Chương 5.2
Hôm đó, nàng vừa thổi một lúc chợt nghe có tiếng tiêu từ bên ngoài vọng vào, hòa tấu với tiếng sáo của nàng. A La giật thót, tiếng tiêu vẫn tiếp tục. Nàng chầm chậm thổi hết một khúc, buông cây sáo, tiếng tiêu bên ngoài cũng nhỏ dần, rồi dứt hẳn.
Tiếng tiêu đó xuất hiện khoảng một tháng sau khi A La đến rừng trúc tập sáo. Sau đó sáng sớm mỗi ngày khi nàng đến đây luyện sáo, tiếng tiêu lại cất lên hòa tấu. Lúc đầu tiếng sáo của A La chưa thành thục, dần dần càng hòa hợp với tiếng tiêu. Thất phu nhân an ủi nàng: “Tam nhi, tiêu sáo đều cùng một họ, con chơi đàn đã vượt qua mẹ năm xưa, sáo cũng học rất nhanh, đủ để đối phó với cha con rồi”.
Từ đó A La không bỏ nhiều công sức luyện sáo nữa, chỉ cần có thể giao lưu là được. Nàng nghĩ, phải ra ngoài xem xét mới nhanh chóng thông thuộc Phong thành, mới dễ tìm lối thoát.
Tường bao quanh tướng phủ cao tám thước, xây bằng gạch xanh, không hề có kẽ hở. Tiểu Ngọc đứng canh bên ngoài rừng trúc, hai bên thỏa thuận nếu có tình hình sẽ dùng tiếng sáo làm hiệu. A La thong thả đi về phía bức tường bao sau rừng trúc. Thận trọng men theo tường đi một vòng, không phát hiện thấy lối ra, rủa thầm giá lúc này gặp công trình rởm như thời hiện đại có phải tốt không! Đang lúc thất vọng, đột nhiên nhìn thấy bên cạnh tường có mấy đống đá chỏng trơ, đoán là chỗ đá thừa khi xây tường. Đá chất đống đã lâu, bên trên rêu cỏ mọc đầy.
Nàng xắn tay thử bê một phiến, đá vỡ dù bé, nhưng phiến to cũng hơn năm chục ký. A La hít một hơi cố sức nhấc, phiến đá chỉ hơi nhúc nhích. Lòng mừng thầm, nhớ kỹ vị trí, đi ra khỏi rừng trúc, mỉm cười với Tiểu Ngọc.
Ngày hôm sau, thất phu nhân đích thân đứng canh bên ngoài rừng trúc, A La và Tiểu Ngọc đem theo hai cái gậy đến chỗ đống đá hôm trước. Tiểu Ngọc nhìn đống đá không biết làm gì: “Tiểu thư, chỗ đá này phải mấy người đàn ông khỏe mới chuyển đi được, chúng ta có làm được không?”.
A La cười: “Chúng ta bẩy, không cần dùng quá nhiều sức lực. Archimedes nói, cho tôi một điểm tựa tôi sẽ nâng cả trái đất, mấy hòn đá này có là gì”.
Tiểu Ngọc nghe mù tịt: “Trái đất gì? Archimedes gì, tiểu thư nói gì vậy?”.
A La cười khanh khách: “Không cần phải hiểu, cứ làm theo ta”. Sau đó dạy Tiểu Ngọc dùng gậy tre luồn dưới tảng đá, tìm một hòn đá khác kê dưới gậy, A La ra sức ấn cây gậy, bẩy tảng đá lên, Tiểu Ngọc ở phía trước đẩy, tảng đá nhích dần từng tý tới bên tường. Tiểu Ngọc vui mừng vỗ tay, A La suỵt một tiếng, hai người chuyển một hòn đá nhỏ hơn bắt đầu kê xếp.
Mấy ngày sau, khi thất phu nhân đến bên tường, chỉ nhìn thấy mấy khóm trúc và đám dây leo, không có đường ra ngoài phủ. Đang buồn, A La đã kéo bà quay ra sau, đống đá đã được xếp từng bậc cao dần sát tường, đi theo các bậc đó, dễ dàng trèo lên mặt tường.
Thất phu nhân và A La thử ngó ra. Bên ngoài có một con đường nhỏ, tiếp nữa là một dòng sông. Xung quanh không có ai, hai người cười thầm từ trên mặt tường nhảy xuống, vòng ra phía trước. Thất phu nhân thốt lên: “Đứng ở chỗ này chẳng thấy dấu vết gì”.
A La đắc ý cười: “Con và Tiểu Ngọc đã mất bao nhiều công sức lấy dây leo che lên đấy”. Trở về phòng, thất phu nhân bắt đầu vẽ sơ đồ trong phủ, phán đoán con sông bên ngoài là từ núi Ngọc Tượng trong vương cung chảy ra, ra khỏi đông môn, nhập vào sông Đô Ninh. Thất phu nhân còn vẽ cả bản đồ Phong thành theo trí nhớ.
A La kết hợp sơ đồ do thất phu nhân vẽ và những điều đọc được trong sách, mới có sơ đồ toàn cảnh của Phong thành.
Phía nam ngoài Phong thành là sông Đô Ninh. Phía tây là bình nguyên, đi thẳng mãi về phía tây sẽ đến Khởi quốc. Phía đông là núi Ngọc Thúy, biệt uyển Thập Thúy sơn trang của Hộ quốc công chúa xây dưới chân núi, lâm viên của hoàng gia cũng ở đó. Vượt qua núi Ngọc Thúy là khu rừng rậm Hắc Sơn bạt ngàn, tiếp đến là bình nguyên Mãng Độ, cũng chính là biên giới giữa Ninh quốc và An quốc, đi tiếp về đông là biển Nguyệt Ly mênh mông.
Phía bắc Phong thành là dãy Ngọc Tượng. Vương cung xây dựa vào núi, các đỉnh núi thuộc dãy Ngọc Tượng cao chót vót chạm mây, quanh năm tuyết phủ, tuyết tan tạo thành suối Toái Ngọc, bốn mùa không bao giờ cạn, chảy qua vương cung ra ngoài, lại phân lưu thành những nhánh nhỏ chảy vào thành làm nguồn nước, phía sau dãy Ngọc Tượng cũng là rừng rậm, đi tiếp là biên giới với An quốc.
Phía nam qua sông Đô Ninh, qua mười ba trấn là đến Hán Thủy, tiếp đến là Trần quốc. Phía tây nam cách Hán Thủy là Hạ quốc.
Phong thành chỉ có ba cổng lớn, tựa núi kề sông vững chãi. Cách An quốc một khu rừng rậm, là không còn phải lo gì nữa. Phong thành là tuyến phòng thủ cuối cùng của Ninh quốc. Ninh quốc phồn thịnh thanh bình, mấy chục năm không xảy ra chiến tranh.
Từ vương cung có một con đường thẳng tắp dẫn tới cổng bắc Phong thành, đoạn đường trong thành lại gặp con đường thông với cổng đông bắc. Phong thành tự nhiên được chia thành bốn khu. Phía tây bắc là khu cung thất và công đường; đông bắc là cung thất của hoàng thân, đại thần và công quán của sứ thần các nước, đây là khu vực giàu sang; tây nam là khu thường dân; đông nam là khu thương mại.
Trong các khu chỗ nào cũng trà quán, tửu lầu, quán cơm chi chít như bàn cờ. Khu thương mại là nơi ăn chơi giải trí phong lưu, ở đây có dinh thự lộng lẫy của thương gia, các tửu quán, lầu xanh, ngoại thương quán xa hoa cao cấp nhất. Ra khỏi cửa nam, trên sông Đô Ninh thuyền hoa dày đặc. Tóm lại, đây chính là đô hội quốc tế lớn sầm uất náo nhiệt, được phân chia chức năng rõ ràng.
A La ra ngoài, đầu tiên đi tham quan khu thương mại. Nàng cần kiếm tiền, cần thu thập thông tin, cần tìm hiểu phong tục tập quán của một nơi xa lạ. Những nơi chưa phát triển luôn tàng ẩn thế giới đào viên. A La tin là nàng nhất định tìm được. Lúc này nàng không mong lập nên nghiệp lớn ở thế giới cổ đại, chỉ muốn sống yên ổn, có thể tự quyết định mọi chuyện của mình.
Hôm đó Thanh La dậy sớm, bên trong mặc áo ngắn bó sát, bên ngoài choàng áo chùng rộng màu bạc, tóc cột chặt, thắt đai lưng gọn gàng, soi gương thấy một tiểu nam nhi mặt mày khôi ngô, ngũ quan rạng ngời như ngọc.
Thất phu nhân giúp nàng dùng bột nâu bôi những chỗ lộ da thịt, tô đậm lông mày. A La ép cho giọng nói thấp trầm, sải bước dài, sao cho dáng điệu cử chỉ không còn vẻ yểu điệu của một tiểu thư khuê các. A La rất vừa ý, thất phu nhân tạm yên lòng, cười nói: “Nếu không phải là người quen, nhất định không nhận ra con là gái”.