Nguyên Tắc 27

Thao Túng Nhu Cầu Về Niềm Tin

Con người có nhu cầu khẩn thiết phải tin vào điều gì đó. Bạn hãy trở thành tâm điểm của nhu cầu ấy bằng cách giương cao một đại nghĩa, một niềm tin mới để họ tuân theo. Hãy nói với họ bằng những lời mơ hồ nhưng đầy hứa hẹn, nhấn mạnh sự nhiệt tâm thay vì lý trí và tư duy rành mạch. Hãy tạo cho môn đệ của bạn những nghi thức mới để họ thực hành, yêu cầu họ phải hy sinh vì bạn. Tận dụng sự thiếu vắng một tôn giáo có tổ chức và một đại nghĩa, hệ thống niềm tin mới do bạn đề ra sẽ mang đến cho bạn quyền lực vô song.

KHOA LANG BĂM, HAY LÀ NĂM BƯỚC ĐỂ TẠO RA MỘT GIÁO PHÁI

Khi đi tìm những phương pháp khả dĩ mang đến cho mình quyền lực hùng mạnh nhất nhưng chỉ cần nỗ lực ít ỏi nhất, bạn sẽ nhận thấy rằng việc tạo ra một cái gì đó na ná như giáo phái với một đám môn đệ sẽ là phương pháp hiệu quả nhất. Có được đông đảo môn đệ sẽ mở rộng nhiều khả năng lừa đảo: đám môn đệ ấy không chỉ tôn sùng bạn, họ còn bảo vệ bạn chống lại kẻ thù và sẽ tự nguyện gánh vác công việc rù quến người khác đi theo giáo phái mới ra ràng. Loại quyền lực này sẽ nâng bạn lên một tầng cao mới: Bạn sẽ không còn cần đấu tranh hoặc dùng thủ đoạn để củng cố ý chí của mình. Bạn đang được tôn sùng, và những môn đệ tin rằng bạn không thể làm sai.

Có thể bạn nghĩ việc tạo ra đám môn đệ như vậy thật quá khó như dời núi, nhưng trên thực tế điều đó rất dễ. Con người chúng ta ai cũng khao khát điên cuồng phải tin vào điều gì đó, bất cứ điều gì. Vì vậy chúng ta rất nhẹ dạ: Đơn giản là ta không thể chịu đựng được khoảng thời gian nghi ngờ kéo dài, hoặc khoảng trống khi không có gì để tin cả. Chỉ cần phe phẩy trước mắt ta một chính nghĩa mới, một thần dược, phương pháp làm giàu mới, hoặc khuynh hướng công nghệ hay phong trào nghệ thuật mới là ta sẽ nhảy lên đớp mồi ngay. Hãy nhìn lại lịch sử: Những biên niên về khuynh hướng mới, giáo phái mới thu phục được đông đảo người theo, những biên niên ấy có thể chất đầy một thư viện. Sau vài thế kỷ, vài thập niên, vài năm, vài tháng, những khuynh hướng ấy có thể sẽ trông khá dị hợm, song vào lúc mới ra đời chúng hấp dẫn làm sao, phi phàm và thần thánh làm sao.

Luôn đổ xô đi tìm cái gì đó để tin, chúng ta đã sản xuất ra các thánh thần và niềm tin từ con số không. Đừng bỏ phí nguồn nhẹ dạ ấy: Hãy tự biến mình thành đối tượng được ngưỡng vọng. Hãy khiến mọi người tạo nên một sự tôn thờ quanh ta.

Những tay lang băm ở các thế kỷ XVI và XVII đều là bậc thầy về việc tạo ra sùng bái, giáo phái. Lúc ấy họ đang sống trong thời kỳ chuyển tiếp: khoa học đang thắng thế, còn tôn giáo buồn như vầng trăng khuyết. Dân chúng có nhu cầu tập hợp dưới lá cờ một đại nghĩa hoặc niềm tin mới. Bọn lang băm bắt đầu bằng việc bán rao những lọ thần dược trị bá bệnh. Đi từ thị trấn này sang làng mạc khác, thoạt tiên họ chỉ để ý từng nhóm nhỏ, mãi cho đến khi tình cờ họ phát hiện ra sự thật về bản chất con người: Quy tụ được càng đông quần chúng thì càng dễ bịp.

Tay lang băm sẽ đứng trên một bục gỗ cao, rồi dân chúng bu quanh. Trong đám đông, mọi người sẽ có khuynh hướng tuân theo cảm xúc chứ không lắng nghe lý trí. Nếu tay lang băm nói chuyện riêng với từng người thì họ sẽ thấy hắn buồn cười, nhưng giữa đám đông, họ bị mắc trong cái bẫy tâm trạng tập thể là say mê chăm chú. Họ sẽ không có đủ cự ly cần thiết để ngờ vực. Mọi khiếm khuyết trong ý tưởng của tay lang băm đều bị nhiệt tình của đám đông che phủ. Niềm say mê và hăng hái quét qua đám đông như một trận dịch và đám đông sẽ phản ứng hung bạo với người nào dám gieo hạt giống nghi ngờ. Chủ động nghiên cứu động lực ấy suốt hàng chục năm kinh nghiệm và đồng thời áp dụng linh hoạt theo tình huống, giới lang băm đã hoàn chỉnh khoa thu hút và giữ chân đám đông, biến đám đông thành môn đồ và môn đồ thành giáo phái.

Với chúng ta, những cái mánh của giới lang băm xưa kia có vẻ cổ lỗ sĩ, nhưng giữa chúng ta ngày nay vẫn đầy dẫy đủ hạng lang băm, họ vẫn dùng những cái mánh mà tổ tiên họ từng hoàn chỉnh cách nay nhiều thế kỷ, chỉ khác là đổi tên thần dược và hiện đại hóa dáng vẻ của giáo phái họ chế ra. Những lang băm như thế có mặt đều khắp các lĩnh vực – kinh doanh, thời trang, chính trị, nghệ thuật. Có thể là nhiều người trong số họ tuy theo truyền thống lang băm nhưng không biết về lịch sử lang băm; song về phần bạn, bạn có thể thẳng thừng hơn, hệ thống hơn. Bạn chỉ cần theo năm bước sau đây để tạo ra sự tôn sùng.

Bước 1: Nói năng mơ hồ và đơn giản. Muốn tạo nên sự tôn sùng trước tiên bạn phải thu hút chú ý. Muốn vậy bạn không nên làm bằng hành động, vì hành động dễ thấy và dễ giải đoán, nhưng phải bằng lời nói, vốn mơ hồ và trí trá. Những lời nói, bài giảng, phỏng vấn đầu tiên của bạn phải có hai yếu tố: Một mặt hứa hẹn sự thay đổi lớn lao, mặt khác phải hoàn toàn mơ hồ. Sự phối hợp này sẽ dấy lên đủ loại mộng mơ huyền hoặc trong lòng người nghe, từ đó họ sẽ tự động thiết lập các liên kết và thấy điều họ muốn thấy.

Muốn cho lời nói mơ hồ được hấp dẫn, hãy sử dụng những từ kêu to nhưng tối nghĩa, những từ nóng bỏng như có lửa. Với những điều đơn giản nhất bạn cũng đặt tên nghe thật kêu, hãy sử dụng các con số, hãy tạo ra nhiều tên mới cho những khái niệm mơ hồ. Tất cả những thứ vừa kể sẽ tạo nên ấn tượng về tri thức đặc biệt, khiến mọi người tôn sùng bạn vì sự uyên thâm. Vì vậy hãy cố làm cho sự tôn sùng đó có vẻ mới toanh để ít người có thể hiểu được. Nếu được phối hợp đúng, những lời hứa hẹn mơ hồ, các khái niệm gợi ý mù mờ và lòng nhiệt thành sôi nổi sẽ khuấy động tâm hồn mọi người, và họ sẽ tập hợp quanh bạn.

Nếu nói quá mơ hồ thì mọi người khó tin. Nhưng nếu nói rõ thì càng nguy hiểm hơn. Chẳng hạn nếu bạn giải thích rõ những lợi lộc mà mọi người có được khi theo giáo phái của bạn thì sau này bạn buộc phải giữ lời hứa ấy.

Lời kêu gọi của bạn cũng phải đơn giản. Vấn đề của hầu hết mọi người đều có căn nguyên phức tạp: Những triệu chứng thần kinh thâm sâu, các yếu tố xã hội đan kết nhau, những cội rễ xa xôi trong quá khứ rất khó lần ra. Ít người nào đủ kiên nhẫn ngồi lại nghiên cứu từng chi tiết như thế, họ muốn biết có một giải pháp đơn giản cho bài toán của họ. Khả năng đề ra giải pháp ấy sẽ mang đến quyền lực lớn lao và một đám môn đệ. Thay vì dùng những diễn giải của cuộc sống hôm nay, bạn hãy dùng lại các giải pháp sơ khai của tổ tiên ta, dùng lại những bài thuốc gia truyền, những thần phương trị bá bệnh.

Bước 2: Đặt những cảm nhận của giác quan cao hơn lý trí. Một khi thiên hạ đã bắt đầu tụ hội quanh bạn, sẽ xuất hiện hai mối nguy: sự buồn chán và hoài nghi. Nếu buồn chán, thiên hạ sẽ đi chỗ khác; còn hoài nghi thì tạo cho họ một cự ly để suy nghĩ sáng suốt về những gì bạn rao giảng, thổi tan mất màn sương mà bạn đã dày công tạo dựng, từ đó lột trần những ý tưởng của ta. Vì vậy ta phải giải sầu với người buồn chán và phòng ngừa bọn hoài nghi.

Ta hãy dùng những thủ thuật của sân khấu để tạo cho mình vầng hào quang rực rỡ, làm lóa mắt môn đồ bằng hiệu ứng thị giác, để cho họ được no con mắt. Thủ thuật này không chỉ làm cho họ không nhìn thấy sự lố bịch của các ý tưởng, những lỗ hổng trong hệ thống niềm tin của ta, mà nó còn thu hút thêm nhiều sự chú ý, hấp dẫn thêm nhiều môn đệ. Hãy mời gọi tất cả các giác quan: Sử dụng nhang khỏi huyền ảo, âm nhạc du dương, những hình ảnh hoặc màu sắc thích hợp để mê hoặc họ. Thậm chí ta có thể đùa một tí với trí não, chẳng hạn như sử dụng vài thiết bị công nghệ mới để làm cho giáo phái có mã khoa học – miễn là ta làm sao cho mọi người đừng có cơ hội tư duy đúng đắn. Hãy sử dụng văn hóa hương xa – phong tục kỳ thú, nghi thức lạ lùng – để tạo ra hiệu quả sân khấu, làm cho những gì tầm thường nhất cũng mang dấu ấn của đấng phi thường.

Bước 3: Vay mượn từ các tôn giáo có tổ chức để cấu trúc hóa giáo phái của mình. Đám môn đệ ngày càng đông đảo nên ta phải thiết lập tổ chức hẳn hoi. Tìm ra cách cho mọi người hân hoan và an lạc. Từ lâu, các tôn giáo có tổ chức đã trao quyền lực cho một số người, và môn đồ không được phép chất vần về quyền lực này. Ngày nay các tôn giáo ấy vẫn tiếp tục truyền thống như vậy trong thời đại được xem là thế tục của chúng ta. Và mặc dù bản thân tôn giáo đã ít nhiều nhợt nhạt, song những hình thức ấy vẫn vang vọng quyền năng. Những tôn giáo đó có thể được khai thác mãi mãi. Hãy đề ra nghi thức cho đám môn đồ; tổ chức họ theo hệ thống tôn ti, xếp loại họ theo phẩm trật đạo hạnh và ban tặng họ những chức danh sặc mùi tôn giáo; yêu cầu họ phải hy sinh để chứng tỏ lòng thành, nhờ vậy ta mới vơ vét cho đầy két sắt và từ đó quyền lực tăng cao. Để nhấn mạnh bản chất gần như là tôn giáo của tập thể do ta tạo ra, ta hãy nói năng và hành động như đấng tiên tri. Nói cho cùng thì ta đâu phải là nhà độc tài, ta là thầy tế, là nhà hiền triết, là guru, là shaman, là bất cứ từ nào có khả năng che đậy quyền lực thực sự của ta trong màn sương tôn giáo.

Bước 4: Ngụy trang nguồn thu nhập. Tập thể của ta lớn mạnh và ta đã cấu trúc nó giống như nhà thờ. Két sắt của ta bắt đầu đầy những tiền hiến cúng của các đồ đệ. Nhưng ta đừng bao giờ tỏ ra khát tiền và cần đến quyền lực của đồng tiền. Chính vào lúc này ta nên ngụy trang nguồn thu nhập.

Các môn đồ muốn tin rằng khi theo ta, họ sẽ được mọi thứ tốt lành từ trên trời rơi xuống. Bằng cách sống trong sự xa hoa, ta trở nên bằng chứng sống động rằng hệ thống niềm tin do ta đề xướng là có giá trị thực tiễn. Đừng bao giờ để môn đồ biết rằng sự giàu sang của ta đến từ núi tiền của họ, ngược lại hãy diễn cho họ tin rằng ta phú quý là nhờ việc thực hành các phương pháp của giáo phái. Môn đồ sẽ răm rắp bắt chước từng cử chỉ của ta với hy vọng là họ sẽ được như ta, và lòng nhiệt thành sẽ che mắt khiến họ không phát hiện ra bản chất lừa bịp của ta.

Bước 5: Thiết lập một động lực ta-chống-lại-chúng. Nhóm giáo phái của ta giờ đang ăn nên làm ra, tựa như nam châm hút sắt. Tuy nhiên nếu ta không cẩn thận thì nhóm sẽ bị tính ì, thời gian và sự buồn chán sẽ làm suy giảm lực hút của nhóm. Để giữ chất keo đoàn kết giữa các môn đồ, ta hãy làm điều mà bất kỳ tôn giáo hoặc hệ thống niềm tin nào cũng làm: Tạo ra một động lực ta-chống-lại-chúng.

Trước tiên, làm cho môn đồ tin rằng họ thuộc về một tập thể đặc biệt, đoàn kết hướng về những mục tiêu chung. Rồi để củng cố sự đoàn kết ấy, ta hãy tạo ra ý niệm về một kẻ thù quỷ quyệt đang rắp tâm hãm hại giáo chủ. Vì luôn có kẻ ngoài đạo muốn phá rối ta, nên lúc ấy nếu có bất kỳ người nào muốn lật tẩy tính chất bịp bợm của hệ thống niềm tin của ta, thì ta tha hồ chỉ mặt đặt tên hắn là sứ giả của quỷ dữ.

Nếu chưa có kẻ thù, hãy tạo ra kẻ thù. Nếu có được một mục tiêu để nhắm đến, các môn đồ của ta sẽ siết chặt hàng ngũ và đoàn kết lại. Họ có đại nghĩa của ta để tin và bọn ngoại đạo để tiêu diệt.

TUÂN THỦ NGUYÊN TẮC

Borri thấy thánh hiện

Vào năm 1653 có chàng trai 27 tuổi ở vùng Milan tên là Francesco Giuseppe Borri tuyên bố là mình vừa thấy thánh hiện. Anh ta đi khắp thị trấn loan truyền là thiên thần Michael vừa hiện ra và bảo rằng mình được chọn làm capitano generale cho quân đội của Giáo hoàng mới, đội quân sẽ tiến chiếm và mang lại sức sống mới cho thế giới này. Thiên thần còn cho biết là giờ đây Borri có được khả năng nhìn thấu lòng người, và mình sắp tìm ra viên đá hóa vàng, một vật lâu nay biết bao người đi tìm nhưng chưa thấy. Những bạn bè người quen nào nghe được Borri giảng giải viễn ảnh vừa kể, và chứng kiến được sự thay đổi của anh ta, họ đều rất ấn tượng. Trước nay cả đời sa đà cờ bạc rượu chè trai gái, nhưng giờ đây anh ta từ bỏ tất cả, lao mình vào nghiên cứu thuật giả kim, và nếu nói chuyện là chỉ nói về thần thông và bí pháp.

Sự thay đổi sao đột ngột như phép mầu, và những lời Borri thốt ra nghe sao nóng bỏng nên nhiều người theo anh ta. Nhưng không may là ban thanh tra dị giáo của Giáo hội Italia cũng bắt đầu để ý nên Borri phải lang thang khắp châu Âu, bảo với mọi người rằng “Ai theo chân ta sẽ được ban thưởng hoan lạc”. Đi đến đâu anh ta cũng thu phục được đồ đệ. Phương pháp Borri khá đơn giản: Anh ta thuật lại cái viễn ảnh mình nhìn thấy, với mắm muối ngày càng thêm vào nhiều hơn. Ngoài ra Bori còn biểu diễn màn nhìn sâu vào tâm hồn những ai tin tưởng. Giả vờ xuất thần, anh ta nhìn trừng trừng vào mặt người đối diện và bảo là đã nhìn thấy linh hồn họ, cho biết họ chiêm nghiệm đến đâu và tiềm năng nên thánh. Nếu người này có tiềm năng hứa hẹn, Borri sẽ cho họ gia nhập giáo phái và đó tất nhiên là một vinh dự.

Tất cả các môn đồ đều phải giữ đức khó nghèo, mọi tiền bạc của cải đều phải giao nộp cho sư phụ Borri. Nhưng họ cũng không mấy quan ngại bởi vì anh ta đã hứa sớm tìm ra viên đá hoá vàng, có nghĩa là tất cả mọi người đều muốn có bao nhiêu vàng cũng được.

Với thu nhập ngày càng tăng, Borri bắt đầu thay đổi lối sống, đắm mình trong nhung lụa xa hoa, ngày càng thu thêm nhiều môn đệ và càng giàu sang gấp bội. Tăm tiếng Borri vang tận bốn phương, mặc dù anh ta chưa làm được điều gì cụ thể. Những người mới tới chứng kiến cảnh giàu sang thì đồn lại rằng anh ta đã tìm được viên đá hóa vàng, chứ không biết rằng những nhung gấm ấy xuất phát từ tiền tài của đám môn đệ cũ. Giáo hội tiếp tục săn đuổi Borri và anh ta chỉ đáp lại bằng thái độ im lặng đầy tôn quý, điều làm cho môn đồ càng thêm kính trọng và say mê.

Đến ngày kia Borri ẵm hết tiền bạc và kim cương (anh ta tuyên bố mình có khả năng hàn gắn vết nứt trong kim cương bằng thần lực trí tuệ) của môn đồ rồi bỏ trốn khỏi Amsterdam. Cuối cùng thì ban thanh tra dị giáo cũng bắt được anh ta và suốt hai mươi năm còn lại Borri phải ngồi xà lim tại Rome. Nhưng cho đến ngày cuối cùng vẫn có người tin vào quyền lực thần bí của anh ta, và trong đoàn khách viếng còn có cả hoàng hậu Christina của Thụy Điển. Những người giàu có đó cúng cấp tiền bạc để anh ta tiếp tục truy tìm hòn đá hóa vàng.

Diễn giải

Trước khi thành lập giáo phái, hình như Borri vô tình vớ phải một khám phá sinh tử. Quá mệt mỏi với cuộc đời trác táng, anh ta quyết từ bỏ nó để tìm hiểu ma thuật, vốn là mối ham thích thật sự. Tuy nhiên có lẽ anh ta để ý là mỗi lần rêu rao rằng chính thần linh đã khuyên bảo mình thay đổi lối sống thì hình như thiên hạ muốn nghe thêm. Nhận thức được quyền lực mà mình có khả năng thủ đắc bằng điều thần bí, Borri lại thêm mắm muối bằng ba cái việc thấy nọ thấy kia. Thiên đàng càng khó tin, nhưng đòi hỏi hy sinh càng cao thì chuyện kể của anh ta càng hấp dẫn.

Ta nên nhớ là mọi người không quan tâm đến sự thật trong những gì đang chuyển biến. Họ không muốn nghe rằng những chuyến biến ấy bắt nguồn từ công sức hoặc từ điều gì đó tầm thường như là vì buồn chán, vì nản lòng, hoặc kiệt sức vì tu luyện. Họ khao khát được nghe những gì lãng mạn hoặc thuộc thế giới bên kia. Hãy chiều lòng họ. Hãy nói về thần bí, về những màu sắc siêu nhiên và ta sẽ có người theo. Hãy thích nghi theo nhu cầu của thiên hạ: Đấng cứu thế phải phản ánh ao ước của môn đồ. Và ta luôn nhớ là phải nhắm thật cao. Ảo ảnh càng to lớn và táo bạo thì đích nhắm càng có hiệu quả.

Bác sĩ núi Michael Schüppach

Vào giữa thập niên 1700, giới a la mốt ở châu Âu đồn đại về chuyện một bác sĩ nông thôn người Thụy Sĩ tên là Michael Schüppach thường thực hành một dạng y khoa khác: Ông ta dùng sức mạnh của thiên nhiên để chữa trị thật ngoạn mục như phép lạ. Chẳng bao lâu sau những người khá giả từ khắp châu lục, cho dù bệnh nặng hay nhẹ đều đổ xô về ngồi làng Langnau trên núi Alpes, nơi Schüppach sống và làm việc. Lê bước suốt vùng núi quanh co, họ chứng kiến những cảnh quan hùng vĩ nhất châu Âu. Khi đến được Langnau, họ cảm thấy trong người đã có thay đổi và đang trên đà thuyên giảm.

Được mọi người gọi là “bác sĩ núi”, Schüppach làm chủ một tiệm thuốc tây trong thị trấn. Tiệm thuốc luôn là một cảnh tượng lạ lùng: hàng hàng lớp lớp cư dân đến từ nhiều nước đứng ngồi chật cứng căn phòng nhỏ, với những kệ treo tường đầy những chai lọ nhiều màu dược thảo. Trong khi hầu hết các bác sĩ thời đó đều kê những phương thuốc hôi rình có tên viết bằng tiếng Latinh khó hiểu (mà thời nay cũng vậy), thì biệt dược của Schüppach mang tên nôm na như “Dầu của niềm vui”, “Tâm của chiếc hoa nhỏ bé”, hoặc “Chống lại quỷ dữ”, và chúng thơm tho ngọt dịu.

Bệnh nhân đến Langnau phải kiên nhẫn chờ lâu mới tới phiên mình, bởi vì hàng ngày có khoảng tám chục tùy phái mang đến nhiều lọ nước tiểu lấy mẫu từ mọi vùng ở châu Âu. Schüppach bảo là mình có thể định bệnh chỉ bằng cách nhìn mẫu nước tiểu và đọc thư mô tả bệnh tình của bạn. Sau khi giải quyết xong hết những mẫu nước tiểu ấy, nếu còn trống được một phút thì bác sĩ mới cho bệnh nhân vào. Rồi ông cũng xem xét mẫu nước tiểu, bảo người bệnh rằng chỉ cần chừng đó ông cũng biết được điều cần biết. Schüppach nói người dân ở nông thôn có tri giác với những việc như thế - hiểu biết của họ đến từ một cuộc sống đơn giản và thanh bạch, không như cuộc sống phức tạp chốn thị thành. Phần chẩn đoán bao gồm cả việc bàn bạc với bệnh nhân về cách làm cho tâm hồn hòa hợp hơn với thiên nhiên.

Schüppach đề ra nhiều hình thức xử lý, hình thức nào cũng khác xa với y học thường dùng thời bấy giờ. Chẳng hạn như ông ta tin vào liệu pháp sốc điện. Nếu có người hỏi liệu pháp này có hợp với niềm tin của ông vào năng lực thiên nhiên, ông sẽ giải thích rằng điện là hiện tượng tự nhiên, và đơn giản là ông chỉ phỏng theo sức mạnh của sấm sét.

Một bệnh nhận tin rằng mình bị bảy con quỷ dựa. Bác sĩ dùng liệu pháp sốc điện, và trong khi thực hành, ông cho biết mình chứng kiến từng con quỷ bay ra khỏi thân xác bệnh nhân. Một bệnh nhân khác bảo là mình đã nuốt chửng một xe rơm luôn cả người cầm lái, vì vậy hiện anh rất đau ngực. Bác sĩ núi kiên nhẫn lắng nghe, phụ họa thêm rằng ông còn nghe thấy tiếng roi quất ngựa trong bụng anh ta. Ông hứa sẽ chữa khỏi, cho anh ta một liều thuốc xổ và thuốc an thần. Ra ngồi chờ bên ngoài tiệm thuốc, anh ta ngủ quên và khi tỉnh dậy liền ói tồ tồ. Cùng lúc đó một chiếc xe chở rơm chạy ngang qua (Schüppach đã mướn người điều khiển xe), và tiếng roi quất ngựa làm bệnh nhân tưởng là bác sĩ vừa giúp mình trục được nó.

Thanh danh bác sĩ núi tăng dần theo năm tháng. Ngay cả những người nổi tiếng - chẳng hạn như văn hào Goethe – cũng hành hương tới tận làng Langnau, và bác sĩ trở thành trung tâm của việc sùng bái thiên nhiên, mà theo đó bất kỳ cái gì thiên nhiên cũng đáng để được tôn thờ. Schüppach chủ ý tạo ra những hiệu ứng vừa tiêu khiển vừa làm cho bệnh nhân hào hứng. Có vị giáo sư sau khi viếng bác sĩ xong đã viết “Người thì đứng hoặc ngồi chung từng nhóm, người thì chơi bài, đôi khi chơi với một thiếu nữ; rồi một buổi hòa nhạc diễn ra, hoặc bữa ăn trưa hay ăn tối, hoặc giải người ta biểu diễn màn ba lê nhỏ. Đâu đâu cũng đầy sự thong dong tự nhiên, hòa với niềm vui thú của giới thượng lưu, và cho dù vị bác sĩ không thể chữa được bệnh nào thì ít ra ông cũng trị được bệnh tưởng và chứng hay ngất xỉu.”

Diễn giải

Schüppach bắt đầu sự nghiệp như là một bác sĩ thôn làng bình thường. Đôi lúc ông cũng áp dụng vài bài thuốc địa phương mà ông từng biết từ thuở nhỏ và có vẻ như được vài kết quả, rồi từ đó các thảo dược và hình thức trị liệu tự nhiên trở thành chuyên môn của ông. Và quả thật hình thức trị liệu tự nhiên ấy đã tác động sâu xa đến tâm lý bệnh nhân. Trong khi những loại thuốc thời đó làm cho người ta vừa đau vừa sợ thì cách của Schüppach lại nhẹ nhàng và dễ chịu hơn. Kết quả là tâm trạng người bệnh được cải thiện, và đó chính là mấu chốt của việc trị liệu theo Schüppach. Bệnh nhân tin thầy thuốc đến mức ý chí giúp họ thuyên giảm. Thay vì mang những ý tưởng ấm ớ của họ ra làm trò cười, Schüppach lại sử dụng chính bệnh tưởng của họ để làm ra vẻ là vừa thực hiện được cuộc trị liệu lớn lao.

Trường hợp bác sĩ núi dạy chúng ta nhiều bài học giá trị trong việc tạo ra một đám môn đồ. Trước tiên, ta phải tìm cách để nắm bắt tâm ý mọi người, làm cho lòng tin của họ vào quyền lực của ta đủ mạnh để tưởng tượng đủ thứ lợi lộc. Niềm tin đó sẽ tự hoàn thành ước nguyện, nhưng ta phải khéo sắp xếp như thế nào để họ tin rằng chính ta, chứ không phải tự họ đã làm nên sự thay đổi. Ta phải tìm ra loại niềm tin, đại nghĩa hoặc ý tưởng lạ lùng nào làm cho họ tin tưởng đam mê và họ sẽ tưởng tượng nốt phần còn lại, rồi tôn sùng ta như sư phụ, như đấng tiên tri, như thần y, như thiên tài, như bất cứ những gì ta muốn.

Thứ hai, Schüppach dạy ta bài học về quyền lực vô tận của niềm tin vào thiên nhiên, vào những gì đơn giản. Thật ra thiên nhiên đầy những điều khủng khiếp – thú dữ, cây độc, thiên tai, dịch họa. Niềm tin vào đặc tính chữa lành và xoa dịu của thiên nhiên chỉ là một truyền thuyết nhân tạo, một khuynh hướng lãng mạn. Nhưng ta cứ nhân danh thiên nhiên để gom thu quyền lực, đặc biệt trong những thời buổi phức tạp và căng thẳng.

Tuy nhiên bạn nhớ xử lý khéo léo lời kêu gọi hoặc nhân danh đó. Hãy tạo ra một thứ sân khấu của thiên nhiên mà trong đó bạn làm đạo diễn, để có cơ chọn lựa những đặc điểm nào phù hợp với tính lãng mạn của tình thế. Bác sĩ núi đã đóng vai này thật hoàn hảo, tận dụng sự khôn ngoan láu lỉnh của người địa phương. Thay vì biến mình làm một với thiên nhiên, ông nhào nặn thiên nhiên thành một thứ như là giáo phái, một cấu trúc nhân tạo. Muốn có được hiệu ứng “tự nhiên” bạn phải tốn công sức làm sao cho thiên nhiên thật kịch tính và mang màu lạc thú. Nếu không chẳng ai thèm để ý. Cả thiên nhiên cũng phải biết tiến bộ, biết theo thời.

Từ tính Mesmer

Vào năm 1788 khi đã 55 tuổi, bác sĩ Franz Mesmer đang đứng ở ngã tư đường. Ông là nhà tiên phong trong việc nghiên cứu từ lực động vật - niềm tin rằng động vật có vật liệu từ tính, và nếu biết cách tác động thích hợp, bác sĩ sẽ trị liệu như thần – nhưng tại Vienna nơi ông sinh sống, các lý thuyết của ông bị giới y học bêu riếu. Mesmer cho biết mình đã thành công trong một số trường hợp xử lý những phụ nữ bị co giật. Thành tựu mà ông tự hào nhất là phục hồi thị giác cho một cô gái mù. Nhưng một bác sĩ khác khám lại và tuyên bố cô gái vẫn còn mù, điều mà cô nhìn nhận. Mesmer tuyên bố rằng các đối thủ cố tình vu cáo ông bằng cách lôi kéo cô gái về phe họ. Tuyên bố này chỉ làm ông lố bịch thêm mà thôi. Rõ ràng là tâm lý dân Vienna không thích hợp với các lý thuyết của ông, do đó ông quyết dời đến Paris để làm lại từ đầu.

Mesmer thuê một căn hộ và trang trí thật phù hợp. Hầu hết cửa sổ đều gắn kính mờ để tạo ra vẻ huyền bí thiêng liêng, và những tấm gương quanh tường tăng thêm hiệu ứng thôi miên. Vị bác sĩ mời mọi người, nhất là những ai bị chứng u sầu hãy đến phòng mạch xem ông chứng minh sức mạnh của từ tính động vật. Không lâu sau mọi tầng lớp dân Paris (nhưng hầu hết là phụ nữ) đến phòng mạch của Mesmer để trả tiền vào xem phép lạ mà ông đã hứa hẹn.

Bên trong, mùi thơm hoa cam hòa lẫn với nhang khói hương xa được thổi ra từ những lỗ khó thấy. Tiếng đàn harp du dương và giọng ru êm của một nữ ca sĩ từ một phòng gần đó vang lên. Giữa phòng là một chậu nước to mà Mesmer cho biết đã được từ hóa, trong đó có nhiều thanh kim loại thò ra. Khách được mời ngồi quanh chậu, đặt một đầu thanh kim loại vào chỗ nào đau trên người, trong khi tất cả đều nắm lấy tay nhau thành một vòng khép kín để từ lực di chuyển từ người này sang người khác. Đôi khi họ còn được nối với nhau bằng dây. Sau đó Mesmer ra khỏi phòng, nhường chỗ cho các “phụ tá” đẹp trai và lực lưỡng ôm nhiều chậu nước từ hóa vào rải lên đám đông, chà xát chất lỏng thần kỳ đó lên người họ, xoa bóp cho thấm vào da, đưa họ tiến đến một trạng thái gần như là xuất thần. Chỉ sau vài phút, các phụ nữ gần như bị mê cuồng: Một vài người bật khóc, kẻ khác lại vừa thét vừa bứt tóc, đằng kia có người cười lên lanh lảnh. Khi cơn mê sảng lên đến đỉnh cao, Mesmer trở vào phòng trong bộ áo lụa thêu hoa vàng, tay cầm thanh kim loại từ tính. Ông đi quanh khẽ đặt thanh roi ấy lên từng người để giúp họ ổn định trở lại. Nhiều phụ nữ sau đó sẵn sàng công nhận quyền lực lạ lùng của tia nhìn Mesmer mà họ tin là có khả năng khuấy động hoặc bình ổn những chất lưu từ tính trong người họ.

Chỉ vài tháng sau khi đến Paris, Mesmer đã trở thành cơn sốt của kinh thành. Trong số những người ủng hộ ông có cả đương kim hoàng hậu Marie Antoinette của vua Louis XVI. Cũng như tại Vienna, tập thể các chức sắc y học Paris lên án Mesmer, nhưng ông không hề hấn gì. Các đồ đệ và bệnh nhân của ông đều là những người trả sộp.

Mesmer mở rộng các lý thuyết của mình, cho rằng từ lực có thể làm cho toàn thể nhân loại hài hòa, một ý niệm được rất nhiều người tán thưởng trong thời kỳ Cách mạng Pháp. Sự tôn sùng “chủ thuyết Mesmer” tăng lên gần thành một giáo phái và lan rộng khắp nước Pháp. Tại nhiều thị trấn, những “Cộng đồng hòa hợp” mọc lên để thể nghiệm từ tính. Những cộng đồng này về sau rất nổi tiếng vì có khuynh hướng quá phóng túng, nhiều khi chuyển các buổi họp mặt thành một cuộc truy hoan tập thể.

Vào lúc Mesmer nổi tiếng nhất, một ủy ban tại Pháp công bố bản báo cáo kết quả của nhiều năm thử nghiệm lý thuyết từ tính động vật: Các hiệu ứng từ tính đối với thể xác bắt nguồn từ việc tự kỷ ám thị và cuồng loạn tập thể. Báo cáo này dựa vào nhiều chứng cứ và thí nghiệm khoa học nghiêm chỉnh nên làm Mesmer sập tiệm. Ông phải lui về ở ẩn. Tuy nhiên chỉ vài năm sau nhiều người bắt chước ông hành nghề, và một lần nữa “giáo pháp Mesmer” (giờ được hiểu là thuật thôi miên) lại lan tràn, và số môn đồ đông đảo hơn bao giờ hết.

Diễn giải

Sự nghiệp của Mesmer có thể được chia thành hai giai đoạn. Khi còn ở Vienna, ông tin tưởng thật sự vào các lý thuyết của mình và làm mọi việc để chứng minh. Nhưng sự phản đối và dè bỉu của đồng nghiệp khiến ông đổi qua chiến lược khác. Ông sang Paris nơi không ai biết mình, và các lý thuyết lại đời của ông có đất sống mới. Rồi Mesmer tận dụng tính người Pháp hay ham mê kịch nghệ và những màn biểu diễn, ông biến phòng mạch của mình thành một thế giới kỳ diệu đầy những âm thanh màu sắc và mùi vị tê mê. Điểm đáng nói là từ nay trở đi ông chỉ ứng dụng từ tính lên cả nhóm người. Số đông thích hợp hơn cho tác động của từ tính, niềm tin người này sẽ lây lan sang người khác, áp đảo cá nhân nào còn chút nghi ngờ.

Vì vậy từ tư thế một tín đồ của thuyết từ tính, Mesmer chuyển sang vai trò lang băm, sử dụng mọi mánh khóe giáo khoa để mê hoặc người xem. Mánh táo bạo nhất là thao túng những dục vọng sục sôi đang bị đè nén. Đặc tính truyền thống của nhóm là tìm kiếm sự hòa hợp nên họ dễ nhìn nhận sự tỉnh thức chung. Núp dưới bóng một sự nghiệp, một chính nghĩa hòa hợp, những dục vọng bị dồn nén ấy được thầy lang khai thác và thao túng để tư lợi.

Đó là bài học mà Mesmer dạy ta: Khuynh hướng hay nghi, khoảng cách giúp ta tỉnh táo để suy xét, tất cả những thứ này đều bị quét sạch khi ta gia nhập nhóm. Sự ấm cúng và môi trường truyền lan của nhóm sẽ áp đảo cá nhân nào còn ngờ vực. Đó là loại quyền lực mà ta sẽ có khi tạo ra một sự tôn sùng. Ngoài ra khi tác động tới bản năng giới tính của thiên hạ, ta làm họ tưởng rằng những cảm xúc kích động đó là do quyền lực huyền bí của ta. Ta được quyền lực vô biên khi biết hướng những khát khao thầm kín của thiên hạ đến một hình thức hòa hợp lang chạ đầy lạc thú.

Ta cũng đừng quên rằng các giáo phái hùng mạnh nhất đều pha trộn tôn giáo với khoa học. Hãy chộp lấy xu hướng công nghệ mới nhất đang được mốt, rồi pha vào một tí chính nghĩa, trộn thêm vài giọt lòng tin thần bí, ta sẽ được một hình thức chữa lành mới. Cái giáo phái hổ lốn của ta sẽ được người khác diễn giải rộng rãi, họ sẽ gán cho ta nhiều loại quyền lực mà ta sẽ ngạc nhiên là vì chưa bao giờ nghĩ tới.

Hình ảnh:

Thỏi nam châm. Một lực vô hình kéo những vật khác vào nam châm, chúng bị nam châm từ hóa, rồi chúng lại thu hút những vật khác, từ lực của cả khối luôn tăng lên. Nhưng chỉ cần lấy thỏi nam châm ban đầu đi là cả khối rã ra. Ta hãy trở thành thỏi nam châm là lực vô hình thu hút trí tưởng tượng của mọi người và liên kết họ lại. Khi họ đã tập hợp quanh ta rồi thì khó có sức mạnh nào kéo họ ra được.

Ý kiến chuyên gia:

Lang băm thành tựu được quyền lực lớn của mình đơn giản bằng cách mở ra một khả năng cho mọi người tin vào những gì mà họ đã muốn tin… Những người cả tin thì không thể giữ khoảng cách, họ bu quanh kẻ tạo phép lạ, họ bước vào vầng hào quang của hắn, tự động nộp mình cho ảo tưởng như bầy gia súc với thái độ rất trang trọng.

(Grete de Francesco)

NGHỊCH ĐẢO

Một lý do để tạo ra môn đồ là vì một nhóm dễ bị bịp hơn là một cá nhân, và nhóm sẽ truyền ngược lại cho ta quyền lực đã được tăng cường. Tuy nhiên quyền lực này đi kèm với mối nguy: Một khi mà nhóm đã nhìn thấu được tim ta, ta sẽ phải đối mặt với không chỉ một cá nhân giận dữ mà cả một đám đông phẫn nộ sẵn sàng xé xác ta với nhiệt tình tận tụy ngang bằng với hồi họ theo ta. Bọn lang băm luôn đối mặt với nguy này và luôn trong tư thế sẵn sàng cuốn gói khi họ thấy những kẻ cả tin đã vỡ lẽ ra rằng mớ cao đơn hoàn tán hoàn toàn không tác dụng, còn ba thứ giáo điều đều láo toét. Hễ chậm chân thì họ trả giá bằng mạng sống. Lợi dụng đám đông tức là ta đùa với lửa, vì vậy luôn phải cảnh giác mọi tia lửa nghi ngờ, hoặc bất kỳ kẻ thù nào có khả năng vận dụng đám đông chống lại ta. Khi thao túng xúc cảm của đám đông, ta phải biết cách thích nghi, nhanh chóng rà đúng tần số của mọi tâm trạng và mong ước của nhóm. Ta phải nắm rõ tình hình, muốn sử dụng do thám cũng được, nhưng nhớ là khăn gói luôn phải sẵn sàng.

Vì vậy có lẽ ta nên làm việc với từng người một. Cách ly họ khỏi môi trường quen thuộc cũng có cùng hiệu quả như việc đưa họ vào nhóm – lúc đó hẹ sẽ dễ bị ám thị và hù dọa hơn. Hãy chọn đúng kẻ khờ, và nếu lỡ hắn có phát hiện mưu đồ của ta thì ta cũng dễ thoát hơn là với đám đông.

Chia sẻ
Loading...
Loading...
Loading...
Chia sẻ
Danh sách chương
Loading...
Loading...
Loading...
Thể loại
Tìm kiếm
Loading...
Loading...
Loading...
Lọc truyện