Quyển 4 - Chương 43: Đổ đấu và vật lý lượng tử
Editor: Cơm Nắm Nướng Chảo
Beta: Thanh Du
~0O0~
Một lần nữa chúng tôi lại trở về mộ thất chứa báu vật, không khí đã
khác hẳn so với hồi nãy. Mọi người đều không nói năng gì, sắc mặt cũng
không rõ là tái trắng hay tái xanh nữa. Chiếc lò không khói chiếu lên
đống kim khí, ánh sáng vàng rực rỡ hắt ra giờ đây lại khiến người ta cảm thấy cực kỳ đáng ghét.
Không ai đưa ra ý kiến nữa. Mọi người đều tỏ vẻ trầm tư, nhưng tôi
biết bọn họ cũng giống tôi thôi, đầu óc chỉ còn một khoảng trống rỗng.
Mọi chuyện đã vượt quá tầm kiểm soát của chúng tôi, thậm chí tôi còn
cho rằng giả thuyết có cơ quan hiện giờ cũng chẳng đứng vững nổi. Chúng
tôi đã rơi vào một trạng thái không thể diễn tả bằng lời, bất kì lý lẽ
khoa học nào trải qua thực nghiệm đơn giản này đều đổ vỡ hoàn toàn.
Bởi vì không một ai đủ sức khiến cho một viên đạn, chỉ trong vài giây ngắn ngủi, ngoặt được một vòng lớn khủng khiếp như thế.
Muốn dùng khoa học để giải thích hiện tượng này, e rằng có vét cả lý thuyết vật lý lượng tử ra cũng chưa chắc đã cắt nghĩa nổi.
“Đây đúng là quỷ dựng tường thật rồi!” Sắc mặt Thuận Tử khó coi hết
biết. Hắn nhìn sang dòng chữ người cha để lại phía bên kia, lộ ra vẻ mặt bi thương đan xen với sợ hãi.
Tôi biết giờ này hắn đang nghĩ tới điều gì. Hắn đã hiểu vì sao đám
thây khô nằm giữa đống châu báu kia lại mang vẻ mặt tuyệt vọng đến thế.
Lâm vào hoàn cảnh này, đã thử đi thử lại vô số lần nhưng cuối cùng vẫn
quay về khởi điểm cho đến khi hết đạn cạn lương, hỏi sao không tuyệt
vọng cho được. E rằng đến tận lúc chết, tâm tư đã hóa tro tàn, bọn họ
vẫn chẳng tìm ra lấy một manh mối.
Mà chúng tôi rất có thể sẽ trở thành lớp tiếp theo. Chẳng bao lâu nữa nơi đây sẽ mọc thêm ra bốn cái thây khô quắt, gương mặt cũng khắc sâu
nỗi tuyệt vọng tột cùng, để những kẻ hi sinh đến sau tha hồ suy đoán tâm tư trước khi chết của chúng tôi.
Sở dĩ trước đây tôi không tuyệt vọng, cũng chẳng thể ngờ mình sẽ đi
đến bước đường này, là vì tôi cứ đinh ninh chỉ cần gặp phải mấy thứ xoắn não như cơ quan cạm bẫy, thì bằng vào trí tuệ của tôi, nhất định sẽ
không thể bị vây khốn. Nhưng bây giờ mọi chuyện đã khác rồi. Rõ ràng
tình huống chúng tôi gặp phải quỷ dị hơn nhiều lắm.
“Có muốn tiếp tục không?” Yên tĩnh được khoảng 10 phút thì Phan Tử hỏi bằng giọng khô khốc.
Không ai đáp lại, nhưng ánh mắt của mọi người đều đổ dồn về phía Bàn Tử.
Trên mặt đất phía trước Bàn Tử còn sót lại hai giả thiết. Giả thiết
thứ ba là ý kiến do tôi thuận miệng bịa ra: nếp gấp không gian.
Sở dĩ vừa rồi tôi đột ngột đưa ra luận điểm này là vì bỗng dưng nhớ
lại lúc bò trong khe núi lửa kia, Muộn Du Bình đã biến mất ngay trước
mắt tôi trong vòng vài giây đồng hồ. Lúc ấy tôi nghĩ nát óc không ra,
giờ ngẫm lại thì hẳn phải liên quan đến nếp gấp không gian thật. Do cái
thí nghiệm ban nãy quá mức đáng sợ, quả thực là một thí nghiệm phản khoa học, bỗng dưng giả thiết nếp gấp không gian huyền diệu của tôi lại trở
thành cách giải thích hợp lý nhất.
Nếu không nhờ Bàn Tử liệt kê ra những giả thiết đó, thì chỉ e sau khi chứng kiến cái thực nghiệm kia, tôi nhất định sẽ khiếp hãi đến quên
sạch mọi thứ.
Im lặng hồi lâu, Bàn Tử mới nói: “Được rồi, ai cũng đã được thấy tận
mắt, đừng nhiều lời thêm nữa. Chúng ta phải làm gì để chứng minh điểm
thứ ba đây.”
“Không! Không cần chứng minh đâu.” Phan Tử ở đằng kia đột nhiên lên tiếng.
Phan Tử thường nhìn nhận vấn đề cực kỳ thấu đáo, luôn luôn xoáy thẳng vào bản chất sự việc, ví dụ như vừa rồi khi Bàn Tử vẫn còn vọng tưởng
mộ đạo sẽ xuất hiện thì Phan Tử đã lập tức phủ nhận hoàn toàn. Điều này
liên quan tới việc Phan Tử là người trở về từ chiến trường, khi cân nhắc một vấn đề anh sẽ không mang chút tâm lý trông chờ vận may nào hết. Vậy nên khi nghe anh nói tôi cũng hết sức sợ hãi, chỉ e nhiều sự thật anh
nói ra lại không nên được nhắc đến vào lúc này.
Nhưng anh lại bảo: “Ở đây có sáu khối thi thể. Chúng ta đặt giả thiết có cả thảy tám người đi vào, vậy hai người còn lại đương nhiên đã thoát ra. Tuy vẫn chưa biết họ ra bằng cách nào, nhưng nếu giả thiết thứ ba
của cậu Ba là đúng thì không ai có thể thoát ra nổi, cho nên chúng ta
không cần cân nhắc làm gì nữa. Cân nhắc giả thiết thứ ba có khác nào
thừa nhận mình đã chết chắc rồi.”
Lời vừa nói ra, ai nấy đều lạnh toát cả người. Bàn Tử lên tiếng phản
đối: “Sao anh dám chắc có tám người đi vào? Mẹ kiếp, nói không chừng lúc vào cũng chỉ có sáu người thôi.”
Phan Tử thở dài một hơi: “Bàn Tử chết toi, anh còn chưa hiểu à? Thật ra họ vào mấy người không quan trọng.”
Chuyện này không cách nào chứng minh được, làm ầm lên cũng vô ích,
tôi thầm nhủ: “Bọn họ rốt cuộc đi vào mấy người cũng chẳng ảnh hưởng gì
tới tình cảnh của chúng tôi, nhưng đối với ý chí chiến đấu của mọi người lại đặc biệt quan trọng. Nếu đã có hai người đào thoát thành công thì
tinh thần của chúng tôi sẽ hoàn toàn đổi khác. Chúng tôi còn có thể nghĩ xem họ đã thoát thân thế nào, ít ra vẫn còn một tia hy vọng.”
Nghĩ đoạn, tôi chẳng thèm quan tâm bọn họ làm cái trò khỉ biển gì
nữa, chạy đến bên mấy thi thể lục sổ sách của bọn họ xem có manh mối gì
không, may ra thì có người viết nhật ký. Nếu có người ghi lại những ý
kiến của họ vào lúc ấy, hoặc viết về chuyện có người thoát ra thì chí ít chúng tôi vẫn còn một tia hy vọng.
Có điều ban nãy xem bút ký tôi chỉ lật qua loa chứ không đọc hết
những đoạn văn dài, còn mấy đoạn ngăn ngắn lại chỉ ghi số liệu hoặc
những mẩu thông tin vụn vặt chứ không có nội dung gì cả.
Tôi nghĩ vào thời điểm cận kề cái chết, có lẽ những người này cũng
chẳng ghi chép gì đâu. Khi đứng trước ngưỡng cửa tử vong, chỉ e đến cả
đèn chiếu sáng họ cũng chẳng còn nữa. Pin thì đã cạn từ lâu, cũng không
có gì để sưởi ấm, cho nên họ mới phải cuộn chặt lấy nhau, rúc vào một xó trong bóng tối mịt mùng. Vậy nếu có tám người tiến vào thì hai người
kia rốt cuộc đã thoát ra lúc nào? Chắc chắn không phải khi bọn họ còn
tỉnh táo, vì nếu thế những người khác cũng phải thoát được rồi mới đúng. Vậy không lẽ là lúc bọn họ đã đói đến hoa mắt, lại không có đèn, bốn bề chìm vào tối tăm? Cho nên những người khác mới không biết đã có hai
người rời đi sao?
Vậy điểm mấu chốt để chạy thoát, lẽ nào lại là mò mẫm trong bóng tối không một ánh đèn?
Vừa nghĩ đến đây tôi đã ớn lạnh sống lưng. Nơi đây dầu sao cũng là cổ mộ, nếu phải lần mò trong bóng đêm giữa mộ đạo dài hun hút này thì đúng là muốn lấy mạng người ta rồi còn gì.
Những người khác thấy tôi lục lọi tài liệu thì cùng quây lại giúp tôi tìm kiếm. Cứ đứng chôn chân ở đó mà nghĩ vớ nghĩ vẩn cũng chẳng giải
quyết được gì, có đôi khi phải xem cái này cái kia để lấy lại tinh thần
một chút.
Nghĩ đến chuyện cuối cùng ánh sáng sẽ lụi tàn, tôi bèn bảo bọn họ
đừng lãng phí điện nữa. Đèn pin đều phải tắt, chỉ mở lò sưởi thôi cũng
đủ sáng rồi. Chúng tôi quây lại trước bếp lò, ba quyển bút ký và một
cuốn tiểu thuyết phân cho bốn người giở ra xem, cố lần tìm manh mối
trong từng câu từng chữ.
Tôi lật một cuốn bút ký với những hàng chữ thanh thoát, người viết
hẳn phải là phụ nữ. Giở thử vài trang thì thấy ghi toàn tên người và số
điện thoại, phía sau còn có danh sách khách mời ăn cơm, có số điện thoại của khách sạn ở núi Trường Bạch, đôi chỗ vẽ mấy cái bản đồ đơn giản kèm thêm vài địa chỉ và ghi chú nữa. Tôi đọc thấy hồi năm 1994 hình như
người phụ nữ này còn bị bệnh phải nằm viện, trong này có ghi là cần tái
khám. (có phải sổ của dì Hoắc Linh không á >A
Giở thêm vài tờ thì chỉ thấy giấy trắng, nhưng tôi vẫn kiên nhẫn lật
từng trang, hi vọng cô ấy có thể viết lại thêm chút gì, đang lật thì Bàn Tử mở miệng: “Có manh mối chỗ này này.” Nói rồi hắn đọc lầm rầm: “Hôm
nay bán món đồ cuối cùng mang từ biển về, được 3000 đồng, 1500 trả lão
Lý, dứt hết nợ nần, đi với cha này có ngày bể mánh.”
Tôi lắc đầu cười khổ, lại nhìn sang Phan Tử ngồi bên kia. Quyển bút
ký của anh mỏng nhất, gần như chẳng có gì nên đã kiểm tra xong rồi. Nhìn đến Thuận Tử thì thấy hắn đang say sưa đọc tiểu thuyết, rõ ràng là đã
nhảy cóc đến đoạn tình cảm mùi mẫn nhất của vai chính trước lúc đi xa.
Bàn Tử nhìn chướng mắt, bèn giật phắt lấy quyển sách, lên giọng chửi
bới: “Bảo cậu tìm manh mối cậu lại đi xem văn hóa phẩm đổi trụy, lương
tâm của cậu mục ruỗng quá rồi! Tịch thu!”
Vừa giật một cái, quyển truyện đã rã rời ra từng mành, giấy bay lả tả trên mặt đất.
Tôi rủa một tiếng, vừa sạc cho Bàn Tử một trận vừa bật đèn pin đi
nhặt. Bất thình lình Phan Tử kêu lên: “A, có tấm ảnh kìa.” Nói đoạn anh
bới từ mớ giấy lộn ra một bức ảnh đen trắng đã ố vàng.
Tôi cầm lấy ngắm nghía, đột nhiên cảm thấy nó trông rất quen, nhìn kĩ hơn một chút, đầu óc liền kêu lên ong óc, suýt chút nữa phát sặc — Thì
ra nó chẳng xa lạ gì, mà chính là tấm ảnh nhóm chú Ba đã chụp chung ở
bến tàu trước chuyến đi Tây Sa.