Chương 110
Chương 110
QUÂN SƯ
Rèm cửa được vén lên, Từ Tĩnh đã thay xong một thân quần áo sạch sẽ từ trong phòng chậm rãi bước ra, nhìn A Mạch hỏi: “Hội nghị quân sự xong rồi sao?”
A Mạch vội nói: “Đã xong rồi, ta đến đây thăm tiên sinh, phải chăng đã quấy rầy tiên sinh nghỉ ngơi?”
Từ Tĩnh không trả lời, tầm mắt dừng lại trên người tên thân vệ sau lưng A Mạch, từ lúc ông ta vào thành đã phát hiện thấy tên thân vệ này vẫn không rời khỏi A Mạch nửa bước, không khỏi hỏi A Mạch: “Ai vậy? Sao lúc nào cũng như cái đuôi bám sau lưng ngươi thế?”
A Mạch còn chưa trả lời, tên thân vệ kia đã tranh lời nói trước: “Từ tiên sinh, tại hạ họ Mục.”
“Họ Mộc(1)?” Từ Tĩnh đưa tay vuốt râu.
Thân vệ này chính là Mục Bạch, một cái tên giả của Lâm Mẫn Thận, anh ta thấy Từ Tĩnh hỏi, thản nhiên cười, đáp: “Đúng vậy, tại hạ là Mục Bạch, đối với Từ tiên sinh…” Không để cho Lâm Mẫn Thận kịp nói hết lời, Từ Tĩnh liền ngắt lời nói: “Hai cây(2) thành rừng?”
Lâm Mẫn Thận ngẩn người, lập tức liền hiểu ra, ánh mắt lộ vẻ khâm phục, khen: “Đúng vậy, Từ tiên sinh quả nhiên lợi hại.”
Từ Tĩnh nhíu mày, tức giận nói: “Ngươi không sợ người khác biết ngươi là ai sao?” Nói xong lại quay đầu giáo huấn A Mạch: “Sao ngươi lại thu nhận con chim công này bên người thế?”
Lâm Mẫn Thận nhất thời lúng túng, trêm mặt hết đỏ lại trắng, Trương Sĩ Cường đứng bên cạnh cũng cười xì một tiếng. A Mạch nhịn cười, đáp: “Là do Thương soái an bài, ta cũng chẳng có cách nào.”
Từ Tĩnh lại nhìn nhìn Lâm Mẫn Thận, đột nhiên nói: “Đổi lại đi!”
Lâm Mẫn Thận sửng sốt, lại nghe Từ Tĩnh nói tiếp: “Đừng gọi là Mục Bạch, đổi thành Bạch Mục(3) tốt hơn.”
Lâm Mẫn Thận nổi giận nói: “Từ tiên sinh sao lại nói thế, uổng cho tại hạ từ lâu ngưỡng mộ tiên sinh…”
“Mục Bạch!” A Mạch lên tiếng ngăn Lâm Mẫn Thận lại: “Không được làm càn!”
Lâm Mẫn Thận mặt đỏ đỏ phừng phừng vẫn muốn nói tiếp, nhưng Từ Tĩnh đã xoay người sang nói với A Mạch: “Ngươi theo ta đi dạo quanh đây đi.” Lâm Mẫn Thận thấy Từ Tĩnh coi khinh mình như thế, trong lòng lại tức giận, muốn vượt lên phía trước Từ Tĩnh để tranh luận phải trái. Nhưng Trương Sĩ Cường đã vội vàng túm anh ta lại, kéo ra ngoài sân: “Đại nhân và Từ tiên sinh có việc muốn nói, ngươi và ta ra ngoài vườn canh gác.”
Lâm Mẫn Thận bị Trương Sĩ Cường lôi ra khỏi cửa, A Mạch thong thả đi bộ cùng Từ Tĩnh dọc theo con đường mòn trong vườn, cười khuyên nhủ: “Tiên sinh cần gì phải bực bội với anh ta như vậy.”
Từ Tĩnh im lặng một lát, đột nhiên nói: “Anh ta không nên như vậy, dùng người thì không nên nghi ngờ, người đã nghi ngờ thì không nên dùng, làm như vậy trái lại thật là tầm thường.”
A Mạch sửng sốt, lập tức liền hiểu được “anh ta” mà Từ Tĩnh nhắc đến là chỉ Thương Dịch Chi. A Mạch lặng đi một lúc rồi nói: “Võ công của Lâm Mẫn Thận rất tốt.” Thấy Từ Tĩnh quay lại nhìn mình, A Mạch thản nhiên cười cười, giải thích: “Anh ta cũng là có ý tốt, có chuyện này chắc tiên sinh chưa biết, khi ta ở Thái Hưng có bị thương một lần, thiếu chút nữa thì mất mạng. Anh ta đầu tư trên người ta nhiều lắm, sợ chưa kịp thu hồi vốn thì ta đã bị kẻ khác giết mất, thế nên mới đặc biệt để Lâm Mẫn Thận ở bên cạnh để bảo vệ ta.”
Từ Tĩnh quan sát A Mạch một khắc, nở nụ cười, nói: “Xem ra ngươi đã thông suốt rồi, so với ngươi, lão phu trái lại đã thấp kém hơn rồi.”
A Mạch vội nói: “Tiên sinh đừng nói như vậy, tiên sinh đối với A Mạch chính là thầy tốt bạn hiền, nếu không có tiên sinh, A Mạch sao có ngày hôm nay.”
Từ Tĩnh nhìn một cách xem thường, không khách khí nói: “Ngươi đừng vuốt mông ngựa ta, trong lòng ta và ngươi đều hiểu, chúng ta cùng nhau kết hợp lại là vì nhu cầu, ngươi không nhận ân tình của ta, ta cũng chẳng thiếu ân tình của ngươi.”
A Mạch cười cười: “A Mạch biết.”
Từ Tĩnh vuốt râu, nói trắng ra: “Biết là tốt, cho nên về sau hãy thu hồi cái sự khôn vặt của ngươi lại, lão phu không cần cái này. Hơn nữa, ngươi giờ đã là người giữ vị trí cao nhất ở trong quân, không cần phải nhìn vẻ mặt của người khác để sống nữa, phải cứng rắn lên, chỉ cần ngươi có thể đánh thắng trận, người khác tự nhiên sẽ phải kính trọng ngươi, sợ ngươi.”
A Mạch biết Từ Tĩnh có ý tốt, trong lòng không khỏi có chút cảm kích, lại theo thói quen ôm quyền vái một cái, cung kính nói: “Đa tạ tiên sinh dạy bảo.”
Từ Tĩnh thấy vậy lại nhướn mắt nhìn một cách xem thường, rồi chép miệng lắc lắc đầu, không chịu nói tiếp nữa. A Mạch thấy thế không khỏi cười khổ, nàng vốn phải sống như vậy trong một thời gian rất lâu rồi, nhất thời muốn sửa cũng không phải chuyện dễ.
Từ Tĩnh hỏi: “Ngươi tới tìm lão phu có việc gì?”
A Mạch suy nghĩ, nói: “Vẫn là việc Thường Ngọc Thanh ở Võ An, ta đã cẩn thận suy nghĩ rồi, cảm thấy hiện giờ vẫn chưa phải thời cơ tốt để chủ động tấn công. Hơn nữa, hiện giờ quân Giang Bắc cũng vừa bại trận chưa kịp hồi phục.”
Từ Tĩnh nghe vậy liền dừng cước bộ, xoay người nhìn A Mạch, hỏi: “Ngươi đã nghĩ ra đối sách rồi sao?”
Khuôn mặt A Mạch trở nên kiên nghị, trầm giọng đáp: “Thuận theo tình thế, gặp dịp thì biến hóa. Vả lại phải xem động tác của Thường Ngọc Thanh như thế nào, nếu vẫn lùa dân chúng đến công thành, thì sẽ tương kế tựu kế dụ anh ta vào thành rồi tiêu diệt.”
“Vậy dân chúng thì sao?” Từ Tĩnh hỏi.
A Mạch mím chặt môi, đáp: “Dân chúng nếu có thể cứu liền cứu, không thể cứu thì dùng làm mồi nhử.”
Từ Tĩnh lẳng lặng nhìn A Mạch, đột nhiên nở nụ cười, nói: “A Mạch, ngươi hiện tại mới chân chính là một tướng quân.”
A Mạch cười khổ nói: “Tiên sinh đừng nói móc ta.”
“Không, không phải nói móc, mà là khen ngươi!” Từ Tĩnh nghiêm mặt nói: “Từ xưa đến nay không có tướng quân nào được lưu danh vì có tấm lòng từ bi nhân ái, câu nhân từ không thể cầm quân chính là ý này, nếu ngươi chỉ lo nhân ái đối với dân chúng ở dưới thành thì sẽ bất nhân với dân chúng trong thành và quân giữ thành, một khi thành bị phá, tất cả đều sẽ bị tàn sát.”
A Mạch thản nhiên cười.
Từ Tĩnh ngồi xuống một tảng đá, lại tiếp tục theo câu chuyện vừa rồi mà hỏi: “Nếu Thường Ngọc Thanh lùa dân chúng đến sông đào bảo vệ thành thì sao?”
A Mạch ngồi xuống đối diện với Từ Tĩnh, không trực tiếp trả lời vấn đề của Từ Tĩnh mà nói: “Tiên sinh, ta muốn lấy một bộ phận tinh nhuệ từ kỵ binh dùng làm đội du kích, còn lại sắp xếp cho các bộ binh doanh.”
Hiện nay cơ cấu trong quân chính là lấy đội làm đơn vị chiến thuật cơ bản, một đội có một trăm người, quản lý mười ngũ, trên đội là doanh, trên doanh là quân đoàn. Trong đó, bộ binh, kỵ binh là doanh độc lập, không có quan hệ quản lý trực tiếp. Trong bộ binh doanh mặc dù cũng có kỵ binh, nhưng số lượng rất nhỏ, phần lớn làm thân vệ cho các tướng lĩnh hoặc làm thám báo trong doanh.
Từ Tĩnh bỗng nhiên phát sinh hứng thú, lại dùng tay khẽ vuốt râu, hỏi: “Nói thử một chút nghe xem, ngươi có ý tưởng gì?”
A Mạch nói: “Một số kỵ binh vì không có chiến mã tốt nên không thể dùng trong chiến đấu, chi bằng phối hợp với bộ binh doanh, thứ nhất, có thể đảm nhiệm làm lính liên lạc cho các tướng lĩnh, hoặc dùng để vận tải đồ quân nhu. Thứ hai, có thể làm một đội độc lập, dùng để tiến hành trinh sát và chiếm lĩnh một số vị trí trọng yếu trong trận địa, hoặc khi quân địch lộ vẻ hỗn loạn, bố trí thành đội hình chiến đấu ở mặt sau bộ binh, dưới sự chỉ huy của tướng quân bộ binh, có thể lợi dụng thời cơ có lợi mà truy đuổi quân địch.”
Từ Tĩnh nghe xong, trong mắt lập tức lóe tinh quang, tay vẫn không ngừng vuốt râu, đột nhiên hỏi: “Nếu là đại binh tác chiến, thì kỵ binh dùng như thế nào?”
A Mạch ngượng ngùng cười, đáp: “Nhất thời còn chưa nghĩ đến, chỉ nghĩ dù sao những kỵ binh đó nếu giao chiến trực diện cùng thiết kỵ thát tử thì sẽ gặp nguy hiểm, chi bằng lưu lại để dùng vào việc khác có ích hơn.”
Trên mặt Từ Tĩnh lộ ra vẻ suy ngẫm, tự mình nghiên cứu, khảo xét, qua một lúc lâu mới vừa cười vừa hỏi: “Vậy ngươi muốn thả kỵ binh tinh nhuệ ra ngoài để làm gì? Đề phòng Thường Ngọc Thanh công thành sao?”
A Mạch đáp: “Đúng vậy, chỉ cần một sư (4) du kích tinh nhuệ bên ngoài, cho dù Thường Ngọc Thanh có công thành, chúng ta cũng chiếm được phần thắng nhiều hơn.”
Từ Tĩnh không khỏi gật đầu, lại hỏi: “Đường Thiệu Nghĩa đi rồi, hiện giờ ai thống lĩnh kỵ binh?”
“Trương Sinh.” A Mạch đáp.
Từ Tĩnh nghe vậy thì kinh ngạc nhìn A Mạch.
A Mạch bất đắc dĩ cười, nói: “Đã nghi ngờ thì không dùng người, đã dùng người thì không nên nghi ngờ, ta tin anh ta.”
Từ Tĩnh trầm mặc một lát, nói: “Vậy ngươi cần thương lượng trước với anh ta về việc thay đổi này, dù sao chủ yếu vẫn là điều động kỵ binh.”
A Mạch gật đầu đáp: “Ta ngày mai sẽ đi.”
Sáng sớm hôm sau, A Mạch đến giáo trường kỵ binh doanh tìm Trương Sinh, ai ngờ còn chưa nhìn thấy Trương Sinh đâu, lại đã thấy Vương Thất và Lý Thiếu Hướng ở góc giáo trường xa xa phía trước. Lý Thiếu Hướng đang giơ hai tay ngăn cản Vương Thất, giống như hai người đang tranh luận chuyện gì đó.
A Mạch thấy lạ, liền đi lại gần nghe, chợt thấy Lý Thiếu Hướng nói: “Không được, không được, Vương Thất ngươi không được quấy phá lung tung!”
Vương Thất trên người dính đầy bụi, vừa đẩy mạnh Lý Thiếu Hướng, vừa chửi bậy nói: “Ngươi giữ lại con súc sinh này mới là quấy phá lung tung, lãng phí lương thảo chưa nói, lại còn cả ngày coi hắn như đại gia mà cho người đến hầu hạ, ôi giời! Ngươi nhìn nó xem, ngươi nhìn nó xem, ngươi nhìn cái bộ dạng của nó xem! Đúng là chủ làm sao, tớ làm vậy!”
Vương Thất kêu lên chỉ về phía sau Lý Thiếu Hướng, A Mạch nhìn theo hướng đó, thấy trên giáo trường không có ai, nhưng tại bãi cỏ, phía trên cọc gỗ có buộc một thần tuấn chiến mã hung hãn lông màu trắng, bờm dựng đứng, vẻ mặt hiên ngang. A Mạch nhíu mày nhìn kỹ, càng nhìn càng cảm thấy con ngựa này rất quen, trong giây lát chợt nhớ ra đây đúng là con ngựa mà Thường Ngọc Thanh vẫn thường cưỡi, hình như có tên là “Chiếu Dạ Bạch”.
Lý Thiếu Hướng trong lúc vô tình nhìn thấy A Mạch, liền thở phảo nhẹ nhõm, vội vàng kéo Vương Thất lại, kêu lên: “Đại nhân, ngài mau phân xử giúp chúng ta đi.”
Thì ra A Mạch không nhớ lầm, chiến mã này quả nhiên chính là con Chiếu Dạ Bạch, trong đại chiến tại sông Tử Nha, Thường Ngọc Thanh đã lưu lại bên bờ sông. Lần đại chiến đó, Thường Ngọc Thanh trúng kế bị vây hãm, liền kéo theo A Mạch nhảy xuống sông trốn thoát, để lại con ngựa mình cưỡi trên bờ sông, sau trận chiến liền bị Lý Thiếu Hướng coi như bảo bối “nhặt được” mà đem về, cất giấu lén lút mang đến Thanh Châu.
Mấy ngày trước đây, Vương Thất tới tìm Lý Thiếu Hướng để lấy chiến mã, vừa lúc trông thấy con Chiếu Dạ Bạch này, thấy nó là thần tuấn, liền chẳng nói qua với Lý Thiếu Hướng lời nào đã nhảy lên cưỡi. Ai ngờ Chiếu Dạ Bạch tính tình rất quái. Ngươi nói nó ôn hòa nhu thuận, nhưng nó lại không chịu để cho ngươi khống chế, bất kể là ai nhảy lên lưng nó để cưỡi đều bị nó hất ngã. Nhưng nếu ngươi nói nó là con ngựa trái tính trái nết, thì ai cho nó lương thảo nó đều ăn, đúng là một con ngựa không có khí tiết.
Nói ngắn gọn, thì con Chiếu Dạ Bạch chính là một con ngựa vô lại. Vương Thất mấy lần thử thuần phục con ngựa này đều không thành, tức giận đến nỗi chỉ muốn giết ngay con tuấn mã này cho hả giận, nhưng Lý Thiếu Hướng thì đâu thể để cho anh ta làm thế được, vì thế hai người liền bắt đầu tranh cãi.
A Mạch nghe xong liền đưa mắt nhìn Chiếu Dạ Bạch bên sân kia đang vươn cổ ngẩng cao đầu, trong đầu đột nhiên hiện lên khuôn mặt của Thường Ngọc Thanh, cũng một vẻ kiêu ngạo, hiên nganh như vậy…
Lý Thiếu Hướng vẫn còn đang lải nhải: “Đại nhân, ngài nói một con thần tuấn như vậy, chẳng lẽ lại không có cá tính hay sao? Vương Thất tự mình không thuần phục được, nên mới đòi giết nó cho hả giận, ngài nói anh ta đây có phải là quấy phá lung tung hay không?”
Vương Thất lại tức giận: “Ngươi nuôi nó mấy tháng, có thấy ngươi thuần phục nó đâu, nếu không thể thuần phục thì còn lưu nó lại làm gì? Không bằng giết đi cho rảnh nợ!”
Lý Thiếu Hướng nghe xong tất nhiên lại cãi lại, hai người ngươi một câu, ta một câu, đứng cãi nhau trước mặt A Mạch, cuối cùng nhất tề hỏi A Mạch: “Đại nhân, ngài nói xem phải làm thế nào?”
——————–
Chú thích:
1, 2 – Mục và Mộc: đều có nghĩa là gỗ.
3- Bạch Mục: gỗ rỗng
4- Hai cây thành rừng: nguyên văn “Song mục thành lâm”, ý nói thân phận thật của Mục Bạch không phải là họ Mục mà là họ Lâm.