Chương 35: Đế minh
edit & beta: Hàn Phong Tuyết
Đế minh: kết thành đồng minh.
Tôi triệu Ngọc Tú tới phủ, ban thưởng cho nàng một chiếc bình ngọc xanh kỳ lân trong suốt không tỳ vết.
“Bình kỳ lân, ngụ ý bình an uy vũ, ngươi thay ta chuyển cho Hoài n, mong trời phù hộ mọi người bình an, sớm ngày chiến thắng trở về”. Tôi vỗ thân bình, nhẹ cười. Ngọc Tú cảm kích nhận lấy bình ngọc, thấp người bái lạy, “Đa tạ Vương phi”. Tôi cầm tay nàng, gằn từng chữ, “Nói với Hoài n, ta ở kinh thành chờ họ bình an trở về”.
Mặc dù Tiêu Kỳ đã nhận lời nhưng tôi vẫn không thể yên tâm. Hai quân ở chốn trận tiền, bất cứ chuyện gì cũng có thể xảy ra. Cách xa ngàn dặm, tôi không biết có thể bảo vệ cho huynh ấy chu toàn hay không. Tử Đạm là một người yên bình đạm mạc như nước, nhưng từ sâu bên trong cốt tủy lại cất giữ sự kiên quyết lạnh lẽo như băng ngàn năm, lần đi Giang Nam này chỉ e huynh ấy đã mang quyết tâm phải chết. Tôi vừa âm thầm phân phó Bàng Qúy lấy thân phận thị vệ đi theo Tử Đạm nam chinh, sớm tối kề bên bảo vệ an toàn cho huynh ấy, lại vừa phó thác Tử Đạm cho Tống Hoài n, muốn hắn mang theo Tử Đạm bình an trở về gặp tôi.
Ngoại trừ tình yêu của Tiêu Kỳ, tôi vẫn phải có lực lượng của riêng mình. Thân là nữ tử, tôi không thể thúc ngựa ra trận, tự mình khai cương mở cõi, cũng không thể đặt chân vào triều đình, bàn trị quốc đại sự. Trước kia tôi cho rằng một khi mất đi sự che chở của gia tộc thì tôi chỉ còn hai bàn tay trắng, nhưng giờ tôi đã hiểu, bảo vật mà gia tộc ban cho tôi không phải là vinh hoa phú quý mà là trí khôn và dũng khí bẩm sinh, khiến tôi có thể chinh phục được nam tử có quyền thế nhất thiên hạ, chinh phục được dũng sĩ trung thành nhất thiên hạ.
Nam nhân chinh phạt thiên hạ, nữ nhân chinh phục nam nhân, từ xưa đến nay, đây là quy luật không thể thay đổi. Vương Huyên bây giờ không còn là nữ tử yếu đuối được nuông chiều ngày xưa, tôi muốn người trong thiên hạ không dám khinh thường mình nữa, bất kể là ai cũng không thể điều khiển vận mệnh của tôi.
Ngày nam chinh sắp tới, mà sau yến tiệc Nguyên tiêu, tôi không còn đặt chân vào Cảnh Lân cung thêm lần nào nữa, cũng không nhìn thấy Tử Đạm. Cẩm Nhi mặc dù xa cách đã lâu mới gặp mặt nhưng cũng chỉ giáp mặt nhau có một lần đó, về sau nhiều chuyện quan trọng ào tới, tôi không có thời gian để cùng nàng ôn chuyện, mà có lẽ cũng là do tôi chưa nghĩ kỹ xem nên đối mặt với nàng thế nào. Hiện giờ, nàng đã là thiếp của Tử Đạm, là mẫu thân của đứa con của huynh ấy… chứ không phải nô tỳ theo hầu tôi ngày xưa nữa.
Ban đêm, có người trong cung tới báo Tĩnh nhi sốt cao, còn ho, tôi vội vàng vào cung thăm hỏi, chờ sau khi nó ngủ say mới rời khỏi điện Càn Nguyên.
Vừa mới bước xuống thềm ngọc đã chợt nghe thấy tiếng một thị vệ quát, “Là ai?”.
Người hầu xung quanh lập tức bao quanh tôi, ánh nến sáng choang, chiếu lên bóng đen đang chạy trên hành lang, bị cấm vệ ùa lên vây kín, đao kiếm lạnh lẽo sáng loáng.
“Vương phi cứu ta, ta muốn gặp Vương phi!”, tiếng gọi kinh hoảng vang lên, là giọng Cẩm Nhi.
Tôi ngăn thị vệ lại, bước nhanh tới, quả nhiên là Cẩm Nhi. Nàng bị thị vệ kề kiếm vào cổ, chật vật ngã trên đất.
“Tại sao lại là ngươi?”, tôi kinh ngạc. Nàng sắc mặt tái nhợt, nước mắt ngắn dài, “Nô tỳ muốn cầu kiến Vương phi nhưng không muốn để Hoàng thúc biết nên liền lặng lẽ chờ ở đây…”.
Tôi nhíu mày thở dài, để A Việt đỡ nàng dậy, “Sau này nếu Tô phu nhân có việc, chỉ cần lệnh cung nhân thông bẩm là được… Thôi được, ngươi đi theo ta”.
Tôi dẫn nàng và thị nữ tâm phúc vào trong điện, trong lòng đại khái đoán được, nàng hẳn là tới cầu xin tôi việc Tử Đạm nam chinh. Cho thị vệ lui đi, tôi thản nhiên ngồi xuống, nói: “Tô phu nhân có việc gì mời nói”.
Cẩm Nhi đột nhiên ngã quỵ, thất thanh khóc không ra tiếng, “Quận chúa, Cẩm Nhi cầu xin người đại từ đại bi cầu Vương gia đừng để Hoàng thúc xuất chinh, đừng để người đi chịu chết!”.
“Câm mồm!”, tôi không ngờ được nàng lại cầu khẩn như thế, vội cắt ngang lời, “Nói lời gì vậy? Hoàng thúc sắp xuất chinh, ngươi lại dám nói gở?”.
“Lần này đi rồi, người làm sao có thể quay về được!”, Cẩm Nhi liều lĩnh lao tới bên chân tôi, âu sầu nhìn tôi, “Quận chúa, người chẳng lẽ không có chút từ bi nào sao?”.
Tôi thở gấp, cả người phát run, quên mất phải phản bác thế nào, chỉ lạnh lùng nói: “Cẩm Nhi, ngươi điên rồi sao?”.
Nàng túm ống tay áo tôi, khóc không thành tiếng, “Chẳng lẽ Quận chúa không nhớ tình cảm ngày xưa chút nào…”.
Bên tai ong ong, chỉ thấy máu trong người xông lên, tôi không chút nghĩ ngợi giáng một cái bạt tai xuống, “Ngậm miệng cho ta!”.
Cẩm Nhi ngã nhào trên đất, một bên má đỏ bừng, ngơ ngác nhìn tôi, không kêu khóc nữa.
“Tô phu nhân, ngươi nghe cho rõ đây!”, tôi nhìn thẳng vào mắt nàng, gằn từng chữ, “Hoàng thúc xuất chinh là phụng chỉ dẹp nghịch tặc, tất sẽ đánh đâu thắng đó, bình an trở về, quyết không bỏ mạng nơi trận tiền”.
Tôi ngó chừng vẻ kinh hãi của nàng, “Nhưng lời ngươi vừa mới nói nếu bị loan ra ngoài thì sẽ lập tức dẫn đến họa sát thân cho Hoàng thúc!”.
Cẩm Nhi xụi lơ trên mặt đất, cả người run rẩy, lời nói đứt quãng, “Cẩm Nhi biết tội, là Cẩm Nhi lỗ mãng không hiểu chuyện… Cầu xin Quận chúa…”.
Tôi lại cắt ngang lời nàng, “Cẩm Nhi, ngươi phải nhớ kỹ hai chuyện: thứ nhất, sau này không được phép đề cập tới bốn chữ tình cảm ngày xưa; thứ hai, ta đã là Dự Chương Vương phi, sau này đừng gọi Quận chúa nữa”.
Nàng không lên tiếng nữa mà nhìn tôi không hề chớp mắt, ánh mắt biến ảo khôn lường. Tôi nghiêng đầu thở dài, không muốn nói thêm gì cả, phất tay cho nàng lui ra. Nàng chậm rãi đi tới cửa, bỗng nhiên quay đầu, lạnh lùng nhìn, “Vương phi, người thực sự không muốn nhắc tới ngày xưa, chỉ hận không thể xóa sạch mọi chuyện quá khứ sao?”.
Tôi nhắm mắt, chỉ cảm thấy vô cùng mệt mỏi, thậm chí không muốn liếc nhìn nàng thêm lần nữa, “A Việt, đưa Tô phu nhân về, sau này không có lệnh của ta, không được bước ra khỏi Cảnh Lân cung nửa bước”.
Cẩm Nhi đột nhiên nở nụ cười, tránh xa A Việt, “Vương phi yên tâm, Cẩm Nhi sẽ không rước thêm phiền phức cho người!”.
Tôi hờ hững phất tay áo, quay người đi ra ngoài điện.
“Cho dù Cẩm Nhi phản bội Vương phi…”, Cẩm Nhi bị cung nhân dẫn đi, gương mặt vẫn cười thảm, “Nhưng Hoàng thúc tuyệt đối không có điểm nào có lỗi với người!”.
Ngày hai mươi mốt tháng giêng, giờ lành giữa trưa, Tử Đạm dẫn người ra khỏi Vũ Đức môn, bắt đầu hành trình viễn chinh.
Tiêu Kỳ dẫn chư quan lên đầu thành tiễn. Trong tiếng cúng bái tế lễ, Tiêu Kỳ nghiêm nghị giơ bình rượu lên, trên tế trời, dưới tế đất, số rượu còn lại hắt ra bốn phía.
Tôi đứng phía sau chàng, từ trên đầu tường cao cao nhìn Tử Đạm đi xa. Chiếc mũ giáp không dính chút bụi, vô cùng bắt mắt giữa đoàn người, tựa như tuyết bay rơi xuống lá chắn giáp, trong nháy mắt đã bị quân đội giáp đen đông nghịt chôn vùi, dần dần mất tích.
Huynh ấy trước sau không hề ngoảnh lại, thân ảnh đơn bạc cô quạnh quyết tuyệt biến mất khỏi mắt tôi.
Chớp mắt đã tới tháng ba, đầu xuân mưa dầm liên miên suốt mười ngày.
Cả kinh thành bị bao phủ trong mưa gió buồn thiu, cả ngày lạnh lẽo, trong cung lại càng lạnh. Mỗi lần đến tiết xuân thu, kinh thành luôn có mưa dầm mười ngày nửa tháng như vậy, khiến người người buồn bực, khó mà giữ được tâm trạng vui vẻ. Vài ngày trước vừa bị phong hàn, vốn tưởng là bệnh nhẹ, nhưng không ngờ lại phải nằm giường triền miên, vừa nằm đã qua mấy ngày. Từ sau lần bệnh nặng hai năm trước, tôi vẫn không thể hồi phục như cũ, bất luận điều dưỡng thế nào thân thể vẫn suy yếu, Thái y cho là cơ thể tôi không thể chịu được gánh nặng sinh đẻ, thuốc kia cũng chưa dừng một ngày nào.
Ngủ dậy sau giờ Ngọ, nghiêng người dựa vào thành giường, lồng ngực chợt khó chịu, che miệng ho không ngừng. Bỗng nhiên một bàn tay ấm áp có lực đặt xuống phía sau lưng, nhè nhẹ vỗ về. Tôi nỗ lực cười, vịn tay chàng, dựa vào lòng chàng, cơ thể lạnh băng nhất thời được hơi ấm bủa vây.
“Có khá hơn chút nào không?”, chàng khẽ vuốt mái tóc tôi, đầy yêu thương. Tôi gật đầu, nhìn thấy vẻ mặt mệt mỏi, trong đôi mắt có tia đỏ của chàng, lòng xót xa, “Chàng bận gì cứ làm đi, không cần lo cho ta, để lỡ chính sự lại phải thức khuya”.
“Những việc kia đã không cần kíp nữa, chỉ có nàng mới khiến ta không yên lòng”, chàng than một tiếng, vén kín chăn cho tôi. Mấy ngày gần đây tin tức đại quân nam chinh bị ngăn trở ở Dư Lăng không ngừng tới khiến lòng người sầu lo, hại chàng mấy ngày rồi chưa từng được ngủ ngon. Đang định hỏi chàng tình hình hôm nay có tiến triển gì không thì lại nghe bên ngoài bình phong vang lên tiếng thông bẩm, “Khởi bẩm Vương gia, chư vị đại nhân đã chờ trong phủ”.
“Biết rồi”, Tiêu Kỳ nhạt giọng đáp, vẫn hững hờ. Tôi nhìn mưa rào gió lớn bên ngoài cửa, “Tình hình phía nam vẫn căng thẳng sao?”.
“Những chuyện này nàng không cần lo nghĩ, nghỉ ngơi tốt là được”, Tiêu Kỳ cười cười, giúp tôi vén lại tóc mai rồi đứng dậy đi. Tôi nhìn bóng lưng chàng, suy nghĩ một lát, lời đã nấn ná hồi lâu… đến miệng rồi lại chần chừ. Thư ca ca gửi vẫn còn dưới gối. Tôi lấy ra đọc lại một lần. Một tờ giấy thư thật mỏng nhưng nằm ở trong tay lại nặng ngàn cân.
Đại quân nam chinh một đường xuôi nam thế như chẻ tre, nhưng đến Dư Lăng thì gặp mấy ngày lũ lớn liên tiếp, nước sông tăng vọt, thuyền nhỏ chuẩn bị lúc trước không có khả năng vượt qua dòng sông chảy xiết. Mà thủ thành Dư Lăng đã bỏ chạy về nam, biết trước mùa mưa sắp tới còn chặt hết cây cối cao lớn quanh bờ sông đi, khiến quân ta không thể chặt cây đóng thuyền vượt sông, cứ thế bị vây ở Dư Lăng nhiều ngày. Mười vạn quân tiên phong của Hồ Quang Liệt đã giao đấu với quân địch từ lâu, lương thảo sắp hết, cần đại quân tới gấp. Nếu như không thể vượt qua sông ở Dư Lăng thì chỉ còn cách đi vòng qua Mẫn Châu. Mẫn Châu là đất phong của An Vương, địa thế hiểm trở, dễ thủ khó công, nếu An Vương không mở thành cho mượn đường, muốn kiên quyết công thành, e là khó hơn cả vượt sông. Lại ngặt nỗi An Vương và Kiến Chương Vương có quan hệ thông gia, một mặt vờ dâng biểu lên triều đình, lên án công khai nghịch thần, tự cho mình là trung lương; một mặt lại trấn giữ Mẫn Châu, chống cự không ra thành, đối triều đình bằng mặt không bằng lòng, thực đáng hận.
Trong thư, ca ca nói đê lớn Sở Dương đã nhiều năm không được sửa lại, sau khi huynh ấy đến nhậm chức, khó khăn lắm mới hoàn thành được. Đê lớn Sở Dương một khi hoàn thành, cơ hồ ngăn được một nửa độ lớn của lũ hàng năm, có thể nói công ở thiên thu, ân huệ tỏa khắp chúng sinh. Nhưng con đê này không phải là tâm huyết của ca ca, lại tốn rất nhiều tiền của, hao phí công sức tiền bạc bằng mấy ngàn công trình trị thủy.
Song tôi cũng biết, chính vì việc đắp đê lớn đoạt công sức nhiều ngày nên ba con kênh nhỏ chưa đào xong, khiến cho nước sông đầu mùa mưa tăng vọt. Không có cách nào ngăn nước, nước sông cứ lên mãi không ngừng, cản trở đại quân qua sông.
Mấy ngày liên tiếp mưa xối xả, không có xu hướng thuyên giảm, kế duy nhất hiện nay là hủy đê, xả lũ để nước sông hạ xuống. Đắp đê khó khăn, hủy đê còn khó nữa. Một khi phá đê, khắp ba trăm dặm bình nguyên hai bên bờ sông Sở Dương sẽ bị nước bao phủ, hàng vạn dân chúng lâm vào tai họa, việc đồng áng mất tiêu, nhà cửa không còn… Tiếng kêu than dậy sóng làm tôi không rét mà run. Hiện nay Tống Hoài n và Tử Đạm bị vây khốn ở Dư Lăng, mấy ngày trước đã tâu với Tiêu Kỳ, yêu cầu lập tức phá đê cho đại quân qua sông. Ca ca biết chuyện này, vừa khẩn cấp dâng tấu lên triều, vừa gửi thư cho tôi, yêu cầu bất luận thế nào cũng không thể phá đê, chỉ cần cho huynh ấy thêm chút thời gian, huynh ấy sẽ cho đào xong ba con kênh.
Nhưng, không ai biết để đào xong ba con kênh ấy mất bao nhiêu thời gian, cũng không biết quân tiên phong có chờ được lâu như vậy không.
Tiêu Kỳ lâm vào thế tiến thoái lưỡng nan. Mười vạn quân tiên phong ở Giang Nam là những tướng sĩ đã cùng chàng vào sinh ra tử nhiều năm, nếu như đại quân không thể tới kịp, ắt sẽ khiến họ rơi vào tuyệt cảnh, Tiêu Kỳ đương nhiên không thể vứt bỏ mười vạn quân không để ý; song dân chúng hai bên bờ Sở Dương nào có tội tình gì, nếu như để sinh linh đồ thán, nhà cửa nát tan, thì cho dù trận chiến này có thắng cũng sẽ kéo theo tiếng nhơ mãi về sau.
Chúng tôi đang phải đấu tranh, chiến sự phía trước và sự sống chết của dân chúng, rốt cuộc bên nào nặng bên nào nhẹ? Vì quyền vị mà chinh phạt, một cuộc chiến gà nhà tàn sát, có đáng giá đổi bằng tính mạng dân chúng?
Mà tâm huyết của ca ca một khi bị hủy, việc trị thủy sẽ chẳng thành, huynh ấy sao có thể chịu nổi, cũng sao có thể gánh nổi tiếng nhơ này?
Đêm đến bị ho, khó khăn lắm mới chợp mắt được, vừa mơ màng chìm vào giấc ngủ… chợt nghe thấy tiếng bước chân dồn dập, tiếng thị vệ trực đêm vang tới, “Khởi bẩm Vương gia, có quân báo từ biên quan truyền tới, vô cùng khẩn cấp!”.
Tôi chợt mở mắt, thấy Tiêu Kỳ đã tung mình ngồi dậy, khoác áo xuống giường, “Trình lên!”.
Ngoài bình phong lập tức sáng bừng, hạ nhân vội vã bước vào, quỳ gối, “Biên quan hỏa tốc truyền thư, thỉnh Vương gia xem”.
Tiêu Kỳ nhận lấy bức thư kia, nhíu mày mở ra. Trong phòng yên lặng như tờ, mơ hồ khiến người ta hít thở không thông. Tôi nhấc mình ngồi dậy, nhìn thấy dưới ánh nến, sắc mặt Tiêu Kỳ dần dần ngưng trọng, như bao phủ bởi sương lạnh, quanh thân có sát khí tản ra làm lòng tôi đột nhiên căng thẳng.
Ngoài trời mưa tí tách, sắc trời vẫn đen nhánh, tiếng mưa gió lạnh lẽo bức người.
“Phía bắc sao vậy?”, tôi không kìm được mà lên tiếng hỏi. Tiêu Kỳ quay đầu nhìn, sắc mặt hòa hoãn một chút, lập tức mặc ngoại bào, “Không có chuyện gì lớn, trời vẫn còn tối, nàng ngủ tiếp đi”.
Tôi nhìn gương mặt lạnh lùng của chàng, bỗng nhiên phát hiện ra khuôn mặt ấy mấy ngày này đã gầy đi, mà mỗi đường nét trên mặt càng thêm sâu xa. Cả giang sơn này đặt nặng trên vai chàng, cho dù có là người sắt cũng sẽ mỏi mệt. Lòng chua xót, tôi không khỏi thở dài nói: “Cần phải vội vã như vậy ư? Lúc này mới canh ba, chờ tới khi lâm triều rồi nghị sự cũng không muộn”. Tiêu Kỳ trầm mặc, nhẹ giọng nói, “Nam Đột Quyết xâm phạm biên cảnh, quân tình như lửa, không thể chậm trễ”.
Tôi giật mình, “Người Đột Quyết?”.
“Chính là bọn Nam Đột Quyết người yếu sức mỏng”, Tiêu Kỳ hừ lạnh một tiếng, “Nhưng đáng hận là phía nam lại dám câu kết cùng giặc ngoại xâm”.
Chính là vài ngày trước, năm ngàn kỵ binh Nam Đột Quyết tập kích Dực thành, cướp vô số tài vật và gia súc. Thủ tướng biên quan xuất kích truy đuổi, trục xuất năm ngàn quân Đột Quyết ra khỏi Dực thành, lại gặp đại quân Đột Quyết ngăn chặn, không công mà lui. Nam Đột Quyết Vương đích thân dẫn mười vạn thiết kỵ chằm chằm nhìn vào nước ta, tuyên bố rửa sạch nỗi nhục năm đó. Thủ tướng biên quan cầu viện Ninh Sóc, mà một nửa quân đóng ở Ninh Sóc đã nam chinh, cũng đóng giữ ở những nơi trọng yếu trong kinh thành. Hiện giờ binh lực trống không, nếu như đối chọi với vẻn vẹn mười vạn kỵ binh Đột Quyết thì không có gì đáng ngại, nhưng phía sau đội quân này nhất định còn có viện quân, giả như Bắc Đột Quyết cũng liên hợp tấn công phía nam thì tình thế biên quan sẽ nguy.
Năm đó Tiêu Kỳ làm thủ tướng Bắc cương, trải qua mấy trận đại chiến đã đuổi quân Đột Quyết ra khỏi biên cảnh, lùi về Bắc Mạc. Lão Vương Đột Quyết bị thương nặng không chữa được, lâu dần qua đời, do đó dẫn tới Vương tộc tranh giành địa vị, Đột Quyết bị phân làm hai, Bắc Đột Quyết thế yếu, dời đến phương bắc xa xôi, không hề lui tới Trung Nguyên nữa; Nam Đột Quyết gặp phải tổn thất nặng nề, đã nhiều năm không dám bước qua Bắc Mạc nửa bước. Từ đó tới giờ, Hoàng thất Trung Nguyên rung chuyển, nội loạn liên miên, Tiêu Kỳ bận rộn tranh giành quyền vị, không rảnh chú ý tới phương bắc, cho Nam Đột Quyết cơ hội phục sinh, thâu tóm rất nhiều bộ tộc yếu ở Bắc Mạc, gia tăng dự trữ nuôi dưỡng binh mã, cuối cùng gây thành họa lớn.
Song, có một tin còn tồi tệ hơn thế, khi người của quân ta lẻn vào doanh trại địch, phát hiện trong trướng Đột Quyết Vương có sứ thần tôn thất phía nam, không những hỗ trợ Đột Quyết dấy binh mà còn lập nhiều minh ước với Đột Quyết. Phía nam, tôn thất kéo binh lực triều đình, Đột Quyết nhân cơ hội xâm phạm phương bắc, tạo thành xu thế giáp công bắc nam với Trung Nguyên. Hành động này của tôn thất phía nam rõ ràng là dẫn sói vào nhà, vì tranh đoạt quyền thế mà không tiếc cắt quốc thổ, giao biên thùy phía bắc cho giặc ngoại xâm.
Nước mưa rớt xuống mái hiên, ngoài bình phong tiếng mưa như dệt cửi, chân trời đen mù mịt.
Tôi đứng trước cửa, choàng áo khoác dày mà vẫn cảm thấy lạnh. Nam Đột Quyết… Nam Đột Quyết… Tôi dường như trở lại vùng đất phương bắc mênh mông ấy, thân ảnh bạch y tiêu điều mơ hồ hiện lên trước mắt.
A Việt đi lên trước, nhẹ nhàng hạ mành chắn gió xuống, cười nói: “Bên cửa sổ gió lớn, Vương phi vào trong nghỉ ngơi được không?”.
Tôi sực tỉnh lại, đưa mắt nhìn nàng, “A Việt, ngươi là người Ngô Giang sao?”.
“Nô tỳ lúc nhỏ lớn lên ở Ngô Giang, sau đó theo người nhà đến kinh thành”, nàng mỉm cười đáp.
Tôi thong thả đi đến trước án, trầm ngâm nói: “Sở Dương ở cạnh Ngô Giang, vùng đất tương đối phì nhiêu, dân chúng có khá giả?”.
A Việt chần chừ nói: “Đất đai nguồn nước rất tốt, nhưng năm nào cũng gặp họa lũ lụt, người có tiền phần lớn đã chuyển đi rồi, chỉ còn dân chúng bình thường, không chỉ gặp thiên tai mà còn bị tham quan bóc lột”. Nói tới nỗi khổ quê cũ, nàng càng căm phẫn, “Khó khăn lắm mới thoát khỏi thiên tai, lại không tránh nổi họa do người gây ra, hàng năm mượn danh trị thủy, không biết đã cướp đoạt bao nhiêu tiền của, hương thân phụ lão đều nói, tai họa người gây ra mạnh hơn nước lũ”.
Quan lại phía nam thối nát tôi đã sớm biết, nghe nàng nói vậy vẫn thấy lòng đau. Tai họa người gây ra mạnh hơn nước lũ. Hiện giờ nam phương nội loạn, phía bắc ngoại xâm, nếu bàn về thiệt hại, nước lũ há có thể sánh tầm?
Tôi từng do dự, rốt cuộc có đáng hay không khi chỉ vì một trận chiến gà nhà tàn sát mà khiến dân chúng thảm hại, nhưng giờ đây Đột Quyết xâm lấn, cuộc chiến này đã không còn là huynh đệ tương tàn nữa mà là ngoài chống giặc cướp, trong chống phản tặc. So với chuyện để mất lãnh thổ, xã tắc đổ vỡ, chúng tôi tình nguyện lựa chọn một sự hy sinh khác.
Tiêu Kỳ quyết định cho ca ca thêm nửa tháng, cũng lệnh Tống Hoài n cho quân tới Sở Dương giúp đỡ, nếu sau nửa tháng không có tiến triển thì Tống Hoài n có thể phá đê, kẻ nào dám cãi lời, xử lý theo quân pháp.
Vài ngày sau, sứ thần tôn thất phía nam vênh váo vào kinh, yêu cầu nghị hòa, ký hiệp ước tương hỗ.
Quần thần tụ tập trong điện Thái Hoa, tôi ôm tiểu Hoàng đế ngồi sau rèm, Tiêu Kỳ mặc triều phục đeo bội kiếm đứng trên thềm son.
Sứ thần ngang nhiên lên điện, trình tấu chương mà phiên Vương phía nam thống nhất với nhau, yêu cầu lấy Trường Giang làm ranh giới, để Tử Luật xưng đế phương nam. Người này nói năng xấc láo, miệng lưỡi trơn tru, tuyên bố trong vòng mười ngày nếu triều đình không lui binh, bắc cảnh không có sức ngăn địch, quân thiết kỵ Đột Quyết sẽ tiến quân thần tốc tới. Quần thần nghe xong vô cùng phẫn nộ, giận dữ mắng mỏ phiên Vương phía nam là quân phản quốc.
Tiêu Kỳ cầm lấy tấu chương nội thị đưa lên, cũng không thèm nhìn một cái, lập tức ném bỏ. Mọi người cả kinh, nhưng ngay sau đó mặc nhiên đứng im.
“Trở về nói với chư Vương”, Tiêu Kỳ cười ngạo nghễ, “Ngày ta đánh dẹp phương bắc cũng chính là lúc nghịch đảng Giang Nam diệt vong!”.
Dưới điện yên lặng chốc lát, chúng thần nhất tề hạ bái hô to: “Ngô hoàng vạn tuế!”. Sứ giả biến sắc, ngượng ngùng lui ra. Tôi từ sau rèm nhìn thấy thân ảnh đứng thẳng như núi của Tiêu Kỳ, không khỏi bị kích động. Giang sơn vạn dặm này có chàng một mình đảm đương, cho dù sóng to gió lớn đột kích cũng không thể lay chuyển.
Mấy ngày liên tiếp, chiến sự bắc cảnh ác liệt, kỵ binh Đột Quyết không ngừng công kích, nơi nơi là cảnh chém giết, viện quân lục tục tiếp cận, tướng sĩ thủ thành liều chết mà đánh, thương vong rất nặng. May mà Đường Cạnh đã dẫn mười vạn quân hướng bắc, ít ngày nữa sẽ tới Ninh Sóc. Hai mặt nam bắc đồng thời lâm vào giằng co, chiến báo được người tức tốc phi ngựa đưa tới. Tôi ngày ngày chờ đợi ca ca đưa tin tới, nhưng lần nào cũng phải thất vọng.
Đêm đã về khuya. Tôi ngồi trước gương, cầm chiếc lược lưu ly chầm chậm chải tóc, tinh thần bất ổn.
Thời gian nửa tháng không còn nhiều lắm, tới nay đã hơn mười ngày, chúng tôi, ca ca, dân chúng hai bên bờ Sở Dương, quân giữ bắc cảnh, đại quân tiên phong nam chinh đang sống những ngày dài thê lương. Thế mà ca ca lại không gửi tin về, cũng không biết kênh rạch có kịp hoàn thành đúng hạn không… Nghĩ tới hậu quả phá đê, lòng tôi càng thêm lo lắng, tay dùng sức, bẻ gãy chiếc lược làm đôi. Dự cảm không lành nhất thời ùa tới, không áp chế được nỗi sợ hãi trong lòng thêm nữa, tôi đột nhiên phất tay áo, quét sạch đồ trang sức châu ngọc trên bàn.
“A Vũ!”, Tiêu Kỳ nghe tiếng, ném cuốn sổ trên tay xuống, bước nhanh tới mở lòng bàn tay tôi ra, giật mình nhìn thấy một vết rách đã túa máu. Tôi xoay người dựa vào ngực chàng, không nói một lời, thân mình run rẩy.
Chàng thở dài, chỉ dùng ống tay áo lau đi vết máu trong lòng bàn tay tôi, áo bào trắng muốt bị nhiễm sắc đỏ. Nghe được nhịp tim đập vững vàng của chàng, nỗi sợ hãi trong lòng tôi dần bình ổn, lẩm bẩm nói, “Trận chiến này bao giờ mới đánh xong được? Lúc nào mới bình yên trở lại được?”. Chàng cúi người nhẹ hôn lên trán tôi, mang theo vẻ uể oải, “Ta tin là rất nhanh sẽ có tin chiến thắng”.
Lời Tiêu Kỳ quả nhiên linh nghiệm, ngày hôm sau mặc dù không có tin tức tôi mong ngóng, nhưng lại có một biến cố không ai đoán được.
Mật sử Đột Quyết lặng lẽ vào triều, cầu kiến Nhiếp chính Vương Tiêu Kỳ. Người này hết sức bí ẩn, hẳn là vòng qua bắc cảnh, từ phía tây bắc mà vào. Đoàn người cải trang thành thương nhân Tây Vực, sau khi qua biên quan mới bị phát hiện. Vốn tưởng là gian tế Đột Quyết, người cầm đầu lại tự xưng là Mật sử của Vương tử, yêu cầu bái kiến Nhiếp chính Vương. Quan địa phương quả thực tìm được mật hàm của Vương tử trên người hắn, lúc này mới sai người áp tải về kinh.
Hộc Luật Vương tử của Đột Quyết nói trong mật hàm rằng trước kia hắn và Tiêu Kỳ từng có minh ước, hôm nay thế lực đã đủ lớn mạnh, lại thêm Đột Quyết Vương xâm nhập phương nam chính là cơ hội đoạt vị của hắn. Khổ nỗi binh lực trong tay còn thiếu, hắn không dám tùy tiện khởi sự, mong muốn mượn mười vạn binh Trung Nguyên, ước định sau khi thành công sẽ lập tức lui binh ở bắc cảnh, cắt tặng đồng cỏ phì nhiêu bên sông Mạc, muôn ngàn năm về sau cống dâng dê ngựa, vĩnh viễn không xâm phạm biên giới.
Trên điện Sùng Cực, Mật sử Đột Quyết nhập kiến, không chỉ mang đến con dấu của Vương tử làm chứng mà còn dâng lên một lễ vật đặc biệt. Mật sử Đột Quyết cao lớn nhiều râu xuôi tay đứng thẳng, bẩm bằng tiếng Hán lưu loát, “Đây là lễ vật Vương tử tệ quốc tặng Dự Chương Vương phi”.
Tệ quốc: cách gọi nước mình khi ngoại giao (gọi nước đối phương là quý quốc).
Chiếc hộp gấm được đưa tới trước mặt tôi, tôi đưa mắt nhìn về Tiêu Kỳ, lại thấy chàng không đổi sắc mặt, chỉ hơi gật đầu.
Tôi chầm chậm mở nắp hộp, bên trong là một đóa hoa tuyết trắng kỳ lạ, rõ ràng hái đã lâu nhưng màu sắc vẫn tươi tắn, nhụy hoa trong suốt.
“Đây là kỳ hoa nở trên đỉnh Hoắc Độc của tệ quốc, trong bão tuyết không tàn, trải gió sương không phai, trăm năm mới nở hoa một lần, là thánh phẩm chữa thương trị độc trong thiên hạ. Vật này vốn nên được dâng từ hai năm trước, nhưng nay chậm trễ, mong Vương phi thứ tội”.
Hạ Lan Châm vẫn nhớ tới một chưởng khiến tôi bị thương nặng kia, hôm nay lại dùng cách này để bồi tội. Trong nhụy hoa mơ hồ có ánh sáng lưu chuyển, tôi khẽ vén cánh hoa ra, nhìn thấy rõ một viên minh châu chói lọi được giấu vào trong. Năm đó lúc thành thân, Uyển Dung tỷ tỷ tặng tôi một chiếc trâm phượng gắn huyền châu, mà huyền châu là sai thợ khảm, thế gian chỉ có một. Cái trâm đó bị tôi tháo xuống ám sát Hạ Lan Châm, ám sát thất thủ, từ đó mất tích.
Hôm nay, huyền châu trở lại, như cố nhân đến.