu một cuộc thảo luận sôi nổi về vấn đề “đổi gió”. Rất nhiều cảnh sát chưa từng nghe tới chuyện này, và cho đó là một điều gì đó thật vô lí. Tô My lên mạng tìm kiếm. Kết quả trả về có tới hơn sáu triệu đường dẫn.

    Một cảnh sát đã trung tuổi thở dài, nói: “Thật không ngờ xã hội bây giờ lại lắm kẻ biến chất như vậy. Bắt được chúng phải xin tội thật nặng để răn đe.”

    Nữ bác sĩ pháp y nói: “Theo tôi, về cơ bản đây là một vấn đề mang tính đạo đức.”

    Cảnh sát trung tuổi nói tiếp: “Chẳng lẽ không cần chế độ một vợ một chồng nữa hay sao? Hôn nhân còn có ý nghĩa gì nữa đây? Con người cần pháp luật để làm gì chứ?”

    Nữ bác sĩ giải thích: “Việc đổi vợ không đồng nghĩa với tội kết hôn nhiều lần. Theo truyền thống văn hóa Trung Quốc và các nước phương đông, các hành động của họ là phạm pháp. Tuy nhiên…”

    Lãnh dạo thành phố lên tiếng cắt ngang: “Chúng ta chưa thảo luận vấn đề này vội, điều quan trọng bây giờ là việc trà trộn vào tập thể này để tìm kiếm và bắt giữ hung thủ.”

    Nữ bác sĩ nói: “Xin nghe tôi nói hết câu đã. Xét trên phương diện đạo đức con người, thì những hành động này quả là không thể chấp nhận được. Nhưng có khi nào chúng ta nên xem xét lí do cụ thể của họ hay không?”

    Cảnh sát trung tuổi giận dữ mặt đỏ tía tai, chất vấn lại: “Thế đạo nghĩa vợ chồng đi đâu hết rồi? Còn cả thứ mà những người trẻ tuổi các cô các cậu hay gọi là tình yêu nữa? Những người thực sự yêu thương nhau không thể nào mang người mình yêu đi trao đổi với người khác được.

    Nữ bác sĩ trả lời: “Tình yêu giữa vợ chồng rồi sẽ trở thành tình thân, những đứa trẻ, tài sản, trách nhiệm sẽ là thứ níu giữ hạnh phúc và sự tồn tại của một gia đình. Nhưng nếu cuộc sống của họ rơi vào tình cảnh không thể cứu vãn được thì sao?”

    Lãnh đạo thành phố lên tiếng hòa giải: “Thôi được rồi! Được rồi! Mọi người đừng cãi nhau nữa! Chúng ta bàn về vụ án đi thôi!”

    Bao Triển bắt đầu trình bày: “Hung thủ có hai người, có thể chính là một cặp vợ chồng trong nhóm này.”

    Tô My nói: “Tôi đã điều tra lịch sử ghi chép của nhóm này. Những người ra ra vào vào nhóm rất đông, phần nói chuyện của vợ chồng nạn nhân cũng không có gì bất thường, có lẽ là do hung thủ đã xóa tên nạn nhân khỏi danh sách bạn bè rồi.”

    Họa Long quả quyết: “Chỉ cần bắt được chúng, thẩm vấn, là vụ án sẽ rõ mười mươi. Hôm nay là cuối tuần, chúng ta phải tham gia buổi gặp mặt rồi. Mau chuẩn bị một chút rồi đi thôi, bà xã!”

    Tô My trừng mắt nguýt Họa Long một cái, quát: “Anh đừng tưởng sơ múi được gì nhé. Sớm biết thế này, tôi nhận cậu Triển cho xong. Anh xem cậu ấy thật thà thế kia cơ mà!”

    Tổ chuyên án thay bộ đồ cảnh sát, mặc lên người những bộ thường phục. Phía cảnh sát đã chuẩn bị cho họ camera siêu nhỏ, trên xe cũng có hệ thống định vị. Bao Triển, Họa Long, Tô My và nữ bác sĩ pháp y. Theo kế hoạch, sau khi họ bí mật chụp lại những chứng cứ của buổi họp mặt, sẽ dùng diện thoại thông báo cho các cảnh sát đang bao vây phía ngoài. Trong ngoài kết hợp, một mẻ lưới quét hết cả ổ nhóm.

    Họa Long mặc một bộ đồ Tây cải tiến có phần thoải mái, không có chút nhân tố thời thượng nào ở đây, những nét phong trần trên khuôn mặt chính là vẻ quyến rũ đặc biệt của người đàn ông từng trải. Một dáng người rắn rỏi và một tinh thần không khuất phục, chỉ cần một ánh nhìn thôi cũng đủ khiến không ít phụ nữ bị hút hồn.

    Bao Triển mặc một bộ đồng phục mùa đông của cảnh sát giao thông. Cậu mạo danh một nhân viên nhà nước. Vì không tìm được bộ đồ nào thích hợp, nên có lẽ, một bộ đồ cảnh sát lại hay. Cậu có phần hơi ngượng ngùng, hướng nội, những tháng ngày vất vả rèn giũa cho cậu một tinh thần thép, kiên cường, nhẫn nại.

    Họa Long và Bao Triển đợi một hồi lâu, Tô My và nữ bác sĩ pháp y vẫn chưa trang điểm xong. Xem ra, hai người họ muốn trang điểm thật lộng lẫy đến dự buổi gặp gỡ chăng.

    Khi hai người ở ngoài đợi lâu đến sắp không chờ nổi nữa, mới thấy hai “bà vợ” bước ra. Nữ bác sĩ trang điểm thành hình mẫu một người phụ nữ nho nhã, điềm tĩnh, cử chỉ đoan trang với một chiếc áo khoác da, trong có vẻ giống con nhà đại gia. Nhưng một chiếc khăn choàng lông thú làm cô trở nên sáng ngời, toát ra vẻ cao quý và hoa lệ, tỏa ra sự ấm áp giữa một ngày đông giá lạnh. Trên tay cô chỉ đeo một chiếc nhẫn đá quý, không có một thứ gì khác, càng khiến sắc màu của nó thêm tỏa sáng. Một chiếc túi xách tay hiệu Hermes, màu đỏ rượu vang truyền thống, thu hút ánh nhìn của cánh đàn ông.

    “Quý phu nhân” xoay người một vòng, hỏi: “Thế nào?”

    Họa Long giơ ngón tay cái lên, còn Bao Triển cười ha ha rồi nói: “Chẳng ai mà ngờ được cô lại là một bác sĩ pháp y nhỉ.”

    “Quý phu nhân” nói với Bao Triển: “Bộ đồ của anh chẳng hợp với tôi chút nào. Tốt nhất cứ nói là anh vừa tan ca đi!”

    Tô My giờ mới xuất hiện, mọi người đều mắt tròn mắt dẹt. Quả là một tuyệt thế giai nhân!

    Tô My mặc một chiếc áo gió da màu đen, tóc dài tung bay, vừa mượt mà vừa quyến rũ, khiến dáng hình cô đẹp không lời nào tả hết. Màu đen huyền ảo phù hợp với những người phụ nữ quyết rũ và bí ẩn. Đôi bốt cao quá đầu gối càng tôn thêm dáng người cao ráo. Một chiếc thắt lưng buộc nơ khiến vùng eo thon hoàn toàn lộ rõ, dù nhìn từ phía sau cũng thấy vô cùng phong phú.

    Mỗi bước đi đều tỏa ra muôn vàn cảm xúc. Màu đen của tất khiến đôi chân trông càng thêm thon gọn. Tô My không đeo thứ đồ trang sức nào, mà chỉ tô một lớp son mỏng. Thứ đẹp nhất của người phụ nữ không gì khác chính là nụ cười.

    Họa Long hỏi: “Cô không lạnh à? Giữa mùa đông thế này…”

    Tô My cau có: “Đồ nhà quê, anh với tôi đúng là chả ăn nhập gì với nhau cả. Bây giờ đổi người cũng vẫn kịp đấy. Đi thôi!”

    Tô My quàng tay nữ bác sĩ pháp y vừa cười vừa ra khỏi cổng Ủy ban thành phố, đứng bên cạnh xe chờ hai “đức lang quân” đến mở cửa cho họ. Năm chiếc xe cảnh sát ngồi kín, cảnh sát mang theo súng đạn thật cũng đã đợi sẵn ở cổng chờ xuất phát. Họa Long mở cửa và lái xe đi, các xe cảnh sát phía sau giữ một khoảng cách an toàn suốt cả chặng đường.

    Buổi gặp mặt được tổ chức tại một biệt thự ngắm cảnh gần một cái hồ tại khu ngoại ô. Địa điểm cũng chỉ được người tổ chức vừa thông báo tức thời. Các cảnh sát bí mật tiến hành bao vây xung quanh. Các thành viên tổ chuyên án sau khi nắm được các tình tiết khả nghi sẽ thông báo cho phía cảnh sát để ập vào bắt giữ.

    Buổi gặp mặt đã chính thức bắt đầu.

    Mấy ngày hôm nay, Bao Triển, Họa Long, Tô My và nữ bác sĩ pháp y đã nói chuyện và trở nên rất thân thiết với các thành viên khác. Trưởng nhóm đứng cách một cánh cửa sắt xác nhận lại thân phận của bốn vị khách mới rồi mới để họ vào, rồi sau đó lại treo chùm chìa khóa lên.

    Trưởng nhóm hỏi một cách cảnh giác: “Bốn người đi chung một xe sao?”

    Nữ bác sĩ trả lời: “Thực ra, chúng tôi đều là người quen cả, nên đến cùng nhau luôn.”

    Trưởng nhóm gật gật đầu rồi nói: “Ừ… Mọi người cứ tự do thoải mái đi, mọi người đều đến cả rồi.”

    Bốn người đều có phần hồi hộp và căng thẳng vì không biết những gì mình sắp chứng kiến đây sẽ trái với đạo lý đến mức nào.

    Bốn người đẩy cửa bước vào trong phòng khách, rồi chia nhau mỗi người một hướng để camera ghi lại từng ngóc ngách và chi tiết của ngôi nhà và buổi gặp gỡ, hỗ trợ cảnh sát phía ngoài bố trí vây bắt. Không cần phân công, họ tự chia nhau ra thành các hướng. Tô My lên tầng hai, Bao Triển vào phòng tắm, Họa Long đến thư phòng.

    Tô My nhẹ nhàng bước từng bước lên cầu thang. Những cảnh hẹn hò tình tứ hiện ra trước mắt khiến cô đỏ mặt, hóa ra đây là một cuộc gặp gỡ trá hình.

    Trên tầng hai có tiếng người gào thét. Tô My cảnh giác bước tới phía hành lang. Một bóng đàn ông từ trong phòng chạy ra, Tô My vội núp vào phía sau rèm cửa sổ. Tấm rèm hơi mỏng khiến cô bị phát hiện. Kẻ trước mặt chính là Anh chàng ít nói. Hắn tiến lại phía Tô My, định giở trò tán tỉnh, nhưng Tô My đã nhanh trí khuất phục được hắn.

    Trong quá trình nói chuyện trên mạng, biết Anh chàng ít nói có sở thích bị ngược đãi, Tô My lợi dụng điều đó cho hắn mấy cái tát, bồi thêm mấy cú đá, khiến đối phương không nghi ngờ nhưng vẫn phải dè chừng.

    Để đảm bảo an toàn, Tô My giả bộ bắt Anh chàng ít nói phải làm ngựa cõng mình xuống tầng một, hy vọng nhận được sự chi viện từ phía những thành viên khác, nhưng khi xuống tới nơi, Họa Long và Bao Triển đều đã chia đi các ngả khác trinh sát.

    Bao Triển tiến về phía phòng tắm, phát hiện hai người phụ nữ, có lẽ họ đang chờ đợi sự xuất hiện của một ai đó. Hơi ngượng ngùng, Bao Triển chỉ quan sát xung quanh để nắm bắt tình hình rồi định bỏ ra ngoài, không ngờ lại vướng phải sự níu kéo của họ. Trong lúc Bao Triển còn đang lúng túng chưa biết xử lí thế nào thì Họa Long đẩy cửa bước tới. Là người từng trải, tâm lí Họa Long vững vàng hơn hẳn. Anh bình tĩnh ra hiệu cho Bao Triển gọi vào số điện thoại mật của phía cảnh sát, rồi giả bộ chơi trò cảm giác mạnh, rút còng tay khóa ngay hai người phụ nữ kia lại. Hai người phụ nữ vẫn nghĩ rằng mình đang trong trò chơi nên dù hơi giật mình và dè dặt, nhưng không hề nghi ngờ gì, đúng theo kế hoạch “đánh rắn mà không động cỏ” của Họa Long.

    Họa Long và Bao Triển dồn tất cả lại, rồi rút súng giải hết ra phòng khách, vừa kịp lúc giải cứu Tô My khỏi vòng vây của Anh chàng ít nói và trưởng nhóm.

    Họa Long hét lớn: “Tất cả đứng im, cảnh sát đây!”

    Cảnh sát phía ngoài cũng vượt rào xông vào, Họa Long và Bao Triển cùng phía cảnh sát nhanh chóng khống chế tất cả các cặp nam nữ có mặt trong phòng khách và tầng hai.

    Nhưng, khi kiểm tra lại số lượng người, thì phát hiện nữ bác sĩ pháp y đã mất tích.

    Chương 5
    Hoán đổi

    Trong lần hẹn gặp này có năm đôi vợ chồng tham gia, cộng thêm Họa Long, Tô My, Bao Triển và nữ bác sĩ pháp y nữa là mười người. Trong quá trình vây bắt, phát hiện thiếu một đôi vợ chồng, nữ bác sĩ pháp y cũng không thấy đâu. Họa Long và Bao Triển đã tìm khắp cả tòa nhà những không thấy ba người bọn họ. Trong khi phía cảnh sát đang vô cùng lo lắng cho sự an nguy của nữ bác sĩ, Họa Long lại nói: “Cô ấy lâu ngày tiếp xúc với xác chết, lại là người đã li dị lâu năm, chắc không ưa mấy cảnh này nên đã đi đâu đó điều tra rồi. Mọi người tìm kĩ lại xem!”

    Tại phòng khách tầng một, trưởng nhóm và Anh chàng ít nói đều bị còng tay phía sau, quỳ dưới đất. Tô My cho mỗi tên mấy cái bạt tai, vừa đánh vừa mắng: “Bọn mày định làm gì?”

    Trưởng nhóm phản bác lại: “Chúng tôi đâu làm gì đâu!”

    Chàng trai trẻ quay sang nói với viên cảnh sát trung niên bên cạnh: “Bác ơi! Chúng cháu chỉ đùa cợt thôi mà!”

    Bao Triển và Họa Long đi vào phòng ngủ, không thấy có ai, nhưng cánh cửa thông lên trần nhà đã mở.

    Mọi người đứng trên trần nhà, rồi đi dọc xuống theo cầu thang, phía ngoài có một vườn hoa. Những bông tuyết còn sót lại trên những cánh hoa đã úa tàn và những cành lá khô héo. Cả khu vườn chỉ còn duy nhất một khóm hoa mai đang nở đỏ rực.

    Họ ngẩng đầu lên nhìn, rồi giật mình kinh ngạc. Trên cây có ba người, một trong số đó chính là nữ bác sĩ pháp y.

    Sau này, Họa Long hỏi nữ bác sĩ: “Cô cũng chịu chơi nhỉ! Không lạnh à?”

    Nữ bác sĩ chỉ im lặng không trả lời. Có lẽ trong thâm tâm cô cũng đang dằn vặt vì hành động đó của mình. Cô không giải thích gì, chỉ cúi đầu trầm ngâm.

    Sau khi li dị, cô vẫn sống độc thân tới tận bây gờ. Có lẽ đó là lí do khiến cô không khống chế nổi mình trong buổi gặp gỡ đó.

    Tổ chuyên án tiến hành thẩm vấn năm cặp vợ chồng, họ đều không biết hai vợ chồng nạn nhân. Giáo sư Lương gọi ông cụ mù đến để nhận diện tiếng nói.

    Ông cụ mù khẳng định họ đều không phải người đã giết người phụ nữ mù. Vụ án rơi vào thế đóng băng, trưởng nhóm cung cấp một đầu mối vô cùng quan trọng, hắn nói: “Có một đôi vợ chồng luật sư được vợ chồng nạn nhân giới thiệu vào trong nhóm. Nhưng vì họ không cung cấp thông tin xác minh nên cuối cùng bị cho ra khỏi nhóm.”

    Giáo sư Lương hỏi: “Luật sư? Cậu có chắc không?”

    Trưởng nhóm trả lời: “Chắc chứ ạ! Cháu đã hỏi rất nhiều câu về pháp luật, họ đều có thể trả lời rất rành mạch.”

    Giáo sư Lương yêu cầu phía cảnh sát lập tức điều tra các văn phòng luật sư trong thành phố, trọng điểm điều tra những cặp vợ chồng đều là luật sư, hoặc người mắc bệnh thoát vị đĩa đệm, từng đến điều trị tại tiệm mát-xa của người mù. Lực lượng cảnh sát địa phương lập tức vào cuộc, mọi người tập trung tinh thần cao độ, tất cả đều ý thức được tình hình vụ án sắp được phá giải, cơ hội lập công đã đến rất gần.

    Tô My đi trước một bước, tìm thấy kẻ tình nghi. Cô tìm thấy trong phần quản lí thông tin QQ cá nhân tìm thấy số QQ của vợ chồng luật sư. Thông qua việc định vị IP, ngay lập tức tìm được địa chỉ nhà của họ.

    Thông qua quá trình tìm kiếm bằng mạng, còn có được số điện thoại nhà, tên thật của cặp vợ chồng này. Thêm một bước nữa, họ còn có được cả số điện thoại di động.

    Phía cảnh sát chỉ cần biết số điện thoại di động của một người, là có thể tìm thấy họ bằng thiết bị định vị, chính xác đến phạm vi vài mét.

    Trong nhà của vợ chồng luật sư không hề có ai. Họ đang đi biện hộ cho một thân chủ tại một huyện trực thuộc thành phố này. Luật sư trong thời gian dài tham gia các hoạt động tố tụng, sẽ có những kinh nghiệm phá án và khả năng ứng biến mà người bình thường không có. Khi Họa Long đeo cùm vào tay hai vợ chồng này, cả hai người họ đều không nói câu nào, và cũng không có bất cứ hành động gì chống cự.

    Người chồng cao to như một tên thợ hàng giác, người vợ dáng người mảnh mai, giống như một bé gái.

    Quá trình thẩm vấn diễn ra vô cùng khó khăn, liên tục trong nhiều ngày, cả hai vợ chồng đều giữ một thái độ lợn chết “chẳng sợ nước sôi”. Tổ chuyên án và chuyên gia thẩm vấn đành lần lượt thay phiên đánh trận dài kì với họ, nhưng cũng không khiến họ mở miệng.

    Kết quả kiểm chứng DNA đã chứng thực sợi tóc tìm thấy tại nhà nạn nhân chính là của cặp vợ chồng này.

    Vợ chồng luật sư thừa nhận việc tham gia cuộc gặp gỡ nhưng không thừa nhận việc giết người.

    Giáo sư Lương bật máy phân tích giọng nói, yêu cầu người chồng nói hai chữ “lau sàn”. Sau đó chuyển đến cho ông cụ mù nghe. Thính giác của ông cụ mù rất nhạy cảm, vừa nghe đã khẳng định đó chính là giọng của hung thủ. Ông không bao giờ có thể quên được giọng nói của hắn.

    Chuyên gia thẩm vấn sử dụng phương pháp nhử mồi, nói với người vợ: “Chồng cô đã khai nhận hết rồi. Cô định ngoan cố đến cùng, hay cứu vớt chút thành khẩn đây? Cô là luật sư, chắc chắn biết thái độ khai báo quan trọng đến mức nào. Trước kia cô từng học múa hả? Còn cả Yoga nữa, dùng tay đi qua khoảng sân bằng tuyết cũng dễ như trở bàn tay ấy nhỉ!”

    Nghe thấy câu “dùng tay đi qua sân”, người vợ hoàn toàn sụp đổ. Cô ta không muốn lập công chuộc tội, vì hơn ai hết cô ta hiểu rằng mình khó thoát khỏi tội chết. Nhưng điều khiến cô thất vọng là chồng mình đã bán rẻ vợ. Phía cảnh sát nắm được đầu mối từ phía người vợ, qua quá trình thẩm vấn, cuối cùng cả hai đã khai nhận hành vi phạm tội của mình.

    Cuộc hôn nhân của chúng ta như thế nào nhỉ?

    Hôn nhân là một con thuyền, cách bờ rất xa, cách bến còn xa hơn nữa. Một vòi nước vặn chặt còn có thể nhỏ nước, một con người câm lặng cũng có những lời phải nói. Hãy xem người phụ nữ họ Vân kia sẽ kể cho chúng ta nghe điều gì. Cũng giống như những gì cô thường than vãn với hàng xóm, giống như những gì cô viết trên những diễn đàn, đại đa số các cuộc hôn nhân đều không phải là bến bờ của hạnh phúc.

    Trước khi cưới nhau, những gì ta nghĩ đến là sự ngọt ngào. Sau khi kết hôn, những gì ta nếm trải là chua chát.

    Người phụ nữ họ Vân và chồng mình đặt một chiếc giường đôi và một chiếc gương trang điểm trong phòng, đặt bát đĩa chậu rổ, củi rơm cơm dầu đặt và trong bếp, treo bức ảnh cưới lên trên tường, bắt đầu cuộc sống gia đình. Họ bắt đầu những cuộc cãi không ngừng nghỉ, chỉ trích và làm tổn thương lẫn nhau. Họ ném vỡ những bát những âu của cuộc sống gia đình, cuộc sống ngọt ngào thực ra là khe hở giữa hai lần cãi vã.

    Tôi nghĩ những người chưa bước vào cuộc sống gia đình nên hiểu rõ hôn nhân là gì.

    Chân tướng của hôn nhân là: Chúng ta ôm nhau nhưng không hôn nhau, chúng ta ngủ cùng nhưng không ân ái.

    Người phụ nữ họ Vân và chồng gặp và quen nhau trước bức tường tình yêu ở công viên. Dưới chân tường đó mỗi ngày đều có không biết bao nhiêu nam thanh nữ tú độc thân đến tìm nửa kia của mình.

    Cô là một người sống theo nếp truyền thống. Cả cuộc đời mình, cô chỉ làm hai việc vượt ra khỏi những quy tắc thời xưa. Một là cô đã tham gia vào việc hẹn hò đổi gió, hai là người phụ nữ mặc chiếc áo khoác trắng này trước khi hẹn gặp đã mang nhuộm mái tóc đen truyền thống của mình thành màu đỏ.

    Cô giữ gìn bản thân mình đến tận đêm tân hôn. Trong đêm động phòng hoa chúc, người chồng nói với cô một câu mơ hồ nhất trên đời: “Anh… chỉ vào được một chút thôi…”

    Còn cô, đã nói một lời làm tổn thương chồng mình vô hạn: “Gì cơ? Anh đã vào rồi á?”

    Đó là gì nhỉ? Hay chồng cô vẫn còn đang chỉ là một cậu trẻ con?

    Cô nói với Thím Tư nhà cô em họ: “Ôi! Kiểm tra sức khỏe trước khi cưới quan trọng lắm, đến đêm động phòng mới biết thì đã muộn rồi!”

    Cuộc sống vợ chồng ngày càng khó chịu. Người đàn ông hàng ngày phải đi làm công tác đo đạc ngoài trời này ngày càng nóng tính. Có những lúc sau cuộc ân ái chỉ vì vài lời của vợ, người chồng có thể tức giận mà đập cả ti vi máy tính. Người vợ bắt chồng uống một số loại thuốc còn đi các miếu đền cầu tự mong có một đứa con. Sau đó, quả nhiên họ đã có một đứa trẻ như mong muốn. Sợi dây nối giữa hai vợ chồng chính là đứa con nhỏ, chướng ngại lớn nhất của việc li hôn cũng là con nhỏ. Thế nhưng đứa trẻ lại bất hạnh qua đời. Từ đó, tinh thần người vợ có phần bất ổn, cô không thể tiếp nhận được sự thật đau lòng này. Hàng ngày cô đung đưa chiếc nôi trống rỗng, cô đi mua sữa bột và ba lô, cô nghĩ rằng đứa trẻ của mình vẫn còn sống.

    Tám giờ sáng, cô nhìn ánh mặt trời chiếu lên những cánh hoa trúc đào trước sân, cành lá đung đưa theo gió, bóng lá in hình lốm đốm dưới sân.

    Chín giờ sáng, cô nhìn thấy một con mèo nhảy từ tường bao xuống, từ từ bước qua.

    Mười giờ sáng, cô vẫn nhìn ra phía ngoài cửa sổ nhưng không muốn dậy.

    Thời gian đó, cô bỗng thấy yêu thích công việc thêu chữ thập. Những lúc nổi hứng, cô thêu liền một mạch nào đồng hồ, nào tranh “gia hòa vạn sự hưng[2]”, nào tranh mèo con vờn len sợi. Bức tranh đồng hồ treo trên tường, bất kể ngày đêm, nó mãi mãi chỉ dừng đúng tại vị trí mười giờ sáng.

    Thời gian của cô ngừng lại, từ ngày này qua ngày khác, cuộc sống của cô như nước ao tù, không bao giờ thay đổi.

    Thực ra, trái tim cô không hề cô đơn, chỉ có điều thân thể cô vô cùng cô độc.

    Người chồng đến phút cuối cùng vẫn không thể khiến cô có thai một lần nữa. Kết quả xét nghiệm cho biết người chồng đã mắc chứng vô sinh. Cuộc hôn nhân của họ rơi vào bế tắc, và cứ thế đã qua bảy năm ròng, họ đã ngầm mặc định với nhau sẽ không bao giờ ân ái nữa.

    Người chồng từng tự trào: “Năm đầu ân ái như cơm, năm hai chẳng thiết, năm ba ép cùm.”

    Người chồng chỉ ném lại một câu nói rồi bỏ đi lâm trường ở Đông Bắc, đi một chuyến là đã mấy năm.

    Mùa hè năm đó, trên chiếc thớt gỗ nhà cô mọc lên một cây nấm độc.

    Nắp bồn cầu cũng lâu lắm rồi không có ai nhấc cả lên. Đó là điều khiến người phụ nữ vô cùng đau khổ.

    Cô làm công việc môi giới nhà đất, đại đa số thời gian ngồi trước màn hình máy tính. Một hôm vô tình biết được việc có diễn đàn kết bạn đổi gió. Điều cô nghĩ đến không phải là vui vẻ, mà là gặp gỡ tiến tới kết bạn và xin một đứa con. Sau khi người chồng trở về, cô vẫn cố giấu suy nghĩ của mình, chỉ nói rằng mình cảm thấy rất hiếu kì với những hoạt động trong diễn đàn đó. Đó cũng là lần đầu tiên sau bao nhiêu năm họ lại gần gũi nhau.

    Một tháng sau, họ quen biết một đôi vợ chồng nọ là một cặp luật sư.

    Ba tháng trôi qua, hai đôi vợ chồng đã rất thân thiết.

    Đó là lần gặp đầu tiên của vợ chồng người phụ nữ họ Vân. Họ gặp nhau tại một bãi đỗ xe, vợ chồng luật sư lái xe tới đón. Cảm xúc lúc gặp mặt giống như những người bạn lâu ngày xa cách, vì dù sao họ cũng đã quen nhau trên mạng lâu ngày rồi.

    Luật sư chồng lái xe, người phụ nữ họ Vân ngồi trên ghế trước, luật sư vợ và chồng người phụ nữ họ Vân ngồi ghế sau.

    Theo những gì đã sắp xếp từ trước, mọi người sẽ đến một địa điểm du lịch để vui chơi. Nếu tiện, buổi tối họ sẽ đến nhà luật sư nghỉ lại. Cả hai đôi vợ chồng dọc đường nói cười vui vẻ. Những ngượng ngùng phút đầu gặp mặt đều đã tan biến lúc nào. Luật sư chồng rất tự nhiên đặt tay lên trên vai người phụ nữ họ Vân, chồng cô thấy thế cũng làm theo, không khí trong xe như mùa xuân nở rộ.

    Khi leo núi, người đàn ông đôi lúc nắm tay người phụ nữ không phải vợ mình. Họ dừng lại trước triền dốc, ngồi trên thảm cỏ xanh. Đêm đó, họ đã đến nghỉ lại tại nhà vợ chồng luật sư.

    Về sau, có người còn đi tới bước xa hơn, đó là người phụ nữ họ Vân đến nhà Luật sư qua đêm và ngược lại.

    Vợ chồng luật sư có một con nhỏ sáu tuổi, thường ngày sống cùng ông bà nội ở quê. Sau khi qua hết nghỉ đông năm nay, sẽ được đón về, vì thế hẹn hò cũng bị dừng lại. Người phụ nữ họ Vân rất yêu quý đứa trẻ này.

    Cô thích ôm hôn đứa trẻ, thường xuyên mua giày và quần áo gửi cho vợ chồng luật sư. Vợ chồng luật sư phát hiện ra người phụ nữ này yêu quý đứa trẻ quá mức bình thường, đó là cô ta đặt cả một cái tên mới cho đứa trẻ. Sau này họ mới biết, đó là tên của đứa con đã mất của vợ chồng người phụ nữ họ Vân. Vợ chồng luật sư nhận thấy người phụ nữ họ Vân có chút vấn đề về thần kinh, nên trả lại những thứ giày dép và quần áo cô này đã tặng, và định đoạn tuyệt quan hệ với họ, thế nhưng người phụ nữ này đã có thai từ lúc nào không biết.

    Chồng người phụ nữ họ Vân không thể sinh con, điều đó chứng tỏ đứa trẻ là con của luật sư.

    Vợ chồng luật sư và người chồng đều không thể chấp nhận điều đó, họ khuyên người vợ bỏ cái thai đi, nhưng cô nhất định không chịu, thậm chí còn để lại thư, nói rằng mình đã bỏ nhà ra đi. Vợ chồng luật sư và chồng người phụ nữ họ Vân bàn bạc nhau lập kế sách, ép cô uống thuốc phá thai. Trong quá trình ép uống thuốc, người phụ nữ họ Vân cố gắng chống cự. Vợ chồng luật sư giữ chặt tay chân cô, người chồng bóp miệng cô nhét thuốc vào rồi đưa tay với một chai nước ngọt trên cửa sổ đổ vào miệng vợ…

    Trong chai nước ngọt kia đã bị đổi thành nước tẩy nhà vệ sinh, thành phần chính là Axit Clo-hiđric đậm đặc nồng độ 32%, nếu uống phải sẽ dẫn đến tử vong.

    Vợ chồng luật sư và chồng nạn nhân vội vàng định đưa cô đến bệnh viện cấp cứu, nhưng chưa kịp ra đến cửa, cô đã không còn thở nữa. Cơ thể cô dần trở nên lạnh ngắt, họ chỉ biết nhìn nhau thất thần không còn cách cứu chữa nào khác.

    Chồng nạn nhân nói: “Làm thế nào bây giờ? Tôi không cố ý, hai người có thể làm chứng đúng không?”

    Luật sư chồng bình tĩnh đáp: “Tội ngộ sát cũng không thoát khỏi phán quyết của pháp luật, chuyến này anh chỉ còn nước vào tù.”

    Vợ luật sư nói: “Sao lại ra nông nổi này cơ chứ! Tiếng tăm của chúng ta cũng sẽ bị hủy hoại hết thôi!”

    Người chồng lo lắng hỏi: “Tôi sẽ bị phạt khoảng mấy năm?”

    Luật sư trả lời: “Thêm tội ép phá thai, chắc cũng phải mười năm. Hai vợ chồng tôi chắc có thể nhẹ hơn vài năm.”

    Người chồng hỏi trong tuyệt vọng: “Không còn cách nào nữa sao?”

    Ba người họ lạnh lùng thương lượng quyết định phá hủy nhận dạng, rồi ném xác phi tang. Họ vốn định chia cắt thi thể, nhưng chồng nạn nhân không đủ can đảm làm việc đó, mới vừa cầm lưỡi cưa điện lên hắn đã nôn thốc nôn tháo, không thể nào tiếp tục được. Vợ luật sư cố gắng nhẫn nhịn, rửa sạch chỗ người chồng nạn nhân vừa nôn xuống. Ruột của nạn nhân rời ra ngoài, luật sư chồng sợ quá lấy bừa con búp bê bịt vào cho chặt.

    Họ đặt xác nạn nhân trong nhà vệ sinh. Khi ba người nhấc cái xác lên, con búp bê bỗng nhiên kêu lên mấy tiếng “Bố! Mẹ! hi hi hi!” Khiến cả đám người sợ chết khiếp. Thứ âm thanh đáng yêu mà đáng sợ đó khiến họ phải dừng lại trong giây lát, sau phút định thần, mới tiếp tục khiêng cái xác đi tẩu tán.

    Họ lái một chiếc xe đưa cái xác đến ném xuống cái giếng ven đường. Nạn nhân từng để lại một mảnh giấy viết rằng mình đã bỏ nhà ra đi. Nếu họ hàng người thân có hỏi đến, mảnh giấy đó sẽ làm chứng hợp lí nhất cho việc người vợ mất tích. Ba người họ cho rằng, việc này thần không hay quỷ không biết, có lẽ sẽ thoát được vòng lưới pháp luật. Không ngờ, quá trình vứt xác của họ đã bị một người phụ nữ mù nghe thấy. Họ không hề biết rằng đó là một người mù, và cũng chẳng còn thời gian để điều tra việc đó. Luật sư chồng quyết định dứt khoát, vào một đêm vài ngày sau đó, giết chết nhân chứng ngay tại phòng.

    Chồng người phụ nữ họ Vân không dám ra tay giết người, điều đó khiến luật sư chồng vô cùng hoang mang.

    Hắn cho rằng nếu sau này có việc gì xảy ra, vấn đề chắc chắn sẽ xuất phát từ người đàn ông hèn yếu này. Vì thế, đã làm thì làm một thể, luật sư chồng khuyên vợ mình đầu độc chồng nạn nhân, để hắn mãi chết đi với tội danh giết vợ rồi tự sát. Và như thế, vợ chồng luật sư có thể ung dung sống ngoài vòng pháp luật.

    Vợ chồng luật sư thường ngày tiếp xúc với rất nhiều các vụ án hình sự, nên có khả năng ứng phó rất tốt với những công tác trinh sát phá án.

    Khi vợ luật sư rời khỏi nhà nạn nhân, ngoài trời bỗng đổ tuyết. Biết rất rõ vai trò của dấu chân đối với việc phá án, luật sư chồng thông qua điện thoại chỉ cách cho vợ mình xóa hết vân tay, rồi xỏ đôi giày trẻ em vào tay, lộn ngược người ra khỏi hiện trường.

    Chiêu trò này cuối cùng vẫn không qua nổi mắt tổ chuyên án, và hung thủ đã sa lưới.

    Sau khi sự việc xảy ra, tổ chuyên án tiếp tục điều tra sâu hơn và phát hiện một sự việc vô cùng kì lạ. Đứa con đã chết của người phụ nữ họ Vân không hề được hỏa táng, cũng không chôn cất. Vậy đứa con của người phụ nữ yêu trẻ thương con này đã đi đâu?

    Khóm trúc đào trước sân trồng trong một chiếc ang lớn, một con búp bê lớn và cũ kĩ đặt cạnh tường, từng trận gió cơn mưa năm này tháng khác thổi qua, nó cũng không bao giờ cất tiếng.

    [1] QQ: Một phần mềm nói chuyện trực tuyến được sử dụng phổ biến tại Trung Quốc, giống như Yahoo, Skype.

    [2] Gia hòa vạn sự hưng: Nội dung chữ hán thêu trên tranh, nghĩa là: Gia đình hòa thuận thì mọi việc đều phát đạt.
     
    Chỉnh sửa cuối: 26/3/17
    Gum, Đương duy, Dung dung and 4 others like this.
  20. Nhím Nhím

    Nhím Nhím Member
    • 344/373

    Bài viết:
    41
    Đã được thích:
    422
    MƯỜI TỘI ÁC TẬP 2: HIỆN TRƯỜNG VỤ ÁN
    PHẦN 6: QUÁI THÚ NƠI THÀNH THỊ

    Lời dẫn
    Có một cách chung mà mọi đứa trẻ đều dùng để đối diện với sự sợ hãi, đó là: chìm vào giấc ngủ – Khaled Hosseini.


    Một cậu sinh viên đại học dẫn một cậu nhóc cháu ruột của mình đi xem lễ đền. Dân gian miêu tả quả chẳng sai – “người đông như trẩy hội”. Giữa biển người náo nhiệt, chàng sinh viên cùng cậu nhóc đứng dưới chân cột điện. Ngay giữa quảng trường rộng lớn, các vị “thần tiên” bằng da bằng thịt, mặc những bộ đồ cổ trang, đi cà kheo cao chót vót, hiên ngang bước qua bước tới một cách vững vàng. Trên cột điện nơi cậu đang đứng, dán không biết bao nhiêu tờ quảng cáo chồng chất lên nhau. Trong mớ hỗn độn ấy, có một mục quảng cáo khiến cậu vô cùng chú ý. Ngẩng đầu lên đọc cho kĩ, cậu càng đọc càng thấy chìm vào trong một nỗi sợ hãi vô hình. Mặc dù đứng giữa dòng người tấp nập trong một ngày đông đầy nắng chiếu trên vai, giữa ban ngày ban mặt, nhưng cậu sinh viên đại học này vẫn có một cảm giác ghê rợn, rùng mình.

    Đúng lúc đó, đứa cháu của cậu bỗng dưng biến đâu mất!

    Chàng sinh viên hốt hoảng tìm kiếm khắp nơi. Cậu đưa tay lên vòng trước miệng gọi lớn tên đứa cháu hiếu động.

    Một cậu bé đứng lên từ sạp bán câu đối tết gần đó, chạy lại rồi nhảy bổ ra phía sau lưng chàng sinh viên. Cậu bé vừa giậm chân xuống đấy vừa hô một tiếng thật lớn khiến chàng sinh viên hết hồn: “Òa!”

    Chàng sinh viên vừa lo lắng vừa tức giận, tét vào mông cậu nhóc mấy cái nảy lươn, rồi tóm chặt tay cậu bé ra lệnh: “Đi! Đi về nhà ngay!”

    Chàng sinh viên này thường ngày thích xem phim ma và đọc tiểu thuyết kinh dị, chẳng bao giờ biết sợ là gì. Kể cả khi nhìn thấy những bức hình dòi bò dưới da hay xác chết bọc kí sinh trùng, cậu ta cũng bình tĩnh như không. Vậy thì trên cột điện kia dán quảng cáo gì mà khiến cậu hồn bay phách lạc thế?

    Chương 1
    Giữa cầu kêu oan

    Ngày 20 tháng 01 năm 2009, giữa ngày đại hàn giá lạnh, gió bắc rít lên từng hồi, vài giọt mưa lất phất chưa kịp rơi xuống đã vội đóng thành băng. Trước cửa Cục công an treo những chiếc đèn lồng đỏ rực, ánh đèn điện lấp lóa trên những cành cây xanh.

    Suốt một đoạn đường dài hàng chục cây số đã tràn ngập không khí ngày tết.

    Một chiếc xe đắt tiền đang tiến ra khỏi cổng. Một bà lão nhìn thấy vội vàng chạy tới chặn trước đầu xe. Bà cụ chống một cây gậy dài bước ra giữa đường, quỳ sụp xuống.

    Người lái xe giật mình đạp phanh, chiếc xe đột ngột dừng lại.

    Bà lão đầu tóc tả tơi, áo quần rách rưới, mái tóc hoa râm bị những trận gió lạnh cuối năm thổi bay, che đi một phần khuôn mặt đầy nếp nhăn và tiều tụy của cụ. Bà cụ vẫn quỳ ở đó, chiếc gậy và cuộn chăn lấm lem đầy bụi đất đặt trước mặt. Bà cúi đầu sát đất, đôi tay giơ cao một tờ giấy trắng, như muốn “kêu” lên với những người trước mặt.

    Giấy trắng mực đen, trên đó chỉ viết duy nhất hai chữ: “Cứu mạng!”

    Lái xe bước xuống, bực dọc tỏ thái độ với bà cụ: “Bà chán sống rồi hả? Bà có biết đây là xe của ai không?”

    Bà cụ lê gối vài bước trên nền đường, định bò đến ôm ấy chân người lái xe để cầu xin: “Cứu già với! Làm ơn cứu già với! Đứa cháu nội của già mất tích rồi!”

    Người lái xe theo phản ứng lùi lại phía sau vài bước, rồi chỉ vào bà cụ, quát: “Dừng lại! Trên xe là phó bộ trưởng bộ công an và bốn vị của tổ chuyên án, bà dám chặn xe giữa đường thế này thật là to gan lớn mật.”

    Bà cụ vẫn quỳ sụp dưới đất, hướng thẳng về phía xe vừa dập đầu vừa kêu oan: “Thanh thiên đại lão gia! Cứu mạng! Xin cứu mạng!”

    Người lái xe không thèm để ý đến bà cụ, quay mông bước trở về, ngồi trước vô lăng. Anh lùi xe lại một đoạn, định lái vòng qua bà cụ để đi tiếp.

    Bà cụ vẫn cúi gập người, quỳ mãi không chịu đứng dậy, cả thân nhìn như một tảng đá gầy gò nhưng ngoan cường đứng giữa gió đông lạnh lẽo.

    Bạch Cảnh Ngọc cùng bốn người của tổ chuyên án đang trên đường đến dự liên hoan văn nghệ cuối năm của ngành Công an. Vừa ra khỏi đơn vị đã gặp phải bà lão chặn xe kêu oan. Bốn người tổ chuyên án đều nhận ra đầu gối quần bà cụ đã rách bươn, lộ cả lớp quần bông lâu năm mặc bên trong ra ngoài. Điều đó chứng tỏ, bà cụ đã quỳ ở đây nhiều lần, nhưng không có kết quả. Cuộn chăn của cụ bụi đất tầng tầng, được bọc bằng một một lớp giấy bóng màu xám xịt, chứng tỏ bà cụ hàng đêm vẫn phải ngủ nơi đầu đường xó chợ giữa mùa đông lạnh căm này.

    Ngoài Đạo Đức và Pháp Luật, vẫn còn một thứ nguyên tắc phán quyết quan trọng hơn bất cứ thứ gì khác trên đời, ấy là lương tâm con người.

    Chiếc xe vừa lái đi được một đoạn lại dừng lại. Họa Long và Bao Triển mở cửa bước ra, quay lại đỡ bà cụ dậy.

    Bà cụ đến từ vùng núi Nghi Mông, nói một chất giọng vùng Tây Nam Sơn Đông đặc sệt. Phải mất một hồi lâu bà cụ mới kể rõ được tình hình mà mình đang gặp phải. Đứa cháu nội tên Đản Đản của cụ bị người ta bắt cóc đã một năm nay mà không có tin tức gì. Quá đau buồn và hối hận, ông nội của Đản Đản đổ bệnh rồi qua đời, mẹ cậu bé cũng liệt giường chẳng dậy nổi, bố cậu đành nén đau thương, nai lưng gắng sức chống đỡ cho gia đình li tán sắp sụp đổ này. Cụ bà đã ngoài bảy mươi, quyết định chống gậy ra đi tìm đứa cháu nội mất tích. Hơn một năm ròng, trải qua không biết bao nhiêu khổ nạn, đến không biết bao nhiêu nơi, nhưng hy vọng tìm được đứa cháu trai duy nhất chưa bao giờ vụt tắt. Nếu ngày nào còn chưa tìm được đứa trẻ, cụ sẽ không quay trở về.

    Tổ chuyên án mời bà cụ vào trong phòng làm việc.

    Bà cụ vừa buồn rầu vừa tự than thở cho số phận khổ đau của mình, nhưng nay đã may mắn có nhà nước giúp đỡ.

    Giáo sư Lương nhẹ nhàng hỏi: “Một năm nay cụ ăn uống bằng gì?”

    Cụ bà trả lời: “Giờ xin ăn chứ biết làm sao được! Cũng may đời còn nhiều người tốt. Khối người còn cho già tiền. Già còn để dành đây này!”

    Tô My lấy chỗ đồ ăn vặt của mình, có một hộp sôcôla, mấy gói hạt và thịt bò khô ra đặt trước mặt bà cụ.

    Cụ bà nói: “Con gái con tốt bụng quá! Nhưng già nào còn răng đâu mà nhai được. Con có nước hay canh nóng gì cho già một bát là được rồi.”

    Tô My thấy chua xót trong lòng, nhưng trong văn phòng không còn gì khác pha một cốc cà phê tan đưa cho bà cụ.

    Bà cụ lôi từ trong bọc chăn ra một chiếc cốc uống trà đã sứt mẻ, đổ cà phê vào đó, rồi đưa lên vừa xuýt xoa bàn tay lạnh cóng vừa uống, rồi cười nói: “Vừa đắng đắng vừa ngọt ngọt!”

    Họa Long nhìn bà cụ, nói: “Cụ ơi! Bây giờ cũng gần tết rồi! Hay để chúng con đưa cụ về nhà. Chỉ cần cảnh sát địa phương lập án, họ sẽ giúp cụ tìm cháu nội về thôi!

    Cụ bà buồn rầu đáp: “Họ có tìm thấy đâu, nên già mới phải lên Trung ương nhờ. Già là người vùng núi Nghi Mông, từng chữa trị cho Giải phóng quân, từng đưa bánh, khâu giày cho bộ đội. Năm đó, một vị thủ trưởng cưỡi ngựa nói với già, sau này nếu có khó khăn gì thì cứ tìm đến Trung ương nhờ giúp đỡ. Bao nhiêu năm nay già dù nghèo khổ cũng vẫn cắn răng cắn lợi mà sống qua ngày. Nhưng giờ cháu nội già bị người ta bê đi mất rồi, cả nhà người sống người chết, già phải tìm lên Trung ương thôi?”

    Những cống hiến của người dân vùng núi Nghi Mông trong cuộc kháng chiến chống Nhật và giải phóng dân tộc của Trung Quốc được cả nước ca ngợi. Trong những năm tháng kháng chiến gian khổ, điều kện vô cùng khắc nghiệt, vật chất vô cùng thiếu thốn đó, hàng nghìn hàng vạn người phụ nữ Nghi Mông đã có những sự hi sinh lớn lao cho đất nước. Sự thành lập của nhà nước Trung Quốc mới là công lao vun đắp của nhân dân.

    Những người phụ nữ, người chị, người mẹ vùng núi Nghi Mông từng dùng cả dòng sữa của mình để nuôi nấng con cái của các chiến sĩ, để họ yên tâm chiến đấu.

    Giáo sư Lương nói với Bạch Cảnh Ngọc: “Đây là một bà cụ đến từ vùng núi cách mạng. Những gì hứa hẹn năm xưa đã đến lúc phải thực hiện rồi.”

    Bạch Cảnh Ngọc phản đối, nói: “Nhưng điều này không đúng với nguyên tắc và trình tự. Trong xã hội bây giờ mà vẫn còn chuyện chặn đường dâng sớ kêu oan, việc lộ ra ngoài thì trước cửa cơ quan chúng ta phải quỳ biết bao nhiêu đây? Tổ chuyên án không phải đội trinh thám tư nhân, mà chỉ đảm nhiệm những vụ án mạng nghiêm trọng trong nước thôi. Việc tìm trẻ lạc hãy cứ để cho cảnh sát địa phương tìm thì hơn.”

    Bà cụ quay sang hỏi: “Đội trinh thám tư nhân là gì?”

    Bao Triển trả lời: “À nhận tiền và giúp người ta phá án, điều tra cụ ạ!”

    Cụ bà cởi nút áo bông, lộ ra từ chiếc túi trong một chiếc túi đựng xà phòng đã hết bên trong có một chút tiền. Cụ nói: “Vì việc tìm Đản Đản, trâu cày nhà già cũng bán rồi, nhà cũng bán rồi. Chạy chữa bệnh cho mẹ nó cũng hết không ít. Có cả chút tiền những người tốt bụng cho già đều còn để dành lại. Đây, giờ già đưa hết cho Trung ương, Trung ương thương lấy thân già này với!”

    Cụ bà lại định quỳ xuống lần nữa. Họa Long vội vàng đỡ cụ dậy, rồi bảo cụ cất tiền vào túi.

    Bao Triển giải thích với cụ: “Cụ ơi! Chúng con không lấy tiền của cụ đâu. Nếu có làm, thì chúng con cũng sẽ làm đội trinh thám tư nhân và miễn phí cho cụ.”

    Giáo sư Lương hỏi ba người còn lại trong tổ: “Tổ chuyên án hủy lịch nghỉ tết, mọi người có ai có ý kiến gì không?”

    Tô My nói: “Cháu từ nhỏ được bà nội nuôi lớn. Nếu cháu mà mất tích thế này, chắc chắn bà nội cũng sẽ đi tìm cháu.”

    Họa Long quả quyết: “Liên hoan văn nghệ không xem cũng chẳng chết ai!”

    Bao Triển cũng đồng ý bỏ qua kì nghỉ lễ giúp bà cụ tìm đứa cháu nội mất tích.

    Bạch Cảnh Ngọc thở dài, nói: “Thôi được rồi! Cả bốn người đồng tình kháng lệnh của tôi như thế này, tôi phải tức giận hay vui mừng đây không biết!”

    Tô My liên hệ với cơ quan công an địa phương nơi bà cụ sinh sống. Theo những gì chủ nhiệm văn phòng chống bắt cóc cho biết, mấy năm gần đây có một số bé trai đột nhiên mất tích, trong đó có Đản Đản là cháu nội, của bà cụ. Phía cảnh sát đã cố gắng rất nhiều, và vẫn liên tục tìm kiếm, nhưng không có kết quả. Họ chỉ điều tra được rằng cậu bé bị một người phụ nữ trung niên đưa đi. Có một người qua đường đã thấy người phụ nữ đó nói với Đản Đản rằng: “Bác đưa con đi mua đồ ăn ngon nhé! Lát nữa lại đưa về với mẹ!”

    Chủ nhiệm văn phòng còn cho biết: “Người phụ nữ đó nói giọng vùng Dương Thành – Quảng Đông, nhưng cả vùng Dương Thành rộng lớn như thế, họ biết đi đâu tìm một đứa trẻ bây giờ? Đứa trẻ còn có khả năng bị bán đến những vùng núi nghèo, vùng sâu vùng xa, chỉ có cách tìm được kẻ bắt cóc mới có thể biết được tung tích của đứa trẻ. Trong trường hợp bị bán qua bán lại nhiều lần, hy vọng lại càng mong manh hơn.”

    Tô My yêu cầu phía cảnh sát địa phương gửi bản fax ảnh và các tư liệu vụ án đến cho tổ chuyên án. Sau khi xem xong một lượt, mọi người mới thấy đầu mối vô cùng ít, độ khó của vụ án vì thế tăng lên gấp nhiều lần, nhân chứng duy nhất cũng chỉ nhìn thấy sau lưng của kẻ bắt cóc, và chỉ nghe thấy đúng một câu như trên.

    Bạch Cảnh Ngọc nói: “Những kẻ bắt cóc phụ nữ trẻ em thường có tính tập đoàn rất rõ rệt. Nếu chỉ có một người thực hiện việc bắt cóc thực sự rất khó. Thông thường quá trình này sẽ có người phụ trách việc bắt cóc, có người phụ trách trung chuyển và có người phụ trách bán trẻ em. Tất cả hình thành một mạng lưới mua bán chuyên nghiệp. Phương thức phá án cũng không nhiều. Phải bắt được kẻ bắt cóc trực tiếp, rồi từ từ lần theo đó để tìm ra người đã mua đứa trẻ. Nếu mạch điều tra bị đứt quãng, sẽ không có cách nào có thể điều tra tiếp được nữa, mà chỉ còn cách đi mò thông tin những đứa trẻ có lai lịch không rõ ràng, rồi sử dụng việc xét nghiệm máu để xác định, tìm ra bố mẹ đẻ. Còn có một cách đó là công bố rộng rãi ảnh của đứa trẻ bị bắt cóc, nhờ đến sự giúp đỡ của quần chúng để xác định. Để phá một vụ án bắt cóc trẻ em có thể sẽ cần đến vài năm, di chuyển tới nhiều thành phố khác nhau, hao tiền tốn của. Tội phạm bắt cóc thông thường đều gây án tại từ vùng này sang vùng khác, số lượng đồng bọn đông đảo, kinh phí và nguồn nhân lực cảnh sát để phá án đều là những vấn đề quan trọng. Các tạp chí trực thuộc bộ công an đều có chuyên mục tìm người lạc mỗi năm đều nhận được một lượng lớn người gửi thư tới, hầu như đều là các bậc cha mẹ có con bị mất tích gửi thư đến nhờ giúp đỡ tìm kiếm.”

    Bạch Cảnh Ngọc gọi một cú điện thoại, kêu cấp dưới đưa đến một thùng thư. Tổ chuyên án đọc xong mấy bức thì không thể đọc tiếp nổi nữa. Những bức thư đó khiến bất cứ ai đọc được cũng phải đứt từng khúc ruột. Sau đây là một vài đoạn trích:

    “Lạc Lạc à! Hôm nay là ngày thứ mười kể từ khi con rời xa bố mẹ. Ngày nào mẹ cũng chỉ biết khóc, không dám nhắm mắt lại. Kể từ khi con rời xa bố mẹ, trong đầu mẹ lúc nào cũng là hình ảnh khi con trở về nhìn bố mẹ mà cười vui sướng! Mẹ mong biết bao giây phút xúc động lòng người ấy sẽ đến. Không biết con còn muốn trừng phạt bố mẹ đến khi nào? Ngày nào mẹ cũng chỉ biết ôm ảnh con vào lòng mà khóc, mà hối hận. Tất cả là tại mẹ không tốt, không làm tròn trách nhiệm của mình. Nếu được chọn lựa, mẹ chỉ muốn tim mình ngừng đập. Mẹ không chịu được những ngày tháng đau khổ vì mất con như thế này. Mẹ sắp không cầm cự được nữa rồi, con ở đâu?



    Con yêu! Cha đã già rồi! Không biết con ở đâu? Bao nhiêu năm nay con sống ra sao? Cha sẽ tiếp tục tìm con như đã tìm bao năm nay vậy!

    Con sinh vào ngày 2 tháng 2 năm 1989, cha đặt tên con là Giang Huy.

    Khóe mắt phải của con có một nốt ruồi màu đen, trên bụng có một vết bớt đỏ hình tam gác, trên trán có một vết sẹo bằng móng tay vì hồi nhỏ con nghịch cạnh bếp lửa chẳg may vập đầu vào. Con nhóm máu B.

    Bao nhiêu năm đã trôi qua, mặc dù không có cha mẹ cạnh bên, nhưng con chắc đã lớn thành người rồi, và có thể con đã không còn nhớ cha mẹ là ai nữa. Nhưng những gì về con, cha đều nhớ như in, cứ như mọi việc mới chỉ vừa xảy ra ngày hôm qua đây thôi vậy. Cha luôn nhớ và đi tìm con.

    Không bao giờ cha quên được cái ngày 15 tháng 8 năm 1995 định mệnh ấy. Cha đã không trông con cẩn thận, để con bị bọn bắt cóc bê đi mất. Cha thật hối hận, cha hối hận vô cùng. Lẽ ra cha phải chơi cùng con, phải trông con như mọi ngày, có lẽ vận mệnh của gia đình mình đã khác.

    Lúc con bị bắt đi, cha vẫn còn loáng thoáng nghe được con gọi một tiếng “cha ơi”, bao nhiêu năm nay tiếng gọi ấy cha chưa bao giờ quên được.

    Lúc rời xa cha mẹ, con mới có năm tuổi giờ này con đã gần hai mươi. Con biết không, bà nội vì mất cháu mà phát bệnh tim qua đời. Mẹ con cũng tái giá rồi. Chúng ta không thể trách mẹ con được, tất cả là lỗi của cha, và cha không thể nào bù đắp được cho mẹ. Hai tháng liền sau đó, cha ngoài việc nằm trên giường suy nghĩ ra, không còn biết làm gì khác, không biết phải đi đâu về đâu.

    Sau đó, cha hạ quyết tâm, nhất định phải tìm đưa con trở về, bất kể phải đợi đến khi nào, bất kể con bị bán tới nơi đâu.

    Bao năm nay, cha đã đặt chân tới những nơi nào chính cha cũng không nhớ rõ. Cha chỉ biết tìm từ thành phố này sang thành phố khác, dán thông báo tìm trẻ lạc khắp nơi. Đến đâu cha cũng hỏi thăm mọi người rồi tìm cả mối để mua thông tin nữa. Mặc dù con không ở bên cạnh, nhưng cha vẫn cảm nhận được con đang ngày một lớn lên. Đi đến nơi nào cha cũng tìm đến các trường học để tìm kiếm, chỉ tiếc là, cha vẫn chưa tìm thấy con.

    Thực lòng mà nói, đã có lúc cha muốn buông xuôi. Con biết không, đôi khi, đối mặt với biển người rộng lớn, không biết phải đi tìm nơi đâu, cha chỉ còn biết tìm đến với rượu để mình say mà quên đi. Bởi cha thực sự sợ hãi, sợ hãi rằng không biết cha còn có thể tìm thấy con nữa hay không? Và phải tìm bao nhiêu năm nữa?

    Cha đã già rồi! Những đồng xu cuối cùng trên người cũng đã sớm chẳng còn là bao. Mặc dù người thân và bạn bè đều khuyên cha đừng tìm nữa, và cũng có những người cho rằng cha là kẻ điên, nhưng việc tìm con là cái đích duy nhất mà trước đây, hiện tại và cho đến trước khi tìm thấy con mà cha hướng đến.”

    Những bức thư này càng làm tổ chuyên án kiên định hơn nữa việc phải giúp bà cụ tìm thấy đứa cháu của mình. Mọi người phân tích rằng việc những kẻ bắt cóc trẻ sơ sinh chủ yếu để bán, nhưng những đứa trẻ lớn tuổi hơn một chút thì chủ yếu để tổ chức thành những nhóm ăn xin. Đản Đản khi bị bắt cóc đã bốn tuổi, kẻ bắt cóc nói giọng Dương Thành, do đó khả năng cậu bé là ăn xin ở Dương Thành là rất lớn. Tổ chuyên án quyết định phái người đưa cụ bà về nhà, nhưng cụ nhất định không chịu, mà đòi đến Dương Thành tìm cháu cùng tổ chuyên án. Cụ nói rằng, cho dù mình phải đi làm ăn xin, dù phải chết đầu đường xó chợ, khi chưa tìm thấy cháu sẽ không chịu về nhà.

    Không thể khuyên nổi, tổ chuyên án đành đưa cụ đến Dương Thành cùng cả nhóm, có bà cụ, việc nhận diện cũng dễ dàng hơn.

    Khi trên máy bay, nhìn thấy bà cụ rách rưới, nữ tiếp viên hàng không có phần kinh ngạc, có lẽ đó là lần đầu tiên họ thấy một bà cụ nhà quê ngồi máy bay. Nữ tiếp viên hỏi bà cụ uống gì, cụ ôm chặt chiếc bao tải đựng lỉnh kỉnh những thứ đồ của mình, xua xua tay từ chối. Một lát sau, đến giờ phát đồ ăn, bà cụ nói mình không đói, nữ tiếp viên rót đưa cho bà một cốc nước nóng. Bà cụ đã có hành động khiến mọi người đều kinh ngạc. Cụ lấy từ trong túi ra một nắm tiền lẻ, toàn là năm xu một đồng. Khi nữ tiếp viên nói các đồ ăn trên máy bay đều miễn phí, bà cụ mới cầm lấy, nhưng vẫn không nỡ ăn mà bỏ vào bao tải. Trong bao tải của cụ còn có đến mấy chục túi Snack Khoai tây loại rẻ tiền.

    Bà cụ mua rất nhiều Snack Khoai tây vì đó là loại đồ ăn vặt mà cháu nội cụ rất thích.

    Tổ chuyên án và bà cụ đã đến Dương Thành. Họ ngồi xe khách vào trung tâm thành phố. Sau khi xuống xe, Bao Triển chú ý tới một đoạn quảng cáo kỳ dị dán trên cột điện, nội dung quảng cáo như sau:

    CHUYỂN NHƯỢNG TRẺ TÀN TẬT

    Hiện tôi có ba trẻ tàn tật:

    1. Mất hai chân, giá chuyển nhượng 8000 tệ.
    2. Hai tay dị tật giá chuyển nhượng 6000 tệ.
    3. Câm điếc thiểu năng, giá chuyển nhượng 5000 tệ.
    Tất cả đều có kinh nghiệm trong lĩnh vực ăn xin, nghe lời, thật thà, chắc chắn không bỏ trốn. Nay tôi muốn chuyển nhượng quyền sử dụng, có thể chuyển nhượng tất cả hoặc chuyển nhượng lẻ từng người. Nếu chuyển nhượng cả một và hai, sẽ được tặng cả ba. Do có việc gấp cần về quê nên tôi mới chuyển nhượng ạ. Ai có nhu cầu xin liên hệ.

    Chương 2
    Địa ngục

    Tô My nói: “Không hiểu người bố nào có thể đăng quảng cáo chuyển nhượng con cái mình cho đi làm ăn xin như thế này được không biết?”

    Giáo sư Lương giải thích: “Có một điều hiển nhiên dễ nhận thấy, đây là con của người khác.”

    Bao Triển bức xúc nói: “Mua hai tặng một! Quảng cáo chuyển nhượng trẻ em lại công khai dán ngay giữa đường giữa phố như thế. Xã hội này thật đáng sợ!”

    Họa Long nói: “Nếu bây giờ còn giữ hình phạt lăng trì[1] thì những kẻ bắt cóc trẻ em, đập cho tàn phế, rồi bắt chúng đi làm ăn xin ăn mày kia nhất định phải xử bằng cách ấy mới thích đáng.”

    Bao Triển lột lấy tờ dán quảng cáo trên cột điện, rồi cẩn thận bỏ vào trong túi. Ủy ban thành phố cách đó không xa. Tổ chuyên án quyết định đi bộ tới đó, trên đường nhìn thấy không ít ăn xin. Đi qua cửa một siêu thị ven đường, một thằng bé trông nhem nhuốc bẩn thỉu bỗng nhiên chạy ra bám chặt lấy chân Họa Long.

    Họa Long gọi bà cụ lại, bảo: “Cụ ơi, cụ lại đây xem có phải cháu cụ không?”

    Cụ bà nhìn một lát, rồi lắc lắc đầu, rồi cụ lấy ra một túi snack khoai tây bỏ vào bàn tay bé nhỏ đang xòe ra của đứa bé.

    Tới một ngã tư đường, bốn người tổ chuyên án và bà cụ phát hiện ra: Cứ mỗi khi có đèn đỏ, là một đám ăn xin ùa ra như ong vỡ tổ, chúng chạy lại ngửa tay xin tiền những người lái xe qua lại, thậm chí trong số đó còn có cả một người phụ nữ đang có bầu, trên lưng còn cõng cả một đứa trẻ sơ sinh. Cô ta dùng đôi bàn tay đen nhẻm và nhơ nhuốc gõ gõ vào cửa xe, rồi chỉ chỉ ra đứa trẻ phía sau lưng mình, rồi lại chỉ chỉ vào miệng, a a vài tiếng không rõ muốn nói gì, cuối cùng ngửa tay ra xin tiền rất… “chuyên nghiệp”.

    Khi nhìn vào đó, chúng ta đều có thể đoán được đó là một bà bầu bị câm làm nghề ăn xin.

    Thế nhưng, khi nhìn thấy có một người nước ngoài đang ngồi phía sau xe, cô ta rất nhanh chóng chạy xuống cửa dưới thoăn thoắt như một người bình thường, không có chút dáng vẻ mệt mỏi nào của một người đang mang bầu. Kinh ngạc hơn nữa, người phụ nữ câm chu đầu vào trong cửa xe, rồi mở miệng nói tiếng Anh bồi với khách: “Hello! Money!” (Xin chào! Tiền!). Giọng nói cô ta có phần khàn khàn, nghe như trong họng tắc đầy khói bụi. Cô ta không ngừng lặp đi lặp lại mấy từ tiếng Anh nọ, cho tới khi người đàn ông ngoại quốc nở một nụ cười lịch sự, đưa cho cô ta tờ một trăm tệ.

    Những vụ án trước đây đều là do tổ chuyên án nhận được lời “cầu cứu” từ phía cảnh sát địa phương, nhưng lần này thì ngược lại.

    Trưởng cục Cảnh sát Thành phố tiếp đãi tổ chuyên án một cách nồng nhiệt. Sau khi nghe rõ mục đích của tổ chuyên án, ông tỏ ra rất nhiệt tình giúp đỡ, rồi bảo người sắp xếp nơi ở và làm việc cho tổ chuyên án. Cả nhóm được sắp xếp vào ở tại năm phòng trong khu tiếp đãi khách của cơ quan.

    Theo những gì được giới thiệu tại Dương Thành có một lượng lớn ăn xin chuyên nghiệp. Theo kết quả điều tra, hiện nay những ăn xin đầu đường xó chợ ở đây chủ yếu tập trung tại khu vực trung tâm, trong đó một bộ phận chủ yếu là những người già. Khoảng 10% trong số ăn xin ở đây được cho là những người có bệnh về thần kinh hoặc thiểu năng trí tuệ, chủ yếu tập trung ở khu vực Lan Sa, Tòng Hoa, Tăng Thành, v.v… Những đứa trẻ ăn xin chủ yếu tập trung ở khu Nguyệt Tú, Lệ Loan, Thiên Hòa. Một nửa trong số trẻ em đó còn làm cả nghề nhặt rác, chúng chủ yếu tập trung ở những khu mua sắm, điểm tham quan du lịch và các bến xe bến tàu. Tại khu Việt Tây của Dương Thành còn có một xóm ăn xin, những người ở đây đi ăn xin như đi làm nghề chân chính, sáng đi tối về.

    Trưởng cục Cảnh sát thành phố gọi một cảnh sát khu vực đến, rồi trình bày với tổ chuyên án: “Cậu Tiểu Mã này là người phụ trách tình hình trật tự trị an của xóm ăn mày, cũng quen với công tác cứu trợ giúp đỡ trẻ em lang thang cơ nhỡ, cậu ấy sẽ nhận công tác giúp đỡ tổ chuyên án trong chuyến công tác lần này.”

    Họa Long tức giận nói: “Cảnh sát khu vực? Nghĩa là thế nào? Chúng tôi đường xa tới đây, phía cảnh sát thành phố chỉ sắp xếp một cảnh sát khu vực nhỏ thế này thôi sao?”

    Vị lãnh đạo nói một cách e ngại: “Hôm nay đã là hai sáu Tết rồi, cảnh sát thì cũng cần phải có Tết chứ, dù sao cũng đã làm việc cả năm trời rồi! Hầu như các cảnh sát đều đã nghĩ tết hết rồi, thực sự không thể tìm đâu thêm người được nữa. Hơn nữa còn phải lo đến vấn đề trật tự trị an ngày tết nữa, nên chúng tôi không kiếm đâu ra người được nữa cả. Các đồng chí nghĩ mà xem, việc chống trộm cướp, chống cháy nổ, an toàn giao thông, an ninh thành phố, có phần nào là không quan trọng bằng việc tìm một đứa trẻ không chứ?”

    Giáo sư Lương tỏ ý thông cảm. Trước cổng Cục cảnh sát bỗng nhiên xuất hiện một nhóm người đang hô hào ầm ĩ, căng khẩu hiệu. Đây là một nhóm công nhân đi đòi lương.

    Cục trưởng đưa tay vén rèm cửa sổ, rồi nói với tổ chuyên án: “Các vị nhìn thấy rồi đấy! Cuối năm rồi, những việc cần giải quyết cũng nhiều lên rất nhiều. Các vị cứ ở lại đây đã, đến qua tết mọi việc sẽ dễ giải quyết hơn.”

    Tiểu Mã là một cảnh sát có phần thô lỗ. Anh ta tỏ rõ thái độ không vui khi lãnh đạo giao nhiệm vụ cho mình. Tiểu Mã lái xe đưa bốn người tổ chuyên án và bà cụ đến khu nhà khách của cơ quan, trên đường cậu ta không ngừng dùng tiếng địa phương mắng chửi. Giáo sư Lương quyết định không ở trong nhà khách của Cục cảnh sát mà vào ở ngay trong xóm ăn xin.

    Cảnh sát Tiểu Mã cười khó hiểu rồi nói mỉa một câu: “Các vị đầu óc có vấn đề cả rồi sao?”

    Không vào hang cọp sao bắt được cọp con.

    Muốn hiểu cuộc sống của những người ăn mày, thì phải bước vào sào huyệt của chúng mới mong hiểu rõ được.

    Tại Dương Thành có rất nhiều xóm nhỏ nằm trong thành phố. Trong những xóm kiểu này, những người nghèo khổ làm bạn với nhau. Dân ngoại thành thuộc những tầng lớp khác nhau đều tập trung tại đây, mỗi xóm làng giữa chốn đô thành này đều là một xã hội nhỏ. Đó không phải là những xóm rìa, mà chính là những ung nhọt, những phần thừa của thành phố, thành phần tạp nham, trị an hỗn loạn. Các số liệu tổng hợp cho thấy, có đến 80% những vụ án xảy ra ở Dương Thành là do những người ngoại tỉnh gây ra, và 90% số dân ngoại tỉnh đó lại sống trong chính những xóm làng kiểu này.

    Đây là những “hang ổ” của nghèo đói trên đất nước Trung Quốc. Chửi bậy, u ám, tù túng, hỗn loạn, khắp nơi là những “lầu xanh lầu vàng”. Ngay giữa trưa nắng cũng không thấy ánh mặt trời, khoảng cách hạn hẹp giữa hai khu nhà nhỏ đến nỗi một chùm sáng mặt trời cũng là thứ gì đó vô cùng xa xỉ.

    Đây chính là nơi mà người ta thường gọi là “chốn giang hồ”, người nào ở đây chưa từng bị mất đồ thì đúng là một hiện tượng lạ. Ngoài trộm cắp, còn có những kẻ bảo kê chuyên bắt nạt người khác. Chúng đến các sạp bán hàng đòi thu phí bảo hộ giống như nhà nước thu thuế kinh doanh. Ở những nơi này còn có hai nghề rất “phất”, một loại là những nơi tổ chức đánh bạc dưới hầm, hai là những cô ả gội đầu kéo khách ở đầu phố. Ở những chỗ tập trung tất cả những thứ rác rưởi của xã hội này, các băng nhóm tràn ngập, trộm cắp, cướp bóc, lừa gạt, mại dâm, bắt cóc trẻ em, cờ bạc, rửa tiền, làm giả v.v… vẫn diễn ra một cách tấp nập hàng ngày.

    Tiểu Mã tìm một căn nhà ba phòng ngủ một phòng khách trong làng ăn xin để làm chỗ ở tạm thời cho tổ chuyên án. Trong xóm giữa thành phố này, đây đã được coi là nơi vô cùng hoa lệ rồi. Tiểu Mã trước khi rời đi đã để lại số điện thoại của mình. Đồn cảnh sát nơi anh ta làm việc cách đó không xa, vì vấn đề an toàn, xe sẽ được đặt trong sân của đồn cảnh sát. Tiểu Mã dặn dò tổ chuyên án không nên nói chuyện với người lạ, nếu không có việc gì thì không nên đi ra ngoài.

    Tiểu Mã nói với Họa Long: “Anh mang theo súng nhất định phải để thật cẩn thận.”

    Họa Long trả lời: “Người anh em, cậu cứ yên tâm đi!”

    Tiểu Mã nói một cách nghiêm túc: “Tôi từ trước tới giờ đều không dám mang theo súng. Ở đây kẻ trộm còn nhiều hơn người bị trộm.”

    Trong phòng từ đồ gia dụng đến điện nước đều không thiếu thứ gì. Trên bức tường bê tông bên ngoài cửa sổ có viết mấy hàng “biểu ngữ” ghi: “Cấm đái ỉa bậy? Đứa nào đổ rác ở đây chết mẹ nó đi?” Phía trên hành lang phơi đầy quần áo lót, nước từ đó nhỏ tong tong xuống đầu những ai đi qua, mặt đất hình như đã rất lâu rồi luôn ở trong tình trạng ướt át. Tổ chuyên án dọn dẹp qua một chút, mặc dù tâm lý có phần không được như ý, nhưng căn phòng cũ này lại cho họ cảm giác của một gia đình.

    Họa Long nhìn ra ngoài cửa sổ, nghĩ lại rất nhiều điều anh từng trải qua trong quá khứ. Họa Long hiểu rất rõ thành phố này, anh từng đến Dương Thành, trà trộn vào một ổ nhóm buôn bán ma túy, từng “dạy dỗ” một tên oắt láu cá ở quảng trường tại bến tàu hỏa, từng giao đấu với xã hội đen, và đã từng một thời gian ngủ lại trong một ngôi nhà mà người ta gọi là “nhà ma”. Anh vẫn còn nhớ như in, những dây thường xuân dài mọc um tùm dưới tầng một của ngôi nhà ấy, chúng từ từ ngoi sang cả cột điện, trông chẳng khác nào một thác nước màu xanh mượt, những ai qua đó đều phải đưa tay vén những ngọn cây xõa xuống sang hai bên mới đi được.

    Tô My nói: “Xem ra, chúng ta phải đón Tết ở đây rồi.”

    Bà cụ cười cảm thán: “Chỗ này còn tốt hơn nhà ở quê nhiều. Tối nay, già làm bánh chẻo nước cho mọi người ăn. Năm hết Tết đến rồi, cũng phải ăn chẻo nước cho đúng phong tục chứ.”

    Bao Triển thở dài: “Ra tết phía cảnh sát thành phố cũng chưa chắc giúp chúng ta phá án, họ làm thế này là cũng chưa chắc giúp chúng ta phá án, họ làm thế này là để chúng ta rút lui đấy thôi.”

    Giáo sư Lương vẫn bình tĩnh: “Nếu đến một đứa trẻ cũng không tìm ra được, chúng ta còn gọi gì là tổ chuyên án nữa?”

    Tổ chuyên án chỉ có bốn người, cộng thêm một bà cụ già nữa, giữa biển người mênh mông, biết đi đâu để tìm đứa trẻ bây giờ?

    Họa Long bỗng nhớ ra điều gì, nói: “Có một người có thể sẽ giúp được chúng ta đấy!”

    Giáo sư Lương hỏi: “Ai?”

    Họa Long trả lời: “Hắc Bì, một người bạn của cháu trong giới xã hội đen.”

    Tại Dương Thành có không ít băng đảng giang hồ. Tại địa bàn khu bến tàu hỏa và bến xe khách đều có những thế lực đen cai quản. Sau nhiều lần thanh trừng rồi sát nhập, một kẻ tên Trâu Quang Long trở thành đại ca ở đó. Hắc Bì vốn là thủ hạ của Trâu Quang Long, một tay đấm bốc xã hội đen. Trâu Quang Long bị bắt vào ngục, tên tuổi của Hắc Bì ngày càng vang, rồi lên thay vị trí của ông trùm cũ, khống chế ngành vận tải hành khách ở Dương Thành này.

    Họa Long nói: “Nếu Hắc Bì chịu giúp, vận động hệ thống lái taxi trong thành phố giúp đỡ tìm kiếm đứa trẻ, thì hi vọng của chúng ta sẽ rất lớn.”

    Tô My lên tiếng phản đối: “Thật nực cười! Cảnh sát chúng ta, lại phải nhờ vả đến những tên xã hội đen như thế sao?”

    Bao Triển nói: “Những cảnh sát địa phương có chịu nhúng tay vào đâu.”

    Họa Long đồng tình: “Có những người cảnh sát, thích đánh là đánh, thích chửi là chửi, xòe tay ra là vòi tiền, cũng chẳng khác gì xã hội đen. Mẹ kiếp! Vứt chúng ta lại đây chẳng đạo nghĩa bằng mấy anh em giang hồ!”

    Giáo sư Lương quyết định lợi dụng tất cả các lực lượng trợ giúp từ xã hội. Họa Long và Bao Triển đi tìm Hắc Bì mong thận được sự giúp đỡ Tô My đi liên hệ với các tổ chức tình nguyện viên và các nguồn hỗ trợ tìm kiếm. Năm 2007, một đôi vợ chồng thành lập một trang mạng mang tên “Con ơi! Về nhà thôi!”, với mục đích trợ giúp những đứa trẻ bị bắt cóc, bị bỏ rơi, đi lạc, những đứa trẻ lang thang ăn xin tìm về với gia đình. Đây là một tổ chức tập thể công ích xã hội không thu bất cứ một loại phí nào, và rất nhanh chóng trên khắp Trung Quốc đã thành lập các tổ chức tình nguyện viên cứu trợ. Hàng ngàn hàng vạn người hảo tâm đã âm thầm cống hiến, giúp đỡ một trăm sáu mươi tám gia đình đoàn tụ.

    Người lập ra trang mạng này tên là Trương Bảo Diễm. Năm 2009, trong chương trình “Cảm động Trung Quốc”, bà đã vinh dự được nhận giải thưởng nhân vật chính trị pháp luật của thập niên.

    Chúng ta cần phải ghi nhớ cái tên đáng kính này!

    Tô My thông qua Trương Bảo Diễm liên hệ được với tổ chức tình nguyện viên tại Dương Thành. Hội trưởng là một nữ sinh viên đại học, và điều đặc biệt là cô cũng sống trong xóm ăn xin này. Tổ chuyên án lập tức mời cô sinh viên này tới. Cô gái tên là A Đóa, đeo một cặp kính cận dày cộp, là người mắc bệnh trầm cảm, vô cùng ít nói, nhưng là người rất có sức ảnh hưởng và có khả năng hiệu triệu mọi người. Tổ chức tình nguyện viên nơi cô tham gia đã có đến năm trăm hội viên, là một tổ chức công ích khá lớn.

    A Đóa hỏi bà cụ: “Bà cần bao nhiêu người ạ?”

    Bà cụ không trả lời, rồi lại quỳ sụp xuống.

    A Đóa vẫn giữ nét mặt trầm ngâm, nói: “Được rồi! Năm trăm người! Ngày mai cháu sẽ huy động toàn bộ các tình nguyện viên lên phố tìm kiếm.”

    Nhà của A Đóa nằm trong xóm này, cô từng chính mắt chứng kiến không ít hình ảnh đau thương. Một năm trước cô tình cờ nhìn thấy một vụ ngược đãi trẻ em vô cùng ác độc. Kể từ đó, cô bắt đầu quan tâm đến những đứa trẻ bị bắt cóc, rồi trở thành một tình nguyện viên. Hôm đó, chú mèo của A Đóa chạy sang ban công nhà hàng xóm. Cô bé trèo sang để bắt mèo, vô tình nhìn thấy một cảnh tượng đáng sợ như chốn địa ngục trần gian.

    Nhà hàng xóm có năm người, một ông lão ăn xin, một người phụ nữ trung tuổi, một thanh niên tóc dài và hai đứa trẻ. Họ trông giống như một gia đình đích thực, hai đứa trẻ nhỏ đều đang khóc lóc gọi mẹ ơi.

    Bên cạnh đó, một người phụ nữ đang đứng chống nạnh, quát: “Tao chính là mẹ chúng mày hiểu chưa?”

    Đứa trẻ nhỏ càng khóc lớn, vừa khóc vừa gào: “Không phải! Không phải! Cháu muốn mẹ cơ! Cháu muốn mẹ cơ!”

    Ông già ăn mày rít qua kẽ răng, quát nạt: “Còn khóc nữa tao đập chết ra bây giờ!”

    Người thanh niên tóc dài tóm lấy một đứa trẻ, rồi vô cùng thô bạo dúi cổ đứa trẻ xuống đất.

    Đứa trẻ còn lại tròn mắt nhìn anh ta sợ hãi.

    Người thanh niên tóc dài lấy chân giẫm lên khớp tay của đứa trẻ, rồi tóm lấy bàn tay, giật mạnh một cái. Chỉ nghe một tiếng “rắc”, đứa trẻ đau đớn thét gào rồi bất tỉnh nhân sự. Hắn ta đã dễ dàng bẻ gãy tay một đứa bé mà không hề chớp mắt.

    Người thanh niên tóc dài hất mái tóc sang một bên như chưa hề có chuyện gì xảy ra, rồi nói: “Đứa tiếp theo!”

    Chương 3
    Hai chốn thiên đường

    Ngày 22 tháng 01 năm 2009, tức ngày hai bảy tháng chạp âm lịch, chỉ còn vài ngày nữa là đến Tết.

    Đối với người Trung Quốc mà nói, ngày Tết là ngày lễ của sự đoàn tụ. Bất luận chúng ta có ở chân trời góc bể nào, cho dù trời có lạnh đêm có đen, ai ai cũng mong muốn trở về nhà trước giờ giáp canh.

    Những đứa trẻ của chúng ta đang ở đâu? Liệu chúng có thể tìm được đường về nhà không? Có một bài hát viết cho những đứa trẻ bị bắt cóc như thế này:

    Bé ơi có sợ đêm đen?

    Gió đông rét mướt, ngủ quên giữa đường!

    Khuôn trăng dòng lệ rưng rưng,

    Tủi hờn số phận, bỗng dưng xa đàn!

    Con góc bể, mẹ non ngàn

    Tim đau quặn thắt, mẹ hằng nhớ mong!

    Gió Bắc thổi, tuyết bay ròng

    Áo manh con mặc, đau lòng mẹ cha.

    Con ơi con ở nơi xa,

    Mẹ cha biết kiếm đâu ra hỡi trời?

    Dẫu phải chuyển núi gạn khơi.

    Tìm con góc bể, chân trời quản chi.

    Con ơi mau hãy về đi.



    Mấy trăm tình nguyện viên đội gió rét tập trung tại quảng trường Việt Tây. Họ chủ yếu là các sinh viên Đại học, và cả một số nhân viên làm văn phòng. A Đóa là hội trưởng hội tình nguyện viên này. Cô và Tô My mang phát cho mỗi người một bức ảnh và các thông tin liên quan đến Đản Đản. A Đóa chia cả đội thành các nhóm nhỏ, mỗi nhóm phụ trách một khu vực. Nếu tìm thấy đứa trẻ này, không được tiến hành giải cứu ngay mà phải âm thầm theo dõi, thông báo đến tổ trưởng để liên hệ với lực lượng cảnh sát.

    A Đóa cất giọng đầy uy nghiêm: “Xuất phát!”

    Trên quảng trường có vài dân văn phòng đứng hóng chuyện. Tết đến, được nghỉ dài ngày, họ đang bàn với nhau xem nên đi đâu chơi cho hết kì lễ.

    Một chàng trai hỏi: “Chúng ta đi đánh bóng chuyền, hay là đi quán bar uống rượu nhỉ? Hay là đi hát Karaoke vậy?”

    Một cô gái đứng cạnh đó nhìn đội ngũ tình nguyện viên rồi bảo: “Sao chúng ta không đi làm một việc gì đó vui hơn nhỉ?”

    Chàng trai hỏi: “Việc gì?”

    Cô gái trả lời: “Chẳng lẽ anh không nhìn ra sao? Chúng ta nên gia nhập vào tập thể bọn họ mà giúp đỡ đi chứ còn gì nữa!”

    Tại rất nhiều thành phố đều có những tình nguyện viên âm thầm cống hiến như thế này. Họ không cần có danh lợi, không từ khó khăn. Nhóm tình nguyện “Bé ơi! Về nhà thôi?” cần nhiều hơn nữa sự tham gia của những người có lòng nhân ái và nhiệt huyết, quan tâm đến những đứa trẻ bị bắt cóc là trách nhiệm chung của mỗi cá nhân chúng ta.

    Tô My và A Đóa ở cùng một nhóm. Họ cùng nhau đi đến khắp các ngóc ngách tận cùng của thành phố, rồi sang cả những nơi phồn hoa náo nhiệt để tìm tung tích của những kẻ ăn mày. Những đứa trẻ ăn xin ở đâu? Ở những góc khuất bị người ta lãng quên theo ngày tháng. Rất ít người muốn tiếp cận với họ, không phải vì không để ý đến, mà là thấy nhưng giả như không. Khi bạn nhìn thẳng vào ánh mắt của một kẻ ăn mày, sẽ là lúc bạn nhìn thấy mình rõ hơn bao giờ hết.

    Một đứa trẻ xin ăn quỳ dưới đất, điều đó đang trần thuật lại một tội ác của tất cả chúng ta!

    Trước cửa một cửa hàng KFC, Tô My và A Đóa nhìn thấy một cô bé gầy chỉ còn da bọc xương, đang cầm một hộp KFC trống không giơ về phía những người qua đường mong có ai đó tốt bụng sẽ bỏ vào trong hộp một đồng xu nào đó. Trong hộp chỉ có một vài đồng tiền lẻ và mấy xu tiền kim loại. Cô bé buộc tóc sừng trâu hai bên, khoảng chừng mười tuổi, trên người chỉ có một chiếc quần len và áo len mỏng, toàn thân run lên cầm cập. Cô bé giống như một tảng đá ngoan cường giữa dòng nước cuốn, những người qua đường vẫn trôi qua cô bé như không hề thấy gì trước mặt.

    Tô My thấy cảnh đó thì vô cùng đau xót, muốn lại gần cho tiền. Nhưng A Đóa đã ngăn lại nói: “Số tiền cô bé xin được, khi mang về cũng phải nộp lại cho ông trùm, chi bằng mua cho nó ít đồ ăn thì hơn.”

    Cô bé con không xin được tiền, đứng phía ngoài cửa kính tiệm KFC. Cô bé tiến sát lại tấm kính, rồi đưa tay đặt lên trán như suy nghĩ gì, đôi mắt có phần tham lam nhìn vào phía trong cửa tiệm. Cô bé dường như đã đói lắm, cật lực nuốt nước bọt thèm khát. Tô My bỗng nhiên nhớ đến cô bé bán diêm trong Truyện cổ tích, hoàn toàn có thể đoán được tâm tư của cô bé con đang đói khát kia lúc này như thế nào.

    Một lát sau, cô bé đành nằm xuống, co ro thành một đám dưới góc tường.

    Tô My mua một hộp “phần cho cả nhà” rồi đi tới, gọi cô bé dậy. Cô bé ngồi dậy, rồi lễ phép nói “cảm ơn!”

    Tô My ngồi xuống, hỏi cô bé: “Cháu tên là gì?”

    Cô bé cầm một bắp ngô bên tay trái, tay phải cầm chiếc đùi gà. Nó đói quá nên phải đợi nuốt được một hồi mới ngẩng lên trả lời: “Cháu không có tên!”

    A Đóa lấy tấm ảnh của Đản Đản ra, hỏi: “Cháu đã bao giờ nhìn thấy cậu bé này chưa?”

    Cô bé đảo mắt một cái, rồi lại nói: “Mọi người đều gọi cháu là Tử Muội Đinh.”

    Tô My hỏi: “Tử Muội Đinh, nhà cháu ở chỗ nào?”

    Cô bé ngẩng đầu lên nhìn Tô My một cách dò la, rồi không nói gì.

    Tô My lại hỏi lần nữa: “Cháu chạy từ nhà đến đây đấy à?”

    Cô bé cắn cắn môi, rồi trả lời một cách dứt khoát: “Cô ơi! Cô đừng hỏi cháu nữa được không?”

    Tô My nói: “Cháu phải nói nhà cháu ở đâu, thì cô mới đưa cháu về được chứ!”

    Cô bé im lặng hồi lâu rồi mới nói: “Cháu không có nhà! Đường phố này chính là nhà của cháu.”

    Tô My hỏi tiếp: “Thế cháu định sau này làm thế nào? Không phải định làm ăn mày cả đời chứ?”

    Cô bé trả lời: “Cháu muốn thành… Nhưng cháu không đủ xinh đẹp.”

    Tô My hỏi: “Cháu muốn thành gì cơ?”

    Cô bé trả lời: “Khi nào lớn lên, cháu sẽ đi làm kĩ nữ, tức là làm gái gọi ấy?”

    Tô My lấy được lòng tin của cô bé. Cô bé kể sơ qua về số phận đau khổ của mình như thế này. Nhà cô bé ở một vùng núi sâu rất nghèo. Mẹ cô mất sớm, bố thì trọng nam khinh nữ, thường xuyên đánh mắng cô bé, không cho ăn cơm. Năm bảy tuổi, cô bé bị chính bố mình bỏ rơi trên một đống đất, rồi ông quay lưng đạp xe đi mất hút. Cô bé sợ hãi khóc lóc gọi bố, rồi chạy đuổi theo. Bố cô bé lại vứt con mình xuống đống đất đó lần nữa. Cô bé lại chạy đuổi theo, cứ thế đến tận lần thứ ba. Lần cuối cùng, cô bé đi chân trần, đứng trên đống đất khóc đến khi mất tiếng, ông bố đạp xe bỏ đi, bóng ông càng lúc càng xa, rồi mờ mờ, khuất hẳn. Đêm mỗi lúc một đen, dần dần đã không còn thấy gì nữa. Cô bé sợ hãi vì không nhớ được đường về nhà.

    Cô bé bị bỏ rơi, kể từ đó nó lưu lạc đầu đường xó chợ. Một người phụ nữ cứu vớt nó, đưa đến Dương Thành làm ăn xin.

    Mấy năm trôi qua, gia đình, đã trở thành một thứ gì đó xa vời tận nơi dĩ vãng.

    Cô bé không nhớ nhà. Nó hận người cha, rồi dùng một giọng đầy uất hận, nói: “Ông ta muốn cháu chết đi. Còn lâu! Bây giờ cháu sống rất tốt, mỗi ngày đều kiếm được mấy chục tệ, cháu còn có thể đến hiệu sách đọc sách, cũng chẳng có ai đuổi cháu ra ngoài. Khi nào lớn lên rồi, cháu sẽ đến Hồng Tụ Sơn Trang làm kĩ nữ, sẽ kiếm được thật nhiều, thật nhiều tiền.”

    Hồng Tụ Sơn Trang có lẽ là tên một chốn ăn chơi nào đó. Tô My nghe thấy những lời này, trong lòng cảm thấy vô cùng buồn bã.

    Cô bé vẫn chưa ăn xong. Gió lạnh bỗng thổi từng cơn, rồi dần dần những giọt mưa bụi mùa đông rơi xuống. Cô bé ôm chiếc hộp đồ ăn vẫn còn thừa đứng dậy bước đi, thân hình nhỏ bé chẳng mấy chốc đã khuất sau biển người đông đúc.

    Một nhóm khác gọi điện tới, thông báo một tin mừng, một người quản lí thư viện nói từng nhìn thấy Đản Đản.

    Tô My và A Đóa vô cùng hứng khởi, lập tức tới ngay thư viện.

    Người quản lí thư viện tên Trữ Thụ Thanh. Mặc dù chưa từng giành được giải thưởng danh dự nào, nhưng ông là một người đức cao vọng trọng. Ông rộng mở cánh cửa thư viện với những người ăn mày và những người nhặt rác, không gây bất cứ khó khăn trở ngại gì. Bất cứ một ai khi bước vào thư viện đọc sách đều không cần đến giấy tờ hay chi phí nào. Trữ Thụ Thanh trích một câu của Borges[2] như thế này: “Nếu có Thiên Đường thực sự, thì Thiên Đường sẽ mang dáng của một thư viện.”

    Đối với những kẻ ăn mày và lang thang không nơi cư ngụ, thư viện này thực sự là một Thiên đường.

    Giữa cơn mưa gió mùa đông rét mướt, những đứa trẻ quỳ xin ăn ở đầu đường, với những mảnh áo phong phanh khiến khuôn mặt đỏ rực lên vì, đôi tay cứng đờ không còn cảm giác. Trong ánh mắt chúng, thư viện này chắc chắn giống như một lâu đài tỏa ánh hào quang chói lọi.

    Người quản lí thư viện nói với Tô My, đứa mà họ đang tìm kiếm mấy hôm trước có tới thư viện một lần. Đứa trẻ này bị tàn tật, khớp tay khuỳnh ra phía ngoài, mặc một bộ quần áo vô cùng rách rưới, còn phải lôi một chiếc xe gỗ nhỏ nặng gấp mấy lần trọng lượng cơ thể cậu bé. Trên xe là một đứa trẻ lớn hơn một chút, cả hai chân đều đã tàn phế. Hình dáng chân của đứa trẻ trên xe đã hoàn toàn biến dạng, đứa bé giơ chiếc chậu rửa mặt cũ ra xin tiền. Khi trời đổ trận mưa to, cậu bé khuỳnh tay và cậu bé què chân vào trong thư viện vừa ngồi tránh mưa vừa đọc sách. Người quản lí thư việc rất ấn tượng với cậu bé này, nên khi vừa nhìn thấy ảnh đã nhận ra ngay.

    Tô My trong lòng cảm thấy vừa vui mừng vừa lo lắng. Cuối cùng cũng đã tìm được manh mối về tin tức của Đản Đản, nhưng đứa trẻ tội nghiệp này đã bị những kẻ bắt cóc kia làm cho tàn phế.

    A Đóa hỏi: “Bác có nhớ chúng đọc sách gì không?”

    Người quản lí trả lời: “Đọc truyện tranh, nằm ở tầng cuối cùng của giá sách ấy.”

    Tô My và A Đóa lật mở những cuốn truyện đó. Họ đang ôm một hi vọng, bên ngoài trời lạnh gió to, biết đâu Đản Đản lại tới đây tránh mưa lần nữa. Họ có thể tưởng tượng ra được, một đứa trẻ bị bắt cóc, phải rời xa vòng tay mẹ từ nhỏ, ngồi trên nền đất đọc sách một cách lặng lẽ. Những hình ảnh đáng yêu kia có phải đang khiến cậu bé nhớ lại những kỉ niệm ấu thơ hay không?

    Cậu bé đáng thương! Mong rằng em sẽ chìm vào trong niềm hạnh phúc khi ngồi giữa thư viện này, mà quên đi những đau khổ của cuộc đời.

    Từ những sự sợ hãi tột cùng khi vừa bị bắt cóc, cho tới khi bước chân ra đường bắt đầu xin ăn, trái tim nhỏ bé ấy đã phải chịu đựng biết bao nhiêu đau khổ? Đôi mắt trong sáng kia giống như những vì sao cứ dần dần mờ đi. Nỗi nhớ mẹ là thứ động lực duy nhất khiến cậu sống tiếp chăng? Mỗi ngày mỗi đêm, mỗi giờ mỗi khắc, cậu luôn nhớ đến mẹ mình…

    Họa Long và Bao Triển tìm mọi cách mới gặp được Hắc Bì trong một quán ăn đắt tiền.

    Giữa phòng khách đặt mười mấy mâm cơm, nhưng điều kì lạ là, chỉ có một người ngồi uống rượu, một người nâng cốc, tự mình chuốc say.

    Họa Long và Bao Triển ngồi xuống chiếc ghế đối diện với Hắc Bì. Họa Long lên tiếng: “Hắc Bì! Lâu lắm rồi không gặp!”

    Hắc Bì nhìn thấy Họa Long, không tỏ chút bất ngờ, hỏi: “Tìm tôi có việc gì?”

    Họa Long cố ý nói vòng chuyện khác: “Sao thế? Hôm nay cậu định mời khách à? Cậu đặt nhiều tiệc thế này, tôi tìm cậu uống chén rượu không được sao?”

    Hắc Bì đã ngấm rượu, ánh mắt lờ đờ, nói: “Các anh em của tôi đều vào đó hết cả rồi, một mình tôi ngồi uống rượu cũng không quên bọn họ được.”

    Họa Long đi thẳng vào vấn đề, nói: “Tôi muốn nhờ cậu tìm giúp một người.”

    Hắc Bì nghe thấy vậy, đứng dậy rồi quay người bỏ chạy.

    Họa Long chạy đuổi theo, rồi nhảy một bước lên trước chặn cậu ta lại.

    Cả hai người nhìn thẳng vào mắt đối phương. Hắc Bì đột nhiên tung một cú đá nhanh như cắt, hướng thẳng vào đầu Họa Long. Họa Long gần như cùng lúc cũng xuất cước tung một cú đá vòng cầu. Hai chân họ va vào nhau vang lên như một tiếng nổ đanh thép, khiến ai nghe thấy cũng nổi da gà. Họa Long nhanh chóng phản kích, xoay người về tư thế quyền bên phải, chuẩn bị nghênh chiến Hắc Bì. Hắc Bì không có ý tránh né, cũng làm thế tay quyền rồi chờ đợi. Hai bàn tay rắn chắc với hai luồng sức lực kinh người đập vào nhau, một tiếng nổ vang lên khiến mọi người có phần khiếp sợ.

    Bao Triển có phần hơi căng thẳng, Họa Long và Hắc Bì lại bỗng dưng phá lên cười ha hả, rồi giơ tay khen ngợi võ công của đối phương quả là xuất chúng, chẳng giảm đi chút nào so với năm xưa.

    Họa Long kể với Hắc Bì về lí do mình tìm đến, muốn Hắc Bì giúp đỡ tìm một đứa trẻ ăn xin. Hắc Bì lắc lắc đầu rồi than một tiếng: “Mỗi lần gặp anh là tôi như gặp vận hạn ấy, tôi tránh mặt anh cũng không được sao?”

    Họa Long nói: “Thế chúng ta đánh tiếp.”

    Hắc Bì than thở: “Thôi thôi! Để tôi đưa các anh đi gặp một người vậy.”

    Bao Triển hỏi: “Ai thế?”

    Hắc Bì trả lời: “Ông trùm ăn xin ở Dương Thành chứ ai?”

    Họa Long hỏi ngay: “Ông ta ở đâu?”

    Hắc Bì trả lời: “Hồng Tụ Sơn Trang!”

    Họa Long hỏi lại: “Đó là chỗ nào?”

    Hắc Bì cười ha hả, rồi nói với Họa Long và Bao Triển, đó là một nơi vô cùng thần bí. Nơi giải trí cao cấp nhất, xa hoa nhất trên thế giới này cũng không bì được với một phần trăm của Hồng Tụ Sơn Trang. Đó là Thiên đường mà không người đàn ông nào tưởng tượng nổi.

    So với Hồng Tụ Sơn Trang, thì Thiên đường hạ thế chỉ như một đống bỏ đi không hơn không kém.

    Họa Long nói: “Lầu xanh thời hiện đại hả? Mấy cô ả kĩ nữ trong đó toàn là Hoa hậu Thế giới cả hay sao?”

    Hắc Bì nói: “Để tôi dẫn các anh vào đó mở rộng tầm mắt. Trong đó không gọi là kĩ nữ đâu.”

    Bao Triển hỏi: “Thế gọi là gì?”

    Hắc Bì thì thầm ra điều bí ẩn: “Cung nữ!”

    Chương 4
    Hồng Tụ Sơn Trang

    Hồng Tụ Sơn Trang là một làng nghỉ dưỡng sân Golf do một người phụ trách thu hút đầu tư kéo về cho nơi này. Khu này không kinh doanh với bên ngoài, mà thuộc dạng một câu lạc bộ đắt tiền. Rất nhiều những hạng mục đầu tư lớn của các thành phố lân cận đều được đàm phán thành công ở đây.

    Tại vùng đất Dương Thành tấc đất tấc vàng, trong làng nghỉ dưỡng còn có một sân Golf mang tầm cỡ quốc tế, nước hồ trong vắt, cây cỏ xanh tươi. Trong khu rừng ngay rìa bên cạnh, người ta cho dựng mấy tòa biệt thự ngắm cảnh, ở vị trí giữa cùng là lầu chính của làng nghỉ dưỡng. “Kể từ sau khu xảy ra mấy vụ án, trên tường có gài thêm điện đấy.”

    Bao Triển hỏi: “Có vụ trộm cắp nào à?”

    Hắc Bì trả lời: “Việc lặt vặt ấy mà! Có để đến nhặt bóng thôi!”

    Họa Long nói: “Trong làng nghỉ dưỡng này, tôi cũng chỉ mới nghe mấy vị cấp cao nhắc đến thôi.”

    Những người dân sống ở gần làng nghỉ dưỡng thường vượt tường vào trong sân Gof nhặt trộm bóng mang ra ngoài bán. Những điều đó đều chỉ là chuyện lặt vặt, nhưng lại ảnh hưởng đến việc thu hút đầu tư của vùng, vì thế nó biến thành chuyện lớn.

    Trước cổng làng nghỉ dưỡng có cả người đứng canh gác. Bất cứ ai khi không có giấy mời đều không được phép bước vào trong làng.

    Trước khi gia công thêm hệ thống lưới điện trên tường có kẻ vượt tường vào trong nhặt trộm bóng rồi hỏi một đại gia Hồng Kông: “Vì sao ông lại có tiền như thế?”

    Đại gia người Hồng Kông cúi xuống nói với cậu bé: “Hồi còn nhỏ, tôi cũng nghèo như cậu thôi, chẳng có gì trên người. Bố tôi đưa cho tôi một quả táo, tôi không ăn mà mang quả táo đó bán lại, rồi dùng số tiền kiếm được mua hai quả táo khác, sau đó lại bán đi rồi mua bốn quả…”

    Cậu bé như hiểu ra điều gì đó, nói: “Thưa ngài, hình như cháu hiểu rồi!”

    Đại gia Hồng Kông nói: “Mày thì hiểu cái đếch gì? Sau đó ông bố tao qua đời, tao kế thừa gia sản của ông ấy thế thôi!”

    Bill Gates chắc sẽ không nói với bạn rằng mẹ cậu ta là chủ tịch IBM chứ? Chính bà đã giúp Gates hoàn thành vụ mua bán đầu tiên của đời mình. Trong những cuốn sách của Babbitt, ta chỉ thấy ông nói với mọi người về việc mình đến sàn giao dịch New York vào năm ông tám tuổi, nhưng không ai biết rằng ông ta đến đó chơi lúc tám tuổi là do người cha bấy giờ đang là thành viên quốc hội đưa đến, và mới được chủ tịch tập đoàn Goldmans đích thân tiếp đãi.

    Bí mật của sự thành công không chỉ đến từ những nỗ lực và phấn đấu của bản thân mình, mà còn phải khiến những người đã thành công, trở thành nguồn giúp đỡ khiến cho chúng ta cùng phát triển, cùng nhau sát cánh kề vai với những người đang sắp bước tới thành công, để những kẻ không bao giờ thành công được phải phục vụ chúng ta.

    Trong ngôi làng nghỉ dưỡng này, ngoài những nhà phú thương nước ngoài vô cùng giàu có ra, còn có một vài con cháu của các gia đình thế lực và một số ít những người trong giang hồ cũng được coi là thượng khách. Phú thương cũng là đàn ông, ngoài những lúc đánh golf ra, thì chơi gái và đánh bài cũng là một phần giải trí không thể thiếu được. Những sòng bạc và các địa điểm bán dâm đều có lực lượng xã hội đen nhúng tay vào. Họ có thể giải quyết những việc mà ngay cả cảnh sát cũng chưa chắc giải quyết nổi.

    Sòng bạc của câu lạc bộ phú thương có những người cố định của nhóm rất ít khi chấp nhận người mới gia nhập vào.

    Còn nơi giải trí cao cấp nhất của câu lạc bộ này, là khu vườn mơ ước của tất cả những đàn ông có tiền.

    Hắc Bì cho biết, đối với nơi này các cô kĩ nữ tuyệt nhất trần gian là những nữ sinh viên đại học. Những kĩ nữ của câu ạc bộ Phú Thương này không những phải đảm bảo thông minh, học giỏi, mà còn phải biết nói tiếng nước ngoài, cầm kì thi họa cái gì cũng biết.

    Họa Long và Bao Triển có chút khó hiểu. Kĩ nữ thì chỉ cần phục vụ vấn đề Kỹ nữ, vì sao lại cần giỏi ngoại ngữ? Nhưng khi họ đến làng nghỉ dưỡng, thì cuối cùng cũng được dịp mở mắt.

    Họa Long và Bao Triển đóng giả thành bảo vệ của Hắc Bì. Hai người mặc đồ tây màu đen, đeo kính đen, trong tay Họa Long cầm một túi đô la Mỹ, đó là số tiền dùng để đi đánh bạc của Hắc Bì. Ba người lên taxi chạy thẳng tới làng nghỉ dưỡng. Hắc Bì đến việc mua xe cũng lười. Tất cả các taxi trong thành phố đều là xe chuyên dụng của cậu ta. Không chỉ những lái xe taxi nhìn là nhận ra cậu, mà trong giới xã hội đen ở Dương Thành này, không ai không biết, không ai không nghe uy danh của nhân vật tầm cỡ đại ca này.

    Ba người đi vào trong làng nghỉ dưỡng. Họ phải đi qua một lần máy soi an toàn, bỗng thấy tiếng còi cảnh báo hú lên.

    Nhân viên kiểm tra yêu cầu Họa Long giao nộp thứ đồ vi phạm mà mình mang theo.

    Hắc Bì nói: “Không nộp! Chúng tôi không mang theo dao súng.”

    Nhân viên kiểm tra có phần khó nghĩ. Hắc Bì đang định tỏ vẻ ra mặt, thì trưởng bộ phận bảo vệ chạy lại, vừa đi vừa cười nói: “Anh Hắc Bì đấy ạ! Nó là đứa mới đến, không hiểu quy tắc của chúng ta. Các anh cứ vào trong đi ạ.”

    Trưởng bộ phận trừng mắt với nhân viên kiểm tra, nói: “Đây là anh Hắc Bì, lần sau thì nhớ kĩ lấy nhá.”

    Phòng khách của tòa nhà chính được trang hoàng lộng lẫy, là sự kết hợp hoàn hảo giữa văn hóa phương Đông và nghệ thuật phương Tây. Có khu ngồi uống trà, rượu có một chỗ đọc sách, và có cả một sàn nhảy tự do nữa. Phong cách thiết kế cổ điển, mang phong cách văn hóa truyền thống Trung Hoa.

    Đi xuyên qua phòng khách, họ bước vào một đoạn hành lang bí mật. Cuối hành lang có người đứng canh gác. Người chịu trách nhiệm kiểm tra một lượt thẻ hội viên của Hắc Bì, rồi nở nụ cười, mở cửa mời họ vào. Bên kia cánh cửa không ngờ còn có những thứ kinh thiên động địa hơn. Những đình đài lâu các mọc khắp nơi, đi ngang qua vườn hoa, những gì lọt vào mắt họ là một tòa cung điện nguy nga tráng lệ. Phía trước cánh cửa gỗ sơn son, có hai người vệ sĩ mặc đồ cổ trang đứng canh gác.

    Họ kiểm tra thẻ hội viên một lần nữa, rồi mới mở cửa mời ba vị khách vào. Bao Triển và Họa Long thực sự vô cùng kinh ngạc, vì xuất hiện trước mắt họ lúc này là một một hoàng cung vô cùng lộng lẫy.

    Tất cả những thứ trong đó đều mô phỏng y nguyên theo các thiết kế của cung điện cổ, bất cứ ai bước vào đây cũng đều nghĩ rằng mình vừa trở về với thế giới xa xưa.

    Một người thị nữ mặc đồ cổ trang màu trắng từ từ tiến lại, hạ mình chào hỏi, rồi bỗng nói một câu thật kì lạ: “Hoàng thượng cát tường!”

    Hắc Bì cười ha hả, rồi nói: “Bình thân!”

    Vị thị nữ mặc đồ cổ trang kia nói: “Nô tì hầu hạ Hoàng thượng thay đồ ạ!”

    Họa Long và Bao Triển quay sang nhìn nhau, trong lòng nghĩ, người có tiền cũng thật lắm trò tiêu khiển.

    Một tên khách làng chơi đến đây bỗng biến thành Hoàng thượng, cũng thật là điều hiếm gặp.

    Cô thị nữ mặc đồ cổ trang nhẹ nhàng gót ngọc, đưa ba người họ vào phòng tắm dành cho các Hoàng đế – Hồ Hoa Thanh. Trong hồ, nước suối nóng đang cuồn cuộn, cánh hoa rơi trên mặt nước, bốn người đẹp cổ trang quỳ một bên, nhìn thấy Hắc Bì thì vội bước lại hành lễ rồi đi tới phụ giúp cởi đồ cho “Hoàng đế”, sau đó đỡ “Hoàng đế” xuống hồ nước. Hắc Bì nằm ngả vào lòng một người đẹp rồi nhắm mắt lại từ từ hưởng thụ. Những người xung quanh bắt đầu giúp hắn tắm, bón đồ ăn, rồi còn cả người mát-xa cho khách. Một lát sau, bốn cung nữ nhỏ bé đỡ Hắc Bì đứng dậy, dùng mật ong xoa khắp người hắn.

    Họa Long và Bao Triển có phần ngượng ngùng, và nghĩ Hắc Bì sẽ vui vẻ một trận ở đây rồi thôi, không ngờ bốn cô cung nữ bấy giờ mới mặc long bào lên cho cậu ta, và vở kịch bây giờ mới thực sự bắt đầu.

    Họa Long và Bao Triển cũng thay sang đồ cổ trang, bốn cô cung nữ đưa ba người họ vào Chánh điện.

    Trong Chánh điện, bảy mỹ nữ cổ trang đang múa hát. Họ mặc trên người những bộ đồ tơ lụa mỏng manh nhiều màu sắc, cơ thể tuyệt mĩ thoắt ẩn thoắt hiện. Mỗi người họ mang một vẻ đẹp riêng, mắt long lanh như nước mùa thu, múa những điệu múa đẹp tuyệt vời trên nền nhạc cổ. Những ống tay áo dài phất qua phất lại, váy áo lượt là trông chẳng khác nào những nàng tiên giáng trần.

    Trên sập gỗ, một tuyệt thế giai nhân đang ngồi ôm đàn, từ xa nhìn lại cảm giác vô cùng ung dung cao quý, đến gần lại có khí chất thanh tao của loài Lan dại, nhan sắc tuyệt trần, đây có lẽ là… Hoàng hậu.

    Hoàng hậu đứng dậy hành lễ, rồi miệng hé nụ cười, ánh mắt đưa tình, khiến ba vị khách chưa uống đã say.

    Hắc Bì ôm Hoàng hậu vào lòng, hỏi: “Nàng là người ở đâu thế?”

    Hoàng hậu trả lời: “Bẩm Bệ hạ, thần thiếp là người Yên Triệu.”

    Hắc Bì lại hỏi: “Nàng đến đây bao lâu rồi? Sao lần trước tới trẫm không thấy? Về sau nhất định trẫm sẽ lui tới thường xuyên.”

    Hoàng hậu trả lời: “Phòng loan đóng cửa đợi chàng, hận sầu thiên cổ sao nàng khổ đau. Quỳ hoa dẫu đợi bao lâu, trăng tàn nguyệt tận mong cầu người sang.”

    Hắc Bì nói: “Nàng nói văn hoa chữ nghĩa ta nghe chẳng hiểu là bao. Thôi, chúng ta cứ vui vẻ thôi!”

    Hoàng hậu nhìn Hắc Bì một cách tình tứ, rồi từ từ e thẹn ngồi xuống, ngả vào lòng Hắc Bì.

    Bảy mỹ nữ khác cũng tiến lại hầu hạ, một cảnh tượng đậm chất cung đình hiện ra trước mắt.

    Họa Long và Bao Triển không dám nhìn thẳng, họ bấy giờ cũng đang trong vở diễn với vai trò Đới đao thị vệ của Hoàng thượng…

    Một lát, Hắc Bì lại nằm nghỉ ngơi, để Hoàng hậu và các phi tần bóp vai, dâng trà rót nước, sau đó lại mặc long bào vào cho “Hoàng đế”. Hắc Bì lấy tiền đô trả cho họ, rồi dẫn Họa Long và Bao Triển đến sòng bạc. Trong sòng bạc, các loại thiết bị “nhà nghề” đều đầy đủ. Mặc dù không nhiều người, nhưng họ đều tiền lưng vạn lượng, túi nhét ngàn vàng, đây là nơi dành riêng cho những con bạc giàu có.

    Hắc Bì dùng tiền đô đổi lấy những đồng xu. Một vài vị khách đang đứng trước bàn chơi Show-hand. Tiến gần về phía bên trái người cầm cái có một người thanh niên tóc dài, trong miệng đang ngậm một điếu thuốc, miệng lẩm bẩm chửi thề, xem ra hắn ta vừa thua không ít.

    Hắc Bì thì thầm giới thiệu với Họa Long, người đó chính là ông trùm ăn xin của Dương Thành, tên là Hàn Lộ Quản.

    Hàn Lộ Quản không phải họ Hàn, đây chỉ là một biệt danh, khi hắn còn ở trại cải tạo thanh thiếu niên.

    Sau khi ra tù, mọi người vẫn gọi hắn là Hàn Lộ Quản, hắn trở về tập hợp các thành phần bất hảo trong xã hội, cấu kết với những cảnh sát biến chất, thu tiền trật tự trị an của dân, đặc biệt là thu tiền bảo hộ của những người ăn xin ăn mày. Thế lực của hắn ngày càng lớn mạnh, trở thành một tập đoàn xã hội đen khét tiếng ở Dương Thành. Cái bang không tồn tại, nhưng ở rất nhiều thành phố, ăn mày ăn xin đã trở thành một nghề, một tập đoàn, và còn mang cả tính chất xã hội đen vào đó nữa.

    Hắc Bì ngồi xuống chiếc bàn Show-hand, rồi lên tiếng chào hỏi những vị khách xung quanh.

    Hàn Lộ Quản nghiện thuốc rất nặng, hút hết điếu này sang điếu khác.

    Hắc Bì lên tiếng chào hỏi: “Hàn Lộ Quản, tôi có cách để chú cai thuốc được đấy, có khi còn cai được cả sở thích “lộ quản” nữa ấy chứ.”

    Hàn Lộ Quản trả lời: “Anh Hắc Bì à! Giờ em không “lộ quản” nữa rồi.”

    Mọi người xung quanh nghe vậy thì bật cười ha hả, Họa Long và Bao Triển cũng không kìm chế nổi cười theo.

    Bên ngoài trời đã tối, xem ra những vị khách ở đây muốn chơi hết đêm đây.

    Đèn đường đã bật, các tình nguyện viên vẫn đang tìm kiếm Đản Đản. Giáo sư Lương vừa suy nghĩ vụ việc vừa chỉ huy mọi người hành động. Giáo sư yêu cầu tất cả các tình nguyện viên không chỉ tìm kiếm Đản Đản, mà còn phải tìm kiếm cả những nhân chứng khác. Việc một đứa trẻ nhỏ kéo chiếc xe gỗ lớn đi ăn xin trên đường phố, lại có thêm một đứa trẻ tàn tật ngồi trên là điều rất dễ khiến người qua đường để ý.

    Cùng với việc các bên liên tục gửi thông tin về, giáo sư Lương đã co hẹp phạm vi tìm kiếm, và xác định đó là khu vực Bành Hộ thuộc Dương Thành.

    Các tình nguyện viên đã hỏi thăm được rằng ở khu vực này có nhiều người từng thấy Đản Đản. Căn cứ vào thời gian xuất hiện và đường đi, có thể xác định rằng Đản Đản sống trong khu Bành Hộ.

    Những người sống ở khu vực này đều là dân lao động. Năm hết tết đến, hầu như họ đều đã về nhà, bỏ lại rất nhiều những căn phòng tạm bợ, và một số ăn mày lấy đó làm chỗ ở tạm thời.

    Khu Bành Hộ cách xóm ăn xin không xa. Cụ bà nghe tin này thì không thể ngồi yên tại chỗ được nữa, một mực đòi đi tìm cháu mình.

    Giáo sư Lương cố gắng nhẫn nại khuyên giải, để cụ bà yên tâm chờ đợi, nhưng cụ vẫn nhất quyết bỏ ra ngoài, thần thái có vẻ bất thường. Giáo sư Lương ngồi trên xe lăn không thể ngăn nổi bà cụ. Một lát sau, giáo sư bắt đầu lo lắng việc bà cụ có thể đi lạc. Ngõ ngách trong những làng giữa phố này giống như mê cung, những ngôi nhà ở khu Bành Hộ thì tạm bợ không an toàn, bà cụ tuổi đã cao lại không quen biết gì, sẽ rất dễ đi lạc giữa thành phố.

    Giáo sư Lương gọi điện thoại cho cảnh sát Tiểu Mã xin giúp đỡ, để cậu ta lái xe đến khu Bành Hộ đón bà cụ về.

    Vài tiếng đồng hồ trôi qua, vẫn không thấy bà cụ trở về.

    Gáo sư Lương bắt đầu sốt ruột, trong lòng nghĩ, các tình nguyện viên tìm thấy Đản Đản chỉ còn là chuyện một sớm một chiều, bây giờ bà cụ lại đi lạc mất thì rắc rối.

    Trong sòng bạc, Hắc Bì hôm nay số đỏ, những đồng xu trước mặt chất lên thành núi. Hàn Lộ Quản thì ngược lại, chỉ còn lại mấy cắc trước mặt. Họa Long và Bao Triển không dám có hành động lộ liễu ở nơi được phòng vệ kĩ càng này. Họ định đợi đến khi Hàn Lộ Quản không còn xu dính túi, rời khỏi đó, sẽ tìm hắn để điều tra về việc của Đản Đản.

    Bao Triển bỗng nhiên nhớ lại lời của A Đóa. Cô từng nhìn thấy một người thanh niên tóc dài bẻ tay một đứa trẻ.

    Chẳng lẽ người thanh niên tóc dài mà A Đóa nhắc đến chính là hắn?

    Điện thoại của Hàn Lộ Quản bỗng reo lên. Theo quy định của sòng bạc, bất cứ đồ cá nhân nào của khách cũng không được phép đặt trên bàn, để tránh trường hợp khách giở trò gian lận. Hàn Lộ Quản đứng sang một bên nghe điện thoại, Bao Triển liếc nhìn số điện thoại, cảm giác có phần quen thuộc, nhưng nhất thời chưa nhớ ra.

    Hàn Lộ Quản nghe điện thoại, mặt biến sắc, đầu dây bên kia có thể đang nói với hắn một việc gì đó vô cùng quan trọng. Hắn vội vàng rời khỏi sòng bạc.

    Họa Long và Bao Triển không kịp chào Hắc Bì, vội vàng đi theo. Nhưng đây là lần đầu tiên họ đến nơi này, chỉ nhớ đường vào, mà Hàn Lộ Quản lại ra bằng cửa sau, nên Họa Long và Bao Triển phải mất một khoảng thời gian mới theo được hắn ra bãi để xe. Hàn Lộ Quản đã nổ máy, Họa Long và Bao Triển chỉ biết nhìn hắn lái xe vụt qua trước mắt.

    Bao Triển nói: “Tôi nhớ ra đấy là số điện thoại của ai rồi.”

    Họa Long hỏi: “Ai?”

    Bao Triển trả lời: “Nhưng lạ thật? Sao họ lại quen nhau được nhỉ?”

    Gần khu Bành Hộ có một công trường xây dựng, xung quanh không một bóng người, hai chiếc xe đối đầu dừng lại một chỗ. Cả hai xe đều không tắt máy. Bên rìa một hố trong công trường có đỗ một đống cát, xem ra những phụ hồ ở đây chưa kịp lấp hố đã vội bỏ về quê ăn tết rồi.

    Trong bóng đêm, hai con người cầm xẻng, xúc cát đổ xuống hố.

    Trong hố có hai người, một bà cụ ngồi dưới hố ôm chặt lấy đứa cháu nội đáng thương.

    Chẳng mất mấy thời giờ, cả cái hố sẽ được lấp đầy, và hai sinh mạng kia sẽ bị chôn sống.

    Đứa trẻ vừa khóc vừa nói: “Bà ơi! Có cát! Bụi mắt!”

    Người bà ôm ấy đứa cháu, an ủi: “Một lát nữa là không bụi nữa thôi!”

    Chương 5
    Sào huyệt của ác quỷ

    Sau khi Đản Đản bị bắt cóc, suốt mấy tháng ròng, mẹ cậu bé đều không xuống nổi khỏi giường, tinh thần hoảng loạn. Người mẹ dường như đã khóc hết nước mắt, đôi khi còn gặp ác mộng. Cô mơ một ngày khi mở mắt ra, rời khỏi cơn ác mộng, đứa con yêu quý sẽ trở về bên mình. Nhưng hết lần này đến lần khác, giấc mộng của cô không trở thành hiện thực. Người mẹ cả ngày chỉ biết nhớ con, gọi tên con, hỏi con ở đâu, con có lạnh không, con có cơm ăn không, con có nhớ mẹ không?

    Người chồng tim đau như cắt, nói với vợ: “Chúng ta… cứ coi như con đã chết rồi vậy!”

    Người vợ gào thét lên như một kẻ điên dại: “Không! Không! Không! Con tôi không chết!”

    Bà nội đứa trẻ bất kể gia đình phản đối, thu xếp khăn gói, cầm một chiếc gậy ra đi. Bà cụ đầu đã bạc này ôm bức ảnh đứa cháu vào lòng, quyết tâm đi khắp nơi tìm bằng được đứa cháu nội.

    Đây là một đoạn đường gian khổ và dài đến mức nào.

    Bà nội, cũng là một người mẹ đã già nua!

    Bất luận ở nông thôn hay thành thị, phần đa những đứa trẻ Trung Quốc đều được bà nội nuôi nấng đến khi thành người. Đây là một phương thức giáo dục truyền thống, khiến mỗi đứa trẻ đều có những kỉ niệm đẹp về bà.

    Bà nội giống như vầng mặt trời soi chiếu tuổi thơ, là điều khiến những đứa trẻ sau khi trưởng thành mỗi khi quay đầu nhìn lại đều cảm thấy nhớ thương.

    Mỗi bé trai chính là một chòm sao hạnh phúc, có những vệ tinh và hành tinh, tất cả người thân đều quay xung quanh cậu bé. Không có gì để nghi ngờ về việc người mẹ cho rằng đứa trẻ của mình là đứa bé đẹp nhất trên đời. Bà nội thì luôn cho rằng dù có yêu thương cháu mình đến đâu cũng không bao giờ là đủ. Thậm chí có những lúc, bà nội còn bảo vệ cháu mình như một con chim ưng bảo vệ chim non khi bố mẹ chúng có gì tức giận.

    Đứa trẻ cũng không phải chưa biết gì. Có những câu triết lí chỉ những đứa trẻ ngây thơ mới có thể nói ra được.

    Các nhà khoa học và nhà triết học trước nay đều không thể giải thích được tình yêu là gì. Một cậu bé mẫu giáo đã trả lời một câu kinh điển như thế này: “Tình yêu! Là hãy ôm ấy người khác!”

    Cậu bé thống trị những vì sao trên bầu trời, quản lí trăm hoa dưới đất, mỗi đứa trẻ đều là một Thiên sứ, và mỗi gia đình là một Thiên đường. Thế nhưng, địa ngục có ở khắp nơi. Bất cứ lúc nào, bên cạnh chúng ta cũng có thể bật mở một cánh cửa dẫn vào địa ngục. Những đứa trẻ còn đang ê a tập nói, khi đã học được cách gọi bố, mẹ, ông, bà, các bậc cha mẹ bắt đầu dạy chúng cách nói địa chỉ gia đình mình, ghi nhớ tên bố mẹ. Điều đó cho thấy trong thâm tâm các bậc sinh thành, luôn có một nỗi sợ ẩn hiện như một bóng ma giữa cuộc đời: Bắt cóc!

    Một đứa trẻ đang sống giữa gia đình hạnh phúc bị quẳng ra đầu đường sương gió.

    Một đứa bé lẽ ra được sống trong nhung lụa giàu sang lại phải vác trên mình xiềng xích.

    Một đứa con đáng được ôm trong vòng tay mẹ, chơi đùa trên lòng cha, bỗng dưng biến thành một thứ công cụ xin tiền chẳng khác gì những con chó con mèo hoang giữa đường giữa chợ.

    Tất cả những điều đó, chúng ta phải đối mặt thế nào đây?

    Mất đi một đứa trẻ, ít nhất sẽ có ba gia đình tan vỡ: bố – mẹ, ông nội – bà nội, ông ngoại – bà ngoại. Cả ba gia đình chìm trong tiếng khóc và nước mắt, ba gia đình gặp phải bão táp phong ba. Biết bao ông bố bà mẹ từ đó mà tinh thần trở nên bất thường, biết bao người ông người bà từ ấy mà đổ bệnh, rồi giã từ trần thế.

    Chúng ta phải đặt một câu hỏi, trong thời đại lấy con người làm gốc hiện nay, những kẻ phạm tội bắt cóc lại được xử tội nhẹ hơn những kẻ buôn bán thuốc phiện, như vậy cán cân công lí liệu có nghiêng về một bên không?

    Một đứa trẻ quỳ trên đường, nghĩa là đang trần thuật lại tội ác của cả nhân loại.

    Những đứa trẻ ăn xin giống như những quái vật kì dị giữa thành phố. Cha mẹ đẻ của thứ quái vật ấy mang tên lãnh đạm một cách oan ức và thấy cũng coi như không!

    Sự bộc phá của người phụ nữ đôi khi ngoài sức tưởng tượng. Một người mẹ có thể lấy thân mình chèn trước bánh xe để cứu đứa con thơ dại. Một người bà vì tìm kiếm cháu có thể lang thang khắp các thành phố biết bao tháng ngày. Trong những ngày xin ăn ấy, bà gặp được vô số những người tốt bụng, những người này đều đến từ một nơi gọi là – Làng hỏi han. Đó là nơi sinh sống của những người hỏi han từ khắp các miền đất nước. Họ cũng lang thang đầu đường xó chợ, dưới gầm cầu trong công viên, trong đường hầm.

    Bà cụ là một người may mắn vô cùng khi gặp được tổ chuyên án. Việc phá một vụ huyết án vô cùng lớn và giải cứu một linh hồn trẻ thơ vô tội đều quan trọng như nhau. Bà cụ và tổ chuyên án đều tin tưởng rằng họ có thể tìm được Đản Đản, và họ hạnh phúc. Những ai không có lòng tin vào bất cứ điều gì sẽ không thể nào cảm nhận được sự hạnh phúc ấy. Bà cụ nghe tin Đản Đản đang ở khu Bành Hộ, thì giống như được nạp điện. Đã trải qua biết bao nhiêu khổ nạn và chua cay, cuối cùng cũng nhìn thấy có chút ánh sáng mặt trời, và theo phản ứng, bà cụ sẽ chạy đến nơi phát ra thứ ánh sáng diệu kì ấy.

    Sau đây là cả quá trình:

    Bà cụ đã gần tám mươi tuổi này tinh thần như được lên cót, đưa tay chống gậy, bước qua những con ngõ chất đầy rác rưởi, ra khỏi khu làng giữa phố bẩn thỉu và hôi hám kia. Suốt dọc được vừa đi vừa hỏi, đến được khu Bành Hộ. Các công trường xung quanh đầy những lều bạt và chỗ ở tạm thời. Khu Bành Hộ chính là một khu ổ chuột nghèo đói, những người phụ hồ đến đây làm việc đều đã về quê ăn Tết, xung quanh yên ắng vô cùng, một ngọn đèn đường lờ mờ chiếu xuống.

    Ở góc đường nọ, bà cụ gặp phải bọn cướp. Hai đứa trẻ đứng nhòm ra từ trong ngõ nhỏ. Một đứa lớn một đứa nhỏ, đứa nhỏ tầm mười tuổi, đứa lớn khoảng mười bốn! Chúng thì thào vài câu rồi xông ra tay đấm chân đá, đánh ngã bà cụ xuống đường.

    Đứa lớn có vẻ như là một kẻ trộm nhà nghề, chẳng mấy chốc đã moi được túi tiền giấu kĩ của bà cụ.

    Hai đứa bé đều ăn mặc rách rưới, vừa là ăn xin vừa là ăn trộm. Những đứa nhỏ này mỗi ngày đều phải hoàn thành nhiệm vụ nhất định, nếu không kiếm đủ tiền về, chúng sẽ phải ăn đòn thừa sống thiếu chết. Để tránh đòn roi, chúng chỉ còn cách giao nộp sạch sành sanh những gì kiếm được. Những kẻ ăn xin ở với nhau đã thành một tập quán. Ngoài việc phải giao nộp tiền bảo kê cho nhưng kẻ xã hội đen, chúng không phải nộp bất cứ khoản gì khác. Có những kẻ ăn xin hàng tháng có thể thu nhập đến hàng vạn tệ. Một vốn bốn… mươi lời, điều đó khiến càng ngày càng có nhiều đứa trẻ bị bắt cóc rồi ép vào những chốn như thế này.

    Bà cụ đứng dậy, lê lết từng bước vào trong sào huyệt của bọn yêu ma kia.

    Hai đứa trẻ vừa ăn cướp nhanh chóng trở về chỗ ở. Đó là một căn phòng tạm bợ xây bằng gạch đá, nồi niêu xoong chậu la liệt dưới đất. Trong phòng còn có ba người khác, một đứa bé trai khoảng sáu tuổi ôm đầu gối ngồi thu lu một góc nhà, một người già đang ngủ trên giường, trước cửa có một chiếc xe kéo bằng gỗ, ngồi bên cạnh xe là một người phụ nữ đang đếm tiền lẻ.

    Đứa trẻ lớn lên tiếng khoe chiến tích: “Hôm nay cháu vừa tẩn một mụ già một trận ra trò, cháu biết đánh nhau rồi đấy nhá!”

    Đứa trẻ mười tuổi ấy chỉ vào mũi mình, nói: “Còn cả cháu nữa, cháu cũng đánh!”

    Người phụ nữ cười to rồi nói: “Lần sau, chúng mày thử đi kiếm thằng người lớn ấy.”

    Đứa lớn nói: “Tiền đây! Cho cô!”

    Đứa lớn lấy ra một bọc ni lông, bên trong là một cuộn tiền. Người phụ nữ đưa tay giật lấy, rồi móc tiền ra đếm, sau đó vo đống túi thừa lại ném vào một góc. Đứa bé nãy giờ vẫn im lặng trong góc nhà, quầng mắt thâm đen, vừa bị đánh một trận mà không dám kêu nửa tiếng. Đứa trẻ đáng thương đó chính là Đản Đản.

    Nếu là một người lớn, có lẽ sẽ nhặt chiếc túi lên, kiểm tra kĩ càng xem có gì trong đó không. Nhưng đứa trẻ ngốc nghếch này đâu dám làm gì, chỉ ngồi đó, nhìn chiếc túi lăn trong góc tường mà không dám động đến.

    Đợi đến khi đã không còn ai chú ý đến nó nữa, cậu bé mới cúi xuống, vừa cúi vừa ôm mông vì đau, và trong giây lát cậu nhìn chiếc túi rồi gọi một tiếng: “Bà nội!”

    Mỗi một đứa trẻ nhỏ đều nhớ như in hình ảnh chiếc túi tiền của bà nội.

    Đó là túi tiền của bà nội, một chiếc túi ni lông, khăn tay, và túi vải hay đặt trong giỏ rau đi chợ. Túi tiền của bà nội giống như một chiếc hộp nhiệm màu, có thể mua cho những đứa trẻ rất nhiều, rất nhiều đồ ăn ngon.

    Trước giờ bà luôn rất tiết kiệm và giản dị, chẳng dám tiêu tiền hoang phí, mỗi lần mua được thứ gì thì vô cùng quý trọng. Đản Đản vẫn còn nhớ rất rõ, bà nội thường xuyên mở chiếc túi này mua cho cậu những túi snack khoai tây giòn tan ngon tuyệt.

    Bà nội, chúng con nhớ bà nhiều lắm. Chúng con mãi yêu thương bà!

    Bà nội, bà cầm bàn tay nhỏ bé của chúng con, dắt chúng con qua con đường đông đúc, đó là một quãng đường đã sớm chẳng còn trên đời nhưng mãi sống trong tim con.

    Bà nội, bà dắt chúng con đi qua những ngày tháng nghèo đói, đó là những gì con luôn nhớ đến mỗi khi ngồi một mình trong ngôi trường đại học xa nhà.

    Bà nội, bà dắt chúng con đi qua bốn mùa xuân hạ thu đông, thật chậm, thật chậm, rồi bà không bước đi được nữa, đến khi chúng con muốn báo hiếu, bà đã không còn nữa rồi, chỉ còn lại sự nhân từ và nụ cười phúc hậu vẫn in hằn trong trí nhớ chúng con.

    Đợi đến khi chúng ta lớn lên, bà nội đã về với mây gió, chỉ để lại những hình ảnh hiền từ. Chúng ta đi khắp góc bể chân trời, bận rộn vì cuộc sống, bước trên những con đường dài thật dài, nhưng đến một ngày, chúng ta sẽ không bao giờ còn nhìn thấy bà nội nữa.

    Khẽ gọi một tiếng bà nội, để nước mắt tuôn chảy như mưa!

    Đôi mắt của Đản Đản lẩn khuất sau một đám mây đen, đó là do cậu thường xuyên khóc. Giây phút này đây mắt cậu như có một tia sáng hi vọng. Nhưng, cậu lại bỗng sợ hãi vô cớ, nhìn khắp bốn phương. Mỗi cử chỉ hành động của người khác, đều làm lộ ra vẻ sợ hãi của cậu từng phút từng giây cậu đều lo sợ bị đánh, sợ những cái véo của người phụ nữ kia và những trận đòn sấm chớp của ông già. Cậu run rẩy co vào một góc, như một chú mèo con sợ sệt, rồi bốc ăn những miếng thức ăn đã thiu hỏng từ bao giờ. Sau khi ăn xong, cậu nằm xuống dưới thảm, muốn nhắm mắt ngủ.

    Ban đầu, khi Đản Đản mới bị bắt cóc, cậu thấy nhớ bà nội biết bao.

    Đứa trẻ này không còn tìm được đường về nhà, vô cùng sợ hãi. Để đối phó với sợ hãi, cậu chỉ còn biết nhắm mắt mong chìm vào giấc ngủ. Nhưng chẳng mấy chốc, cậu lại giật mình tỉnh dậy, hoặc có thể cậu chưa hề ngủ chút nào. Đôi mắt cậu lại sợ hãi, từ từ nhìn bốn xung quanh xét nét. Cậu bé ngồi đó, giữa bóng tối bao trùm, có đứa trẻ nào không sợ bóng tối đâu. Đối mặt với bóng đêm, Đản Đản cố căng mắt để không khóc. Một khuôn mặt trẻ thơ vì sợ hãi mà trở nên trắng nhợt. Cậu bé sợ đến mức chẳng dám khóc. Khẽ chớp chớp mắt, một giọt lệ nặng trĩu rơi từ khóe mắt cậu bé xuống, không cầm nổi cảm xúc, lại một giọt, rồi một giọt nữa cứ thế tuôn rơi.

    Một tâm hồn bé nhỏ làm thế nào để vượt qua được nỗi sợ hãi này? Suốt cả buổi tối, cậu chỉ có cảm giác cô độc và lạnh lẽo, không giây phút nào không nhớ về mẹ.

    Cuối cùng, cậu lấy hết can đảm mà bật khóc, trong tiếng khóc hòa lẫn tiếng gọi mẹ ơi!

    Tên bắt cóc bẻ gãy cánh tay cậu. Kể từ đó, cậu không còn dám chống đối, không còn dám khóc, thậm chí không dám cất lời nói. Thằng bé lớn lúc nãy lôi chiếc xe gỗ xuống phố, để thể hiện cho mọi người thấy trên xe có một đứa trẻ gãy tay, chính là Đản Đản. Những kẻ ăn mày xấu số sẽ dễ dàng nhận được sự thương cảm và đồng tình của nhân loại hơn. Rất nhiều ăn mày đều biết cách giả tạo cảnh tật nguyền hoặc bệnh hoạn. Giữa tiếng gào đau khổ ấy, cánh tay của Đản Đản dần dần biến thành dị hình. Sau này, đổi lại thành Đản Đản kéo xe, một đứa trẻ khác vòng chân lên trên cổ mình, giả vờ là người tàn tật để xin tiền.

    Những đứa trẻ nhỏ bé nghĩ rằng những con đường dài xa tít kia rồi sẽ có điểm cuối. Chúng cố gắng kéo chiếc xe gỗ đi mãi. Đó không phải một cỗ xe đồ chơi, mà là một cỗ xe cở thú cưng. Cảnh tượng hai đứa chúng chẳng khác gì một con mèo đang kéo một con voi một cách chật vật.

    Chỉ khi nào trời mưa, Đản Đản và cậu bé ăn mày trên xe mới có được những giây phút nghỉ ngơi. Chúng đến thư viện để tránh mưa.

    Từng có một người cha mang theo đứa con trai của mình đến “chất vấn” vị quản lí thư viện rằng tại sao một nơi như thế lại có thể để cho ăn mày bước vào? Lí do của người cha rất xác đáng, đôi bàn tay của những kẻ ăn xin ăn mày kia vừa đen đúa vừa bẩn thỉu, chúng sẽ làm dơ bẩn những cuốn sách ở đây, rồi những thứ bẩn ấy sẽ gây hại cho con cháu của họ.

    Người cha nói: “Thư viện mở cửa với cả ăn mày, tôi không hiểu các ông nghĩ nó có tác dụng gì hả?”

    Vị quản thư viện đáp: “Tác dụng của nó là làm giảm đi nghiệp ác của chúng ta. Tác dụng của nó là giúp những đứa trẻ, không cha không mẹ có một bến bờ che chở, dù đó chỉ là nhất thời. Tác dụng của nó là giúp những đứa trẻ không có ăn không có mặc có một nơi để tránh cơn gió lạnh, khiến những người ăn mày run cầm cập vì lạnh giá đó được chút ấm áp từ những đồng loại xung quanh. Thư viện không chỉ dùng để truyền bá tri thức mà nay còn có một sứ mệnh vĩ đại hơn, đó là bảo vệ những đứa trẻ khốn khổ ấy.”

    Thiên đường là có thật, địa ngục cũng có thật, và cả hai nơi đó đều luôn ở rất gần chúng ta.

    Cụ bà từng là lính trinh sát. Cụ lần theo hai đứa trẻ về tới tận cửa. Nhờ thứ ánh sáng yếu ớt trong gian nhà, cụ nhìn thấy Đản Đản đang ngồi co ro nơi góc tường.

    Cụ thở hắt ra mệt nhọc, có chút chóng mặt muốn ngất xỉu. Trải qua biết bao gian khổ, cuối cùng cụ đã tìm được đứa cháu yêu quý của mình. Lẽ ra phải liên lạc với tổ chuyên án để giải cứu cậu bé, nhưng cụ không thể khống chế nổi sự nóng vội và cảm tính của mình cụ chống gậy rồi dùng một thứ dũng khí lạ kì, bước cà nhắc vào trong gian nhà.

    Những người trong đó đều vô cùng kinh sợ, chằm chằm nhìn cụ bà.

    Đản Đản ngẩng đầu lên, nhìn ra bà nội, mắt cậu ngấn nước.

    Bà cụ cũng lệ hai hàng, không nói lời nào, bước vào lôi tay cậu bé định rời khỏi đó. Người phụ nữ kia đã đứng trước mặt chặn đường, hai đứa trẻ ăn mày vừa rồi lại chạy lên đấm đá. Bà cụ dường như đã không còn cảm giác của sự đau đớn, chỉ còn một niềm tin rằng mình phải đưa đứa cháu nội rời khỏi đây, dù chết cũng không buông tay.

    Hai bên giằng co nhau ra tới tận ngoài đường, đúng lúc một chiếc xe cảnh sát ngang qua.

    Cảnh sát Tiểu Mã giơ chân đạp người phụ nữ kia ngã sang một bên, rồi thì thầm nói gì đó không rõ, nhưng trong đó có nhắc đến Hàn Lộ Quản. Người phụ nữ nghe thấy cái tên đó thì bỏ cuộc, rồi trở về gian nhà kia dọn dẹp đồ đạc, xem ra họ phải bỏ đi ngay trong đêm nay. Tiểu Mã đưa bà cụ và đứa trẻ lên xe rồi hỏi vài câu sơ sơ. Biết cụ chỉ đến đây có một mình, Tiểu Mã liền gọi một cuộc điện thoại.

    Hàn Lộ Quản nhanh chóng lái xe trở về. Trước khi chôn sống hai bà cháu, Hàn Lộ Quản và Tiểu Mã có nói chuyện với nhau thế này:

    Tiểu Mã: “Hai tên này không dễ xử lí, tổ chuyên án là người từ Trung ương về.”

    Hàn Lộ Quản: “Tôi thu tiền bảo kê, nhưng đã chia cho anh một nửa rồi.”

    Tiểu Mã: “Chúng ta đã ngồi trên cùng một chiếc thuyền rồi.”

    Hàn Lộ Quản: “Tổ chuyên án mà anh nói ở đâu?”

    Tiểu Mã: “Không ở đây.”

    Hàn Lộ Quản: “Họ không biết sự việc?”

    Tiểu Mã: “Không biết họ lên xe của tôi.”

    Hàn Lộ Quản: “Thế thì đơn giản thôi.”

    Tiểu Mã: “Đơn giản như thế nào? Bọn tình nguyện viên cũng đang đi tìm thằng nhóc rồi.”

    Hàn Lộ Quản: “Để chúng khỏi tìm thấy là xong.”

    Gần công trường có một cái hố chưa lấp cát. Xung quanh không có một ai. Hàn Lộ Quản và Tiểu Mã vì muốn che giấu hành vi tội ác của mình, đã nhẫn tâm đẩy hai bà cháu xuống hố, định chôn sống họ.

    Từng xẻng cát lấp xuống, chẳng mấy chốc nữa thôi hai bà cháu sẽ biến mất không một dấu vết.

    Bà cụ không xin tha chết. Cũng có thể, cụ biết rằng dù có xin cũng không ích lợi gì.

    Bao Triển có trí nhớ hơn người, chỉ nhìn qua một lần có thể khiến anh ghi nhớ rất lâu. Tiểu Mã từng để lại số điện thoại cho tổ chuyên án. Bao Triển phát hiện ra số điện thoại hiển thị trong cuộc gọi của Hàn Lộ Quản chính là số của Tiểu Mã, điều đó chứng tỏ họ quen biết nhau. Khi lãnh đạo cục cảnh sát thành phố giới thiệu Tiểu Mã cho tổ chuyên án, có nói rằng Tiểu Mã là người phụ trách công tác cứu trợ và giúp đỡ các trẻ em lang thang, cơ nhỡ. Hàn Lộ Quản chính là một phần tử xã hội đen, một kẻ chuyên vơ vét tiền xương máu của những người làm nghề này. Theo cả hai hướng phân tích, đều có thể phán đoán được mối quan hệ của bọn họ. Tiểu Mã và Hàn Lộ Quản cấu kết với nhau, đó là kết luận không còn gì để chối cãi nữa.

    Bao Triển gọi điện thoại cho giáo sư Lương. Giáo sư cho biết Tiểu Mã đã đi đến khu Bành Hộ tìm bà cụ, cộng thêm phần kết luận phía trên để phân tích vấn đề, thì rất dễ dàng đoán ra Tiểu Mã gọi điện cho Hàn Lộ Quản để thương lượng đối sách, và chúng định giết người diệt khẩu.

    Bao Triển và Họa Long chặn một chiếc xe trước cổng làng nghỉ dưỡng, rồi hỏa tốc chạy về khu Bành Hộ. Trên công trường ven đường, họ nhìn thấy hai chiếc xe ô tô dừng đối đầu nhau nhưng không tắt máy.

    Bao Triển và Họa Long nhanh chóng chạy tới. Họa Long rút súng sẵn sàng hành động.

    Bà cụ dưới hố chỉ còn lộ ra nửa người, cát đã lấp đầy tới ngực. Bà vẫn cố gắng dùng chút sức lực cuối cùng nâng đứa cháu lên đầu.

    Hàn Lộ Quản và Tiểu Mã thấy bị phát hiện, chuyến này tội ác khó tha, Hàn Lộ Quản vội vàng lôi Đản Đản lên, rồi rút một chùm chìa khóa có treo con dao găm nhỏ ra, đặt vào sau gáy cậu bé, uy hiếp Họa Long và Bao Triển: “Đứng yên đấy, đừng có qua đây!”

    Họa Long giơ súng, ngắm thẳng đầu Hàn Lộ Quản, mặt lạnh tanh.

    Tiểu Mã quát Họa Long: “Bỏ súng xuống.”

    Họa Long trả lời chỉ một câu: “Chó chết!”

    Bao Triển chưa kịp khuyên kẻ tội phạm buông đứa trẻ xuống, Họa Long đã ngắm chuẩn. Tiếng súng vang lên, Đản Đản sợ ngất đi, nhưng không hề bị thương chút nào.

    Tiểu Mã sợ quá vội quỳ sụp xuống, hai tay đặt sau gáy Bao Triển định tiến lại còng tay hắn về phía sau thì phát hiện ra mình không mang theo còng tay.

    Họa Long tiến lại, đạp một cước vào mặt Tiểu Mã. Cú đá quá mạnh, đầu Tiểu Mã ngửa ra phía sau…

    Sau này, khi điều tra sự việc, phía cảnh sát không thể tìm được hộ tịch của Hàn Lộ Quản. Kết quả kiểm nghiệm pháp y cho biết, hắn nhóm máu B, khóe mắt trái có một nốt ruồi màu đen, trên trán có một vết sẹo. Bao Triển nhớ lại bức thư tìm trẻ lạc từng đọc được trước đây, những miêu tả trên đó rất phù hợp với đặc điểm nhận dạng của Hàn Lộ Quản. Trong những ghi chép của cảnh sát phát hiện thấy cậu ta từng phải vào trại cải tạo thanh thiếu niên, rồi có lần vì chặn đường tàu hỏa còn bị cảnh sát bắt về đồn.

    Những ghi chép lúc đó có ghi lại rằng, Hàn Lộ Quản bị bắt cóc từ khi sáu tuổi, rồi bị chuyển nhượng từ người này sang người kia bảy tám lần.

    Nếu những đứa trẻ không nghe lời, không ngoan ngoãn đi lên phố xin tiền, hắn sẽ bẻ gãy tay gãy chân chúng.

    Hắn lớn lên trong môi trường đầy bạo lực và sự tàn nhẫn. Hắn trưởng thành từ những, ngày tháng lưu lạc không nhà.

    Hàn Lộ Quản cũng có thể đã từng yêu ai đó. Hắn có lần nói đùa với Tiểu Mã rằng: “Nhìn dặm trăm cây, tìm người ấy nơi chân trời góc bể. Thoáng quay đầu nhìn lại, thì ra người đó ở ngay… trong khách sạn với mình! Ha ha ha…”

    Mỗi con người lưu lạc nơi chân trời, càng đến khi về già lại càng nhớ nhà da diết. Tiểu Mã từng giúp Hàn Lộ Quản tìm kiếm gia đình mình, nhưng công lao như muối bỏ bể, chẳng được kết quả gì. Những kí ức của Hàn Lộ Quản về gia đình đã vô cùng mờ nhạt. Lúc đó hắn vẫn còn là một đứa trẻ, chỉ nhớ rằng hồi đó có thể nhìn thấy tàu hỏa ở gần nhà, có thể nhìn thấy những cánh đồng lúa mạch đã thu hoạch chỉ còn lại gốc khô, rồi cả những cánh rừng xanh um tùm và bất tận.

    Một năm nào đó, vào đêm giao thừa, Hàn Lộ Quản quay lưng về phía đầu tàu hỏa, một mình đi trên đường ray.

    Thời khắc đó con người vạn ác kia có phải đang nhớ nhà không?

    Đợi đến khi tàu hỏa tiến lại gần, hắn vẫn không tránh đường, trong lòng hi vọng con tàu sẽ đi qua đời hắn. Nhưng một điều kì diệu đã xảy ra. Người lái tàu kéo phanh khẩn cấp, cả đoàn tàu dừng lại ngay sát lưng hắn. Hàn Lộ Quản bị bắt giam vào đồn công an mấy hôm. Hắn khai với cảnh sát rằng, đừng hỏi hộ khẩu hộ tịch của tôi làm gì, đừng hỏi nhà của tôi ở đâu, tôi cũng chẳng biết mình từ đâu đến và sẽ đi đâu…

    Lại một đêm giao thừa, muôn nhà đốt đèn sáng rực, những đứa con xa nhà về đoàn tụ với gia đình bên mâm cơm năm mới, khắp nơi là sự vui vẻ của không khí mùa xuân.

    Tô My khen Họa Long: “Anh làm tốt lắm! Anh tự tin về tay súng của mình lắm nhỉ!”

    Họa Long nói: “Cứ thích nói nhiều với bọn đó làm gì cơ chứ?”

    Bao Triển nói đùa: “Dù sao hắn cũng đỡ được khoản phải ra tòa thẩm vấn.”

    Giáo sư Lương lên tiếng: “Ngoài tòa án của con người dựng lên ra, còn có một tòa án nữa.”

    A Đóa nói: “Cháu học y, cánh tay của Đản Đản có thể vẫn nắn lại được.”

    Tô My bỗng nhiên vui mừng reo lên: “Tết đến rồi! Ăn bánh chẻo nước thôi!”

    Những đĩa bánh chẻo bà cụ mới làm còn nóng hôi hổi vừa được bưng lên. Ngoài món bánh đó bà nội làm ra, trên thế gian này sẽ không bao giờ tìm được thứ đồ ăn nào ngon hơn thế. Bốn người tổ chuyên án và A Đóa, cùng cụ bà và Đản Đản hợp lại thành một gia đình cùng nhau đón tết. Trên bàn là biết bao món ngon, còn có một chai rượu vang đỏ.

    Đản Đản nhìn bà nội, cười tươi sáng.

    Chương trình liên hoan văn nghệ Tết trên ti vi vẫn chưa bắt đầu, ngoài cửa sổ, một pháo hoa lớn nổ tung giữa bầu trời.

    Ở những ngõ nhỏ phố lớn, có biết bao đứa trẻ muốn được về nhà, có bao đứa trẻ muốn được giải phóng. Những đứa trẻ bị bắt cóc, ngày đêm nhớ thương mẹ chúng. Về nhà! Về nhà! Về nhà! Đó là niềm mơ ước vừa lớn lao vừa nhỏ bé mà những đứa trẻ bị bắt cóc chỉ có thể ghi nhớ mãi mãi trong lòng không nói ra.

    [1] Lăng trì: Hình thức xử tử hình ghê rợn nhất trong thời phong kiến tại Trung Quốc. Kẻ bị xử tử phải chịu đủ 3600 nhát dao. Nhát dao cuối mới là nhát kết liễu đời kẻ phạm tội.

    [2] Borges: Tên đầy đủ: Jorge Francisco Isidoro us Borges (1899 – 1956): là một nhà văn, nhà thơ, dịch giả nổi tiếng người Argentina. Ông được coi cha đẻ của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mỹ Latinh. Các tác phẩm của ông thuộc các thể loại truyện ngắn, tiểu luận, thơ, phê bình văn học và dịch thuật, có ảnh hưởng rộng lớn từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây.
     
    Chỉnh sửa cuối: 26/3/17

Chia sẻ trang này