Chương 5
Miayang, Trung Quốc
Tôi thức dậy vào sáng sớm, người phụ nữ cao tuổi giữ tôi lại trong nhà hàng cả đêm qua đang ngủ trên một chiếc ghế lớn. Tôi tung chiếc chăn bà đã đắp cho mình và đứng dậy. Bà mở mắt, nhìn tôi dịu dàng, rồi đặt một ngón tay lên môi mình để yêu cầu tôi đừng làm ồn. Sau đó bà đứng dậy và đặt ấm trà lên một chiếc chảo gang. Một tấm phân cách tách đôi căn phòng chúng tôi đang ở với nhà hàng bên ngoài, xung quanh tôi, tôi nhận thấy những thành viên còn lại của gia đình đang ngủ trên các tấm nệm được trải dưới sàn nhà. Hai người đàn ông khoảng chừng ba mươi tuổi nằm gần cánh cửa sổ duy nhất. Tôi nhận ra một trong hai người đã phục vụ bữa ăn tối cho tôi tối qua còn người còn lại làm việc trong nhà bếp. Em gái họ, khoảng chừng hai mươi tuổi thì đang ngủ trên chiếc giường nhỏ gần lò than, chồng của bà chủ thì nằm trên một cái bàn, kê một chiếc gối phía dưới đầu và vai ông. Ông mặc một chiếc áo len cùng áo khoác len dày. Tôi đã chiếm lấy cái giường mà cặp vợ chồng ngủ mỗi đêm. Tôi cảm thấy vô cùng xấu hổ vì đã xâm nhập vào cuộc sống riêng tư của họ, tôi đang nói đến sự thân mật. Điều mà, nếu trong căn hộ của tôi ở Luân Đôn, liệu tôi có dám hy sinh cho một người lạ mặt ngủ trên giường mình?
Ấm trà của người phụ nữ đã bốc khói. Chúng tôi chỉ có thể trao đổi với nhau thông qua cử chỉ.
Tôi nhận lấy tách trà rồi lẻn ra khỏi phòng. Đẩy bức tường phía sau mình.
Tôi bước đi trên con đường vắng vẻ, đến lan can chạy dọc theo sông và ngắm nhìn nó đang lững lờ chảy về phía tây. Con sông ngập trong làn sương mù của buổi sáng tinh mơ. Một chiếc thuyền nho nhỏ đang trôi chầm chậm. Người ngồi phía trước mui thuyền ra dấu rằng anh ta sẽ trở về sớm, tôi đoán vậy.
Cảm thấy lạnh, tôi cho hai bàn tay vào trong túi và cảm nhận tấm ảnh chụp Keira đang sượt qua ngón tay mình.
Tại sao vào lúc này tôi lại nhớ đến cái đêm ở Nebra? Tôi nhớ đến cái đêm được ở cùng em, ký ức hiện về vô cùng sống động, nhưng chúng tôi đang ở rất gần nhau.
Tôi sẽ rời khỏi đây sớm để đi đến tu viện Gath, tôi không biết đến đó phải mất bao lâu, cũng như làm thế nào để được nhận vào, nhưng ai mà quan tâm đến những điều đó chứ, đó là manh mối duy nhất để tìm em… nếu như em vẫn còn sống.
Sao tôi lại cảm thấy không chắn chắn thế này?
Có một buồng điện thoại công cộng nằm trên đường, chỉ hơn xa một chút từ chỗ tôi. Tôi muốn nghe thấy giọng của Walter. Cái buồng điện thoại mang dáng dấp hào nhoáng của những năm bảy mươi. Cái máy chấp nhận thẻ tính dụng. Ngay khi quay số trên bàn phím, tôi nghe thấy tín hiệu báo bận, nó không thể kết nối tới các quốc gia ngoài vùng lãnh thổ. Sau hai lần cố gắng hay nhiều hơn nữa, cuối cùng tôi cũng phải bỏ cuộc.
Đến lúc phải cảm ơn người chủ nhà, tôi trả tiền cho bữa ăn tối hôm trước rổi lên đường. Thế nhưng họ không cần tôi phải trả, thế nên tôi cảm ơn họ thêm nhiều lần rồi rồi đi.
Vào sáng muộn, tôi cuối cùng cũng đến được Thành Đô. Thành phố thật ô nhiễm, ồn ào và náo nhiệt. Tuy nhiên giữa những tòa cao ốc và dự án nhà, những ngôi nhà đổ nát vẫn còn tồn tại. Tôi tìm trạm xe buýt.
Đường Jinli, du lịch bẫy, có thể tôi sẽ tìm được một vài người đồng hương có thể chỉ dẫn cho tôi ở đó.
Vườn Nanjiao, những chiếc thuyền mang phong cách cổ xưa trôi lặng lẽ trên mặt hồ nước dưới bóng liễu rủ ơ hờ.
Tôi gặp một cặp đôi mà ngoại hình của họ khiến tôi đoán rằng họ là người Mỹ. Họ giải thích rằng mình đến để hoàn thành khóa đào tạo tại Thành Đô, đó là một phần của chương trình trao đổi sinh viên.
Vui mừng vì gặp một người nói cùng ngôn ngữ với mình, họ chỉ tôi rằng nhà ga nằm phía đối diện bên kia thành phố. Cô gái lấy quyển sổ tay trong túi mình và viết một chỉ dẫn cho tôi. Thư pháp tiếng Trung của cô thật hoàn hảo. Tôi nhân cơ hội này nhở họ viết dùm tên của tu viện Gath.
Tôi trở lại xe mình ở bải đỗ. Tìm quần áo mà vị thầy tu đã đưa cho rồi tôi thay đồ ngay trong xe, và tôi lấy cái túi để tăng thêm chút ấn tượng. Sau đó tôi bỏ chiếc xe của mình lại và bắt một chiếc taxi.
Người lái xe đọc mảnh giấy hướng dẫn và chở tôi đến nơi sớm nửa tiếng trước khi xe buýt khởi hành đến Wuguiqiao. Tôi đến trạm xe cùng một tấm vé quý giá viết bằng tiếng Trung. Người nhân viên đưa lại cho tôi hai mươi nhân dân tệ tiền thừa và chỉ tôi đến băng ghế số 12, sau khi bắt tay tôi, ông khuyên tôi nên nhanh lên nếu không muốn lỡ mất tuyến xe sắp khởi hành.
Chiếc xe không được mát mẻ cho lắm, tôi tìm thấy chỗ của mình tận cuối xe, nằm giữa một người phụ nữ và một chiếc lồng tre bự chứa ba con vịt béo ú. Người nghèo có thể sẽ mang chúng đi quay khi đến nơi. Nhưng làm thế nào có thể ngăn chặn số phận đang chờ đợi chúng đây?
Chúng tôi băng qua cây cầu bắt ngang sông Funan* rồi chạy nhanh trên đường cao tốc với những tiếng kêu lớn phát ra từ hộp số.
Chiếc xe dừng lại tại Ya’an, một hành khách bước xuống. tôi không có một ý nghĩ nào về cuộc hành trình dường như kéo dài vô tận này. Tôi dự định đưa mảnh giấy hướng dẫn của mình cho người ngồi kế bên để nhờ cô dịch. Thế nhưng cô đã gục mặt ngủ tận sáu tiếng đồng hồ. tôi đã đi đến gần cuối ngày. Tôi sẽ ngủ lại đâu đêm nay? Tôi không hề biết.
Con đường chạy uốn khúc theo ngọn núi, nếu tu viện Gath ở độ cao này đêm sẽ rất lạnh. Tôi phải nhanh chóng tìm được chỗ tá túc.
Cảnh vật trở nên khô cằn hơn, tôi bắt đầu cảm thấy nghi ngờ. Điều gì có thể khiến Keira đi đến đây? Chỉ có thể là việc tìm kiếm những mẫu hóa thạch dẫn đến nơi tận cùng của thế giới. Tôi không thể nghĩ ra lời giải thích nào hơn.
Hai mươi mét tiếp theo, xe buýt dừng ngay trước một cây cầu bằng gỗ, nó được cố định bằng hai dây thép đang trong tình trạng xuống cấp, tài xế yêu cầu tất cả hành khách bước xuống, phải giảm bớt trọng lượng để giảm rủi ro. Qua ô cửa sổ, tôi nhìn thấy khe vực sâu hun hút và thầm thán phục sự khôn ngoan của người tài xế.
Vì ngồi tận cuối xe nên tôi sẽ là người ra sau cùng. Khi tôi đứng dậy, chiếc xe đã trống rỗng. Dưới chân, tôi mở các thanh tre dùng khóa cái lòng, những con vịt bắt đầu kích động, đành để mặt chúng cho số phận vậy.
Cả ba con vịt đều trông có vẻ không được vui. Mỗi con tự chọn đường tẩu thoát cho riêng mình, một con đi theo lối đi chính, một con chọn hàng ghế bên phải, con cuối cùng cắt ngang hàng ghế số ba, sao cũng được, miễn là chúng để tôi đi ra xe trước nếu không tôi sẽ bị khép vào tội đồng lõa! Sau tất cả mọi mối quan tâm, chủ nhân của chúng đang đứng trên cầu, tay bám vào lan can, mắt khép hờ và chống tay để vượt qua cơn chóng mặt.
Cuộc hành trình của tôi cũng chẳng dũng cảm hơn chúng là bao. Sau khi vượt qua chiếc cầu những hành khách được hướng dẫn, với nhiều tiếng la hét và khua tay múa chân, người tài xế can đảm của họ cho chiếc xe chuyển động chậm rãi trên những thanh gỗ đang run lân bần bậc. Tiếng nổ rang đáng lo ngại, cáp của chiếc cầu run lên, tấm che ở mái vẫn cân bằng nhưng không ổn chút nào. Và mười lăm phút sau tất cả mọi người đều có thể trở về chỗ của mình. Ngoại trừ tôi. Tôi nhân cơ hội này để chen vào chổ ngồi thứ hai còn trống. Hai con vịt đã biến mất, con thứ ba không may xuất hiện ở giữa lối đi và nép mình vào bắp chân của người lơ xe.
Khi chúng tôi đi đến Dashencun, tôi không thể nhịn được cười khi thấy người hàng xóm của mình đang bò bằng bốn chi ở giữa lối đi hòng tìm kiếm trong vô vọng hai con vịt đã biến mất. Cô đến Duogong trong một tâm trạng rất tổi tệ, nhưng thật khó để đổ lỗi cho chúng.
Shabacun, Tianquan, những thị trấn và làng mạc nằm trên điểm đến của cuộc hành trình, chúng tôi đi theo dòng chảy của con sông, xe buýt vẫn tiếp tục leo lên đến độ cao chóng mặt. Tôi không hoàn toàn hồi phục, trãi qua những cơn run rẩy. Run lên bởi tiếng kêu của động cơ. Tôi đã cố xoay sở để có được một giấc ngủ cho đến khi một cúc sốc đánh bật tôi dậy.
Ở phái bên trái chúng tôi, sông băng Hailuogou chạm vào những tầng mây. Chúng tôi đang đi vào khe núi Zheduo nổi tiếng, nơi cao nhất của dòng sông. Ở độ cao gần bốn ngàn ba trăm mét so với mực nước biển, tôi có thể nghe rõ tiếng tim mình đang đập trong lòng ngực và cơn đau nửa bên đầu lại tái phát. Tôi nhớ đến Atacama. Điều gì đã xảy ra với Erwan, người bạn của tôi? Đã quá lâu kể từ lần cuối cùng tôi còn gặp anh. Nếu tôi không lâm vào tình trạng bất ổn tại Chile cách đây vài tháng, nếu tôi không vi phạm những quy tắc an toàn mà chúng tôi đề ra, nếu tôi nghe lời Erwan tôi đã không có mặt ở đây, và Keira cũng đã không bị nhấn chìm trong lòng sông Hoàng Hà.
Tôi còn nhớ, để an ủi niềm đau của tôi, mẹ đã nói với tôi tại Hydra rằng “Mất đi người mình yêu thương là một điều thật khủng khiếp, nhưng điều khủng khiếp nhất là chưa từng tìm được một ai như vậy” bà nghĩa rằng cha của tôi đã mang lại một điều có ý nghĩa thật sự khác lạ khi một người càm thấy cần phải có trách nhiệm với cái chết của ông bằng cả tình yêu.
Hồ Moguecuo phản chiếu hình ảnh của những ngọn núi tuyết trên bề mặt phẳng lặng như gương của nó. Chúng tôi gỉam tốc độ khi đi đến thung lũng Xinduqiao. Trái ngược với sa mạc tại Atacama, mọi thứ ở đây thật tươi tốt. Đàn bò Tây Tạng được chăn thả trên những đồng cỏ xanh tươi mơn mởn trong khi những con dê trắng và cây du có mặt khắp nơi trên những cánh đồng cỏ. Chúng tôi đi xuống độ cao bốn ngàn feet và cơn đau đầu của tôi đã giảm bớt một chút. Sau đó xe buýt dừng lại một cách đột ngột. Người lái xe quay sang tôi, đây là lúc tôi phải xuống xe . Bên ngoài, tôi trông thấy một con đường bằng đá chạy dài theo hướng núi Gongga Shan. Người lái xe vẫy tay và lẩm bẩm một vài từ, tôi nghĩ ông yêu cầu tôi tiếp tục tránh sang phía bên kia của cánh cửa khi nó được mở như một cây đàn accoc, và không khí lạnh ùa vào.
Chiếc túi nằm dưới chân tôi, má tôi lạnh toát, tôi run rẩy nhìn chiếc xe trường đi xa dần và mất hút sau một góc rẽ.
Tôi đứng một mình giữa vùng đồng bằng rộng lớn, nơi những cơn gió lùa qua các ngọn đồi. Cảnh quan không hề bị tác động bởi thời gian, nơi mà mặt đất đã nhuộm màu của vỏ lúa mạch và cát… Nhưng tôi không hề thấy dấu vết của tu viện mà tôi tìm kiếm. Không thể ngủ ngoài bầu trời đầy sao này mà không bị đông lạnh. Mình phải đi bộ. Nhưng đi đến đâu? Tôi không biết. Tuy nhiên không có sự giúp ích nào hơn là đi bộ để chống chọi lại cái rét.
Thật vô vọng nếu muốn chạy trốn vào ban đêm, thế nên tôi chạy từng bước nhỏ, từ những sườn đồi dốc trong ánh hoàng hôn buông xuống.
Tôi nhìn thấy một góc vải đen của một chiếc lều du mục từ xa, thật đúng là ý trời.
Ngay giữa vùng thảo nguyên bát ngát, một đứa trẻ Tây Tạng đang đi về phía tôi. Nó có thể ba, hoặc bốn tuổi, điều gì đó khiến hai má con bé ửng đỏ như táo, và đôi mắt lấp lánh sáng như sao trời. Tôi không hề sợ hãi đứa trẻ xa lạ này, thật ra chẳng ai có thể sợ con bé, nó có thể tự do đi đến bất kỳ nơi đâu mà nó muốn. Nó phá ra cười, vui vẻ khi nhìn thấy sự khác biệt nơi tôi, và tiếng cười trong trẻo ngân vang trên khắp thung lũng. Con bé dang rộng hai tay, chạy theo hướng của tôi, rồi dừng lại một vài feet để đi theo hướng của nó. Một người đàn ông bước ra khỏi lều và đến gặp tôi. Tôi đưa tay ra, ông cũng bắt lấy, nghiêng người và mời tôi đi theo ông.
Phần lớn của chiếc lều được dựng nên từ những thanh gỗ. Bên trong rộng lớn. Một cái bếp bằng đá được nhóm bằng củi khô đang cháy lép bép, một người phụ nữ đang chuẩn bị một món hầm, mùi thức ăn lan tỏa trong không gian. Ông ra hiệu cho tôi ngồi xuống, đưa cho tôi một ly rược gạo và cùng uống với tôi.
Tôi chia sẻ bữa ăn với gia đình người du mục. Sự im lặng chỉ bị phá vỡ bởi tiếng cười lảnh lót của đứa bé có đôi má đỏ ửng như táo. Nó ngủ thiếp đi, xích lại gần để dựa vào mẹ của mình.
Khi trời tối, người du mục ra khỏi lều. Ông ngồi lên một tảng đá và đưa cho tôi một điếu thuốc được kẹp giữa hai ngón tay ông. Cùng nhau, chúng tôi nhìn ngắm bầu trời đêm. Trong một thời gian dài tôi không có được tầm nhìn tốt như vậy. Tôi phát hiện ra một trong những chòm sao đẹp nhất thường xuất hiện vào mùa thu, nằm ở phía đông của chòm sao Andromeda. Tôi chỉ tay lên vì sao và gọi người chủ nhà. “Perseus”, tôi nói to. Người đàn ông nhìn theo hướng của tôi và cũng nói “Perseus”, ông cười, tiếng cười ngân vang như cô con gái của mình, giống như những mảnh vỡ ánh sáng bắn ra trên bầu trời đêm phía trên chúng tôi.
Tôi ngủ lại trong lều của họ, được che chở khỏi những cơn gió lạnh. Vào buổi sáng tôi đưa cho ông ta mảnh giấy hướng dẫn của tôi, nhưng ông không biết đọc và không hề để ý đến. Ngày mới đã bắt đầu và ông có rất nhiều việc phải làm.
Trong khi giúp thu nhặt gỗ, tôi đã cố nói từ “Gath”, tôi đã thử nhiều cách phát âm khác nhau để hy vọng tìm kiếm được phản ứng nơi ông. Nhưng thật vô ích, ông ta dường như chẳng có chút phản ứng nào.
Sau khi thu nhặt đủ gỗ, chúng tôi gánh nước. Trên đường đi người du mục đưa cho tôi một thùng trống từ vai ông ta và hướng dẫn cách điểu chỉnh nó. Và rồi chúng tôi cùng đi về phía nam.
Chúng tôi đi bộ mất hai giờ. Từ đỉnh đồi, tôi nhìn thấy một dòng sông chảy giữa những cây cỏ cao. Người du mục đã đến đó trước tôi. Khi tôi đến, ông ta đang tắm. Tôi cũng bỏ áo sơ mi và lặn xuống. Nhiệt độ nước rất lạnh, dòng sông này có thể bắt nguồn từ một trong những dòng sông băng mà tôi có thể nhìn thấy từ đây.
Người du mục vẫn còn ở dưới nước. Tôi bắt chước hành động của ông ta. Hai chiếc túi căng phồng lên và tôi nhận thấy thật khó để mặc được đồ của mình đang để lại trên bờ sông.
Quay trở lại bờ, người du mục xé một nhúm cỏ khô và bắt đầu chà xát lên người mình. Khi đã khô ráo, ông mặc lại đồ và ngồi xuống nghĩ ngơi. “Perseus”, người du mục nói, chỉ tay lên bầu trời. Sau đó ông chỉ cho tôi một khúc sông, nằm ở hạ lưu vài trăm mét từ chỗ chúng tôi. Hai mươi người đàn ông đang tắm, bốn mươi người khác đang cày đất, họ đẩy một cây cày vẽ nên những đường rãnh thẳng đến hoàn hảo. Tất cả đểu mặc trang phục mà tôi nhận ra ngay lặp tức.
-Tu viện Gath! Tôi chỉ cho người đồng hành.
Tôi cảm ơn ông và chạy đến chổ các tu sĩ, nhưng người du mục đứng phắt dậy và nắm lấy cánh tay tôi. Gương mặt ông tối sầm. Với một cái gật đầu, ông yêu cầu tôi không nên đi. Ông kéo tay áo của tôi và chỉ cho tôi con đường để quay về. Tôi có thể đọc được nổi sợ hãi hiện hữu trên gương mặt ông, vì vậy tôi nghe theo và tăng tốc trở leo lên ngọn đồi. Những người đang tắm trước đó đã mặc lại áo và quay trở lại làm việc, vẽ nên những đường kỳ lạ dao động như những sóng điện khổng lồ. Những tu sĩ khuất khỏi tầm nhìn khi tôi bước xuống đồi. Nhưng ngay khi có thể, tôi sẽ đi theo người chủ nhà để trở lại thung lũng này.
Nếu muốn được chào đón trong gia đình người du mục, theo lẽ thông thường, tôi phải tự làm việc để đổi lấy khẩu phần ăn thường ngày cho mình.
Người phụ nữ đi ra khỏi lều và đưa tôi đến cánh đồng chăn những con bò Tây Tạng. Tôi không hề chú ý đến cái bình cho đến khi bà quỳ xuống chổ của một trong những con vật kỳ lạ ấy và bắt đầu vắt sữa. Một lúc sau, bà nói, bài học đã xong và đã đủ cho tôi. Bà để tôi lại đây, và sự chú ý dành cho những thùng sữa khi bà quay đi khiến tôi nhận ra rằng tôi nên mang về đủ một lần.
Mọi chuyện không diễn ra dễ dàng như ta cứ tưởng. Có sự thiếu tự tin nơi tôi hoặc ở con bò châu Á chết tiệt này, thứ rõ ràng không có ý định cho người lạ mặt chạm vào những núm vú của nó, mỗi khi tôi di chuyển tay là một điều khủng khiếp đối với nó, con vật sẽ bước lùi ra trước, hoặc tiến lên… Tôi đã dùng mọi thủ đoạn, quyến rũ, thuyết phục, cầu xin, cãi nhau, hờn dỗi, nhưng nó hoàn toàn không hợp tác gì cả.
Người đến giải cứu cho tôi khỏi tình cảnh này chỉ mới có bốn tuổi. Tôi không cảm thấy vinh hạnh, ngược lại là khác, nhưng đó lại chính là sự thật.
Đứa bé gái với đôi má ửng đỏ như táo chín thình lình xuất hiện giữa cánh đồng, tôi nghĩ nó đã ở đó khá lâu để xem cuộc trình diễn này nhưng nó nên gắng nhịn cười trước khi tiếng cười lanh lảnh đó tố cáo sự hiện diện của nó. Như để xin lỗi vì đã cười nhạo tôi, con bé đến bên tôi với một cái vỗ nhẹ, nhanh tay nắm lấy một trong những bầu vú của con bò Tây Tạng với một nụ cười hiền lành, sữa bắt đầu phúng vào thùng. Tôi quỳ xuống, con bé nhìn tôi và hoan hô khi tôi cuối cùng cũng thành công trong việc nặng ra được vài giọt sữa. Đứa bé nằm trên bãi cỏ, gập tay lại, nhìn tôi và thư giãn. Dù nó còn rất nhỏ, nhưng sự hiện diện của nó mang lại cho tôi cảm giác yên lòng. Chiều hôm nay là một khoảng khắc bình yên và vui vẻ. Một lác sau, cả hai chúng tôi đi về phía căn lều.
Hai căn lều khác đã được dựng lên gần chỗ tôi ngủ đêm qua, ba gia đình đang tụ hợp xung quanh đống lửa lớn. Khi tôi trở về cùng vị chủ nhà nhỏ của tôi, người đàn ông tiến đến, vị chủ nhà bảo tôi nên tiếp tục làm công việc của mình. Tôi chờ những người phụ nữ, họ đang cùng nhau chăn đám gia súc. Tôi thật sự cảm thấy bị xúc phạm khi bị yêu cầu thực hiện một công việc ít nam tính hơn là tôi tưởng.
Ngày sắp hết, tôi ngước nhìn mặt trời, bầu trời sẫm tối dần. Có một điều hiện lên trong tâm trí tôi, nếu như bạn của người du mục là gián điệp thì chuyện gì đang xảy ra ở thung lũng phía dưới? Tôi muốn đi theo những nhà sư, những người rổi sẽ trở lại tu viện của họ. Nhưng ngưởi chủ nhà trở về khi những suy nghĩ đang chiếm đóng tâm trí tôi. Ông hôn vợ và con gái, bế nó trên tay trước khi quay vào lều. Một lác sau, ông quay trở ra, ông đã thay đồ, ông khiến tôi ngạc nhiên khi di chuyển, ông nhìn chằm chằm vào phía đường chân trời. Người chủ nhà ngồi xuống bên cạnh tôi và mời tôi một điếu thuốc. Tôi cảm ơn nhưng từ chối. Ông ngước nhìn ngọn đổi trong yên lặng. Tôi không hiểu vì sao tôi lại cho ông thấy ảnh của em. Có lẽ vì nỗi nhớ em trong tôi đang cồn cào, cũng có lẽ đây là lý do tốt nhất để có thể xem lại ảnh của em. Em là điều quý giá nhất tôi muốn chia sẽ với ông.
Tôi rút tấm ảnh ra khỏi ví và đưa cho ông. Ông mỉm cười với nó. Sau đó ông thở ra một hơi dài, nghiền nát điếu thuốc của mình giữa những ngón tay và rời khỏi tôi.
Khi đêm đến, chúng tôi cùng ăn món hầm với hai gia đình khác, họ cũng tham gia với chúng tôi. Đứa bé gái ngồi xuống bên cạnh tôi, không ai trong mẹ hay cha con bé phiền lòng về chuyện này. Thay vào đó, mẹ nó vuốt tóc con bé và nói cho tôi tên của nó. Rhitar. Tôi được biết rằng đứa trẻ được sinh ra sau khi anh trai nó ra đời, vì được đặt cái tên này để tránh lại mọi điều không may. Có phải vì để xóa đi nổi đau trước khi mình chào đởi Rhitar luôn luôn mỉm cười để nhắc nhở cha mẹ của con bé rằng nó có thể mang đến niềm vui cho họ? Rhitar nằm trong lòng mẹ mình, và ngay cả khi đã chìm sâu vào giấc ngủ, con bé vẫn mỉm cười.
Sau khi bữa ăn kết thúc, những người đàn ông mặc trang phục đa dạng, những người phụ nữ xổ tay áo của mình xuống để nó phất phơ bay trong gió. Mọi người nắm tay nhau lại tạo thành một vòng tròn. Đàn ông một bên, phụ nữ một bên. Tất cả cùng ca hát và nhảy múa, những người phụ nữ vẫy tay áo, và khi hết một bài hát, họ lại cùng la lên một tiếng thật lớn. Vòng sau bắt đầu nhảy múa theo cách khác, chúng tôi nhảy với tốc độ nhanh hơn. Chúng tôi chạy, nhảy, la hét và hát đến kiệt sức. Tôi được mời nhảy vũ điệu này cùng sự phấn khích từ men rượu gạo và một vòng người Tây Tạng.
Một bàn tay lắc vai tôi, tôi mở mắt và nhận ra gương mặt của người du mục trong ánh sáng mờ mờ. Trong yên lặng, ông ta yêu cầu tôi cùng bước ra khỏi lều. Vùng thảo nguyên rộng lớn đắm mình trong ánh sáng của đêm tối sắp kết thúc. Người chủ nhà đã đóng gói hành lý của tôi và mang nó trên vai. Tôi không biết được ý định của ông ta, nhưng tôi đoán rằng đây là lúc chúng tôi phải chia tay. Chúng tôi lập lại cuộc hành trình của ngày hôm trước. Ông không nói một lời nào về chuyến đi. Chúng tôi đi bộ khoảng một giờ đồng hồ, sau khi leo lên đỉnh đồi cao nhất, chúng tôi rẽ sang phải. Cuộc hành trình bát đầu xuyên qua rừng cây du mà nâu hạt dẻ mà dường như ông biết rõ mỗi thân cây, mỗi hòn đá. Khi chúng tôi ra khỏi khu rừng, màu xanh nhạt của nền trời vẫn chưa hiện ra. Người chỉ đường của tôi nằm phục xuống nền đất và lệnh cho tôi làm theo hệt như vậy, tôi đã nói rằng cỏ và lá mục chẳng thể nào che giấu chúng tôi. Rồi chúng tôi im lặng, như hai tên lính gác, nhưng tôi chẳng hề biết chúng tôi đang quan sát cái gì. Tôi đoán ông dẫn tôi đi câu trộm, săn thú, nhưng chúng tôi chẳng hề có vũ khí, có lẽ là đi đặt bẫy.
Tôi ra dấu, nhưng tôi phải đợi những một tiếng đồng hồ để hiểu vì sao ông ta lại kéo tôi đến đây.
Ngày mới cuối cùng cũng đến. Ánh bình minh chiếu rọi những bức tường của một tu viện lớn, gần một đô thị sầm uất.
-Tu viện Gath, tôi thì thầm với người đi cùng, lặp lại từ đó đến hai lần.
Vào một đêm nọ, tôi đã nói tên một ngôi sao trên bầu trời phía trên vùng đồng bằng, vào một buổi sáng, những người du mục Tây Tạng đã ưu ái đặt cho tôi cái tên của nơi mà tôi hy vọng sẽ khám phá ra được nhiều ngôi sao hơn bất kỳ nơi nào trong mênh mông của vũ trụ.
Người đồng hành vẫy tay ra lệnh cho tôi không được di chuyển, dường như ông sợ rằng chúng tôi sẽ bị phát hiện. Tôi thì không thấy lý do gì để phải lo lắng cả, ngôi đền ở cách đây hơn một trăm mét. Nhưng khi mắt đã quen dần với bóng tối, tôi nhìn thấy có những người đàn ông đang đi dọc trên bức tường của tu viện.
Sẽ nguy hiểm thế nào nếu bị họ trông thấy? Họ tự bảo vệ mình khỏi những nhóm người Trung Quốc tìm cách làm hại họ bằng bức tường thành này? Tôi không phải là kẻ thù của họ. Tôi đứng phắt dậy và chạy đến chổ đó. Người đồng hành đã đặt tay lên vai tôi và tiếp thêm cho tôi sức mạnh.
Những cánh cửa của tu viện vừa mở, một hàng những nhà sư bước ra đường và tiến vào vườn cây ăn quả ở phía đông. Cánh cửa nặng nề khép lại phía sau họ.
Người du mục bất thình lình xuất hiện và kéo tôi trở lại trong rừng. DUới bóng râm của những cây du, ông ta đưa cho tôi hành lý của mình, và tôi hiểu đã đến lúc chúng tôi phải chia tay. Tôi nắm lấy tay ông và siết chặt bằng tay mình. Cử chỉ đó làm ông mỉm cười, tôi im lặng trong một khoảng khắc rồi rời đi.
Tôi chưa bao giờ nếm trải nỗi cô đơn sâu sắc hơn khi ở vùng đồng bằng này, khi xuống xe buýt ở Thành Đô, tôi đã đi, đã chạy như bay vào bay đêm hòng chống lại cái lạnh giá. Đôi khi chỉ cần một ánh nhìn, một sự hiện diện, một cử chỉ thân thiện của sự sống, ngoài những sự khác biệt trong chúng ta và làm ta hoảng sợ, đơn giản chỉ là một bàn tay chìa ra giúp đỡ đã in vào ký ức tôi một gương mặt không bao giờ phai mờ theo năm tháng. Ở những giây phút cuối cuộc đời mình, tôi muốn nhìn thấy nguyên vẹn gương mặt của người du mục cùng cô con gái nhỏ với đôi má ửng đỏ như hai trái táo.
Đứng ở bìa rừng, tôi có thể dễ dàng quan sát cuộc hành trình bằng thuyền của những người tu sĩ đi đến vùng trũng của thung lũng. Từ khoảng cách này, tôi có thể quan sát họ. Tôi đếm được sáu mươi người. Như lần trước, họ bắt đầu bỏ quần áo đến tắm ở vùng nước sạch trước khi bắt đầu làm việc.
Ngày đã đến, trong khi đợi mặt trời lên cao, tôi cố gắng chống chọi với hơi ẩm đang xuyên qua lưng mình. Người tôi run lên. Tôi lục trong túi hành lý của mình và tìm được một gói thịt khô, đó là món quà từ người du mục của tôi. Tôi nhấp nháp một chút và giữ lại phân nửa cho bữa chiều. Khi các nhà sư rời đi, tôi chạy đến phía bờ sông, trong khi chờ đợi, họ sẽ bố trí…
Vì sao trong cuộc hành trình này tôi lại cảm thấy nóng, lạnh và cực kỳ mệt mỏi? Tôi cho rằng nguyên do chính nằm ở độ cao. Tôi dành hầu hết thời gian của buổi chiều để tìm cách vào tu viện, những ý tưởng điên rồ nhất ám ảnh tôi, tôi đang lạc mất lý do?
Vào lúc sáu giờ, các tu sĩ ngừng công việc của mình và quay về. Ngay sau khi họ khuất sau đỉnh đồi tôi rời khỏi nơi ẩn náo và băng qua cánh đồng. Tôi lặn thỏa thích xuống dòng sông.
Khi quay trở lại bờ, tôi bắt đầu nghĩ về nơi mình sẽ ngủ lại qua đêm. Việc phải ngủ lại trong rừng không mấy cám dỗ tôi. Quay trở lại chổ người du mục va bạn bè ông là thừa nhận sự thất bại, hơn nữa, tôi không thể tiếp tục lợi dụng lòng tốt của họ. Cho tôi hai bữa ăn đã tốn kém cùa họ rất nhiều.
Cuối cùng tôi cũng tìm thấy một khe hẹp ở sườn đồi. Tôi đào cho mình một chiếc hang ở dưới đất vào bảo vệ chiếc hành lý của mình, như thế tôi có thể sống sót qua đêm. Khi bóng tối bao trùm lấy bầu trời tôi đã ăn nốt chỗ thịt còn lại và quan sát sự xuất hiện của những ngôi sao đầu tiên, như quan sát một người bạn để giúp bạn xua đi những suy nghĩ tiêu cực.
Màn đêm buông xuống. Mang theo cảm giác lo sợ, tôi chìm vào giấc ngủ.
Đã bao lâu trước khi tiếng động đánh thức tôi dậy? Có một cái gì đó đang tiến đến đây. Tôi chống chọi lại nổi sợ hãi, nếu là một con vật hoang dã đang săn mồi quanh đây thì không cần phải trở thành con mồi của nó. Tôi sẽ có cơ hội thoát được, trốn trong cái hang của mình, nằm ngoằn ngoèo trong lòng đất. Cần phải suy nghĩ thật khôn ngoan, nhưng làm sao có thể thực hiện với nhịp tim này? Đó có thể là loài vật nào? Và tôi đang làm cái quái gì ở đây, trốn trong một cái hang dưới lòng đất cách nhà mình cả ngàn cay số? Tôi làm gi ở đây với cái đầu bẩn thỉu, những ngón tay bị đông cứng, chảy nước mũi, cái tôi nhận lại chỉ là bị lạc trên một đất nước xa lạ, điên rồ đuổi theo bóng ma của một người phụ nữ đã biến mất khỏi cuộc đời tôi sáu tháng nay? Erwan muốn tôi tìm thấy chính bản thân mình ở Atacama, hương vị ngọt ngào của ngôi nhà và đường phố Luân Đôn, tôi muốn ở một nơi nào khác chứ không phải bị một con sói bẩn thỉu xé xác tại nơi đây. Không di chuyển, không run sợ, không thở, nhắm mắt lại để tránh ánh trăng chiếu vào mắt mình. Suy nghĩ thật khôn ngoan, điều đó không giúp ích được gì khi sự sỡ hãi tóm lấy cổ áo bạn và lắc dữ dội. Tôi cảm thấy như hai mươi năm trôi qua, tôi đánh mất mọi sự phòng thủ và tự tin. Tôi nhìn thấy một ngọn đuốc, đó có thể là một tên ăn trộm muốn tấn công tôi. Và điều gì sẽ ngăn cản tôi bảo vệ bản thân mình?
Chúng ta cần phải rời khỏi cái hang này, đi trong đêm và đối mặt với những nguy hiểm. Lẽ ra tôi không nên ở đây để bị cướp bở một tên trộm hay bị cắt ra thành từng mảnh như trong một trò chơi phổ biến.
Tôi mở mắt ra.
Ngọn đuốc hướng về phía bờ sông. Cho dù ai đang cầm ngọn đuốc đó trên tay thì hắn ta cũng biết mình đang đi đâu, không hề sợ có môt cái bẫy, không theo đường mòn. Ngọn đuốc được cắm xuống phần đất màu mỡ ở con dốc. Hai cái bóng hiện trong ánh lửa. Một cái bóng mảnh hơn cái còn lại và trong có vẻ như là một thiếu niên. Một trong hai người dừng lại, đi đến bờ sông, cởi đồ và bước xuống vùng nước lạnh. Nỗi sợ hãi nối tiếp hy vọng. Hai tu sị bất chấp lệnh cấm đi bơi trong bóng tối. Hai tên trộm thời gian có thể giúp tôi đi vào trong bức tường của thành phố sẩm uất này. Tôi tiến đến bãi cỏ gần bờ sông, rồi đột nhiên hơi thở tôi ngưng lại.
Một cơ thể không hề xa lạ đối với tôi. Hình dáng đôi chân, những đường cong ở mông, lưng, bụng, vai, cổ, những cử động của chiếc đầu đầy tự hào.
Em đang ở dây, bơi khỏa thân trong một dòng sông như lúc tôi thấy em chết đi. Cơ thể em đắm mình trong ánh sáng của vầng trăng và hiện lên thật rõ ràng. Tôi có thể nhận ra em giữa hàng ngàn người. Em đang ở đây, chỉ một vài mét nữa, nhưng làm sao tôi có thể đến gần em? Làm sao có thể xuất hiện trước mặt em mà không làm em sợ, không làm em khóc hay đưa ra một lời cảnh báo? Mực nước sông ở ngang hông em, em lấy tay múc nước để nó trôi xuống mặt mình. Đến lượt tôi, tôi đến bờ sông, dùng nước rửa hết đất cát bám trên mặt.
Người tu sĩ đi theo em để tôi tiếp cận em dễ dàng, khi em quay lưng lại. Ông đứng ở một khoảng cách khá xa, có lẽ vì sợ phải nhìn thấy thân thể của em. Ngực đánh trống liên hồi, mắt tôi mờ đi, tôi đi lại một lần nữa. Em trở lại bãi cát phía bên phải tôi. Khi mắt em lướt qua mắt tôi, không hề dừng lại, em nghiêng đầu sang một bên, tìm kiếm tôi, nhưng rồi em đi qua trước mặt tôi và bước theo con đường của mình, như thể tôi không hề tồn tại.
Đôi mắt của em đã không nhìn thấy gì, tồi tệ hơn nữa, đó không phải là đôi mắt mà tôi nhìn thấy trong em. Em lấy chiếc áo khoác của mình, âm thầm, như thể không từ nào có thể thốt ra từ cổ họng của em, em quay lại chỗ người đồng hành. Tôi đi theo em mà không hề sợ em phá hiện ra sự có mặt của tôi. Có một lần tôi đá phải một hòn sỏi dưới chân, nhà sư quay lại còn em thì không. Khi đến tu viện, em đi dọc theo bức tường, bên ngoài cánh cửa lớn và tôi nhìn thấy hình bóng em biến mất vào một khe hẹp. Ngọn lửa lóe lên rồi phụt tắt. Tôi chờ miễn là tôi có thể, run lẩy bẩy vì lạnh. Cuối cùng tôi vội vã lao bổ đến nơi mà em biến mất, hy vọng tìm được lối vào, có một cánh cửa gỗ nhỏ đã đóng rất chắc chắn. Tôi cúi xuống, cần thời gian để khôi phục những giác quan của mình,rồi tôi trở về bìa rừng như một con thú.
Phần còn lại của đêm. Một cảm giác nghẹt thở xâm chiếm lấy tôi, kéo tôi ra khỏi giấc ngủ gượng ép. Tay chân tôi tê cứng, nhiệt độ giảm mạnh, tôi không thể di chuyển để cởi nút túi đồ hòng lấy ra một thứ đắp cho mình. Sự kiệt quệ làm những động tác của tôi chậm đi. Tôi nhớ đến câu chuyện về những người leo núi cũng chậm chạp dần trước khi rơi vào giấc ngủ vĩnh hằng. Tôi đang ở độ cao bốn ngàn feet, làm sao tôi có thể vô tư nghĩ rằng mình sẽ sống sót qua đêm nay? Tôi sẽ chết, trong một chiếc hòm nhỏ bằng gỗ cây du, nằm phía ngoài bức tường, chỉ cách em vài mét. Người ta nói rằng trước khi chết bạn sẽ nhìn thấy một đường hầm tối ngòm với ánh sáng chói lóa phía ở phía cuối, nhưng tôi chẳng nhìn thấy điều gì đại loại thế cả, thứ ánh sáng duy nhất tôi thấy hình ảnh em đang tắm tại con sông.
Trong hơi thở cuối cùng, tôi cảm thấy ai đó đang túm lấy mình và đỡ tô ra khỏi hố. Tôi không thể ngồi dậy, không thể ngẩn đầu lên xem ai là người đưa mình đi. Tôi được đỡ bằng tay, chúng tôi đang di chuyển trên đường và tôi nhận thấy ý thức đang dần dần rời bỏ mình. Hình ảnh cuối cùng tôi cảm nhận được là bức tường với cánh cửa lớn đang mở. Mình đang chết và cuối cùng thì mình cũng được nhìn thấy cô ấy.
*: còn được biết đến với tên sông Tĩnh Giang