Chương 3: Tiểu thư lưu lạc giang hồ
Cô gái vào đề ngay:
- Tên tôi là Aravis Tarkheena và tôi là con gái duy nhất của Kidrash Tarkaan, cháu gái của Rishti Tarkaan, chắt của Kidrash Tarkaan thuộc dòng dõi của Ilsombreh Tisroc – con trai của Ardeeb Tisroc, tức là con cháu trực hệ của thần Tash. Cha tôi là lãnh chúa tỉnh Calavar, cũng là người được quyền mang dép đứng trước mặt Tisroc (Thánh thượng vạn tuế, vạn vạn tuế). Mẹ tôi (làm hòa với các thánh thần) đã sớm lên trời gặp họ và cha tôi vội tục huyền. Một trong những người anh em của tôi đã ngã xuống trong một trận đấu chống lại quân phiến loạn diễn ra ở miền Tây xa xôi, người kia chỉ là một đứa bé.
Bây giờ nói sang chuyện người vợ mới của cha tôi. Dì ghẻ rất ghét tôi và mặt trời chết hẳn trong mắt bà ta chừng nào tôi còn sống trong nhà với cha tôi. Thế là bà ta xúi bẩy cha tôi hứa gả tôi cho Ahoshta Tarkaan. Lão già Ahoshta xuất thân hèn mọn mặc dù những năm sau này lão đã chiếm được cảm tình của Tisroc (Thánh thượng vạn tuế, vạn vạn tuế) bằng những lời nịnh hót và xúc xiểm đầy ác ý, bây giờ hắn đã được phong quý tộc làm chủ nhiều thành phố lớn và có khả năng được chọn làm quan tể tướng khi ngài tể tướng đương nhiệm từ trần. Ahoshta là một lão già cũng đã ở vào tuổi lục tuần, có một cái bướu to trên lưng và mặt lão giống mặt một con vượn. Nhưng cha tôi phần vì nghe lời thẽ thọt của người vợ trẻ đã cử một người mai mối đến nói hay nói tốt về tôi với lão già kia và chắc là những điều về tôi làm lão đẹp ý, Ahoshta nhắn tin rằng lão sẽ cưới tôi vào cuối mùa hè năm nay.
Khi tin tức lọt đến tai tôi, đúng là mặt trời tối sầm lại, tôi nằm lì trên giường khóc suốt một ngày. Ngày thứ hai tôi bò dậy, rửa mặt mũi sạch sẽ, lắp yên cương cho con ngựa Hwin của tôi, mang theo con dao găm sắc bén mà anh trai tôi đã mang theo trong những cuộc chinh chiến của miền Tây, rồi phóng ra khỏi nhà. Khi ngôi nhà của cha mẹ đã khuất hẳn sau lưng, tôi phóng ngựa đến một vùng đất xanh tươi trống trải ở giữa một khu rừng không một bóng người. Tôi xuống ngựa, lấy dao ra. Đoạn tôi vạch áo ở chỗ mà tôi nghĩ là trái tim. Tôi cất tiếng cầu xin tất cả các thánh thần rằng một khi sang thế giới bên kia người đầu tiên mà tôi gặp là anh trai. Sau đó tôi nhắm mắt, nghiến chặt hai hàm răng lại chuẩn bị ấn lưỡi dao vào ngay tim. Nhưng trước khi tôi kịp làm thế, con ngựa này đã nói với tôi bằng giọng của một thiếu nữ: "Ôi cô chủ, đừng bao giờ hủy hoại bản thân mình, bởi vì nếu còn sống cô còn cơ hội có một tương lai tươi sáng hơn trong khi tất cả những người chết chỉ là những cái xác mà thôi."
- Điều tôi nói nghe không hay bằng một nửa điều cô thuật lại! – Ngựa cái lẩm bẩm.
- Suỵt, cô bạn, đừng chen ngang! – Bree nói, rõ ràng nó rất thích câu chuyện này. – Cô ấy kể chuyện bằng một phong thái Calormen quý phái nhất và không một nghệ nhân kể chuyện nào trong triều đình của một Tisroc kể hay hơn. Làm ơn kể tiếp đi, Tarkheena.
- Khi tôi nghe ngôn ngữ của con người bật ra từ miệng con ngựa cái – Aravis tiếp tục, tôi tự nhủ nỗi sợ chết đã làm đầu óc tôi lú lẫn và tạo ra những ảo giác. Tôi cảm thấy nhục nhã lắm vì trong dòng họ của tôi không ai sợ cái chết hơn sợ muỗi cắn. Thế là tôi chuẩn bị đâm vào tim mình lần thứ hai, nhưng Hwin đã đến gần hơn, dí đầu nó vào giữa tôi và con dao, nêu ra cho tôi những lời lẽ thuyết phục nhất, quở trách tôi như người mẹ mắng mỏ đứa con gái của mình. Bấy giờ tôi lấy làm kinh ngạc lắm lắm, quên cả việc quyên sinh, quên cả lão già Ahoshta và nói: "Này ngựa cái của Tarkheena, làm sao ngươi học được cách nói năng như một người con gái vậy?" Thế là Hwin bảo tôi là ở Narnia có những con vật biết nói và nó nghe phong thanh người ta đã ăn trộm nó ở đó khi nó còn rất bé. Rồi con vật kể cho tôi nghe về rừng núi, sông ngòi ở Narnia, về những tòa lâu đài và những con tàu lớn cho đến khi tôi thốt lên: "Nhân danh thần Tash con của Araroth và Zardeenah – nữ thần của Đêm tối, tôi có một ước mong lớn đó là được đặt chân đến cái đất nước Narnia này." Nghe thế con ngựa bèn nói: "Cô chủ của tôi, nếu đến Narnia cô sẽ hạnh phúc, bởi vì trên mảnh đất đó không một thiếu nữ nào bị buộc phải lấy chồng trái với ý nguyện của cô ấy."
Chúng tôi trò chuyện hồi lâu và hy vọng lại quay về, tôi rất sung sướng là đã chưa tự kết liễu đời mình. Sau đó, chúng tôi thảo luận một kế hoạch cùng nhau bỏ trốn. Chúng tôi quay về nhà, tôi bận lên người những bộ quần áo trông vui mắt nhất, rồi ca hát và nhảy múa trước mặt cha tôi, giả bộ hết sức vui sướng vì đám cưới mà ông sắp đặt cho mình. Tôi cũng nói với ông: "Thưa cha, vì niềm vui sướng của đôi mắt con, cho phép con được đi vào rừng cùng với một thị nữ và sống một mình ở đó ba ngày để làm những nghi thức thiêng liêng dâng lên Zardeenah, nữ thần của Đêm tối và của các nàng trinh nữ như là một phong tục và một việc làm thích hợp đối với các cô trinh nữ khi họ phải từ biệt các nghi thức thờ cúng Zardeenah và chuẩn bị làm một người vợ. Ông trả lời ngay: "Con gái của ta, niềm vui của đôi mắt ta, cứ làm những gì con muốn." Nhưng vừa đi khuất khỏi tầm nhìn của ông, tôi lập tức tìm đến người hầu hạ ông lâu năm nhất. Lão bộc tâm phúc nhất, người đã từng để tôi ngồi trên đầu gối ông lúc tôi còn bé, và là người yêu thương tôi còn hơn cả yêu không khí và ánh sáng. Tôi bắt ông thề độc phải giữ bí mật và nhờ ông viết hộ tôi một lá thư. Ông sa nước mắt, van nài tôi hãy đổi ý nhưng cuối cùng ông cũng nói: "Nghe tức là vâng lời." Và làm tất cả theo ý tôi. Sau đó tôi niêm phong lá thư và giấu vào trong ngực áo."
- Nhưng lá thư viết gì? – Shasta hỏi.
- Hãy yên lặng, anh bạn trẻ. – Bree nhắc. – Cậu làm hỏng câu chuyện mất thôi. Cô ấy sẽ kể tiếp cho chúng ta nghe về lá thư vào đúng thời điểm. Kể tiếp đi Tarkheena!
"Sau đó tôi bảo một con hầu đi với tôi vào rừng để thực hiện các nghi lễ với Zardeenah và bảo cô ta đánh thức tôi vào lúc rạng sáng. Tôi tỏ ra rất vui vẻ với cô ta, đem rượu chuốc cho cô ta say; nhưng tôi đã lén trộn vào ly của cô ta vài thứ mà tôi biết sẽ làm cô ta ngủ li bì suốt một ngày một đêm. Ngay khi kẻ ăn người làm trong nhà cha tôi đã bắt đầu ngủ, tôi trở dậy, mặc vào người chiếc áo giáp của anh tôi mà tôi bao giờ cũng để trong phòng riêng để nhớ về anh ấy. Tôi cho vào bao lưng tất cả số tiền tôi có cùng với mấy món trang sức mà tôi đã tuyển lựa rất kĩ. Tôi cũng chuẩn bị một ít lương khô và tự tay đóng yên cương cho con ngựa, rồi lén ra đi vào khoảng canh hai. Tôi dự định không đi vào rừng nơi mà cha tôi chắc sẽ cho người đến đấy tìm tôi mà đi về hướng bắc rồi chuyển sang hướng đông để đến Tashbaan.
Ba ngày đã trôi qua và tôi biết cha tôi sẽ không kiếm tôi vì bị lừa bởi những lời tôi đã nói với ông. Vào ngày thứ tư chúng tôi đến thành phố Azim Balda. Thành phố này nằm ở nơi gặp gỡ của nhiều con đường và từ đó những người lính của Tisroc (Thánh thượng vạn tuế, vạn vạn tuế) cưỡi trên lưng những con ngựa hay, tỏa đi khắp nơi trong đế chế và nó cũng là một nơi gửi thư thuận tiện nhất. Thế là tôi tìm đến viên quan trông coi việc thông tin liên lạc trong Bưu cục hoàng gia ở Azim Balda và nói: "Thưa ngài, đây là lá thư từ ông chú tôi là Ahoshta Tarkaan gửi đến cho Kidrash Tarkaan chúa đất vùng Calavar. Hãy nhận năm đồng và lập tức chuyển lá thư đến tay người nhận." Ông này lập tức nói ngay: "Nghe tức là vâng lệnh."
Lá thư ấy giả danh Ahoshta viết ra và đại loại nó có nội dung như thế này: "Ahoshta Tarkaan gửi đến Kidrash Tarkaan lời chào và chúc bình an vô sự - nhân danh thần Tash không gì cưỡng lại được và không gì lay chuyển được. Vì biết được danh tiếng ngài mà tôi làm một cuộc hành trình đến dinh cơ của ngài đặng thực hiện những nghi lễ cho hôn ước giữa tôi và con gái ngài là Aravis Tarkheena, một việc làm vui lòng thần Vận mệnh và các vị thần thánh khác thế nên tôi đã gặp được con gái ngài trong rừng khi nàng chấm dứt các nghi lễ và việc cúng lễ thần Zardeenah theo phong tục dành cho các nàng trinh nữ. Khi tôi biết được nàng là ai tôi hết sức vui mừng với vẻ đẹp và sự khôn ngoan ở nàng, tôi đã bị tình yêu thiêu đốt và rõ ràng mặt trời sẽ tắt trong mắt tôi nếu tôi không cưới nàng ngay lập tức. Theo nghi lễ tôi đã tiến hành những thủ tục cúng tế cần thiết và cưới con gái ngài vào đúng cái giờ khắc mà tôi đã gặp nàng rồi đưa nàng về nhà mình. Thưa cha, cả hai con cầu xin cha hãy đến chỗ chúng con ngay lập tức để chúng con có được niềm vui được gặp mặt cha và nhận lời chúc phúc của cha; xin cha cũng mang đến đây toàn bộ số của hồi môn của vợ con, số tiền mà với địa vị cao quý của con và những phí tổn kinh khủng mà con phải trả cho hôn lễ, con có lời thỉnh cầu nó phải được mang đến ngay không chậm trễ. Bởi vì giữa cha vợ và hiền tế có một mối thâm giao lâu đời, con tự nhủ rằng cha sẽ không nổi giận với đám cưới vội vã của chúng con, tất cả chỉ vì một tình yêu mãnh liệt mà con dành cho con gái yêu của cha. Con cầu mong cha có được sự quan tâm của tất cả thần linh."
Sau khi làm việc đó, tôi vội vã rời khỏi Azim Balda, không còn phải lo rằng cha tôi sẽ cho người đuổi theo và dự tính rằng, cha tôi, khi đã nhận được một lá thư như thế sẽ gửi đến cho Ahoshta hoặc đích thân đến chỗ ông ta và trước khi vụ việc được khám phá ra thì tôi đã an toàn đi khỏi Tashbaan. Đó là toàn bộ câu chuyện của tôi cho đến khi tôi bị sư tử đuổi theo và gặp các người ở lạch nước mặn này.
- Vậy chuyện gì sẽ xảy ra với cô gái – cái người bị cô đánh thuốc mê ấy? – Shasta hỏi.
- Chắc chắn là cô ta sẽ bị đánh một trận vì tội ngủ dậy muộn. – Aravis nói giọng tỉnh rụi. – Thực ra cô ả là một công cụ và là kẻ do thám của dì ghẻ. Tôi rất lấy làm sung sướng với việc người ta sẽ nện cho ả một trận.
- Tôi cho rằng như thế khó gọi là một cử chỉ đẹp.
- Tôi không cần phải làm bất cứ điều gì chỉ để làm hài lòng anh. – Aravis đốp lại.
- Còn một điều khác trong câu chuyện của cô khiến cho tôi cảm thấy thật khó hiểu. – Shasta tiếp. – Cô còn chưa phải là một thiếu nữ trưởng thành. Tôi không tin là cô lớn tuổi hơn tôi. Tôi không tin là cô đã đủ tuổi. Sao cô có thể lấy chồng vào tuổi này được?
Aravis không nói không rằng, còn Bree thì may mắn nói ngay:
- Shasta, biết thì thưa thốt không biết thì dựa cột mà nghe, người ta sớm thành gia thất trong những gia đình quý tộc.
Shasta đỏ mặt đến tận chân tóc (dù đêm không đủ ánh sáng để cho những người kia phát hiện ra điều đó) và cảm thấy bị quê độ một phen. Aravis hỏi Bree về câu chuyện của nó. Bree kể lại ngay và Shasta nghĩ rằng nó đã nhấn mạnh một cách không cần thiết những cú ngã và sự vụng về trong việc cưỡi ngựa của nó. Rõ ràng Bree nghĩ câu chuyện của nó rất buồn cười nhưng Aravis không cười. Khi Bree kể xong cả bọn bèn đi ngủ.
Ngày hôm sau cả bọn, hai con ngựa và hai đứa trẻ, tiếp tục cuộc hành trình. Shasta thật lòng nghĩ rằng chuyến đi sẽ thú vị hơn nếu nó và Bree đi riêng. Bởi vì bây giờ chủ yếu là Bree và Aravis trò chuyện với nhau. Bree sống quá lâu ở Calormen, bao giờ cũng ở giữa các Tarkaan và ngựa của họ, vì thế mà nó biết chuyện về nhiều người và nhiều nơi chốn mà Aravis cũng biết. Cô bé thường nói thế này: "Nhưng nếu ngươi đã tham dự trận đấu ở Zulindreh, ngươi đã gặp người em họ Alimash của ta, anh ta phụ trách đội xe vận tải." Còn Bree thì nói ngay: "Cô cũng biết đấy; có bao giờ tôi có dính líu gì đến xe cộ hoặc các loại ngựa kéo xe đâu. Anh ta không phải là kỵ binh. Chỉ là một nhà quý tộc bẩm sinh. Anh ta đổ đầy một túi đường cho tôi sau khi đã tháo hàm thiếc ra." Hoặc giả Bree nói: "Tôi đi xuống một cái hồ ở Mezreel một mùa hè nọ" thế là Aravis vội đế ngay vào: "Ồ, Mezreel! Tôi có một người bạn ở đó tên là Lasaraleen Tarkheena. Thật là một chỗ vui hết biết. Những trang viên rộng bát ngát này, còn Thung lũng của Một ngàn mùi hương nữa chứ." Bree không hề có ý loại Shasta ra khỏi câu chuyện mặc dù thỉnh thoảng cậu bé cũng muốn đi đến chỗ gần như nghĩ là nó chủ ý muốn thế. Những người biết quá nhiều chuyện khó có thể không phô bày và nếu bạn có mặt ở đó bạn cũng khó mà không có cảm giác mình bị gạt ra ngoài.
Hwin là một con ngựa cái quá nhút nhát trước một con ngựa chiến dày dạn kinh nghiệm trường đời như Bree nên nó hiếm khi mở miệng. Còn Aravis sẽ không bao giờ nói với Shasta nếu có thể tránh được.
Tuy vậy, chẳng bao lâu sau chúng có những chuyện quan trọng hơn để quan tâm. Đoàn người ngựa đã đến gần Tashbaan. Có nhiều ngôi làng to hơn, trù phú hơn và nhiều người đi lại trên đường hơn. Bây giờ chúng đi chủ yếu vào ban đêm còn ban ngày thì tìm chỗ trốn. Sau mỗi một trạm dừng chân chúng lại tranh luận rất hăng xem chúng sẽ làm gì một khi đến Tashbaan. Mọi người đều muốn lảng tránh khó khăn này nhưng bây giờ thì không còn lảng tránh được nữa. Trong những cuộc tranh luận này từng bước một Aravis trở nên bớt lạnh lùng, kênh kiệu với Shasta hơn; bạn sẽ dễ hòa đồng với người khác hơn khi có cùng một mối quan tâm nào đó và có một đề tài trao đổi với nhau.
Bree nói việc đầu tiên phải làm là tất cả hãy hẹn gặp nhau ở một chỗ quy định nào đó, chỗ này phải cách xa Tashbaan để nếu có chuyện gì xui xẻo, có thể tách ra khi đi qua thành phố. Theo ý kiến đó, địa điểm tốt nhất là khu lăng tẩm của các vị vua cổ đại nằm bên rìa một hoang mạc. "Những thứ kiểu như đá tổ ong," nó nói, "thì mọi người không thể không nhận ra. Mà điểm tốt nhất ở đây là không một người Calormen nào bén mảng đến gần vì họ nghĩ nơi này bị ma ám và họ rất mê tín."
Aravis hỏi lại có thật nơi này có ma quỷ không thì Bree đáp nó là một con ngựa Narnia tự do và nó không tin những câu chuyện vớ vẩn loại này của người Calormen. Sau đó, Shasta cũng nói nó không phải là người Calormen và cũng không mảy may để tâm vào những chuyện cũ rích về hồn ma bóng quỷ. Điều này cũng không hoàn toàn đúng đâu nhưng nó lại gây ấn tượng mạnh với Aravis (mặc dù vào lúc ấy nó cũng làm cô bé bực mình) và tất nhiên Aravis nói nó cũng không thèm để ý đến lũ ma quỷ. Mọi chuyện được quyết định là lăng tẩm ở bên kia thành phố sẽ là nơi thích hợp, ai cũng cảm thấy mọi chuyện rồi sẽ thuận lợi cho đến lúc Hwin khiêm tốn chỉ ra rằng vấn đề thực sự không phải là ở chỗ họ hẹn gặp nhau ở đâu một khi đã đi qua Tashbaan mà là làm cách nào họ có thể đến được đó.
- Chúng ta sẽ giải quyết việc này vào ngày mai. – Bree đáp. – Còn bây giờ là lúc chợp mắt một lúc.
Nhưng vấn đề này không dễ dàn xếp. Ý kiến của Aravis là họ sẽ bơi qua sông mạn phía dưới thành phố vào ban đêm và không nên đặt chân vào thành. Nhưng Bree có hai lý lẽ chống lại. Một là cửa sông ở đây rất rộng và sẽ là một chuyến bơi dài đối với Hwin nhất là khi phải mang một người trên lưng. (Nó cũng nghĩ đó là một quãng sông quá dài đối với nó, nhưng nó chỉ không nhớ ra điều đó mà thôi). Lý lẽ thứ hai là có nhiều tàu bè trên sông và tất nhiên bất cứ ai đứng trên boong cũng sẽ nhìn thấy hai con ngựa bơi qua sông và điều này chắc chắn sẽ gây nên một cuộc điều tra.
Shasta nghĩ chúng nên đi đến con sông mạn trên thành phố và vượt qua khúc sông cạn hơn. Nhưng Bree giải thích là dọc hai bờ con sông này có những khu vườn và nhà nghỉ mát của các Tarkaan và Tarkheena, họ thường cưỡi ngựa dạo chơi hoặc có những bữa tiệc trà trên sông. Trên thực tế, đó là nơi có nhiều khả năng gặp một ai đó nhận ra nó hoặc Aravis nhất.
- Thế thì chúng ta sẽ cải trang. – Shasta nói.
- Hwin chậm rãi nói là có vẻ như đối với nó cách an toàn nhất là cứ đi qua cổng thành bởi vì người ta dễ trà trộn trong đám đông hơn. Nhưng nó cũng ủng hộ ý định cải trang. Nó nói:
- Hai người hãy mặc những bộ quần áo rách rưới, trông như nông dân hoặc những kẻ nô lệ. Áo giáp của Aravis và yên cương cần cho vào một bọc đặt lên lưng chúng ta, bọn trẻ con sẽ vờ dắt ngựa đi đâu đó và mọi người sẽ nghĩ chúng ta chỉ là những con ngựa thồ.
- Hwin thân mến! – Aravis nói với giọng gần như khinh miệt. – Làm như có người có thể nhầm Bree với một con người thồ, dù ngươi có cải trang cho nó như thế nào cũng vậy.
- Tôi cũng không nghĩ thế. – Bree nói, khịt khịt mũi và ngấc đầu ra sau một chút.
- Tôi biết đó không phải là một kế hoạch tốt. – Hwin nói. – Nhưng tôi nghĩ đó là cơ hội duy nhất của chúng ta. Tôi và anh đã lâu lắm rồi không được chải bờm và chúng ta trông không còn là mình nữa (hay ít nhất thì tôi cũng chắc là mình không được như xưa). Tôi nghĩ nếu chúng ta vấy bùn lên người và đi với cái đầu gục xuống như thể mệt mỏi và lười nhác – không còn muốn nhấc chân lên nữa thì chúng ta có thể không bị ai để ý đến đâu. Đuôi của chúng ta có thể cắt ngắn đi: anh cũng biết đấy làm sao cho nó có một vẻ thật xơ xác.
- Cô bạn thân yêu của tôi, - Bree nói, - cô có hình dung nổi trông mình ra cái giống gì khi đi vào Narnia trong bộ dạng ấy không?
- À nhưng mà, - Hwin đáp với vẻ khiêm nhường (nó là một con ngựa cái rất nhạy cảm) – cái chính là đi được đến nơi.
Dù không ai thích ý tưởng này cho lắm nhưng kế hoạch của Hwin xem ra có vẻ khả thi hơn cả. Đó là một kế hoạch có phiền phức một chút và liên quan đến một cái mà Shasta gọi là hành động trộm cắp còn Bree thì gọi là một cuộc "đột kích". Một nông trại bị mất vài bao bột vào tối hôm ấy, còn một bác nông dân khác thì bị mất một cuộn dây thừng, nhưng bộ quần áo con trai rách rưới dành cho Aravis thì được trả bằng tiền mặt hẳn hoi, điều này diễn ra trong một làng chúng đi qua. Shasta trở lại với các bạn với vẻ chiến thắng khi màn đêm buông xuống. Bạn bè đợi nó ở giữa một đám cây cối tươi tốt ở chân một vùng đồi thấp mọc đầy cây lấy gỗ nằm bên phải con đường chúng đi. Ai nấy đều cảm thấy phấn khích vì đấy là ngọn đồi cuối cùng; khi đi lên trên đỉnh có thể đứng nhìn xuống Tashbaan.
- Tôi ước gì chúng ta có thể đi qua đấy an toàn. – Shasta thì thầm tâm sự với Hwin.
- Tôi cũng muốn thế. – Hwin nói với vẻ đồng cảm.
Đêm hôm ấy họ len lỏi theo con đường mòn của những người đi đốn củi trong rừng. Sau khi đã ra khỏi khu rừng, đứng ở ngoài bìa rừng họ có thể nhìn thấy hàng ngàn ánh lửa ở thung lũng phía dưới. Shasta không hề có khái niệm gì về một thành phố lớn và cảnh tượng này làm nó phát hoảng. Cả bọn ăn bữa tối và bọn trẻ đi ngủ. Hai con ngựa đánh thức chúng vào sáng hôm sau.
Những vì sao vẫn còn hiện rõ trên bầu trời, cỏ lạnh và ướt, nhưng chân trời ngang với mặt biển ở bên tay phải chúng đã rạng dần. Aravis một mình đi vào trong một lùm cây và trở ra trông rất khác trong bộ đồ rách rưới mới mua lại, còn bộ quần áo của nó thì bỏ trong tay nải. Áo giáp, khiên, thanh mã tấu, hai cái yên ngựa cùng các vật dụng khác đều được cho vào trong những cái bao. Hai con ngựa lấm lem bùn đất làm cho chúng có một vẻ ngoài hết sức dơ bẩn và để cho hai đứa trẻ kia cắt ngắn đuôi. Dụng cụ duy nhất để làm việc này là thanh mã tấu của Aravis. Đó là một việc làm mất nhiều thời gian và khiến lũ ngựa rất đau.
- Tin lời tôi đi. – Bree kêu lên. – Nếu tôi không phải là một con ngựa biết nói, tôi đã đá vào mặt cậu một cái đẹp ra trò! Tôi tưởng cậu phải cắt nó, chứ đằng này lại dứt ra. Cậu phải biết là đau ghê gớm như thế nào.
Nhưng mặc cho đêm tối và những ngón tay lạnh cóng, cứng đờ, cuối cùng những việc làm đáng chán này cũng đã thực hiện xong, các bao hàng được buộc lên lưng ngựa, dây thừng thắt thòng lọng (chúng được dùng thay cho yên và dây cương) trong tay bọn trẻ và cuộc hành trình bắt đầu.
- Nhớ là, - Bree nói, - chúng ta phải luôn ở bên nhau nếu có thể được. Vạn bất đắc dĩ có chuyện gì xảy ra ta sẽ gặp nhau ở lăng mộ cổ, ai đến trước sẽ đợi những người còn lại.
- Và cũng xin nhớ, - Shasta nói, - hai bạn ngựa, các bạn đừng có quên mình là ai mà cất tiếng nói nhé, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải im lặng.