Chương 16: Trở về
Sáng hôm sau khi Jill tỉnh giấc và thấy mình đang nằm trong hang, nó kinh hoàng nghĩ rằng mình đã trở lại Vương quốc Bóng Tối. Nhưng khi nó nhận ra là mình đang nằm trên một cái mềm lông đắp trên người và nhìn thấy ngọn lửa tươi vui (như vừa mới nhen) trong một cái lò sưởi xây bằng đá và xa hơn, ánh sáng tinh khôn của một sớm ban mai đã tràn vào cửa hang thì nó lại nhớ lại cái sự thật vui vẻ hôm qua. Họ có một bữa tiệc liên hoan thật tuyệt, tất cả đều chen chúc vào trong hoang mặc dù nó buồn ngủ díp cả mắt lại khi bữa tiệc đã tàn. Nó có một ký ức mơ hồ về việc các chú lùn quây quần bên bếp lò với những cái chảo rang còn lớn hơn cả bản thân họ nữa. Có tiếng gì vừa xèo xèo, mùi xúc xích nướng thơm lừng và còn nhiều xúc xích, nhiều hơn nữa. Không phải loại xúc xích khốn khổ một nửa độn mì hoặc bột đậu xanh mà là loại xúc xích thật sự, có gia vị, mỡ màng, nóng hổi, bỏ vào môi trôi vào miệng. Những cái ly cối đựng đầy có ngọn một thứ sôcôla sủi bọt, khoai tây chiên, hạt dẻ rang thơm lừng, táo nướng với nho nhồi ở giữa và món kem... ôi tuyệt vời, nó làm bạn có cảm giác như mình trở thành một người khác, với cảm giác mát lạnh trong cổ sau khi vừa xơi xong những món nóng.
Jill ngồi dậy nhìn quanh. Puddleglum và Eustace nằm cách nó không xa vẫn ngủ say tít.
- Chào hai người. – Jill kêu to. – Bộ quý vị không tính dậy hay sao?
- Suỵt suỵt! – Một giọng ngái ngủ vang lên ở đâu phía trên đầu cô bé. – Mọi thứ rồi sẽ đâu vào đấy. Được một giấc ngủ ngon hả? Đừng làm ồn chứ.
- A ha, tôi tin là, - Jill reo lên đưa mắt nhìn một đám lông trắng mịn như tơ đang đậu trên một cái đồng hồ cũ kĩ để ở góc hang, - tôi tin kia chính là Glimfeather.
- Thì đúng, thì đúng thế, - Cú rúc lên, thò đầu ra khỏi một bên cánh, đoạn mở một con mắt ra – Tôi mang một thông điệp đến cho hoàng tử vào lúc 2 giờ sáng. Bọn sóc truyền tin vui nức lòng đến chỗ chúng tôi. Còn chúng tôi mang tin nhắn khẩn đến cho hoàng tử. Chàng đã đi. Các bạn cũng phải đi theo. Chúc một ngày tốt lành! - Và cái đầu cú lại rúc vào một bên cánh.
Dường như không thể moi thêm được tin gì từ cú nữa, thế là Jill đứng dậy nhìn quanh xem có chỗ nào rửa mặt mũi và có cơ hội ăn điểm tâm không. Ngay lúc đó một thần rừng bé nhỏ chạy và hang với tiếng móng guốc nện côm cốp trên sàn đá.
- Ôi, cuối cùng cô bé đã dậy, con gái của Eva ạ. Có lẽ cháu nên đánh thức con trai của Adam dậy. hai cháu sẽ rời khỏi đây trong vòng ít phút nữa. Hai vị nhân mã đã có nhã ý mời các cháu cưỡi lên lưng họ để trở về Cair Paravel. – Đến đây ông nói thêm, giọng nhỏ hơn: - Tất nhiên cháu cũng nhận ra đây là một vinh dự đặc biệt chưa từng thấy nghe thấy ở Narnia chứ? Được bay đi trên lưng nhân mã! Tôi không biết là đã từng nghe có ai được vinh dự này chưa. Không nên để cho họ chờ đợi lâu.
- Thế hoàng tử đâu? – Đó là câu hỏi đầu tiên của Puddleglum và Eustace lúc mở mắt thức dậy.
- Chàng đã đi gặp vua cha ở Cair Paravel. – Vị thần rừng có tên là Orruns nhanh nhảu đáp. Con tàu của đức vua có thể cập bến sớm. Có vẻ như vua đã gặp được Aslan – tôi không biết là trong mộng hay được gặp mặt hẳn hoi – trước khi tàu đi quá xa. Aslan đã bảo vua quay tàu về và nói ngài sẽ tìm thấy người con thất lạc lâu ngày đang đợi mình ở Cair Paravel.
Eustace đã tỉnh táo, nó và Jill giúp Orruns một tay chuẩn bị bữa ăn sáng. Người ta bảo Puddleglum cứ nằm nghỉ trên giường. Một nhân mã tên là Cloudbirth, một người chữa bệnh rất mát tay sẽ đến khám vết thương ở chân cho bác.
- Ối giời! Puddleglum vội nói với giọng gần như là mãn nguyện. – Chắc ông ta chỉ muốn cắt béng cái chân của tôi đến đầu gối thôi, tôi thì tôi còn lạ gì. Cứ chờ xem ông ta có làm như thế không.
Trong thâm tâm bác ta rất vui sướng, khi được nằm nướng trên giường.
Bữa điểm tâm có món trứng ốp la và bánh mì nướng, Eustace chén rất nhiệt tình cứ như thể nó chẳng hề ăn một bữa tối thịnh soạn vào nửa đêm hôm qua.
- Này, con trai của Adam, - thần rừng ngạc nhiên khi thấy Lông Vịt tọng hết miếng này đến miếng khác vào miệng, - không cần thiết phải vội vã như vậy. Tôi không nghĩ là các nhân mã đã ăn xong bữa sáng của họ.
- Nếu như vậy thì họ dậy trễ đấy. Tôi đoán bây giờ cũng đã quá 10 giờ rồi.
- Ồ không, - Orruns nói, - họ trở dậy trước khi trời sáng.
- Thế thì chắc họ phải đợi thật lâu mới được ăn sáng. – Eustace đưa ra kết luận.
- Cũng không phải vậy nốt. Họ bắt đầu ăn vào ngay cái phút mà họ thức dậy.
- Khiếp! Chắc họ ăn hàng thúng uống hàng thùng hả?
- Ôi, con trai của Adam, cậu không hiểu ư? Một nhân mã vừa có cái dạ dày của con người vừa có cái dạ dày của một ngựa. Tất nhiên cả hai cái đều muốn ăn sáng. Đầu tiên bác ta ăn cháo với cá pavender và cật, rồi ăn thịt hun khói, trứng tráng, thịt heo muối để lạnh, bánh mì nướng, mứt cam, café và bia. Sau đó bác ta bắt đầu chiều theo cái bao tử ngựa trong cơ thể mình bằng cách gặm cỏ trong vòng một hai tiếng rồi tráng miệng với món cám nóng và một ít lúa mạch, cuối cùng là một túi đường. Đó là lí do tại sao việc đòi hỏi một nhân mã ở lại đến cuối tuần lại đặc biệt đến như vậy.
Vừa lúc đó nghe vang lên tiếng vó ngựa đạp vào đá rào rào ở ngoài cửa hang và bọn trẻ ngẩng đầu nhìn lên. Hai nhân mã, một râu đen, một râu vàng phủ dài xuống bộ ngực trần vĩ đại, đang đứng đợi chúng, đầu hơi cúi xuống một chút để có thể nhìn vào hang. Thế là hai đứa nhanh chóng kết thúc bữa sáng của chúng. Không ai dám nghĩ một nhân mã có vẻ buồn cười khi gặp họ. Họ là những người trang nghiêm, đường bệ, toát lên một vẻ khôn ngoan cổ kính, một điều họ học được từ cái vì sao và không dễ gì làm họ biểu lộ niềm vui hay sự giận dữ. Nhưng cơn giận của họ thì dữ dội và khủng khiếp như một trận bão tố một khi nó xảy ra.
- Tạm biệt nhé bác Puddleglum thân yêu! – Jill nói và đi đến bên giường của bác Puddleglum già. – Cháu xin lỗi việc chúng cháu từng gọi bác là cái mền ướt.
- Cả cháu cũng thế! – Eustace nói. – Bác chính là người bạn tốt nhất trên đời.
- Và chúng cháu hy vọng sẽ được gặp bác lần nữa. – Jill nói thêm.
- Không có cơ hội ấy đâu, tôi dám nói thế đấy. Tôi cũng không nghĩ rằng tôi còn có thể thấy cái túp lều của mình. Còn hoàng tử - một thanh niên dễ mến là thế - các cháu có nghĩ là chàng ta đủ mạnh mẽ không? Người khỏe mạnh mấy cũng bị hủy hoại vì sống lâu ở dưới lòng đất như thế. Coi xem, cả những người trai tráng vẫn có thể ra đi vào bất cứ lúc nào.
- Puddlegum! – Jill phì cười. – Bác đúng là một tên đại bịp dễ thương nhất trên đời. Bác nói thì nghe sầu não như đang trong đám ma nhưng cháu tin bác là một người vui vẻ nhất. Bác nói như một kẻ hèn nhát sợ tất cả mọi thứ trên đời trong khi bác thật sự dũng cảm... như một chúa tể sơn lâm vậy.
- Lại nói đến đám ma... - Puddleglum bắt đầu, nhưng Jill đã nghe thấy hai nhân mã sốt ruột gõ móng phía sau lưng và nó đã làm bác già ngạc nhiên bằng cách dang hai tay ôm cái cổ cò của bác, hôn lên khuôn mặt mai mái đến chụt một cái, trong khi Eustace bắt tay bác thật chặt. Sau đó cả hai đứa chạy về phía nhân mã còn Puddleglum lại ngả lưng xuống giường miệng lẩm bẩm một mình:
- Thật không bao giờ mình ngờ được con bé lại làm thế. Cứ như thể mình là một gã bảnh trai không bằng.
Cưỡi trên người một nhân mã, không có gì phải nghi ngờ, chính là một vinh dự lớn (trừ Jill và Eustace chắc chắn trên đời này không có người nào được hưởng vinh dự đó) nhưng cũng có chỗ bất tiện. Bởi vì không có ai còn biết quý mạng sống của mình lại dám gợi ý là nên thắng yên cương trên người một nhân mã mà cưỡi ngựa không yên thì chẳng có gì sung sướng, nhất là Eustace một đứa chưa bao giờ học cưỡi ngựa. Nhân mã là một loại sinh vật hết sức lịch thiệp – theo cái lối trang trọng, tao nhã của lớp người nệ cổ. Khi phóng qua những cánh rừng Narnia họ không hề quay đầu lại, bình thản kể cho bọn trẻ nghe về đặc tính của các loại rễ cây và thảo mộc, sự tác động qua lại giữa các hành tinh, chín cái tên của Aslan cùng ý nghĩa của từng cái tên và những chuyện đại loại như vậy. Nhưng dù đau ê cả người vì bị xóc, hai đứa trẻ vẫn vui lòng hi sinh bất cứ cái gì để thực hiện lại chuyến đi ấy một lần nữa: được thăm lại những khóm rừng, những sườn đồi sáng lên lấp lánh dưới lớp tuyết tinh khôi, được nghe lại tiếng chào hỏi làm quen của lũ thỏ, sóc và chim chóc gặp trên đường, được ngửi lại một lần nữa bầu không khí ở Narnia và giọng nói của cây cỏ ở đây.
Họ đi về phía sông, một dòng nước sáng ngời, xanh biếc tuôn chảy dạt dào trong ánh nắng mùa đông, xa xa phía dưới là cây cầu cuối cùng (ở gần thị trấn Beruna với những ngôi nhà mái đỏ ấm cúng). Khách qua sông bằng những chiếc sà lan do những người chèo đò cầm lái hoặc chính xác là những người – cung quăng như Puddleglum bởi vì loại người này ở Narnia chủ yếu sống bằng nghề chở đò hoặc đánh bắt cá, nghĩ là gắn bó với sông nước. Sau khi đã qua phà, họ đi dọc bờ nam và đến Cair Paravel. Và kia chính là con tàu lộng lẫy cờ hoa mà hai đứa trẻ đã gặp khi lần đầu tiên đặt chân đến đây. Con tàu đang trôi về bến như một con thiên nga lớn. Tất cả những triều thần lại tụ họp trên đồng cỏ nằm giữa lâu đài và bến cảnh để đón vua Caspian trở về. Rilian đã thay bộ đồ đen bằng một chiếc áo choàng màu đỏ khoác ra ngoài áo giáp bạc. Anh đầu để trần nôn nóng ra đứng sát tận mép nước cùng với người lùn Trumpkin trên cỗ xe lừa, để đón đợi cha mình. Hai đứa bé cảm thấy có phần nào e ngại. Thế là chúng hỏi nhân mã xem chúng có thể ngồi trên lưng họ lâu hơn một chút để quan sát mọi việc từ trên cao không. Nhân mã đồng ý.
Tiếng kèn trumpet bằng bạc phát ra một điệu nhạc hùng tráng từ boong tàu, âm nhạc lướt trên mặt sông đến tận chỗ đám đông đứng đợi. Các thủy thủ ném xuống một sợi dây tời, chuột (tất nhiên là các bạn chuột biết nói) và người – cung quăng điều khiển con tàu bơi dần vào bờ, các nhạc công ẩn mình đâu đó trong đám đông bắt đầu tấu lên một khúc nhạc khải hoàn hùng tráng. Ngay lập tức một con thuyền galley hạ xuống, những chú chuột chạy lên chạy xuống chiếc cầu rút.
Jill nghĩ sẽ nhìn thấy vị vua già từ từ bước ra. Nhưng rõ ràng là có trục trặc nào đó. Một quý ông với khuôn mặt tái mét bước lên, quỳ trước mặt hoàng tử và Trumpkin nhưng không ai nghe thấy họ nói gì với nhau. Nhạc vẫn chơi nhưng bạn có cảm giác có một cái gì đó làm cho bầu không khí trở nên bồn chồn. Sau đó, bốn nhà quý tộc khiêng một vật dài từ từ hiện ra trên boong tàu. Khi họ bắt đầu đi trên cầu tàu bạn có thể trông thấy cái họ đang khiêng: đó là vị vua già, xanh xao đang nằm bất động trên giường. Họ đặt cái giường xuống. Hoàng tử quỳ xuống bên cha, ôm lấy cha già. Họ có thể vị vua giơ tay lên chúc phúc cho con trai. Mọi người kêu lên chúc mừng nhưng đó là những tiếng kêu ỉu xìu buồn bã bởi vì ai cũng biết là có một điều gì đó không ổn. Chợt đầu nhà vua ngã xuống gối, các nhạc công ngừng chơi đàn, không khí im lặng chết chóc bao trùm lên tất cả. Hoàng tử vẫn quỳ bên giường vua gục đầu xuống đấy, khóc.
Có tiếng thì thầm và chuyển động trong đám đông. Sau đó, Jill nhận ra tất cả những người đội mũ trùm đều bỏ mũ xuống – trong số đó có cả Eustace. Rồi Jill nghe thấy tiếng phần phật và rậm rịch vang lên từ lâu đài, phóng tầm mắt về phía đó nó thấy một lá cờ lớn với hình ảnh sư tử vàng rực được mang xuống cột cờ. Sau đó cùng với những tiếng nỉ non của các dụng cụ đàn dây và tiếng rền rĩ ai oán của tù và, một khúc nhạc lễ tang bắt đầu được tấu lên, chậm rãi, bi thương. Lần này âm nhạc làm tin bạn như muốn vỡ ra, nhức nhối.
Cả hai đứa cùng tụt khỏi lưng nhân mã (những sinh vật này không để ý đến chúng nữa).
- Ước gì tớ đang ở nhà. – Jill phụng phịu nói. Eustace gật đầu, chẳng nói năng gì, chỉ cắn môi.
- Ta đã đến! – Một giọng nói sâu thẳm vang lên từ phía sau, hai đứa giật mình quay lại thấy đó là Aslan, tỏa ánh hào quang, có thật và mạnh mẽ đến nỗi so với ông tất cả những sinh vật khác trông đều nhợt nhạt như cái bóng. Trong vài giây Jill quên mất việc ông vua vừa băng hà mà chỉ nhớ đến việc nó đã khiến Eustace rơi xuống vực, đã quên hầu hết các dấu hiệu và nhớ lại những lỗi lầm của mình cả những cuộc cãi vã. Nó chỉ muốn nói: "Con xin lỗi!" nhưng sao nó không thể mở miệng ra nói được. Sư tử đến gần, nhìn chúng với cái nhìn thấu suốt và cúi xuống, chạm đầu lưỡi vào khuôn mặt xanh xao của từng đứa và nói:
- Đừng nghĩ đến những chuyện này nữa. Không phải bao giờ ta cũng trách mắng đâu. Các con đã hoàn thành công việc ta giao phó.
- Thưa Aslan, - Jill nói, - chúng con có thể về nhà bây giờ không ạ?
- Hẳn rồi. Ta đến để đưa các con về mà.
Đoạn ông há miệng thổi. Nhưng lần này bọn trẻ không cảm thấy mình bay trong không trung mà dường như chúng vẫn đứng nguyên tại chỗ, trong khi hơi thở hoang dại của Aslan thổi cho con tàu, ông vua vừa băng hà, tòa lâu đài, tuyết trắng và bầu trời mùa đông bay đi. Bởi vì tất cả những thứ này đều bay bồng bềnh trong không khí tựa như những làn khói còn bản thân chúng thì lại bất thình lình đứng trên một thảm cỏ xanh mượt giữa một rừng cây đại thụ, bên cạnh một dòng suối trong mát, nên thơ vào một ngày hè tươi sáng tràn ngập ánh mặt trời và long lanh tiếng chim kêu. Rồi hai đứa trẻ phát hiện ra rằng một lần nữa chúng lại đứng trên đỉnh núi cao vượt lên và nằm bên ngoài cái thế giới trong đó có Narnia. Đó là đỉnh núi của Aslan. Điều kì lạ là bản nhạc tiễn biệt dành cho vua Caspian vẫn vang lên mặc dù không có ai biết được nó vang lên từ đâu. Chúng đang đi dọc theo bờ suối, sư tử đi phía trước và bởi vì ông quá đẹp còn bản bi ca thì tràn ngập một âm hưởng tuyệt vọng, Jill không hiểu mắt nó ứa lệ vì cái gì.
Thế rồi Aslan dừng lại, bọn trẻ nhìn xuống dòng suối. Và kia, trên lớp sỏi vàng óng giữa lòng suối, là vua Caspian, đã chết, nước chảy qua người ông như một lớp thủy tinh lỏng. Bộ râu dài trắng như bông lay nhẹ trong lòng nước như một loài rong. Cả ba người đứng lại, khóc. Cả Aslan cũng khóc: những giọt nước mắt lớn của sư tử vĩ đại, mỗi một giọt nước mắt còn quý hơn cả trái đất tựa như nó là một khối kim cương độc nhất. Jill nhận thấy rằng Eustace không giống một đứa trẻ khóc nhè hay một thằng con trai đang khóc và muốn giấu điều này, bạn nó khóc như một người đàn ông trưởng thành. Ít nhất thì đây cũng là một điều gần với cái điều nó có thể chịu được được, bởi vì trong thực tế, như sau này nó nói, con người dường như không có tuổi khi ở trên ngọn núi này.
- Con trai của Adam, - Aslan nói, - con hãy vào bụi kia bẻ một cái gai mà con tìm thấy trong đó rồi đưa lại đây cho ta.
Eustace vâng lời. Cái gai dài chừng ba phân, sắc như một mũi kim.
- Hãy đâm nó vào móng vuốt của ta, con trai của Adam. – Aslan nói, giơ bàn chân trước bên phải lên, chìa cái móng lớn ra cho Eustace.
- Con nhất định phải làm như thế sao? – Eustace nói.
- Đúng! – Aslan đáp.
Thế là Eustace cắn chặt hai hàm răng lại, ấn cái gai nhọn vào móng Aslan. Từ đó trào ra một giọt máu còn đỏ hơn tất cả những gì đỏ nhất mà bạn có thể nhìn thấy hoặc tưởng tượng. Giọt máu nhỏ xuống dòng nước bên trên cái xác của nhà vua. Cùng lúc đó điệu nhạc bi thương ngừng bặt. Xác vua Caspian bắt đầu có sự thay đổi. Bộ râu bạc trắng chuyển dần sang màu xám, rồi từ màu xám sang vàng, ngắn hơn, ngắn hơn rồi biến mất; đôi má hóp nhăn nheo trở nên tròn trịa, căng mọng; những nếp nhăn mờ dần rồi biến mất. Đôi mắt vua mở to, cả mắt và môi đều cười và thoắt một cái vua nhảy lên, đứng trước mặt họ - một chàng thanh niên hay đúng hơn một chú bé (nhưng Jill không thể xác định rõ điều này bởi vì người ta không có một độ tuổi nhất định ở đất nước của Aslan. Tất nhiên, trên đất nước này những đứa trẻ ngu ngốc nhất là những bé thơ đúng nghĩa nhất còn những người lớn ngu ngốc nhất lại là những người trưởng thành nhất); cậu bé nhào đến chỗ Aslan vòng đôi tay bé nhỏ để ôm lấy cái cổ to lớn của sư tử, hôn ông một cái bằng nụ hôn của một ông vua và Aslan hôn đáp lại bằng cái hôn của một vị chúa tể.
Cuối cùng Caspian quay sang hai đứa bé. Nhà vua bật ra một tràng cười tươi vui với một niềm vui bồng bột trẻ thơ:
- Cái gì thế này? Eustace ư? Eustace! Thế là cuối cùng cậu cũng đến được Nơi tận cùng thế giới. Lưỡi gươm tốt thứ hai của tôi đã bị cậu làm gãy khi đâm con rắn biển đâu rồi?
Eustace bước lên một bước với đôi tay dang rộng, nhưng rồi nó lùi lại, hoảng sợ.
- Coi này! Tôi nghĩ... - nó lập bập trong miệng, - tất cả đều rất tốt. Nhưng... nhưng không phải bệ hạ... Tôi muốn nói không phải bệ hạ đã...
- Ồ, đừng có ngốc như thế chứ. – Caspian nói.
- Nhưng, - Eustace nói, đưa mắt nhìn Aslan, - không phải... ông ấy... ông ấy đã chết rồi sao?
- Phải, - sư tử nói bằng giọng nhẹ nhàng và Jill nghĩ rất có thể ông đang cười nho nhỏ trong cổ, - ông ấy đã chết. Con biết đây, hầu như ai cũng phải chết. Ta cũng vậy. Nhưng có một số người không biến đi hẳn.
- Ồ, - Caspian nói, - tôi biết cái gì làm cậu bối rối rồi. Cậu nghĩ tôi là ma hoặc một cái gì đó rất ngớ ngẩn. Nhưng cậu không thấy sao tôi sẽ là ma nếu xấu hiện ở Narnia vào lúc này. Bởi vì tôi không còn thuộc về bất cứ nơi nào nữa. Nhưng người ta không thể là ma trên đất nước của mình. Tôi có thể là ma nếu tôi đi đến thế giới của bạn không? Tôi không rõ điều này đâu. Nhưng tôi cho rằng không phải trong thế giới các bạn bởi vì các bạn đang ở đây.
Một hy vọng lớn bùng lên trong lòng hai đứa bé. Nhưng Aslan lắc cái đầu vĩ đại với cái bờm vàng rực rỡ.
- Không, các con thân yêu! Khi các con gặp ta ở đây một lần nữa các con có thể ở lại. Nhưng không phải lúc này. Các con phải quay lại cái thế giới của mình một thời gian.
- Thưa ngài, - Caspian nói, - con bao giờ cũng mong muốn được tận mắt thấy thế giới của họ. Điều ấy có gì sai không ạ?
- Con không thể mong muốn những gì sai trái nữa, bởi vì bây giờ con đã chết con trai ạ. Con sẽ thấy được thế giới của họ - trong vòng năm phút tính theo thời gian của họ. Sẽ không lâu hơn để con sắp đặt mọi thứ đúng chỗ.
Rồi Aslan giải thích nơi mà Jill và Eustace sẽ trở về và tất cả những điều cần biết về trường Thực nghiệm: xem ra ông hiểu cũng rõ như chúng vậy.
- Con gái, - Aslan nói với Jill, - con hãy bẻ một cành cây trong bụi.
Jill làm theo, ngay lập tức cành cây trong tay nó biến thành một cái roi đi ngựa.
- Bây giờ thì con trai của Aslan, con hãy rút gươm ra nhưng chỉ dùng chuôi gươm thôi bởi vì đấy chỉ là những kẻ nhút nhát và những đứa trẻ, không phải là những chiến binh thật sự dành cho con đâu.
- Người sẽ đến cùng chúng con ư, Aslan? – Jill hỏi.
- Bọn họ chỉ thấy cái lưng ta mà thôi. – Aslan nói. – Ông dẫn họ đi nhanh qua rừng và trước khi họ đi được một đoạn thì bức tường ở trường Thực nghiệm đã hiện ra trước mặt. Đến đây Aslan gầm lên vang động làm cho cả đến mặt trời cũng run rẩy trên trời cao và bức tường cao khoảng 10 thước sụp đổ trước mặt họ. Cả một mảng lớn. Mọi người nhìn qua chỗ bức tường sụp thấy xa xa phía dưới bụi cây là mái nhà của khu thể thao, cũng cái bầu trời mùa thu ảm đạm mà hai đứa trẻ đã thấy trước lúc bắt đầu cuộc phiêu lưu.
Aslan quay lại nhìn Jill và Eustace, phà hơi thở vào người chúng, chạm lưỡi vào trán chúng. Đoạn ông nằm giữa đống gạch vụn của mảnh tường vừa bị phá, quay lại lưng vàng óng lại nước Anh, khuôn mặt cao quý hướng về phía xứ sở của mình. Cùng lúc đó Jill trông thấy một đám người mà nó biết rõ đang chạy qua bụi nguyệt quế về phía nó. Hầu hết băng đảng du côn đều có trong số này – Adela Pennyfather, Cholmondely Major, Edith Winterblott, "Spotty" Sorner, Bannister Cồ, và hai anh em sinh đôi nhà Garrett rất dễ ghét. Nhưng bất thình lình chúng dừng lại. Khuôn mặt chúng thay đổi, cái vẻ ti tiện, giả dối, độc ác và gian giả gần như biến mất chỉ còn lại biểu hiện duy nhất của nỗi kinh hoàng. Bởi vì trước mắt chúng một mảnh tường sập xuống, một con sư tử to như một con vui nằm ở ngay chỗ bức tường đổ và ba người mặc những bộ áo quần lộng lẫy, vũ khí trong tay xông về phía chúng. Nhờ sức mạnh của Aslan truyền cho, Jill múa gậy về phía bọn con gái, Caspian và Eustace vung chuôi gươm về phía bọn con trai với những đường kiếm tài tình đến nỗi chỉ trong vòng hai phút