Chương 08 - Phần 01
SUTTON CHANCELLOR
Sau khi rời khỏi ngôi nhà bên con kênh, Tuppence lái xe dọc son đường uốn khúc hẹp cô đoán chắc sẽ đưa mình đến làng thuộc Sutton Chancellor. Đó là một con đường cách biệt. Từ đó không nhìn thấy nhà - chỉ có những cánh cổng chắn từ đó những con đường mòn đầy bùn dẫn thẳng ra cánh đồng. Xe cộ rất ít - Có một xe máy kéo chạy dọc theo con đường, một chiếc xe tải chở hàng với bức tranh một ổ bánh khổng lồ trông thiếu tự nhiên kiêu hãnh loan báo nó mang theo niềm hoan lạc của người Mẹ. Tháp chuông nhà thờ cô nhìn thấy từ xa dường như hòan toàn biến mất - nhưng cuối cùng tái hiện hoàn toàn khá gần tầm tay sau khi con đường mòn thình lình uốn khúc và vòng rất gắt quanh một đai cây. Tuppence liếc nhìn đồng hồ đo tốc độ trên xe thấy mình đã chạy được hai dặm từ ngôi nhà bên con kênh.
Đó là một nhà thờ cổ quyến rũ tọa lạc trong một khu sân nhà thờ khá lớn với vài cây thông đỏ đứng kề bên.
Tuppence để xe ngoài cổng có mái che, để dành vài phút đứng ngắm nhà thờ và sân nhà thờ vây quanh. Đoạn cô bước tới cánh cửa lớn có vòm cung kiểu Normand nâng tay nắm nặng nề lên. Cửa không khóa cô bước vào trong.
Bên trong không đẹp. Chắc chắn nhà thờ là một nơi cũ kĩ nhưng được nhiệt tình sơn quét và chùi dọn sạch sẽ. Ngoài sân những ghế băng bằng gỗ thông có lưng dựa màu đỏ rực rỡ và những cửa sổ có kính màu xanh lục đã phai tàn phần nào vẻ đẹp cổ xưa nó đã một lần sở hữu. Một phụ nữ trung niên trong chiếc áo choàng và váy đầm bằng vải tuýt đang cắm hoa trong những cái bình đồng xung quanh bục giảng kinh. Làm xong việc bàn thờ cô nhìn Tuppence dò hỏi đề cao cảnh giác. Tuppence bước lên lối đi giữa hai dãy ghế nhìn những phiến đá làm bia kỉ niệm gắn trên những bức tường. Trong những năm xưa hình như một gia đình Warrender nào đó được giới thiệu đầy đủ nhất. Tất cả đều thuộc Tu Viện, Sutton Chancellor. Đại uý Warrender, Thiếu tá Warrender, Sarah Elizabeth Warrender, người vợ yêu của George Warrender. Một phiến đá mới ghi nhận cái chết của Julia Starke( người vợ yêu khác) của Philip Starke, cũng thuộc về tu viện, Sutton Chancellor - dường như gia đình Warrender chết sạch. Không ai trong gia đình họ được gợi ý hay chú ý đặc biệt cả. Tuppence lại ra bên ngoài nhà thờ lần nữa. Theo Tuppence, bên ngoài quyến rũ hơn bên trong.” Thời tiền Perp. Và Dec,” Tuppence người được nuôi dạy với những khái niệm kiến trúc Cơ đốc giáo quen thuộc nói ình nghe. Cô đặc biệt không ưa thời tiền Perp.
Đó là một ngôi nhà thờ kích thước cân xứng và cô nghĩ rằng có một lần chắc chắn ngôi làng của Sutton Chancellor là trung tâm quan trọng của cuộc sống thôn dã khá hơn bây giờ. Cô để xe lại đó đi bộ tới làng. Làng có một cửa hàng một bưu điện và độ chừng mười hai nóc nhà nhỏ hoặc nhà tranh. Một hai ngôi nhà lợp mái rơm còn những nhà khác thì đơn giản không đẹp. Có sáu trụ sở hội đồng địa phương cuối làng nhìn hơi thiếu tự nhiên. Một tấm bảng đồng treo trên cửa lớn thông báo:“ Arthur Thomse, chùi ống khói.”
Tuppence tự hỏi có bất cứ đại diện nhà đất đáng kính nào kí hợp đồng sửa chữa ngôi nhà bên con kênh chắc chắn cần đến họ. Cô nghĩ mình đã điên biết bao không hỏi tên ngôi nhà.
Cô chậm rãi đi bộ trở lại phía nhà thờ, và xe, ngừng lại quan sát sân nhà thờ thật kĩ. Cô thich sân nhà thờ hơn. Trong sân có rất ít mộ mới chôn. Hầu hết các bia đá kỉ niệm đều là mộ chôn thời Victorian, và thời kì trước - nửa bị hư bởi địa y và thời gian. Những hòn đá xưa rất đẹp. Một số đá với những tiểu thiên sứ đứng trên đỉnh bị để đại lên, và những vòng hoa chung quanh chúng. Cô đi loanh quanh, xem nhừng lời ghi trên mộ chí. Lại gia đình Warrender. Mary Warrender, tuổi 47, Alice Warrender, tuổi 33, Đại tá John Warrender bị giết ở Afghanistan. Những đứa trẻ khác nhau của giòng họ Warrender - lòng thương tiếc sâu sắc - những vần thơ hùng biện đầy hi vọng tốt đẹp. Cô hỏi mình có ai mang họ Warrender còn sống nơi đây không. Rõ ràng họ đã thôi không còn được chôn ở đây nữa. Cô không thể tìm ra bất cứ bia mộ nào muộn hơn năm 1843. Vòng quanh cây thông đỏ cao cô chợt thấy một tu sĩ già đang cúi mình trên một dãy bia mộ cũ gần một bức tường sau nhà thờ. Ông đứng thẳng người lên khi Tuppence đến gần.
- Xin chào, ông vui vẻ nói.
- Xin chào. Tuppence đáp rồi thêm. Con đang ngắm nhà thờ.
- Bị sụp đổ bởi thời Victorian phục hưng. Tu sĩ nói.
Ông có một giọng nói vui vẻ và một nụ cười dễ mến. Ông khoảng chừng 70 nhưng Tuppence tin chắc ông chưa hoàn toàn đến tuổi đó, dầu vẻ như ông bị thấp khớp và đôi chân đứng không vững.
- Qúa nhiều tiền thời Victorian, ông buồn bã nói. Quá nhiều ông chủ đúc sắt. Họ là những tu sĩ, bất hạnh thay, chẳng có ý thức chi về nghệ thuật. Không có khiếu thẩm mỹ. Cô có thấy cái cửa sổ hướng đông kia không? Ông ta rùng mình.
- Vâng. Tuppence đáp. Đáng sợ thật.
- Tôi không thể đồng ý với cô nữa. Tôi là cha cố, ông nói thêm.
- Con cũng nghĩ thế. Tuppence lich sự đáp. Cha đã ở đây bao lâu?
- Mười năm. Đó là một giáo xứ. Những gì của họ đều tốt. Ở đây tôi rất hạnh phúc. Họ không ưa những bài thuyết giáo của tôi lắm. Ông buồn bã thêm. Tôi làm cái tốt nhất tôi có thể, nhưng tất nhiên cha không thể giả vờ hiện đại được. Ngồi xuống đây. Ông nói thêm vẻ hiếu khách, phẩy tay chỉ một phiến bia mộ bên cạnh.
Tuppence ngồi xuống đầy biết ơn còn cha cố ngồi trên một tấm đá bia gần đó.
- Cha không thể chịu đựng lâu được nữa. Ông nói giọng xin lỗi. Cha có thể làm gì cho con hay con chỉ đi ngang thôi?
- Thật ra con chỉ đi ngang. Tuppence đáp. Con nghĩ con chỉ nhìn nhà thờ. Đắm mình trong xe hơi lang thang quanh những con đường hẹp.
- Phải. Phải. Rất khó tìm ra một con đường lớn quanh đây. Nhiều bảng chỉ đường bị bể, còn Hội Đồng địa phương đáng lẽ sửa chữa thì họ không làm. Cha không biết rằng việc đó vô cùng hệ trọng. Nói chung người ta lái xe xuống những con đường mòn này không thường cố tìm đi nơi nào khác. Họ bị dính chặt vào những đường lộ chính. Đáng sợ. Ông lại thêm. Đặc biệt đường xa lộ cao tốc. Ít nhất, cha nghĩ vậy. Tiếng ồn, tốc độ và những tay lái thiếu thận trọng. Ô, không hề chú ý đến cha. Cha là một người già cục cằn. Con đừng bao giờ đoán cha đang làm chi ở đây. Ông nói tiếp.
- Con thấy cha đang khảo sát những bia mộ. Có thói phá hoại những công trình văn hoá nào không? Có tụi mười ba nào đập vỡ bia?
- Không. Ngày nay cách suy nghĩ riêng hướng về qúa nhiều hộp điện thoại bị phá hỏng và tất cả những vật khác mà những tên phá hoại các công trình văn hoá ấy làm. Những đứa trẻ khốn khổ. Chúng không biết chi về điều thiện, cha cho là thế. Đáng buồn, phải không? Rất buồn. Không. Nơi đây không có sự phá hoại ấy. Xét toàn thể trai tráng quanh đây tốt. À không, cha chỉ đang tìm ngôi mộ một đứa trẻ.
Tuppence chuyển mình trên tấm đá bia. Mộ một đứa trẻ ư?
- Phải. Một người nào đó viết cho cha. Thiếu tá Waters nào đó. Ông ta hỏi coi có khả năng một đứa trẻ được chôn ở đây không. Tất nhiên, cha nhìn lên bảng đăng kí, nhưng không có bảng ghi nào có tên ấy cả. Cũng vậy thôi, cha đi ra ngoài quay lại nhìn những bia mộ. Cha nghĩ, con biết đấy, người viết thư đã nắm một cái tên sai, hay có sự nhầm lẫn.
- Tên thánh là gì vậy? Tuppence hỏi.
- Ông ta không biết. Có lẽ Julia lấy tên mẹ.
- Đứa trẻ mấy tuổi rồi?
- Ông ta lại không chắc. Toàn thể sự việc hơi mơ hồ, cha nghĩ người đàn ông có ý nghĩ hoàn toàn sai lạc về ngôi làng. Cha chưa bao giờ nhớ một gia đình họ Water sống ở đây hay nghe đến tên họ.
- Còn gia đình Warrender? Tuppence hỏi, trí nhớ cô trở về những cái tên trong nhà thờ. Nhà thờ dường như đầy những bảng đá dành cho họ và tên của họ rất nhiều trên những mộ chí ngoài này.
- A, gia đình ấy bây giờ chết sạch rồi. Họ có một gia sản lớn, một Tu viện cũ thế kỉ 14. Nó bị cháy sạch. Cách đây một trăm năm, vì thế cha nghĩ bất cứ người Warrender nào ở lại đều đã rời đi - đi xa mà không trở về. Một người họ Victorian giàu có tên Starke xây một ngôi nhà mới trên công trường. Một ngôi nhà rất xấu nhưng tiện nghi, người ta nói như thế. Rất tiện nghi. Những phòng tắm, và tất cả. Cha cho rằng điều không giải thích được ấy Mới quan trọng.
- Một việc hình như rất kì dị, ai đó đã viết thư và hỏi cha về ngôi mộ một đứa trẻ. Một người nào đó - một bà con?
- Cha tưởng đến cha của đứa trẻ, một trong những bi kịch của chiến tranh. Một đám cưới bị tan vỡ khì người chồng phục vụ ở hải ngoại. Người vợ trốn đi với tình nhân khi người chồng đang phục vụ ở ngoại quốc. Có một đứa con, một đứa con chưa bao giờ ông nhìn thấy. Bây giờ hẳn đã lớn bộn, nếu cô bé còn sống. Chắc phải cách đây hai mươi năm hay hơn thế.
- Sau khi tìm kiếm cô ta không phải là một thời gian dài sao?
- Rõ ràng chỉ vừa mới đây thôi ông ta hay tin Có một đứa con. Mẫu tin đến với ông ta thuần tuý ngẫu nhiên. Toàn thể sự việc, câu chuyện lạ lùng thật.
- Cái gì làm ông ấy nghĩ đứa trẻ được chôn ở đây?
- Cha nghĩ ai đó tình cờ gặp vợ ông ta trong chiến tranh đã kể cho ông ta nghe rằng vợ ông nói cô ấy đang sống ở Sutton Chancellor. Con biết đấy, tình cờ thôi. Con gặp một ai đó, một người bạn hay một người quen con chưa hề gặp trong nhiều năm, đôi khi họ có thể cung cấp cho con tin tức mà dù thế nào con cũng không kiếm ra. Nhưng bây giờ chắc chắn cô ta không còn ở đây - không từ khi cha ở đây. Hoặc trong vùng phụ cận xa chừng nào mà cha biết được. Dĩ nhiên, Có thể người mẹ ra đi dưới cái tên khác. Tuy vậy, cha biết người cha đang thuê những cố vấn pháp luật và những đại diện điều tra, và những cái không nói ra được, rất có thể họ có khả năng thu được kết quả sau cùng. Điều ấy cần thời gian.
- Có Phải đó Là Đứa Trẻ Tội Nghiệp Của Cô không? Tuppence thì thào.
- Xin lỗi, con nói gì?
- Không có gì, Tuppence đáp. Ngày nọ một ai đó nói với con điều gì đó. “ Có Phải Đó Là Đứa trẻ Tội Nghiệp Của Cô Không?” Bất ngờ mà nghe đó là một việc gây giật mình. Nhưng con không thật sự biết bà già nói câu ấy có hiểu mình đang nói gì không.
- Cha hiểu. Cha hiểu. Cha cũng thường như vậy. Cha nói những điều mà cha không thật sự hiểu ý nghĩa điều mình nói. Thật là rối rắm.
- Con hi vọng cha biết mọi việc về những người Bây Giờ họ sống ở đây chứ?
- Chắc chắn không nhiều. Vâng. Tại sao? Có phải con muốn tìm hiểu về một người nào đó?
- Con tự hỏi có một bà Lancaster nào đó đang sống ở đây không?
- Lancaster? Không. Cha không nghĩ cha có nhớ lại cái tên ấy không.
- Và có một ngôi nhà - hôm nay con lái xe không mục đích - không chủ ý đặc biệt mình định đi đâu, chỉ lái theo những con đường mòn -
- Cha hiểu. Rất đẹp, những con đường mòn quanh đây. Và con có thể tìm thấy những mẫu vật hoàn toàn hiếm. Cha muốn nói, thực vật học ấy. Trong những bụi cây ở đây. Tại những bụi cây này không ai hái hoa đâu. Không bao giờ chúng ta có du khách quanh đây điều đó chưa giải thích được. Ừ, thỉnh thoảng cha cũng tìm ra một số mẫu vật rất quý hiếm. Vi dụ, Cranesbell đầy bụi -
- Có một ngôi nhà bên một con kênh, Tuppence nói, từ chối bị đưa theo dấu chuyện thực vật.’ gần một cây cầu có một mái vòm cung. Cách đây chừng hai dặm. Con tự hỏi tên nhà là gì.
- Để cha xem nào. Cầu một nhịp hình vòm cung bắt qua con kênh. A... có nhiều ngôi nhà như vậy lắm. Trại Merricol.
- Đó không phải là một nông trại.
- Cha hi vọng đó là nhà của Perry vậy - Amos và Alice Perry.
- Chính xác. Tuppence la lên. Một ông và bà Perry.
- Bà ta là người trông đập vào mắt, phải không nào? Đáng chú ý, cha luôn luôn nghĩ thế. Rất đáng chú ý. Khuôn mặt thời trung cổ, con có nghĩ vậy không? Bà sắp đóng vai mụ phù thủy trong vở kịch chúng tôi dàn dựng. Con biết đấy, trường trung học trẻ em mà. Có phải bà ấy trông giống một mụ phù thủy?
- Dạ đúng. Một mụ phù thủy thân thiện.
- Như lời con nói, tuyệt đối hợp li. Phải, một mụ phù thủy thân thiện.
- Nhưng ông ta -
- Phải, người bạn khốn khổ, cha cố nói. Tinh thần không hoàn toàn bình thường - nhưng không tổn hại đến ông ta.
- Họ rất dễ thương. Họ mời con vào vì một tách trà. Nhưng điều con muốn biết là Tên của ngôi nhà. Con quên hỏi họ. Họ chỉ sống trong một nửa căn nhà, phải thế không?
- Phải, phải. Trong những góc thường quen dùng như bếp cũ. Họ gọi nó là” Waterside,” cha nghĩ thế, mặc dù cha tin cái tên cũ là ‘Watermead’. Một cái tên khá vui, cha nghĩ vậy.
- Phía kia của ngôi nhà thuộc về ai?
- Toàn toàn thể ngôi nhà nguyên thủy thuộc về gia đình Bradley. Cách đây khá nhiều năm rồi. Phải, ít ra ba bốn chục năm, cha phải nghĩ thế. Rồi nó được bán, rồi bán lần nữa sau đó để trống trong nhiều năm. Khi cha tới đây nó chỉ được dùng như một nơi nghỉ cuối tuần. Một nghệ sĩ nào đấy - cô Margrave, cha tin thế. Cô ta không ở đây nhiều. Chỉ thỉnh thoảng xuống. Cha không bao giờ biết cô. Cô không bao giờ đi nhà thờ. Thỉnh thoảng cha thấy cô từ xa. Một cô xinh đẹp. Một con người rất đẹp.
- Bây Giờ ngôi nhà thật sự thuộc về ai? Tuppence khăng khăng.
- Cha không có ý kiến. Có thể hãy còn thuộc về cô ta. Phần nhà gia đình Perry ở chỉ là nhà thuê.
- Con nhận ra điều đó, còn phải hỏi. Ngay khi con vừa nhìn thấy, bởi vì con có một bức tranh về ngôi nhà.
- Thật sao? Đó chắc phải là tranh của Bo be, hay tên ông ta là Boscobel - bây giờ cha không thể nhớ. Một cái tên như thế. Hắn là một người Cornish, nghệ sĩ rất nổi tiếng, cha tin thế. Bây giờ cha tưởng tượng hắn chết rồi. Phải, hắn thường xuống đây thường xuyên. Anh ta thường phác hoạ tất cả khu vực quanh đây. Tại đây anh ta cũng vẽ sơn dầu nữa. Một số tranh phong cảnh rất đẹp.
- Bức tranh đặc biệt này được tặng ột bà dì già của con chết cách đây một tháng. Nó lại được bà Lancaster nào đó tặng. Đó là lí do tại sao con hỏi cha có biết tên của ngôi nhà?
Nhưng một lần nữa cha cố lắc đầu.
- Lancaster? Lancaster. Không. Hình như cha không nhớ cái tên. A! Nhưng có một người con phải hỏi. Cô Bligh thân mến của chúng ta. Cô Bligh ấy rất năng động. Cô biết tất cả về giáo xứ. Cô điều khiển mọi việc. Hội phụ nữ, Hướng đạo sinh, Người hướng dẫn - mọi việc. Con hỏi cô ấy đi. Cô ta rất năng động, thực sự rất năng động.
Cha cố thở dài. Hoạt động của cô Bligh hình như làm ông lo âu.’ Nellie Bligh, trong làng họ gọi cô như vậy. Đôi khi những cậu con trai hát theo cô. Nellie Bligh. Nellie Bligh. Đó không phải cái tên gốc của cô. Nó là cái tên như Gretrude hay Graldine gì đó.
Cô Bligh, người phụ nữ mặc chiếc áo choàng bằng vải tuýt Tuppence đã thấy trong nhà thờ, đang rảo bước nhanh đến gần họ, hãy còn cầm một can nhỏ đựng nước. Khi đến gần, cô chiếu tướng Tuppence với cái nhìn tò mò sâu sắc, gia tăng cước bộ và khởi sự cuộc nói chuyện trước khi đến gần họ.
- Tôi xong việc rồi, cô vui vẻ tuyên bố. Hôm nay hơi có vấn đề. Ô vâng, hơi có vấn đề. Tất nhiên, cha biết đấy, thưa cha, con thường làm việc nhà thờ buổi sáng. Nhưng hôm nay có cuộc họp khấn cấp tại những phòng giáo xứ và thật sự cha không tin được nó mất thời gian thế nào! Quá nhiều cuộc tranh luận. Thật ra con nghĩ đôi khi người ta phản đối lại chỉ vì niềm vui được làm như thế. Bà Partington đặc biệt nổi cáu. Muốn mọi việc được thảo luận đầy đủ, cha biết mà, và tự hỏi như là chúng tôi có kiếm đủ giá khác biệt từ những phim khác biệt không. Con muốn nói, toàn thể công việc dù sao là một giá thấp, thật sự một vài si-ling đây đó không thể tạo ra sự khác biệt được. Và Burkenheads luôn luôn đáng tin cậy nhất. Con thật sự không nghĩ, thưa cha, cha phải ngồi trên một tấm bia mộ như thế.
- Có lẽ, bất kính thật.
- Ô không, không, dĩ nhiên con không muốn nói chuyện đó Tới Bất Cứ Mức nào, thưa cha. Con muốn nói Hòn đá, sự ẩm ướt đã thấm qua và với chứng thấp khớp của cha - mắt cô lướt nhẹ về phía Tuppence dò hỏi.
- Hãy để cha giới thiệu con với cô Bligh. Cha cố nói. Đây là - đây là - cha lưỡng lự.
- Bà Beresfold, Tuppence đáp.
- A vâng, cô Bligh trả lời. Tôi thấy bà trong nhà thờ, không biết có nhầm không, vừa mới đây thôi, nhìn quanh khảo sát. Tôi muốn đến và nói chuyện với bà, gọi sự chú ý của bà đến một hai điểm đáng lưu tâm, nhưng tôi lại đang vội làm cho xong việc.
- Đúng ra tôi phải đến và giúp cô, Tuppence nói giọng nói ngọt ngào nhất. Nhưng điều đó không ích gì, bởi vì tôi thấy cô biết chính xác nơi nào những bông hoa phải đến.
- Rất dễ thương cho cô đã nói vậy, đó hoàn toàn là sự thật. Tôi làm việc cắm hoa nhà thờ trong - ồ tôi không biết bao nhiêu năm rồi. Chúng tôi để học sinh tự làm những bình hoa dại đặc biệt cho lễ hội, dĩ nhiên mặc dù chúng không có một chút ý kiến, tụi nhỏ khốn khổ. Thật sự tôi nghĩ đến một Ít lời hướng dẫn, nhưng bà Peake không bao giờ có bất cứ chỉ thị nào. Bà ấy quá kì dị.