Chương 13

Trong ký ức, đốm sáng lập loè lúc tỏ lúc mờ, dường như tấm màn sương mù dày đặc vừa được vén mở, hé lộ ra ảo ảnh. Tôi hé mắt, mọi thứ xung quanh dần trở nên rõ ràng. Tôi thấy A Độ đang ngồi bên cạnh, tôi thấy Vĩnh Nương với khoé mắt đỏ hoe…

Tôi thấy những hoa văn tinh xảo thêu trên màn, tôi dần dần nhận ra, nơi đây là Đông cung, là tẩm điện của tôi.

Tôi từ từ mở mắt, tưởng mình vừa gặp ác mộng. Trong cơn mơ tôi thấy những điều đáng sợ: tôi bị thích khách bắt cóc, rồi Cố Kiếm chính là gã thích khách nọ, tôi đứng ở Thừa Thiên Môn, mắt đăm đăm nhìn lên lầu cao nơi Lý Thừa Ngân đang đứng… Và điều đáng sợ cuối cùng, tôi mơ thấy mình đã quen biết Lý Thừa Ngân từ lâu, chàng hoá thành Cố Tiểu Ngũ, chàng tàn sát Đột Quyết, giết ông ngoại, bức tử mẹ… Cha trở nên lẩn thẩn và tôi nhảy xuống sông Quên… Cơn ác mộng ấy thật đáng sợ… Đáng sợ đến nỗi tôi không muốn nhớ lại…

May thay tất cả chỉ là ác mộng, tôi chậm rãi nắm tay Vĩnh Nương, mỉm cười muốn nói:

– Ta đói…

Nhưng tôi chẳng thốt nổi câu nào, cổ họng nhói đau, luồng khí từ cổ thoát ra ngoài mà không bật thành tiếng. Tôi vội đưa tay sờ lên cổ mình, Vĩnh Nương ứa nước mắt, giữ tay tôi:

– Thái tử phi chớ lo, thái y nói người bị ngạt khói nên tạm thời cổ họng bị tổn thương. Chữa trị cẩn thận sẽ mau khỏi thôi…

Tôi nhìn A Độ, rồi lại nhìn Vĩnh Nương. Cung nữ dâng lên một chén nước mát, Vĩnh Nương tự tay bón cho tôi. Nước có vị ngọt và man mát làm tôi thấy dễ chịu hơn, cơn đau họng chẳng mấy đã dịu xuống. Tôi uống một ngụm lớn, Vĩnh Nương nói:

– Từ từ, từ từ nào… kẻo sặc… Trời đất ơi, mấy ngày rồi Thái tử phi chẳng ăn uống được gì… Nô tì lo muốn chết…

Mấy ngày?

Tôi hôn mê mấy ngày?

Tôi ra hiệu bảo lấy giấy bút, Vĩnh Nương sai người lấy cho tôi. Cung ngữ dâng nghiên mực, tôi chấm mực, nhưng lúc hạ bút, lại lưỡng lự…

Viết gì đây?

Tôi muốn hỏi gì đây? Hỏi Đột Quyết phải chăng đã diệt vong, hỏi phải chăng bấy lâu nay cha tôi đã thành người lẩn thẩn? Từ ngày đến Trung Nguyên, cha chưa từng phái người đến thăm tôi, còn tôi ngày đêm vẫn mong về Tây Lương, vậy mà chẳng ai đến thăm hỏi. Ngày xưa tôi chẳng lấy làm lạ, cứ mải trách cha vô tình, giờ mới biết, thì ra từ lâu Tây Lương của tôi đã trở thành giấc mộng hão huyền. Tôi không dám hỏi A Độ. Sao tôi có thể làm thế, sao tôi có thể hỏi Vĩnh Nương?

Mãi lâu sau tôi vẫn không hạ được bút…

Mực trên ngòi bút đã ngưng tụ thành giọt, nhỏ xuống, loang thành đốm mực trên trang giấy…

Tôi sực nhớ tới “Cửa vẩy mực”, nhớ tới bức tranh núi non tráng lệ bằng phấn hồng và than kẻ mày mà Lý Thừa Ngân từng vẽ, tôi nhớ tới phường Minh Ngọc, nhớ lại điệu múa tối hôm đó, rồi nhớ cảnh chết chóc tàn khốc… Nhớ chàng bẻ đôi mũi tên, cao giọng thề… Tôi nghĩ về cuộc chiến đẫm máu rất chân thực trong mơ, tôi thấy mình nghêu ngao hát trên cồn cát, tôi nhớ Cố Tiểu Ngữ từng bắt một trăm con đom đóm cho tôi, rồi cả cơn gió buốt thấu xương trên dòng sông Quên… Và vẻ mặt đau đớn của chàng khi tôi cắt lìa dải dây lưng…

Quẳng bút xuống, tôi chui vào chăn, tôi sợ mọi thứ lại hiện về tìm tôi trong trí nhớ.

Vĩnh Nương tưởng tôi thấy khó ở, bèn vỗ nhẹ lên lưng tôi như dỗ dành một đứa trẻ nhỏ.

A Độ đã ra ngoài, tiếng bước chân se sẽ, song tôi vẫn nghe thấy.

Tôi bỗng thấy buồn, nhưng tôi không dám hỏi A Độ về Đột Quyết, không dám hỏi những chuyện trước đây. Những chuyện trong giấc mơ của tôi phải chăng là thật? A Độ hẳn sẽ buồn hơn tôi, vì muội ấy là người Đột Quyết, song vẫn theo tôi đến tận Trung Nguyên, cùng tôi chung sống với kẻ thù bấy lâu nay… Tôi thấy mình bỗng trở thành kẻ hèn nhát, chẳng hay biết điều gì.

Tôi mê mệt ngủ tới tầm tối thì Vĩnh Nương lay tôi dậy, cho tôi uống một bát thuốc rất đắng.

Rồi Vĩnh Nương hỏi tôi có muốn ăn món gì không.

Tôi lắc đầu, tôi không muốn ăn.

Bây giờ còn thiết ăn gì nữa?

Vĩnh Nương vẫn sai người làm món bánh canh, bà ấy nói:

– Bánh canh mềm lại có nước, người ốm ăn món này sẽ mau khoẻ!

Tôi không muốn ăn bánh canh, cầm đũa gắp một miếng rồi buông.

Bánh canh gợi tôi nhớ đến Lý Thừa Ngân.

Đúng hơn là, mọi thứ ở Đông cung này đều nhắc tôi nhớ về Lý Thừa Ngân.

Mà tôi chỉ mong mình dứt ra khỏi những suy nghĩ về chàng. Không biết những chuyện trước kia thật giả thế nào, nhưng tôi không muốn gặp chàng nữa.

Vĩnh Nương vừa bưng bát bánh canh xuống thì Lý Thừa Ngân đến thăm. Chàng hồ hởi bước vào, nét mặt rạng ngời như thường lệ. Chỉ riêng tôi biết, tất cả đã khác xưa. Giữa chúng tôi đã tồn tại một quá khứ đớn đau, dòng sông Quên thần kỳ cho tôi quên đi tất cả, và cũng lấy đi trí nhớ của chàng. Hai kẻ u mê, chẳng hiểu nguồn cơn nào đã run rủi cho chúng tôi lấy nhau thế này, và ngô nghê thế nào mà tôi đã ở bên chàng suốt ba năm…

Đang miên man nghĩ ngợi thì Lý Thừa Ngân rảo bước đến bên giường, định vươn tay ra, xoa trán tôi.

Tôi nghiêng mặt tránh né.

Tay chàng chưng hửng giữa chừng, song chàng chẳng lấy làm giận, nói:

– Mãi nàng mới tỉnh, làm ta lo quá!

Tôi chẳng nói chẳng rằng, chỉ nhìn chàng, vẻ dửng dưng như những người xa lạ. Chàng nhận ra sự khác lạ của tôi, bèn hỏi:

– Nàng sao thế?

Thấy tôi phớt lờ, chàng liền nói:

– Hôm nàng bị thích khách bắt cóc, lại đúng dịp tết Nguyên tiêu, chín cổng thành đều mở…

Cơn bức bối trong tôi khó nói thành lời. Tôi đã quên bóng dáng chàng đứng trên cổng lầu hôm đó, nhưng tôi sợ hình ảnh chàng bên bờ vực sông Quên sẽ khắc sâu trong tim tôi trọn đời. Giờ đây nhắc lại thì có ích gì? Chàng vẫn định ngon ngọt lừa tôi nữa sao? Chàng đã giũ sạch những chuyện trước kia, song tôi vẫn nhớ, tôi đã nhớ lại cả rồi!

Chàng nói:

– Mấy ngày lục soát khắp nơi trong thành mà không tìm được nàng, ta cứ tưởng…. – Nói đến đó, giọng chàng thấp dần. – Ta cứ tưởng sẽ không được gặp lại nàng nữa…

Chàng giơ tay kiếm tìm bờ vai tôi. Tôi nhớ đôi mắt sũng lệ, lờ đờ của cha, tôi thấy mẹ nằm trên vũng máu, tôi nhớ tiếng gào thét cuối cùng của ông, tôi nhớ đôi bàn tay đẫm máu của Hách Thất đẩy tôi lên lưng ngựa… Thế rồi tôi bất ngờ rút cây trâm trên đầu, đâm thẳng vào ngực chàng.

Tôi dồn hết sức lực vào nhát đâm ấy. Chàng không ngờ tôi sẽ làm vậy, chỉ ngây ra, rồi bỗng đưa tay chặn trước ngực theo bản năng. Đầu trâm nhọn hoắt chọc xuyên qua lòng bàn tay, ứa máu. Chàng sững sờ nhìn tôi, ánh mắt ấy phức tạp, tôi không sao cắt nghĩa được, tựa như chàng không tin tôi sẽ đối xử với chàng như vậy.

Thực ra, chính tôi cũng không tin. Tôi ấn ngực mình, cảm giác toàn thân đang run rẩy.

Thời gian trôi qua thật lâu, chàng mới nắm chặt đầu cây trâm, rút mạnh. Chàng hành động chóng vánh, mà không hề rên một tiếng, chỉ có đôi chân mày khẽ cau lại, như thể máu thịt này không thuộc về mình. Máu ứa ra, tôi nhìn máu đầm đìa chảy theo cổ tay chàng dính vào ống tay áo. Chàng cầm chiếc trâm còn vương máu, rồi nhìn tôi, lòng tôi bấn loạn.

Chàng quẳng cây trâm xuống đất đánh “keng” một tiếng, chuỗi thạch anh văng bốn hướng, lanh canh đập nẩy trên sàn. Tiếng chàng se sẽ, như sợ làm kinh động đến thứ gì đó:

– Sao lại thế?

Chàng bảo tôi phải nói thế nào, kể ra những chuyện khủng khiếp trong quá khứ ư? Tôi và chàng, giữa chúng tôi là ân oán, là đôi bờ cách trở bởi biển máu hận thù. Thì ra lãng quên không hẳn là bất hạnh, có khi đó lại là một sự may mắn. Ước gì tôi có thể quên như chàng thì tốt biết mấy.

Tôi ngoảnh mặt né tránh. Chàng lại nói:

– Ta hiểu rồi.

Tôi không biết chàng hiểu gì, nhưng thoáng nghe trong giọng chàng có chút lạnh lùng:

– Thấy nàng ốm đau ra nông nỗi này nên ta không định hỏi tới. Nhưng một khi đã vậy, ta buộc phải hỏi câu này, sao nàng thoát được khỏi tay thích khách? Lúc A Độ cõng nàng về, có hỏi thế nào muội ấy cũng không chịu khai hành tung của thích khách, càng không chịu nói đã cứu nàng ở đâu. Ta không tiện dùng hình truy hỏi dân Tây Lương các nàng, nhưng nàng phải nói cho ta hay, rốt cuộc kẻ nào đứng đằng sau thích khách…

Tôi nhìn người đàn ông này, người đã ôm tôi nhảy xuống sông Quên. Chàng đã quên thật rồi, nhưng tôi vĩnh viễn không thể quên được. Tôi không quên được chính chàng đã giết ông ngoại, tôi không quên được chính chàng khiến tôi phải chịu cảnh nước mất nhà tan, tôi không quên mình giờ đây đã chẳng còn Tây Lương để về… Tôi mấp máy môi, nhưng không thốt nổi thành lời, thay vào đó là cái nhìn đầy mỉa mai. Chàng còn hỏi tôi thích khách là ai cơ đấy? Lẽ nào chàng không biết thích khách là ai ư? Hay sông Quên cũng khiến chàng quên Cố Kiếm là ai rồi?

Tôi nhìn chàng, ánh mắt chúng tôi chạm nhau. Rất lâu sau, chàng bỗng ném ra ngay trước mặt tôi một đôi ngọc bội. Tôi giương mắt nhìn đôi ngọc bội hình uyên ương bóng mịn như mỡ dê, tôi biết chúng, tôi từng cầm một mảnh ngồi ba ngày ba đêm trên cồn cát. Lúc ấy chàng xưng mình là Cố Tiểu Ngũ, lúc ấy tôi háo hức ngồi đợi người tưởng sẽ là chồng mình, lúc ấy tay chàng cầm một mảnh ngọc bội, mỉm cười trêu đùa tôi, lúc ấy sắc đêm bao trùm sa mạc Tây Lương và chúng tôi cùng nhau thúc ngựa về Vương thành…

Dạo đó, đôi ta nào có hằn học như bây giờ. Tôi là Cửu Công chúa vô tư lự của Tây Lương, còn chàng, chàng là Cố Tiểu Ngũ, thương nhân buôn chè đến từ Trung Nguyên.

Tay Lý Thừa Ngân còn đang ứa máu, chàng siết chặt cánh tay tôi, chặt đến nỗi xương cốt nhói đau, nhức nhối. Chàng ép tôi phải ngước lên, rồi nhìn xoáy vào mắt tôi, hỏi:

– Tại sao?

Chàng lặp đi lặp lại, tại sao?

Tôi cũng muốn biết. Tại sao? Tại sao số phận lại đùa giỡn, hết lần này đến lần khác dồn chúng tôi vào mối quan hệ đoạn tuyệt này. Tôi thấy trong mắt chàng có sự khổ sở khó nói nên lời và thoáng tia khao khát cuối cùng, dường như chàng còn mong mỏi tôi sẽ nói câu gì đó.

Tôi hé môi, song vẫn im lặng.

Máu từ bàn tay chàng loang trên mặt tôi âm ấm, chàng nói:

– Tại sao nàng có thể bình yên trở về từ chỗ thích khách? Tại sao A Độ lại không chịu nói cho ta biết hành tung của gã thích khách kia? Sao trong tay nàng lại có đôi ngọc bội uyên ương này… Uyên ương ư…? Hay chính ta đã chia cắt đôi uyên ương các người?

Chàng siết mạnh vai khiến tôi đau nhói, tôi bỗng thấy lòng mình nguội lạnh. Lúc đứng bên bờ sông Quên, rốt cuộc chàng nghĩ gì mà lại nhảy xuống? Phải chăng chỉ để nói với tôi câu đó? Nhưng dạo ấy tôi đâu có biết tiếng Trung Nguyên. Tôi quên mất chàng nói gì từ lâu rồi. Tôi chỉ nhớ tiếng hét cuối cùng của Bùi Chiếu, chắc gã phải kinh hãi lắm. Nhưng Lý Thừa Ngân không phải là Cố Tiểu Ngũ, có lẽ, Cố Tiểu Ngũ của tôi đã hy sinh trong cuộc chiến ngày đó rồi. Cuối cùng, tôi ngước mắt trông lên hai con ngươi đen láy, rốt cuộc chàng là ai? Là Cố Tiểu Ngũ từng bắt cho tôi một trăm con đom đóm? Hay là người chồng đã lên đường ra trận vào đúng ngày cưới của chúng tôi? Hoặc, lúc ở sông Quên, phải chăng vẻ hối hận trên khuôn mặt chàng khi thấy tôi cắt lìa dải dây lưng không có thật?

Hết lần này đến lần khác tôi mắc lừa người đàn ông này, cho đến tận bây giờ, có trời mới biết, rốt cuộc chàng có lừa tôi hay không? Chàng bẻ mũi tên thề với thích khách, nói những lời hùng hồn, đầy lý lẽ, thế mà chỉ trong chớp mắt, chàng sánh vai với Triệu Lương đệ trên Thừa Thiên Môn… Cố Tiểu Ngũ của tôi thực sự đã chết rồi, chỉ nghĩ như vậy, tôi đã thấy lòng quặn thắt. Giọng tôi khàn khàn, đáng sợ như thể đây không phải giọng của mình. Tôi nói:

– Chính chàng đã chia lìa đôi ta, chính chàng đã chia lìa ta… và Cố Tiểu Ngũ.

Chàng thảng thốt, rồi lại cười phá lên, vẻ khinh miệt:

– Cố Tiểu Ngũ?

Tôi nhìn chàng, máu từ tay chảy ròng xuống áo bào. Lúc đứng bên bờ vực sông Quên, trái tim tôi đã hoá tro tàn, đến giờ khắc này, tôi chẳng còn sức lực để vùng vẫy. Tôi thấy bải hoải, tôi thấy rã rời, tôi mệt mỏi lắm rồi, rồi nhả từng chữ:

– Chàng đã giết Cố Tiểu Ngũ.

Cố Tiểu Ngũ của tôi, chàng đã giết chàng trai duy nhất tôi từng yêu. Cố Tiểu Ngũ đã vĩnh viễn nằm lại với Đột Quyết, Cố Tiểu Ngũ bỏ mạng khi hôn lễ của chúng tôi còn dang dở, Cố Tiểu Ngũ bị chàng giết trên chính mảnh đất Tây Lương…

Tôi đã quên tất cả những chuyện trước kia, để rồi đến nơi này, để rồi lấy Lý Thừa Ngân… Chúng tôi đều quên hết quá khứ, thậm chí tôi còn không biết Cố Tiểu Ngũ đã chết…

Cơn giận của chàng hoá thành tràng cười:

– Được! Được! Được lắm!

Rồi chàng quay người bỏ đi.

Lúc Vĩnh Nương quay lại thì kinh ngạc lắm, bà ấy nói:

– Sao Điện hạ đã đi rồi?

Rồi bà ấy kêu toáng lên.

– Trời ơi, sao dưới sàn nhiều máu thế này?

Bà ấy gọi cung nữ vào lau dọn, sau đó hỏi dồn tôi, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì. Tôi không muốn cho bà ấy biết, chỉ thần người, mặc bà ấy lải nhải bên tai. Tôi phải làm sao đây? Tôi còn về Tây Lương được không? Giả sử tôi về được Tây Lương, nhưng Cố Tiểu Ngũ đã ra đi vĩnh viễn rồi…

Vĩnh Nương nghĩ chắc tôi muốn ngủ nên không gặng hỏi nữa. Bà ấy gọi A Độ vào ngủ với tôi, A Độ vẫn theo lệ cũ, nằm dưới thảm trải trước giường tôi.

Song tôi không thể nào chợp mắt được. Tôi bật dậy, A Độ cũng dậy theo, lại tưởng tôi khát nước bèn rót cho tôi một tách trà.

Tôi không cầm tách trà đó, mà kéo tay muội ấy, viết mấy chữ vào lòng bàn tay.

Tôi hỏi: “Chúng ta về Tây Lương nhé?”

A Độ gật đầu.

Tôi thấy rất an tâm. Tôi đi đâu thì muội ấy sẽ theo đó. Tôi không biết trước kia muội ấy từng chịu nhiều đau khổ đến thế, thậm chí tôi không biết vì sao muội ấy lại cam tâm tình nguyện theo tôi đến nơi này. Tôi níu tay A Độ, ngẩn người rồi bỗng nhỏ giọt nước mắt. A Độ thấy tôi khóc thì bối rối, liền dùng gấu tay áo lau nước mắt cho tôi. Tôi lại viết vào lòng bàn tay A Độ, nói với muội ấy rằng tôi không sao. Dường như A Độ rất xót xa, muội ấy ôm tôi vào lòng, khẽ xoa đầu tôi như đang an ủi một đứa trẻ. Muội ấy cứ vỗ về như thế, cuối cùng tôi cũng chợp được mắt.

Thực ra, trong thâm tâm tôi biết rằng, tôi đã thất bại. Trước kia tôi thích Cố Tiểu Ngũ, sau khi mất trí nhớ, tôi lại thích Lý Thừa Ngân. Dù chàng lừa dối tôi từ đầu đến cuối, vậy mà tôi vẫn cứ yêu chàng.

Nước sông Quên, đặng quên tình. Hễ ai đắm mình trong dòng nước thánh thần đó, về sau sẽ quên hết những chuyện đau khổ từng trải qua. Tôi quên chàng, chàng cũng quên tôi, chúng tôi không còn vướng bận tiền duyên, thế nhưng, đã quên nhau rồi sao trái tim tôi vẫn hướng về chàng? Trước kia chàng đối xử tệ bạc với tôi, song tôi không ngăn được mình thích chàng. Ba năm chúng tôi không chỉ một lần hắt hủi nhau, cớ gì lại đến bước đường ngày hôm nay? Thánh thần đã từng nghe lời khẩn cầu của tôi, để tôi được quên đi những khổ đau, sầu muộn mà chàng gây ra cho tôi, vậy mà hôm nay, thánh thần đang trừng phạt tôi chăng? Người khiến tôi nhớ lại tất cả, còn tạo trớ trêu đưa đẩy tôi yêu chàng thêm một lần nữa.

Kể từ đó, Lý Thừa Ngân không còn ghé chỗ tôi nữa.

Tôi ốm dai dẳng một thời gian dài, mãi đến khi mở miệng nói được thì cây ngọc lan ngoài hiên đã héo rũ, mà anh đào đang rộ phớt hồng như mây.

Anh đào trổ bông sớm hơn cây đào, cây mận, hoa vừa đơm mà đã khiến đất trời ngập sắc xuân. Trong vườn có mấy cây anh đào đương độ sum suê, hoa nở rộ, bung màu như ráng chiều rực rỡ, như mây bồng bềnh, như lụa hững hờ phủ dưới mái hiên…

Lúc tôi còn ốm nằm một chỗ thì ngoài kia đã xảy ra rất nhiều chuyện, nhờ Vĩnh Nương kể tôi mới hay. Thoạt đầu, Thủ phụ[1] Diệp Thành bị vạch tội mua quan bán tước, rồi nghe nói vụ việc lần này có liên quan đến rất nhiều người, chỉ một thời gian ngắn mà trong triều ai nấy đều bất an, chỉ lo mình bị vu tội “kết bè kết đảng với nhà họ Diệp”. Rồi cả chuyện Đại tướng quân Bùi Huống ca khúc khải hoàn sau cuộc chinh phạt Cao Ly, Bệ hạ đã ngự ban không ít vàng bạc. Còn nữa, Bệ hạ còn nạp thêm một quý phi tuổi đời còn rất trẻ, vô cùng xinh đẹp, trong cung gọi là Nương Tử. Nghe nói Bệ hạ hết mực sủng ái vị quý phi này, thậm chí người tạm thời nắm quyền ở hậu cung là Cao Quý phi cũng còn kém xa. Sở dĩ người ta xôn xao bàn tán liệu có phải Bệ hạ sẽ sắc lập vị quý phi kia lên ngôi hoàng hậu, vì kiểu ân sủng này xưa nay quả hiếm thấy. Nhưng dù là chuyện triều chính hay hậu cung, tôi nghe vào tai trái ra tai phải, chẳng mấy chốc đã quên hết.

[1] Người đứng đầu nội các.

Nghe xong những chuyện này, tôi lại cảm thấy bực bội. Tình cảm của đàn ông thật khó mà tin được, nhất là đàn ông sinh ra và lớn lên trong hoàng thất, đứng trước toàn thể thiên hạ, phụ nữ có là gì? Cố Kiếm từng nói, một người muốn lên ngôi hoàng đế, tránh sao được máu lạnh và nhẫn tâm. Tôi thấy sư phụ nói cũng phải.

Chiều xuống, bỗng nghe tiếng mưa rơi tí tách. Vĩnh Nương trông ra làn mưa ngoài cửa điện, khẽ than thở:

– Năm nay hoa kém tươi rồi!

Bệnh của tôi đã đỡ hơn, nhưng tôi lại mắc thêm bệnh ho. Thái y kê nhiều loại thuốc, ngày nào cũng uống mà vẫn không khỏi. Tôi vừa ho, Vĩnh Nương đã vội kéo cho tôi chiếc chăn, chỉ lo tôi bị nhiễm lạnh. Tôi cũng mong bệnh của mình sớm khỏi, để tôi và A Độ còn về Tây Lương.

Dù Tây Lương của tôi đã thay đổi như thế nào, tôi vẫn muốn quay về.

Tôi ngồi trước cửa sổ, ngắm cánh hoa anh đào mong manh, ủ dột trong mưa, như những miếng lụa cắt vụn sũng nước, nặng trĩu còn bấu víu lấy cành. Vĩnh Nương đã sai người dựng màn gấm, những nhà giàu ở Trung Nguyên thường làm cách này để giữ hoa, mưa rơi xuống không tàn phá được cây cối, hoa cỏ dưới tấm màn che. Tôi nhìn những bông hoa anh đào núp mình dưới tấm màn gấm, bốn góc còn móc những chiếc chuông vàng nhỏ xinh để đuổi lũ chim, gió lay chuông văng vẳng tiếng ngân.

Tôi thường ngồi thẫn thờ nhiều canh giờ, Vĩnh Nương nghĩ tôi đã biến thành một người khác. Trước kia tôi rất nghịch ngợm, giờ lại trầm như thế này, bà ấy thường nhìn tôi vẻ rất dỗi lo âu.

A Độ cũng lo lắng không kém, muội ấy rủ tôi ra ngoài chơi không chỉ một lần, nhưng tôi không thể nào vực nổi tinh thần. Tôi chưa kể cho A Độ nghe tôi đã nhớ ra những chuyện trước kia, tôi thầm nhủ có nhiều chuyện, tự mình chịu đựng thì tốt hơn.

Lúc hoa tàn thì tiết trời cũng bừng ấm. Trong cung thay áo mới, Đông cung cũng rục rịch thay sang những bộ xiêm y mỏng manh, qua đợt này sẽ bước vào hè. Vĩnh Nương sai người dựng trong sân điện một cột xích đu, trước kia tôi thích ngồi dây đu lắm, nhưng trong mắt Lý Thừa Ngân, xích đu biến thành một trò hề, chẳng trách trong Đông cung chưa từng có xích đu. Giờ Vĩnh Nương sai người làm một cái cho tôi, nhưng tôi chẳng thiết chơi trò đó nữa.

Lúc đang dựng xích đu thì tôi gặp Bùi Chiếu. Lâu lắm rồi tôi mới thấy bóng dáng gã, từ lúc gã khuyên tôi không nên qua lại với Nguyệt Nương, tôi không gặp gã thêm lần nào nữa. Tôi sực nhớ lần đầu gặp Bùi Chiếu, gã đã đoạt đao trên tay A Độ, rồi cả tiếng kêu kinh hoàng bên bờ sông Quên. Chắc gã không biết tôi đã nhớ lại tất cả.

Mà tôi sẽ không kể với gã chuyện đó, nếu biết thế nào gã cũng đề phòng tôi. Người Trung Nguyên là những kẻ giả dối, giờ tôi cũng tiếp thu được ít nhiều, tôi phải giấu đi, có thế mới tìm được thời cơ cùng A Độ bỏ trốn.

Bùi Chiếu mang biếu tôi ít quà trong cung ngự ban, nghe nói là chiến lợi phẩm Đại tướng quân Bùi Huống mang về từ Cao Ly. Bệ hạ ban thưởng không ít người, chỗ tôi cũng có phần.

Đều là đồ cổ và châu báu, xưa nay tôi chẳng có hứng thú với những thứ này, chỉ bảo Vĩnh Nương để gọn gàng vào một chỗ.

Bùi Chiếu vẫn ôm trên tay một chiếc giỏ, tự tay dâng lên tôi.

Tôi không nhận, sai Vĩnh Nương mở ra xem, thì ra bên trong có một chú mèo con, lông trắng muốt. Hai mắt nó một bên màu lam, một bên màu lục, vô cùng đáng yêu. Nó vươn người trong giỏ, khẽ kêu.

Tôi hỏi:

– Bệ hạ ban thưởng cả cái này ư?

Bùi Chiếu nói:

– Con mèo này cha mạt tướng mang về, nghe nói là cống phẩm của Xiêm La. Huynh đệ trong nhà nghịch ngợm, e không nuôi được, mạt tướng liền đem tặng Thái tử phi.

Tôi bế chú mèo con, nó nằm trong lòng tôi kêu “meo meo”, cái lưỡi màu hồng nhỏ xíu liếm liếm ngón tay tôi. Tay tôi có cảm giác râm ran, tê tê khó chịu mà đáng yêu vô cùng. Tự nhiên tôi thấy thích con mèo con này. Tôi liền cười, nói với Bùi Chiếu:

– Vậy giúp ta chuyển lời cảm ơn tới Bùi lão Tướng quân nhé!

Chẳng hiểu sao tôi lại có cảm giác Bùi Chiếu vừa thở phào. Tôi tươi cười nhìn gã. Thoạt đầu, gã theo Lý Thừa Ngân đi chinh phạt Tây Vực, gã là người rõ mọi chuyện hơn ai hết. Ngày đó, bên bờ sông Quên, cũng chính gã đã nhìn thấy tôi nhảy xuống. Thế mà trước nay gã im lặng, không hé răng dù chỉ nửa lời. Tôi nghĩ, thực ra gã hết mực trung thành với Lý Thừa Ngân. Nếu gã biết tôi đã nhớ lại mọi chuyện, liệu gã có lập tức thay đổi thái độ, đề phòng tôi không? Người Trung Nguyên đầy âm mưu, quỷ kế, tôi phải học từ từ, rồi mọi đau đớn bọn chúng chất chồng lên tôi, tôi sẽ trả lại hết.

Tôi dỗ chú mèo con:

– Meo meo ơi, em muốn ăn cá không?

Mèo con đáp lại bằng một tiếng “meo”, nó lè lưỡi liếm ngón tay tôi khiến tôi ngưa ngứa, bất giác bật cười thành tiếng. Tôi ẵm nó lên cho A Độ xem:

– Xem này, mắt nó đẹp thật!

A Độ gật đầu. Tôi bảo Vĩnh Nương lấy sữa bò cho nó uống, rồi lại bàn với A Độ xem nên đặt tên cho nó là gì.

Tôi hỏi A Độ:

– Gọi nó là Tiểu Hoa nhé?

A Độ lắc đầu. Tôi cũng thấy buồn cười, lông con mèo trắng muốt, làm gì có sợi khác màu nào đâu, chắc chắn không hợp với cái tên Tiểu Hoa rồi.

– Thế gọi là Tiểu Tuyết nhé?

Tôi lảm nhảm với A Độ mãi, bảo phải làm cho nó cái ổ, rồi đặt tên… chẳng rõ Bùi Chiếu đã về từ bao giờ.

Từ khi có con mèo này, tôi ở Đông cung cũng bớt phần cô quạnh. Tiểu Tuyết rất nghịch ngợm, mỗi trò vờn đuôi thôi mà nó chơi mãi không chán. Khi hoa đào, hoa mận vào mùa tàn phai, cánh hoa mỏng manh bay trong gió như những bông tuyết giữa lưng chừng trời, Tiểu Tuyết lại chồm mình vờn bắt, thế mà khi những cánh hoa rơi đầy trên cầu, nó lại không thèm đoái hoài. Thỉnh thoảng có con bướm dạo qua, Tiểu Tuyết vờn nó chạy vòng quanh sân, bướm bay đến đâu, nó nhảy theo đến đó…

Lần nào Vĩnh Nương cũng mắng:

– Mèo đâu mà mèo, nghịch hơn cả cáo thành tinh.

Những ngày tháng bình yên cứ thế trôi qua. Ngày ngày ngắm Tiểu Tuyết nghịch ngợm chạy khắp nơi, ngắm hoa trong vườn đơm nở rồi lại héo tàn, trái anh đào chín đỏ rủ đầy cành, rồi lại ngắm đào, ngắm mận đã dệt những quả to cỡ hạt đậu nành trên cành lá xanh mướt. Thời gian như dòng nước trôi không một tiếng báo trước, ngày lại ngày cứ thế qua đi. Tối tối, tôi lại ra bậc thềm ngồi, ngắm trăng treo lơ lửng trên ngọn cây. Hàng triệu năm nay, trăng vẫn lên cao trong im lặng, không trĩu buồn, cũng chẳng cười vui. Một ngày gió sương, ánh trăng đổ xuống mái ngói lưu ly, như dát một lớp sương bạc mỏng. Dòng sông sao vẫn lặng lẽ toả sáng, Tiểu Tuyết nhoài mình kêu “meo meo” dưới chân, tôi vuốt ve cái cổ ấm nóng, mềm mại của nó, ôm nó vào lòng. Tôi cứ im lặng chờ đợi thời cơ để thoát khỏi chiếc lồng son này.

Thời gian qua tôi ốm nằm một chỗ, mọi lễ tiết trong Đông cung cũng được giản tiện, không nhất thiết phải hỏi ý kiến tôi. Trước kia, tuy có nhiều việc Triệu Lương đệ cai quản, song cơ bản vẫn do tôi nắm quyền quyết định. Tôi đổ bệnh nhiều ngày nay, những lễ lạt và yến tiệc trong cung đều vắng mặt. Đến khi bệnh tình khá hơn thì Tự Bảo lâm lại ngã bệnh.

Bệnh tình của muội ấy rất trầm trọng, thuốc thang đủ cả song vẫn không có chuyển biến, vậy mà người trong Đông cung chẳng có ai ngó ngàng, nếu Vĩnh Nương không buột miệng nói ra thì tôi cũng chẳng biết Tự Bảo lâm bị bệnh sắp chết.

Không hiểu vì sao tôi lại chủ động đến thăm cô ấy. Phần vì cảm thông, phần vì chính bản thân tôi cũng muốn cho Lý Thừa Ngân thấy rằng, tất cả vẫn vậy, chẳng có gì khác thường, hoặc để Lý Thừa Ngân vẫn nghĩ tôi chỉ là một Thái tử phi ngớ ngẩn, khờ khạo, trong lòng không hề toan tính âm mưu.

Tự Bảo lâm vẫn sống trong tiểu viện nằm lẩn khuất trong Đông cung trước kia, hai cung nữ hầu hạ cô ấy đã được đổi từ lâu. Chuyện bùa ngải tuy không làm ầm ĩ, song Triệu Lương đệ vẫn kiếm cớ bắt nạt cô ấy. Tôi ốm một thời gian dài nên sự quan tâm dành cho cô ấy cũng vơi đi phần nào. Tôi vô cùng áy náy, nếu tôi sớm phát hiện ra, chưa biết chừng Tự Bảo lâm đã không ốm đến nông nỗi này.

Tự Bảo lâm gầy rạc đi, chẳng khác nào một bộ xương khô, tóc tai xỉn màu, khô như một khóm cỏ dại. Tôi thoáng nhớ lần đầu gặp nhau, cô ấy vừa mất đi đứa con trong bụng, dáng vẻ cũng võ vàng, nhưng vẻ võ vàng hồi ấy chỉ như bông hoa tươi tắn đang oằn mình dưới cơn mưa rào, còn bây giờ, cô ấy chỉ còn là một bông cúc tàn hứng gió tây, vẻ tươi tắn ngày nào đã trở nên héo rụi.

Tôi gọi rất lâu, Tự Bảo lâm mới hé mắt nhìn, ánh mắt hốt hoảng, lờ đờ.

Dường như cô ấy không nhận ra tôi, chỉ hé mắt một lát rồi lại khép mi thiếp ngủ.

Vĩnh Nương khéo léo thuật lại lời của thái y cho tôi nghe, tình hình Tự Bảo lâm thế này, chỉ e không kéo dài được mấy ngày nữa.

Năm nay cô ấy mới mười tám tuổi, tuổi thanh xuân của người con gái, chớp mắt đã trôi qua, mà chốn Đông cung cô quạnh này chẳng khác nào một con quái thú, ngấu nghiến tất cả những điều tốt đẹp, tươi vui. Người con gái đương tuổi xuân thì như bông hoa, mà chỉ nửa năm ngắn ngủi đã héo hon, tàn úa.

Tôi thấy buồn rầu, lúc rời khỏi chỗ Tự Bảo lâm, tôi hỏi Vĩnh Nương:

– Lý Thừa Ngân đâu?

Vĩnh Nương cũng không biết, liền sai người đi hỏi, mới hay Lý Thừa Ngân và Ngô Vương đã đi đá cầu.

Tôi đến chính điện đợi Lý Thừa Ngân, đợi mãi đến xế chiều mới trông thấy một đội chừng bảy, tám tên lính Vũ lâm lang bước qua cửa Minh Đức. Những kẻ khác đều xuống ngựa, chỉ có mình chàng rong ngựa băng qua khoảng sân rộng trước điện, tiến thẳng về phía này. Tôi thấy trong lòng rối bời, phải vài tháng rồi chúng tôi không nhìn mặt nhau. Trước đây, tuy tôi và chàng không phải ngày nào cũng gặp, những cứ cách một dạo, chàng lại hùng hổ đến chỗ tôi chỉ để tranh cãi những chuyện cỏn con. Nhưng bây giờ, tôi và chàng đã không còn gặp gỡ, cũng chẳng thể cãi nhau nữa rồi.

Thực ra, tôi luôn tránh mặt chàng. Mỗi khi nhớ đến chuyện cũ, tôi lại muốn giết chàng để báo thù.

Có lẽ, hôm nay tôi đi thăm Tự Bảo lâm chỉ là một cái cớ tôi tự biện cho mình, cốt để đến tìm chàng. Tôi dõi theo bóng chàng cưỡi ngựa tiến lại gần, lòng chợt nhớ đến nụ cười rạng ngời trên gương mặt chàng lúc phi ngựa chạy về phía tôi trên thảo nguyên bao la.

Chàng chưa từng cười như thế thì phải. Dẫu sao, đó là Cố Tiểu Ngũ chứ nào phải Thái tử Lý Thừa Ngân.

Nội thị tiến lên hầu Lý Thừa Ngân xuống ngựa, chàng ném roi da cho thái giám, bước lên bậc thềm, như không hề trông thấy tôi.

Tôi đứng dậy gọi chàng, rồi nói:

– Chàng đến thăm Tự Bảo lâm một lần đi.

Đến lúc đó chàng mới quay lại nhìn tôi. Tôi lại nói:

– Cô ấy bị bệnh nặng, sợ không qua khỏi.

Chàng cũng chẳng bận tâm, cứ thế rảo bước tiến thẳng vào điện.

Mình tôi bơ vơ đứng đó, gió đầu hè phả hơi mát lành lên gò má, vậy ra mùa xuân đã qua.

Nếu là trước đây, hẳn chúng tôi sẽ lớn tiếng đôi co, tôi sẽ ép chàng đi thăm Tự Bảo lâm, dẫu phải trói, tôi vẫn lôi chàng đến đó bằng được.

Còn giờ thì sao? Tôi biết rõ rằng, không yêu tức là không yêu, dẫu hôm nay Tự Bảo lâm có trút hơi thở cuối cùng thì đã sao? Chỉ e chàng đã sớm quên cô ấy rồi. Quên đi người con gái xinh đẹp, quên đi họ từng có với nhau một đứa con, quên đi bao nhiêu đêm dài cô ấy thao thức đợi chờ là bấy nhiêu đêm héo hon, quạnh quẽ. Giống như chàng đã quên tôi, quên tôi từng yêu, từng hận chàng, quên một trăm con đom đóm chàng từng bắt, quên tôi từng nhảy xuống sông Quên, cắt lìa mọi ràng buộc giữa tôi và chàng…

Tất cả, chẳng phải là cầu được ước thấy đó sao?

Trời ngày càng nóng, Tự Bảo lâm chìm vào hôn mê, cứ yếu dần, đến lúc chẳng còn ăn uống được gì. Hằng ngày tôi đều đến thăm cô ấy, Vĩnh Nương cũng khuyên tôi vừa mới ốm dậy, không nên ở lại chỗ người bệnh quá lâu, nhưng tôi bỏ ngoài tai. Tôi chăm sóc Tự Bảo lâm, như thể đang chăm sóc chính cái tôi đang hấp hối trong thâm tâm mình.

Tôi túc trực bên Tự Bảo lâm, bọn cung nữ có muốn kiêng dè cũng không dám lên tiếng. Song bệnh tình của Tự Bảo lâm đã đến nông nỗi này, giờ đây, sự chăm sóc, lo lắng dành cho cô ấy có phải là thừa thãi?

Tiết chiều oi ả, chuồn chuồn vờn bay trước khoảng sân, tàu lá chuối im lìm bên bờ tường, không khí ngột ngạt không một gợn gió. Sắc trời dần ngả tím, mây đen kịt phía trời tây, có vẻ sắp mưa.

Bữa nay tinh thần Tự Bảo lâm có vẻ khá hơn, cô ấy hé mắt nhìn những người xung quanh một lượt. Tôi nắm tay cô ấy, hỏi:

– Muội có muốn uống nước không?

Cô ấy nhận ra tôi rồi mỉm cười, song cũng không uống nước, một lát sau lại chìm vào mê man, hơi thở đuối dần.

Tôi triệu thái y đến. Ông ấy bắt mạch xong, liền nói:

– Nếu Bảo lâm có phúc hơn người, ắt sẽ bình yên vô sự.

Tuy tôi nông cạn, song cũng ngộ ra lời ngự y nói, bệnh của cô ấy đã vô phương cứu chữa.

Vĩnh Nương toan khuyên tôi ra về, nhưng tôi không nỡ. Bà ấy đành sai người âm thầm đi chuẩn bị hậu sự. Sắc trời thêm âm u, trong phòng hầm hập, cung nữ nhón chân đi châm đèn. Ánh nến chan hoà, rọi xuống bên giường bệnh. Sắc mặt Tự Bảo lâm trắng bệch, khoé miệng mấp máy, tôi kề tai bên môi cô ấy mới nghe được hai tiếng thốt ra nhẹ bẫng, thì ra là: “Điện hạ…”

Tôi thấy buồn vô hạn, có lẽ trước lúc lâm chung, cô ấy chỉ mong được gặp Lý Thừa Ngân một lần.

Thế mà tôi lại không thể gọi chàng tới đây.

Người đàn ông này quyến rũ rồi hất bỏ, để cô ấy một thân một mình trơ trọi trong chốn thâm cung. Nhưng sao cô ấy lại không thể quên chàng?

Dẫu có bạc bẽo, dẫu có phụ tình, dẫu chỉ là thờ ơ…

Chỉ cần bấy nhiêu, chỉ cần một lần vô tình nhớ tới, thế mà cũng chẳng được thoả lòng…

Tôi nắm tay cô ấy thật chặt, cốt để truyền cho cô ấy chút hơi ấm cuối cùng, thế mà bàn tay ấy cứ lạnh dần…

Vĩnh Nương khuyên tôi nên ra về, để cung nữ thay quần áo cho Tự Bảo lâm. Bà ấy từng nói việc ma chay có rất nhiều thứ phải lo. Thêm vào đó, vẫn còn một số chuyện cần phải giải quyết cho đường hoàng, như dâng thư lên lễ bộ, biết đâu sẽ truy phong cho cô ấy một danh phận cao hơn, hoặc ban một chức quan nho nhỏ cho người nhà cô ấy… Tôi nhìn cung nữ phủ một chiếc khăn gấm lên khuôn mặt đã tắt thở của Tự Nương, dù là khổ đau hay vui vẻ, tất cả đã chấm dứt thật rồi, tuổi đời dù ngắn ngủi nhưng cũng đã dừng lại ở đây…

Tiếng sấm rền từ phía chân trời vọng lại, Vĩnh Nương nán lại lo chuyện hậu sự. A Độ đưa tôi về tẩm điện. Lúc bước lên cầu, chợt nghe văng vẳng tiếng nhạc từ phía chính điện. Âm thanh xa vời bỗng gợi tôi nhớ về một buổi tối xa xưa bên bờ sông, vẳng nghe đằng xa có tiếng hát của người Đột Quyết, ấy là một bài tình ca trầm thấp mà êm dịu, có chàng dũng sĩ Đột Quyết đứng ngoài cửa lều của người con gái mình yêu, nhờ lời ca tiếng hát để bày tỏ tình cảm thầm kín từ tận đáy lòng mình với người ấy.

Trước đây, tôi không nhận ra giọng hát ấy lại đi vào lòng người đến thế, nó thoắt ẩn, thoắt hiện như tiên khúc. Bầy đom đóm rập rờn quanh những bụi cỏ mọc ven sông, từng đốm chợt sáng rồi chợt tắt, thật giống sao băng, hoặc tựa như có nắm bụi vàng ai đó vung tay vẩy xuống. Thậm chí, tôi còn nghĩ, bầy đom đóm lập loè ấy chính là sứ giả nhà trời, họ cầm những chiếc đèn lồng nhỏ xíu, nhóm lên những đốm lửa lung linh giữa trời đêm lộng gió. Vùng đất ven sông thoáng đó đã rải rác những ánh lửa li ti, tiếng cười vui như xa cách một tầng mây…

Tôi thấy chàng nhảy lên, lòng bàn tay đã chụp được mấy con đom đóm, chúng toả sáng lập loè giữa những kẽ ngón tay. Võ công của người Trung Nguyên giống như một bức tranh, hoặc một bài thơ phóng khoáng. Nhất cử nhất động của chàng như đang nhảy múa, trên đời này chẳng có điệu múa nào khí khái, hào hùng đến thế. Chàng tung người giữa không trung, xoay nhưng góc tuyệt diệu, đuổi theo lũ đom đóm thoắt ẩn thoắt hiện. Ống tay áo khẽ gợn theo làn gió…

Bầy đom đóm chen nhau bay vụt đi, tản vào không gian như những ngôi sao băng nhỏ xíu rồi vây quanh chúng tôi. Ánh sáng rạng rỡ chiếu lên khuôn mặt chúng tôi, tôi thấy đôi mắt đen láy của chàng đang nhìn mình say đắm… Lời ca cách trở, xa xôi, xa như người trên trời, kẻ dưới đất…

Máu trong tôi như muốn sôi lên, trên bầu trời thẫm đen như mực đột nhiên loé lên những lần chớp sáng rực, ánh sáng màu tím như một đường gươm, chớp ngoằn ngoèo rẽ nhánh, vạch vào màn trời những vết nứt…

Tôi bảo A Độ:

– Muội về trước đi!

A Độ không chịu, lại lẽo đẽo theo tôi. Tôi gỡ chuôi đao đeo bên hông A Độ, nói:

– Muội về thu vén những thứ cần thiết, khi ta về, chúng ta sẽ lập tức khởi hành đi Tây Lương.

A Độ nhìn tôi với ánh mắt đầy nghi hoặc lẫn khó hiểu. Tôi thúc giục mãi, muội ấy mới chịu quay về.

Ngày hôm nay, tôi phải chấm dứt mọi chuyện.

Chia sẻ
Loading...
Loading...
Loading...
Chia sẻ
Danh sách chương
Loading...
Loading...
Loading...
Thể loại
Tìm kiếm
Loading...
Loading...
Loading...
Lọc truyện