Chương 8: Một cuộc so tài
- Và thế là, - Trumpkin nói, (như bạn có thể nhận ta chú lùn này chính là người kể lại tất cả những câu chuyện trên cho bốn anh em nghe trong lúc họ ngồi trên bãi cỏ trong đại sảnh đổ nát của lâu đài Cair Paravel), - và thế là tôi cho một hay hai mẩu bánh mỳ khô vào túi áo, bọc lại tất cả vũ khí trừ một con dao găm và đi vào rừng từ lúc tinh mơ. Tôi cứ đi như thế trong vòng mấy giờ liền thì nghe vang lên một âm thanh mà tôi chưa bao giờ thấy kể từ ngày sinh ra đời. Này, tôi sẽ không bao giờ quên được đâu. Cả không gian tràn ngập tiếng vọng của nó, vang rền như tiếng sấm nhưng ngân dài hơn, ngọt ngào, trong lành như tiếng nhạc trên mặt nước nhưng đủ mạnh để làm rừng cây chao đảo. Thế là tôi bụng bảo dạ: "Này, nếu không phải là tiếng tù và thì cứ gọi tớ là đồ thỏ đế đi!" Vài giây sau tôi tự hỏi tại sao vua lại không thổi tù và sớm hơn...
- Lúc ấy khoảng mấy giờ? - Edmund hỏi.
- Khoảng từ 9 giờ đến 10 giờ. - Trumpkin nói.
- Đó là lúc chúng tôi đang ngồi ở sân ga xe lửa! - Cả bốn đứa đồng thanh nói, đứa nọ nhìn đứa kia, mắt ngời sáng.
- Xin hãy kể tiếp đi ạ. - Lucy giục chú lùn.
- Phải, như tôi đã nói, tôi lấy làm ngạc nhiên nhưng tôi phải tiếp tục vắt chân lên cổ mà chạy. Tôi cứ đi nhanh như thế suốt đêm và rồi khi ngày bắt đầu hửng lên, cứ như thể tôi cũng không khôn ngoan gì hơn khổng lồ, tôi liều mạng đi tắt qua một khu vực trống trải để ra nhánh sông lớn và đã bị chộp ở đây. Không phải bởi một đội quân mà bởi một thằng ngốc già vênh váo được giao canh gác một lâu đài nhỏ là đồn lũy cuối cùng của Miraz ở gần biển. Tôi không cần nói với quý vị là chúng chẳng moi gì được ở tôi, bởi vì tôi là một người lùn và như thế là đủ. Tôm và kẹo que! Cái thằng đồn trưởng ấy đúng là một thằng đại ngốc chỉ được cái vênh váo. Bất cứ ai cũng sẽ dẫn tôi đi qua đây. Nhưng chẳng có gì khiến hắn yên tâm hơn việc giải quyết tôi gọn nhẹ: bằng cách tống tiễn tôi đến chỗ ma quỷ với đầy đủ nghi thức. Và lúc ấy tiểu thư này (ông gật đầu với Susan) đã bắn tên đi - đó là một phát tên tuyệt đẹp. Tôi cần phải nói cho quý vị biết thế... và bây giờ chúng ta ở đây. Không còn con dao găm nữa bởi vì tất nhiên bọn chúng đã tước mất rồi! - Người lùn dốc tàn thuốc ra khỏi tẩu và mồi một tẩu thuốc khác.
- Thánh Scott vĩ đại! - Peter thốt lên. - Đấy là cái tù và - cái tù và của em, Su ạ. Chính nó đã kéo chúng ta ra khỏi ghế ngồi ở sân ga sáng hôm qua! Anh khó lòng tin nổi chuyện này, dù nó hoàn toàn khớp với nhau.
- Em không hiểu tại sao anh lại không tin, - Lucy nói, trong khi anh vẫn tin vào các phép màu. Chúng phải có nhiều câu chuyện nói về các phép thuật buộc con người ta phải rời khỏi chỗ của mình - ra khỏi một thế giới này để bước vào một thế giới khác - hay sao? Em muốn nói khi một pháp sư trong truyện Ngàn lẻ một đêm gọi một vị thần nào đó thì ông thần này bao giờ cũng hiện lên đấy thôi. Chúng ta nhất định phải đến, chỉ đơn giản thế thôi.
- Phải, - Peter nói, - anh cho rằng cái điều làm cho nó có vẻ kỳ lạ chính là trong những câu chuyện ấy bao giờ cũng có một ai đó trong thế giới chúng ta cầu cứu. Không một ai thật sự thấy rõ các vị ấy từ đâu đến.
- Thế thì bây giờ chúng ta được biết một vị thần có cảm giác như thế nào. - Edmund nói với một tiếng cười thích chí. - Chao ôi! Cũng có chút bực mình khi biết chúng ta có thể bị lôi đi như thế này. Thế còn tệ hơn là cái điều mà bố nói về việc sống nhờ vào ơn huệ của điện thoại.
- Nhưng chúng ta muốn có mặt ở đây, đúng không nào, - Lucy hỏi, - nếu như Aslan cần đến chúng ta.
- Còn bây giờ, - chú lùn xen vào, - chúng ta sẽ làm gì? Tôi cho rằng tốt nhất là tôi nên quay về chỗ vua Caspian báo lại là chẳng có sự giúp đỡ nào cả.
- Không có sự giúp đỡ ư? - Susan xen vào. - Nó đã có tác dụng. Chúng tôi đã đến đây.
- Hừm, hừm... à phải, chắc chắn rồi. Tôi thấy rồi. - Chú lùn nói, cái tẩu lại tắt ngúm (dù sao thì ông cũng khiến cho mình bận rộn luôn tay với việc thông tẩu thuốc). - Nhưng... phải. Tôi muốn nói...
- Nhưng ông không nhận ra chúng tôi là ai sao? - Lucy la toáng lên. - Ông thật ngốc quá đi.
- Tôi cho rằng quý vị là bốn đứa trẻ bước ra từ những huyền thoại xưa cũ. - Trumpkin nói. - Tất nhiên tôi rất vui mừng khi được gặp quý vị. Thật thú vị, đúng thế. Nhưng... thôi đừng phật lòng nhé... - và ông ta lại lúng búng trong miệng một lúc.
- Đừng quanh co nữa, cứ nói toạc ra cái điều ông định nói đi. - Edmund nói.
- Vâng... đừng bực bội. - Chú lùn lẩm bẩm. - Nhưng quý vị biết đấy, đức vua, bác lửng Truffehunter và tiến sỹ Cornelius trông đợi - phải, nếu các vị hiểu tôi muốn nói gì - vào một sự giúp đỡ. Nói một cách khác tôi nghĩ họ hình dung quý vị là những chiến binh vĩ đại. Nói thật tình chúng tôi cũng rất yêu các cháu nhỏ, thật thế... nhưng chả là vào lúc này, giữa lúc nước sôi lửa bỏng của một cuộc chiến... nhưng tôi chắc quý vị hiểu...
- Ông muốn nói ông nghĩ chúng tôi chỉ là mấy nhãi nhép vô tích sự? - Edmund nói, mặt đỏ gay đỏ gắt.
- Làm ơn... xin quý vị đừng mếch lòng. - Chú lùn cắt ngang. - Tôi xin đoan chắc... những người bạn nhỏ thân yêu của tôi...
- Nhỏ? Cái từ này ở miệng ông có nghĩa quá lớn đấy. - Edmund nói, nhảy dựng lên. - Tôi cho là ông không tin là chúng tôi đã thắng trong trận Beruna. Phải, ông cứ nói trắng ra cái điều ông muốn nói về chúng tôi, bởi vì tôi biết...
- Thôi nào, không việc gì phải mất bình tĩnh, Ed. - Peter nói. - Hãy vào trong kho báu trang bị cho ông ta vũ khí thích hợp và cho cả chúng ta nữa, sau đó hãy nói chuyện như những người lớn.
- Em còn chưa rõ điểm này. - Edmund bắt đầu thấy Lucy đã nói thầm vào tai nó. - Chẳng phải tốt hơn nếu chúng ta làm theo lời anh Peter sao. Anh ấy lại là vị vua tối cao, anh cũng biết rõ còn gì. Em nghĩ anh ấy có một ý nào đó.
Edmund đồng ý ngay và cùng với ngọn đuốc chạy bằng pin cả bốn anh em cùng với ngọn đuốc chạy pin cả bốn anh em cùng Trumpkin đi xuống thang vào kho châu báu vừa tối vừa lạnh lẽo và đầy bụi bẩn.
Mắt chú lùn sáng lên khi nhìn thấy bao nhiêu là báu vật nằm trên kệ (mặc dầu ông phải kiễng chân lên mới nhìn thấy một phần) và ông lẩm bẩm một mình:
- Không bao giờ được để cho Nikabrik biết điều này, không bao giờ!
Họ dễ dàng tìm thấy một bộ áo giáp cùng gươm, mũ trụ, khiên, cung và một bao đựng tên, phù hợp với chiều cao của một người lùn. Mũ trụ bằng đồng có dát những viên hồng ngọc và chuôi gươm bằng vàng. Trumpkin chưa bao giờ nhìn thấy mà cũng chưa bao giờ mang trên người những vật nhẹ là thế mà lại giá trị đến thế. Bọn trẻ cũng tự trang bị cho mình áo giáp và mũ trụ; một thanh gươm và một cái khiên cho Edmund, cung và tên cho Lucy. Peter và Susan thì đã có sẵn những món quà của mình. Khi bọn trẻ lên cầu thang, nai nịt gọn gàng trong những bộ áo giáp, chúng đã có cái dáng vẻ và cảm xúc gần gũi với người Narnia hơn và ít đi cái chất của học trò người Anh hơn. Hai anh em trai tụt lại sau một chút, rõ ràng là đang bàn tính một kế hoạch gì đó. Lucy nghe Edmund nói:
- Không, hãy để em làm việc này. Ông ta sẽ cảm thấy bẽ mặt hơn nếu em thắng và chúng ta cũng đỡ mất thể diện hơn nếu em thua.
- Được thôi, Ed. - Peter đồng ý.
Khi họ đi ra bên ngoài, Edmund quay sang chú lùn với một vẻ tao nhã, uy nghiêm của một ông vua và nói:
- Tôi có một vài điều kiện muốn thưa cùng ông. Bọn trẻ con chúng tôi thường không có dịp gặp gỡ một chiến binh vĩ đại như ông. Chẳng hay ông có vui lòng đấu kiếm thuật cùng tôi không? Đó sẽ là một điều hết sức hợp lý.
- Nhưng mà anh bạn ạ, - Trumpkin nói, - đao kiếm không kiêng dè ai đâu.
- Tôi biết. Và tôi cũng biết cách không bao giờ quá gần ông; còn ông chắc sẽ đủ thông minh để tước vũ khí của tôi mà không làm tổn thương đến tôi.
- Đây là một trò chơi nguy hiểm. - Trumpkin nói. - Nhưng vì cậu đã nói thế thì tôi sẽ cố thử một vài hiệp xem sao.
Hai thanh gươm cùng vung lên một lượt, ba đứa còn lại nhảy ra khỏi đài đứng xem. Đó là một cuộc đấu kiếm đáng xem, nó không giống như những trận đánh ngu xuẩn mà bạn chứng kiến với những thanh kiếm to bản trên sân khấu đâu. Cũng không giống như một cuộc đấu kiếm mà đôi lúc bạn đã được xem. Đây là cuộc đấu ra trò, thật sự. Mục tiêu chính là đâm mũi kiếm vào chân đối phương bởi vì nó không có gì bảo vệ. Khi đối phương đâm kiếm vào chân bạn, bạn phải phóng lên sao cho cú đánh sạt dưới chân. Điều này tạo cho chú lùn một lợi thế bởi vì Edmund cao hơn nên bao giờ cũng phải cúi xuống để đánh. Tôi không nghĩ là Edmund có cơ hội chiến thắng nếu nó chiến đấu với Trumpkin vào 24 giờ trước. Nhưng không khí ở Narnia rất tốt đối với nó kể từ lúc chúng đặt chân đến hòn đảo. Vào lúc này không khí hào hùng của những trận đánh ngày xưa lại dội về, cánh tay và những ngón tay của nó vẫn ghi nhớ kỹ năng cần thiết. Nó từng là vua Edmund mà. Hai chiến binh xoay tròn thành một vòng, đâm hết nhát kiếm này đến nhát kiếm khác và Susan (người không bao giờ tiếp thu được cái loại hình nghệ thuật đánh nhau này) kêu la luôn miệng:
- Ôi trời, xin hãy cẩn thận, cẩn thận!
Sau cùng, nhanh như không ai (trừ những người biết rõ về kiếm thuật như Peter chẳng hạn) có thể nhìn thấy điều đó xảy ra như thế nào, Edmund xoay thanh kiếm thành một vòng và thanh gươm của chú lùn rơi xoảng một cái xuống đất. Trumpkin đứng giơ tay lên trời như bạn vẫn làm sau khi để rơi mất cái chày đánh bóng trong crickê.
- Không có vấn đề gì... tôi hy vọng thế... người bạn nhỏ thân yêu ạ! - Edmund nói, thở hổn hển một chút, đoạn cho thanh kiếm vào bao.
- Tôi thấy rồi. - Trumpkin nói giọng khô khan. - Cậu biết một mánh mà tôi chưa học được.
- Đúng thế, - Peter nói, - kiếm sĩ tài ba nhất trên đời cũng có thể bị rơi kiếm bởi một đường kiếm mới lạ đối với ông ta. (Tôi nghĩ đó cũng là một điều công bằng, cũng phải tạo cho Trumpkin một cơ hội hiểu ra một cái gì đó.) Ông vui lòng bắn cung với em gái tôi chăng? Ông cũng biết là không có mánh lới gì trong nghệ thuật bắn cung.
- Ôi, quý vị lại khéo đùa nữa rồi. - Chú lùn nói. - Tôi bắt đầu thấy rõ rồi. Cứ làm như tôi không biết rõ cô ấy bắn cung như thế nào sau những chuyện đã xảy ra sáng hôm qua ấy. Nhưng thôi cũng được, để tôi thử xem sao.
Ông nói bằng một giọng dửng dưng nhưng đôi mắt lại sáng lên bởi vì Trumpkin vốn nổi tiếng là một thiện xạ trong những người của mình.
Cả năm người đi ra ngoài sân.
- Đích bắn là ở đâu? - Peter hỏi.
- Em nghĩ quả táo treo trên bờ tường kia có thể là đích nhắm tới được đấy.
- Ngon ăn thôi, cô bé, - Trumpkin đáp. - Cô muốn nói cái quả màu vàng ở giữa cổng phải không?
- Không, không. - Susan đáp. - Quả táo đỏ trên cao kia kìa - ở trên lỗ châu mai.
Chú lùn xịu mặt xuống. "Trông nó giống một trái cherry hơn là một quả táo." - Ông lẩm bẩm nhưng không dám nói to.
Họ tung đồng xu lên trời để phân định xem ai bắn trước, (đó là một điều hết sức thú vị đồi với Trumpkin, ông chưa từng trông thấy một đồng xu tung lên trời bao giờ) và Susan là người bắn sau. Các cung thủ đứng trên bậc thềm cao nhất. Ai cũng có thể nhìn thấy từ cái cách chú lùn lấy tư thế và giương cung lên mà biết rằng ông hiểu chuyện mình đang làm.
Dây cung kêu tách. Đó là một phát tên rất tuyệt. Quả táo nhỏ dường như run rẩy khi mũi tên sượt qua và một chiếc lá xoay tròn xoay tròn rơi xuống. Đến lượt Susan bước lên bậc thềm trên cùng và kéo dây cung. Nó không háo hức với cuộc so tài như Edmund, không phải bởi vì nó nghi ngờ khả năng bắn trúng đích mà bởi vì Susan có một trái tim quá nhân hậu nên nó ghét cái việc chiến thắng người đã bị thua một lần. Chú lùn chăm chú nhìn trong lúc nó kéo dây cung đến gần mang tai. Một giây sau với một tiếng bịch nhẹ nhàng mà họ có thể nghe thấy trong không gian tuyệt đối yên tĩnh, quả táo có mũi tên của Susan cắm chính giữa rơi lên bãi cỏ.
- Làm tốt lắm, Su! - Mấy đứa khác kêu lên.
- Thật ra không tốt hơn phát tên của ông đâu. - Susan nói với chú lùn. - Tôi nghĩ mũi tên của ông bay như gió thoảng vậy.
- Không đâu, không phải như vậy. Xin đừng nói với tôi như thế. Tôi biết tôi đã hoàn toàn bị đánh bại. Thậm chí tôi cũng không muốn viện cớ là vết thương mới đây của tôi bỗng nhói lên một cái trong khi tôi đưa cánh tay ra sau.
- Thế ra ông bị thương ư? - Lucy hỏi. - Đâu đưa cho tôi xem nào?
- Không phải là cái gì để cho một cô bé xem. - Trumpkin nói, đoạn ông tự trách mình. - Đấy, tôi lại nói năng như một thằng ngốc nữa rồi. Tôi cho rằng rất có thể cô là một bác sỹ phẫu thuật tài ba, cũng như anh trai cô là một tay kiếm có hạng và chị cô là một nhà thiện xạ.
Ông ngồi xuống một bậc thềm, cởi áo giáp ra rồi cởi chiếc áo sơ mi bên trong để lộ một cánh tay lông lá có bắp thịt (khá cân đối) như một thủy thủ dù nó không lớn hơn cánh tay của một đứa trẻ. Vết thương trên vai được băng bó vụng về, Lucy gỡ cái băng ra. Bên dưới lớp băng, vết thương khá sâu và đã sưng tấy.
- Ôi, ông già Trumpkin đáng thương, - Lucy nói, - sao lại để vết thương nhiễm trùng như thế này? - Rồi cô bé cẩn thận nhỏ vào vết thương một giọt thuốc từ cái lọ kim cương.
- Trời ơi! Cô làm cái gì đấy? - Trumpkin hỏi. Nhưng vì ông quay đầu đi chỗ khác lại nheo mắt và lắc lắc chòm râu rậm nên ông không nhìn thấy vai của mình. Ngay lập tức ông cảm thấy cái đau dịu lại như không hề có vết thương. Ông bèn đưa cả cánh tay và cử động các ngón tay ở những vị trí khó khăn như bạn vẫn làm khi cố với một vật gì đó ngoài tầm tay của mình. Sau đó ông vung tay, giơ lên, thử các cơ bắp và cuối cùng thì vừa nhảy tưng tưng vừa la oai oái:
- Khổng lồ và quỷ Juniper! Vết thương lành hẳn rồi. Ngon lành như một cánh tay mới. - Chú lùn bật ra một tràng cười tai quái và nói. - Trời đất, tôi đã làm cho mình trở thành một tên đại ngốc như một thằng lùn có thể lâm vào. Tôi hy vọng mọi người không giận. Bổn phận khiêm tốn của tôi với các bậc đế vương là những lời nói này. Xin cảm ơn đã cứu sống tôi, chữa lành vết thương cho tôi, đãi tôi một bữa sáng và dạy cho tôi một bài học.
Bọn trẻ đều nói mọi chuyện không có gì phải ầm ĩ và nói qua chuyện khác.
- Bây giờ, - Peter nói, - nếu ông tin tưởng chúng tôi...
- Tôi tin, tôi tin. - Chú lùn Đỏ nói.
- Thế thì việc chúng ta cần làm đã rõ ràng, cụ thể hơn. Chúng ta phải tham gia vào đạo quân của vua Caspian ngay.
- Và sớm chừng nào tốt chừng nấy. Vì sự ngu ngốc của tôi mà chúng ta đã bỏ phí mất một giờ quý báu.
- Con đường mà ông đi mất hai ngày. - Peter nói. - Về phía chúng tôi... tôi muốn nói chúng tôi không thể đi bộ cả ngày lẫn đêm như người lùn các ông. - Sau đó quay sang các em, nó nói tiếp. - Cái mà Trumpkin gọi là Gò Đôi rõ ràng là nơi Bàn Đá. Các em có nhớ là từ đây đến chỗ khúc sông cạn Beruna cũng chỉ hết nửa ngày có khi còn ít hơn, phải không?
- Chúng tôi gọi nó là cầu Beruna. - Trumpkin nói.
- Thời chúng tôi còn chưa có cầu. Và như vậy từ Beruna xuống đây có phải mất thêm một ngày nữa. Chúng ta thường về nhà vài giờ uống trà ngày thứ hai một cách dễ dàng. Nếu cố gắng đi nhanh có thể chúng ra chỉ mất khoảng một ngày rưỡi thôi.
- Nhưng nhớ là bây giờ chỉ có toàn là rừng rậm, - Trumpkin nói, - và khắp nơi còn có kẻ thù nữa.
- Coi nè, - Edmund lên tiếng, - chúng ta có cần đi lại đúng con đường mà người bạn nhỏ thân yêu của chúng ta đã đến không?
- Xin đừng nói thế bệ hạ, nếu người còn yêu thương tôi. - Chú lùn nói.
- Được thôi, - Edmund chưa buông tha, - tôi có thể gọi ông là D.L.F được không?
(D.L.F - viết tắt của Dear Little Friend, có nghĩa là người bạn nhỏ thân yêu.)
- Thôi đi Edmund, - Susan nhắc em trai, - đừng trêu ghẹo ông ấy.
- Được thôi, chú... tôi muốn nói bệ hạ. - Trumpkin nói với một tràng cười gượng gạo. - Một lời giễu cợt không làm người ta hề hấn gì. (Sau đó bọn trẻ thường gọi ông là D.L.F cho đến lúc chúng gần như quên mất nguồn gốc của biệt danh đó.)
- Như tôi đã nói, - Edmund tiếp tục, - chúng ta không cần đi qua con đường đó. Tại sao chúng ta không bơi thuyền lên một chút về hướng nam cho đến khi ta đến nhánh sông Nước Thủy Tinh rồi bơi thuyền ngược lên? Nhờ vậy chúng ta sẽ đi lên từ phía sau đồi Bàn Đá, và chúng ta sẽ an toàn một khi chúng ta ở ngoài biển. Nếu khởi hành ngay, ta có thể đến thượng nguồn Nước Thủy Tinh trước khi trời tối, có một vài giờ ngủ cho lại sức và có mặt ở chỗ Caspian vào lúc trời sáng.
- Cũng cần phải thông thuộc đường bờ biển. - Trumpkin nói. - Mà không ai trong chúng ta biết gì về Nước Thủy Tinh.
- Còn thức ăn thì sao? - Susan hỏi.
- Chúng ta sẽ hái một ít táo. - Lucy nói. - Bây giờ đi hái táo đi. Chúng ta còn chưa làm gì mà đã mất toi gần hai ngày rồi còn gì.
- Dù sao thì cũng không ai lấy mũ của tôi để đựng cá nữa. - Edmund nói.
Họ dùng mấy cái áo mưa như một cái túi để đựng táo. Sau đó tất cả uống no một bụng nước giếng (bởi vì họ sẽ không gặp một nguồn nước ngọt nào nữa cho đến khi họ đến được nhánh sông) rồi tất cả xuống thuyền. Bọn trẻ buồn bã khi rời xa Cair Paravel, dù cho nó chỉ là một đống đổ nát thì chúng cũng đã bắt đầu coi nó như nhà mình.
- D.L.F cầm lái sẽ tốt hơn, - Peter chỉ đạo, - Ed và tôi mỗi người cầm một mái chèo. Hượm đã. Tốt nhất chúng ra hãy cởi áo giáp ra, trời đã bắt đầu nóng lên rồi. Các cô gái ngồi ở đuôi thuyền chỉ đường cho D.L.F bởi vì ông ấy không biết đường. Tốt nhất ông hãy lái ra xa bờ một chút cho đến khi chúng ta đi qua hòn đảo này.
Chẳng bao lâu sau bãi biển xanh biếc rợp bóng những hàng cây của hòn đảo nhỏ đã xa dần, những cái vịnh nhỏ, doi đất đã bắt đầu có vẻ đẹp hơn, con thuyền trồi lên, thụp xuống trên những lớp sóng mấp mô nhẹ nhàng. Biển bắt đầu phình to hơn, to hơn chung quanh họ. Khoảng nước ở xa xanh như ngọc, khoảng nước ở gần thuyền thì có màu xanh lá cây và nổi bọt. Mọi thứ đều nghe như có mùi muối mặn, chẳng có một âm thanh gì ngoài tiếng sóng biển, tiếng nước vỗ ì oạp vào hai bên mạn thuyền, tiếng quạt nước của mái chèo và tiếng xóc lạch cạch của cọc chèo. Mặt trời mỗi lúc một nóng rát hơn. Lucy và Susan vui sướng ngồi ở hai mũi cúi ra ngoài mạn thuyền cố thò tay xuống nước nhưng không được. Nước trong như lọc có thể nhìn thấy lớp cát tinh khôi, nhạt màu thỉnh thoảng có điểm những vạt tảo biển màu tím.
- Cũng giống như ngày xưa, - Lucy nói, - các anh chị có nhớ chuyến đi của chúng ta tới Terebinthia... rồi Galma... Bảy Đảo... và Quần đảo Đơn Côi nữa?
- Có, chị còn nhớ, nhớ cả con tàu lớn của chúng ta là Splendor Hyaline với cái đầu thiên nga ở mũi tàu, đôi cánh chạm trổ kéo ra sau dài đến nửa lưng tàu.
- Còn những cánh buồm bằng lụa và những cái đèn lồng ở đuôi tàu nữa.
- Và những bữa tiệc trên boong cùng một dàn nhạc.
- Mọi người còn nhớ cái lần chúng ta đưa các nhạc công lên trên cột buồm thổi sáo và nhờ thế chúng ta có một thứ âm nhạc từ trên trời vọng xuống không?
Lúc này Susan cầm lấy mái chèo thay cho Edmund để cho nó có thể ngồi gần Lucy nghỉ một lát. Thuyền đã qua khỏi đảo và bây giờ vào gần bờ hơn - tất cả chỉ có rừng cây và một không khí hoang vắng. Bọn trẻ hẳn sẽ cho là nơi này rất đẹp nếu chúng không nhớ rằng có một thời bãi biển này trải rộng đầy nắng gió, trên bến dưới thuyền nhộn nhịp biết bao nhiêu.
- Chà! Chèo thuyền cũng là một việc vất vả phải biết. - Peter vừa thở hổn hển vừa nói.
- Em có thể chèo một lúc không? - Lucy hỏi.
- Mái chèo nặng quá đối với em. - Nó đáp giọng cộc lốc không phải vì bực bội mà bởi vì không còn sức để nói nữa.