1. Thông báo

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan (Vui lòng click vào ảnh để xem chi tiết)

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan
    Dismiss Notice

Ngôn tình Hậu cung Chân Hoàn truyện - Tác giả: Lưu Liễm Tử - Tình trạng: Full

Thảo luận trong 'Truyện dịch' bắt đầu bởi Vân Yên, 28/8/17.

Những người đang xem bài viết này (Thành viên: 0, Khách: 0)

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 10: Thướt tha áo mới bừng ánh ngọc
    Hồ Uẩn Dung níu tay áo Huyền Lăng, cười, nói: “Tam tiểu thư thần dũng như vậy, Hoàng thượng nói xem phải ban thưởng như nào mới tốt đây?”

    Huyền Lăng tỉnh táo trở lại, không kìm được vỗ tay khen: “Thực là cân quắc chẳng kém bậc tu my, so với Hoàn Hoàn hiền thục, đảm đang, tiểu di này của trẫm rõ ràng trội hơn ở sự oai hùng hào sảng.”

    Ngọc Nhiêu trở lại ghế của mình, khẽ nhấp một ngụm rượu hoa quế, hờ hững nói: “Đa tạ Hoàng thượng khen ngợi.”

    Tôi mỉm cười, khẽ lắc đầu tỏ ý với Ngọc Nhiêu, ý bảo chớ nên khoe tài thêm nữa.

    Huyền Lăng nói vậy xong, ngay đến Diệp Lan Y cũng gật đầu tán thưởng: “Quả thực phải tốn mất mấy năm công phu mới được như thế.”

    Đang lúc náo nhiệt, chợt Huyền Phần quay sang, ung dung nói với Ngọc Nhiêu: “Cây liễu chỉ là vật chết, muốn bắn trúng một bông hồng cũng không tính là quá khó.” Y suy nghĩ một chút rồi mới tiếp: “Phần muốn so tài cao thấp với tam tiểu thư một chút, không biết tam tiểu thư có bằng lòng không?”

    Ngọc Nhiêu dù sao cũng còn ít tuổi, hiếu thắng, không chút nghĩ ngợi đã đáp luôn: “Vương gia cứ việc nói đi, ta tất thảy đều xin nghe lệnh.”

    Huyền Phần còn chưa nói gì thì dái tai đã đỏ bừng lên, đoạn y khẽ ho một tiếng, chỉ vào búi tóc gọn ghẽ trên đầu Ngọc Nhiêu. “Tiểu thư vừa rồi đã dùng một bông hồng làm bia ngắm, giờ bản vương muốn bắn rụng chiếc thoa phượng trên đầu tiểu thư để làm phần thưởng.”

    Mấy lời này kỳ thực có chút ngả ngớn, Huyền Phần vốn không phải loại người như vậy, hơn nữa dùng tên bắn thoa cũng là một việc hết sức nguy hiểm, không biết cớ sao y lại đưa ra đề nghị này? Nhưng khi tôi đang định cất lời ngăn cản thì Ngọc Nhiêu đã nói trước: “Được!”

    Huyền Tuân nghe thế liền vỗ tay bôm bốp, vừa cười vừa ôm mỹ nữ bên cạnh vào lòng. “Tam tiểu thư nếu đứng một mình ở đó thì thực là dễ dàng quá!” Rồi y hưng phấn quay sang nới với Huyền Lăng: “Chi bằng hãy cho toàn bộ cung nữ trong Minh uyển tới đứng chung một chỗ với tam tiểu thư, như thế còn có thể khảo nghiệm nhãn lực của lão cửu nữa.” Y không kìm được cất tiếng cười vang. “Nếu lão cửu bắn trúng cây thoa phượng của tam tiểu thư thì tất nhiên phải thưởng lớn cho y một phen, còn như bắn trúng cái khăn tay hay cái trâm nào đó của cung nữ khác, vậy Hoàng thượng hãy thưởng luôn cung nữ đó cho lão cửu là được rồi. Ai bảo y chẳng ra gì đi học theo lục đệ, suốt ngày cứ cô quạnh một mình, thần là người làm đại ca thực không thể nào vừa ý được.”

    Huyền Lăng trầm ngâm lắc đầu, khẽ cười, nói: “Bắn trúng đồ của cung nữ thưởng cho y làm thị thiếp thì không sao, nhưng nếu bắn trúng cây thoa phượng của tam tiểu thư lẽ nào lại phải ban tam tiểu thư cho lão cửu hay sao?” Y đưa mắt liếc tôi một cái, dịu dàng nói: “Không ổn, không ổn, khi quay về, Hoàn Hoàn nhất định sẽ giận trẫm cho mà xem.”

    Y hiếm khi nói ra những lời thân mật như thế với tôi trước mặt mọi người, tôi cúi đầu, chợt thấy vẻ buồn bã trong mắt Huyền Thanh, lại càng cúi xuống thấp hơn, ngón tay quấn lấy dải tua trên cán chiếc quạt tròn. Dải tua quấn vào ngón tay hết vòng này đến vòng kia, khiến ngón tay tôi hơi đau, rồi tôi ngẩng đầu lên, mỉm cười nói: “Tam muội hôm nay sao thế, đâu có nữ tử nào lại tranh cường háo thắng như vậy.”

    Ngọc Nhiêu mím chặt môi, để lộ mấy tia kiêu ngạo. “Không sao hết. Đại tỷ tỷ, muội cũng rất muốn biết liệu y có bản lĩnh lấy được chiếc thoa phượng của muội hay không.” Bỗng khuôn mặt muội ấy hơi ửng đỏ. “Huống chi muội vốn chẳng phải đồ vật, há có thể nói ban thưởng cho người khác là ban thưởng được.”

    Cây thoa phượng đó vốn được điêu khắc thành từ một khối ngọc bích hoàn chỉnh, màu sắc xanh biếc rất thuần, cài lên mái tóc vô cùng thích hợp, chính vì vậy mà Ngọc Nhiêu thích nhất. Chu Bội thoáng lộ vẻ tiếc nuối. “Thật đáng tiếc quá! Cho dù có bắn trúng rồi, nếu nó rơi xuống đất mà vỡ mất một góc thì coi như không còn hoàn hảo nữa, xem như uổng mất một chiếc thoa phượng tuyệt hảo.”

    Huyền Lăng thấy Ngọc Nhiêu như vậy thì cũng gật đầu, nói: “Được rồi, có điều đây dù gì cũng chỉ là một trò vui, nên đặt sự cẩn trọng lên trên hết.” Chỉ chừng một tuần trà sau, tất cả các cung nữ trong Minh uyển đều đã tụ tập hết dưới đài. Chắc hẳn chưa từng được thấy trò chơi nào mới lạ thế này, các cung nữ đều vừa tò mò vừa cảm thấy buồn cười, không kìm được bàn luận xôn xao. Ngọc Nhiêu đi xuống dưới đài, đứng ngay vào chỗ chính giữa các cung nữ.

    Vì đang là đầu hạ nên các cung nữ trong Minh uyển hiện giờ đều mặc cung trang mỏng màu xanh hoặc đậm hoặc nhạt, trên mái tóc cài một nhành hoa. Bọn họ vừa nói vừa cười, tiếng ồn ào vang lên không ngớt, lại xen lẫn với tiếng đinh đang phát ra từ những món đồ trang sức trên đầu, nhìn từ xa thực chẳng khác gì vô số bông hoa đang nở rộ giữa mùa xuân, khiến người ta bất giác thầm mê đắm. Ngọc Nhiêu lúc này đứng giữa các cung nữ, thực giống như đã chìm nghỉm vào trong, duy có khuôn mặt phù dung xinh đẹp là cực kỳ nổi bật, ngay tới Huyền Tuân cũng không kìm được cất tiếng khen: “Quả không thẹn là một trang quốc sắc, vào giữa đám đông mà vẫn chẳng giảm nửa phần nổi bật.”

    Hồ Uẩn Dung đưa quạt lên che mặt, cười yêu kiều, nói: “Cửu Vương gia nhớ nhìn cho kĩ đấy, cẩn thận kẻo hoa mắt bắn nhầm rồi phải rước một cô nàng dạ xoa về nhà.”

    Huyền Phần đứng hiên ngang trước đài, không nói một lời mà chỉ lặng lẽ giương cung lắp tên, tay trái giữ chặt, tay phải kéo dây, một mắt nhắm hờ, một mắt mở to, sau khi chăm chú nhìn một lát bèn cất tiếng quát khẽ: “Trúng!” Tức thì mũi tên rời dây bay đi vun vút, chỉ nghe các nữ tử phía dưới kinh hãi kêu lên ầm ĩ, một số người nhát gan còn vội vã tránh đi. Sau nháy mắt, chiếc thoa phượng trên búi tóc của Ngọc Nhiêu đã bị bắn trúng. Hoán Bích không kìm được giậm chân, nói: “Hỏng rồi, hỏng thật rồi! Chiếc thoa phượng đó là vật mà Đức thái phi ban thưởng cho, dùng lực mạnh thế này nhất định sẽ vỡ mất thôi!”

    Lời còn chưa dứt, chợt thấy chiếc thoa ngọc đó sau khi bị bắn trúng không hề rơi xuống, ngược lại còn bay lên trên. Tôi chăm chú nhìn kĩ, tới lúc này mới phát hiện đuôi mũi tên có buộc một sợi dây tơ gần như trong suốt, còn đầu mũi tên thì dính lấy cây thoa phượng. Sợi dây tơ kia được giật mạnh về phía sau một cái, mũi tên lập tức quay ngược trở lại, cây thoa dính bên trên nguyên vẹn lọt vào tay Huyền Phần.

    Chu Bội bước lại gần nhìn, không kìm được giơ ngón tay cái lên khen ngợi: “Vương gia đúng là tâm tư tinh tế quá!”

    Huyền Lăng thấy cây thoa phượng xanh biếc kia được Huyền Phần cầm trong tay, thực là rất hợp với bộ đồ màu xanh trên người y lúc này, bèn giơ chén rượu về phía y. “Chiếc thoa phượng đó coi như thuộc về đệ rồi, đúng là rất hợp với bộ đồ đệ đang mặc.”

    Ngọc Nhiêu bị đoạt mất cây thoa phượng trên đầu, mái tóc hơi lỏng ra một chút nhưng lại không hề tức giận, ung dung bẻ lấy một cành Quảng ngọc lan dùng làm thoa bới lại tóc, bên khóe miệng thấp thoáng một nụ cười mỉm.

    Hồ Uẩn Dung bật cười khúc khích, chỉ tay vào Ngọc Nhiêu đang bước trở lại, nói: “Bộ đồ này của tam tiểu thư rất đẹp, cũng hợp với chiếc thoa kia lắm đấy.”

    Huyền Phần hơi khom người, mỉm cười, nói: “Đã nhường rồi!”

    Ngọc Nhiêu đưa tay về phía y, nói: “Để ta xem mũi tên đó nào.” Sau khi cầm vào tay rồi liền không kìm được bật cười khúc khích. “Hóa ra Vương gia bôi keo ong vào đầu mũi tên ư?”

    Huyền Phần nở một nụ cười tinh nghịch. “Đúng thế. Phần thưởng của ta là chiếc thoa phượng kia, nếu để nó vỡ mất thì còn gì là thú vị nữa.” Nói rồi liền quay qua phía Huyền Thanh, chớp mắt một cái. “Có lần ta tới chỗ lục ca, nghe Thái Lam nói lục ca bôi mật ong lên đầu mũi tên để dính lông chim, khi đó ta còn cười là lục ca đầu óc có vấn đề, vừa rồi tâm tư máy động bất chợt nhớ ra. Thoa ngọc có hơi nặng, dùng mật ong thì không dính nổi, ta liền đổi sang keo ong.” Nơi đáy mắt y ánh lên những tia sáng vừa rực rỡ vừa thuần khiết. “Vừa rồi nàng đứng dưới đài không hề biết là ta đã tháo đầu mũi tên ra, sao lại không hề né tránh? Nàng không sợ ư?”

    Ngọc Nhiêu hơi nhếch khóe môi, cũng nở một nụ cười tinh nghịch. “Vương gia lại dám bắn trúng ta ư? Đại tỷ tỷ sẽ là người đầu tiên không tha cho Vương gia.” Sau đó lại hơi cúi đầu. “Ta biết là Vương gia sẽ không bắn vào ta đâu.” Có lẽ vì bị ánh mặt trời rực rỡ chiếu vào, hai bờ má muội ấy lúc này dường như hơi ửng hồng. “Ngài bắn tên giỏi như thế cơ mà.”

    Một giọng nam trầm thấp vang lên: “Nếu lão cửu thật sự bắn trúng muội, trẫm cũng sẽ không tha cho y đâu, ai bảo y lỗ mãng, háo thắng chứ.” Mái tóc của Ngọc Nhiêu được cố định bằng một cành ngọc lan buông ra sau đầu, một làn gió nhẹ ấm áp thổi tới, mấy sợi tóc rối lất phất tung bay, thực là chứa đầy ý vị.

    Huyền Lăng cầm chiếc quạt xếp tơ tằm màu trắng để trên bàn lên, vung bút viết vào đó mấy câu: “Thướt tha áo mới bừng ánh ngọc, trắng ngần tựa tuyết lãng đãng bay. Non Cô Xạ kia nàng tiên tử, khoác áo nghê thường xiết đắm say. Trăng lạnh ngoài thềm hoa đổ bóng, bát ngát hương thầm giữa gió may. Ngọc Hoàn Phi Yến bao người đẹp, mỹ miều đều ở cả thân này[9].” Viết xong liền tặng cho Ngọc Nhiêu. “Đây là bài thơ viết về hoa ngọc lan của Văn Huy Minh, Nhiêu Nhi muội oai hùng, hào sảng, rất hợp với khí chất của Quảng ngọc lan, những thứ hoa khác thì đều có phần hơi tục.” Đoạn y cười khẽ, chăm chú nhìn Ngọc Nhiêu. “Chờ khi nào muội rảnh, vẽ mấy cành ngọc lan lên quạt thì sẽ càng đẹp hơn.”

    [9] Vịnh ngọc lan, Văn Huy Minh. Nguyên văn Hán Việt: Xước ước tân trang ngọc hữu huy, tố nga thiên đối tuyết thành vi. Ngã tri Cô Xạ chân tiên tử, thiên di nghê thường thí vũ y. Ảnh lạc không giai sơ nguyệt lãnh, hương sinh biệt viện vãn phong vi. Ngọc hoàn phi yến nguyên tương địch, tiếu tỷ giang mai bất hận phì - ND.

    Ngọc Nhiêu cầm lấy, liếc qua một chút rồi đặt xuống bàn, khẽ nhấp một ngụm rượu, hờ hững nói: “Vừa rồi bắn tên, dân nữ có hơi đau tay, chắc thời gian tới không thể vẽ tranh được rồi. Hơn nữa chiếc quạt này đã được Hoàng thượng đề chữ, dân nữ đâu có xứng vẽ tranh lên trên. Đợi sau khi quay về, dân nữ sẽ nhờ đại tỷ cất thật cẩn thận, thứ đồ ngự tứ đâu có thể tùy tiện để bên ngoài được.”

    Huyền Lăng cũng không giận dữ, chỉ cười điềm đạm. “Không vội, muội muốn vẽ khi nào thì vẽ, chờ vẽ xong đưa cho trẫm xem là được rồi.”

    Trò chuyện đến lúc này, bầu không khí đã bắt đầu có chút vi diệu, Huyền Thanh liếc nhìn tôi và Ngọc Nhiêu một chút, lập tức hiểu rõ nguồn cơn. Huyền Phần ngẩng đầu uống một ngụm rượu, đứng dậy đi tới trước mặt Ngọc Nhiêu. “Cây thoa này của tam tiểu thư được điêu khắc thành từ ngọc nguyên khối ư?” Trong khi y cất tiếng, tôi đưa mắt nhìn qua một chút, bông hoa hồng mà Ngọc Nhiêu vứt lên bàn của y vừa rồi đã không thấy đâu nữa, bất giác thầm nghi hoặc vì thị nữ thu dọn hình như có hơi nhanh quá.

    Ngọc Nhiêu bình thản đáp: “Đúng vậy.”

    “Chiếc thoa này quá quý giá, vừa rồi Phần đòi dùng nó làm phần thưởng quả là có phần khinh suất rồi.” Huyền Phần vừa nói vừa đưa chiếc thoa ngọc tới trước mặt Ngọc Nhiêu. “Một vật quý giá thế này Phần làm sao dám cầm về, xin trả lại cho tiểu thư thôi.”

    Ngọc Nhiêu đột ngột ngẩng lên, cặp mắt long lanh hệt như hai viên bảo thạch, bên trong thấp thoáng lộ ra mấy tia buồn bã. Muội ấy lặng im trong chốc lát, sau đó bèn nghiêm túc nói: “Vương gia là nam tử, Ngọc Nhiêu là nữ nhi, nam nữ thụ thụ bất thân. Thứ nam tử đã động vào ta quyết không dám lấy lại, như vừa rồi đến chiếc quạt Hoàng thượng ban cho ta cũng phải nhờ tỷ tỷ bảo quản đấy thôi. Chiếc thoa này giờ đã là vật của Vương gia rồi, nếu Vương gia không thích thì cứ vứt đi hoặc thưởng cho ai đó là được, chỉ có điều đừng đưa lại cho ta.”

    Những lời này của Ngọc Nhiêu kỳ thực đã có chút vô lễ, tôi đang định mở lời thì thấy Huyền Thanh chậm rãi rót một chén rượu Lê Hoa Bạch rồi đưa tới trước mặt Ngọc Nhiêu, nở nụ cười điềm đạm. “Gió nổi mưa vần, gặp nhau thường sai hẹn. Tựa bờ giậu ngọc ngắm trăng thâu, rủ rỉ trong hương phảng phất. Mành mỏng gió đà khẽ thổi, ôi người khắc khoải thiên nhai. Từ nay xuân về lòng xót, hoàng hôn ngồi dưới hoa lê[10].” Y đưa mắt nhìn mái tóc Ngọc Nhiêu, nói tiếp: “Tam tiểu thư lúc này đầu tóc bồng bềnh, mà nữ tử lại thường xem trọng dung nhan nhất, khi tóc rối tâm trạng tất nhiên cũng không được tốt. Mời tam tiểu thư uống chén Lê Hoa Bạch này, không còn hoa lê nữa, sau này khỏi phải thương tâm, cũng tiện đây chúc tam tiểu thư chọn được đấng phu quân tuấn kiệt, để rồi còn hưởng yên vui.”

    [10] Thanh bình nhạc - Phong hoàn vũ tấn, Nạp Lan Tính Đức. Nguyên văn Hán Việt: Phong hoàn vũ tấn, thiên thị lai vô chuẩn. Quyện ỷ ngọc lan khán nguyệt vựng, dung dị ngữ đê hương cận. Nhuyễn phong xuy quá song sa, tâm kì tiện cách thiên nhai. Tòng thử thương xuân thương biệt, hoàng hôn chích đối lê hoa - ND.

    Những lời này của y vừa hay giải vây cho Ngọc Nhiêu và Huyền Phần vốn đang lúng túng, Huyền Phần gượng nở một nụ cười thấp thoáng vẻ âu lo. Ngọc Nhiêu kìm nén cơn nóng nảy của mình, uống một hơi cạn sạch chén rượu, Huyền Thanh hạ thấp giọng, khẽ nói: “Lê Hoa Bạch vốn lấy rượu Phần làm gốc, tam tiểu thư nếu thích, bản vương có thể sai người đưa một ít đến cung của Thục phi nương nương để tiểu thư có thể uống thoải mái.” Trong mắt y tràn ngập nét cười, lại nhìn qua phía Huyền Phần, nói tiếp: “Cửu đệ chẳng dễ gì chịu nói chuyện với một nữ tử, do đó mồm mép mới vụng về, có chỗ nào đắc tội mong tam tiểu thư lượng thứ cho. Vừa rồi ta nghe Hoán Bích cô nương nói cây thoa ngọc kia là do Đức thái phi thưởng cho tam tiểu thư, cửu đệ giành được thế này vừa hay có thể mang về đưa lại cho thái phi để tỏ chút lòng hiếu thảo.”Có lẽ vì uống rượu vội quá, Ngọc Nhiêu mắt hạnh long lanh, ngay đến dái tai cũng nhuốm màu hồng phớt, trông đáng yêu vô cùng. Vừa khéo lúc này có một viên quản sự của Minh uyển đi tới bẩm báo: “Hoàng thượng, Minh uyển vừa trồng được một chậu cúc xanh tên gọi “Noãn Ngọc Sinh Yên”, hoa nở ra rất lớn, nhìn từ xa hệt như một mảng mây mù, vô cùng đẹp mắt.”

    Huyền Lăng ngạc nhiên hỏi: “Trẫm nhớ bây giờ mới là tháng Năm thôi mà, sao đã có hoa cúc rồi?”

    Gã quản sự đó cười, đáp: “Đều là nhờ phúc trạch của Hoàng thượng nên người của Hoa huệ cục mới trồng ra được một chậu cúc như thế trong phòng lạnh. Vốn bọn nô tài còn lo Hoàng thượng không đến sẽ bỏ lỡ mất, ai ngờ hôm nay Hoàng thượng lại vừa khéo tới đây. Hoàng thượng có muốn di giá qua đó một chút chăng?”

    Huyền Lăng tỏ ra khá hứng thú, vừa hay Hồ Uẩn Dung cũng vui vẻ nói: “Chỉ xem cưỡi ngựa bắn cung thôi thì thực là nhạt nhẽo, bây giờ đi ngắm hoa cũng tốt.”

    Tôi nghe thấy chữ “cúc” kia, nơi đáy lòng lại bất giác nhói đau. My Trang, My Trang, người đã mất rồi, nhưng hoa cúc thì mỗi năm đều vẫn nở.

    Huyền Lăng đã bị đánh động liền gật đầu đồng ý, lại quay qua nhìn tôi. “Hoàn Hoàn, cùng trẫm đi ngắm hoa nhé!”

    Tôi khẽ lắc đầu, nở một nụ cười buồn bã, nói: “Hoàng thượng đi là được rồi, thần thiếp vừa nãy uống rượu hơi nhiều nên giờ đang chóng mặt, ở lại đây nghỉ ngơi một lát là sẽ ổn thôi.”

    Hồ Uẩn Dung nắm tay Huyền Lăng cùng bước, mọi người lần lượt theo sau. Huyền Thanh đi sau cùng, thấy tôi đứng lặng im ở đó thì dừng chân lại, hỏi: “Nương nương vẫn còn thương tâm vì chuyện của Đức phi nương nương ư?”

    Trong cơn ngơ ngẩn, tôi giật mình phát hiện là y đang hỏi mình, đành làm bộ hờ hững nói: “Làm phiền Vương gia quan tâm rồi.” Tôi hơi nghiêng đầu, cố không tiếp xúc với ánh mắt của y. “Tỷ tỷ vốn yêu hoa cúc nhất nên ta mới tức cảnh sinh tình, thực đã thất lễ rồi.”

    Trong giọng nói điềm đạm của y thấp thoáng một tia ấm áp không dễ gì phát giác: “Thấy vật nhớ người vốn là lẽ thường tình, Đức phi tuy đã ra đi nhưng chỉ cần trong lòng Thục phi vẫn còn nhớ đến, như thế bất kể là sống hay chết, là xa hay gần, con người đó sẽ mãi mãi ở bên.”

    Tôi cúi đầu nghiền ngẫm câu nói ấy của y, chỉ cần trong lòng vẫn còn nhớ đến, như thế bất kể là sống hay chết, là xa hay gần, con người đó sẽ mãi mãi ở bên. Lòng tôi thầm chấn động, chỗ mềm yếu nhất nơi đáy lòng bất giác nhói đau. Tôi cố hết sức kìm nén những gợn sóng không ngớt rung rinh trong lòng mình, khẽ nói: “Đa tạ Vương gia đã khuyên giải.”

    Y nhìn theo bóng lưng yêu kiều, tha thướt của Ngọc Nhiêu, khẽ cất tiếng thở dài. “Muội muội của nàng... dung mạo thì giống Thuần Nguyên Hoàng hậu, tính tình lại giống Hoa Phi, nếu như không muốn...” Y không nói tiếp nữa mà chỉ lắc đầu nhè nhẹ. “Nàng phải cẩn thận đấy!”

    Nhanh, nhanh đến mức khiến tôi gần như không kịp nhìn rõ, khuôn mặt y đã trở lại vẻ quy củ như bình thường. Tia buồn thương đó giống như một ngôi sao băng vụt qua trước mắt tôi, rồi ngay lập tức cả thế giới đã trở lại vẻ phồn hoa, náo nhiệt như bình thường, nhưng lúc này trái tim tôi đã bị nó trói chặt, ngập chìm trong một cảm giác thổn thức khôn nguôi.

    Đợi đến khi đoàn người ngắm hoa trở về thì trời đã sâm sẩm tối, Chu Bội hứng thú dạt dào, vẫn còn tán thán không ngớt: “Bông hoa đó đúng là đẹp thật, cứ như được điêu khắc ra từ một khối ngọc phỉ thúy vậy. Ai cũng nói hoa cúc xanh khó trồng, thế mà bây giờ Minh uyển lại trồng được vào mùa hè, đúng là hiếm có.”

    Tiệc tối lần này cũng được bày tại Quan Võ đài. Nhìn về phía xa, mặt trời còn chưa lặn hẳn, khung cảnh hết sức hữu tình. Thức ăn trong bữa tiệc dùng các loại thịt thú rừng như hươu, hoẵng làm chủ, ngay đến rau cũng đa phần là rau rừng, cảm giác quả thực khá mới mẻ.

    Lúc này ráng chiều phủ ngợp khắp trời, trên bãi săn um tùm cỏ mọc, một con tuấn mã màu đen bỗng từ phía ngoài lao vun vút tới. Con ngựa đen đó được lắp yên ngựa mới tinh, rực rỡ ánh vàng, một bóng người vận đồ màu đỏ tươi bò rạp trên lưng ngựa, giống như một ngọn lửa nóng bỏng lao thẳng tới trước Quan Võ đài. Trên bầu trời, mây màu giống như một tấm thảm gấm trải dài nối liền với mặt đất, nữ tử vừa giục ngựa chạy từ xa tới kia không ngờ lại giống như nhảy ra từ giữa làn mây màu, tôi nhất thời chẳng nhìn rõ được là ai, chỉ bất giác thầm khen ngợi: “Cưỡi ngựa giỏi quá! Tư thế cũng thực là phóng khoáng, tự nhiên!”

    Hồ Uẩn Dung đặt mạnh đôi đũa ngà voi nạm bạc trong tay xuống bàn, trầm mặt hỏi: “Là kẻ nào thế? Ngay đến Minh uyển mà cũng dám tùy tiện xông vào ư? Thực là to gan!”

    Huyền Lăng đang vui bị quấy rầy thì cũng khá tức giận, nhưng đồng thời còn không nén được lòng tò mò, bèn dặn Lý Trường: “Mau đi xem thử là ai!”

    Ngọc Nhiêu vốn ngồi gần hàng lan can của Quan Võ đài nhất, nghe thế liền đưa mắt nhìn đi, đoạn cười, nói: “Khỏi cần đi xem nữa, là Dư Dung Nương tử đuổi theo Hoàng thượng tới đây đấy.”

    Dư Dung Nương tử? Tôi và Hồ Uẩn Dung đưa mắt nhìn nhau, đều không giấu được vẻ ngẩn ngơ trong mắt. Dư Dung Nương tử thân phận vốn không cao lại đang đà thất sủng, gần như đã bị Huyền Lăng ghẻ lạnh suốt mấy tháng nay, thế mà bây giờ trước cặp mắt của bao nhiêu người lại dám xông vào Minh uyển, lá gan thực không nhỏ chút nào. Huyền Lăng nhìn kĩ một lát rồi mới nhận ra, không kìm được giận dữ nói: “Sao Xích Thược lại dám xông vào đây như thế? Các vị thân vương đều đang có mặt, nàng ta nghĩ đây chỉ là tùy ý đi vào Thượng Lâm uyển ngắm hoa thôi sao? Thực chẳng hiểu quy củ gì cả!” Rồi quay sang dặn dò Lý Trường: “Không cần để nàng ta tới đây, ngươi cứ kêu người đưa nàng ta về cung nghỉ ngơi là được rồi.”

    Chu Bội cắn môi dưới khẽ cười khúc khích, lại bóc một quả sơn trà đưa tới bên miệng Huyền Lăng. “Hoàng thượng việc gì phải tức giận chứ, xét cho cùng cũng chỉ là người trước đây nuông chiều quá mức, bằng không Xích Thược muội muội đã chẳng dám tùy tiện như vậy trước mặt các vị thân vương rồi.”

    Lý Trường đi xuống nói chuyện một hồi nhưng Xích Thược hiển nhiên không phục, còn đẩy y ra mà chạy lên Quan Võ đài. Các thị vệ muốn kéo nàng ta đi, nàng ta liền thản nhiên xua tay một cái, nói: “Ta chỉ nói chuyện với Hoàng thượng mấy câu thôi rồi sẽ về ngay.” Nàng ta ngẩng mặt lên, vì vừa cưỡi ngựa một hồi lâu nên khuôn mặt rỉ ra những giọt mồ hôi lấp lánh, còn ánh lên màu đỏ tươi, nhìn hệt như một trái táo chín. Trên chiếc áo gấm màu đỏ của nàng ta thêu toàn những bông thược dược sẫm màu đang nở rộ, tuy đơn giản nhưng khiến cho vẻ kiều diễm của nàng ta như tăng lên mấy phần. Nàng ta nhìn Huyền Lăng chăm chú, chẳng rõ lấy sự bình tĩnh từ đâu ra, lớn tiếng nói: “Thần thiếp muốn được đua ngựa với Hoàng thượng. Nếu như bị thua, thần thiếp sẽ lập tức về cung, không bao giờ tới trước mặt Hoàng thượng để người thêm ghét. Còn nếu như thần thiếp thắng, xin Hoàng thượng đừng giận thần thiếp nữa.” Hơi dừng lại một chút, cặp mắt nàng ta như bừng lên một ngọn lửa hừng hực cháy. “Thần thiếp chỉ muốn được đua ngựa với người thôi, một lần là được.”

    Huyền Lăng thoáng ngây ra một chút, lẩm bẩm hỏi: “Nàng thật sự muốn đua ngựa với trẫm ư?”

    “Dạ!” Nàng ta khẳng định lại một lần nữa.

    Có lẽ đã bị sự thành khẩn và khát khao của nàng ta làm cho chấn động, Huyền Lăng không ngờ lại khẽ gật đầu. “Được rồi.” Khi đi ngang qua bên cạnh nàng ta, Huyền Lăng dừng chân, chăm chú nhìn nàng ta một lát. “Nàng ăn mặc thế này cũng rất đẹp.”

    Xích Thược nở một nụ cười kiêu ngạo, đi theo sau lưng Huyền Lăng xuống dưới.

    Huyền Tuân đưa mắt nhìn Xích Thược vẻ ngạc nhiên, đoạn ngáp dài một cái. “Nữ nhân bên cạnh Hoàng thượng đúng là ngày càng kỳ quái, trước đây đã có Hoa Phi thích đua ngựa với Hoàng thượng rồi, bây giờ ngay đến một nữ tử xuất thân cung nữ mà cũng dám chạy đến Minh uyển.” Y khẽ véo má nữ tử bên cạnh mình một cái, nhìn cô ta cúi đầu ngoan ngoãn nở nụ cười, nói: “Bản vương chỉ thích những nữ nhân nghe lời thôi.”

    Quan Võ đài lúc này vô cùng tĩnh lặng, tất cả cùng đổ dồn ánh mắt về phía hai người ở dưới đài. Xích Thược tung mình lên ngựa, hít sâu một hơi, dường như vừa hạ quyết tâm rất lớn, ánh mắt hừng hực như lửa.

    Theo tiếng trống vang lên, con Đại Uyển bảo mã mà Huyền Lăng cưỡi lao vọt đi như một mũi tên vừa rời khỏi dây cung. Sau một vòng, con ngựa đen của Xích Thược từ đầu chí cuối luôn ở sau nó ba bước chân. Hồ Uẩn Dung khẽ nở nụ cười, đưa đũa gắp một miếng thịt hươu khô ướp hoa hồng lên chậm rãi ăn, nói: “Đáng thương cho cô ta tâm cao hơn trời nhưng lại không biết tự lượng sức, con ngựa của cô ta làm sao có thể so sánh với Đại Uyển bảo mã của Hoàng thượng được.” Chắc hẳn mùi vị hỗn hợp của thịt hươu và rượu khiến nàng ta cảm thấy vừa ý, thế là nụ cười lại càng thêm nồng đậm. “Nghe nói con Đại Uyển bảo mã này của Hoàng thượng thuộc giống Hãn Huyết trứ danh, thần tuấn vô cùng.”

    Khi còn lại một vòng cuối cùng, con ngựa đen mà Xích Thược cưỡi đã ở cách Đại Uyển bảo mã năm, sáu bước chân, chừng như sắp thua tới nơi. Huyền Tuân không nhìn tiếp nữa, chỉ uể oải nói: “Thắng bại sớm đã rõ ràng rồi, đâu còn gì đáng xem nữa, chúng ta uống rượu tiếp nào.”

    Huyền Phần chợt bước lên trước mấy bước, nói: “Chưa chắc!” Chỉ thấy Xích Thược mau chóng rút từ trong ống tay áo ra một con dao găm sắc bén, lưỡi dao ánh lên một tia sáng rực dưới ánh ráng chiều khiến người ta lóa mắt. Nàng ta vung tay lên đâm mạnh một cái, con dao găm cứ thế cắm thẳng vào mông con ngựa đen. Con ngựa đen bị đau liền hí dài một tiếng, đột ngột liều mạng lao đi điên cuồng, rốt cuộc đã tới đích trước Đại Uyển bảo mã.

    “Con ngựa vô dụng!” Sắc mặt Hồ Uẩn Dung sau nháy mắt đã phủ đầy mây đen, không còn một tia vui vẻ nào. “Là ai dạy cô ta cái trò bàng môn tà đạo này thế?”

    Con ngựa bị thương tiếp tục lao đi điên cuồng, phải chạy thêm mấy vòng nữa mới hất được Xích Thược từ trên lưng xuống. Đám thái giám vội vàng chạy tới đỡ, nhưng Xích Thược lại đẩy bọn họ ra, giãy giụa tự mình đứng dậy, cố nhịn đau đi lên Quan Võ đài, tới bên cạnh Huyền Lăng.

    “Thần thiếp thắng rồi.” Nàng ta lộ rõ vẻ mừng rỡ, nói: “Hoàng thượng nói sao làm vậy, thần thiếp giờ đã thắng, có thể yên tâm về cung được rồi.” Sau đó liền khom người hành lễ, chậm rãi xoay người bước xuống dưới đài.

    Bóng dáng màu đỏ của nàng ta chậm rãi lùi vào trong ánh tà dương đỏ rực như máu, nhưng vẫn khá bắt mắt. Huyền Lăng nhìn theo bóng lưng nàng ta, thấy nàng ta đã bước xuống dưới bậc thềm mới hờ hững nói: “Quay lại!” Xích Thược gần như ngỡ rằng mình đã nghe nhầm, dừng chân lộ vẻ do dự. Huyền Lăng lại gọi thêm lần nữa: “Mau tới chỗ trẫm nào.”

    Nàng ta chậm rãi xoay người lại, trong mắt thấp thoáng những giọt lệ long lanh. Lý Trường vội trải một chiếc đệm mềm xuống bên cạnh Huyền Lăng. Xích Thược ngoan ngoãn ngồi xuống. “Thần thiếp cứ ngỡ là Hoàng thượng sẽ không để ý tới thần thiếp nữa.”

    Hồ Uẩn Dung trề môi, nói bằng giọng khinh thường: “Chẳng qua là thắng bằng quỷ kế, có gì đáng kể đâu!”

    Huyền Lăng làm như không nghe thấy, đưa tay tới khẽ vuốt ve vầng trán bóng loáng, mịn màng của Xích Thược. “Trẫm không ngờ nàng lại hiếu thắng như vậy đấy!” Y cất giọng khe khẽ nghe như tiếng thở dài. “Về muộn thế này Hoàng hậu ắt sẽ trách mắng nàng, chi bằng chờ ngày mai theo trẫm về cung luôn.” Nàng ta vui vẻ tựa đầu vào bờ vai Huyền Lăng, bên khóe miệng lộ ra một tia cười thắng lợi.
     
  2. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 11: Ngó mặt cách lòng ngỡ uyên ương
    Rượu được ba tuần, Huyền Lăng dường như đã hơi say, bèn tựa người vào ghế gọi người lên ca múa. Mọi người trên đài lúc này thần sắc đều có vẻ uể oải, tiếng nhạc vừa nổi lên, những ánh mắt liền hờ hững liếc qua. Hồi ban ngày bọn họ đã xem cảnh cưỡi ngựa bắn cung tràn đầy khí thế rồi, giờ cảnh đàn ca nhảy múa mềm mại quả thực là càng thích hợp hơn. Các vũ cơ vận xiêm y diễm lệ, tha thướt nhảy múa giữa làn gió đêm dìu dịu, dưới ánh đèn lưu ly tỏa bóng mông lung, nhìn thực chẳng khác gì những bông hoa kiều diễm tột cùng.

    Xích Thược nghe xong một khúc liền gọi thêm điệu Thác Chi vũ. Hai nàng vũ cơ chậm rãi bước ra, mái tóc cả hai được búi lên cao vút, trên trán dán một miếng ngọc xanh biếc hình chim trĩ, vận áo đỏ tươi, phía dưới là chiếc váy trắng ngần thêu hình hoa cỏ màu xanh và vàng, bầu ngực trắng nõn lồ lộ, trên tay có khoác thêm khăn lụa mỏng. Theo tiếng nhạc vang lên, bọn họ ung dung thả bước, ống tay áo rộng không ngớt tung bay, thực là bắt mắt vô cùng.

    Xích Thược tỏ ra có chút cụt hứng, vứt đôi đũa bạc trong tay xuống, nói: “Từ khi vào cung đến nay, điệu múa đẹp nhất mà thần thiếp từng được xem chính là Kinh Hồng vũ của An Chiêu viện đêm đó, xem xong rồi mới thấy những điệu múa khác đều nhạt nhẽo cả.”

    Huyền Thanh đưa mắt liếc qua phía Xích Thược một chút, làm bộ vô tình nói: “Nương tử chưa từng được xem Thục phi nương nương múa điệu Kinh Hồng ư?”

    Tôi khẽ mỉm cười một tiếng. “Bọn ta chẳng qua là Đông Thi bắt chước chau mày[11], làm sao so sánh được với Thuần Nguyên Hoàng hậu năm xưa.”

    [11] Thời Xuân Thu, ở nước Việt có nàng Tây Thi, thân hình yểu điệu, môi hồng răng trắng, vô cùng xinh đẹp, nhưng do bị bệnh tim nên thường dùng tay ôm lấy ngực, mày thì chau lại. Dù vậy tư thế đó của nàng cũng rất dễ thương, làm rung động lòng người. Nhà bên có nàng Đông Thi xấu xí, thấy vậy liền bắt chước làm theo, người ta nhìn vào lại thấy càng xấu hơn. Câu này chỉ việc học đòi một cách vụng về, không biết tự lượng sức - ND.

    Xích Thược thản nhiên cười, nói: “Thần thiếp lúc nào cũng đến muộn một bước, thành ra không được xem Thục phi nương nương và Thuần Nguyên Hoàng hậu múa điệu Kinh Hồng, cũng không được xem cuộc thi cưỡi ngựa bắn cung chiều nay, nghe nói Hoàng thượng vừa mới giành được phần thắng.”

    Huyền Lăng mắt say lờ đờ, lẩm bẩm: “Những việc khác thì không xét tới, nhưng hồi chiều nay Nhiêu Nhi vừa cưỡi ngựa bắn cung, quả đúng là oai hùng hào sảng. Nếu nàng nhìn thấy rồi, nhất định sẽ cảm thấy rất thân thiết.”

    Thế là Xích Thược cầm chén rượu bước tới chúc mừng Ngọc Nhiêu. Hai chữ “thân thiết” đó của y bất giác làm tôi nảy sinh lòng nghi hoặc, thừa dịp Xích Thược lại gần, bèn khẽ nói: “Nương tử cưỡi ngựa quả là rất giỏi, nhưng một cung tần xuất thân cung nữ theo lẽ thường thì không thể có bản lĩnh như vậy mới đúng.” Tôi chăm chú nhìn nàng ta một chút, rất nhanh đã ngoảnh mặt đi, đưa mắt nhìn những bông thược dược đỏ tươi đang nở rộ bên Quan Võ đài. “Nghe nói Mộ Dung thế gia ngày trước rất trọng võ nghệ, ngay đến nữ tử cũng giỏi cưỡi ngựa bắn cung, nhớ năm xưa Hoa Phi chính là vì như thế nên mới được Hoàng thượng sủng ái rất mực. Bây giờ xem ra muội muội cũng có mấy phần dáng vẻ của Hoa Phi rồi đấy.”

    “Vậy ư?” Xích Thược dừng chén rượu bên môi, trong cặp mắt long lanh lóe lên một tia sắc lạnh. “Nương nương ngàn vạn lần chớ nên nói như vậy, Hoa Phi nương nương tuổi còn trẻ mà đã qua đời, tần thiếp còn muốn được bầu bạn với nương nương thêm vài năm nữa. Có thể tận mắt chiêm ngưỡng phong thái của nương nương, tần thiếp thực không đành lòng bỏ lỡ.” Dứt lời, nàng ta lại tha thướt trở về bên cạnh Huyền Lăng, uống rượu nói cười.

    Đêm dài đằng đẵng cứ thế lặng lẽ trôi đi.

    Huyền Thanh lúc này cũng đã hơi say, khẽ tựa mình vào ghế, ống tay áo rộng thêu hình vầng mây trắng buông thõng xuống một bên. Khóe miệng y vẫn thấp thoáng nụ cười, nhưng nụ cười ấy thật cô đơn và trống rỗng, hoàn toàn không phù hợp với dáng vẻ điềm đạm, ung dung của y thường ngày. Hoán Bích lần lượt đi rót rượu cho tất cả mọi người, trước bữa tiệc tối nay, muội ấy đã thay xiêm y, trên người là một chiếc áo ngắn màu xanh lam thêu hình hoa bách hợp cùng một chiếc váy màu vàng dài tới gót chân, khi đi lại, tà váy phía bên phải được xẻ ra một đoạn đung đưa nhè nhẹ, làm lộ ra mảng vải mềm màu xanh lục được lót ở phía trong, trông hệt như một cánh bèo dập dềnh trên sóng. Theo mỗi bước đi, cánh bèo ấy thoắt ẩn thoắt hiện phía sau tà váy của Hoán Bích, chẳng khác gì tâm tư thầm kín mà muội ấy vẫn kìm nén bấy lâu.

    Khi đi qua bên cạnh Huyền Thanh, thấy y đã hơi say, Hoán Bích đưa tay định đỡ y nhưng chắc là dùng sức không đủ, thân thể liền mất thăng bằng, bình rượu đang cầm trong tay lập tức nghiêng qua một bên, rượu trong bình bất ngờ trút thẳng lên vạt áo Huyền Thanh. Thứ rượu ấy vốn mang màu hổ phách, áo của Huyền Thanh thì lại trắng ngần, tạo thành một sự tương phản rất rõ. Huyền Thanh bị rượu đổ vào người thì lập tức tỉnh táo hơn mấy phần, thấy Hoán Bích lộ vẻ hoang mang liền vội vàng an ủi: “Không sao, chỉ là một chiếc áo mà thôi.”

    Lập tức có cung nhân chạy đi mang y phục sạch tới đứng một bên hầu hạ, y liền đứng dậy chuẩn bị vào trong thay, không ngờ lại vô ý đá phải một chiếc đệm mềm, đang trong cơn say nên bước chân càng thêm loạng choạng, một chiếc túi gấm bất giác rơi ra từ trước ngực y.

    Miệng chiếc túi gấm chỉ được thắt lại chứ không hề buộc chặt, mới vừa rơi xuống đất liền bị tuột ra. Một bức tranh cắt màu đỏ tươi từ trong túi gấm rơi ra, đêm về trên đài gió lớn, một cơn gió thổi lại cuốn bức tranh cắt đó lên, bay thẳng tới bên cạnh Huyền Lăng và Xích Thược. Vừa rồi Huyền Thanh đứng dậy gây ra động tĩnh khá lớn, Huyền Lăng sớm đã chú ý tới rồi, lúc này thấy có thứ gì đó bị gió thổi bay lại thì liền buột miệng hỏi: “Đó là gì vậy?”

    Không có ai biết rõ hơn tôi đó là thứ gì.

    Tôi thiếu chút nữa đã kinh hãi kêu lên thành tiếng, phải cố hết sức mới có thể kìm nén được.

    Bức tranh cắt! Đó chính là bức tranh cắt năm nào.

    Xích Thược cúi người xuống nhặt, bất giác mỉm cười, nói: “Bức tranh cắt tinh tế quá.”

    Huyền Thanh thấy bức tranh cắt bị gió thổi đi, đưa tay ra định chụp lấy thì đã không còn kịp nữa, mắt thấy nó rơi vào tay Xích Thược thì sắc mặt dần tái nhợt đi. Dưới ánh đèn lưu ly mờ mờ tỏ tỏ, chỉ thấy đôi mắt y lóe lên những tia lấp lánh, hệt như hai vì sao sáng nhất ở nơi chân trời. Tôi hoang mang đưa mắt nhìn y một chút, nếu không vì bờ má vẫn còn ửng hồng do uống rượu, chắc lúc này tôi đã bị sắc mặt nhợt nhạt không còn chút huyết sắc nào của mình bán đứng rồi.

    Khi bức tranh cắt được đưa tới cho Huyền Lăng, sắc mặt Huyền Thanh đã hoàn toàn bình tĩnh trở lại. Y chắp tay sau lưng, tôi gần như có thể nhìn thấy rõ hai bàn tay y đều nắm chặt đến nỗi trắng bệch, nhưng giọng nói thì vẫn hết sức điềm đạm, tự nhiên: “Hoàng huynh cũng thích mấy thứ đồ chơi này sao?”

    Huyền Lăng mỉm cười, trỏ tay vào y. “Đệ nhất định là đã lưu tình ở đâu đó nên mới giữ thứ này bên mình như thế rồi.”

    “Lại còn cất kĩ như vậy nữa.” Hồ Uẩn Dung khẽ nở nụ cười, chiếc bộ dao vàng hình cánh bướm cài trên búi tóc đung đưa nhè nhẹ, phản chiếu những tia sáng lấp lánh khiến người ta hơi lóa mắt. “Lục biểu ca nhất định là đã có người trong lòng rồi, còn không mau khai thực ra đi!”

    Xích Thược đứng bên cạnh Huyền Lăng chăm chú nhìn một lát, ánh mắt bỗng hơi trầm xuống, khi liếc qua phía tôi đã để lộ ra mấy tia sắc lẹm, đoạn quay lại, cười nói với Huyền Lăng: “Hình như thần thiếp uống say nên hoa mắt mất rồi, Hoàng thượng thử nhìn kĩ xem, bức tranh cắt này rõ ràng có mấy phần giống với Thục phi nương nương đấy.”

    “Rất giống sao?” Y chăm chú nhìn một lát rồi không kìm được tỏ vẻ nghi ngờ. “Quả đúng là giống thật.”

    Trên Quan Võ đài rộng rãi thoáng đãng, từng làn gió đêm mang theo hơi ẩm từ từ thổi lại khiến tôi cảm thấy hơi lạnh giá, rồi cơn lạnh chậm rãi ngấm vào trong tim phổi, cuối cùng ngay đến lục phủ ngũ tạng cũng như trở nên đông cứng, chừng như bất cứ lúc nào cũng có thể vỡ vụn ra.

    Tôi lạnh lùng đưa mắt nhìn bức tranh cắt đó, hờ hững nói: “Suốt một năm qua thần thiếp đã phải chịu đựng quá nhiều sự vu khống rồi, chỉ là một bức tranh cắt mà thôi, dựa vào đó có thể đoán chắc được là thần thiếp ư?” Tôi khẽ thở ra một hơi, thần sắc dần bình tĩnh trở lại, chăm chú nhìn Huyền Lăng, nói tiếp: “Lần trước có người vu cáo thần thiếp tằng tịu với Ôn thái y, lần này lại có người chuẩn bị vu cáo thần thiếp có gì đó với lục Vương gia nữa hay sao?”

    Huyền Lăng gượng cười một tiếng, thoáng lộ vẻ áy náy.

    “Hoàn Hoàn, nàng cả nghĩ rồi.”

    Tôi khẽ nói: “Chỉ mong là vậy.”

    Diệp Lan Y ngồi nghiêm trang trên ghế, cặp mắt mê ly chăm chú nhìn Huyền Thanh một hồi, một nét ưu thương thoang thoảng như làn nước chảy nhẹ qua trong mắt, dần biến thành mây khói lan tỏa ra giữa bầu trời đêm. Nàng ta khẽ hít một hơi, chậm rãi nói: “Bức tranh cắt này được cất kĩ bên người như vậy, nhất định là hình cắt của một người mà lòng thầm yêu dấu, nhưng lại chỉ có thể nhìn mà giữ mối tương tư.”

    Chu Bội tò mò hỏi: “Sao Tiểu nghi lại biết đó là một người chỉ có thể nhìn mà giữ mối tương tư.”

    Diệp Lan Y nở một nụ cười như có thể xuyên thấu lòng người. “Nếu ngày ngày đều có thể gặp nhau, việc gì còn phải trân trọng bức tranh cắt này như thế.” Đoạn nàng ta đưa mắt nhìn qua phía Huyền Thanh. “Vương gia nói xem có đúng thế không?” Huyền Thanh đáp lại nàng ta bằng vẻ mặt ngẩn ngơ và hụt hẫng. Diệp Lan Y mím môi khẽ cười. “Bức tranh cắt này quả thực khá giống Thục phi, nhưng Hoàng thượng không cảm thấy nó cũng rất giống với tam tiểu thư và Hoán Bích sao? Đặc biệt là cặp mắt kia kìa.”

    Ngọc Nhiêu kinh ngạc ngẩng lên, vừa định biện bạch thì chợt bắt gặp ánh mắt bình thản và không chút nghi ngờ của Huyền Phần, thần sắc lập tức buông lỏng, lặng im không nói gì nữa. Chu Bội cũng khẽ nở nụ cười. “Thần thiếp đã nói rồi mà, sao có thể là Thục phi nương nương được. Có lẽ đó là tam tiểu thư hoặc Bích cô nương cũng chưa biết chừng.”

    “Hoàng thượng xin hãy nhìn kĩ bức tranh cắt đó xem, Thục phi tính tình dịu dàng, hòa nhã, còn nữ tử trong tranh thì lại tinh nghịch, hoạt bát, hơn nữa vóc người cũng hơi đẫy đà, không giống với vẻ mảnh khảnh của Thục phi. Hoán Bích chỉ là một a hoàn tạm không xét tới, còn tam tiểu thư thì đang độ tuổi xuân tha thướt, yêu kiều, có câu rằng “yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu”, thần thiếp càng nhìn càng thấy giống tam tiểu thư đấy.” Hồ Uẩn Dung nói rồi đưa mắt liếc Ngọc Nhiêu, cười khẽ. “Tam tiểu thư, bản thân tiểu thư có biết việc này không? Lục biểu ca là đệ nhất phong lưu, tài tử của Đại Chu ta đấy, có biết bao nữ tử trong thiên hạ ngày đêm ái mộ huynh ấy mà chẳng được đáp lại kia kìa.” Nàng ta phe phẩy chiếc quạt tròn trong tay, ngẩng đầu nhìn trời, nói: “Chỉ còn hơn một tháng nữa là tới ngày Thất Tịch rồi, khi đó Ngưu Lang, Chức Nữ sẽ gặp lại nhau trên cầu Ô Thước, Hoàng thượng liệu có nên tác thành cho một đoạn giai thoại tuyệt vời không nhỉ?”

    Vẻ do dự của Huyền Lăng lộ ra hết sức rõ ràng. Tôi khẽ mím môi, hồi mới vào cung, tôi vẫn còn ngây thơ, hoạt bát, thân thể cũng hơi đẫy đà, quả thực khá khác với bây giờ, chỉ là không biết có thể dựa vào đó để tránh khỏi rắc rối lần này hay không.

    Huyền Phần cau mày hồi lâu rồi mới khẽ nói: “Tam tiểu thư với lục ca hình như mới gặp mặt lần đầu thôi thì phải.”

    Huyền Lăng mỉm cười điềm đạm. “Uẩn Dung, nàng đưa ra định luận vội vàng quá rồi đấy. Mép bức tranh này đã hơi nhạt màu, nhất định là được lão lục mang ra ngắm rất nhiều lần rồi. Nhiêu Nhi vào cung mới chỉ mấy tháng, trước đây lại chưa từng gặp mặt lão lục lần nào, không thể là muội ấy được.” Y như vô tình như hữu ý nhìn lướt qua khuôn mặt tôi, mang theo mấy tia dò hỏi. Tôi cố kìm nén tâm trạng đang xao động của mình, bình tĩnh nói: “Hoàng thượng nói rất phải, nhưng nếu muốn biết người trong tranh là ai thì phải hỏi lục Vương gia thôi. Mà chưa biết chừng nàng ta lại có họ hàng gì đó với thần thiếp ấy chứ, như thế thì thực là thân càng thêm thân rồi.”

    Một bóng người xanh biếc bất ngờ bước ra, rơm rớm nước mắt, quỳ xuống nói: “Hoàng thượng xin hãy tha tội cho nô tỳ, người trên bức tranh cắt kia đích thị là nô tỳ không sai.”

    “Hoán Bích, thật sự là ngươi sao?”

    Hoán Bích ngoảnh đầu lại nhìn Huyền Thanh, tình ý trong mắt không hề giấu giếm. “Chín năm trước nô tỳ đã tự tay đặt nó vào trong chiếc túi gấm này.” Muội ấy tỏ ra vừa vui mừng vừa buồn tủi. “Chín năm trước, Thục phi nương nương xảy thai trước cửa cung của Tích Hoa Phu nhân, Hoàng thượng và Hoàng hậu đều không ở trong cung, Thái hậu lại đang đổ bệnh, nô tỳ vừa khéo gặp được lục Vương gia, bèn nhờ ngài giúp đỡ, sau việc này nô tỳ đã tự mình tới Lũ Nguyệt Khai Vân quán cảm tạ.”

    Tôi làm bộ ngạc nhiên thốt lên: “Hoàng thượng, lần đó người đưa thần thiếp về cung từ trước cửa cung của Mộ Dung thị không phải là người ư?”

    Huyền Lăng cũng tỏ ra kinh ngạc. “Lẽ nào nàng vẫn luôn ngỡ là trẫm?” Ngay sau đó lại vui mừng nói: “Là trẫm không tốt, quên không kể việc này với nàng, vậy tức là Hoán Bích không phải là do nàng phái đi cảm tạ lão lục đúng không?”

    Tôi vén áo đứng dậy, trịnh trọng nói: “Đến bây giờ vẫn chưa cảm tạ lục Vương gia, ấy thực là lỗi của bản cung, mong Vương gia chớ trách.”
    Sắc mặt y vẫn bình tĩnh như thường. “Thục phi là ái phi của hoàng huynh, khi đó lại đang mang thai rồng, Thanh chỉ đành mạo phạm Tích Hoa Phu nhân thôi.” Lời của y như một mũi dùi đâm thẳng vào tim, tôi phải cố hết sức kìm nén mà cất lời cảm tạ thêm lần nữa.

    Hoán Bích khom người sát đất, nói: “Là nô tỳ không tốt, tự ý đi tìm Vương gia.”

    Huyền Lăng cười, nói: “Ngươi tận trung vì chủ như thế là điều nên làm, mau đứng dậy đi.”

    Hoán Bích nói: “Ngày đó nô tỳ tới Lũ Nguyệt Khai Vân quán, ngoài quán nở rất nhiều hoa hợp hoan, Vương gia thì đang luyện chữ. Nô tỳ thấy trên bàn của Vương gia có đặt một ít giấy màu, nhất thời nổi hứng bèn cắt thành mấy bông hoa dán cửa sổ tặng cho Vương gia coi như quà cảm tạ. Vương gia hỏi nô tỳ có biết cắt hình người không, nô tỳ bèn dựa theo bộ dạng của mình mà cắt ra một bức hình đưa cho Vương gia. Về sau có một lần nô tỳ gặp Vương gia, Vương gia hỏi nô tỳ thích loại hoa nào, nô tỳ bèn nói thích hoa đỗ nhược...” Giọng muội ấy lúc này nghe nhỏ như tiếng muỗi kêu. “Hoàng thượng có thể mở chiếc túi gấm đó ra xem bên trong có hoa đỗ nhược hay không.”

    Huyền Lăng y lời cầm lấy túi gấm mở ra xem thử, bất giác cả mừng. “Quả nhiên không sai, nếu đó không phải tranh cắt của ngươi thì sao ngươi có thể biết được trong túi đựng thứ gì.” Rồi y lại nhìn qua phía tôi. “Tâm tư của thị thế nào nàng có rõ không?”

    Tôi đang đầy lòng nghi hoặc không biết vì sao Hoán Bích lại biết trong túi gấm có đựng thứ gì, chợt lại nhớ tới việc tháng trước, Huyền Thanh đổ bệnh muội ấy từng đi chăm sóc mấy ngày, đã loáng thoáng hiểu ra, rồi lại nghe Huyền Lăng hỏi vậy thì vội cười, nói: “Thần thiếp thật ngốc nghếch quá, không ngờ lại bị nha đầu này giấu giếm suốt một thời gian dài như thế.”

    Hồ Uẩn Dung còn chưa cam tâm, đưa mắt liếc thấy bông hoa đỗ quyên Hoán Bích cài trên mái tóc, bèn nói: “Bản cung nhớ là ngươi ngày ngày đều cài một bông đỗ quyên trên mái tóc, cớ sao ngươi lại nói loài hoa mình thích là đỗ nhược chứ không phải đỗ quyên?”

    Hoán Bích đỏ mặt tía tai, ấp úng một lát rồi cuối cùng mới lí nhí đáp: “Vương gia từng nói là nô tỳ cài hoa đỗ quyên trông rất đẹp, do đó... do đó...”

    Muội ấy không nói tiếp nữa nhưng ý tứ thì ai cũng hiểu, ngay đến Huyền Thanh cũng không kìm được có chút xúc động. “Thực đã khổ cho nàng rồi.”

    Chu Bội dường như nhớ tới một việc, bèn đưa tay áo lên che miệng cười, nói: “Thần thiếp bỗng nhớ tới việc này, mấy tháng trước thần thiếp tới cung của Thục phi cứ luôn không thấy Hoán Bích đâu, nghe nói lục Vương gia đổ bệnh, là Hoán Bích cô nương đi chăm sóc. Thần thiếp khi đó còn nghi hoặc, bây giờ...” Nàng ta khẽ cười khúc khích, những người khác cũng không kìm được bật cười.

    Huyền Lăng đập quạt cười vang. “Chẳng trách ngày đó khi trẫm đùa với Thục phi là muốn phong ngươi làm quý nhân, ngươi lại sợ đến nỗi đánh rơi cả chiếc bát trong tay xuống đất, hỏi suốt một hồi lâu thì chỉ nói là đã có người trong lòng rồi, hóa ra người trong lòng ấy chính là lão lục.” Dừng một chút y lại vừa cười vừa nói tiếp: “Hoàn Hoàn, Hoàn Hoàn, không chỉ mình nàng hồ đồ, ngay đến trẫm cũng hồ đồ, bị bọn họ giấu giếm suốt một thời gian dài như thế. Chín năm rồi, chẳng trách lão lục ngay đến một trắc phi cũng không chịu nạp, hóa ra là còn có duyên cớ này ở bên trong.”

    Huyền Tuân cũng cười vui vẻ. “Lão lục của chúng ta khi xưa vốn là người tiêu sái nhất, bây giờ không ngờ cũng trở nên cà kê thế này. Chín năm? Chờ thêm chín năm nữa chắc Hoàng tử của Hoàng thượng cũng đã có con rồi ấy chứ, lẽ nào tới khi đó đệ còn không chịu nói ra ư?”

    Huyền Thanh cười gượng, nói: “Hoán Bích là a hoàn tùy giá của Thục phi nương nương, sao có thể rời khỏi Thục phi được.”

    Hoán Bích lúc này ngay đến cổ cũng đã đỏ bừng. “Nô tỳ thân phận thấp kém, tuyệt đối không dám với cao.” Dừng một chút muội ấy lại cất giọng dịu dàng nói tiếp: “Nghe nói trong biệt viện của Vương gia có trồng rất nhiều hoa mai màu xanh, nô tỳ bấy lâu nay vẫn không có duyên được thấy, chỉ cần sau này có dịp tới đó một phen là nô tỳ đã thỏa mãn lắm rồi.”

    Huyền Lăng cười, nói: “Hai người mà còn thế này thêm nữa, chỉ e sẽ thật sự phải đợi thêm chín năm như lời của đại ca đấy, khi đó đến hoàng tôn, trẫm cũng đã có rồi. Hai người cứ cái này không dám, cái kia không dám, vậy chỉ tổ làm khổ nhau mà thôi.” Đoạn y vẫy tay gọi Huyền Thanh lại. “Tới đây nào, hôm nay trẫm sẽ làm chủ ban Hoán Bích cho đệ luôn.”

    Hoán Bích vui mừng khôn xiết, thẹn thùng cúi gằm mặt xuống, lát sau lại đưa mắt qua nhìn Huyền Thanh chờ xem y có phản ứng thế nào. Huyền Thanh đang định mở lời thì Hoán Bích đột nhiên cúi gằm mặt, buồn bã nói: “Kỳ thực nô tỳ thân phận thấp kém, đâu có xứng hầu hạ Vương gia.”

    Nghe Hoán Bích nói vậy, Huyền Thanh bất giác có chút không đành lòng, Huyền Lăng cũng nói: “Nếu lão lục không chính miệng nói với ngươi, ngươi làm sao biết được trong biệt viện của y có trồng hoa mai màu xanh, mà ngươi còn tên là Hoán Bích nữa. Phủ Thanh Hà Vương trước giờ vốn thiếu một người quản lý việc nhà, ngươi đã ở bên cạnh Thục phi nhiều năm vẫn luôn cẩn thận, trẫm cũng có thể yên tâm được.”

    Vô số suy nghĩ cùng xuất hiện trong đầu tôi, có chấn động, có đắng chát, còn có một chút vui mừng, đến bản thân tôi cũng chẳng rõ suy nghĩ nào chiếm phần hơn. Tôi cố hết sức bình tĩnh suy nghĩ một chút, chậm rãi đứng dậy. “Nếu cứ thế này ban Hoán Bích cho Vương gia, sau khi muội ấy vào vương phủ rồi thân phận sẽ là thị tỳ, thị thiếp, cơ thiếp hay là thứ phi, trắc phi hoặc chính phi?”

    Hồ Uẩn Dung chen miệng vào: “Hoán Bích tuy là a hoàn tùy giá của Thục phi, thân phận đặc biệt nhưng xét cho cùng vẫn chỉ là một a hoàn. Đi hầu hạ Vương gia rồi, cho làm thị thiếp kỳ thực cũng đã là có phần nâng đỡ.”

    Tôi chỉnh lại y phục, trịnh trọng quỳ xuống. “Thần thiếp năm xưa rời cung tu hành, bên cạnh chỉ có Cận Tịch và Hoán Bích cùng chịu gió sương, thần thiếp từng tự nhủ với lòng là phải báo đáp bọn họ thật tốt, tìm cho bọn họ một tấm chồng như ý. Hiện giờ Cận Tịch gả cho Lý Trường cũng không tính là quá tệ, còn Hoán Bích thì từ nhỏ đã lớn lên cùng thần thiếp, chẳng khác nào tỷ muội, Hoán Bích đã có tình cảm với Vương gia như thế, thần thiếp thực không muốn muội ấy phải làm một thị thiếp không danh không phận. Thần thiếp nghĩ Vương gia đã chung tình với Hoán Bích suốt chín năm ròng như thế, chắc hẳn cũng không muốn bạc đãi muội ấy đâu.”

    Huyền Lăng mỉm cười, nói: “Việc này đơn giản thôi, cứ dựa theo tiền lệ của tú nữ mà ban cho lục Vương gia làm thứ phi là được rồi.” Tôi hơi mím môi, khẽ lắc đầu. Huyền Lăng ngạc nhiên hỏi: “Vậy ý nàng thế nào?”

    “Hoán Bích với thần thiếp tình như tỷ muội, nhị muội của thần thiếp lại vì nguyên nhân đặc biệt mà không chịu lấy chồng. Thần thiếp muốn nhận Hoán Bích làm nghĩa muội, ghi tên vào tộc phổ, để muội ấy được gả vào phủ Thanh Hà Vương làm chính phi với thân phận nhị tiểu thư của nhà họ Chân.”

    Mọi người không kìm được đưa mắt nhìn nhau, Xích Thược cười lạnh, nói: “Chuyện cười! Xưa nay cung nữ làm phi tần chỉ có thể tấn phong dần lên từng cấp một, hơn nữa còn không được phong hậu. Hoàng cung là như thế, vương phủ cũng không khác, tuyệt đối không thể để kẻ thị tỳ làm vương phi được, nhỡ truyền ra ngoài không chỉ làm mất mặt lục Vương gia, ngay đến Hoàng thượng cũng mất mặt theo vì có đệ muội là một cung nữ!”

    Hồ Uẩn Dung cũng hơi cau mày. “Thục phi tuy thương Hoán Bích nhưng cũng nên có chừng mực, sau này mệnh phụ vào cung triều kiến, lẽ nào Hoán Bích sẽ trở thành chính phi mà ngang vai ngang vế với thần thiếp ư?”

    Hoán Bích nắm chặt lấy ống tay áo của tôi, cất giọng khẩn cầu: “Nô tỳ biết là nương nương xót thương nô tỳ, nhưng nô tỳ quả thực không để ý tới danh phận, mong nương nương chớ nên bận lòng quá.”

    Tôi thở dài than: “Không phải bản cung muốn sinh chuyện thị phi, muội cần biết trên thế gian này chín người mười ý, nếu muội không danh không phận vào Vương phủ, sau này người khác ắt sẽ bàn luận linh tinh, nói dễ nghe thì là muội và Vương gia yêu nhau nhiều năm cuối cùng đã thành chính quả, nhưng nói không dễ nghe thì sẽ là hai người tư thông gian díu với nhau, ắt sẽ làm ảnh hưởng tới thanh danh của muội và Vương gia rất nhiều.”

    Huyền Lăng còn đang trầm ngâm chưa quyết thì chợt có người cất lời cự tuyệt: “Không!” Mọi người giật mình phát hiện chính Huyền Thanh là người vừa lên tiếng. Y lộ rõ vẻ kiên nghị, trầm giọng nói tiếp: “Xin thứ cho Thanh không thể cưới Hoán Bích làm chính phi được. Nhiều năm trước Thanh từng gặp một nữ tử, cùng nàng ấy tình đầu ý hợp, về sau tuy phải xa nhau ngàn dặm không thể kết thành phu thê nhưng tự nơi đáy lòng Thanh vẫn luôn coi nàng ấy là thê tử duy nhất của mình. Hoán Bích cô nương tuy rằng tốt nhưng Thanh tuyệt đối không thể cưới về làm chính phi được.” Đoạn y khom người hành lễ với tôi. “Mong Thục phi nương nương lượng thứ.”

    Hai mắt y phản chiếu lại ánh đèn đằng xa chiếu tới, hệt như có hai ngọn lửa đang cháy hừng hực bên trong, làm lòng tôi đau xót tột cùng. Tôi sao có thể không lượng thứ cho y chứ, chỉ là đời này kiếp này dù tôi có dốc hết sức lực toàn thân thì cũng chẳng thể nào tới gần y được nữa. Cái cảm giác gần ngay trước mắt mà như xa tận chân trời đó khiến tôi thiếu chút nữa thì không kìm được muốn bật khóc thành tiếng.

    Sau một hồi trầm lặng, tôi đưa tay chỉnh lại xiêm y, bình tĩnh nói: “Hoàng thượng hãy làm chủ đi, chỉ có điều xin đừng để Hoán Bích phải chịu ấm ức.” Hơi dừng một chút, tôi nói tiếp: “Lưu Chu mất sớm, bây giờ thần thiếp chỉ còn lại một mình Hoán Bích thôi.”

    Y khẽ gật đầu, lát sau rốt cuộc cũng nói: “Được rồi, vậy trẫm sẽ để Hoán Bích được gả cho Thanh Hà Vương làm trắc phi với thân phận nhị tiểu thư của nhà họ Chân.”

    Tôi khẽ thở ra một hơi, nơi đáy lòng thầm buồn bã, nhưng xét cho cùng được như thế này đã là rất tốt rồi.

    Mọi người cùng bước tới mời rượu chúc mừng, trong đó Huyền Phần chính là người nhiệt tình nhất. Dưới ánh đèn sáng trưng chiếu tới, khuôn mặt Huyền Phần lộ rõ vẻ mừng vui, vừa là vui thay cho Huyền Thanh rốt cuộc đã có người bầu bạn, đồng thời cũng là vui cho bản thân mình. Bên khóe môi y xuất hiện một nụ cười hiếm có, mặt đầy hào khí bừng bừng của người thiếu niên. Có lẽ tôi thật sự rất vui mừng, ai tới cũng không từ chối, uống hết chén này tới chén kia, mặt đầy nét tươi cười, trong cơn mơ màng dường như còn từng uống với Huyền Thanh vài chén rượu, cuối cùng ngay đến Huyền Lăng cũng nói: “Thục phi thực hiếm có khi nào cao hứng thế này.”

    Giọng nói của Hồ Uẩn Dung vang lên vẻ rất mông lung: “Tất nhiên là thế rồi, thị nữ được làm trắc phi, ấy là niềm vinh dự lớn đến thế nào chứ, đã thế Thục phi còn có thêm một người muội muội, Vương gia cũng trở thành muội phu luôn.”

    Giữa bầu trời thoáng đãng, vầng trăng lưỡi liềm vắt vẻo ngọn cây, một làn gió thổi tới làm hoa cỏ rung rinh nhè nhẹ, phía đằng xa, vầng trăng chừng như cũng rung rinh, chẳng biết lúc nào thì sẽ rơi xuống. Rốt cuộc vẫn là Hoán Bích tới đỡ tôi. “Tiểu thư say rồi, để nô tỳ đỡ người đi hóng gió một chút cho tỉnh rượu.”

    Mơ màng đưa mắt nhìn đi, tôi thấy mọi người đều đã uống không ít, ai cũng có vẻ ngà ngà say. Hoán Bích đỡ tôi xuống dưới đài, gió mát nhẹ nhàng thổi tới, tuy đang là đầu hạ nhưng cũng có mấy tia heo hắt, lạnh lẽo của ngày thu. Dường như là Huyền Thanh đi tới, rỉ tai Hoán Bích mấy câu, Hoán Bích vội lùi qua bên cạnh một bước, y đưa tay nắm lấy cánh tay tôi, nói: “Cẩn thận!”

    Dù cách một lớp vải mỏng nhưng tôi vẫn có thể cảm nhận được những đường vân hết sức quen thuộc trong lòng bàn tay y, chỉ là đôi tay ấy, con người ấy, sau này sẽ thuộc về Hoán Bích rồi. Lại một làn gió thổi tới, tôi bỗng có cảm giác buồn nôn, y liền đưa tay xoa lưng tôi, cất giọng buồn bã: “Nàng hẳn đang rất khó chịu, nhưng ta còn khó chịu hơn nàng.”

    Tôi đẩy y ra. “Hôm nay là ngày mừng của cả Vương gia và bản cung, ngày sau Vương gia chính là muội phu của bản cung rồi.”

    Y ngoảnh mặt đi, vẻ bi thương tựa như ngấm sâu vào tận xương tủy. “Nhất định phải như vậy ư?”

    Tôi đưa tay chỉ vầng trăng trên cao. “Huynh hãy nhìn xem, vầng trăng nhất định phải lặn về tây, muội và huynh cũng không có con đường nào khác để đi. Số mệnh chính là như vậy, chúng ta cũng chỉ có thể như vậy mà thôi.” Tôi hít vào một hơi thật sâu, chậm rãi nói tiếp: “Nếu không như vậy, người phải chết không chỉ có huynh và muội. Ôn Thực Sơ chính là tấm gương tày liếp, chỉ vì lời đồn mà giờ đây y đã thành ra như vậy, muội quyết không thể để huynh cũng bị liên lụy được.”

    Y áy náy nói: “Xin lỗi, khi đó ta không thể tới giúp muội.”

    “Còn may là như thế, ngày đó nếu người bị tố cáo là huynh, muội chỉ e sẽ phát điên lên mất.” Hơi dừng một chút, tôi dịu dàng nói tiếp: “Cửu Vương gia vốn gần gũi với huynh, y tới giúp muội cũng chẳng khác nào huynh tới.” Tôi nhìn bóng dáng xanh biếc ở phía không xa, cố kìm nén cơn nghẹn ngào trong cổ họng, gượng nở nụ cười. “Hoán Bích vẫn luôn thích huynh, tình ý của muội ấy với huynh cũng không ít hơn muội, việc này ngay từ sớm muội đã biết rồi, huynh... chớ nên phụ lòng muội ấy.”

    Y nắm chặt lấy bàn tay tôi, cặp mắt sâu thẳm như bầu trời đêm vô tận, tình ý cuồn cuộn bên trong vượt qua mọi sự trở ngại không ngớt tràn vào lòng tôi. “Nàng biết rõ mà, trong lòng ta chỉ có mình nàng thôi.”

    Một làn gió mát thổi qua, cỏ cây rung rinh làm ánh trăng vỡ vụn, trái tim tôi cũng như vỡ vụn theo. Tôi khẽ lắc đầu. “Biết thì sao chứ? Kiếp này huynh lấy ngày hôm nay làm cột mốc, trước đây trong lòng huynh chỉ có muội, sau này hãy chỉ có Hoán Bích thôi. Muội ấy không phải nghĩa muội của muội mà là muội muội ruột thịt, do đó, huynh nhất định đừng đối xử tệ bạc với muội ấy.”

    Lúc này hình như đã là canh ba, đầu óc tôi mơ mơ màng màng, vô cùng buồn ngủ, nhưng cuộc ca múa thì vẫn tưng bừng, chỉ e tới khi trời sáng cũng còn chưa dứt. Tôi rút bàn tay mình ra khỏi lòng bàn tay y một cách khó khăn, sau đó bám vào hàng lan can mà chậm rãi quay trở lại. Giữa màn đêm lạnh, tôi lờ mờ có thể nhìn thấy những bông tường vi đang nở rộ dưới hàng lan can, cảm giác giá lạnh tột cùng theo những bông hoa không ngừng tràn tới, nhanh chóng quấn chặt lấy trái tim tôi.
     
  3. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 11: Ngó mặt cách lòng ngỡ uyên ương
    Rượu được ba tuần, Huyền Lăng dường như đã hơi say, bèn tựa người vào ghế gọi người lên ca múa. Mọi người trên đài lúc này thần sắc đều có vẻ uể oải, tiếng nhạc vừa nổi lên, những ánh mắt liền hờ hững liếc qua. Hồi ban ngày bọn họ đã xem cảnh cưỡi ngựa bắn cung tràn đầy khí thế rồi, giờ cảnh đàn ca nhảy múa mềm mại quả thực là càng thích hợp hơn. Các vũ cơ vận xiêm y diễm lệ, tha thướt nhảy múa giữa làn gió đêm dìu dịu, dưới ánh đèn lưu ly tỏa bóng mông lung, nhìn thực chẳng khác gì những bông hoa kiều diễm tột cùng.

    Xích Thược nghe xong một khúc liền gọi thêm điệu Thác Chi vũ. Hai nàng vũ cơ chậm rãi bước ra, mái tóc cả hai được búi lên cao vút, trên trán dán một miếng ngọc xanh biếc hình chim trĩ, vận áo đỏ tươi, phía dưới là chiếc váy trắng ngần thêu hình hoa cỏ màu xanh và vàng, bầu ngực trắng nõn lồ lộ, trên tay có khoác thêm khăn lụa mỏng. Theo tiếng nhạc vang lên, bọn họ ung dung thả bước, ống tay áo rộng không ngớt tung bay, thực là bắt mắt vô cùng.

    Xích Thược tỏ ra có chút cụt hứng, vứt đôi đũa bạc trong tay xuống, nói: “Từ khi vào cung đến nay, điệu múa đẹp nhất mà thần thiếp từng được xem chính là Kinh Hồng vũ của An Chiêu viện đêm đó, xem xong rồi mới thấy những điệu múa khác đều nhạt nhẽo cả.”

    Huyền Thanh đưa mắt liếc qua phía Xích Thược một chút, làm bộ vô tình nói: “Nương tử chưa từng được xem Thục phi nương nương múa điệu Kinh Hồng ư?”

    Tôi khẽ mỉm cười một tiếng. “Bọn ta chẳng qua là Đông Thi bắt chước chau mày[11], làm sao so sánh được với Thuần Nguyên Hoàng hậu năm xưa.”

    [11] Thời Xuân Thu, ở nước Việt có nàng Tây Thi, thân hình yểu điệu, môi hồng răng trắng, vô cùng xinh đẹp, nhưng do bị bệnh tim nên thường dùng tay ôm lấy ngực, mày thì chau lại. Dù vậy tư thế đó của nàng cũng rất dễ thương, làm rung động lòng người. Nhà bên có nàng Đông Thi xấu xí, thấy vậy liền bắt chước làm theo, người ta nhìn vào lại thấy càng xấu hơn. Câu này chỉ việc học đòi một cách vụng về, không biết tự lượng sức - ND.

    Xích Thược thản nhiên cười, nói: “Thần thiếp lúc nào cũng đến muộn một bước, thành ra không được xem Thục phi nương nương và Thuần Nguyên Hoàng hậu múa điệu Kinh Hồng, cũng không được xem cuộc thi cưỡi ngựa bắn cung chiều nay, nghe nói Hoàng thượng vừa mới giành được phần thắng.”

    Huyền Lăng mắt say lờ đờ, lẩm bẩm: “Những việc khác thì không xét tới, nhưng hồi chiều nay Nhiêu Nhi vừa cưỡi ngựa bắn cung, quả đúng là oai hùng hào sảng. Nếu nàng nhìn thấy rồi, nhất định sẽ cảm thấy rất thân thiết.”

    Thế là Xích Thược cầm chén rượu bước tới chúc mừng Ngọc Nhiêu. Hai chữ “thân thiết” đó của y bất giác làm tôi nảy sinh lòng nghi hoặc, thừa dịp Xích Thược lại gần, bèn khẽ nói: “Nương tử cưỡi ngựa quả là rất giỏi, nhưng một cung tần xuất thân cung nữ theo lẽ thường thì không thể có bản lĩnh như vậy mới đúng.” Tôi chăm chú nhìn nàng ta một chút, rất nhanh đã ngoảnh mặt đi, đưa mắt nhìn những bông thược dược đỏ tươi đang nở rộ bên Quan Võ đài. “Nghe nói Mộ Dung thế gia ngày trước rất trọng võ nghệ, ngay đến nữ tử cũng giỏi cưỡi ngựa bắn cung, nhớ năm xưa Hoa Phi chính là vì như thế nên mới được Hoàng thượng sủng ái rất mực. Bây giờ xem ra muội muội cũng có mấy phần dáng vẻ của Hoa Phi rồi đấy.”

    “Vậy ư?” Xích Thược dừng chén rượu bên môi, trong cặp mắt long lanh lóe lên một tia sắc lạnh. “Nương nương ngàn vạn lần chớ nên nói như vậy, Hoa Phi nương nương tuổi còn trẻ mà đã qua đời, tần thiếp còn muốn được bầu bạn với nương nương thêm vài năm nữa. Có thể tận mắt chiêm ngưỡng phong thái của nương nương, tần thiếp thực không đành lòng bỏ lỡ.” Dứt lời, nàng ta lại tha thướt trở về bên cạnh Huyền Lăng, uống rượu nói cười.

    Đêm dài đằng đẵng cứ thế lặng lẽ trôi đi.

    Huyền Thanh lúc này cũng đã hơi say, khẽ tựa mình vào ghế, ống tay áo rộng thêu hình vầng mây trắng buông thõng xuống một bên. Khóe miệng y vẫn thấp thoáng nụ cười, nhưng nụ cười ấy thật cô đơn và trống rỗng, hoàn toàn không phù hợp với dáng vẻ điềm đạm, ung dung của y thường ngày. Hoán Bích lần lượt đi rót rượu cho tất cả mọi người, trước bữa tiệc tối nay, muội ấy đã thay xiêm y, trên người là một chiếc áo ngắn màu xanh lam thêu hình hoa bách hợp cùng một chiếc váy màu vàng dài tới gót chân, khi đi lại, tà váy phía bên phải được xẻ ra một đoạn đung đưa nhè nhẹ, làm lộ ra mảng vải mềm màu xanh lục được lót ở phía trong, trông hệt như một cánh bèo dập dềnh trên sóng. Theo mỗi bước đi, cánh bèo ấy thoắt ẩn thoắt hiện phía sau tà váy của Hoán Bích, chẳng khác gì tâm tư thầm kín mà muội ấy vẫn kìm nén bấy lâu.

    Khi đi qua bên cạnh Huyền Thanh, thấy y đã hơi say, Hoán Bích đưa tay định đỡ y nhưng chắc là dùng sức không đủ, thân thể liền mất thăng bằng, bình rượu đang cầm trong tay lập tức nghiêng qua một bên, rượu trong bình bất ngờ trút thẳng lên vạt áo Huyền Thanh. Thứ rượu ấy vốn mang màu hổ phách, áo của Huyền Thanh thì lại trắng ngần, tạo thành một sự tương phản rất rõ. Huyền Thanh bị rượu đổ vào người thì lập tức tỉnh táo hơn mấy phần, thấy Hoán Bích lộ vẻ hoang mang liền vội vàng an ủi: “Không sao, chỉ là một chiếc áo mà thôi.”

    Lập tức có cung nhân chạy đi mang y phục sạch tới đứng một bên hầu hạ, y liền đứng dậy chuẩn bị vào trong thay, không ngờ lại vô ý đá phải một chiếc đệm mềm, đang trong cơn say nên bước chân càng thêm loạng choạng, một chiếc túi gấm bất giác rơi ra từ trước ngực y.

    Miệng chiếc túi gấm chỉ được thắt lại chứ không hề buộc chặt, mới vừa rơi xuống đất liền bị tuột ra. Một bức tranh cắt màu đỏ tươi từ trong túi gấm rơi ra, đêm về trên đài gió lớn, một cơn gió thổi lại cuốn bức tranh cắt đó lên, bay thẳng tới bên cạnh Huyền Lăng và Xích Thược. Vừa rồi Huyền Thanh đứng dậy gây ra động tĩnh khá lớn, Huyền Lăng sớm đã chú ý tới rồi, lúc này thấy có thứ gì đó bị gió thổi bay lại thì liền buột miệng hỏi: “Đó là gì vậy?”

    Không có ai biết rõ hơn tôi đó là thứ gì.

    Tôi thiếu chút nữa đã kinh hãi kêu lên thành tiếng, phải cố hết sức mới có thể kìm nén được.

    Bức tranh cắt! Đó chính là bức tranh cắt năm nào.

    Xích Thược cúi người xuống nhặt, bất giác mỉm cười, nói: “Bức tranh cắt tinh tế quá.”

    Huyền Thanh thấy bức tranh cắt bị gió thổi đi, đưa tay ra định chụp lấy thì đã không còn kịp nữa, mắt thấy nó rơi vào tay Xích Thược thì sắc mặt dần tái nhợt đi. Dưới ánh đèn lưu ly mờ mờ tỏ tỏ, chỉ thấy đôi mắt y lóe lên những tia lấp lánh, hệt như hai vì sao sáng nhất ở nơi chân trời. Tôi hoang mang đưa mắt nhìn y một chút, nếu không vì bờ má vẫn còn ửng hồng do uống rượu, chắc lúc này tôi đã bị sắc mặt nhợt nhạt không còn chút huyết sắc nào của mình bán đứng rồi.

    Khi bức tranh cắt được đưa tới cho Huyền Lăng, sắc mặt Huyền Thanh đã hoàn toàn bình tĩnh trở lại. Y chắp tay sau lưng, tôi gần như có thể nhìn thấy rõ hai bàn tay y đều nắm chặt đến nỗi trắng bệch, nhưng giọng nói thì vẫn hết sức điềm đạm, tự nhiên: “Hoàng huynh cũng thích mấy thứ đồ chơi này sao?”

    Huyền Lăng mỉm cười, trỏ tay vào y. “Đệ nhất định là đã lưu tình ở đâu đó nên mới giữ thứ này bên mình như thế rồi.”

    “Lại còn cất kĩ như vậy nữa.” Hồ Uẩn Dung khẽ nở nụ cười, chiếc bộ dao vàng hình cánh bướm cài trên búi tóc đung đưa nhè nhẹ, phản chiếu những tia sáng lấp lánh khiến người ta hơi lóa mắt. “Lục biểu ca nhất định là đã có người trong lòng rồi, còn không mau khai thực ra đi!”

    Xích Thược đứng bên cạnh Huyền Lăng chăm chú nhìn một lát, ánh mắt bỗng hơi trầm xuống, khi liếc qua phía tôi đã để lộ ra mấy tia sắc lẹm, đoạn quay lại, cười nói với Huyền Lăng: “Hình như thần thiếp uống say nên hoa mắt mất rồi, Hoàng thượng thử nhìn kĩ xem, bức tranh cắt này rõ ràng có mấy phần giống với Thục phi nương nương đấy.”

    “Rất giống sao?” Y chăm chú nhìn một lát rồi không kìm được tỏ vẻ nghi ngờ. “Quả đúng là giống thật.”

    Trên Quan Võ đài rộng rãi thoáng đãng, từng làn gió đêm mang theo hơi ẩm từ từ thổi lại khiến tôi cảm thấy hơi lạnh giá, rồi cơn lạnh chậm rãi ngấm vào trong tim phổi, cuối cùng ngay đến lục phủ ngũ tạng cũng như trở nên đông cứng, chừng như bất cứ lúc nào cũng có thể vỡ vụn ra.

    Tôi lạnh lùng đưa mắt nhìn bức tranh cắt đó, hờ hững nói: “Suốt một năm qua thần thiếp đã phải chịu đựng quá nhiều sự vu khống rồi, chỉ là một bức tranh cắt mà thôi, dựa vào đó có thể đoán chắc được là thần thiếp ư?” Tôi khẽ thở ra một hơi, thần sắc dần bình tĩnh trở lại, chăm chú nhìn Huyền Lăng, nói tiếp: “Lần trước có người vu cáo thần thiếp tằng tịu với Ôn thái y, lần này lại có người chuẩn bị vu cáo thần thiếp có gì đó với lục Vương gia nữa hay sao?”

    Huyền Lăng gượng cười một tiếng, thoáng lộ vẻ áy náy.

    “Hoàn Hoàn, nàng cả nghĩ rồi.”

    Tôi khẽ nói: “Chỉ mong là vậy.”

    Diệp Lan Y ngồi nghiêm trang trên ghế, cặp mắt mê ly chăm chú nhìn Huyền Thanh một hồi, một nét ưu thương thoang thoảng như làn nước chảy nhẹ qua trong mắt, dần biến thành mây khói lan tỏa ra giữa bầu trời đêm. Nàng ta khẽ hít một hơi, chậm rãi nói: “Bức tranh cắt này được cất kĩ bên người như vậy, nhất định là hình cắt của một người mà lòng thầm yêu dấu, nhưng lại chỉ có thể nhìn mà giữ mối tương tư.”

    Chu Bội tò mò hỏi: “Sao Tiểu nghi lại biết đó là một người chỉ có thể nhìn mà giữ mối tương tư.”

    Diệp Lan Y nở một nụ cười như có thể xuyên thấu lòng người. “Nếu ngày ngày đều có thể gặp nhau, việc gì còn phải trân trọng bức tranh cắt này như thế.” Đoạn nàng ta đưa mắt nhìn qua phía Huyền Thanh. “Vương gia nói xem có đúng thế không?” Huyền Thanh đáp lại nàng ta bằng vẻ mặt ngẩn ngơ và hụt hẫng. Diệp Lan Y mím môi khẽ cười. “Bức tranh cắt này quả thực khá giống Thục phi, nhưng Hoàng thượng không cảm thấy nó cũng rất giống với tam tiểu thư và Hoán Bích sao? Đặc biệt là cặp mắt kia kìa.”

    Ngọc Nhiêu kinh ngạc ngẩng lên, vừa định biện bạch thì chợt bắt gặp ánh mắt bình thản và không chút nghi ngờ của Huyền Phần, thần sắc lập tức buông lỏng, lặng im không nói gì nữa. Chu Bội cũng khẽ nở nụ cười. “Thần thiếp đã nói rồi mà, sao có thể là Thục phi nương nương được. Có lẽ đó là tam tiểu thư hoặc Bích cô nương cũng chưa biết chừng.”

    “Hoàng thượng xin hãy nhìn kĩ bức tranh cắt đó xem, Thục phi tính tình dịu dàng, hòa nhã, còn nữ tử trong tranh thì lại tinh nghịch, hoạt bát, hơn nữa vóc người cũng hơi đẫy đà, không giống với vẻ mảnh khảnh của Thục phi. Hoán Bích chỉ là một a hoàn tạm không xét tới, còn tam tiểu thư thì đang độ tuổi xuân tha thướt, yêu kiều, có câu rằng “yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu”, thần thiếp càng nhìn càng thấy giống tam tiểu thư đấy.” Hồ Uẩn Dung nói rồi đưa mắt liếc Ngọc Nhiêu, cười khẽ. “Tam tiểu thư, bản thân tiểu thư có biết việc này không? Lục biểu ca là đệ nhất phong lưu, tài tử của Đại Chu ta đấy, có biết bao nữ tử trong thiên hạ ngày đêm ái mộ huynh ấy mà chẳng được đáp lại kia kìa.” Nàng ta phe phẩy chiếc quạt tròn trong tay, ngẩng đầu nhìn trời, nói: “Chỉ còn hơn một tháng nữa là tới ngày Thất Tịch rồi, khi đó Ngưu Lang, Chức Nữ sẽ gặp lại nhau trên cầu Ô Thước, Hoàng thượng liệu có nên tác thành cho một đoạn giai thoại tuyệt vời không nhỉ?”

    Vẻ do dự của Huyền Lăng lộ ra hết sức rõ ràng. Tôi khẽ mím môi, hồi mới vào cung, tôi vẫn còn ngây thơ, hoạt bát, thân thể cũng hơi đẫy đà, quả thực khá khác với bây giờ, chỉ là không biết có thể dựa vào đó để tránh khỏi rắc rối lần này hay không.

    Huyền Phần cau mày hồi lâu rồi mới khẽ nói: “Tam tiểu thư với lục ca hình như mới gặp mặt lần đầu thôi thì phải.”

    Huyền Lăng mỉm cười điềm đạm. “Uẩn Dung, nàng đưa ra định luận vội vàng quá rồi đấy. Mép bức tranh này đã hơi nhạt màu, nhất định là được lão lục mang ra ngắm rất nhiều lần rồi. Nhiêu Nhi vào cung mới chỉ mấy tháng, trước đây lại chưa từng gặp mặt lão lục lần nào, không thể là muội ấy được.” Y như vô tình như hữu ý nhìn lướt qua khuôn mặt tôi, mang theo mấy tia dò hỏi. Tôi cố kìm nén tâm trạng đang xao động của mình, bình tĩnh nói: “Hoàng thượng nói rất phải, nhưng nếu muốn biết người trong tranh là ai thì phải hỏi lục Vương gia thôi. Mà chưa biết chừng nàng ta lại có họ hàng gì đó với thần thiếp ấy chứ, như thế thì thực là thân càng thêm thân rồi.”

    Một bóng người xanh biếc bất ngờ bước ra, rơm rớm nước mắt, quỳ xuống nói: “Hoàng thượng xin hãy tha tội cho nô tỳ, người trên bức tranh cắt kia đích thị là nô tỳ không sai.”

    “Hoán Bích, thật sự là ngươi sao?”

    Hoán Bích ngoảnh đầu lại nhìn Huyền Thanh, tình ý trong mắt không hề giấu giếm. “Chín năm trước nô tỳ đã tự tay đặt nó vào trong chiếc túi gấm này.” Muội ấy tỏ ra vừa vui mừng vừa buồn tủi. “Chín năm trước, Thục phi nương nương xảy thai trước cửa cung của Tích Hoa Phu nhân, Hoàng thượng và Hoàng hậu đều không ở trong cung, Thái hậu lại đang đổ bệnh, nô tỳ vừa khéo gặp được lục Vương gia, bèn nhờ ngài giúp đỡ, sau việc này nô tỳ đã tự mình tới Lũ Nguyệt Khai Vân quán cảm tạ.”

    Tôi làm bộ ngạc nhiên thốt lên: “Hoàng thượng, lần đó người đưa thần thiếp về cung từ trước cửa cung của Mộ Dung thị không phải là người ư?”

    Huyền Lăng cũng tỏ ra kinh ngạc. “Lẽ nào nàng vẫn luôn ngỡ là trẫm?” Ngay sau đó lại vui mừng nói: “Là trẫm không tốt, quên không kể việc này với nàng, vậy tức là Hoán Bích không phải là do nàng phái đi cảm tạ lão lục đúng không?”

    Tôi vén áo đứng dậy, trịnh trọng nói: “Đến bây giờ vẫn chưa cảm tạ lục Vương gia, ấy thực là lỗi của bản cung, mong Vương gia chớ trách.”
    Sắc mặt y vẫn bình tĩnh như thường. “Thục phi là ái phi của hoàng huynh, khi đó lại đang mang thai rồng, Thanh chỉ đành mạo phạm Tích Hoa Phu nhân thôi.” Lời của y như một mũi dùi đâm thẳng vào tim, tôi phải cố hết sức kìm nén mà cất lời cảm tạ thêm lần nữa.

    Hoán Bích khom người sát đất, nói: “Là nô tỳ không tốt, tự ý đi tìm Vương gia.”

    Huyền Lăng cười, nói: “Ngươi tận trung vì chủ như thế là điều nên làm, mau đứng dậy đi.”

    Hoán Bích nói: “Ngày đó nô tỳ tới Lũ Nguyệt Khai Vân quán, ngoài quán nở rất nhiều hoa hợp hoan, Vương gia thì đang luyện chữ. Nô tỳ thấy trên bàn của Vương gia có đặt một ít giấy màu, nhất thời nổi hứng bèn cắt thành mấy bông hoa dán cửa sổ tặng cho Vương gia coi như quà cảm tạ. Vương gia hỏi nô tỳ có biết cắt hình người không, nô tỳ bèn dựa theo bộ dạng của mình mà cắt ra một bức hình đưa cho Vương gia. Về sau có một lần nô tỳ gặp Vương gia, Vương gia hỏi nô tỳ thích loại hoa nào, nô tỳ bèn nói thích hoa đỗ nhược...” Giọng muội ấy lúc này nghe nhỏ như tiếng muỗi kêu. “Hoàng thượng có thể mở chiếc túi gấm đó ra xem bên trong có hoa đỗ nhược hay không.”

    Huyền Lăng y lời cầm lấy túi gấm mở ra xem thử, bất giác cả mừng. “Quả nhiên không sai, nếu đó không phải tranh cắt của ngươi thì sao ngươi có thể biết được trong túi đựng thứ gì.” Rồi y lại nhìn qua phía tôi. “Tâm tư của thị thế nào nàng có rõ không?”

    Tôi đang đầy lòng nghi hoặc không biết vì sao Hoán Bích lại biết trong túi gấm có đựng thứ gì, chợt lại nhớ tới việc tháng trước, Huyền Thanh đổ bệnh muội ấy từng đi chăm sóc mấy ngày, đã loáng thoáng hiểu ra, rồi lại nghe Huyền Lăng hỏi vậy thì vội cười, nói: “Thần thiếp thật ngốc nghếch quá, không ngờ lại bị nha đầu này giấu giếm suốt một thời gian dài như thế.”

    Hồ Uẩn Dung còn chưa cam tâm, đưa mắt liếc thấy bông hoa đỗ quyên Hoán Bích cài trên mái tóc, bèn nói: “Bản cung nhớ là ngươi ngày ngày đều cài một bông đỗ quyên trên mái tóc, cớ sao ngươi lại nói loài hoa mình thích là đỗ nhược chứ không phải đỗ quyên?”

    Hoán Bích đỏ mặt tía tai, ấp úng một lát rồi cuối cùng mới lí nhí đáp: “Vương gia từng nói là nô tỳ cài hoa đỗ quyên trông rất đẹp, do đó... do đó...”

    Muội ấy không nói tiếp nữa nhưng ý tứ thì ai cũng hiểu, ngay đến Huyền Thanh cũng không kìm được có chút xúc động. “Thực đã khổ cho nàng rồi.”

    Chu Bội dường như nhớ tới một việc, bèn đưa tay áo lên che miệng cười, nói: “Thần thiếp bỗng nhớ tới việc này, mấy tháng trước thần thiếp tới cung của Thục phi cứ luôn không thấy Hoán Bích đâu, nghe nói lục Vương gia đổ bệnh, là Hoán Bích cô nương đi chăm sóc. Thần thiếp khi đó còn nghi hoặc, bây giờ...” Nàng ta khẽ cười khúc khích, những người khác cũng không kìm được bật cười.

    Huyền Lăng đập quạt cười vang. “Chẳng trách ngày đó khi trẫm đùa với Thục phi là muốn phong ngươi làm quý nhân, ngươi lại sợ đến nỗi đánh rơi cả chiếc bát trong tay xuống đất, hỏi suốt một hồi lâu thì chỉ nói là đã có người trong lòng rồi, hóa ra người trong lòng ấy chính là lão lục.” Dừng một chút y lại vừa cười vừa nói tiếp: “Hoàn Hoàn, Hoàn Hoàn, không chỉ mình nàng hồ đồ, ngay đến trẫm cũng hồ đồ, bị bọn họ giấu giếm suốt một thời gian dài như thế. Chín năm rồi, chẳng trách lão lục ngay đến một trắc phi cũng không chịu nạp, hóa ra là còn có duyên cớ này ở bên trong.”

    Huyền Tuân cũng cười vui vẻ. “Lão lục của chúng ta khi xưa vốn là người tiêu sái nhất, bây giờ không ngờ cũng trở nên cà kê thế này. Chín năm? Chờ thêm chín năm nữa chắc Hoàng tử của Hoàng thượng cũng đã có con rồi ấy chứ, lẽ nào tới khi đó đệ còn không chịu nói ra ư?”

    Huyền Thanh cười gượng, nói: “Hoán Bích là a hoàn tùy giá của Thục phi nương nương, sao có thể rời khỏi Thục phi được.”

    Hoán Bích lúc này ngay đến cổ cũng đã đỏ bừng. “Nô tỳ thân phận thấp kém, tuyệt đối không dám với cao.” Dừng một chút muội ấy lại cất giọng dịu dàng nói tiếp: “Nghe nói trong biệt viện của Vương gia có trồng rất nhiều hoa mai màu xanh, nô tỳ bấy lâu nay vẫn không có duyên được thấy, chỉ cần sau này có dịp tới đó một phen là nô tỳ đã thỏa mãn lắm rồi.”

    Huyền Lăng cười, nói: “Hai người mà còn thế này thêm nữa, chỉ e sẽ thật sự phải đợi thêm chín năm như lời của đại ca đấy, khi đó đến hoàng tôn, trẫm cũng đã có rồi. Hai người cứ cái này không dám, cái kia không dám, vậy chỉ tổ làm khổ nhau mà thôi.” Đoạn y vẫy tay gọi Huyền Thanh lại. “Tới đây nào, hôm nay trẫm sẽ làm chủ ban Hoán Bích cho đệ luôn.”

    Hoán Bích vui mừng khôn xiết, thẹn thùng cúi gằm mặt xuống, lát sau lại đưa mắt qua nhìn Huyền Thanh chờ xem y có phản ứng thế nào. Huyền Thanh đang định mở lời thì Hoán Bích đột nhiên cúi gằm mặt, buồn bã nói: “Kỳ thực nô tỳ thân phận thấp kém, đâu có xứng hầu hạ Vương gia.”

    Nghe Hoán Bích nói vậy, Huyền Thanh bất giác có chút không đành lòng, Huyền Lăng cũng nói: “Nếu lão lục không chính miệng nói với ngươi, ngươi làm sao biết được trong biệt viện của y có trồng hoa mai màu xanh, mà ngươi còn tên là Hoán Bích nữa. Phủ Thanh Hà Vương trước giờ vốn thiếu một người quản lý việc nhà, ngươi đã ở bên cạnh Thục phi nhiều năm vẫn luôn cẩn thận, trẫm cũng có thể yên tâm được.”

    Vô số suy nghĩ cùng xuất hiện trong đầu tôi, có chấn động, có đắng chát, còn có một chút vui mừng, đến bản thân tôi cũng chẳng rõ suy nghĩ nào chiếm phần hơn. Tôi cố hết sức bình tĩnh suy nghĩ một chút, chậm rãi đứng dậy. “Nếu cứ thế này ban Hoán Bích cho Vương gia, sau khi muội ấy vào vương phủ rồi thân phận sẽ là thị tỳ, thị thiếp, cơ thiếp hay là thứ phi, trắc phi hoặc chính phi?”

    Hồ Uẩn Dung chen miệng vào: “Hoán Bích tuy là a hoàn tùy giá của Thục phi, thân phận đặc biệt nhưng xét cho cùng vẫn chỉ là một a hoàn. Đi hầu hạ Vương gia rồi, cho làm thị thiếp kỳ thực cũng đã là có phần nâng đỡ.”

    Tôi chỉnh lại y phục, trịnh trọng quỳ xuống. “Thần thiếp năm xưa rời cung tu hành, bên cạnh chỉ có Cận Tịch và Hoán Bích cùng chịu gió sương, thần thiếp từng tự nhủ với lòng là phải báo đáp bọn họ thật tốt, tìm cho bọn họ một tấm chồng như ý. Hiện giờ Cận Tịch gả cho Lý Trường cũng không tính là quá tệ, còn Hoán Bích thì từ nhỏ đã lớn lên cùng thần thiếp, chẳng khác nào tỷ muội, Hoán Bích đã có tình cảm với Vương gia như thế, thần thiếp thực không muốn muội ấy phải làm một thị thiếp không danh không phận. Thần thiếp nghĩ Vương gia đã chung tình với Hoán Bích suốt chín năm ròng như thế, chắc hẳn cũng không muốn bạc đãi muội ấy đâu.”

    Huyền Lăng mỉm cười, nói: “Việc này đơn giản thôi, cứ dựa theo tiền lệ của tú nữ mà ban cho lục Vương gia làm thứ phi là được rồi.” Tôi hơi mím môi, khẽ lắc đầu. Huyền Lăng ngạc nhiên hỏi: “Vậy ý nàng thế nào?”

    “Hoán Bích với thần thiếp tình như tỷ muội, nhị muội của thần thiếp lại vì nguyên nhân đặc biệt mà không chịu lấy chồng. Thần thiếp muốn nhận Hoán Bích làm nghĩa muội, ghi tên vào tộc phổ, để muội ấy được gả vào phủ Thanh Hà Vương làm chính phi với thân phận nhị tiểu thư của nhà họ Chân.”

    Mọi người không kìm được đưa mắt nhìn nhau, Xích Thược cười lạnh, nói: “Chuyện cười! Xưa nay cung nữ làm phi tần chỉ có thể tấn phong dần lên từng cấp một, hơn nữa còn không được phong hậu. Hoàng cung là như thế, vương phủ cũng không khác, tuyệt đối không thể để kẻ thị tỳ làm vương phi được, nhỡ truyền ra ngoài không chỉ làm mất mặt lục Vương gia, ngay đến Hoàng thượng cũng mất mặt theo vì có đệ muội là một cung nữ!”

    Hồ Uẩn Dung cũng hơi cau mày. “Thục phi tuy thương Hoán Bích nhưng cũng nên có chừng mực, sau này mệnh phụ vào cung triều kiến, lẽ nào Hoán Bích sẽ trở thành chính phi mà ngang vai ngang vế với thần thiếp ư?”

    Hoán Bích nắm chặt lấy ống tay áo của tôi, cất giọng khẩn cầu: “Nô tỳ biết là nương nương xót thương nô tỳ, nhưng nô tỳ quả thực không để ý tới danh phận, mong nương nương chớ nên bận lòng quá.”

    Tôi thở dài than: “Không phải bản cung muốn sinh chuyện thị phi, muội cần biết trên thế gian này chín người mười ý, nếu muội không danh không phận vào Vương phủ, sau này người khác ắt sẽ bàn luận linh tinh, nói dễ nghe thì là muội và Vương gia yêu nhau nhiều năm cuối cùng đã thành chính quả, nhưng nói không dễ nghe thì sẽ là hai người tư thông gian díu với nhau, ắt sẽ làm ảnh hưởng tới thanh danh của muội và Vương gia rất nhiều.”

    Huyền Lăng còn đang trầm ngâm chưa quyết thì chợt có người cất lời cự tuyệt: “Không!” Mọi người giật mình phát hiện chính Huyền Thanh là người vừa lên tiếng. Y lộ rõ vẻ kiên nghị, trầm giọng nói tiếp: “Xin thứ cho Thanh không thể cưới Hoán Bích làm chính phi được. Nhiều năm trước Thanh từng gặp một nữ tử, cùng nàng ấy tình đầu ý hợp, về sau tuy phải xa nhau ngàn dặm không thể kết thành phu thê nhưng tự nơi đáy lòng Thanh vẫn luôn coi nàng ấy là thê tử duy nhất của mình. Hoán Bích cô nương tuy rằng tốt nhưng Thanh tuyệt đối không thể cưới về làm chính phi được.” Đoạn y khom người hành lễ với tôi. “Mong Thục phi nương nương lượng thứ.”

    Hai mắt y phản chiếu lại ánh đèn đằng xa chiếu tới, hệt như có hai ngọn lửa đang cháy hừng hực bên trong, làm lòng tôi đau xót tột cùng. Tôi sao có thể không lượng thứ cho y chứ, chỉ là đời này kiếp này dù tôi có dốc hết sức lực toàn thân thì cũng chẳng thể nào tới gần y được nữa. Cái cảm giác gần ngay trước mắt mà như xa tận chân trời đó khiến tôi thiếu chút nữa thì không kìm được muốn bật khóc thành tiếng.

    Sau một hồi trầm lặng, tôi đưa tay chỉnh lại xiêm y, bình tĩnh nói: “Hoàng thượng hãy làm chủ đi, chỉ có điều xin đừng để Hoán Bích phải chịu ấm ức.” Hơi dừng một chút, tôi nói tiếp: “Lưu Chu mất sớm, bây giờ thần thiếp chỉ còn lại một mình Hoán Bích thôi.”

    Y khẽ gật đầu, lát sau rốt cuộc cũng nói: “Được rồi, vậy trẫm sẽ để Hoán Bích được gả cho Thanh Hà Vương làm trắc phi với thân phận nhị tiểu thư của nhà họ Chân.”

    Tôi khẽ thở ra một hơi, nơi đáy lòng thầm buồn bã, nhưng xét cho cùng được như thế này đã là rất tốt rồi.

    Mọi người cùng bước tới mời rượu chúc mừng, trong đó Huyền Phần chính là người nhiệt tình nhất. Dưới ánh đèn sáng trưng chiếu tới, khuôn mặt Huyền Phần lộ rõ vẻ mừng vui, vừa là vui thay cho Huyền Thanh rốt cuộc đã có người bầu bạn, đồng thời cũng là vui cho bản thân mình. Bên khóe môi y xuất hiện một nụ cười hiếm có, mặt đầy hào khí bừng bừng của người thiếu niên. Có lẽ tôi thật sự rất vui mừng, ai tới cũng không từ chối, uống hết chén này tới chén kia, mặt đầy nét tươi cười, trong cơn mơ màng dường như còn từng uống với Huyền Thanh vài chén rượu, cuối cùng ngay đến Huyền Lăng cũng nói: “Thục phi thực hiếm có khi nào cao hứng thế này.”

    Giọng nói của Hồ Uẩn Dung vang lên vẻ rất mông lung: “Tất nhiên là thế rồi, thị nữ được làm trắc phi, ấy là niềm vinh dự lớn đến thế nào chứ, đã thế Thục phi còn có thêm một người muội muội, Vương gia cũng trở thành muội phu luôn.”

    Giữa bầu trời thoáng đãng, vầng trăng lưỡi liềm vắt vẻo ngọn cây, một làn gió thổi tới làm hoa cỏ rung rinh nhè nhẹ, phía đằng xa, vầng trăng chừng như cũng rung rinh, chẳng biết lúc nào thì sẽ rơi xuống. Rốt cuộc vẫn là Hoán Bích tới đỡ tôi. “Tiểu thư say rồi, để nô tỳ đỡ người đi hóng gió một chút cho tỉnh rượu.”

    Mơ màng đưa mắt nhìn đi, tôi thấy mọi người đều đã uống không ít, ai cũng có vẻ ngà ngà say. Hoán Bích đỡ tôi xuống dưới đài, gió mát nhẹ nhàng thổi tới, tuy đang là đầu hạ nhưng cũng có mấy tia heo hắt, lạnh lẽo của ngày thu. Dường như là Huyền Thanh đi tới, rỉ tai Hoán Bích mấy câu, Hoán Bích vội lùi qua bên cạnh một bước, y đưa tay nắm lấy cánh tay tôi, nói: “Cẩn thận!”

    Dù cách một lớp vải mỏng nhưng tôi vẫn có thể cảm nhận được những đường vân hết sức quen thuộc trong lòng bàn tay y, chỉ là đôi tay ấy, con người ấy, sau này sẽ thuộc về Hoán Bích rồi. Lại một làn gió thổi tới, tôi bỗng có cảm giác buồn nôn, y liền đưa tay xoa lưng tôi, cất giọng buồn bã: “Nàng hẳn đang rất khó chịu, nhưng ta còn khó chịu hơn nàng.”

    Tôi đẩy y ra. “Hôm nay là ngày mừng của cả Vương gia và bản cung, ngày sau Vương gia chính là muội phu của bản cung rồi.”

    Y ngoảnh mặt đi, vẻ bi thương tựa như ngấm sâu vào tận xương tủy. “Nhất định phải như vậy ư?”

    Tôi đưa tay chỉ vầng trăng trên cao. “Huynh hãy nhìn xem, vầng trăng nhất định phải lặn về tây, muội và huynh cũng không có con đường nào khác để đi. Số mệnh chính là như vậy, chúng ta cũng chỉ có thể như vậy mà thôi.” Tôi hít vào một hơi thật sâu, chậm rãi nói tiếp: “Nếu không như vậy, người phải chết không chỉ có huynh và muội. Ôn Thực Sơ chính là tấm gương tày liếp, chỉ vì lời đồn mà giờ đây y đã thành ra như vậy, muội quyết không thể để huynh cũng bị liên lụy được.”

    Y áy náy nói: “Xin lỗi, khi đó ta không thể tới giúp muội.”

    “Còn may là như thế, ngày đó nếu người bị tố cáo là huynh, muội chỉ e sẽ phát điên lên mất.” Hơi dừng một chút, tôi dịu dàng nói tiếp: “Cửu Vương gia vốn gần gũi với huynh, y tới giúp muội cũng chẳng khác nào huynh tới.” Tôi nhìn bóng dáng xanh biếc ở phía không xa, cố kìm nén cơn nghẹn ngào trong cổ họng, gượng nở nụ cười. “Hoán Bích vẫn luôn thích huynh, tình ý của muội ấy với huynh cũng không ít hơn muội, việc này ngay từ sớm muội đã biết rồi, huynh... chớ nên phụ lòng muội ấy.”

    Y nắm chặt lấy bàn tay tôi, cặp mắt sâu thẳm như bầu trời đêm vô tận, tình ý cuồn cuộn bên trong vượt qua mọi sự trở ngại không ngớt tràn vào lòng tôi. “Nàng biết rõ mà, trong lòng ta chỉ có mình nàng thôi.”

    Một làn gió mát thổi qua, cỏ cây rung rinh làm ánh trăng vỡ vụn, trái tim tôi cũng như vỡ vụn theo. Tôi khẽ lắc đầu. “Biết thì sao chứ? Kiếp này huynh lấy ngày hôm nay làm cột mốc, trước đây trong lòng huynh chỉ có muội, sau này hãy chỉ có Hoán Bích thôi. Muội ấy không phải nghĩa muội của muội mà là muội muội ruột thịt, do đó, huynh nhất định đừng đối xử tệ bạc với muội ấy.”

    Lúc này hình như đã là canh ba, đầu óc tôi mơ mơ màng màng, vô cùng buồn ngủ, nhưng cuộc ca múa thì vẫn tưng bừng, chỉ e tới khi trời sáng cũng còn chưa dứt. Tôi rút bàn tay mình ra khỏi lòng bàn tay y một cách khó khăn, sau đó bám vào hàng lan can mà chậm rãi quay trở lại. Giữa màn đêm lạnh, tôi lờ mờ có thể nhìn thấy những bông tường vi đang nở rộ dưới hàng lan can, cảm giác giá lạnh tột cùng theo những bông hoa không ngừng tràn tới, nhanh chóng quấn chặt lấy trái tim tôi.
     
  4. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 12: Dâu mới mong mặc áo Nghê thường
    Ngày hôm sau về cung, tin tức Hoán Bích sắp được gả cho Thanh Hà Vương làm trắc phi rất nhanh đã lan truyền đi khắp, toàn lục cung chấn động. Các cung nữ hay tin đều ngưỡng mộ vô cùng, xưa nay thị nữ được ban cho thân vương tối đa chỉ trở thành cơ thiếp, chưa có ai được làm trắc phi như vậy bao giờ. Mọi người ngoài ngưỡng mộ Hoán Bích ra còn xôn xao bàn tán rằng Hoàng thượng thực sủng ái Thục phi quá đỗi, ngay đến một thị nữ của Thục phi cũng được xem trọng hơn hẳn người thường.

    Huyền Thanh nhiều năm qua vẫn luôn cô quạnh một mình, lần này biết tin y rốt cuộc đã chịu nạp phi, tuy chỉ là trắc phi nhưng Thái hậu cũng hạ lệnh cho phủ Nội vụ phải tổ chức thật tưng bừng. Trong khi phủ Nội vụ đang bận cuống cuồng chuẩn bị, một biến cố đã đột ngột xảy ra.

    Mấy năm trước, Thái hậu từng muốn chỉ hôn cho Huyền Thanh, hết sức vừa ý tiểu thư Vưu Tĩnh Nhàn của phủ Bái Quốc công. Trong việc này cũng có duyên cớ riêng, thứ nhất là hai bên khá môn đăng hộ đối, tiếp nữa Bái Quốc công lại không có bao nhiêu thực quyền, ngoài ra Vưu Tĩnh Nhàn còn từng gặp Huyền Thanh một lần từ nhỏ, bấy lâu nay vẫn luôn thầm thương trộm nhớ. Thế nhưng Huyền Thanh lại nhất quyết không đồng ý, vị Vưu tiểu thư kia thì một dạ si tình, không chịu lấy ai khác, dần dà đã trở thành một nữ tử lỡ thì.

    Hiện giờ, việc Huyền Thanh sắp cưới Hoán Bích đã lan truyền đi khắp, phủ Bái Quốc công cũng có nghe nói, Vưu Tĩnh Nhàn sau khi hay tin không ngờ lại vì thế mà đổ bệnh, tột độ thương tâm. Bái Quốc công vì thương con gái mà bất chấp thể diện, liên tục dâng ba đạo tấu sớ lên xin Thái hậu và Hoàng thượng hãy thương cho một dạ tình si của con gái, tình nguyện để con gái làm thiếp để được ở bên hầu hạ Thanh Hà Vương, như thế bản thân mới không đến nỗi già rồi mà còn mất đi ái nữ.

    Tới lúc này sự việc liền trở nên có chút nan giải. Bái Quốc công là nguyên lão hai triều, từng góp sức không ít trong việc Huyền Lăng kế vị, bây giờ trong tay tuy không còn thực quyền nhưng cũng là bậc công hầu hạng nhất, địa vị hết sức tôn quý. Lần này ông ta đã hạ mình hết mức, lại tỏ rõ lòng thương yêu con gái, ngay đến Thái hậu cũng không khỏi có chút xúc động.

    Hôm ấy Thái hậu triệu Hoán Bích tới xem mặt mũi thế nào, cũng không có gì là không vừa ý, thấy tôi và Huyền Lăng tới rồi thì không kìm được nhắc tới chuyện này, sau đó bèn quay sang nói với Hoán Bích: “Ngươi đã có tình cảm với Vương gia từ lâu, ai gia vốn cũng không tiện mở lời, có điều Vưu tiểu thư là người mà ai gia ngày xưa từng nhìn trúng, lại vì lục Vương gia mà lỡ dở việc cưới xin, sau này chắc cũng chẳng thể gả cho ai khác được.” Hơi dừng một chút, bà ta lại nói tiếp: “Với thân phận của nhà họ Vưu, con gái của họ sao có thể làm thiếp được, năm xưa ai gia và Hoàng thượng đều có ý gả nha đầu đó vào phủ Thanh Hà Vương làm chính phi.”

    Huyền Lăng đưa mắt liếc tôi, cười trừ, nói với Thái hậu: “Tự bản thân Bái Quốc công cũng đã nói là tình nguyện để con gái mình làm thiếp thất mà, huống chi người lão lục thích là Hoán Bích, ngôi chính phi này... chỉ e lão lục không chịu đâu.”

    Thái hậu thở dài than: “Ai gia cũng đâu đã hồ đồ, làm gì chẳng biết điều này. Vốn dĩ ngươi và lục Vương gia phải lòng nhau đã lâu, tự dưng có người khác chen vào đã không vui rồi, huống hồ còn phải để người đó làm chính phi. Nhưng nếu không đồng ý, vậy thực là làm mất mặt phủ Bái Quốc công quá, người ta đã hạ mình tới mức đó để cầu xin, xét cho cùng cũng cần xót thương sự si tình của Tĩnh Nhàn một chút. Ai gia suy đi nghĩ lại, chỉ có thể để ngươi và Tĩnh Nhàn ngồi ngang hàng với nhau, cùng làm trắc phi, như thế cũng không tính là ấm ức cho ngươi quá.” Thái hậu đưa mắt liếc qua phía Hoán Bích. “Bây giờ ai gia chỉ còn chờ xem ý của ngươi thôi, nếu ngươi không đồng ý, sau này ba người sống với nhau ngẩng đầu không gặp thì cúi đầu cũng gặp, thực là khó chịu vô cùng.”

    Hoán Bích đưa mắt nhìn tôi, lại cúi đầu cắn môi suy nghĩ thêm một lát, cuối cùng mới khẽ cười. “Vưu tiểu thư cũng ôm một dạ tình si như nô tỳ, Phật Tổ còn xót thương tính mạng con người nơi nhân gian, nô tỳ sao có thể trơ mắt nhìn mà không đồng ý được. Thái hậu cho phép nô tỳ được ngồi ngang hàng với Vưu tiểu thư đã là đặc biệt khai ân rồi, nô tỳ sau này nhất định sẽ chung sống hòa hợp với Vưu tiểu thư, không để lục Vương gia phải phiền lòng.”

    Thái hậu quan sát Hoán Bích một chút rồi nở nụ cười tươi. “Đức hạnh chính là điều quan trọng nhất ở một nữ tử, ngươi có thể rộng lượng như vậy ai gia cũng yên tâm rồi.”

    Hoán Bích mím chặt hai bờ môi, không nói gì thêm.

    Phát sinh biến cố như vậy Huyền Thanh đương nhiên rất không vừa ý, thế nhưng Huyền Lăng đã nhờ Kỳ Sơn Vương đích thân dẫn y đi thăm Vưu Tĩnh Nhàn, nhìn thấy tình trạng của nàng ta rồi, y cũng không khỏi có chút xúc động. Cuối cùng, ngay tới Huyền Lăng cũng khuyên: “Nếu đệ thật sự không thích nàng ta thì cứ coi như nuôi nàng ta trong nhà là được, việc gì phải cứng nhắc quá mà làm nàng ta uổng mạng. Nếu Bái Quốc công vì việc này mà lòng sinh oán, sau này triều chính cũng chẳng được yên!” Những lẽ hơn thiệt đều được nói hết ra, cuối cùng Huyền Thanh đành đồng ý nạp thêm Vưu Tĩnh Nhàn làm trắc phi, nhưng kể từ đó y càng ngày càng tiều tụy, lúc nào cũng có vẻ buồn bực không vui.

    Ít lâu sau, Huyền Thanh dâng chỉ xin phép suốt đời không cưới thêm ai khác, lại chỉ định Hoán Bích sau khi vào phủ sẽ chủ trì việc nhà, do đó lễ nạp phi lại càng thêm phần long trọng. Lời này tuy cũng có ý nhắc đến Vưu Tĩnh Nhàn nhưng mọi người vừa nghe xong đều biết Huyền Thanh và Hoán Bích tình đầu ý hợp, còn Vưu Tĩnh Nhàn thì chỉ là ở bên cạnh mà thôi.

    Nghi lễ nạp phi của thân vương vốn đã rườm rà, huống chi việc nạp phi lần này còn được tổ chức long trọng hơn bình thường, có đủ cả sáu lễ nạp thái, vấn danh, nạp cát, nạp trưng, thỉnh kỳ, nghênh thân. Tôi cố giữ lòng mình bình lặng để giúp Hoán Bích chuẩn bị ổn thỏa mọi việc, chỉ là nghĩ đến nghi thức vấn danh thì không khỏi có chút do dự. Mẹ ruột của Hoán Bích vốn là nữ tử Bãi Di, phụ thân bà ta sau khi tới Đại Chu làm quan được mấy năm thì vướng phải một vụ án mưu phản mà trở thành tội thần, Long Khánh Đế từng hạ chỉ không cho phép nạp gia quyến của kẻ tội thần phản nghịch làm thê thiếp, do đó thân phận của mẹ ruột Hoán Bích không thể công khai được. Hoán Bích khi báo với phủ Nội vụ để ghi ngọc điệp đã thoái thác rằng mình chỉ nhớ tên mẫu thân, những việc khác vì mẫu thân mất sớm nên đều không nhớ được, nhờ vậy mới tránh khỏi rắc rối. Vì Hoán Bích chỉ nhỏ hơn tôi một tuổi, lại lớn tuổi hơn Ngọc Diêu, do đó được xếp làm con gái thứ hai của nhà họ Chân. Tôi viết một bức thư mời cha mẹ vào kinh để chủ trì nghi lễ, lại viết riêng một bức thư khác kể tỉ mỉ với cha về việc đã ghi tên Hoán Bích vào tộc phổ, đưa bài vị mẹ ruột của muội ấy vào từ đường. Dựa theo bối phận của Hoán Bích, tôi lại đưa ra mấy cái tên Ngọc Như, Ngọc San, Ngọc Kiều, Ngọc Tình, Ngọc Vũ để muội ấy chọn, Hoán Bích không thích chữ “Như” lắm vì nhắc tới xuất thân như phu nhân[12] của mẹ mình, nhưng lại khá vừa ý với chữ “San” vì có ý “san san lai trì, hậu giả hữu phúc[13]”. Nào ngờ sau khi báo lên bộ Lễ thì Thượng thư bộ Lễ lại nói rằng nghĩa nữ dù sao cũng không phải con cái trong nhà, trong ngoài có sự khác biệt, nên chỉ có thể đặt tên theo hàng chữ “Ngọc” thôi. Tôi nói chuyện này với Hoán Bích, lại nghĩ đến việc muội ấy phải ẩn giấu thân phận nhiều năm, bèn đề nghị dùng hai chữ “Ngọc Ẩn” làm tên. Hoán Bích tuy vì thế mà hơi buồn nhưng dù sao cũng sắp đạt thành tâm nguyện nhiều năm, lại được Huyền Thanh đối đãi trọng hậu, do đó cũng không có ý kiến gì nhiều. Vì việc có chút cập rập nên tôi đành tặng Ngọc Ẩn những thứ đồ cưới mà năm xưa đã chuẩn bị cho Ngọc Diêu và Ngọc Nhiêu, lại mời Lữ Chiêu dung làm người chủ hôn. Phân Nhi sau khi lành vết thương được cho theo Ngọc Ẩn vào vương phủ làm quản sự, rồi tôi lại chọn từ phủ Nội vụ ra sáu cung nữ thông minh, lanh lợi làm a hoàn tùy giá, tất thảy đều theo quy cách của một tiểu thư khuê các, tuyệt đối không để Ngọc Ẩn xưa nay vốn hiếu thắng phải cảm thấy mình thua kém về thân phận trước tiểu thư của phủ Bái Quốc công. Như vậy mọi việc coi như đã ổn thỏa, chỉ còn đợi cha mẹ tôi về kinh là tới ngày mùng Bốn tháng Sáu, Ngọc Ẩn có thể xuất giá được rồi.

    [12] Chỉ vợ lẽ, tương đương với thiếp - ND.

    [13] Thong dong tới trễ, người đến sau có phúc - ND.

    Mảnh trăng lưỡi liềm treo vắt vẻo trên cao, mới đó mà giờ đã là mùng Ba tháng Sáu rồi, cha mẹ tôi về kinh cũng đã được bốn hôm. Sau nhiều năm xa cách, cả cha và mẹ giờ đây đều đã có thêm rất nhiều tóc bạc, một hồi ôm nhau khóc lóc chẳng thể nào xóa bỏ nỗi khổ chia ly phải chịu đựng suốt bao năm, mà căn bệnh của ca ca lại càng khiến hai người thương tâm tột độ. May mà cha mẹ vẫn còn khỏe mạnh, thân thể ca ca cũng đang có những chuyển biến tốt, thế nên tôi mới được an ủi phần nào. Phủ đệ cũ của nhà họ Chân đã được Huyền Lăng cho người sửa sang lại, đến khi xong xuôi, cha mẹ tôi sẽ có thể tới đó ở tạm một thời gian, chờ hôn lễ của Hoán Bích kết thúc thì sẽ lại quay về Ba Thục.

    Cha tôi nước mắt chan hòa, xúc động nói: “Chịu đựng suốt bao năm rốt cuộc cũng chờ được tới ngày này, năm xưa gia đình lụn bại, cha chỉ sợ làm liên lụy tới con thôi.”

    Tôi vội nói: “Đã là người một nhà còn nói cái gì mà liên lụy với không liên lụy chứ, bây giờ không phải ngay đến Ngọc Ẩn cũng đã tìm được một tấm chồng tốt rồi đó sao?”

    Cha nhìn tôi, nói: “Ngọc Ẩn có được một chốn về như vậy, Miên Miên ở dưới suối vàng cũng có thể nhắm mắt được rồi.”

    Tôi cố nén nước mắt, gật đầu nói: “Tuy chỉ là trắc phi nhưng muội ấy thật lòng thật dạ thích Vương gia, dù gì cũng coi như là đạt thành tâm nguyện.”

    Cha nói: “May mà có con bỏ công bỏ sức ra giúp nó. Ta là người làm cha mà lại không thể cho nó và Miên Miên danh phận gì, đến cuối cùng vẫn phải nhờ đến con.”

    “Ngọc Ẩn dù sao cũng là muội muội của con, muội ấy phải làm nô tỳ bao nhiêu năm như thế, lòng con cũng chẳng dễ chịu gì.” Tôi đưa tay lên lau nước mắt. “Cha mẹ cứ tạm thời ở lại nhà họ Thẩm, có điều đây dù sao cũng không phải kế lâu dài, chờ Chân phủ được tu sửa xong xuôi, cha mẹ hãy đón ca ca về đó để tiện chăm sóc.”

    Cha bất giác ngẩn ra, cười gượng, nói: “Hoàng thượng cho phép ta và mẹ con quay về tham dự lễ thành thân của Ngọc Ẩn đã là đặc biệt khai ân, đâu thể nào ở lại kinh sư lâu dài được. Cha thấy con và các cháu ngoại đều vẫn khỏe là đã vui lắm rồi, không còn điều mong cầu gì hơn nữa.”

    Trong mắt tôi lóe lên một tia sáng rực. “Cha mẹ đã trở về đây rồi, con quyết không để hai người phải quay lại vùng đất khỉ ho cò gáy đó nữa đâu. Tranh thủ lần này con phải tìm cách xin Hoàng thượng điều tra lại triệt để chuyện năm xưa, cha thấy trong những điều mà nhà họ Quản tố cáo có chỗ nào đáng nghi thì xin hãy viết ra toàn bộ, con sẽ nhờ người đi tra xét một phen.” Tôi nắm lấy bàn tay cha. “Mối oan khuất năm xưa gia đình chúng ta chịu tới bây giờ là đã đủ lắm rồi.”

    Đêm ấy trăng vừa mới mọc, tôi liền mang đàn ra gảy, trong lòng tâm sự nặng mang, còn chưa ra tiếng nhạc thì dây đàn đã làm lòng tôi rối loạn. Trường tương tư giờ đây vẫn đang ở kề bên, nhưng người được ở bên y thì vĩnh viễn không phải là tôi nữa. Giống hệt như một câu chuyện cười trào phúng nhất, tương tư mà chẳng được ở bên nhau, rồi tôi còn phải trơ mắt nhìn muội muội của mình trở thành nữ tử có thể quang minh chính đại đứng cạnh y suốt đời suốt kiếp.

    Vậy thì, xin hãy cho tôi đàn thêm một khúc để dứt mối tương tư, xóa tan những niềm hy vọng hão huyền.

    Nín thở suốt một hồi lâu rồi tôi mới lại run rẩy đặt ngón tay lên những sợi dây đàn, trái tim như bị phủ dày sương tuyết lạnh băng. Mười ngón tay cùng nhẹ lướt, tiếng nhạc buồn thương như tỏ rõ lòng người, ngay đến nỗi cô đơn cũng phải bịt tai lại không đành lòng nghe. Cuối cùng dây đàn bất ngờ đứt đoạn, khúc nhạc kết thúc bằng một âm thanh hết sức chói tai.

    Vầng trăng khuyết từng chút lên cao, tựa như chiếu vào Nhu Nghi điện còn chưa thắp đèn vô số bông hoa lê trắng ngần lạnh giá.

    Vốn dĩ trong lòng vẫn còn một chút hy vọng nhỏ nhoi, dù rằng tôi đã là sủng phi bên cạnh huynh trưởng của y rồi, dù rằng tôi đã quen đắm mình ở nơi đáy biển ngập chìm trong tăm tối, nhưng tôi vẫn luôn hy vọng, hy vọng rằng có một ngày mình có thể trồi lên mặt biển hít thở tự do.

    Nhưng giờ đây, tôi đã biết rõ đó chỉ là mong ước hão huyền, vĩnh viễn không thể nào trở thành hiện thực. Bởi vì, y đã sắp trở thành muội phu của tôi rồi. Số phận của tôi và y đã được ông trời định sẵn là như vậy.

    Hai tiếng gõ cửa “cộc cộc” vang lên phá tan dòng suy nghĩ của tôi, Phân Nhi đứng ngoài bẩm báo: “Thục phi nương nương, nhị tiểu thư đến đây bái biệt nương nương.”

    Tôi miễn cưỡng lấy lại chút tinh thần, sai Cận Tịch đi thắp đèn mở cửa.

    Ngọc Ẩn mặc bộ hôn phục màu đỏ tươi trông vô cùng bắt mắt, lại kết hợp với khuôn mặt nửa vui mừng nửa e thẹn, vừa bước vào đã giống như một tia chớp soi sáng toàn bộ Nhu Nghi điện. Vì là trắc phi nên muội ấy không thể mặc đồ màu đỏ sậm như chính phi, nhưng nhìn vẫn vô cùng sặc sỡ và bắt mắt. Trên chiếc áo gấm có hai ống tay áo rộng thêu hình mãng xà bằng chỉ vàng ở chính giữa, bên rìa thì được tô điểm bằng hoa văn hình uyên ương và quả lựu, những chiếc cúc áo đều được làm bằng vàng ròng nạm hồng ngọc lấp lánh, ngoài ra trên tay còn khoác thêm một chiếc khăn mỏng màu xanh lam, hình thêu con chim công bên trên đó nhìn uyển chuyển, sống động như thật, chừng như bất cứ lúc nào cũng có thể nhảy ra ngoài; chiếc váy phía dưới thì trải dài trên mặt đất một đoạn chừng ba thước, bên trên thêu hoa văn Bách tử bách phúc cùng hình chim hạc ngậm cành vàng, vạt váy lại đính đầy những viên ngọc ngũ sắc nhỏ li ti, khi đi lại phát ra những tiếng cọ sát loạt soạt nhè nhẹ.

    Ngọc Ẩn quỳ xuống hành lễ: “Chân Ngọc Ẩn bái biệt Thục phi nương nương.”

    Tôi vội sai Cận Tịch: “Mau đỡ nhị tiểu thư đứng lên đi.” Rồi lại cất tiếng khen tự đáy lòng: “Đẹp lắm, rất đẹp!”Ngọc Ẩn thẹn thùng nói: “Đa tạ trưởng tỷ đã an bài ổn thỏa mọi việc cho muội.” Sau đó liền đoan trang ngồi xuống ghế, khí độ của một nữ tử sắp vào làm chủ nhân của vương phủ đã thấp thoáng lộ ra. Cửa điện lúc này đang mở toang, nhìn ra phía ngoài chỉ thấy màn đêm vẫn như thường, vì chào đón việc mừng mà trong Tử Áo Thành, nơi nơi đều thắp đèn kết hoa, nhìn từ xa cứ như là những vì sao đầy trời đều đã rơi xuống nhân gian vậy, náo nhiệt vô cùng, nhưng cũng vì thế mà làm vầng trăng toát ra một nét cô quạnh khó có thể dùng lời miêu tả.

    Tôi chậm rãi nói: “Lần này đi rồi muội sẽ trở thành chủ mẫu của một phủ, Vương gia không có chính phi, chỉ duy có Vưu Tĩnh Nhàn là ngang vai với muội, cô ta đang mang bệnh, lại xuất thân khuê các, tính tình còn chưa rõ thế nào, cũng không biết có dễ chung sống hay không, phàm việc gì cũng nên nhẫn nhịn một chút, đừng hung hăng đối đầu với cô ta, cứ bình an sống qua ngày là được rồi. May mà Vương gia chỉ thương xót cô ta, lại bị Hoàng thượng nửa bức ép nửa khuyên nhủ, cho nên muội cũng không cần lo lắng quá nhiều. Vương gia rất xem trọng muội, nói mọi việc trong Vương phủ đều giao cho muội quản lý, sau này nhớ phải thưởng phạt phân minh, việc gì cũng làm cho rõ ràng. Muội bây giờ đã là nhị tiểu thư của Chân phủ, chớ nên tự xem nhẹ mình, càng đừng nên cảm thấy mình có chỗ nào thua kém Vưu thị.”

    Ngọc Ẩn lắng nghe rất kĩ, hồi lâu sau mới chần chừ nhìn lướt qua khuôn mặt tôi, khẽ nói: “Trưởng tỷ, xin lỗi.”

    Tôi mỉm cười điềm đạm. “Sao tự dưng lại nói lời khách sáo như thế làm gì? Muội xuất giá rồi cha mẹ mới có thể về kinh, mà sau này việc làm rạng danh nhà họ Chân cũng có một phần trách nhiệm của muội nữa đấy.”

    Ngọc Ẩn chậm rãi ngước mắt lên, đôi hàng lông mi rung rinh chớp động, cặp mắt như mờ mịt phủ sương. “Trưởng tỷ, đây vốn phải là vị trí của tỷ, là muội đã chiếm mất nó.”

    Tôi đứng dậy khoác lên mình một chiếc áo mỏng màu hồng thêu hình chim loan, ôn tồn nói: “Ta bây giờ là Thục phi của Hoàng thượng, muội đâu có chiếm vị trí của ta. Ngày mai muội sẽ trở thành tân nương của lục Vương gia rồi, nên vui mừng mới phải, đừng suy nghĩ nhiều quá làm gì.”

    “Trưởng tỷ...” Ngọc Ẩn mấy lần chực khóc, đưa bàn tay ra nắm lấy tay tôi. “Muội biết tỷ bây giờ đang rất khó chịu.”

    “Muội muội ngốc.” Tôi đặt tay lên vai muội ấy, gượng nở một nụ cười vui vẻ. “Ta đã nói rồi, bắt đầu từ ngày trở lại chốn cung đình này, ta đã không còn trái tim nữa, cho nên ta không khó chịu gì cả.” Tôi giúp Ngọc Ẩn lau nước mắt, cười, nói tiếp: “Tân nương tử phải vui vẻ, phấn chấn mới đúng chứ, đừng nên khóc lóc thế này!”

    Muội ấy ngẩng đầu lên, do dự một chút rồi mới khẽ hỏi: “Trưởng tỷ, tỷ có từng hối hận không? Năm đó nếu tỷ chịu đợi thêm vài tháng, vậy là Vương gia sẽ trở về, như thế người được gả cho Vương gia hôm nay cũng sẽ không phải là muội nữa.”

    Dưới màn đêm mờ mịt, những làn gió nhẹ thổi qua hồ sen, mang hương sen thoang thoảng bay vào trong điện. “Hối hận ư? Thường Nga hối trộm thuốc tiên, trời xanh biển biếc đêm đêm tỏ lòng[14]. Ta không phải Thường Nga, không có gì để hối hận cả. Đường đi là do bản thân tự chọn, căn bản không có dư địa để quay đầu. Ta không thể nhìn thấy việc sau này, chỉ có thể quan tâm tới những người trước mắt, việc trước mắt, hối hận chẳng có tác dụng gì, chỉ làm ảnh hưởng đến tâm trạng của bản thân mà thôi. Hơn nữa, để sống được trong chốn cung cấm này thực chẳng dễ dàng gì, nên ta cũng chẳng có thời gian và tâm tư để mà hối hận.” Tôi thấp giọng trả lời, sau đó bèn chăm chú nhìn muội ấy. “Ngọc Ẩn, con đường sau này là do muội hôm nay tự chọn, ta cũng hy vọng muội có thể đi tiếp mà không quay đầu, vĩnh viễn không bao giờ hối hận.”

    [14] Trích Thường Nga, Lý Thương Ẩn. Dịch thơ: Trần Trọng San. Nguyên văn Hán Việt: Thường Nga ứng hối thâu linh dược, bích hải thanh thiên dạ dạ tâm. Thường Nga ở đây chính là chỉ Hằng Nga, người Trung Quốc vì kỵ húy vua Hán Văn Đế Lưu Hằng nên dùng lối gọi này - ND.

    Ngọc Ẩn khẽ gật đầu, khuôn mặt vì nỗi thấp thỏm bất an mà thoáng lộ ra mấy nét bi thương. “Có lẽ Vương gia không thích như vậy đâu.”

    “Muội đạt thành tâm nguyện nhiều năm, Vương gia thì có một nữ tử thật lòng yêu thích y chăm sóc, còn ta cũng hoàn thành lời hứa với muội năm xưa là giúp muội tìm được một tấm chồng tốt, ngoài ra những mối nghi hoặc sau khi bức tranh cắt kia lộ ra ngoài cũng được dẹp bỏ, thêm nữa trong người muội và Vương gia đều có chảy dòng máu của người Bãi Di, cho nên đây chính là kết cục tốt nhất.” Hơi dừng một chút, tôi dịu dàng nói tiếp: “Nếu y thật sự cả đời không cưới hỏi, đối với bất kỳ ai mà nói cũng đều không có chỗ nào tốt cả.”

    Ngọc Ẩn gật đầu thật mạnh. “Muội biết.”

    Ánh trăng dìu dịu như dòng nước chảy vào trong điện, bộ đồ màu đỏ đượm nét vui tươi cũng như ánh lên những tia sáng màu xanh rất mông lung mịt mờ, tựa như đang nằm mơ một giấc mơ được nửa chừng thì bỗng giật mình thức giấc, gió mát thổi hiu hiu, tà váy dài bay phất phơ nhè nhẹ, Ngọc Ẩn nắm chặt lấy bàn tay tôi, khẽ hỏi: “Trưởng tỷ, năm xưa muội từng làm sai rất nhiều chuyện, tỷ không trách muội chứ?” “Tất nhiên là không rồi.” Tôi mỉm cười nhìn muội ấy, tình máu mủ nơi đáy lòng không ngớt trào dâng. “Muội là muội muội ruột thịt của ta, vậy mà bao năm nay lại phải ẩn giấu thân phận làm nô tỳ như thế, là ta và cha có lỗi với muội.”

    Ngọc Ẩn lắc đầu. “Muội không dám nghĩ như vậy, kỳ thực... kỳ thực những lúc không có ai ở bên cạnh, cha đối xử với muội rất tốt, mẹ cả cũng chưa bạc đãi muội bao giờ.” Lắc đầu thật mạnh thêm cái nữa, Ngọc Ẩn lộ vẻ bất an. “Trưởng tỷ, có thể bầu bạn bên cạnh Vương gia, muội rất vui nhưng cũng rất sợ. Muội không sợ Vưu Tĩnh Nhàn, chỉ sợ là mình không làm nổi trắc phi. Muội sợ y sẽ ghét muội...” Muội ấy lay nhẹ cánh tay tôi. “Trưởng tỷ, kỳ thực trong lòng Vương gia chỉ có tỷ thôi, muội không biết mình nên làm trắc phi thế nào cho phải!”

    Bóng cây hỗn loạn in lên cửa sổ, tựa như những mảng mực màu đen tung tóe ngổn ngang. Phía đằng xa có loài côn trùng không rõ tên gọi không ngừng kêu lên những tiếng “kẹc kẹc”, âm thanh đó vừa nhỏ lại vừa dày đặc, khiến bầu không khí có vẻ náo nhiệt lên mấy phần, tựa như có cơn mưa nhỏ, lại như có vô số con tằm đang ngấu nghiến cắn xé trái tim ai.

    “Ta không biết.” Giọng nói của tôi nghe lạnh giá tựa nước sương đêm. “Muội muốn gì tự bản thân muội là người rõ nhất, nếu chỉ là được ở bên cạnh y, vậy thì hãy lặng lẽ đi theo bên cạnh y là được rồi; còn nếu muội muốn có được trái tim y, vậy thì hãy cố hết sức mà giành giật lấy. Bất kể lựa chọn thế nào muội cũng đều có thời gian là cả cuộc đời để thực hiện. Đối với muội mà nói, ta đã là người ngoài cuộc, cặp phu thê trong phủ Thanh Hà Vương là muội và y, do đó làm thế nào đều là ở muội.”

    Ngọc Ẩn cúi đầu trầm tư, khuôn mặt sau cơn vui buồn toát ra một vẻ thuần khiết khó mà dùng lời miêu tả. Hồi lâu sau, trong mắt muội ấy bừng lên những tia thần thái vô cùng kiên nghị. “Trưởng tỷ, muội sẽ dốc hết sức mình đối xử thật tốt với Vương gia, muội cũng sẽ hiếu thảo với thái phi nữa.”

    Ngọc Ẩn không nhắc tới Vưu Tĩnh Nhàn nhưng hiển nhiên ai cũng rõ, muội ấy không ưa gì Vưu Tĩnh Nhàn, bởi nàng ta đột nhiên chen ngang vào cuộc sống của muội ấy trong phủ Thanh Hà Vương sau này. Thế nhưng trước mặt Thái hậu, Ngọc Ẩn ngay cả năng lực phản bác cũng không có, bởi một khi phản bác, muội ấy sẽ vì “kém bề đức hạnh” mà mất đi niềm vui lớn lao không dễ gì có được này.

    Do đó, muội ấy phải nhịn, phải chấp nhận sống chung với người khác.

    Huyền Thanh, tôi không biết y sẽ chung sống với Ngọc Ẩn và Vưu Tĩnh Nhàn như thế nào, một người vốn chỉ mong tìm được một nữ tử tâm đầu ý hợp như y không ngờ lại đột nhiên có hai người thiếp, đó là một sự trào phúng nực cười biết bao nhiêu.

    Tôi im lặng, Ngọc Ẩn, nếu có thể, xin nhờ muội trao cả phần tình cảm của ta cho y nữa.

    Một hồi lâu sau tôi mới khẽ gật đầu, ân cần căn dặn: “Muội phải nhớ kĩ muội sắp trở thành trắc phi của thân vương rồi, sau này muội và ta phải cùng gánh lấy trọng trách chấn hưng nhà họ Chân.”

    Ngọc Ẩn gật đầu thật mạnh, lại bái biệt tôi lần nữa.

    Nhu Nghi điện, vàng làm xà, ngọc làm cột, màn gấm rèm châu, gió thổi vào cũng nặng mang đầy tâm sự. Trong điện, ánh dạ minh châu vằng vặc tựa ánh trăng rằm, ánh sáng tỏa ra từ vầng trăng khuyết trên trời thực là hoàn toàn thua kém, nên chẳng có ai buồn để tâm đâu mới thật sự là ánh trăng. Có điều trong khoảnh khắc này bất kể là thứ ánh sáng nào rọi tới, trái tim đang chất chứa nỗi buồn thương của tôi cũng chẳng thể bừng sáng lên được.

    Suốt đêm không ngủ, hôm sau, ngay từ sớm tôi đã chải chuốt rồi thay xiêm y ổn thỏa. Các phi tần giao hảo với tôi đều tới đưa tiễn, ngay cả Diệp Lan Y cũng không mời mà tự đến. Tôi vốn sợ nàng ta thương tâm, lại không biết với tính tình của nàng ta thì sẽ gây ra rắc rối thế nào, do đó mới không mời, nào ngờ nàng ta lại vẫn xuất hiện trong một bộ đồ màu đỏ sậm thêu đầy những bông hoa hợp hoan bằng chỉ vàng bên trên. Nàng ta xưa nay vốn không thích mặc những bộ đồ màu sắc sặc sỡ, lần này ăn vận như vậy tới đây mọi người đều cảm thấy kinh ngạc vô cùng, ngay đến sự nổi bật vốn nên thuộc về Ngọc Ẩn cũng bị nàng ta phần nào đoạt mất. Nàng ta không hề chúc mừng Ngọc Ẩn, cứ thế đi tới bên cạnh tôi, khom người tỏ ý chào.

    Ngọc Ẩn trong bộ xiêm y rực rỡ bước tới bái biệt tôi lần cuối, tiếng trống tiếng nhạc vang lên tưng bừng. Tiểu Doãn Tử đã thay đồ màu đỏ đi vào bẩm báo: “Giờ lành đã tới, trong vương phủ mọi thứ đều đã sắp xếp ổn thỏa, Vưu tiểu thư bên phía phủ Bái Quốc công cũng đã khởi hành, nhị tiểu thư có thể đi được rồi.”

    Tôi đứng trước cửa chính của Vị Ương cung dõi mắt nhìn Ngọc Ẩn được đỡ lên kiệu hoa. Dưới ống tay áo rộng, đầu ngón tay của Diệp Lan Y khẽ chạm vào ngón tay tôi, truyền tới cảm giác lạnh giá tột cùng. Nàng ta vẫn cố tỏ ra bình tĩnh nhưng đằng sau đó là một nỗi buồn thương khó nói bằng lời. “Ta thà rằng đó là cô, như thế y ít nhất cũng sẽ thật lòng vui vẻ.”

    Tôi không nói gì, Ngọc Ẩn giờ đây đã bước lên một con đường hoàn toàn khác với tôi, đích đến cuối cùng rốt cuộc trải đầy hoa hồng hay là một mảnh hoang vu thì hãy còn chưa biết được.

    Phủ Thanh Hà Vương, đó sẽ là điểm khởi đầu cho một quãng đời mới của muội ấy.

    Diệp Lan Y hơi dừng một chút, tiếp tục cất giọng u buồn như làn sương sớm: “Một người là Chân nhị tiểu thư, một người là Vưu tiểu thư, nhưng lại đều không phải người mà mình thích, y hẳn đang buồn bã vô cùng.”

    Những việc nhầm lẫn trên thế gian chưa bao giờ ngừng lại, bàn tay vô thường của vận mệnh luôn lấy việc bỡn cợt người khác làm vui như thế.

    Sau cảnh phồn hoa náo nhiệt lúc ban ngày, đêm đến tôi đóng cửa điện lặng lẽ vùi đầu vào lòng Cận Tịch, muốn khóc nhưng chẳng thể khóc thành tiếng. Tôi làm sao mà khóc được, tôi bây giờ đã là tỷ tỷ của tân nương, sao có thể để niềm vui xuất giá của muội ấy bị nhuốm lên một tia u buồn. Thế nhưng, trên thế gian này chỉ có Thanh là chưa từng rời bỏ tôi, bất kể là khi tôi phú quý hay sa sút, đắc ý hay ngã lòng, y đều luôn đứng sau lưng tôi, lặng lẽ nhìn tôi, không bao giờ để tôi phải đau buồn hay khó xử... Vậy mà giờ đây, y lại cưới muội muội của tôi làm vợ.

    Trước mắt tôi lại hiện lên tấm thiếp hợp hôn màu đỏ in hình cặp chim uyên ương ngày nào. Uyên ương dệt cánh muốn cùng bay, muốn cùng bay, nhưng giờ đây lại chẳng phải là đôi uyên ương đó ở bên nhau nữa rồi.
     
  5. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 13: Đây bóng hồng soi thoảng lúc nào
    [15] Trích Thẩm viên, Lục Du. Dịch thơ: Khương Hữu Dụng. Nguyên văn Hán Việt: Tằng thị kinh hồng chiếu ảnh lai - ND.

    Vì chuyện mừng Ngọc Ẩn xuất giá, cha mẹ tôi được phép ở lại kinh thành thêm một tháng. Tới ngày thứ ba, Ngọc Ẩn một mình quay về, trắc phi dù sao cũng chỉ là thiếp, không hề có lễ lại mắt như các tân nương bình thường. Tuy nghi thức nạp phi của Huyền Thanh được tổ chức rất long trọng, tuy Vị Ương cung được tính là nhà mẹ đẻ của Ngọc Ẩn nhưng Huyền Thanh lại không đi cùng muội ấy, có lẽ là vì không muốn hai bên gặp lại để rồi sinh nỗi thương tâm. Ngọc Ẩn hôm nay ăn mặc cực kỳ hoa lệ, khắp người đều là đồ trang sức châu ngọc, trông có vẻ rất thoải mái. Không lâu sau, Vưu Tĩnh Nhàn cũng vào cung thỉnh an, xem chừng đó là một nữ tử rất đoan trang, tao nhã, ăn nói cũng dịu dàng, không có vẻ gì là hạng người tâm cao khí ngạo, thích sinh chuyện thị phi. Nàng ta cư xử với Ngọc Ẩn cũng rất khách sáo, dường như có thể vào phủ Thanh Hà Vương để ngày ngày nhìn thấy Huyền Thanh đã là ước nguyện lớn nhất của nàng ta rồi. Thời gian cứ thế chậm rãi trôi qua, nghe nói Huyền Thanh đối xử với Ngọc Ẩn rất tốt, để muội ấy ngụ tại Tích Trân các hoa lệ nhất ở mé đông vương phủ, đãi ngộ chẳng khác gì chính phi, ngay đến Vưu Tĩnh Nhàn xuất thân từ gia tộc công hầu cũng phải chịu kém hơn một bậc, trú tại mé tây của vương phủ. Mà từ ngày nắm quyền quản lý việc nhà, Ngọc Ẩn xử lý mọi việc đều đâu ra đấy, đối xử với Vưu Tĩnh Nhàn cũng rất khách sáo. Thái hậu khi nhắc tới việc này không kìm được lộ vẻ vui mừng: “Ai gia vốn lo nếu xem trọng quá sẽ làm hư vị Chân Trắc phi này, không ngờ đó lại thật sự là một người biết lo liệu công việc, tính cách cũng hiền hòa nữa.” Thế là mọi người trong cung khi nhắc tới Ngọc Ẩn, không ai là không tỏ ra ngưỡng mộ.

    Giờ đã là tháng Sáu, sắc xuân sớm đã lui đi hoàn toàn, hôm ấy khi tôi ngủ dậy, trời vừa đổ một cơn mưa nhỏ, cái nóng nực của mùa hè bị xua bớt đi rất nhiều. Ngọc Ẩn xuất giá cũng đã được một thời gian, vì muốn để tang My Trang nên tôi ăn mặc rất giản dị, mái tóc chỉ búi lại qua loa theo kiểu Trụy mã kế, lại mang một bó hoa sơn chi nhỏ nhắn, trắng muốt cắm vào bình, thỉnh thoảng ngẩng lên nhìn những hạt mưa rơi xuống lá chuối bên ngoài cửa sổ, cảm nhận từng cơn mát lạnh bay vào. Ngọc Nhiêu ngồi bên cửa sổ, tì cằm lên cánh tay nhìn ra phía xa, bên dưới khung cửa sổ trổ hoa màu đỏ sậm, những bông đồ my trắng muốt nở đầy, nhìn hệt như băng tuyết, mùi thơm vương vất vờn quanh. Muội ấy khẽ nói: “Đến hoa đồ my cũng đã nở, đại tỷ, mùa xuân không ngờ đã qua lâu như vậy rồi.”

    Giọng nói quen thuộc của một nam tử bất ngờ vang lên chậm rãi: “Mùa xuân cũ qua đi thì mùa xuân mới sẽ lại tới, muội hãy còn nhỏ mà đã có lắm nỗi niềm thương cảm như vậy rồi.”

    Ngọc Nhiêu cả kinh, vội xoay người lại, vừa nhìn thấy Huyền Lăng trong bộ thường phục màu đỏ sẫm, sắc mặt lập tức trở nên lạnh nhạt. Tôi đứng dậy nghênh đón, còn Ngọc Nhiêu thì chỉ hững hờ hành lễ.

    Huyền Lăng không hề để bụng, định đưa tay tới đỡ thì Ngọc Nhiêu đã lặng lẽ tránh qua một bên. Huyền Lăng thoáng có chút ngượng ngập, bèn hỏi tôi: “Mấy hôm nữa là đủ bốn mươi chín ngày kể từ ngày mất của Đức phi, lễ cúng nàng đã chuẩn bị ổn thỏa cả chưa?”

    “Cũng tương đối rồi.”

    Y thoáng lộ ra mấy tia thương cảm, ân cần hỏi: “Dạo này Nhuận Nhi vẫn khỏe chứ?”

    “Thân thể Nhuận Nhi thì vẫn khỏe mạnh, chỉ là mỗi khi chiều tối lại khóc ngằn ngặt không thôi, không biết có phải là vì nhớ mẹ nó không nữa.” Tôi cúi đầu, cố nén những giọt lệ bên khóe mắt. “Có điều, thần thiếp nhất định sẽ dốc hết sức chăm sóc cho Nhuận Nhi, không để nó phải chịu chút tổn thương nào.”

    Y khẽ gật đầu. “Nếu là người khác nói ra câu này trẫm ắt sẽ không coi là thật, nhưng nàng và Đức phi mười mấy năm qua vẫn luôn thân thiết với nhau, chẳng khác gì tỷ muội ruột thịt, lời của nàng trẫm căn bản không chút nghi ngờ.” Dừng một chút y lại nói tiếp: “Sau lễ cúng bốn mươi chín ngày của Đức phi, mọi người cũng nên mở rộng lòng mình ra một chút. Xích Thược có nói với trẫm, ngoài mấy ngày trong dịp nghĩa muội của nàng xuất giá, trong cung đã cả tháng trời không có tiếng ca múa rồi.”

    Ngọc Nhiêu hơi mấp máy khóe môi, lại nghiêng đầu suy nghĩ, cuối cùng vẫn không nhịn được nói: “Người cũ đi rồi thì còn người mới, chẳng trách Hoàng thượng lại nói là xuân qua đi rồi xuân lại tới, hóa ra con người cũng giống như mùa xuân vậy.”

    Huyền Lăng ôn tồn nói: “Trẫm vốn cũng cho rằng mùa xuân qua rồi thì không trở lại nữa.” Y chăm chú nhìn vào khuôn mặt thanh tú như hoa sơn chi của Ngọc Nhiêu. “Nhưng bây giờ trẫm tin là mùa xuân nhất định sẽ quay trở lại.”

    Ngọc Nhiêu còn chưa hiểu gì nhưng tôi thì đã lòng thầm máy động, nghĩ tới việc ban quạt, bất giác có chút bất an, liền buồn bã nói: “Mùa xuân qua rồi thì sẽ tới mùa hạ, mùa thu, tiếc rằng hoa cúc ở Thượng Lâm uyển dù có nở đẹp đến mấy thì My Trang tỷ tỷ cũng không thể nhìn thấy nữa rồi.”

    Huyền Lăng áy náy vuốt ve bờ vai mảnh khảnh của tôi. “Đức phi ra đi khiến nàng thương tâm quá mức, kế đó lại phải hao tổn không ít tâm tư trong việc lão lục nạp phi, bây giờ thực là gầy đi nhiều quá, lòng trẫm cũng chẳng dễ chịu chút nào.” Y giúp tôi chỉnh lại cổ áo. “Trẫm biết là nàng muốn để tang cho Đức phi, nhưng người sống dù sao cũng phải sống tiếp.”

    Tôi đau xót ngoảnh đầu đi, bám tay vào chiếc ghế bên cạnh mà chậm rãi ngồi xuống. “Người sống hẳn nhiên phải sống tiếp, nhưng thần thiếp sẽ không bao giờ quên My Trang tỷ tỷ đâu.” Tôi đột ngột ngẩng đầu, nhìn Huyền Lăng chăm chú. “Thời gian qua lâu rồi, liệu Hoàng thượng có quên My Trang tỷ tỷ không?”

    Thần sắc y dần trở nên ảm đạm. “Trên đường tới đây trẫm đã dặn dò thợ trồng hoa của Hoa phòng mỗi ngày đưa một chậu hoa cúc tới mộ phần của Đức phi rồi, cũng coi như là thể hiện một chút tâm ý.” Hơi dừng một chút, y tỏ ra áy náy, thở dài than: “Mười mấy năm qua, tuy Đức phi tính cách quật cường, nhưng dù sao trẫm cũng có chỗ không phải với nàng ta.”

    Hai mắt tôi như sáng rực lên, in bóng vào cặp mắt đen láy, sâu thẳm của y. Huyền Lăng hơi rụt người lại, né tránh ánh mắt của tôi, cười gượng, nói: “Nếu không phải ngày đó trẫm tin vào mấy lời gièm pha bậy bạ, Ôn Thực Sơ đã chẳng làm ra hành động như vậy rồi, để đến nỗi bị Đức phi nhìn thấy mà kinh động tới thai khí.” Đầu ngón tay y lúc này lạnh giá như vừa ngâm vào nước băng. “Hoàn Hoàn, trẫm cứ ngỡ là nàng sẽ không để ý tới trẫm nữa cơ.”

    Tôi ngẩng đầu lên, đáp lại bằng mấy từ ngắn gọn: “Sao có thể chứ.” Sau đó lại buồn bã cúi đầu, cất giọng lạnh lùng mang đầy nỗi căm hận: “Kẻ hại người không phải là Hoàng thượng. Kẻ muốn chia rẽ lục cung cũng không phải là Hoàng thượng. Kẻ ăn nói quàng xiên lại càng không phải là Hoàng thượng.”

    Y cau mày lại, trong mắt như có một ngọn lửa âm u bùng lên. “Khi đó nàng đã hạ lệnh xử tử Tịnh Bạch và Phỉ Văn rồi mà.”

    “Thần thiếp vẫn thấy chưa đủ.” Tôi nói gằn từng từ bằng một giọng nóng bỏng chất chứa đầy thù hận. “Đức phi khó sinh rồi băng huyết mà chết, thiếu chút nữa đến Hoàng tử cũng không giữ được. Ôn Thực Sơ là bậc quốc thủ trong cung, thường ngày chăm sóc Thái hậu công lao rất lớn. Thái hậu và Hoàng tử, có ai không phải là gốc rễ của quốc gia? Huống chi... ca ca thần thiếp thần trí đã tỉnh táo hơn nhiều, nếu Hoàng thượng chịu điều tra lại, hẳn sẽ phát hiện biến cố của nhà họ Chân năm xưa phần nhiều là do nhà họ Quản gây ra.”

    Ngọc Nhiêu khẽ “hừ” một tiếng, vành mắt bất giác đỏ hoe. “Quản thị gây chuyện trong cung, ca ca của thị thì làm mưa làm gió ở tiền triều, hãm hại bậc trung lương, hai huynh muội đều cùng một giuộc, rõ ràng là muốn dồn nhà họ Chân vào chỗ chết!”

    Huyền Lăng thoáng trầm ngâm một lát, ôn tồn khuyên nhủ: “Việc trước đây...”

    Tôi nhìn y chăm chú. “Việc trước đây nhà họ Quản lấy chứng cứ từ chỗ Cố Giai Nghi, Hoàng thượng sao không chính miệng hỏi Cố Giai Nghi một phen xem?”

    Y thoáng lộ vẻ trầm ngâm. “Trẫm biết là nàng không thích, nhưng chỉ một động tĩnh nhỏ ở hậu cung và tiền triều cũng có thể gây ra những rắc rối lớn vô cùng, việc không thể gấp được.” Y nhìn Ngọc Nhiêu bằng ánh mắt mông lung như cơn mưa nhỏ ngoài cửa sổ, nhẹ nhàng cất tiếng: “Tên muội là Ngọc Nhiêu đúng không?”

    Ngọc Nhiêu chẳng buồn ngẩng đầu, hờ hững gạt nhẹ mấy chiếc lá non trên cây sơn chi. “Hoàng thượng biết rồi còn hỏi làm gì?”

    Y không hề tức giận, ngoảnh đầu đi nhìn mấy cây trúc bên ngoài cửa sổ đến ngẩn ngơ. “Nhiêu mang ý tha thướt yêu kiều, dịu dàng mềm yếu, đẹp thì đẹp thực nhưng lại không hợp với vẻ nhẹ nhàng, linh hoạt của muội cho lắm.”

    Ngọc Nhiêu hơi nhướng mày. “Hoàng thượng có ý nói rằng dân nữ kiêu căng, ngang ngược, không hợp với vẻ dịu dàng, mềm yếu của nữ tử ư?” Rồi tỏ ra lãnh đạm. “Hoàng thượng thật biết chế giễu người khác quá!”

    Huyền Lăng cười gượng một tiếng, quay sang nói với tôi: “Nàng xem kìa, muội muội của nàng đa nghi quá.”

    Tôi chậm rãi xúc một thìa ngân nhĩ lên ăn rồi mới cười, nói: “Nghe mấy lời vừa rồi của Hoàng thượng, đến thần thiếp cũng cả nghĩ chứ chẳng riêng gì Nhiêu Nhi đâu.”

    Y đưa tay vuốt cằm, trầm ngâm nói: “Chữ Nhiêu không được hay cho lắm, theo trẫm thì chữ Uyển hợp với muội hơn, trẫm ban cho muội cái tên mới là Ngọc Uyển nhé?”

    Tôi nghe thấy chữ Uyển đó thì không kìm được giật thót một cái, thiếu chút nữa đã cả kinh đứng bật dậy. Được Hoàng đế ban tên là một niềm vinh dự cực kỳ lớn lao, thân là thần tử ắt sẽ vô cùng mừng rỡ, không có ai lại đi chối từ, càng không có ai dám chối từ.

    Ngọc Nhiêu thoáng có chút nôn nóng, không lập tức đồng ý ngay mà đưa mắt liếc qua phía tôi. Tôi hơi đảo mắt, ung dung cất tiếng: “Chữ Uyển này đúng là không tệ, nhưng chẳng hay có xuất xứ thế nào? Chắc không phải Hoàng thượng chỉ chọn đại một chữ làm tên cho tam muội của thần thiếp đấy chứ?” Tôi hơi lộ vẻ trầm ngâm, tiện tay cầm lấy cuốn Vĩnh hoài phú mà Huyền Lăng thường ngày hay xem trên giá sách, giả bộ tỉ mỉ ngắm nghía.

    Huyền Lăng đưa mắt nhìn qua, bất giác mỉm cười. “Dương xước ước chi lệ tư, hoài uyển vãn chi nhu tình[16], sẵn có bài Vĩnh hoài phú của Trương Hoa ở đây, không dùng tới hai câu khen ngợi mỹ nhân này thì thực là uổng phí, nàng thấy thế nào?”

    “Mỹ thục nhân chi yêu diễm, nhân phán lai nhi khuynh thành[17].” Ngọc Nhiêu khẽ cất tiếng ngâm, đôi hàng lông mi như hai cánh bướm nhẹ nhàng chớp động, đồng thời chậm rãi đứng lên. “Dân nữ nhan sắc bình thường, chẳng dám xưng là diễm lệ; cha anh thì đều là tội thần, càng chẳng phải thục nữ gì cho cam. Hơn nữa bài Vĩnh hoài phú này Trương Hoa làm để tưởng nhớ vong thê, không phải Hoàng thượng có lòng muốn cưới Ngọc Nhiêu làm thê tử đấy chứ?”[16] Nhan sắc kia mới dịu dàng tươi đẹp làm sao, lòng mang một mối nhu tình tha thiết. Trích Vĩnh hoài phú - ND.

    [17] Nàng thục nữ xiết bao yêu kiều diễm lệ, chính vì những cái nhìn chứa chan tình cảm mà càng thêm khuynh quốc khuynh thành. Trích Vĩnh hoài phú - ND.

    Trong cung, vợ và thiếp hoàn toàn khác biệt, chỉ duy có Hoàng hậu mới là vợ mà thôi. Quả nhiên Huyền Lăng không nghĩ ngợi gì đã buột miệng nói ngay: “Trẫm không có ý này, chỉ là...”

    Tôi hơi khom người, cất giọng buồn thương: “Thần thiếp kém bề phúc đức, cam lòng cả đời làm thiếp để được hầu hạ Hoàng thượng. Nhưng tam muội của thần thiếp là Ngọc Diêu vì việc hôn nhân thất bại mà tạo nên điều nuối tiếc cả đời, bây giờ thần thiếp chỉ còn lại một mình tứ muội Ngọc Nhiêu, muội ấy tính tình cao ngạo, ắt chẳng chịu làm thiếp để phải thua kém người ta, trừ phi là chính thất, bằng không quyết không chịu lấy chồng.”

    Huyền Lăng nghe vậy bèn ôn tồn nói: “Nàng tuy là thiếp nhưng là ái thiếp của trẫm, lại là thục phi, địa vị chỉ kém duy nhất một người mà thôi.” Sau đó lại đưa mắt liếc Ngọc Nhiêu. “Muội muội của nàng nếu được như vậy thì cũng không tính là phải chịu ấm ức gì.”

    Sống mũi tôi cay sè, khóe mắt nhòe ánh lệ. “Bà cô của thần thiếp là trắc phi của Vịnh Hy Quận vương, nhị muội muội tuy được lục Vương gia thương yêu nhưng xét cho cùng cũng chỉ là trắc phi, thần thiếp thì không có lòng nhòm ngó ngôi hậu, lẽ nào Hoàng thượng nhẫn tâm nhìn nữ tử đời thứ ba của nhà họ Chân đều phải làm thiếp hay sao?”

    Huyền Lăng thoáng có chút không đành lòng, liền dịu dàng nói: “Chẳng qua chỉ là ban tên mà thôi, đang yên đang lành không ngờ lại làm nàng thương tâm như vậy, xem ra trẫm quả có chút lỗ mãng rồi, chúng ta không nhắc tới việc này nữa. Muội muội của nàng còn nhỏ, sau này nếu có người nào tốt, trẫm sẽ để ý giúp cho, bây giờ hãy còn chưa vội.”

    Nghe giọng điệu của y thì có vẻ còn chưa muốn buông tay, thế nhưng tôi cũng chẳng thể nói gì thêm được, chỉ đành gật đầu. Ngọc Nhiêu cười, nói: “Tỷ tỷ quá lo rồi, Ngọc Nhiêu là người ngốc nghếch, Hoàng thượng thì đã có một bông hoa giải ngữ như tỷ tỷ ở bên, sao còn ôm tâm tư đó được. Có điều tỷ tỷ nói không sai, Ngọc Nhiêu ắt không cam tâm làm thiếp cho người ta, sau này trừ phi không nói gì tới chuyện cưới gả như tam tỷ, bằng không quyết phải đi qua cửa chính mà vào nhà chồng.” Những lời này toát ra một vẻ kiên định vô cùng, nói xong Ngọc Nhiêu liền vỗ tay mấy cái, cầm chén trà trên bàn lên uống một hơi cạn sạch.

    “Muội muội của nàng đúng là một nữ tử có cá tính.” Trước khi rời khỏi Nhu Nghi điện, Huyền Lăng đã khẽ thở dài than một câu như thế.

    Vừa ra khỏi điện, chợt có tiếng gõ mõ văng vẳng vọng lại, giữa buổi chiều tịch mịch thực là nổi bật vô cùng, nghe như những tiếng thở dài xen giữa tiếng mưa rơi, người nghe thấy không ai là không sinh lòng chua xót. Huyền Lăng tò mò hỏi: “Nàng vừa mời pháp sư của Thông Minh điện tới đây sao?”

    Tôi cay đắng lắc đầu. “Hoàng thượng còn chưa gặp tam muội Ngọc Diêu của thần thiếp lần nào đúng không?” Hơi dừng một chút, tôi lại nói tiếp: “Không phải thần thiếp vô lễ, cố ý không để Hoàng thượng gặp tam muội, chẳng qua là sợ muội ấy thất lễ thôi.”

    Trong mắt Huyền Lăng thoáng qua một tia do dự, tôi liền dẫn y tới Ấn Nguyệt hiên, thấp giọng nói: “Tam muội không muốn gặp ai hết, Hoàng thượng cứ đứng ngoài cửa sổ nhìn vào là được rồi.”

    Y khẽ gật đầu, dừng chân lại, dõi mắt nhìn bóng người mỏng manh như tờ giấy bên trong khung cửa sổ. Chỉ thấy Ngọc Diêu mặc một chiếc áo dài màu trắng thêu hoa văn hình dây mây, lúc này đang lặng lẽ quỳ trước am thờ Phật mà nhắm mắt tụng kinh, một tay lần tràng hạt một tay thì gõ mõ, mái tóc dài được búi qua loa sau đầu theo kiểu Thái hư kế, vì cả ngày không bước chân ra khỏi cửa nên sắc mặt toát ra một vẻ nhợt nhạt hết sức kỳ dị, bên trên hằn sâu dấu vết của sự đau thương, sầu muộn nhiều năm tích lũy, tuổi tác chẳng qua chỉ mới hai mươi nhưng đằng sau vẻ tiều tụy lại là một thần thái bình lặng khó mà dùng lời miêu tả.

    Huyền Lăng chăm chú nhìn một hồi lâu, chợt lùi về phía sau vài bước, khẽ cất tiếng thở dài. “Nhìn thần sắc nàng ta, hình như đã không còn lưu luyến thế gian này nữa rồi.”

    Tôi cố nén những giọt nước mắt chừng như bất cứ lúc nào cũng có thể tuôn ra. “Ngọc Diêu cũng từng có một thời vui tươi, hoạt bát như Ngọc Nhiêu, nhưng giờ đã chẳng khác gì một khúc gỗ khô rồi.”

    “Chẳng qua là một đoạn nhân duyên mà thôi, hà cớ gì phải như vậy?”

    Tôi ngập ngừng một chút, cuối cùng vẫn rưng rưng nước mắt nhìn y. “Khi tu hành ở chùa Cam Lộ, thần thiếp chưa chắc đã hơn Ngọc Diêu được bao nhiêu.”

    Y nắm lấy bàn tay tôi, vẻ áy náy lại càng thêm rõ ràng. “Là trẫm không tốt.”

    Một làn gió nhẹ thổi tới mang theo hương hoa thoang thoảng, mưa vẫn rả rích rơi, hai chúng tôi nhìn nhau chăm chú, thấy được cái bóng của mình trong mắt đối phương nhưng bộ dạng của cả hai đều chẳng còn giống như ngày trước. Tình đã không phải là thứ tình cảm đó, còn người, rốt cuộc vẫn là con người trước mắt đây, từng chút ký ức thuở xưa lần lượt hiện về, muôn vàn nỗi cảm thương vương vất kề bên, hai con người đều im lặng không nói gì.

    “Hoàn Hoàn...” Tiếng thở dài của y mang theo vô số niềm cảm khái và thương xót, khi ngoảnh đầu lại bất ngờ sững người ra, ánh mắt bị một cái bóng màu xanh biếc bên dưới giàn nho hút lấy, không cách nào dời đi được. Trong bộ đồ trắng muốt như hoa lê, trông Ngọc Nhiêu thật giống với tôi hồi trẻ, hoặc có lẽ nên nói là giống Chu Nhu Tắc. Mái tóc dài của muội ấy được búi lại thanh thoát theo kiểu Phi thiên kế, bên trên cài một cây trâm ngọc màu xanh, ngoài đó ra thì chỉ được điểm xuyết thêm bằng mấy bông hoa sơn trắng ngần như tuyết.

    Lúc này, khuôn mặt trẻ trung của Ngọc Nhiêu hệt như một bông tường vi màu hồng vừa hé nở, bên trên còn đậu mấy giọt sương khiến người ta có cảm giác trước mắt như bừng sáng, nhưng giọng nói cất lên thì lại đượm nét u buồn: “Hoàng thượng, người muốn biết tại sao tam tỷ lại như vậy không?”

    Giọng nói ấy mang đầy nỗi buồn thương, tựa như một làn khói mỏng bất cứ lúc nào cũng có thể bay đi mất, cho tới khi Ngọc Nhiêu xuất giá, đó là lần đầu tiên và cũng là duy nhất muội ấy nói chuyện với Huyền Lăng bằng giọng dịu dàng như vậy. Trong mắt Huyền Lăng bừng lên một nét dịu dàng khó tả, kèm theo đó còn có một tình yêu nóng bỏng và sự mê say chỉ có ở người thiếu niên, chừng như có thể thiêu đốt tất cả.

    “Hoàng thượng có muốn nghe không?” Ngọc Nhiêu hỏi lại lần nữa.

    Y vô thức buông tay tôi ra, dường như đang bước về phía một sự tín ngưỡng và khát khao nào đó. “Muốn.”

    Buổi chiều hôm ấy, suốt ba canh giờ cho tới khi trời sẩm tối, tôi đã dành trọn cái sân nhỏ bên ngoài Ấn Nguyệt hiên cho Huyền Lăng và Ngọc Nhiêu. Câu chuyện về Ngọc Diêu chỉ là một câu chuyện đơn giản, thế nhưng lại chứa đựng bên trong nỗi thương tâm cả đời của muội ấy. Bao điều khúc chiết Ngọc Nhiêu đều kể ra rất rõ ràng, nhưng Ngọc Diêu không thể nào nghe thấy. Ngọc Diêu lúc này sớm đã bị nghiền nát trái tim, chẳng muốn để tâm tới bất kỳ ai khác.

    Tôi lẳng lặng rời đi, một mình đội ô ngồi trước Nhu Nghi điện. Lúc này còn chưa phải là giữa hạ, hoa sen trong hồ mới vừa nhú mấy nụ hồng, những phiến lá sen xanh biếc rung rinh trong gió, bầu không khí đượm vẻ thanh tân.

    Đầu ngón tay truyền tới cảm giác hơi giá lạnh, ngồi đó một mình, một nụ cười hờ hững dần xuất hiện trên khóe môi tôi, chỉ là một Ngọc Nhiêu có dung mạo tương tự nàng ta mà thôi, vậy là đã đủ rồi. Tôi dần hiểu ra, năm xưa có lẽ y đã thật sự mang một mối tình sâu đậm tột cùng với nữ tử đó, chẳng trách mấy năm trước chỉ vì một chiếc áo mà có thể giận dữ điên cuồng đến vậy.

    Có điều, tôi sẽ không còn thương tâm nữa, bởi giờ đây người sống giữa nơi thâm cung tịch mịch là Thục phi Chân thị chứ không phải là Chân Hoàn của ngày xưa. Mưa ngừng rơi, đằng chân trời như có một ngọn lửa bừng lên dữ dội, ánh hoàng hôn dần phủ khắp.

    Đợi đến khi Huyền Lăng trở ra, sắc mặt y trông bình lặng như chẳng có một tia xao động nào, Ngọc Nhiêu thì vẫn tỏ vẻ xa cách, hững hờ như trước, tựa một bông hoa ở mãi tận nơi xa.

    Tôi hơi nhún người dõi mắt tiễn y rời đi, Ngọc Nhiêu thì lấy từ trong tay áo ra một miếng ngọc bội uyên ương màu trắng, cầm trong tay có cảm giác mát rượi. Muội ấy vừa nói vừa lộ vẻ bất an: “Y không tỏ ý gì cả, chỉ đặt cái này vào trong tay muội, nói là mấy hôm nữa sẽ tới lấy về.”

    Tôi trầm giọng hỏi: “Hoàng thượng lấy miếng ngọc bội uyên ương này ra từ chỗ nào?”

    “Từ ngay trên người.”

    Tôi hít vào một hơi thật sâu, miếng ngọc bội này không ngờ lại được y xem trọng như vậy, ngay đến tôi cũng chưa từng nhìn thấy. Giữa sắc trời chiều mê ly, tôi kéo tay Ngọc Nhiêu, khẽ nói: “Trời tối rồi, chúng ta vào trong thôi.”
     
  6. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 14: Sông Trừng dưới Nguyệt nước trong veo [18] (Thượng)
    [18] Trích Đăng Khoái các, Hoàng Đình Kiên. Nguyên văn Hán Việt: Trừng giang nhất đạo nguyệt phân minh - ND.Ngày hôm sau, Huyền Lăng sai Lý Trường tới truyền khẩu dụ cho phép tôi gọi Cố Giai Nghi vào cung hỏi han. Ngoài mệnh phụ, gia quyến và người xuất gia, nữ tử thứ dân vào cung ắt phải thông báo tới Hoàng hậu, huống chi Cố Giai Nghi còn xuất thân phong trần, thế mà Huyền Lăng lại chỉ truyền khẩu dụ cho tôi, hoàn toàn không nói câu nào với Hoàng hậu.

    Gió hè thổi tới mát rượi, hồ sen trước Nhu Nghi điện sóng gợn rung rinh, giữa làn nước biếc đã xuất hiện mấy nụ sen chúm chím, không ngớt đung đưa, toát ra một vẻ dịu dàng, tha thướt khó mà miêu tả bằng lời.

    Còn Cố Giai Nghi lúc này đang chậm rãi bước qua cầu đi tới chỗ tôi.

    Đây là lần thứ hai tôi nhìn thấy Cố Giai Nghi, nhưng là lần đầu tiên nhìn rõ bộ dạng của cô ta. Lúc cô ta xuất hiện, tôi căng thẳng đến nỗi gần như ngừng thở, có lẽ vì bao năm qua đều sống ở chốn khói hoa, trong vẻ đẹp đằm thắm của cô ta thấp thoáng mấy nét phong trần, vậy nhưng lại không hề khiến người ta cảm thấy dơ bẩn, còn mông lung như một làn khói ráng lúc bình minh. Kỳ thực nếu chỉ thoạt nhìn cũng khó có thể nói là cô ta đẹp đến cỡ nào, có điều cái thần thái ưu sầu, xót xa kia sẽ bất giác lộ ra mỗi khi cô ta đưa mắt ngó quanh, trong sự xinh đẹp yêu kiều lại mang theo mấy phần tâm sự, dáng vẻ đó thực giống với An Lăng Dung lúc mới vào Chân phủ. Nhưng cô ta với An Lăng Dung cũng có chỗ khác biệt, đó là nơi đáy mắt cô ta mang đầy vẻ kiên nghị và quật cường, khiến người ta không cách nào xem nhẹ.

    Nhìn thấy tôi rồi, cô ta chẳng qua chỉ nhún người hành lễ, cất giọng hờ hững: “Thục phi nương nương vạn phúc kim an.”

    Tôi gật đầu, nói: “Cố cô nương ngồi đi.”

    Vì đây là việc hệ trọng của gia đình, do đó cả Ngọc Ẩn và Ngọc Nhiêu đều có mặt. Ngọc Ẩn phất tay áo một cái, khẽ nói: “Cố cô nương xưa nay vẫn luôn có rất nhiều nhã khách, muốn triệu cô nương vào cung một lần cũng chẳng dễ dàng gì.” Sau đó lại sai Phân Nhi bưng một khay vàng tới. “Chỗ này coi như là một chút đền bù cho cô nương.”

    Cố Giai Nghi chẳng buồn ngó qua lấy một lần, dường như không hề để vàng bạc vào trong mắt, chỉ hơi khom người. “Đa tạ Ẩn phi.” Ngọc Ẩn là trắc phi của thân vương, theo quy củ thì chỉ có chính phi mới được gọi là vương phi hoặc là thêm họ vào phía trước để gọi, nhưng nếu trực tiếp gọi là trắc phi thì lại có phần thất lễ, do đó mới phải chọn một chữ trong khuê danh của trắc phi để gọi nhằm tỏ ý tôn trọng, chẳng hạn như Vưu Tĩnh Nhàn thì thường được mọi người gọi là Tĩnh phi. Cố Giai Nghi xưng hô Ngọc Ẩn như vậy đủ thấy cô ta khá hiểu về cái đạo đối nhân xử thế.

    Tôi khẽ hỏi: “Cô nương bây giờ vẫn trú thân ở Lưu Hoan các ư?”

    Cố Giai Nghi mỉm cười điềm đạm. “Hạng người như dân nữ thực chẳng thể vào được nhà nào tử tế, thành ra cứ ở lại Lưu Hoan các vẫn là tự do tự tại nhất.”

    Ngọc Ẩn nói: “Cô nương diễm danh vang xa, muốn hoàn lương thì đâu thiếu các vương tôn công tử để lựa chọn.”

    Hai mắt cô ta bỗng rực sáng. “Thục phi nương nương hẳn vẫn chưa quên, khi xưa từng có một vị Chân công tử qua lại với dân nữ rất lâu, trong thành không ai là không biết, vậy mà cuối cùng dân nữ vẫn chẳng thể hoàn lương, qua đó đủ thấy dân nữ chỉ có diễm danh chứ kỳ thực chẳng khác gì tàn hoa bại liễu.”

    Lòng tôi trầm hẳn xuống. “Cô nương rất oán hận vị công tử đó đúng không? Với tính tình cương liệt của cô nương, gặp phải hạng nam tử có mới nới cũ tất nhiên cần phải trút giận một phen mới có thể hả lòng hả dạ.”

    Ngọc Ẩn thì không kìm được cơn kinh hãi và tức giận, trừng mắt nhìn Cố Giai Nghi, run giọng nói: “Cho nên cô không hại y tan cửa nát nhà thì không cam tâm chứ gì?”

    Cô ta chỉ cười hờ hững. “Nếu nương nương bị người ta phụ tình, không biết sẽ xử trí ra sao đây?”

    Tôi khẽ đáp: “Nói một lời đoạn tuyệt, suốt đời mãi lìa xa.” Sau đó lại cười xót xa. “Thế nhưng chuyện trên thế gian này thường chẳng bao giờ đơn giản như thế.”

    Cô ta khẽ gật đầu, chậm rãi nói: “Ta vừa mới ra đã bị tú bà mua về, từ nhỏ đã được yêu quý rất mực, ăn mặc chi tiêu chẳng kém gì thiên kim tiểu thư, muốn thứ gì là có thứ đó, cũng chẳng bị đánh bị mắng bao giờ, thành ra trước giờ vẫn luôn mắt cao quá trán, xem thường thiên hạ. Tú bà làm như vậy thứ nhất là vì không muốn ta bị hỏng dung mạo và vóc dáng, thứ hai là để bồi dưỡng khí chất cho ta, thứ ba là muốn ta không có chút cảm giác tự ti nào, như thế sau này mới có thể trở thành con gà đẻ trứng vàng cho bà ta được. Có điều ta sống giữa chốn khói hoa, tất nhiên biết rõ hoan trường chẳng có chân tình, sớm đã không coi tình cảm nam nữ là thật, cũng chẳng để bất cứ nam tử nào vào trong mắt. Ngày đó Quản đại nhân Quản Lộ bỏ ra ngàn vàng để gặp ta, còn dẫn theo một người khác tới, chính là huynh trưởng của Thục phi, sau đó liền cùng ta làm một cuộc trao đổi.” Cô ta hơi dừng một chút, đôi hàng lông mi hấp háy tựa như hai cánh bướm. “Ban đầu chẳng qua là vì thù lao ba vạn lạng bạc trắng, lại thấy mặt mũi Chân công tử không đến nỗi khó coi, còn khá có tài học, do đó ta mới miễn cưỡng đồng ý chuyện này.”

    Ngọc Ẩn hơi cau mày lại. “Đã nhận bạc rồi còn nói cái gì mà miễn cưỡng với không miễn cưỡng, thực là giả dối quá chừng.”

    Cố Giai Nghi cười nhạt, nói: “Sau khi nhận bạc, quãng thời gian đó sẽ chỉ được qua lại với một nam tử, nếu y mặt mũi khó coi, đáng ghét há lại chẳng vô vị lắm ư? Huống chi còn phải tung ra tin đồn sẩy thai mất mặt kia nữa.”

    Ngọc Nhiêu tặc lưỡi nói: “Ta vẫn luôn ngỡ rằng chuyện sẩy thai đó là thật, vì mất con lại không được gả vào Chân phủ nên cô mới căm hận ca ca.”

    “Làm sao lại thế được.” Cô ta cúi đầu để lộ mấy tia thương cảm. “Ngoài những lúc bắt buộc phải diễn kịch ra, y thậm chí còn chưa đụng vào ta lần nào. Tuy y luôn ở cạnh ta, tuy y đối xử với ta rất tốt, tuy bề ngoài y đã hoàn toàn đoạn tuyệt quan hệ với thiếu phu nhân, nhưng kỳ thực không có ngày nào mà y không nhớ thiếu phu nhân và đứa bé.” Trên mặt cô ta thoáng qua một nét ửng hồng, nhìn hệt như một bông hợp hoan đang từ từ hé nở. “Ta chưa từng gặp một nam tử nào như thế, y khiến ta sinh lòng ái mộ. Ta bắt đầu hy vọng lời đồn sẽ trở thành sự thật, hy vọng y sẽ làm như đã tuyên bố với bên ngoài, đó là cưới ta về làm thiếp.”

    Tôi cúi đầu, nói: “Ca ca ta quả thực hết sức thương yêu tẩu tẩu.” Sau đó lại khẽ lẩm bẩm: “Có lúc ta cũng từng hoài nghi có lẽ trong lòng huynh ấy có người khác, hóa ra không phải vậy.”

    Cố Giai Nghi bất giác run rẩy đôi mi. “Nương nương cũng từng hoài nghi ư? Ta quả thực cũng có mối nghi ngờ như vậy, công tử có bệnh đau răng, mỗi lần cắn búp đinh hương để ngăn cơn đau hoặc là khi nhìn những cành trúc đào ngoài cửa sổ, y đều có vẻ trầm ngâm buồn bã, vẻ mặt đó không giống như là vì việc công.”

    Ký ức bất giác hiện về trước mắt tôi, đã rất lâu, rất lâu trước đây, khi ca ca vào cung thăm tôi thì bị đau răng, An Lăng Dung liền cười tủm tỉm, nói: “Trong các thứ nguyên liệu dùng để phối chế Bách Hợp hương, có một loại là Đinh Tử hương được chế thành từ búp đinh hương, ngậm vào miệng có thể ngăn cơn đau răng, không những không đắng mà còn rất thơm nữa, công tử có thể thử một chút xem.”

    Quả nhiên, quả nhiên là có những sợi tơ tình không thể nào nói rõ.

    Cố Giai Nghi dần bình tĩnh trở lại, chậm rãi nói tiếp: “Ta vẫn luôn hy vọng mỏi mòn, và rồi cuối cùng chuyện lớn bên ngoài cũng kết thúc, thế nhưng...” Cô ta thở dài buồn bã. “Công tử đối xử với ta quả thực rất tốt, đã chuộc thân cho ta, đáng tiếc lại không phải là để cưới ta về làm thiếp, chỉ bảo ta sau này hãy cố gắng sống cho tốt. Nhưng nếu không thể ở bên nam tử mà mình yêu, hoàn lương thì có ích gì đây? Ta liền trở về Lưu Hoan các sống tiếp cuộc sống say sưa mộng mị như trước đây.”

    “Cho nên cô mới vì yêu sinh hận, muốn trả thù nhà họ Chân ta ư?”

    Cô ta khẽ lắc đầu. “Ca ca Thục phi chỉ không thích ta mà thôi, ta đâu có lý gì lại đi hại y, ta sinh lòng oán hận là vì một việc khác!” Cô ta chậm rãi kể. “Có một hôm, Quản Lộ tới chỗ ta uống rượu, uống rất nhiều, trong cơn say, y lấy một bức họa ra cho ta xem.” Trên đôi hàng lông mày của cô ta dần lộ ra một tia ưu thương. “Đó là bức họa vẽ hình một nữ tử vận cung trang, mà người bên trên rõ ràng chính là An Phương nghi đang được Hoàng thượng rất mực sủng ái. Y nói, An Phương nghi trước khi vào cung từng ở trong Chân phủ một thời gian và quen biết Chân công tử; y nói, y từng nghe Chân công tử kể ta và An Phương nghi trông rất giống nhau, từng đặc biệt nhờ họa sư trong cung vẽ một bức tranh mang ra ngoài; y nói, An Phương nghi thực sự có mấy phần giống ta. Ta thấy trên khăn tay và áo váy của nữ tử trong tranh đều có thêu hình trúc đào, không kìm được thầm sinh lòng tò mò, y liền nói với ta, An Phương nghi vốn thích trúc đào nhất. Ta rốt cuộc đã hiểu ra tại sao khi xưa y lại chọn ta giúp y hoàn thành đại sự, không phải là vì ta diễm danh vang xa, càng không phải là vì Chân công tử thích ta, mà vì trông ta giống với vị An Phương nghi đó, y không đụng tới ta không chỉ là vì thiếu phu nhân, còn là vì vương vấn An Phương nghi nữa. Thiếu phu nhân thì thôi cũng đành, dù sao cũng là thê tử kết tóc của y, nhưng còn An Phương nghi thì sao? Cô ta là phi tử của Hoàng thượng. Ta ở bên y suốt một thời gian dài, lại đối xử với y tốt như thế, không ngờ ngay tới một An Phương nghi ở mãi trong thâm cung cũng không bằng được!”

    Ngọc Ẩn không kìm được lộ vẻ giận dữ. “Thế là cô liền hãm hại nhà họ Chân ta như thế đúng không?”
    Cố Giai Nghi đau xót nói: “Ngày đó ta đang cơn giận, Quản Lộ lại nói với ta là Chân công tử sau khi bình định Nhữ Nam Vương thì kiêu căng, ngạo ngược, kéo bè kết cánh, hơn nữa trong hôm cầm quân tới tấn công phủ Nhữ Nam Vương còn mấy lần tỏ thái độ chần chừ. Khi đó ta nghe mà vô cùng kinh hãi, rồi y còn nói Hoàng thượng đã nổi lòng nghi ngờ và trách phạt người muội muội ở trong cung của Chân công tử, còn ta và Chân công tử thì đã từng gây ầm ĩ một hồi, dù chỉ là đóng kịch nhưng người khác cũng sẽ cho rằng là thật, đến khi đó, nếu Hoàng thượng truy xét thì không chỉ mình ta mà ngay đến các tỷ muội và tú bà ở Lưu Hoan các cũng không thể nào toàn mạng. Ta từ nhỏ đã sống ở Lưu Hoan các, tuy tú bà nuôi ta là vì tiền tài nhưng cũng có ơn dưỡng dục nhiều năm, lại còn các tỷ muội ở Lưu Hoan các nữa, bọn họ đều vô tội.”

    “Sau đó, hắn liền nói với cô là nếu cô chịu đứng ra tố cáo thì mọi người trong Lưu Hoan các sẽ đều được an toàn đúng không?”

    “Đúng vậy.” Cô ta cúi gằm mặt, vẻ lạnh lùng, kiêu ngạo ban đầu dần biến mất. “Ta tự biết mình xuất thân thấp kém, bình sinh hận nhất là bị người khác coi thường, do đó trong cơn tức giận đã phạm phải sai lầm lớn. Phải tới ba năm sau khi nhà họ Chân xảy ra chuyện, ta mới dần biết được thì ra có rất nhiều việc ta đã hiểu lầm, thế nhưng sai thì cũng đã sai rồi, ta không biết phải làm sao mới có thể bù đắp được.”

    Tôi thổn thức nói: “Cô quả có hồ đồ nhưng cũng là vì tình mà ra. Lúc xưa nếu là người khác đứng ra tố cáo chưa chắc Hoàng thượng đã tin, tiếc rằng lại là cô.” Tôi cố nén cơn giận trong lòng, nhẹ nhàng nói tiếp: “Có điều, ta vẫn phải cảm ơn cô vì đã chăm sóc cho ca ca ta.”

    Cô ta hơi nhướng mày. “Nương nương cũng biết việc ấy ư?”

    “Sau khi ca ca thần trí thất thường, ta từng tới thăm huynh ấy một lần, đám người gác cửa nghe thấy động tĩnh còn tưởng là Cố tiểu thư, ngoài Giai Nghi cô nương ra chắc ca ca ta không quen biết vị Cố tiểu thư nào khác.”

    Cố Giai Nghi gượng cười thê lương. “Công tử biến thành bộ dạng như bây giờ hoàn toàn là do một tay ta gây ra, ta chỉ còn biết cố hết sức bù đắp thôi.” Trong mắt cô ta rưng rưng ánh lệ. “Vị công tử hào hoa, tuấn tú trước đây không ngờ lại trở nên như vậy, đó quả thực là lỗi của ta. Nhưng năm xưa khi ta nóng giận thật sự chưa từng nghĩ tới hậu quả này. Ngày Chân công tử bị lưu đày, ta nghe nói thiếu phu nhân và tiểu công tử đột ngột qua đời, còn từng cất công đi nghe ngóng tin tức một phen.”

    Tôi bất giác lòng thầm máy động, nôn nóng hỏi: “Ồ? Tẩu tẩu với Trí Ninh có đúng là đã chết vì sốt rét không?”

    “Ta có hỏi tên ngỗ tác khám nghiệm tử thi rồi, quả đúng là chết vì sốt rét.” Cô ta trầm ngâm nói. “Mùa đó vốn hiếm khi xuất hiện bệnh sốt rét, ta không khỏi sinh nghi, sau khi mua chuộc ngỗ tác thì được biết trong căn phòng giam giữ thiếu phu nhân và tiểu công tử có một con chuột chết vì sốt rét, mà trên người thiếu phu nhân và tiểu công tử đều có rất nhiều dấu vết bị chuột cắn, trông thê thảm vô cùng.”

    Tôi đau xót tột cùng, đồng thời cũng cảm thấy việc này cực kỳ khả nghi. “Sốt rét là bệnh rất dễ truyền nhiễm, nếu có một con chuột mắc bệnh ắt sẽ lây lan rất nhanh. Vậy trong nhà lao còn có ai khác bị sốt rét nữa không?”

    Cố Giai Nghi lắc đầu. “Không. Ngoài thiếu phu nhân và tiểu công tử vốn bị nhốt riêng, không ai khác bị lây bệnh cả.”

    Toàn thân tôi run lên lẩy bẩy, cơ hồ không dám nghĩ tiếp, Ngọc Nhiêu thì đã khóc không thành tiếng. “Đại tỷ tỷ, con chuột đó chắc chắn là do người ta cố ý thả vào để cắn Trí Ninh và tẩu tẩu. Bọn họ... bọn họ thật độc ác quá!”

    Tôi nắm chặt hai tay, móng tay cắm sâu vào trong da thịt. “Là Quản Lộ đúng không?”

    Cố Giai Nghi nói ngay: “Không phải, khi đó y chỉ biết là thiếu phu nhân và tiểu công tử đã qua đời chứ không biết là qua đời như thế nào, ta đã thử thăm dò vài lần, y quả thực không liên quan gì tới chuyện này.”

    “Nhà họ Chân năm xưa nhà tan cửa nát, cha mẹ ta đã già mà còn bị biếm đến đất Xuyên Thục, ca ca tới Lĩnh Nam rồi vẫn bị kẻ gian hãm hại đến nỗi phát điên, tẩu tẩu và Trí Ninh thì chết thảm. Cô nương đã tận mắt nhìn thấy tấn thảm kịch của nhà họ Chân, lại biết rõ bên trong kỳ thực có rất nhiều điều giả dối, vậy ta xin hỏi cô nương, cô nương có bằng lòng sửa chữa sai lầm ngày trước không?”

    Cô ta suy nghĩ một chút rồi đáp: “Hôm nay ta đã chịu tới đây rồi, nương nương muốn hỏi gì xin cứ tự nhiên.”

    “Huynh đệ Quản Lộ vốn giao hảo với ca ca ta nhưng đột nhiên trở mặt, bị lợi ích làm mờ mắt cố nhiên là một nguyên nhân, nhưng sau lưng hắn nhất định vẫn còn người khác. Cô nương đã từng qua lại với Quản Lộ, có biết người đó là ai không?”

    “Từ đầu chí cuối đều là Quản Lộ liên hệ với ta, tuy cũng từng nghe nói hắn có dính dáng tới vị quý phụ nào đó trong cung, nhưng rốt cuộc là ai thì ta cũng không rõ.”

    “Cô nương thật sự không rõ?”

    “Ta đã hổ thẹn với Chân công tử lắm rồi, thực không dám nói dối nửa câu.”

    Tôi chăm chú nhìn cô ta một lát, sau đó liền đưa giấy bút tới. “Vừa rồi cô nương nói là bằng lòng sửa chữa sai lầm ngày trước, vậy cô nương có chịu viết lại việc năm xưa Quản Lộ từng dùng những thủ đoạn cả cứng lẫn mềm ép cô nương vu cáo nhà họ Chân không?” Tôi nhìn cô ta chăm chú. “Ta không ngại nói với cô nương, nhà họ Quản kiêu căng, ngang ngược, trong triều đã có rất nhiều người bất mãn và sinh lòng hoài nghi về việc nhà họ Chân bị oan năm xưa, bây giờ mọi việc đều đã đủ cả, chỉ còn thiếu ngọn gió đông là lời làm chứng từ phía cô nương thôi.”

    Cố Giai Nghi hơi trầm ngâm rồi không cầm bút lên mà rút cây trâm vàng trên đầu xuống đâm vào đầu ngón tay, cúi đầu viết huyết thư.

    Ngọc Ẩn nhìn tôi cười khẽ, đôi hàng lông mày nhíu chặt dãn ra mấy phần.

    Viết xong huyết thư, Cố Giai Nghi liền khẽ cười tự giễu: “Viết bằng mực thì khó bề phân biệt thật giả, bức huyết thư này hy vọng có thể khiến bọn họ tin ta thêm mấy phần.”

    Tôi gật đầu đón lấy. “Trong việc lần trước cô nương vướng mối hiềm nghi vu cáo mệnh quan triều đình, chỉ e vì nhà họ Quản mà cô nương cũng sẽ bị liên lụy. Song ta sẽ nói rõ với Hoàng thượng việc cô nương bị bức ép, mong là ngài sẽ mở lượng khoan hồng.”

    Ngọc Ẩn nói: “Còn có một cách nữa, đó là cô nương hãy về làm thiếp cho ca ca ta, như thế mọi sự trách phạt đều có thể miễn được.”

    Cố Giai Nghi mỉm cười một tiếng, sắc mặt toát ra vẻ hết sức thản nhiên. “Nếu ta trở thành thiếp của công tử, người khác làm sao chịu tin vào lời làm chứng của ta. Huống chi ta cũng đâu còn mặt mũi nào để về bên công tử nữa.” Rồi cô ta ngẩng đầu nhìn tôi. “Công tử bây giờ đã đỡ hơn chút nào chưa?”

    Tôi vui vẻ gật đầu. “Đỡ hơn nhiều rồi, đã nhận ra được hết mọi người, chỉ là nếu huynh ấy khôi phục ký ức về những chuyện năm xưa thì e rằng sẽ rất đau khổ.”

    Cô ta khẽ nở nụ cười, vẻ diễm lệ tỏa ra tứ phía, nhưng bên trong đó lại thấp thoáng mấy nét thê lương. “Ta còn dám đi thăm công tử là vì biết rằng công tử không nhận ra ta, nhưng bây giờ công tử đã có chuyển biết tốt như thế, ta đâu còn mặt mũi nào mà gặp lại y. Chờ sau khi việc này xong xuôi, ta sẽ rời đi, không để công tử phải khó xử.” Nói tới đây, cô ta liền quỳ xuống bái lạy. “Trước đây nếu có lỗi lầm gì, hy vọng rằng lần này ta có thể bù đắp được hết.”
     
  7. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 15: Sông Trừng dưới Nguyệt nước trong veo (hạ)
    Mấy ngày sau, Huyền Lăng lấy việc Quản Văn Uyên bất kính với Thục phi làm cớ để hỏi tội nhà họ Quản, dùng thế sấm rền gió quật lật lại chuyện nhà họ Quản vu cáo ba nhà Chân, Tiết, Lạc năm xưa, lại điều tra ra một số tội trạng của nhà họ Quản trong mấy năm vừa rồi như tham ô hối lộ, kéo bè kết cánh, làm việc bất nhân, khiến cả triều đình đều chấn động.

    Hôm ấy trời mưa vừa tạnh, cái nóng hoàn toàn bị xua tan, Trinh Quý tần ngồi đánh cờ với tôi, sau khi đặt một quân cờ xuống mới khẽ thở dài. “Hoàng thượng làm gì chẳng biết nhà họ Quản có tội, chỉ là việc triều chính thường có mối liên quan rất lớn, không thể vọng động. Hơn nữa một việc lớn như thế cũng cần xử trí từ từ, không ngờ lần này Hoàng thượng lại có vẻ chuẩn bị chặt đứt căn cơ của bọn họ như thế.”

    Tôi tất nhiên cũng hiểu đạo lý này, nhưng nếu xử trí từ từ thì biết phải đợi đến ngày nào mới thấy được kết quả, mà đã ra tay rồi thì tất nhiên cần nhổ cỏ nhổ tận gốc, không cho kẻ địch có cơ hội tro tàn cháy lại.

    Tôi khẽ mỉm cười. “Quản Văn Uyên kiêu căng ngang ngược, hai gã ca ca của thị thì cũng chẳng phải hạng tốt đẹp gì. Hoàng thượng lần này đột ngột ra tay, bọn hắn tất nhiên trở tay không kịp.”

    Trinh Quý tần nở một nụ cười điềm đạm. “Quản Văn Uyên tốt xấu gì thì cũng đắc sủng mấy năm, gia tộc lại có chút quyền thế, có lý nào lại chẳng kiêu căng, ngang ngược. Tỷ cứ nhìn An thị mà xem, trước mặt Hoàng thượng, cô ta ra vẻ ngoan ngoãn đến thế nào, nhưng nghe nói sau khi phụ thân cô ta được Hoàng thượng phong làm Tri phủ thì chẳng hề yên phận. Kẻ làm quan với làm phi tần đều như nhau cả, một khi được ân sủng là khó tránh khỏi lộ rõ nguyên hình.”

    Tôi cầm một quân cờ lên, lộ vẻ trầm ngâm, khẽ lẩm bẩm nói: “Hoàng thượng đêm qua lại nghỉ ở chỗ An thị nữa rồi.”

    Trinh Quý tần hơi nhướng mày, có chút hụt hẫng nói: “Sau điệu múa đêm trừ tịch, Hoàng thượng liền coi cô ta như chí bảo, tuy vì cái chết của Đức phi mà có ghẻ lạnh một thời gian nhưng rốt cuộc vẫn không dứt ra được. Hoàng thượng dạo này rất ít khi tới Không Thúy điện, chẳng qua chỉ không muốn để ta nhìn thấy mặt Xích Thược nữa mà thôi.”

    “Hoàng thượng đối xử với cô ta quả thực rất tốt.” Tôi khẽ mỉm cười. “Chúng ta đều ở trong cung cả ngày, làm sao biết được phụ thân cô ta ở bên ngoài là người ra sao, xét cho cùng Chu Bội muội muội có người làm quan trong triều tin tức vẫn nhanh nhạy nhất.”

    Theo làn gió thu đầu tiên thổi tới, sự suy bại của nhà họ Quản đã trở nên hết sức rõ ràng. Gia tộc này nổi lên từ việc bình định Nhữ Nam Vương, huy hoàng suốt sáu, bảy năm trời, nhưng cuối cùng vẫn không tránh khỏi kết cục tan đàn xẻ nghé. Đến khi sắc thu heo hắt phủ khắp Tử Áo Thành, vận mệnh của người nhà họ Quản rốt cuộc đã được quyết định, nam tử trưởng thành nhất loạt chém ngang lưng, chưa đủ mười bốn tuổi lưu đày đến vùng biên cương phía tây, nữ quyến thì nhất loạt sung làm nô tỳ, Quản Lộ sau khi hay tin đã tuyệt vọng tự vẫn trong ngục.

    Đêm ấy, Canh y Quản Văn Uyên đầu xõa tóc, chân để trần đứng ngoài Nghi Nguyên điện gào khóc van cầu, tiếng gào khóc của nàng ta nghe thê lương tột độ, vang vọng khắp bầu trời đêm trên Tử Áo Thành. Ngoài Thái hậu và Ngọc Diêu, tất thảy mọi người đều không ngủ nổi, ai nấy đều đang lắng nghe, ai nấy đều đang nhìn bằng đôi mắt và trái tim của mình. Thái hậu thì đã quá quen với việc như vậy, còn Ngọc Diêu, đôi tai của muội ấy ngoài tiếng gõ mõ và tiếng tụng kinh ra thì tạm thời không thể nghe thấy âm thanh gì khác.

    Đương nhiên, trước đó Quản Văn Uyên cũng từng cầu xin Hoàng hậu, thế nhưng Hoàng hậu vốn đang dần thất sủng chẳng thể và cũng chẳng muốn giúp nàng ta. Hoàng hậu đóng chặt cửa cung, nói với bên ngoài là “bệnh đau đầu lại phát tác”.

    Lúc này, tôi và Huyền Lăng đang ngồi đối diện với nhau trong gian phòng phía tây của Nghi Nguyên điện, y cầm một cuốn Thái bình ngự lãm, tôi thì cầm một cuốn Thái thượng cảm ứng thiên, cả hai đều chỉ lặng im xem sách.

    Đối với tôi mà nói, tiếng kêu gào của Quản Văn Uyên lúc này căn bản chẳng cần để ý tới, còn Huyền Lăng thì chẳng có lòng dạ nào mà để ý đến. Huyền Lăng cũng từng sai Lý Trường đi truyền khẩu dụ tới nàng ta: “Trẫm niệm tình nàng từng hầu hạ trẫm nhiều năm, chỉ phế nàng làm thứ dân chứ không ban cái chết cho nàng, nàng mau về đi.”

    Quản Văn Uyên đập cửa điện, khóc lớn: “Hoàng thượng đã xử tội nhà mẹ đẻ của thần thiếp rồi, thần thiếp làm gì còn nhà để về nữa! Thần thiếp bây giờ sống không bằng chết! Hoàng thượng, người ban cái chết cho thần thiếp mà tha cho người nhà của thần thiếp đi!”

    Huyền Lăng không thèm để ý đến nàng ta nữa, tôi cũng không cho ai tới kéo nàng ta đi, sự tuyệt vọng này sẽ gặm nhấm nàng ta, nhấn chìm nàng ta trong đau khổ. Tiếng van cầu của Quản Văn Uyên càng lúc càng thê thảm, sau khi không được đáp lại thì bắt đầu biến thành sự oán hận, oán Huyền Lăng vô tình, oán tôi tàn độc. Bên ngoài chợt có tiếng sấm vang lên, thời tiết oi ả nhanh chóng bị xua tan bởi một trận mưa dông hiếm thấy.

    Đó là một cơn mưa lớn rơi suốt cả đêm, những hạt mưa nặng trịch cuốn phăng đi cái nóng đã ứ đọng trong Tử Áo Thành suốt mấy ngày vừa rồi, cũng làm tâm trạng ngột ngạt của tôi thoải mái hơn đôi chút. Tôi đứng bên Huyền Lăng, nhìn y khởi thảo chiếu thư, đó là một tờ chiếu thư minh oan cho phụ thân và ca ca của tôi, đồng thời cũng là một sự khởi đầu cho việc cha mẹ tôi yên hưởng tuổi già. Tôi đã đặc biệt cầu xin Huyền Lăng, hy vọng y đừng để cha tôi đảm nhiệm chức vụ gì quá cao nữa, ông thật sự đã già rồi.

    Tiếng mưa rơi càng lúc càng lớn, tôi dần dần không còn nghe thấy tiếng kêu của Quản Văn Uyên nữa.

    Mưa lớn đã ngừng rơi, trước khi ánh bình minh đầu tiên chiếu xuống, tôi đi tới trước Nghi Nguyên điện thì không còn thấy bóng dáng Quản Văn Uyên đâu. Lý Trường nói với tôi là nàng ta đã chết trong trận mưa lớn hôm qua, thân thể tựa như một cánh bèo trôi dạt, cuối cùng bị người ta kéo đến bãi tha ma.

    Tôi không nói gì, chỉ lặng lẽ rời đi. Một ngày mới đã bắt đầu, thứ đang đợi tôi phía trước là vô vàn chuyện vụn vặt trong cung.

    Ngọc Ẩn vào cung cầu kiến rồi nói với tôi: “Cố Giai Nghi đã tự rời đi rồi, hành tung bất định.” Sau đó lại hỏi: “Tại sao tỷ không cho dùng hình với Quản Văn Uyên để ép cô ta khai ra người đứng phía sau là Hoàng hậu?”

    Tôi lắc đầu, nói: “Nhà họ Quản vẫn còn người chưa chết, cô ta sẽ không để bọn họ bị liên lụy đâu. Hơn nữa cô ta hận ta đến thấu xương, chẳng lý nào lại hy vọng mất đi một người có thể khắc chế ta.”

    Ngọc Ẩn thầm buồn bực, nhưng ngay sau đó lại vui vẻ nói: “Những năm qua Vương gia đã thu thập được rất nhiều tội chứng của nhà họ Quản, bây giờ rốt cuộc đã có chỗ dùng rồi.”

    Tôi thầm cảm kích, nhưng ngoài miệng thì chỉ nói: “Vương gia là phu quân của muội, dốc sức cho nhà vợ cũng là điều nên làm. Sau này muội đi lại ngoài cung cũng tiện, việc chăm sóc cha mẹ đành phiền muội và Vương gia vậy.”

    Ngọc Ẩn gật đầu, nói: “Điều này là đương nhiên, trưởng tỷ yên tâm.”

    Tôi khẽ nở nụ cười. “Vương gia chịu dốc sức như vậy rốt cuộc vẫn là vì có muội trong vương phủ.” Hơi dừng một chút, tôi lại hỏi: “Người đó tính tình thế nào? Có khiến muội phải chịu chút ấm ức nào không?”

    “Trưởng tỷ nói tới Tĩnh phi ư?” Ngọc Ẩn mỉm cười điềm đạm, dải tua đính trên cây trâm hình hoa đỗ quyên làm bằng hồng ngọc nhè nhẹ đung đưa, càng khiến dung nhan kia thêm phần diễm lệ. “Cô ta có thể khiến muội phải chịu ấm ức gì được chứ? Bọn muội là loại người giống nhau, hơn nữa cô ta quả đúng là một người trầm lặng, trầm lặng đến mức gần như không tồn tại trong vương phủ. Hơn nữa thân thể cô ta tuy đã đỡ hơn rất nhiều nhưng cả ngày vẫn không thể rời khỏi bát canh sâm. Vương gia thương xót cô ta, chuyện ăn mặc không có gì thiếu thốn, có điều cô ta cả ngày chẳng nói được mấy câu, Vương gia chưa từng nghỉ lại chỗ cô ta lần nào.”

    Tôi bất giác có chút chấn động trong lòng, ngay sau đó liền cười, nói: “Vương gia vốn chẳng có tình cảm gì với cô ta, trong khi đó đã quen biết muội nhiều năm rồi, hai bên tất nhiên là không giống nhau. Vương gia đã không qua đêm ở chỗ cô ta, vậy hẳn là mỗi đêm đều được muội hầu hạ thỏa đáng rồi.”

    Ngọc Ẩn ngượng ngùng cười, nói: “Trưởng tỷ toàn trêu muội thôi! Có điều Vương gia đối xử với muội thật sự rất tốt.”

    Có lẽ như vậy cũng không tệ, mọi người đều có vẻ thương yêu, kính trọng lẫn nhau, tựa như diễn kịch vậy.

    Đời người kỳ thực có khác gì một vở kịch đâu, giống như tôi và Huyền Lăng vậy, diễn kịch lâu quá rồi thì sẽ nhập vai, người ngoài nhìn vào cứ tưởng là tình sâu tựa bể, thực tế thế nào chỉ có bản thân là rõ nhất.

    Sau đó Ngọc Ẩn cùng tôi đi thăm Ngọc Diêu. Ngày đó, khi tôi nói với Ngọc Diêu tin tức “Quản Khê đã chết”, Ngọc Diêu chỉ bình tĩnh lắng nghe, mặt không đổi sắc, tựa như đang nghe tin về một người chẳng hề liên quan tới mình.

    Tôi đặt một chiếc nhẫn ngọc tới trước mặt Ngọc Diêu, hai mắt muội ấy đột ngột sáng bừng, bất giác cầm lấy nó, nắm chặt trong lòng bàn tay, ngơ ngẩn nói: “Y vẫn còn giữ nó! Không ngờ y vẫn còn giữ nó!” Sau đó bất ngờ đứng dậy, dải tua đính trên cây thoa cài đầu phát ra những tiếng đinh đang, khuôn mặt tràn ngập vẻ xót xa, đau đớn. “Đại tỷ, y vẫn còn nhớ tới muội, y chưa quên muội. Muội muốn đi gặp y, tỷ hãy để muội đi nhìn mặt y lần cuối đi!” Muội ấy không nén được những tiếng nghẹn ngào trong cổ họng. “Tỷ tỷ, y đã chết rồi, sau này muội không thể nhìn thấy y nữa rồi.”

    Tôi bất giác thầm cảm thấy chua xót, kéo tay Ngọc Diêu lại. “Muội điên rồi! Y tự có thê thiếp khóc tang cho y ở pháp trường, muội chạy đến đó làm gì chứ?”

    Ngọc Diêu lúc này đang cơn nôn nóng làm sao chịu nghe, tuy thân thể yếu ớt nhưng khi phát lực thì không dễ gì kéo lại. Ngọc Ẩn thấy muội ấy giãy giụa liền vội vàng ngăn cản, đồng thời cất tiếng khuyên: “Tam muội mau tỉnh táo lại đi! Chiếc nhẫn này Quản Khê đâu có giữ bên người, chẳng qua là được lấy từ trên tay tiểu thiếp Liễu thị của hắn thôi. Trưởng tỷ sợ muội thương tâm nên còn không cho ta nói.” Lồng ngực Ngọc Ẩn phập phồng không ngớt. “Tam muội quên việc trước đây rồi sao? Hôm nay muội mà bước ra ngoài thì có khác nào phản bội lại gia tộc, ngày mai nhà họ Chân ta ắt sẽ trở thành trò cười lớn nhất trong kinh thành!”

    Ngọc Diêu ngừng giãy giụa, đứng im một chỗ tựa như bị sét đánh trúng, thần sắc đờ đẫn, ngẩn ngơ. Ngọc Ẩn trong lúc cấp bách nói chẳng lựa lời, thế nhưng cũng đều là lời nói thực, mắt thấy Ngọc Diêu như vậy liền không khỏi có chút hoang mang, vội vàng gọi khẽ: “Tam muội.”

    Ngọc Diêu nắm chặt chiếc nhẫn ngọc kia trong tay, như thể muốn bóp nát nó vậy. “Nhị tỷ, nó thật sự được lấy xuống từ trên tay nữ nhân khác ư?”

    Ngọc Ẩn thở dài, than: “Liễu thị là tiểu thiếp thứ tám của hắn.” Sau đó lại nắm lấy bàn tay Ngọc Diêu. “Tam muội, thật sự không đáng đâu.”

    Mãi một hồi lâu sau, Ngọc Diêu mới khẽ “ồ” một tiếng, giọng nói nghe mù mịt như làn sương mù: “Muội sẽ không bao giờ nhớ tới con người đó nữa đâu.” Giọng nói ấy nhẹ nhàng biết mấy, như thể đã chẳng còn ở nhân gian nhưng lại vô cùng quyết liệt. Nói xong, Ngọc Diêu liền xoay người lại, đi vào phòng trong, bước chân có chút loạng choạng như một làn khói mênh mang, rất nhanh đã biến mất phía sau bức bình phong.

    Ngọc Ẩn nắm lấy bàn tay tôi, lộ vẻ tự trách, nói: “Đều tại muội hấp tấp quá!”Tôi khẽ vỗ vào tay muội ấy tỏ ý an ủi, dịu giọng nói: “Muội chỉ nói ra những lời mà ta không dám nói thôi, hơn nữa nếu muội không phải tỷ tỷ của Ngọc Diêu thì chẳng cớ gì lại chịu nói ra những lời như vậy.”

    Ngọc Ẩn gật đầu vẻ thấu hiểu. “Trưởng tỷ mau về nghỉ ngơi đi, đợi lát nữa còn phải nghe Kính Phi thông báo về sổ sách tháng này. Muội cũng phải về đây.”

    Tôi khẽ gật đầu, nói: “Ta sẽ bảo Hoa Nghi trông chừng muội ấy cho tốt, trong mấy tỷ muội chúng ta, Ngọc Diêu vốn là người mà ta yên tâm nhất, chẳng ngờ bây giờ lại khiến ta lo lắng nhất.”

    Cuộc sống của Ngọc Diêu lại trở về như trước, bình lặng như mặt giếng khô. Cái chết của Quản Khê đã khiến thế giới của Ngọc Diêu hoàn toàn mất đi màu sắc, những tâm trạng như vui vẻ hay buồn thương đều đã biến mất cả rồi. Tôi thầm hoài nghi thế giới của muội ấy kỳ thực chỉ còn lại hai màu đen trắng, nhưng đáp lại tôi vẫn chỉ có những tiếng gõ mõ đều đều.

    Cái chết của Quản Văn Uyên giống như một gáo nước lạnh đột ngột giội thẳng xuống hậu cung, chỉ trong mấy ngày, các phi tần vốn chăm chăm tranh giành đấu đá nhanh chóng dừng mọi động tĩnh, lặng lẽ cảm nhận những tia ý vị sâu xa mà cái chết kia mang đến. Chẳng bao lâu sau, điều khiến mọi người trong cung tiếp tục quan tâm là việc Chiêu viện An Lăng Dung khóc lóc cầu xin cho phụ thân mình.

    Sự sụp đổ của nhà họ Quản khiến Huyền Lăng có lòng chỉnh đốn lại các quan viên, mà An Bỉ Hòe với tội danh vơ vét hơn tám mươi vạn lạng bạc trắng và mười mấy khoảnh ruộng tốt chính là kẻ bị lôi ra ngoài ánh sáng trong lần tra xét này.

    Lữ Chiêu dung dẫn Thục Hòa đến chỗ tôi, Thục Hòa nhìn thấy mấy đứa em thì vui vẻ vô cùng, cười khanh khách không ngớt. Tôi ngồi dưới hành lang chơi đùa với một con vẹt lông trắng. Lữ Chiêu dung cười, nói: “Muội nhìn con vẹt này xem, màu lông trắng muốt như tuyết vậy, nhưng không biết lọt vào mắt phụ thân của An Chiêu viện rồi liệu nó có bị nhìn nhầm thành một khối bạc không nữa.”

    “Lữ tỷ tỷ thực biết nói đùa!” Tôi bẻ một chiếc lá phong lan xuống trêu con vẹt. “Dù là quan thanh liêm đi làm tri phủ thì sau ba năm cũng phải kiếm được mười vạn lạng bạc trắng, huống chi An Bỉ Hòe còn là quốc trượng, là ông nhạc của Hoàng thượng cơ mà, tám mươi vạn lạng bạc có tính là gì đâu!”

    Lữ Chiêu dung che miệng cười, nói: “Lão chắc cũng muốn mình là quốc trượng lắm, nhưng như thế phụ thân của Hoàng hậu thì tính là gì? Chỉ e cái gọi làquốc trượng đó chỉ là do lão tự phong để lừa lũ ngốc mà thôi.”

    “Nếu không có kẻ ngốc, ai chịu tặng lão tiền bạc và ruộng tốt? Con gái đắc sủng là quan trọng nhất, ai mà thèm quan tâm lão là quốc trượng thật hay quốc trượng giả.”

    Lữ Chiêu dung đứng dậy khẽ vuốt lông con vẹt. “Hoàng thượng kỳ thực đâu có coi lão là quốc trượng, vẫn cách chức và cho giam lại đó thôi. Đang lúc Hoàng thượng tức giận vì chuyện của nhà họ Quản, ai bảo An Bỉ Hòe tự đâm đầu vào? Mà cái chức tri phủ đó của lão vốn là do Hoàng thượng nể mặt An thị nên mới phong cho, nhưng An Bỉ Hòe thì được lắm, chẳng biết xem trọng cái ơn to như trời bể ấy mà đi làm bừa làm bậy, thế chẳng phải là tát vào mặt Hoàng thượng để làm trò cười cho người khác ư? Với tính cách của Hoàng thượng thì tất nhiên là không chịu được rồi.” Nàng ta vừa cười vừa cho thêm chút ngô vào chiếc đĩa trong lồng chim. “Nghe nói An thị đã quỳ bên ngoài Nghi Nguyên điện tháo trâm thỉnh tội hai ngày rồi, nhưng cô ta không kêu gào như Quản Văn Uyên mà chỉ lặng im khóc lóc. Độ này trời đã bắt đầu trở lạnh, chỉ riêng mấy cơn gió kia thổi vào người đã đủ cho cô ta chịu rồi. Nương nương có muốn đi xem một chút không?”

    Tôi vội vàng xua tay, nói: “Thôi, tỷ tỷ chớ nên tới đó góp vui làm gì, lỡ như Hoàng thượng mềm lòng tha tội cho cha cô ta, chờ khi cô ta đắc thế trở lại ắt sẽ tìm cách báo thù đấy.”

    Lữ Chiêu dung cười, nói: “Vậy ta không đi nữa là được. Nghe nói người tố cáo An Bỉ Hòe là một gã tiểu lại chấp bút dưới quyền, chức quan tuy nhỏ nhưng lá gan lại rất lớn, ngay đến phụ thân của sủng phi trong cung mà cũng dám đụng đến, nhưng qua đó cũng đủ thấy An Bỉ Hòe làm người chẳng ra sao cả.”

    Tôi vẫn khẽ mỉm cười, đúng thế, chỉ là một gã tiểu lại mà thôi, ngoài tôi và Chu Bội ra, ai mà biết An Bỉ Hòe cũng từng làm một gã tiểu lại trông coi kho lương dưới quyền phụ thân Chu Bội ba năm trời. Chỉ sợ ngay đến An Lăng Dung cũng chẳng nhớ ra nổi. Tôi cười nhạt, nói: “Tỷ tỷ nói rất phải, là tự bản thân lão không biết làm người, lại còn xui xẻo nữa.”

    Thế nhưng đêm đó, khi xe Phượng loan xuân ân đón tôi đến phòng đông của Nghi Nguyên điện, tôi đã nhìn thấy An Lăng Dung. Nàng ta lúc này bỏ hết đồ trang sức, đầu tóc buông xõa, những bộ đồ hoặc tao nhã hoặc diễm lệ thường ngày đã được thay bằng một chiếc áo trắng không hề có hoa văn, hy vọng có thể chịu tội thay cho phụ thân mình. Nàng ta đã quỳ liền hai ngày hai đêm, nghe nói chưa ăn uống gì, thân thể lung lay như sắp ngã tới nơi.

    Khi đi ngang qua bên cạnh nàng ta, tôi dừng chân lại, dịu giọng nói: “Muội muội việc gì phải khổ thế này? Xét cho cùng thì sức khỏe của bản thân vẫn là quan trọng nhất.”

    Nàng ta ngoảnh mặt qua nhìn tôi, hờ hững nói: “Lẽ nào ngay đến một cơ hội tháo trâm thỉnh tội mà tỷ tỷ cũng không chịu cho muội ư?”

    “Sao lại thế được!” Tôi cúi đầu nhìn nàng ta, tà váy dài thêu hình hoa hải đường lê đi trên mặt đất sát bên chiếc váy của nàng ta, tựa như một bông hoa diễm lệ nở giữa bùn đất. “Ta chỉ lo lúc này đêm khuya trời lạnh, muội muội quỳ ở đây sẽ bị ốm thôi, hoặc lỡ như có con chuột nào đó đột ngột chạy ra cắn muội muội làm muội muội bị sốt rét thì biết phải làm sao?”

    Nàng ta bất giác rùng mình một cái, cố gượng cười. “Tỷ tỷ nói đùa rồi, nơi này là Nghi Nguyên điện thì làm gì có chuột.”

    “Đúng thế, ta quên mất, chỉ ở trong ngục mới có chuột thôi. Xem ra ta không nên lo cho muội muội mà phải lo cho An bá phụ mới đúng.”

    Lý Trường bước tới, khom người nói: “Nương nương, Hoàng thượng đang đợi nương nương trong kia đấy.”

    Tôi nhìn An Lăng Dung, ôn tồn nói: “Trời lạnh quá, muội muội cẩn thận kẻo lại đổ bệnh đấy, giờ ta sẽ đi cầu xin Hoàng thượng giúp muội.”

    Tôi cất bước rời đi, để lại nàng ta một mình giữa gió sương. Vừa mới bước vào Nghi Nguyên điện, Huyền Lăng đã đưa tay về phía tôi, khẽ cười, nói: “Nàng làm trẫm phải đợi lâu quá!”

    Tôi cất giọng dịu dàng: “Thấy An muội muội quỳ ngoài kia đáng thương quá, thần thiếp liền khuyên muội ấy mấy câu.”

    “Nàng ta chẳng chịu nghe đâu.” Huyền Lăng khẽ “hừ” một tiếng. “Trong lòng nàng ta lúc này chỉ có gã phụ thân chẳng ra gì kia thôi. Trẫm đã cho y làm tri phủ, thăng quan cho y, thế mà y lại không biết nghĩ tới ân đức của trẫm, còn làm trẫm mất mặt.”

    Tôi đưa tay khẽ vuốt ve bờ má y. “Hoàng thượng chớ nên tức giận. An Bỉ Hòe có tệ đến mấy thì cũng chỉ là chuyện của An Bỉ Hòe, không liên quan gì tới An muội muội. Hoàng thượng hãy bảo muội ấy đứng dậy đi!”

    Huyền Lăng nắm lấy bàn tay tôi. “Tay nàng lạnh quá, nhất định là vì vừa nãy đã đứng ngoài kia nói chuyện với nàng ta rồi.” Sau đó liền hà hơi mấy cái vào lòng bàn tay tôi. “Trẫm cũng đâu có muốn trách phạt gì nàng ta, là nàng ta tự mình quỳ ở đó muốn chịu tội thay cha đó thôi. Thật chẳng ra thể thống gì cả!”

    Tôi tựa đầu vào vai y. “Hoàng thượng chớ nên trách An muội muội, muội ấy cũng vì nghĩ tới phụ thân nên có chút nôn nóng mà thôi.” Dừng một chút, tôi lại hỏi: “Liệu Hoàng thượng có định tha cho An Bỉ Hòe không?”

    Y khẽ “hừ” một tiếng. “Tất nhiên là không rồi. Trẫm sẽ không trút giận lên người nàng ta, nhưng cũng sẽ không vì nàng ta mà tha cho An Bỉ Hòe.”

    “An muội muội đã hai ngày nay không ăn không uống gì rồi, hơn nữa còn không ngủ không nghỉ, Hoàng thượng không sợ muội ấy xảy ra chuyện ư?”

    Y hơi nhếch khóe môi để lộ một tia lạnh lùng. “Phi tần tự vẫn là tội lớn, sẽ làm liên lụy tới người nhà. Nàng ta không dám đâu.”

    Lý Trường gõ cửa hai tiếng rồi khẽ bẩm: “Hoàng thượng, đêm khuya rồi mà Chiêu viện nương nương còn múa bên ngoài điện.”

    Huyền Lăng thoáng do dự, cuối cùng vẫn cất bước ra ngoài.

    Chỉ thấy trên bậc thềm trước điện, An Lăng Dung đang nhẹ nhàng múa điệu Kinh Hồng, mái tóc dài lả lướt tung bay, tà váy hệt như một bông hoa nở rộ, đôi tất trắng ngần dưới chân để mặc cho những giọt sương thu thấm ướt.

    Tôi thầm kinh hãi. Trong ký ức, Huyền Lăng không thể nào kháng cự lại điệu múa này.

    “Đẹp! Đẹp quá!” Y cất tiếng khen tự đáy lòng, thần thái như si như mê, giữa đôi hàng lông mày là vẻ tán thán và một nét nhớ nhung nồng đậm.

    Tôi khẽ nói: “Đáng tiếc.” Y ngoảnh đầu lại nhìn tôi. Tôi đứng dưới ánh trăng, lẩm bẩm nói một mình: “Một điệu múa đẹp thế này vốn không nên dính dáng gì tới những sự khao khát mong cầu. Nếu nhảy múa với một mục đích gì đó, vậy là đã đánh mất đi cái chân ý của Thuần Nguyên Hoàng hậu khi sáng tác ra điệu múa này rồi.”

    Sau một hồi lâu trầm lặng, Huyền Lăng mới khẽ nói: “Thuần khiết, đó mới là điều mà một điệu múa cần có nhất.” Sau đó, y liền cầm lấy một chiếc áo khoác lên người An Lăng Dung, cất giọng hững hờ đáp lại ánh mắt chan chứa nỗi chờ mong của nàng ta: “Nửa đêm trời lạnh, đưa Chiêu viện về đi.” Chẳng buồn quan sát nỗi thất vọng nặng nề trong mắt nàng ta, y nói tiếp: “Trẫm bây giờ mới chỉ giam An Bỉ Hòe lại, nếu nàng còn cầu xin nữa, trẫm nhất định sẽ giết ông ta.”
     
  8. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 16: Rượu mai ta ủ mừng xuân tới
    Kể từ ngày Ngọc Ẩn xuất giá, nụ cười bên khóe môi Ngọc Nhiêu ngày một nhiều hơn, mỗi lần ngắm trăng ngắm hoa là những nét vui tươi, phấn chấn lại giống như cánh bướm đậu trên bờ mi chẳng chịu rời đi. Ngoài ra, Ngọc Nhiêu còn có thêm một sở thích mới là ủ rượu, muội ấy thường ngâm những bông hoa đúng mùa vào trong rượu để ủ thành rượu ngon, mà thứ rượu gốc được dùng tới chính là rượu Phần, loại rượu ngon nhất được ủ ra là Mai Hinh Nhưỡng ủ bằng hoa mai đỏ.

    Tôi từng cất lời dò hỏi, Ngọc Nhiêu chỉ trả lời là phụ thân và ca ca vừa được rửa oan, bản thân tất nhiên vui mừng. Rồi muội ấy còn cười, nói: “Không phải tỷ tỷ cũng thích ủ rượu hoa quế đó ư?” Cùng với đó, số lần Ngọc Nhiêu rời khỏi Vị Ương cung cũng ngày một nhiều lên. Một hôm, tôi và Ngọc Nhiêu vừa trở ra từ cung của Thái hậu sau khi thỉnh an, Huyền Phần thì đi theo Đức thái phi tới trò chuyện với Thái hậu, khi tôi đang đứng hàn huyên với Đức thái phi mấy câu thì Huyền Phần và Ngọc Nhiêu thỉnh thoảng lại lén đưa mắt nhìn nhau âu yếm, tới lúc này tôi mới xua tan được nỗi nghi hoặc trong lòng. Tôi không kìm được nở nụ cười mỉm, mấy thiếu niên thiếu nữ vừa chớm nụ tình thì sao biết cách che đậy tình cảm của bản thân.

    Vừa về tới Nhu Nghi điện, tôi liền đuổi hết mọi người ra, hỏi: “Là chuyện từ bao giờ vậy?”

    Nét ửng hồng trên khuôn mặt Ngọc Nhiêu đã cho tôi một đáp án hết sức rõ ràng, hoàn toàn khác với những lời hàm hồ của muội ấy lúc này: “Tỷ tỷ nói gì thế?”

    “Cửu Vương gia.” Tôi lại hỏi thêm lần nữa: “Chuyện bắt đầu từ bao giờ vậy?”

    Ngọc Nhiêu cúi đầu mân mê mép váy, sau một hồi trầm ngâm suy nghĩ mới khẽ nói: “Đại khái... Muội cũng không nhớ nữa.”

    Tôi mỉm cười phán đoán: “Là ngày y bịt mắt muội ở Chiêu Dương điện hay là hôm y bắn rơi chiếc thoa phượng của muội ở Quan Võ đài?” Tôi suy nghĩ một chút rồi hỏi: “Muội không ngại cửu Vương gia xuất thân hàn vi ư?”

    Ngọc Nhiêu đưa tay gạt mấy lọn tóc rối ra sau tai, hai mắt ánh lên mấy tia mơ màng, khẽ nói: “Phần cũng chưa từng chê muội là con gái của tội thần.”

    “Phần?” Tôi ngẩn ngơ nhớ lại, mấy năm trước trên đỉnh Lăng Vân, mình cũng từng gọi nam tử kia là Thanh như thế. Rất nhanh sau đó tôi đã tỉnh táo trở lại, mỉm cười, nói: “Gọi y như thế chứng tỏ tình cảm của muội với y đã rất sâu đậm rồi.” Rồi tôi cất tiếng trêu Ngọc Nhiêu: “Ta nhớ có người từng nói là thà lấy hạng thất phu sống qua loa cả đời cũng quyết không bước chân vào cửa cung đình hay vương phủ nửa bước cơ mà! Không biết người đó là ai vậy?”

    Ngọc Nhiêu bất giác thẹn đỏ mặt, khẽ lay cánh tay tôi, nói: “Tỷ tỷ chớ trêu muội nữa.” Sau đó lại cắn chặt môi. “Y thật sự không giống với Hoàng thượng và Kỳ Sơn Vương. Y... rất tốt.”

    “Tâm ý của y muội có khẳng định được không?”

    Ngọc Nhiêu gật đầu. “Ngày đó muội tiễn nhị tỷ tới phủ Thanh Hà Vương, y cũng có mặt. Y nói, y nói...” Ngọc Nhiêu không nói tiếp được nữa, thẹn thùng giậm chân, gắt: “Dù sao muội cũng biết rõ mà.”

    “Nếu bọn muội thật sự có ý này, ta cũng có thể đi hỏi ý Thái hậu để xin lão nhân gia người ban hôn. Có điều muội không được phép lén chạy ra ngoài nữa đâu đấy, bị người ta biết ắt sẽ trở thành trò cười cho xem.”

    Ngọc Nhiêu thẹn thùng đáp “vâng” một tiếng, vội vàng chạy về Vĩnh Bảo đường.

    Đợi Ngọc Nhiêu đi rồi, Cận Tịch liền hỏi tôi: “Nương nương đã hạ quyết tâm rồi ư?”

    Tôi trịnh trọng gật đầu, trầm ngâm nói: “Chuyện Hoàng thượng có ý với Ngọc Nhiêu hai chúng ta đều biết rõ, tranh thủ bây giờ sự việc còn dễ giải quyết, nếu có thể gả Ngọc Nhiêu đi được là tốt nhất. Ta nghĩ kĩ rồi, nếu gả vào gia đình bình thường nào đó thì chẳng ích gì, chỉ có gả cho huynh đệ ruột thịt của Hoàng thượng thì mới có thể khiến Hoàng thượng dứt hẳn suy nghĩ đó, bằng không thì thực là hậu họa vô cùng.”

    Cận Tịch nghiêm túc nói: “Như vậy cũng tốt. May mà tứ tiểu thư và cửu Vương gia tình đầu ý hợp, những mối phiền phức hẳn sẽ bớt đi nhiều.”

    Hôm ấy gió lạnh kéo về, tôi khoác lên mình một chiếc áo choàng thêu hình hoa mẫu đơn màu mật ong rồi dẫn theo ba đứa bé tới cung của Thái hậu thỉnh an. Thái hậu bế Hàm Nhi và Nhuận Nhi trong lòng ngắm nghía một hồi, không kìm được mừng rỡ nói: “Nhuận Nhi ngày càng khỏe mạnh hơn rồi, qua đó đủ thấy con chăm sóc thằng bé rất tận tâm, Đức phi ở trên trời có linh thiêng hẳn sẽ được an ủi rất nhiều.” Nói xong liền kêu Phương Nhược mang đồ điểm tâm tới cho mấy đứa bé ăn.

    Tôi cởi áo choàng ra, bên trong chỉ mặc một chiếc áo dài cân vạt màu tím nhạt thêu hình hoa mai, cổ áo dựng đứng tinh tế lại càng làm tôn lên khí chất hiền hòa. Thái hậu cười, nói: “Chiếc áo choàng vừa rồi rất đẹp, có điều chiếc áo mặc bên trong này màu sắc thực có phần lạnh lẽo quá. Giữa ngày đông con nên mặc những chiếc áo sẫm màu, hoa lệ một chút, có như vậy nhìn mới có sức sống.” Bà ta chăm chú nhìn một lát, không kìm được hỏi: “Ta nhớ chiếc áo này của con được làm từ mùa đông năm ngoái, sao bây giờ vẫn còn mặc vậy?”

    Tôi cười, nói: “Vào những dịp lễ tết, tất nhiên cần ăn mặc trông có sức sống một chút, có điều bây giờ là đi thỉnh an Thái hậu, đã là người một nhà rồi đâu cần chăm chút quá làm gì, hơn nữa chiếc áo này cũng chưa cũ.”

    Bà ta cười tủm tỉm, nói: “Rốt cuộc vẫn là con biết tiết kiệm, Chức tạo phường giờ đang phải may váy áo cho Mẫn Phi cũng đủ bận rộn rồi.” Dừng một chút rồi lại hỏi: “Hoàng thượng gần đây vẫn thường xuyên tới chỗ An thị sao?”

    “Cũng không phải là thường xuyên, một tháng chỉ tới chừng hai, ba lần thôi.”

    Thái hậu gật đầu, nói: “Vậy thì còn được.”

    Tôi đang suy nghĩ xem nên mở miệng thế nào, bức rèm bên ngoài bỗng nhiên được vén lên, kế đó Trang Hòa Đức thái phi bám vào tay một cung nữ chậm rãi đi vào, vừa nhìn thấy tôi liền mím môi cười, nói: “Thì ra Thục phi cũng ở đây.” Tôi vội vàng đứng dậy hành lễ bái kiến.

    Hàn huyên được một lát, vì hôm nay thái phi mặc một chiếc áo mới màu tím thêu hình mây màu ngũ sắc cùng mấy bông hoa lạc tiên rất đẹp nên mọi người đều không kìm được khen ngợi mấy câu, lại nói thái phi mặc chiếc áo này quả là rất hợp, trông tràn đầy sức sống. Thái phi cười đến nỗi không khép miệng lại được. “Ngày đó ta tới Chức tạo cục chọn vải thì vừa hay gặp tứ tiểu thư của nhà Thục phi, chính cô bé đó đã thay ta chọn màu này đấy. Ta vốn nói mình đã đến tuổi này rồi không mặc nổi áo màu tím, kiểu vải này cũng có vẻ khá bình thường, cô bé đó liền nói chỉ cần thêu thêm hoa văn mây màu ngũ sắc lên là đẹp hơn ngay. Hôm nay áo làm xong ta mặc thử thấy quả là không tệ, xem ra nhãn lực của tứ tiểu thư thực không kém chút nào.”

    Tôi vội nói: “Thái phi quá khen rồi, trẻ con thì có biết cái gì đâu.”

    Thái phi mỉm cười, đưa mắt nhìn tôi. “Một nha đầu thông minh, lanh lợi như vậy mà Thục phi còn nói là không tốt, nếu Thục phi chê thì chớ trách ta đưa cô bé đó về làm nhi tức.” Tôi thầm máy động trong lòng, quả nhiên thấy thái phi nháy mắt với tôi một cái, lập tức hiểu ngay là bà có ý cầu hôn cho Huyền Phần. Rồi thái phi mỉm cười, nói với Thái hậu: “Phần Nhi tuổi cũng đã lớn, hôm đó nhìn thấy thằng bé Huyền Thanh cưới Trắc phi thì khó tránh khỏi cũng sinh ra tâm tư này. Phần Nhi không phải con ruột của thần thiếp, thần thiếp thực không dám làm lỡ dở chuyện chung thân của nó kẻo khiến Thuận Trần thái phi oán trách, do đó đã bắt đầu để ý tìm. Thần thiếp thấy Chân tứ tiểu thư thông minh, ngoan ngoãn, thực là một lựa chọn không tệ chút nào.”

    Thái hậu đưa mắt nhìn qua một chút rồi mỉm cười, nói: “Ai gia cũng rất thích nha đầu Ngọc Nhiêu đó, hiện giờ nhà họ Chân đã hưng vượng trở lại, bậu cửa cũng cao lên, người tới cầu thân quả thực không ít. Hai hôm trước lão thái phi nhà Thụy An Quận vương vừa tới gặp ai gia, trong khi trò chuyện có nói là Thụy An Quận vương tuổi đã không còn nhỏ nữa, ai gia liền có ý tác thành cho y và Ngọc Nhiêu. Sao muội muội không chịu nói sớm? Nếu ta mà biết muội có tâm tư này thì ắt đã không nói việc đó với lão thái phi rồi.”

    Đức thái phi nghe thế liền có chút lúng túng: “Thần thiếp không biết Thái hậu đã có lòng này, thực là mạo muội, có điều đất phong của Thụy An Quận vương hình như ở xa mãi tận Thanh Hải.”

    Tôi thầm kinh hãi, vừa định mở lời thì Thái hậu đã đưa mắt nhìn xa. “Thanh Hải tuy có hơi xa nhưng vương phủ dù sao cũng là nơi cao sang, tôn quý, không tính là bạc đãi gì nha đầu đó.” Rồi bà ta lại cười, nói: “Nhị muội của Thục phi vừa gả cho lão lục xong, nếu lại gả thêm một muội muội nữa tới thì há chẳng phải các cô nương tốt của nhà họ Chân đều vào nhà chúng ta hết? Có thứ gì tốt thì cũng đừng nên một mình hưởng hết mới phải! Chờ đến mùa xuân, ai gia sẽ để ý tìm một vị tiểu thư danh môn cho Phần Nhi.”

    Đức thái phi nghe thấy lời này thì cũng không tiện nói gì nữa, sau khi ngồi thêm một lát liền đứng dậy cáo từ.
    Thái hậu thấy chỉ còn lại tôi thì mới chậm rãi nói: “Ngọc Nhiêu là muội muội của con, ai gia rất muốn nghe thử ý kiến của con xem thế nào, con thấy gả nha đầu đó cho ai thì tốt hơn?”

    Tôi trầm ngâm không nói, chỉ thầm phán đoán xem trong việc này Thái hậu đã biết được bao nhiêu. Một cơn gió lạnh chợt thổi vào qua ô cửa sổ khép hờ, hơi lạnh cùng sự khô hanh của mùa đông nhanh chóng tràn khắp trong điện. Giọng nói của Thái hậu lúc này dường như cũng thấp thoáng mấy tia lạnh lẽo: “Con thông minh như thế, chắc cũng biết được tâm tư của Hoàng thượng với muội muội con rồi.”

    Tôi như bị một chậu nước lạnh giội thẳng xuống đầu, không kìm được rùng mình một cái, chẳng biết phải nói gì.

    Thái hậu thở dài, than: “Con trai ai gia có tâm tư thế nào, ai gia làm gì mà chẳng rõ. Ai gia cũng biết Ngọc Nhiêu là một đứa bé tốt, có điều...” Trên khuôn mặt nhăn nhúm đầy vẻ già nua của bà ta lộ ra một tia xót xa hết sức nặng nề. “Nha đầu ấy quá giống Thuần Nguyên Hoàng hậu đã qua đời, tính tình thì từa tựa Hoa Phi hồi mới vào cung. Ai gia sợ Hoàng thượng không thể kiềm chế nổi bản thân, trước đây đã có một Phó Như Kim rồi, ai gia thực không dám mạo hiểm thêm lần nữa.”

    Tôi cung kính quỳ xuống, bình tĩnh nói: “Thái hậu, Ngọc Nhiêu không hề muốn trở thành phi tần của Hoàng thượng, thậm chí còn chưa từng nghĩ tới việc ấy.”

    “Ai gia biết chứ, ai gia còn biết nếu không vì Huyền Phần có ý với muội muội của con thì hôm nay Đức thái phi đã chẳng tới đây mở lời rồi.”

    “Cửu Vương gia với Ngọc Nhiêu quả thực tâm đầu ý hợp.”

    Thái hậu đứng dậy đi tới bên cửa sổ, đưa mắt nhìn những cành trúc trơ trọi đã rụng hết lá. “Chính bởi vì là cửu Vương gia nên ai gia mới không thể đồng ý mối hôn sự này, việc huynh đệ vì nữ nhân mà nảy sinh phân tranh, ai gia tuyệt đối không bao giờ chấp nhận.” Bà ta cất giọng kiên quyết mạnh mẽ, từng câu từng từ đều như gõ vào lòng tôi. “Muội muội của con nếu được gả cho một thần tử bình thường ở kinh thành thì khó đảm bảo rằng Hoàng thượng sẽ không còn quyến luyến nữa, trong khi đó Thụy An Quận vương là biểu đệ của Hoàng thượng, lại ở xa mãi tận Thanh Hải, dù Hoàng thượng có muốn thì cũng chẳng thể đến đó cướp người về được, do đó gả Ngọc Nhiêu cho Thụy An Quận vương chính là cách tốt nhất.”

    Tôi thầm chấn động trong lòng, nôn nóng kêu lên: “Thái hậu!”

    “Ai gia biết là con không nỡ.” Bà ta đi tới đỡ tôi đứng dậy. “Nhưng Hoàng thượng không thể nạp Ngọc Nhiêu vào cung được, nạp vào rồi thì khó đảm bảo rằng sẽ không xảy ra mối tai họa như Phó Như Kim. Hơn nữa như con vừa nói, Ngọc Nhiêu không có ý gì với Hoàng thượng, nếu bị bức ép quá thì sự an toàn của Hoàng thượng thực khó mà đảm bảo. Do đó việc này ai gia chỉ thông báo cho con biết trước thế thôi, chờ đến mùa hạ khi Thụy An Quận vương tiến kinh, ai gia sẽ tự có an bài.”

    Sống lưng tôi ngứa ngáy như bị gai đâm, khóe miệng hơi máy động nhưng rốt cuộc vẫn không nói gì, buồn bã cáo lui.

    Tôi không nói một lời, trở về Vị Ương cung liền vội vàng sai Tiểu Liên Tử đi mời Ngọc Ẩn vào cung.

    Ngọc Ẩn khi mới tới nơi thì còn chưa biết là có chuyện gì xảy ra, nghe tôi kể xong liền không kìm được cau mày lại. “Thái hậu đã có ý này rồi thì chỉ e là không dễ giải quyết. Nhưng trưởng tỷ, Ngọc Nhiêu và cửu Vương gia bây giờ tâm đầu ý hợp, thực không nên chia tách bọn họ, vả lại nếu tứ muội phải gả đến một nơi khỉ ho cò gáy như Thanh Hải, chỉ e sau này muốn trở về kinh thành một chuyến cũng chẳng dễ dàng gì.”

    Ngọc Nhiêu nghe xong thì chỉ im lặng không nói gì, mãi một hồi lâu sau mới nói: “Muội sẽ không đi đâu.”

    Tôi nói: “Ta đương nhiên biết là muội sẽ không đi, bằng không đợi đến sang năm khi rượu mới của muội ủ xong, lẽ nào Mai Hinh Nhưỡng còn phải đưa từ Thanh Hải về đây hay sao?”

    Ngọc Ẩn cau mày lo lắng, trầm ngâm nói: “Nếu biết tin này, cha mẹ không cuống lên mới là lạ, tạm thời đừng nên nói gì với họ thì hơn.”

    Tôi nói: “Tất nhiên là vậy rồi. Việc này Thái hậu còn đang suy nghĩ, chưa biết chừng còn có thể thay đổi được. Chúng ta tạm thời đừng nôn nóng, tệ nhất thì cũng phải tới mùa hè sang năm Thụy An Quận vương mới vào kinh. Điều quan trọng nhất là trong vòng nửa năm sắp tới đừng để Hoàng thượng mở lời với Ngọc Nhiêu, vậy thì mới có thể từ từ tìm cách được.”

    Tôi bắt đầu thầm trù tính, Bình Dương Vương Huyền Phần là con út của tiên hoàng, thân mẫu Thuận Trần thái phi xuất thân hàn vi, vốn chỉ là cung nữ chuyên việc may vá ở Tú viện, khi tiên hoàng còn tại thế, ngôi vị cao nhất của bà ta chẳng qua chỉ là Ân Tần, về sau tuy được tấn phong làm thái phi nhưng hoàn toàn là nhờ vào con trai, ngoài ra Bình Dương Vương từ khi còn nhỏ đã được giao cho Trang Hòa Đức thái phi vốn là mẹ của ngũ Hoàng tử đã qua đời sớm nuôi nấng trưởng thành. Hiện giờ nhà họ Chân tuy nhân đinh ít ỏi nhưng xét trong các gia tộc ngoại thích thì chỉ thua kém duy nhất nhà họ Chu. Tôi thân là thục phi chính nhất phẩm, nắm quyền quản lý hậu cung, lại đang có nhiều con cái nhất với hai vị công chúa, một vị hoàng tử, ngoài ra còn nuôi thêm một hoàng tử khác là Dư Nhuận do My Trang để lại, trong mắt người ngoài, bất kể xét về hiện tại hay tương lai, tôi đều rất đáng để bợ đỡ.

    Thuận Trần thái phi vì tiền đồ của con trai mình đương nhiên rất hy vọng Ngọc Nhiêu và Huyền Phần có thể đến với nhau, còn Trang Hòa Đức thái phi thì không có con ruột, hẳn cũng quan tâm tới Huyền Phần vô cùng, tuy không dám chống đối Thái hậu nhưng trong lòng nhất định mười phần tán thành mối hôn sự giữa Huyền Phần và Ngọc Nhiêu, bằng không thì hôm nay đã chẳng chủ động đi gặp Thái hậu để nhắc tới việc này. Hiện giờ khó qua nhất vẫn là cửa của Thái hậu, trừ phi... Tôi bất giác thầm máy động trong lòng.

    Hiện giờ tôi nắm quyền quản lý lục cung, muốn gặp Huyền Phần một chút tất nhiên không có gì là khó khăn cả, có điều Thái hậu đã biết việc giữa y và Ngọc Nhiêu, để tránh mối hiềm nghi và không làm Thái hậu bực mình, tôi tuyệt đối không thể ra mặt. Hơn nữa, câu này nhất định phải do người chí thân hỏi mới xong. Huyền Lăng tất nhiên là không được rồi, Kỳ Sơn Vương thì tuy lớn tuổi nhưng lại là người rất sợ chuyện, ắt không chịu đắc tội với Thái hậu, do đó cũng chẳng cần xét tới làm gì.

    Tôi suy đi nghĩ lại, bây giờ người chịu giúp đỡ và có thể giúp được chỉ có mình y thôi. Tôi bất giác khẽ thở dài một tiếng, Huyền Thanh, muội quả thực không muốn mang tới cho huynh chút phiền phức nào kẻo huynh lại lo lắng cho muội, nhưng rốt cuộc vẫn có những chuyện không thể không phiền tới huynh.

    Tôi thoáng ưu sầu trong khoảnh khắc, ngay sau đó liền dằn lòng lại, đưa tay đỡ Ngọc Ẩn đứng dậy, nói bằng giọng rất khẽ: “Chuyện này chỉ đành nhờ muội và lục Vương gia giúp đỡ thôi, ngoài ra chúng ta còn phải đi gặp cửu Vương gia hỏi lấy một lời khẳng định nữa.”

    Lời khẳng định ấy Huyền Thanh đã hỏi được từ chỗ Huyền Phần, đó là một câu nói khiến cả tôi và Ngọc Nhiêu đều cảm thấy yên tâm: “Lòng ta son sắt, quyết không lay chuyển.”

    Y đã có tâm tư như thế với Ngọc Nhiêu, dù phải dốc hết tâm cơ cũng hoàn toàn xứng đáng.

    Ngọc Nhiêu khi nghe thấy câu nói đó cũng mười phần cảm động, thế nhưng lại không rơi lệ mà chỉ cười tủm tỉm, nói với tôi: “Muội đã sớm biết tâm ý của y rồi mà.”

    Vẻ chắc nịch ấy khiến tôi và Ngọc Ẩn đều cảm thấy vững dạ và thoải mái hơn nhiều.

    Trong cung tạm thời không có việc tuyển tú. Tết đến, khi các phi tần triều kiến không có người mới nào, thêm vào đó An Lăng Dung đã dần có vẻ thất sủng, hiện giờ người bầu bạn bên cạnh Huyền Lăng nhiều nhất là Mẫn Phi và Dư Dung Nương tử. Ngọc Ẩn dùng thân phận là trắc phi của Thanh Hà Vương liên hệ với vương phi của các thân vương, mỗi phủ chọn lấy một nữ tử xinh đẹp, trẻ tuổi đưa vào cung. Do là người mà các vương phủ tiến cử nên tôi cũng không bạc đãi, đi xin thánh chỉ phong cho tất cả làm thường tại. La thị do phủ Kỳ Sơn Vương tiến cử trở thành Xuân Thường tại, Chúc thị do phủ Thanh Hà Vương tiến cử trở thành Dực Thường tại, còn Bình Dương Vương thì vì chưa thành thân nên được Đức thái phi thay mặt tiến cử Giang thị, hiện giờ đã trở thành Anh Thường tại.

    Ba vị Thường tại vào cung là việc mừng, mà nữ tử do các vương phủ tiến cử đều đã được chọn lựa rất kĩ, Xuân Thường tại giỏi gảy đàn nguyệt, Anh Thường tại có sở trường về nhảy múa, còn Dực Thường tại thì hát Côn khúc rất hay. Sau khi vào cung, cả ba đều được cho vào ở trong Ngọc Bình cung. Ba nữ tử này đều trẻ trung, xinh đẹp, Huyền Lăng lại thích cái sự mới mẻ ở bọn họ, thế là những khi có thời gian rảnh rỗi thường tới Ngọc Bình cung, cũng vì thế nên cả ba mới vào cung được hai tháng đã lần lượt trở thành tài nhân, mỹ nhân và giờ là quý nhân chính lục phẩm, trong đó Dực Quý nhân Chúc thị là đắc sủng nhất. Vừa khéo lúc này, Trinh Quý tần vốn đổ bệnh đã lâu nay hoàn toàn bình phục, Huyền Lăng trong cơn mừng rỡ liền phong nàng ta làm thục dung, Từ Yến Nghi từ đó liền trở thành một trong cửu tần. Thế nhưng mọi người trong cung vẫn bàn luận xôn xao, nói An Lăng Dung giờ đã không còn được ân sủng như trước, thế mà Lữ Chiêu dung là mẹ ruột của trưởng nữ và Từ Thục dung là mẹ ruột của Hoàng tử lại đều phải xếp sau nàng ta, thực là không công bằng.

    Mà sau khi sang năm mới, Dư Dung Nương tử cũng được tấn phong làm quý nhân, ngay đến phong hiệu cũng không thay đổi, trở thành Dư Dung Quý nhân, cực kỳ nổi bật. Có lẽ chỉ từ phong hiệu hai chữ đó thôi cũng đủ thấy được sự sủng ái của Huyền Lăng đối với nàng ta, mà kể từ sau cuộc đua ngựa ở Quan Võ đài, Huyền Lăng ngày càng yêu quý nàng ta, dù có ba mỹ nữ mới vào cung nhưng sự ân sủng dành cho nàng ta vẫn không hề suy giảm.

    Huyền Lăng có thêm ba sủng phi mới, thời gian tới cung của tôi tất nhiên ít hẳn đi. Năm mới sự vụ rất nhiều, hậu cung là thế mà tiền triều cũng là như thế. Ngày mùng Một Tết, Huyền Lăng hạ chỉ lập Dư Ly làm Tề Vương, Dư Bái làm Tấn Vương, Dư Hàm làm Triệu Vương, Dư Nhuận làm Sở Vương. Lần này bốn vị Hoàng tử cùng được phong vương, trưởng tử bị đặt ngang hàng với ba đứa bé còn chưa dứt sữa, những ý kiến trước đó về việc lập trưởng tử Dư Ly làm thái tử lập tức giảm đi hẳn.

    Thời gian vùn vụt trôi qua, thoắt đó mà một mùa xuân mới đã lại tới.
     
  9. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 17: Vẫn nhớ áo xuân ngày trai trẻ
    Mùa xuân năm Càn Nguyên thứ hai mươi ba tới rất sớm, tuyết vừa tan gió ấm đã thổi về, Thượng Lâm uyển nhanh chóng ngợp giữa sắc xuân vô hạn.

    Hôm ấy Huyền Lăng nghỉ lại Nhu Nghi điện, sáng sớm ngủ dậy không có việc gì liền nằm tựa vào giường nhìn tôi chải chuốt, trang điểm. Dưới ánh bình minh, trông sắc mặt y lúc này ngợp vẻ dịu dàng.

    Tôi cài một cây trâm hình hoa lan lên búi tóc, cất tiếng hỏi Phẩm Nhi đang đứng ngoài cửa sổ: “Tứ tiểu thư đâu?”

    Phẩm Nhi đáp: “Tứ tiểu thư mới sáng sớm đã mang theo giấy bút, nói là đi vẽ tranh rồi.”

    Tôi ngó mắt nhìn sắc xuân nồng đậm bên ngoài, sau khi thầm tính toán một chút liền cười, nói với Huyền Lăng: “Hoàng thượng có muốn cùng thần thiếp đi ngắm cảnh xuân không?”

    Y vui vẻ đồng ý. Chúng tôi dắt tay nhau đi giữa một mảnh xanh tươi bát ngát, khắp nơi đều là cỏ non mơn mởn cùng liễu rủ phất phơ. Tôi thỉnh thoảng lại dừng chân ngắm cảnh, y thì hái mấy bông hoa cài lên vạt áo tôi, giữa những tia nắng ấm áp, trông y có vẻ ung dung, điềm đạm như hồi chúng tôi mới gặp. Thế nhưng trong nỗi niềm cảm khái về việc mùa xuân chắc khác lúc xưa, chút tâm tình hư vô, mờ mịt ấy nhanh chóng tan đi như làn sương mù sáng sớm, chẳng để lại trong tôi chút dấu tích nào.

    Thốt nhiên, tôi và Huyền Lăng cùng dừng chân lại, đứng cạnh mấy gốc ngọc lan mà dõi mắt nhìn về phía xa.

    Chỉ thấy bên bờ hồ Thái Dịch nơi hoa hạnh nở đầy, một cặp thiếu niên thiếu nữ đang đứng kề vai nhau thân mật.

    Chẳng biết bọn họ đã đứng đó bao lâu, trên người cả hai đều rơi đầy hoa hạnh. Sắc hoa màu hồng dịu nhẹ bám lên đầu tóc, khuôn mặt cùng y phục của bọn họ, tựa như những bông tuyết mỏng manh, thuần khiết bao bọc họ vào trong.

    Thiếu nữ cầm một cây bút trong tay, dường như đang vẽ cảnh xuân vô biên vô tận trên hồ Thái Dịch. Thiếu niên đứng kề bên thỉnh thoảng lại rỉ tai thiếu nữ mấy câu, mỗi lần y nói gì đó là thiếu nữ kia lại nghiêng đầu sang nở nụ cười với y hoặc là trề môi ra làu bàu âu yếm. Trên mặt hai người đều có những tia ửng hồng, muôn vàn cánh hoa rạng rỡ xung quanh đều như bị gió xuân cuốn lên đó cả.

    Trong mắt bọn họ lúc này dường như chỉ có nhau, hoàn toàn không phát hiện tôi và Huyền Lăng đang dừng chân ở phía xa ngắm nhìn. Hồ Thái Dịch trước mặt dập dờn sóng biếc, những bông hoa hạnh phía sau thì lả tả rơi, khung cảnh thực vô cùng thơ mộng. Kỳ thực chẳng cần gì phải vẽ, cặp thiếu niên nam nữ đang độ tuổi xuân kia vốn đã là một bức tranh đẹp nhất rồi.

    Khung cảnh xung quanh chìm trong tĩnh lặng, một làn gió xuân thổi qua gốc ngọc lan bên cạnh tôi, mấy bông hoa trắng muốt tà tà rơi xuống đất phát ra những tiếng “lộp bộp” khe khẽ. Tôi lén để ý quan sát thần sắc Huyền Lăng, thấy trên khuôn mặt y lộ ra một tia giận dữ, nhưng xen giữa đó còn có mấy nét dịu dàng và mê say.

    Thiếu niên giúp thiếu nữ phủi đi những bông hoa hạnh bám trên người, lại chọn lấy một bông đẹp nhất mà cài lên búi tóc cho thiếu nữ.

    Thiếu nữ khẽ “úi” lên một tiếng, nói: “Yên nào!” Sau đó lại làm bộ oán trách: “Bây giờ cài hoa hạnh lên đầu ta như thế, huynh nhất định là đã đánh mất cây thoa phượng kia rồi đúng không?”

    “Sao lại thế được!” Thiếu niên nghiêm túc nói. “Đó là đồ của nàng mà.”

    Thiếu nữ đỏ bừng hai má, phỉ phui một tiếng: “Đồ của ta thì nhiều lắm, thế mà hôm đó huynh lại chọn bắn cây thoa phượng kia.”

    Vẻ cô độc thanh cao thường thấy trên mặt thiếu niên nay đã hoàn toàn biến mất, thay vào đó là thần thái phấn chấn, hào sảng tựa một gốc tùng xanh sừng sững giữa rừng. “Bởi vì lục ca từng nói, phượng hoàng cùng bay, kêu vang ân ái.”

    Thiếu nữ không nói gì thêm, cúi đầu mỉm cười, nét cười đó tựa một dòng nước mùa xuân vừa phá băng chảy ra, êm dịu tột cùng. Hồi lâu sau thiếu nữ mới không cười nữa, hơi cau mày, cất tiếng thở dài. “Tỷ tỷ từng đi hỏi ý Thái hậu rồi, Thái hậu không đồng ý cho chúng ta ở bên nhau.”

    Thiếu niên nghiêm túc nói: “Nếu Thái hậu không đồng ý, ta sẽ quấn lấy người để cầu xin. Nhược bằng vẫn không được, ta sẽ một mực không thành thân như lục ca vậy. Tóm lại ta sẽ không phụ nàng, cũng sẽ không cưới ai khác.”

    Thiếu nữ vẫn buồn bã không vui. “Huynh là thân vương, sao có thể chỉ cưới một thê tử thôi được, huynh hãy nhìn xem hoàng huynh của huynh có bao nhiêu phi tần đi kìa.”

    Thiếu niên nghiêm túc nói: “Ta sẽ giống như lục ca, không cưới người nào khác đâu.” Hơi dừng lại một chút, y lại nói tiếp: “Trong hôm lục ca thành thân, ta đã nói với nàng rồi mà, ta chỉ đợi nàng thôi.”

    Thiếu nữ lại khẽ thở dài tiếng nữa, thiếu niên bèn chăm chú nhìn thiếu nữ, nói: “Ta biết là khi sự việc còn chưa ngã ngũ nàng sẽ có rất nhiều điều không thể yên tâm, ta chỉ có thể nói với nàng một lời này thôi.” Y nắm lấy bàn tay thiếu nữ, cất giọng kiên định: “Nàng yên tâm.”

    Thiếu nữ nở nụ cười tươi, khẽ nói: “Ta biết.”

    Ngắm nhìn cảnh tượng trước mắt, Huyền Lăng chỉ lặng im không nói, mãi một hồi lâu sau mới chăm chú nhìn vào đôi mắt đã được trang điểm kĩ càng của tôi. “Nàng cố ý để trẫm nhìn thấy đúng không?”

    Tôi thản nhiên nhìn lại y. “Thần thiếp không cần phải cố ý. Việc như thế này mỗi ngày đều xảy ra, sớm muộn gì cũng sẽ truyền tới tai Thái hậu.” Hơi dừng một chút, tôi lại nói tiếp: “Do đó, may mà hôm nay Hoàng thượng đã nhìn thấy cảnh này.”

    “Thái hậu sẽ không cho phép đâu.”

    Tôi không hề chùn bước. “Nếu Hoàng thượng chịu thỉnh cầu, Thái hậu ắt sẽ cho phép.”

    “Trẫm sẽ không bao giờ làm như thế.”

    “Tứ lang.” Tôi dịu dàng gọi y. “Mối tình nhi nữ trong sáng này thật giống với Hoàn Hoàn và tứ lang năm xưa, tứ lang và Hoàn Hoàn đều là người từng trải, cớ gì lại không tác thành cho bọn họ chứ?”

    Hai mắt y bất giác rực sáng, tựa như muốn nhìn thấu trái tim tôi. “Thục phi, nàng thông minh như thế, chắc sớm đã nhìn ra tâm ý của trẫm với Ngọc Nhiêu rồi, do đó, hãy tìm cách ngăn cản bọn họ đi.”

    Tôi đưa tay chỉ về phía xa. “Tình cảnh thế này thần thiếp làm sao mà ngăn cản được. Hoàng thượng, người thông minh như thế, lẽ nào không biết câu hoa rơi hữu ý, nước chảy vô tình?”

    Y hơi ngẩn ra một chút, trầm giọng nói: “Trẫm tự sẽ có cách.”

    Tôi lùi về phía sau một bước, cất giọng khẩn thiết: “Cho dù Hoàng thượng có cách thì cũng xin hãy hỏi ý Ngọc Nhiêu một chút, bằng không há chẳng phải là miễn cưỡng người khác ư? Mà cửu Vương gia còn là đệ đệ ruột thịt của người nữa.” Y phất tay áo rời đi, không nói gì thêm.

    Lòng tôi đầy nỗi âu lo, trở lại Nhu Nghi điện, thấy Ngọc Nhiêu miệng ngậm nét cười quay về thì không đành lòng nói rõ chân tướng sự việc, còn Huyền Lăng thì suốt mấy ngày kế đó không đặt chân tới Nhu Nghi điện thêm một lần.

    Cuối cùng, cục diện căng thẳng rốt cuộc đã bị phá vỡ bằng việc y ghé thăm. Lúc này Ngọc Nhiêu đang ngồi bên cạnh tôi luyện đàn, muội ấy say mê bài Kỳ úc trong Kinh Thi, bèn phổ thành nhạc để gảy:

    “Trông kìa trên khuỷu sông Kỳ, bờ tre mới mọc xanh rì thướt tha. Có người quân tử tài ba, vẫn lo cắt dũa để mà lập thân. Dùi mài dốc chí siêng cần, xem người thận trọng thêm phần nghiêm trang.

    Hiển vinh danh tiếng rỡ ràng, có vua văn nhã hiên ngang đây rồi. Rốt cùng dân chẳng quên người.

    Khuỷu sông Kỳ hãy nhìn qua, bờ tre rậm rạp là đà bền dai. Có vua văn nhã anh tài, Tú Oanh đá quý che tai đeo vào, mũ da ngọc sáng như sao, xem người thận trọng lại giàu nghiêm trang. Hiển vinh danh tiếng rỡ ràng, có vua văn nhã hiên ngang đây rồi. Rốt cùng dân chẳng quên người.

    Khuỷu sông Kỳ hãy nhìn trông, hàng tre lớp lớp chập chồng lên cao. Có vua văn nhã anh hào, như vàng như thiếc luyện trau tinh thuần. Như khuê như bích ôn nhuần, xem người hòa hoãn thêm phần khoai thai. Ôi! Trên xe lẫm lẫm ngồi, tính hay đùa cợt nói cười tự nhiên, không hề châm biếm gây phiền[19].”

    [19] Dịch thơ Tạ Quang Phát. Nguyên văn Hán Việt: Chiêm bỉ Kỳ úc, lục trúc y y. Hữu phỉ quân tử, như thiết như tha, như trác như ma. Sắt hề hạn hề, hách hề hoán hề, hữu phỉ quân tử, chung bất khả huyên hề! Chiêm bỉ Kỳ úc, lục trúc thanh thanh. Hữu phỉ quân tử, sung nhĩ tú oánh, hội biện như tinh. Sắt hề hạn hề, hách hề hoán hề, hữu phỉ quân tử, chung bất khả huyên hề! Chiêm bỉ Kỳ úc, lục trúc như trách. Hữu phỉ quân tử, như kim như tích, như khuê như bích. Khoan hề hước hề, y trọng giác hề, thiện hí hước hề, bất vi ngược hề! - ND.

    Huyền Lăng đứng ngoài cửa sổ lắng nghe một hồi lâu, sau đó mới mỉm cười, bước vào. “Đàn khúc nhạc này, chắc hẳn trong lòng Ngọc Nhiêu có người thương rồi đúng không? Chẳng hay người đó có phải là trẫm không thế? Riêng trẫm thì thích nàng vô cùng.”

    Bấy lâu nay, khi gặp Huyền Lăng, Ngọc Nhiêu đều tỏ vẻ lạnh tựa băng sương, thỉnh thoảng có nở nụ cười khách sáo thì ẩn đằng sau đó vẫn là sự lạnh lùng, không hề có chút ấm áp nào, hơn nữa còn rất xa xôi. Nhưng lúc này muội ấy lại nở nụ cười tươi tựa làn nắng ấm xuyên qua lớp mây mù, vô cùng rạng rỡ. “Hoàng thượng thích dân nữ có phải là vì Phó Tiệp dư không?” Ngọc Nhiêu vừa nói vừa đưa tay lên chống cằm. “Dân nữ nghe nói mình và Phó Tiệp dư trông rất giống nhau.”

    “Nàng không hề giống nàng ta, bây giờ còn có thêm mấy nét triền miên, yêu kiều, mà dáng vẻ oai hùng của nàng khi bắn tên hôm đó còn giống hệt với Hoa Phi ngày trước, đều có một thứ khí thế chẳng sợ đất chẳng sợ trời. Nhưng xét về dung mạo...” Trong đôi mắt chăm chú nhìn về phía Ngọc Nhiêu của y ánh lên mấy tia quyến luyến và đớn đau nồng đậm. “Nàng rất giống thê tử của trẫm.”

    Ngọc Nhiêu ngẩn ra, bất giác lộ vẻ nghi hoặc. “Dân nữ chẳng hề giống Hoàng hậu chút nào.”

    Huyền Lăng khẽ gật đầu, trong tiếng thở dài toát ra một nỗi thương tâm vô hạn: “Nàng ta chỉ là hoàng hậu, không phải thê tử của trẫm. Thê tử của trẫm đã mang theo con của trẫm và nàng ấy rời khỏi nhân gian từ rất lâu rồi.”
    Tôi chưa từng nhìn thấy Huyền Lăng bình tĩnh nói chuyện với người khác khi đang chìm đắm vào dòng hồi ức thuở xa xưa như thế, thứ cảm giác thân mật đó khiến tôi bỗng cảm thấy mình chỉ là một người ngoài đang đứng nhìn bọn họ nói chuyện từ xa, dường như tình cảm giữa tôi và y bấy lâu nay chẳng có gì đáng kể.

    Ngọc Nhiêu khẽ chớp cặp mắt tròn xoe, đen láy một cái. “Dân nữ biết rồi, Hoàng thượng có thể có rất nhiều hoàng hậu, nhưng thê tử thì chỉ có một mà thôi.”

    Huyền Lăng nhìn Ngọc Nhiêu bằng ánh mắt trìu mến. “Nàng rất thông minh, giống như tỷ tỷ của nàng vậy.”

    “Vậy tỷ tỷ của dân nữ thì sao?” Trong mắt Ngọc Nhiêu ánh lên một tia giảo hoạt.

    Huyền Lăng đưa mắt nhìn tôi, cất giọng dịu dàng: “Tỷ tỷ của nàng là nữ tử quan trọng nhất bên cạnh trẫm hiện nay.”

    Tôi đáp lại y bằng một nụ cười mang theo vẻ dịu dàng tương tự, nơi đáy lòng bất giác sinh ra đôi chút ấm áp mỏng manh. Trải qua bao nhiêu chuyện như thế, vì y mà buồn vui, tuyệt vọng, lại sinh con đẻ cái cho y, thời gian lâu rồi, sinh ra một chút tình ý cũng là điều khó tránh khỏi.

    Ngọc Nhiêu hơi nhướng mày lên, dường như chẳng mấy đồng tình với câu trả lời của Huyền Lăng, chỉ hỏi: “Vị Hoa Phi mà Hoàng thượng vừa nói đến có phải là người của nhà Mộ Dung đã bị diệt tộc không? Hoàng thượng đã ban cái chết cho nàng ta rồi, cớ sao còn nhớ tới nàng ta làm gì? Ngài rất thích nàng ta sao?”

    Hình như đã là chuyện từ rất lâu trước đây rồi. Mỗi lần nhắc tới Hoa Phi, thứ hiện lên trước mắt tôi đều là mảng máu tươi diễm lệ như hoa đào dính đầy trên bức tường năm nào cùng vẻ mặt ai oán, tuyệt vọng trước khi chết của nàng ta. Trên khuôn mặt Huyền Lăng lúc này cũng thoáng qua một tia ngơ ngẩn. “Năm xưa nàng ta cũng là một nữ tử rất đáng yêu, về sau vì gia tộc và dã tâm mà không còn đáng yêu nữa, nhưng ở bên nhau lâu ngày, giữa trẫm và nàng ta dù gì cũng có một chút chân tình.” Rồi y chợt tỉnh táo trở lại, nở nụ cười tươi. “Nàng hỏi tới nhiều nữ nhân như thế, có phải là cũng muốn trở thành nữ nhân của trẫm không?”

    Trái tim tôi bất giác giật thót một cái, Huyền Lăng rốt cuộc đã mở lời rồi. Tôi đang định cất tiếng thì Huyền Lăng đã quay qua phía tôi, vẫy tay một cái, ôn tồn nói: “Trẫm muốn nghe Ngọc Nhiêu tự nói.”

    Tôi hết cách đành im lặng. Ngọc Nhiêu không hề nổi nóng như trong suy nghĩ của tôi, còn khẽ nở nụ cười để lộ một mảng răng trắng lóa. “Dân nữ rất ngưỡng mộ thê tử của Hoàng thượng.”

    “Ồ?” Huyền Lăng tỏ ra hứng thú. “Tại sao?”

    “Thê tử của Hoàng thượng tuy qua đời từ sớm nhưng Hoàng thượng từ đầu chí cuối chỉ coi nàng ta là thê tử, còn thường xuyên nhớ tới nàng ta.” Hơi dừng một chút, Ngọc Nhiêu nghiêm túc nhìn vào mắt Huyền Lăng. “Hoàng thượng thích dân nữ đúng không?”

    Y gật đầu, trong mắt ánh lên một nét cười nhàn nhạt. “Đúng vậy.”

    Ngọc Nhiêu khẽ gật đầu. “Dân nữ từ nhỏ đã có một nguyện vọng, đó là có thể trở thành thê tử của nam tử mà mình yêu. Không phải là thiếp, không phải là nữ tử quan trọng nhất, mà là thê tử duy nhất và được thương yêu nhất. Chỉ đáng tiếc Hoàng thượng đã có thê tử rồi, không thể thỏa mãn nguyện vọng của dân nữ. Dân nữ vẫn luôn hy vọng có một ngày mình cũng được như thế để không phải vĩnh viễn ngưỡng mộ thê tử của Hoàng thượng.”

    Ánh mắt y dần trở nên lạnh lẽo nhưng bên khóe miệng vẫn thấp thoáng nụ cười. “Quả đúng như trẫm vừa nói, nàng rất thông minh, rất giống với tỷ tỷ của nàng.”

    Ngọc Nhiêu lắc đầu. “Đây không phải là vấn đề thông minh hay không thông minh, mà là sự thực. Nếu Hoàng thượng thích dân nữ, muốn giữ dân nữ lại trong cung, vậy ngài có thể cho dân nữ những gì? Quý tần? Chiêu nghi? Hay là quý phi? Hoặc giả Hoàng thượng định phế bỏ Hoàng hậu để dân nữ trở thành chủ nhân của Phượng Nghi cung? Hoàng hậu chẳng qua chỉ là hoàng hậu mà thôi, không phải thê tử của Hoàng thượng. Xin thứ cho dân nữ nhiều lời, Hoàng thượng và thê tử của ngài đều rất thích nhau đúng không?”

    Huyền Lăng lặng lẽ gật đầu, một tia dịu dàng bừng lên trong mắt. “Tâm đầu ý hợp.”

    Ngọc Nhiêu đứng dậy, trịnh trọng quỳ xuống hành lễ. “Xin Hoàng thượng hãy thành toàn cho dân nữ!” Trong mắt Ngọc Nhiêu lúc này đã thấp thoáng ánh lệ. “Dân nữ tuy thân phận thấp kém nhưng cũng tâm đầu ý hợp với cửu lang. Dân nữ không dám mong Hoàng thượng cho dân nữ làm chính thê của chàng, nhưng dù bắt dân nữ làm thị thiếp của chàng cũng không sao cả, chỉ cần Hoàng thượng để dân nữ và chàng được ở bên nhau thôi.”

    Trên mặt Huyền Lăng dần hiện lên một tia cười giễu cợt. “Nàng không phải chỉ chịu làm thê tử của y thôi sao?”

    Ngọc Nhiêu ngẩng đầu lên, trên khuôn mặt trắng nõn ánh lên những tia thần thái kiên định. “Hoàng hậu trên danh nghĩa là thê tử của Hoàng thượng, thế nhưng Hoàng thượng lại chưa từng coi nàng ta là thê tử; dân nữ tuy sau này không thể trở thành thê tử trên danh nghĩa của cửu lang nhưng trong lòng chàng lại chỉ có một mình dân nữ, và trong lòng dân nữ cũng chỉ có mình chàng. Dân nữ biết sau này cửu lang sẽ không lấy thêm nữ tử nào khác, bởi dân nữ chính là người duy nhất mà chàng thương yêu, như thế lẽ nào dân nữ còn không phải là thê tử của chàng hay sao?”

    “Cửu lang...” Y lẩm bẩm lặp lại lối xưng hô thân mật đó bằng giọng thích thú, sau đó liền đứng dậy đi tới trước mặt tôi, đưa tay vuốt ve bờ má tôi, vẻ đầy trìu mến. “Nàng cũng thường xuyên gọi trẫm là tứ lang như thế.”

    Tôi bình tĩnh ngẩng đầu nhìn y chăm chú, ánh mắt đượm vẻ dịu dàng. “Đó là lối xưng hô chỉ dành cho tình lang thôi.”

    Y không tỏ vẻ gì, chỉ quay lại nói với Ngọc Nhiêu: “Nàng đứng dậy đi!”

    Ngọc Nhiêu không hề động đậy. “Dân nữ biết là Hoàng thượng thích dân nữ, nhưng đã thích rồi thì nên thành toàn cho tâm ý của đối phương mới đúng. Ngoài Hoàng hậu ra, bên cạnh Hoàng thượng còn có rất nhiều nữ tử khác, có người đã chết, có người còn sống, ai cũng chiếm cứ một chút thời gian và ký ức của Hoàng thượng, dân nữ mới vào cung chưa lâu mà đã thấy tỷ tỷ phải chịu rất nhiều phong ba trắc trở rồi. Tỷ tỷ được Hoàng thượng coi là nữ tử quan trọng nhất mà còn phải sống trong gian nan, vất vả như vậy, dân nữ thực sự không muốn cuộc sống của mình sau này cũng thế.” Ngọc Nhiêu bái lạy thêm lần nữa, nói tiếp: “Được Hoàng thượng thích là điều vô cùng đáng quý, dân nữ không dám xem nhẹ, nhưng trên thế gian này không phải chỉ có tình cảm nam nữ mới được gọi là thích, xin Hoàng thượng hãy thích dân nữ như thích một người muội muội.” Vừa nói, Ngọc Nhiêu vừa lấy miếng ngọc bội mà Huyền Lăng ban tặng ra. “Đây là vật Hoàng thượng giao cho dân nữ bảo quản, dân nữ xin trả về, hy vọng Hoàng thượng có thể tác thành cho dân nữ và cửu lang.”

    Huyền Lăng không nhận lấy, chỉ nói: “Trẫm đã ban nó cho nàng rồi.”

    Y rời đi với vẻ hết sức nặng nề, những tiếng bước chân “bộp bộp” vang lên làm lòng tôi thấp thỏm. Tôi đỡ Ngọc Nhiêu đứng dậy, khẽ nói: “Chỉ có thể làm được đến mức này thôi, chúng ta đã cố hết sức rồi.”

    Sắc mặt Ngọc Nhiêu tuy có chút tiều tụy, yếu ớt nhưng lại toát ra một tia kiên nghị không gì lay chuyển được. “Muội biết chứ, nếu Hoàng thượng vì vậy mà trút giận lên Phần, muội thà làm ngọc nát chứ chẳng sống một mình.”

    Ba ngày sau, ý chỉ ban Chân Ngọc Nhiêu cho Bình Dương Vương Huyền Phần làm chính phi được ban xuống. Ngoài ra, Bình Dương Vương còn được ban thêm thực ấp mười vạn hộ, mẹ đẻ Thuận Trần thái phi thì được tiến phong làm Thuận Trần Hiền thái phi. Để gia tăng địa vị cho đằng gái, Huyền Lăng còn phong Ngọc Nhiêu làm Gia Quốc Phu nhân chính nhất phẩm. Xưa nay việc tấn phong cho gia quyến của phi tần làm mệnh phụ là vinh hạnh mà chỉ phi chính nhị phẩm trở lên mới có, trong đó gia quyến của người ở ngôi phi được phong làm quận phu nhân chính tam phẩm, gia quyến của tứ phi thì được phong làm phủ phu nhân chính nhị phẩm, chỉ có gia quyến của hoàng hậu mới có thể trở thành quốc phu nhân nhất phẩm. Năm xưa tôi là quý tần lại đang mang thai, do đó mẫu thân mới được phá lệ phong làm Bình Xương Quận phu nhân tam phẩm, về sau nhà tan cửa nát, phong hiệu của mẫu thân cũng bị đoạt mất, lần này về kinh dù được phong lại thì chẳng qua cũng chỉ là Lạc Bình Phủ phu nhân chính nhị phẩm, đã thế trong ý chỉ còn nói: “Thục phi gả muội muội có thể dựa theo quy cách quận chúa xuất giá để chuẩn bị đồ cưới”, chỉ từ đó thôi cũng đủ thấy sự hậu ái mà Huyền Lăng dành cho Ngọc Nhiêu như thế nào.

    Cầm thánh chỉ trong tay, tôi mừng đến rơi nước mắt. “Được như thế này thực là niềm vui ngoài ý muốn.”

    Ngọc Ẩn đưa tay vuốt ve thánh chỉ, cất tiếng than: “Người hữu tình cuối cùng cũng nên vợ nên chồng, lần này coi như Hoàng thượng đã làm được một việc tích phúc.”

    Tôi khẽ gật đầu. “Ngoài Hoàng thượng ra, làm gì có ai khuyên nổi Thái hậu.”

    Nghe nói ngay đêm hôm đó, khi tới thỉnh an Thái hậu, Huyền Lăng đã nhắc đến việc chỉ hôn, Thái hậu nghe xong không kìm được kinh ngạc vô cùng, hỏi nguyên do thì Huyền Lăng chỉ nói: “Nhân duyên là do trời định, việc gì phải làm người khác thương tâm rồi nuối tiếc cả đời.”

    Thái hậu trầm ngâm suốt một hồi lâu rồi lại hỏi: “Nhà họ Chân giờ đã phục hưng, nghĩa muội của Thục phi vừa trở thành trắc phi được lục Vương gia yêu quý nhất, tiểu muội lại sắp trở thành chính phi của thân vương, Hoàng thượng không lo địa vị của mấy tỷ muội bọn họ quá cao ư?”

    Huyền Lăng nói: “Chỉ là trắc phi mà thôi, đâu có gì là tôn quý. Cửu đệ thì là con út của phụ hoàng, xuất thân hàn vi, xưa nay chẳng hỏi gì tới chính sự. Còn nhà mẹ đẻ của Thục phi tuy đã phục hưng nhưng lại cam tâm bình lặng, không nắm binh quyền, gả tiểu muội của nàng ta cho cửu đệ rất hợp, ngoài ra còn có thể phần nào an ủi Thuận Trần thái phi nữa.”

    Thái hậu vẫn tỏ ra do dự. “Nếu Hoàng thượng thật sự có ý, vậy thì không cần phải lo làm tổn thương tới tình huynh đệ đâu.”

    Huyền Lăng chỉ buồn bã nói: “Việc tỷ muội lần lượt vào cung đúng là rất tốt, nhưng nhi thần đã từng có Uyển Uyển và Hoàng hậu rồi, quả thực không muốn như vậy nữa.” Tới lúc này Thái hậu mới không còn dị nghị gì.

    Ý chỉ vừa ban xuống, mọi người trong cung liền truyền tụng câu nói: “Thục phi gả tiểu muội, thiên tử có đệ phụ”, coi như một giai thoại hiếm có, mà nhà họ Chân lại kết thân thêm với hoàng tộc, thực là vinh hiển muôn phần. Vì người tới chúc mừng quá nhiều, bậu cửa của Vị Ương cung thiếu chút nữa thì bị giẫm vỡ. Ngọc Nhiêu sớm đã thẹn thùng đóng cửa nấp trong phòng không ra ngoài, để mặc tôi một mình tiếp khách, vô cùng mỏi mệt.

    Một tháng sau, trong độ sắc xuân như vẽ, rốt cuộc Ngọc Nhiêu đã xuất giá tới nhà Bình Dương Vương làm chính phi.

    Chốn cung cấm náo nhiệt suốt ba ngày liền, tôi và Huyền Lăng đích thân tới phủ Bình Dương Vương chủ trì hôn lễ, mãi tới khi say sưa mới quay về.

    Bánh xe ngựa lăn đi lộc cộc trong vĩnh hạng tĩnh lặng, tôi lúc này đã hơi say, tựa đầu vào người Huyền Lăng, thở nhẹ đều đều. Trong cơn mơ màng, tôi nhớ lại vừa rồi trong bữa tiệc, tôi và Huyền Lăng, Ngọc Ẩn và Huyền Thanh, Ngọc Nhiêu và Huyền Phần giống hệt như ba đôi thần tiên quyến lữ, tiếc rằng trong đó chỉ có Ngọc Nhiêu và Huyền Phần là thật sự tình sâu ý nặng, còn lại thì chỉ là “giống” mà thôi.

    Ngồi trên xe ngựa chòng chành, đầu óc tôi không khỏi biêng biêng. Huyền Lăng khẽ thở dài một tiếng, xoa lưng tôi, hỏi: “Hoàn Hoàn, nàng sống rất vất vả sao?”

    “Cũng không đến nỗi...” Tôi vùi đầu vào lòng y, khẽ nói: “Dù thật sự vất vả thì thần thiếp cũng có những lý do để cam lòng chịu đựng.”

    Y tì cằm lên trán tôi, cất giọng dịu dàng: “Là vì trẫm ư?”

    Tôi không nói gì, lặng lẽ nhắm đôi mắt lại. Có phải hay không, ai mà thật sự nhìn thấu được trái tim của đối phương đây?

    Thế nhưng cuối cùng tôi vẫn gật đầu coi như đáp lại, thế là liền nhận được một câu nói vẻ như chứa chan tình cảm của y: “Có nàng rồi, trẫm nguyện lòng thành toàn cho Ngọc Nhiêu.”
     
  10. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 18: Sắc xuân vô hạn áo biếc xanh
    Hôm nay bầu trời cực kỳ quang đãng, còn tỏa nắng ấm áp chan hòa, khác hẳn với những hôm vừa rồi trời lúc nào cũng mưa rầm rì, âm u khiến người ta có cảm giác chán ngán tới cực điểm.

    Vì thời tiết đẹp nên các phi tần tới cung của Hoàng hậu thỉnh an đều có mặt rất sớm, người nào người nấy xiêm y hoa lệ, trang điểm tinh tế, tất cả ngồi bên nhau trò chuyện trong Chiêu Dương điện tạo nên một khung cảnh náo nhiệt vô cùng.

    Hôm nay Huyền Lăng cho tan chầu sớm, sau đó liền tới Phượng Nghi cung của Hoàng hậu. Các phi tần nhìn thấy Huyền Lăng thì đều cười tươi rạng rỡ, giọng nói cũng hết sức động lòng người, hệt như trăm hoa đua sắc, người nào người nấy đều yểu điệu, thướt tha.

    Tôi vẫn ngồi ngay phía dưới Hoàng hậu, sau khi hành lễ với Huyền Lăng thì chỉ mỉm cười ngồi im nghe các phi tần vui vẻ trò chuyện.

    Huyền Lăng kéo tay tôi hỏi han mấy câu về Hàm Nhi và Linh Tê, cũng không có gì khác ngoài đêm qua ngủ có ngon không, sáng dậy ăn uống có được nhiều không, sau đó lại hỏi Nhuận Nhi dạo này có còn hay khóc không...

    Hoàng hậu ngồi kế bên khẽ mỉm cười. “Hoàng thượng ngày nào cũng đi gặp ba đứa bé mà còn không yên tâm về chúng như vậy, đúng là một người cha hiền.”

    Tôi hơi nhếch khóe môi nở một nụ cười thật tươi. “Đâu chỉ mình Hoàng thượng, người làm mẹ như thần thiếp đây cho dù ngày ngày đều nhìn thấy mấy đứa bé nhưng vẫn chẳng b giờ thật sự yên tâm được.” Sau đó lại nhìn qua phía Từ Thục dung. “Muội muội nhất định cũng thế đúng không?”

    Từ Thục dung khẽ cười điềm đạm. “Muội chỉ phải chăm sóc một đứa bé thôi, xét cho cùng vẫn là tỷ tỷ vất vả.”

    Hoàng hậu đưa mắt ngắm nghía tôi một lát rồi cười nhạt, nói: “Đúng thế, bản cung cũng thấy Thục phi có vẻ rất vất vả đấy, người cũng tiều tụy đi nhiều rồi. Quả là người làm mẹ có khác, việc gì cũng phải suy tính chu toàn.”

    Tôi tất nhiên nghe ra cái ý giễu cợt trong lời của Hoàng hậu nhưng chỉ làm bộ như không biết gì, vẫn cười bình thản. “Hoàng hậu nương nương là mẫu nghi thiên hạ, là mẫu thân của tất cả bách tính, việc phải bận lòng tất nhiên là nhiều hơn thần thiếp nhiều lắm.”

    Huyền Lăng tiện miệng cười, nói: “Hoàng hậu đã lâu rồi không làm mẹ, tất nhiên sớm đã quên mất việc chăm sóc trẻ sơ sinh vất vả đến cỡ nào rồi.”

    Lời của tôi chẳng qua chỉ ám chỉ là Hoàng hậu đã già, nhan sắc suy giảm, nhưng mấy câu vô tâm đó của Huyền Lăng thì lại đâm thẳng vào nỗi đau lớn nhất của nàng ta, đó là nàng ta đã nhiều năm rồi không làm mẹ. Dù dưới gối nàng ta có Hoàng trưởng tử để chăm sóc nhưng đó dù s cũng không phải cốt nhục thân sinh.

    Sắc mặt Hoàng hậu quả nhiên tái nhợt đi, có điều rất nhanh sau đó đã trở lại bình thường, vẫn cất tiếng cười điềm đạm, ung dung. “Đúng thế, Hoàng trưởng tử đã lớn rồi.”

    Hoàng hậu đột nhiên đứng dậy, chỉnh lại xiêm y rồi quỳ xuống hành lễ, tư thế thực là đoan trang, t nhã tột cùng. Huyền Lăng không khỏi ngẩn ra, ngạc nhiên hỏi: “Đang yên đang lành cớ gì Hoàng hậu lại hành đại lễ như vậy?”

    Cách trang điểm và nụ cười của Hoàng hậu đều hoàn hảo không có gì để chê trách, giọng nói thì thoáng mang theo một chút mừng vui chậm rãi vang lên lọt vào tai mỗi người đang có mặt: “Chúc mừng Hoàng thượng, An Chiêu viện ở Cảnh Xuân điện đã mang thai rồng, thái y tới xem mạch nói là cái thai đã được bốn tháng. Thần thiếp xin chúc mừng Hoàng thượng.” Nghe thấy lời này mọi người đều nhất thời kinh hãi.

    Chẳng trách An Lăng Dung đã hai ngày nay không tới thỉnh an Hoàng hậu, vậy mà Hoàng hậu chỉ nói là thân thể nàng ta không được khỏe, hóa ra là vì duyên cớ này.

    Tôi ngấm ngầm căm hận, Hoàng hậu giấu việc này thực quá kín đáo, không ngờ lại chẳng để lộ ra chút tin tức nào. Bây giờ An Lăng Dung đã mang thai được bốn tháng, cái thai đã bắt đầu ổn định, cho dù có người muốn giở trò với cốt nhục trong bụng nàng ta thì cũng khó mà tìm được cơ hội để ra tay nữa rồi.

    Huyền Lăng quả nhiên mừng rỡ vô cùng, vội vàng đỡ Hoàng hậu dậy, hỏi: “Thật thế s?”

    Hoàng hậu cười tủm tỉm, nói: “Dạ phải, thái y đã xem mạch rồi, chuyện này chắc như đinh đóng cột.” Mọi người vội vàng quỳ xuống chúc mừng Huyền Lăng.

    Kính Phi bước lên trước mấy bước, tươi cười ôn tồn nói: “Chúc mừng Hoàng thượng, có điều An muội muội cũng thật là... có thai rồi mà không chịu nói sớm, khiến bọn thần thiếp mãi tới bây giờ mới có thể chúc mừng, Hoàng thượng nói xem có đúng thế không?”

    Tin tức An Lăng Dung đột nhiên có thai chẳng khác gì một tia sét giáng xuống giữa trời quang, hết sức bất ngờ, các phi tần đang có mặt đều không kìm được cơn kinh hãi. Những lời ôn tồn này của Kính Phi vừa hay chính là nỗi nghi hoặc trong lòng tất cả mọi người.

    Hoàng hậu hờ hững nói: “Thân thể An Chiêu viện vốn không được khỏe, kinh nguyệt không đều, ngay đến việc bản thân có thai cũng phải tới khi ba tháng mới biết, mà khi đó vì phụ thân còn ở trong ngục nên nàng ta cũng chẳng dám rêu r, ngoài ra bản cung còn có ý đề phòng một chút...” Nói rồi Hoàng hậu liền như vô tình như hữu ý nhìn lướt qua phía tôi, giọng nói mang theo một tia sắc bén: “Trước đây Điềm Tần và Thục phi sẩy thai đều là vì không cẩn thận đề phòng, thế nên kẻ gian mới có cơ hội lợi dụng, bài học này quyết không thể quên. Hiện giờ trong cung khó khăn lắm mới có được mấy vị hoàng tử, công chúa, bản cung không thể không cẩn trọng, bằng không chưa biết chừng lại có phi tần nào đó nhất thời hồ đồ mà giẫm vào vết xe đổ của Cẩn Phi năm xưa.”

    Lời này của Hoàng hậu mang đầy thâm ý, hẳn nhiên ai cũng có thể nghe ra, ánh mắt bất giác đổ dồn cả về phía tôi và Từ Thục dung. Nàng ta nói tới Cẩn Phi chính là có ý nhắc đến những phi tần có hoàng tử, mà người như vậy thì hiện giờ chỉ có tôi và Từ Thục dung thôi.

    Tôi thầm căm hận trong lòng, Hoàng hậu thực là độc địa khôn lường, ngay từ đầu đã chĩa mũi nhọn về phía tôi, nếu sau này cái thai của An Lăng Dung mà có bề gì thì tôi chính là người đầu tiên không tránh khỏi can hệ.

    Tôi cố kìm nén cơn giận, bên khóe miệng vẫn nở một nụ cười mỉm nền nã nhất. “Hoàng hậu nói rất phải, phi tần mang thai là chuyện quan trọng vô cùng, nhất định phải suy nghĩ chu toàn mới được, quyết không thể sơ sảy chút nào. Thần thiếp hiện giờ vâng chỉ hiệp trợ quản lý lục cung, nhất định sẽ dốc hết sức mình trợ giúp Hoàng hậu bảo vệ cho cái thai của An Chiêu viện được an toàn.”

    Huyền Lăng nắm lấy bàn tay tôi, dường như là để thể hiện sự vui mừng khi nghe thấy những lời của tôi vừa rồi.

    Hoàng hậu nói: “Thục phi biết nghĩ tới đại cuộc như thế quả là không phụ sự tin cậy của Hoàng thượng.” Rồi lại ngoảnh đầu qua phía Huyền Lăng. “Hoàng thượng, An Chiêu viện giờ đã mang thai, dựa theo tổ chế thì cần được thăng một cấp lên làm phi chính nhị phẩm rồi.”

    Huyền Lăng đưa mắt liếc nhìn khuôn mặt đầy vẻ căm hận của Hồ Uẩn Dung, trầm ngâm một chút rồi mới nói: “Hiện giờ phi chính nhị phẩm đã đủ ba người, tấn phong nữa e là không hay.”

    Hoàng hậu nói: “Tam phi hiện giờ đúng là đã có ba người Đoan Phi, Kính Phi, Mẫn Phi, nhưng vì tổ chế mà phá lệ phong thêm một người cũng không phải vấn đề gì lớn cả, huống chi Đoan Phi và Kính Phi tuy là phi nhưng kỳ thực đã hưởng sự đãi ngộ của phu nhân tòng nhất phẩm rồi. Nếu không tấn phong cho An thị, chỉ sợ mọi người trong lục cung sẽ đều cho rằng nàng ta bị phụ thân làm liên lụy, trong tình hình như thế thì làm s mà yên tâm dưỡng thai được đây?”

    Tôi vừa kinh hãi vừa tức giận, số phi chính nhị phẩm đã đủ rồi, phá lệ tăng thêm An Lăng Dung đã là quá đáng, nhưng càng đáng sợ hơn là bây giờ Hoàng hậu lại nhắc đến phụ thân của nàng ta, chưa biết chừng chẳng b lâu nữa để nàng ta có thể yên tâm dưỡng thai, Huyền Lăng sẽ tha cho An Bỉ Hòe tội nhận hối lộ. Mà lỡ như sau này An Lăng Dung sinh được hoàng tử, như thế trong tay Hoàng hậu cũng có hai vị hoàng tử rồi, bất kể về sau ai trong số hai người đó được lập làm Thái tử thì tôi, Dư Hàm và Dư Nhuận cũng đều sẽ không có chỗ chôn thây. Lòng tôi trào lên từng cơn sóng dữ, muôn vàn ý niệm đồng thời xuất hiện, nhưng ngoài mặt thì vẫn bình thản mỉm cười. “Nếu như tâm ý của Hoàng hậu đã quyết thì cứ như vậy đi là được. Trước đây mỗi lần được tấn phong, An muội muội đều chỉ lấy họ làm hiệu, bây giờ thân phận đã quý trọng hơn rồi, xem ra cần bảo phủ Nội vụ soạn ra mấy phong hiệu để lựa chọn mới được, bằng không thì thực là hời hợt quá.”

    Hoàng hậu thấy tôi nói vậy thì không khỏi có chút bất ngờ, sau khi quan sát tôi một chút, bèn nói: “Vậy hãy lệnh cho phủ Nội vụ làm việc này đi, Thục phi quả đã có lòng rồi.” Hơi dừng một chút, nàng ta ra vẻ cảm thán: “Hiện giờ các ngôi vị trong lục cung hãy còn trống rất nhiều, nếu phi chính nhị phẩm có đủ bốn người làm thành bốn góc kỳ thực cũng là việc hay.”

    Tới lúc này thì đã không còn việc gì nữa, mọi người liền đứng dậy cáo từ.

    Về tới Vị Ương cung, tôi mới gỡ bỏ nụ cười trên mặt xuống. Hoa Nghi và Tiểu Doãn Tử thấy khí sắc tôi khác hẳn ngày thường thì không dám hỏi nhiều, chỉ đứng lặng lẽ một bên. Một tiểu cung nữ thông minh, lanh lợi đi tới đấm chân bóp vai cho tôi, Cận Tịch thì tươi cười bưng trà lên, nói: “Nương nương vừa tới cung của Hoàng hậu thỉnh an, tuy đi về đều có kiệu thay bước nhưng chắc cũng vất vả. Trà hoa nhài này đã được pha từ hồi sáng rồi để cho nguội, uống bây giờ mùi vị vừa hay ngon nhất, nương nương hãy nếm thử một chút đi.”

    Lúc này ánh dương buổi sớm tựa như những dải lụa mềm phất phơ chiếu xuống, ngoài sân có vô số bông sơn chi vừa nở nhìn trắng muốt như tuyết đầu đông, vừa thuần khiết vừa rạng rỡ, lại xen lẫn giữa những phiến lá biếc xanh thực là đẹp mắt vô cùng. Khắp Nhu Nghi điện dường như đều thoang thoảng một thứ mùi thơm thanh tân, dễ chịu, cảnh sắc trong ngoài hết sức hữu tình, tiếc rằng lúc này tôi lại chẳng có tâm trạng đâu mà thưởng thức.

    Hoa Nghi thấy tôi chẳng buồn ngó mắt ra ngoài thì liền nói: “Nương nương không thích hoa sơn chi ư? Hoa phòng vừa đưa tới mấy chậu hoa tú cầu đấy, nhìn tròn tròn thích mắt vô cùng.”

    Tôi đang thầm phiền muộn, liền xua tay kêu bọn họ ra ngoài, chỉ giữ một mình Cận Tịch lại bên cạnh.

    Tôi chậm rãi nhấp một ngụm trà hoa nhài, cảm thấy từ cổ họng đến tim gan đều ngọt ngào dễ chịu hơn một chút, mới nói gằn từng từ: “An Lăng Dung đã có thai, được bốn tháng rồi.”

    Cận Tịch bất giác sững người, không kìm được buột miệng thốt lên: “Không phải cô ta từng dùng Tức cơ hoàn ư? Cớ gì vẫn có thai được như thế?”

    Tôi cau mày buồn bực, nói: “Thứ ấy tuy làm tổn hại tới thân thể nhưng chưa chắc đã có thể gây tuyệt dục.”

    Cận Tịch lộ vẻ suy tư. “Trong cung vừa mới có thêm ba vị hoàng tử, thế mà chưa đầy một năm An Chiêu viện lại cũng có thai rồi, Hoàng thượng chắc đang c hứng lắm đây.”
    Tôi khẽ “ừm” một tiếng, nói: “Đâu chỉ là c hứng, ngay đến Hoàng hậu cũng đích thân mở lời muốn phong cô ta làm phi chính nhị phẩm, đúng là phong quang vô hạn.”

    Cận Tịch thấy tôi chỉ ngồi đó cầm chén trà, liền trầm ngâm nói: “Đã bốn tháng rồi, sợ là không dễ ra tay, quá mạo hiểm.” Rồi chợt lại khẽ cười. “Đợi bốn tháng mới nói ra, xem ra lần này bọn họ cẩn thận vô cùng.”

    Tôi hơi nhếch khóe môi. “Còn chẳng thế s, chỉ nhìn vẻ long trọng của Hoàng hậu khi nói ra tin mừng này là đủ biết đối với nàng ta mà nói, cái thai này của An Lăng Dung quan trọng tới mức nào.”

    Cận Tịch lộ vẻ thấu hiểu. “Tư chất của Hoàng trưởng tử quả thực có hơi tầm thường, tuy được rất nhiều bậc đại nho bác học mà Hoàng hậu mời tới tận tâm dạy dỗ nhưng vẫn chẳng có b nhiêu khởi sắc. Hiện giờ trong cung đã có bốn vị hoàng tử, không còn là thời chỉ có một mình Hoàng trưởng tử như xưa nữa rồi. Còn An thị thì đã bị ghẻ lạnh một thời gian dài, muốn vùng lên được để cứu lấy phụ thân mình thì chỉ đành trông cậy vào cái thai này thôi.”

    Lần này An Lăng Dung đột ngột có thai thực là một biến cố bất ngờ khiến người ta trở tay không kịp, thực chẳng biết sẽ có vận mệnh của bao nhiêu người bị thai nhi trong bụng nàng ta làm ảnh hưởng đây.

    Tôi trầm ngâm suy nghĩ một lát rồi nói: “Kêu Hoa Nghi ra ngoài nghe ngóng một chút xem Hoàng thượng bây giờ có ở Cảnh Xuân điện không đi.”

    Cận Tịch vâng lời ra ngoài, một lát sau Hoa Nghi liền đi theo vào bẩm báo: “Hoàng thượng và Hoàng hậu hiện giờ đều đang ở trong Cảnh Xuân điện, đứng từ xa đã có thể nghe thấy tiếng nói cười bên trong đó rồi.”

    Tôi trầm mặt xuống mân mê dải tua trân châu đính trên hộ giáp, nhẹ nhàng cất tiếng: “Được rồi, vậy hãy sai người loan truyền những lời này ra khắp lục cung, đặc biệt là câu cuối cùng ấy, phải làm thế nào cho càng nhiều người biết càng tốt.”

    Hoa Nghi vâng lệnh rời đi, tôi lại uống thêm một chén trà nữa, quay sang hỏi Cận Tịch: “Trà này đúng là không tệ, có còn nữa không?”

    Cận Tịch cười, đáp: “Nô tỳ biết nương nương sẽ thích cho nên đã chuẩn bị rất nhiều.”

    “Vậy thì tốt, đợi lát nữa nhất định sẽ có khách tới, trà này có thể mang ra mời bọn họ nếm thử luôn.” Dứt lời tôi bèn đứng dậy đi tới gian điện phía đông thăm ba đứa bé.

    Chỉ chừng một canh giờ sau, Tiểu Doãn Tử đã đi vào bẩm báo rằng ba người Đoan Phi, Kính Phi và Lữ Chiêu dung cùng tới bái phỏng. Tôi chỉnh lại xiêm y rồi đi ra. Cả ba người đều đã ở trong Nhu Nghi điện, nhìn thấy tôi liền đứng dậy định hành lễ. Tôi vội vàng ngăn lại: “Chúng ta đều là tỷ muội với nhau, còn phải khách sáo như thế làm gì, huống chi đã tới lúc này rồi, tốt nhất hãy gạt bỏ những thứ lễ tiết vô nghĩa ấy đi.” Sau đó liền mời ba người bọn họ ngồi xuống, lại lệnh cho Cận Tịch: “Đi mang trà hoa nhài lên đây!” Dứt lời, tôi không kìm được lộ vẻ tò mò. “Đoan Phi tỷ tỷ bình thường hiếm khi ra ngoài, hôm nay s cũng tới đây thế?”

    Lữ Chiêu dung vốn tính hấp tấp nên nói ngay: “Đoan Phi tỷ tỷ là phi tần vào cung sớm nhất, hôm nay xảy ra chuyện như vậy tất nhiên phải mời tỷ ấy đi cùng rồi.” Đoan Phi chỉ mỉm cười một tiếng, không nói năng gì.

    Sau khi trà được dâng lên, ba người cùng cầm chén khẽ nhấp một ngụm, Kính Phi lộ rõ vẻ âu lo, nói: “Trà của nương nương đúng là không tệ, chỉ đáng tiếc bây giờ bọn ta chẳng có chút tâm trạng nào để phẩm trà.”

    Lữ Chiêu dung là người dễ mất bình tĩnh nhất, cố kìm nén được một lúc rồi cuối cùng không kìm được đập “bộp” một cái xuống bàn, giận dữ nói: “Các vị tỷ tỷ trong lòng phiền não có thể nhịn không nói ra ngoài miệng nhưng muội thì chịu thôi. An Lăng Dung xuất thân thấp kém, tính tình lại lẳng lơ và hay đố kỵ, bây giờ đã được phong làm chiêu viện rồi mà còn chưa thỏa mãn, đột ngột nhảy ra nói là đã có thai, không ngờ lại muốn được phong phi nữa.”

    Tôi khẽ nói: “Tỷ tỷ nói nhỏ một chút, còn sợ là người khác không biết tỷ ghét nàng ta hay s? Nàng ta bây giờ đang lúc đắc thế, tự nhiên chọc đến nàng ta để làm gì? Tốt xấu gì thì tỷ cũng là mẹ ruột của Thục Hòa Công chúa, không có ai dám tùy tiện đụng đến tỷ đâu.”

    Lữ Chiêu dung hơi ngẩn ra một chút rồi buồn bã nói: “Ta bây giờ đã chẳng được việc gì nữa rồi, lại lớn tuổi nữa, nếu không vì có Thục Hòa thì e là Hoàng thượng sớm đã chẳng còn nhớ được ta là ai. Lúc xưa tr ngôi vị đứng đầu cửu tần cho Hồ Uẩn Dung thì thôi cũng đành, ai bảo người ta là con gái của Tấn Khang Quận chúa, thân phận tôn quý ta không so được. Về sau An Lăng Dung tuy cũng thuộc nhóm cửu tần như ta nhưng lại là chiêu viện, xét ra ngôi chiêu dung này của ta còn phải xếp sau cô ta. Bây giờ cô ta còn sắp được phong phi nữa, chờ khi sinh nở rồi thì ít nhất cũng là phu nhân tòng nhất phẩm, đến lúc ấy cô ta vượt lên ta nhiều như thế, ta và Thục Hòa còn có thể sống yên ổn được nữa hay s?”

    Lữ Chiêu dung vốn không thích An Lăng Dung, giữa hai người có rất nhiều xích mích, mà An Lăng Dung thì khá được ân sủng, tâm tư lại tinh tế, Lữ Chiêu dung gần như lần nào cũng thua thiệt. Nếu sau này An Lăng Dung leo được lên ngôi c rồi thì khó đảm bảo rằng sẽ không giở trò gì với nàng ta và Thục Hòa Công chúa, khó trách nàng ta lại tức giận như vậy.

    Kính Phi thấy lời của Lữ Chiêu dung đều là sự thực thì không kìm được nhíu chặt đôi mày. “Phụ thân của cô ta vì nhận hối lộ mà đến bây giờ vẫn còn ở trong ngục chưa được thả ra, gia thế như vậy thực sự không thể phong Phi được, tới ngôi cửu tần đã có phần quá đáng rồi. Vốn dĩ dù cô ta có mang thai thì không tấn phong cũng không s hết.”

    Hai mắt bất giác sáng bừng lên, Lữ Chiêu dung mừng rỡ nói: “Ba vị nương nương đều là người đã hoặc đang nắm quyền hiệp trợ quản lý lục cung cơ mà, chúng ta hãy thử tra tìm thật kĩ những tiền lệ tương tự trong thời tiên tổ ngày trước xem chưa biết chừng lại có thể dựa vào đó để ngăn việc phong phi lần này lại.”

    Kính Phi lắc đầu, nói: “Hoàng hậu đã nói là đặc biệt phá lệ rồi mà. Hơn nữa ta cũng xem lại rồi, Túy Phi Lương thị của Thái Tổ vốn chỉ là con gái của một kẻ đồ tể ngoài chợ, vì mang thai mà được phong phi, Hoàng hậu hoàn toàn có thể dùng tiền lệ này để chặn họng mọi người.”

    Đoan Phi cầm chén trà lên khẽ nhấp một ngụm, sau khi thoáng ngẩn ra một chút bèn khẽ nói: “Lương thị tuy được phong phi nhưng về sau vẫn bị phế truất và đuổi ra khỏi cung, còn chết sớm nữa, đâu có phúc được như An thị. Nghe nói bây giờ Hoàng thượng còn đang ở trong cung của cô ta mà rủ rỉ tâm tình đấy.”

    Nghe thấy những lời thê lương ấy của nàng ta, tôi cũng không khỏi có chút thương cảm, lại đưa mắt liếc qua phía Hoa Nghi một chút, biết rằng những lời mà nàng ta cho loan truyền ra ngoài đã có hiệu quả rồi.

    Sau khi Hoa Phi Mộ Dung Thế Lan năm xưa qua đời, Đoan Phi mới dần đi lại trong cung nhiều một chút, cũng từng có hai năm nắm đại quyền hiệp trợ quản lý lục cung, chỉ là thân thể rốt cuộc vẫn không được khỏe, đành trả lại quyền hành. Mà sau khi sức khỏe của nàng ta có chút khởi sắc, Huyền Lăng cũng tỏ ra xót thương, tuy rất ít khi mây mưa chăn gối nhưng cũng thường xuyên tới thăm nom trò chuyện. Bây giờ nghĩ đến việc An Lăng Dung được ân sủng nhiều năm, lại sắp có con, nàng ta không khỏi có chút tự thương thân mình.

    Kính Phi và Lữ Chiêu dung đưa mắt nhìn nhau, Lữ Chiêu dung rốt cuộc vẫn không nhịn được, khẽ phỉ phui một tiếng: “Đồ hồ ly lẳng lơ!”

    Tôi khẽ vuốt ve chiếc vòng san hô đeo trên cổ tay, dốc bầu tâm sự: “Người khác tạm chưa xét tới, nhưng Đoan Phi tỷ tỷ là phi tần vào cung hầu hạ Hoàng thượng sớm nhất, xét ra còn sớm hơn đương kim Hoàng hậu hai năm, trong cung căn bản không có ai so sánh được; Kính Phi tỷ tỷ thì từng hiệp trợ Hoàng hậu quản lý lục cung, cũng có công lao rất lớn; còn Lữ tỷ tỷ là mẹ ruột của Thục Hòa Công chúa, trưởng nữ của Hoàng thượng, thân phận tất nhiên cũng không tầm thường. An thị tuy đắc sủng nhưng so với ba vị tỷ tỷ thì đâu có đáng kể gì, thế mà hôm nay Hoàng hậu lại đích thân mở lời như vậy, đủ thấy trước đó An Lăng Dung đã liên hệ với Hoàng hậu rồi. Mà nghĩ lại, cái ngôi chiêu viện hiện giờ của cô ta hình như vừa mới được phong có một năm thôi thì phải.”

    Kính Phi đưa tay chỉnh lại vạt áo, cất giọng hờ hững: “Những năm nay bất kể là trong sáng hay ngoài tối, Hoàng hậu đều chiếu cố cho cô ta rất nhiều.”

    Lữ Chiêu dung nói: “Còn chẳng thế s! Đoan Phi nương nương ngồi ở ngôi này ít ra cũng hai mươi năm rồi, vậy mà vẫn chưa được tấn phong thêm, đúng là chuyện nực cười. Kính Phi nương nương thì cũng được phong phi vào mùa xuân năm Càn Nguyên thứ mười bốn, đến giờ đã bảy, tám năm rồi, nhưng Hoàng hậu cũng chẳng nhắc gì tới chuyện phong thưởng. Tiểu muội lại càng khỏi cần nói tới nữa, bấy lâu nay chưa từng được Hoàng hậu ban cho chút ân điển nào.”

    Kính Phi lắc đầu lia lịa, nói: “Thôi thôi, chúng ta vốn cũng đâu dám mong được nàng ta ban cho ân điển.”

    Tôi khẽ thở dài. “Mấy vị tỷ tỷ thực đã phải chịu ấm ức rồi. Muội hiện đang nắm quyền hiệp trợ quản lý lục cung vốn nên thay mấy vị tỷ tỷ dâng lời lên Hoàng thượng, có điều vừa mới sinh nở được một thời gian thì muội đã bị kẻ gian hãm hại, phải trải qua rất nhiều gian nan trắc trở, điều này thì các vị tỷ tỷ cũng đều tận mắt thấy rồi. Về sau tuy Hoàng thượng không truy cứu nữa, vẫn sủng ái muội như trước nhưng muội thực không thể không ôm lòng cẩn thận, thành ra chẳng dám nói nhiều lấy nửa câu.”

    Kính Phi nhớ lại việc xưa, không kìm được thổn thức nói: “Tình hình khi đó thực quá rõ ràng, ai mà chẳng biết Hoàng tử căn bản không thể là con của người khác được, thế mà chuyện vẫn bị làm ầm lên hết sức nực cười. Có điều, nếu không vì thế thì Hoàng thượng cũng đã không ghẻ lạnh Hoàng hậu, xét cho cùng thì đều là nàng ta tự làm tự chịu mà thôi, hơn nữa bọn ta cũng nhìn ra tâm tư của Hoàng hậu với muội.” Nói tới đây, nàng ta không kìm được thở dài. “Bọn ta thực đúng là một đám hồ đồ, người ta đã có thai bốn tháng rồi mà vẫn chẳng hề hay biết. Nếu không phải hôm nay Hoàng hậu nói việc này ra trước mặt Hoàng thượng, chúng ta chắc vẫn còn ù ù cạc cạc, chỉ từ đó thôi cũng đủ thấy tâm cơ của nàng ta thâm trầm đến mức nào.”

    Đoan Phi với một cành hoa đồ my trắng muốt trên chiếc bàn cạnh đó tới bên mũi ngửi, chậm rãi nói: “Tới bây giờ muội mới biết s? Tiếp xúc với nàng ta b nhiêu năm như thế, chắp nối những sự việc đã xảy ra lại, dù có muốn không sợ hãi cũng khó.” Sau đó lại nhìn qua phía tôi. “Trong Chiêu Dương điện hôm nay, mấy câu nói đó của nàng ta chính là nhằm vào muội đấy, muội nhớ phải cẩn thận.”

    Lữ Chiêu dung giận dữ nói: “Cẩn Phi đến khi chết vẫn là một con quỷ hồ đồ, ai mà lại giống như cô ta chứ! Cẩn Phi có Hoàng trưởng tử, mà bây giờ người có Hoàng tử không phải...” Nàng ta rốt cuộc đã hiểu ra, liền không nói tiếp nữa, chỉ cất tiếng cười lạnh. “Nếu Cẩn Phi vẫn còn tại thế, biết An Lăng Dung bây giờ phong quang đắc chí cỡ này, còn chuẩn bị được ngang vai với mẹ đẻ của Hoàng trưởng tử là cô ta, chỉ e sẽ tức đến chết mất.”

    Đoan Phi tựa người vào chiếc ghế chạm trổ hoa đào sau lưng, hơi cau mày lại. “Hôm nay Hoàng hậu nói các ngôi vị trong lục cung hãy còn trống rất nhiều, việc này còn chẳng phải là do ý của nàng ta s? Bây giờ tứ phi chỉ có duy nhất thục phi, ngôi phu nhân thậm chí còn bỏ trống, trong khi đó tam phi đã đủ người thì nàng ta lại muốn thêm vào An Lăng Dung. Lúc này chỉ e Mẫn Phi đang tức điên lên trong cung của mình đấy.”

    Các ngôi vị trong lục cung còn trống rất nhiều? Trong đầu tôi chợt bừng lên một tia chớp sáng lòa, thân thể nhẹ nhõm hẳn đi, khóe môi bất giác hơi nhếch lên để lộ một nụ cười thư thái. Quả đúng thế thật, đây chính là lời mà vị Hoàng hậu nương nương tôn quý tột cùng kia chính miệng nói ra.

    Kính Phi trầm ngâm một chút rồi nói: “Chuyện của An Lăng Dung không ai ngờ tới. Cô ta đắc sủng nhiều năm như thế mà chưa có thai lần nào, ai cũng ngỡ rằng cô ta không thể sinh nở được, nào ngờ bất thình lình lại có như vậy, thực là nằm ngoài ý liệu của mọi người. Lần này không ngờ cô ta lại sắp lên ngôi phi như ta và Đoan Phi tỷ tỷ, chỉ sợ...”

    “Chỉ sợ sau này sinh con xong sẽ được phong làm phu nhân, như thế đại quyền hiệp trợ quản lý lục cung cũng phải chia một chén canh cho cô ta rồi.” Tôi tiếp lời.

    Kính Phi mở to hai mắt, rất nhanh sau đó đã lại cụp xuống. Đoan Phi cầm chén trà trong tay, ánh mắt liếc qua phía Kính Phi một chút, sau đó mới ung dung cất tiếng: “Ai bảo chúng ta không có phúc, b nhiêu năm rồi vẫn chẳng sinh được đứa bé nào, thành ra chỉ có thể trơ mắt nhìn cô ta cưỡi lên đầu lên cổ thôi.”

    Tôi bình tĩnh nói: “Giờ cô ta đã mang thai, vậy thì cần phải ứng phó dần từng bước mới được. Cô ta đắc sủng nhiều năm như thế, người căm hận cô ta cũng chẳng ít đâu.”

    Kính Phi khẽ nở nụ cười. “Đúng thế, xét cho cùng thì cô ta cũng phải sáu tháng nữa mới sinh, trong thời gian này ai mà biết được sẽ xảy ra những chuyện bất ngờ gì.”
     
  11. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 19: Trong lá oanh vàng hót nỉ non [20]
    [20] Trích Thục tướng, Đỗ Phủ. Dịch thơ: Cự Minh Sơn. Nguyên văn Hán Việt: Cách diệp hoàng ly không hảo âm - ND.

    Vì trong lòng đang có tâm sự nên trưa hôm đó tôi chẳng thể ngủ ngon. Độ này thời tiết đã khá nóng, tiếng ve sầu bên ngoài vang lên ra rả hệt như tiếng mưa rào, tôi nghe mà lòng thầm phiền muộn, thế là dứt khoát không ngủ nữa, sai mấy gã tiểu thái giám mang sào dính keo ra bắt sạch ve sầu để chúng khỏi kêu. Vừa khéo lúc này Bình Nương tới nói Dư Nhuận lại khóc, tôi bèn qua bên đó xem thế nào. Không biết có phải vì mẫu thân qua đời sớm hay không, Dư Nhuận rất hay khóc, khuôn mặt nhỏ nhắn thường xuyên đỏ bừng vì khóc quá nhiều. Tôi đau xót không thôi, vội bế thằng bé vào lòng mà dỗ dành, mãi một hồi lâu sau mới đỡ hơn một chút. Bình Nương không kìm được thở dài than: “Đức phi nương nương đi rồi, thật đáng thương cho tiểu Hoàng tử mới ra đời đã phải mồ côi mẹ.”

    Hoa Nghi hậm hực nói: “Ngày đó nếu không vì thị tỳ của An Chiêu viện làm kinh động đến Đức phi thì bây giờ hai mẹ con Đức phi đã có thể ở bên nhau rồi, được như thế thì thật tốt biết bao.”

    Tôi nhớ tới chuyện xưa, tâm trạng lại càng thêm bức bối, ngoảnh đầu lại vừa khéo nhìn thấy Tiểu Liên Tử tới bẩm báo các tin vừa thăm dò được, nào là trưa nay Mẫn Phi vô cùng giận dữ, ngay đến tấm bình phong lưu ly khảm ngọc mà thái phi tặng cho cũng đập vỡ, rồi thì phủ Nội vụ đã tìm được mấy chữ có ngụ ý rất tốt để dùng làm phong hiệu cho An Lăng Dung khi phong phi, chiều nay sẽ mang đến chỗ Huyền Lăng để y lựa chọn.

    Tôi bế Dư Nhuận trong lòng nghe hắn bẩm báo, nghe xong liền không kìm được bật cười. “Phủ Nội vụ hẳn là đang cực lực bợ đỡ An thị đây, không ngờ mới nhanh như thế mà đã làm xong việc chọn chữ cho phong hiệu rồi.”

    Tiểu Liên Tử không dám tiếp lời, tôi lại hỏi: “Hoàng thượng bây giờ ở đâu?”

    “Dạ, đang xem tấu sớ ở Nghi Nguyên điện.”

    “Hoàng hậu thì sao?”

    “Nghe nói là dùng bữa trưa xong thì đã đi ngủ, hình như bệnh đau đầu lại tái phát.”

    Tôi giao đứa bé cho Bình Nương, sau đó liền ngoảnh đầu qua dặn dò Hoa Nghi: “Xuống bếp hỏi xem canh lá sen và bánh hoa quế trộn bột ngó sen đã làm xong chưa đi, đợi lát nữa bản cung sẽ đích thân mang qua Nghi Nguyên điện cho Hoàng thượng.”

    Buổi chiều vốn là thời gian nhàn hạ nhất trong ngày, lòng tôi tuy có mục đích nhưng sau khi nhìn cảnh non xanh nước biếc trên đường, tâm trạng tôi cũng bất giác thư thái hơn hẳn.

    Huyền Lăng hiện đang ngồi một mình ở phòng tây, chắc hẳn tấu sớ không phải là loại quan trọng lắm nên y chỉ tiện tay lật xem qua một chút, bộ dạng khá là ung dung. Thấy tôi đi vào, y mỉm cười vẫy tay gọi: “Trời chiều đang nóng nực, sao nàng lại tới đây thế?”

    Tôi hơi nhún người hành lễ, nói: “Quả nhiên là người gặp chuyện mừng tinh thần sảng khoái. Nhìn Hoàng thượng bây giờ khí sắc hồng hào là đủ thấy việc An muội muội có thai khiến Hoàng thượng cao hứng đến cỡ nào.”

    Huyền Lăng cười, nói: “Thân thể Dung Nhi vốn yếu đuối, không ngờ lần này thai tượng lại mười phần ổn định, rất ít khi bị nôn, ngay đến thái y cũng nói là hiếm có.”

    Tôi cười tươi vui vẻ. “An muội muội đúng là có phúc. Còn nhớ thần thiếp khi mang thai Lung Nguyệt đã bị nôn đến là khổ. Qua đó đủ thấy đứa bé này của An muội muội ngoan ngoãn đến thế nào, sau này nhất định sẽ mười phần hiếu thảo, hiểu chuyện.”

    Những lời này khiến Huyền Lăng lại càng vui hơn, y cầm tay tôi, kéo tôi ngồi xuống. “Nàng tới đúng lúc lắm, trẫm vừa nãy ngồi xem tấu sớ một mình đang thấy chán quá đây.”

    Tôi nhẹ nhàng đứng dậy mở hộp thức ăn ra, nở một nụ cười rất mực dịu dàng. “Thần thiếp trộm nghĩ thời gian buổi chiều dài đằng đẵng, Hoàng thượng dùng bữa trưa nhất định đã ăn những thứ có nhiều dầu mỡ, đã thế lại vì có chuyện mừng của An muội muội nên ăn gì cũng thấy ngon, bây giờ ắt hẳn là còn đầy bụng, do đó thần thiếp mới đặc biệt chuẩn bị chút đồ điểm tâm thanh đạm mang tới đây mời Hoàng thượng thưởng thức, không biết Hoàng thượng thấy thế nào?”

    Huyền Lăng cười, nói: “Khiến trẫm đắc ý nhất vẫn là phong hiệu được đặt cho Uẩn Hoan của chúng ta, Linh Tê, trẫm với nàng thực đúng là tâm hữu linh tê nhất điểm thông.”

    Tôi vừa múc một bát canh lá sen đặt tới trước mặt Huyền Lăng vừa chậm rãi giải thích: “Canh lá sen này được nấu từ lá sen non hái trước lúc mặt trời mọc, còn nước dùng để nấu canh là nước sương trên lá sen. Lá sen thì dễ hái nhưng để gom đủ nước sương thì quả thực khá tốn thời gian, may mà canh nấu ra thơm ngon vô cùng, coi như không uổng phí một phen công sức.” Rồi tôi lại lấy hai miếng bánh hoa quế bột ngó sen ra đặt lên hai cánh hoa sen tươi, đưa tới trước mặt Huyền Lăng, nói tiếp: “Canh lá sen rất thanh đạm, lại thoang thoảng hương thơm của lá sen, còn bánh hoa quế bột ngó sen này thì rất dễ tiêu hóa, ăn vào vừa thơm vừa ngọt, Hoàng thượng mau nếm thử một chút đi.”

    Bánh hoa quế bột ngó sen vốn có màu vàng tươi óng ánh, đặt lên cánh hoa sen hồng phấn mịn màng trông lại càng hấp dẫn, chỉ nhìn thôi đã đủ khiến người ta phải thèm thuồng. Huyền Lăng cười, nói: “Hai món này trông cũng đơn giản, nhưng hiếm có là ở chỗ đều được làm rất tinh tế, khiến người ta vừa nhìn đã muốn ăn rồi.” Nói rồi liền ăn một miếng bánh, uống một ngụm canh, trông bộ dạng hết sức thư thái, dễ chịu. “Mùi vị đúng là không tệ chút nào.” Thế nhưng rất nhanh sau đó y đã lộ ra một tia buồn bã, quay đầu nhìn qua phía tôi. “Mùi vị của bánh hoa quế bột ngó sen này quen thuộc quá, hình như trước đây trẫm từng ăn ở đâu rồi mà không sao nhớ ra được.” Y tập trung suy nghĩ suốt một hồi lâu, cuối cùng mới do dự nói: “Là ở cung của Đức phi đúng không nhỉ?”

    Tôi khẽ nở nụ cười mỉm nhưng bên trong đó lại ẩn giấu một nỗi thương cảm khó nói bằng lời. “Đúng vậy thưa Hoàng thượng, bánh hoa quế bột ngó sen mà Đức phi tỷ tỷ làm là ngon nhất, ngày xưa Hoàng thượng từng rất thích ăn.”

    Huyền Lăng cũng có vẻ thương cảm, buông bánh xuống, nói: “Nàng ấy đã qua đời, trẫm cũng lâu lắm không được ăn thứ bánh này rồi.” Hơi dừng một chút, y buồn bã nói tiếp: “Khi Đức phi còn tại thế, trẫm đã không thường xuyên tới thăm nàng ấy, một năm chỉ gặp gỡ có vài ba lần, cũng chẳng trò chuyện được mấy câu, thậm chí trước khi nàng ấy qua đời, trẫm còn chẳng ở bên nàng ấy nữa. Bây giờ nàng ấy đi rồi, thỉnh thoảng nghĩ tới nàng ấy, trẫm đều cảm thấy vô cùng buồn bã.” Rồi y thở dài một tiếng. “Nói đến cùng thì vẫn là trẫm có lỗi với nàng ấy.”

    Khi My Trang còn tại thế, Huyền Lăng đã chẳng thương yêu tỷ ấy, trân trọng tỷ ấy, tin tưởng tỷ ấy, bây giờ tỷ ấy đã ra đi lâu như thế rồi mới nói ra những lời này, thực chỉ khiến người ta thêm buồn và cảm nhận được sâu sắc sự bạc bẽo của y.

    Tôi vội vàng bước tới khuyên nhủ: “Đều tại thần thiếp không tốt, tự nhiên lại khiến Hoàng thượng buồn. Khi ra đi, tỷ tỷ đã từng hết sức vấn vương Hoàng thượng, nếu biết Hoàng thượng vì mình mà thương tâm thế này, tỷ ấy ở dưới suối vàng ắt chẳng được yên tâm.” Tôi suy nghĩ một chút rồi nói tiếp: “Kỳ thực Hoàng thượng không cần phải buồn đâu, ngày đó tỷ tỷ từng đích thân dạy cho đầu bếp trong cung cách làm loại bánh này, bây giờ tỷ tỷ tuy không còn nữa nhưng thần thiếp đã gọi người đầu bếp đó tới Nhu Nghi điện hầu hạ, hôm nào Hoàng thượng muốn ăn thì hãy tới ăn một phen thật thoải mái, cứ coi như là tỏ chút lòng hoài niệm với tỷ tỷ là được rồi.”

    Huyền Lăng gật đầu, nói: “Hoàn Hoàn, vẫn là nàng hiểu lòng người khác nhất, Đức phi có người tỷ muội như nàng cũng có thể yên lòng nhắm mắt được rồi.”

    Tôi cười, nói: “Kỳ thực hôm nay mang đồ điểm tâm tới đây, trong lòng thần thiếp còn có một phen tâm tư khác.”

    Huyền Lăng không kìm được lộ vẻ tò mò. “Tâm tư của nàng lúc nào cũng đặc biệt, trẫm chẳng thể đoán nổi. Nàng hãy nói ra trẫm nghe xem.”

    Tôi mím môi, nói: “Lá sen là cha, hoa sen là mẹ, ngó sen là con cái, hôm nay thần thiếp dâng hai món điểm tâm này lên là hy vọng Hoàng thượng, các vị tỷ muội trong cung và các Hoàng tử, Công chúa sẽ mãi mãi bình an vui vẻ, chung ý chung lòng.”

    Huyền Lăng bật cười, ôm tôi vào lòng. “Hoàn Hoàn, chỉ vì những lời này của nàng, trẫm cũng phải cảm ơn nàng một phen mới được.”

    Tôi cất tiếng nỉ non: “Thần thiếp không cần Hoàng thượng cảm ơn, chỉ mong Hoàng thượng có thể mãi mãi đối xử với thần thiếp như bây giờ, vậy có được chăng?”

    Y cất tiếng cười vang sảng khoái. “Được, trẫm đáp ứng với nàng, trẫm cùng Hoàn Hoàn và Dư Hàm, Lung Nguyệt, Linh Tê của chúng ta sẽ mãi mãi bình an, vui vẻ, chung ý chung lòng.”

    Tôi tựa người trong lòng Huyền Lăng, dõi mắt nhìn ra phía ngoài cửa sổ, chỉ thấy trên mấy gốc chuối biếc xanh thỉnh thoảng lại có một con chim nhỏ nghỉ chân đậu lại cất tiếng hót vui tươi, sau đó thì bay lên cao vút, chao liệng giữa những đám mây trắng muốt như bông, nhìn vô cùng thích mắt.

    Từ ngoài điện chợt có hai tiếng gõ cửa khe khẽ, bầu không khí tĩnh lặng tức thì bị phá tan.

    Huyền Lăng uể oải cất tiếng hỏi: “Ai ở ngoài đó thế?”

    Giọng nói của Lý Trường kính cẩn vang lên: “Bẩm Hoàng thượng, phủ Nội vụ đã chọn được mấy chữ tốt lành đưa tới để Hoàng thượng lựa chọn rồi ban cho An Chiêu viện.”
    Tôi mỉm cười đẩy khẽ Huyền Lăng. “Đây là việc mừng của An muội muội đấy, Hoàng thượng mau kêu y vào đây đi.”

    Tới lúc này, Lý Trường mới dám đi vào. Huyền Lăng vui vẻ nói: “Để trẫm xem phủ Nội vụ đã chọn được những chữ hay ho gì nào.”

    Tôi đứng bên cạnh Huyền Lăng đưa mắt nhìn đi, thấy tất cả chỉ có ba chữ được viết bằng mực vàng trên ba tờ giấy màu đỏ sậm, lần lượt là “Túc”, “Lệ”, “Văn”.

    Tôi mỉm cười cất giọng ôn tồn: “Cả ba chữ đều không tệ chút nào. Như chữ túc này, đức hạnh vẹn toàn ấy là túc; khôn ngoan quyết đoán ấy là túc; uy đức kiêm đủ ấy là túc; đoan chính nghiêm nghị ấy là túc; giữ được phụ đạo ấy là túc; mặt thành tâm kính ấy là túc; biết trên biết dưới ấy là túc. Tất thảy các ý nghĩa đều rất hay.”

    Huyền Lăng nói: “Giữ được phụ đạo, mặt thành tâm kính, quả là rất hợp với Dung Nhi. Có điều chữ này không khỏi có phần hơi cứng rắn, không hợp lắm với tính tình yếu đuối của Dung Nhi.” Y lại nhìn qua chữ văn, nở nụ cười tươi, nói: “Dung Nhi vốn tính trầm mà lại khiêm tốn, nhún nhường, thực là một người lễ nghĩa, chữ này có vẻ rất hợp đấy.”

    Người lễ nghĩa? Tôi vừa tức giận vừa tức cười, chợt để ý thấy một tia thần sắc ám muội trên mặt Huyền Lăng khi nói ra câu này, đột nhiên nhớ tới một việc, suýt thì cười lạnh thành tiếng, nhưng vì đang ở trước mặt Huyền Lăng nên rốt cuộc đành nín nhịn. Có điều tôi cũng hiểu được An Lăng Dung là loại người như thế nào trong lòng Huyền Lăng, nhủ thầm mình sau này phải cẩn thận tính toán mới được.

    “Hoàng thượng nói rất phải.” Tôi chậm rãi nói: “Chữ văn này vừa mang ý nho nhã, lễ độ lại vừa mang ý điềm đạm, nhún nhường, quả là rất hợp với An muội muội. Có điều khi nghe nhắc tới chữ văn, người ta thường sẽ lập tức hình dung đến một người đầy bụng thi thư, học thức uyên bác, An muội muội tính tình đúng là điềm đạm nhưng nói về thi thư hay học thức thì hãy còn hơi kém, nếu dùng chữ này chỉ e muội ấy sẽ cả nghĩ.”

    Huyền Lăng cười, nói: “Vậy thì chỉ còn lại chữ lệ thôi.” Nói rồi liền sai Lý Trường mang bút đỏ tới chuẩn bị khoanh vòng tròn lựa chọn.

    Tôi mỉm cười, nói: “Chữ lệ ấy vừa mang nghĩa là dung nhan xinh đẹp lại vừa có ý thành cặp thành đôi, ngoài ra còn chỉ phu thê nghĩa nặng tình sâu nữa, quả nhiên là rất hay.” Dứt lời liền lén đưa mắt ngó nhìn thần sắc y.

    Huyền Lăng nghe tôi nói xong thì lập tức tỏ ra do dự, sau khi suy nghĩ một chút liền vứt cây bút lông sói xuống bàn.

    Tôi hỏi: “Hoàng thượng sao thế? Chữ lệ này không phải là rất hay sao?”

    Huyền Lăng khẽ cất tiếng lẩm bẩm: “Phu thê nghĩa nặng tình sâu? An Chiêu viện chỉ là thiếp thôi, đâu thể có cái gọi là phu thê nghĩa nặng tình sâu với trẫm được, đúng là nực cười.” Sau đó lại quay qua nói với tôi: “Nếu chọn chữ này làm phong hiệu, chỉ sợ truyền ra ngoài rồi văn võ bá quan sẽ chỉ trích trẫm quá sủng hạnh thiếp thất.” Y suy nghĩ một chút rồi nói với Lý Trường: “Đi nói với phủ Nội vụ là mấy chữ này đều không ổn, hãy chọn lại rồi đưa tới đây.”

    Tôi mỉm cười, nói: “Kỳ thực đâu cần phủ Nội vụ phải bận rộn thêm nữa, An muội muội xưa nay vẫn luôn rất được lòng Hoàng thượng, Hoàng thượng đích thân chọn một chữ làm phong hiệu cho muội ấy là được rồi mà.”

    Huyền Lăng tiện tay cầm bát canh lá sen lên uống một ngụm, nói: “Trong thời gian ngắn thế này trẫm thực khó mà nghĩ ra được chữ nào hay. Hoàn Hoàn, nàng với Dung Nhi quen nhau đã lâu, chi bằng hãy nghĩ thay trẫm đi.”

    Tôi đưa tay lên chống cằm. “Chuyện như thế này thần thiếp đâu dám làm chủ. Hoàng thượng vẫn nên tự mình quyết định thì hơn.”

    Y vuốt nhẹ bờ má tôi một cái, cười nói: “Trẫm đã trao cho nàng đại quyền hiệp trợ quản lý lục cung, việc này có gì đâu mà không được. Hơn nữa lúc trước nàng cũng từng chọn cho Trinh Quý tần một phong hiệu rất hay mà.” Nói rồi liền đưa bút cho tôi. “Nàng cứ thử viết một chữ ra đi, nếu thật sự không ổn thì trẫm sửa giúp nàng là được.” Tôi suy nghĩ một chút rồi viết ra một chữ “Ly[21]” rất lớn, sau đó ngoảnh đầu qua mỉm cười, hỏi y: “Hoàng thượng thấy sao?”

    [21] Ly ở đây là con chim hoàng oanh, còn được gọi là vàng anh - ND.

    Y hơi cau mày, khẽ lẩm bẩm: “Ly?”

    Tôi khẽ gật đầu, dải tua trên chiếc bộ dao hình phượng hoàng đung đưa nhè nhẹ va vào bên tai mang tới cảm giác mát rượi như cơn mưa phùn tháng Tư. Tôi dịu giọng nói: “Giỏi hát giỏi múa, tính tình lại hiền hòa như chim hoàng oanh, đó chính là những ưu điểm lớn nhất của An muội muội. Mà ngoài ra chim hoàng oanh còn là loài chim rất mực chung tình, chẳng khác An muội muội chút nào, do đó thần thiếp thấy chữ ly này là hợp với An muội muội nhất.”

    Lý Trường đứng kế bên tiện miệng nói: “Nô tài nghe nói chim hoàng oanh một thai thường có bốn trứng, mà An Chiêu viện thì đang có thai, đặt phong hiệu như vậy vừa hay ứng với điềm nhiều con nhiều phúc.”

    Tôi cười tươi, nói: “Xuân về cảnh đẹp, oanh hót véo von, thực là vừa hợp mùa vừa hợp cảnh, cứ như thần thiếp thấy khó mà tìm được chữ nào thích hợp với An muội muội hơn nữa rồi.”

    Huyền Lăng dãn hẳn đôi mày, tôi biết là y đã bị đánh động, quả nhiên y lập tức cười, nói: “Nghĩ kĩ lại thì quả đúng là rất hợp.” Dứt lời liền lệnh cho Lý Trường: “Đi truyền chỉ đi, sau đó hãy qua chỗ Hoàng hậu kêu nàng ta chọn ngày lành tháng tốt luôn nữa.”

    Lý Trường hồi bẩm: “Hoàng hậu nương nương lại đang tái phát bệnh đau đầu, chỉ e khó mà rời khỏi giường được.”

    Tôi suy nghĩ một chút rồi nói: “Chi bằng Hoàng thượng cứ ban danh phận cho An muội muội trước, còn về điển lễ sắc phong gì đó thì đợi Hoàng hậu khỏe lại rồi hãy tính tới việc cử hành cũng không muộn.” Tôi làm bộ vô tình nói: “Có điều mấy tên nô tài ở phủ Nội vụ thật chẳng ra sao, chỉ có mỗi việc soạn phong hiệu thôi mà cũng không làm cho ra hồn, cuối cùng còn phải phiền đến Hoàng thượng.”

    Huyền Lăng lộ vẻ trầm ngâm, đôi hàng lông mày hơi cau lại.

    Tôi chậm rãi cất tiếng: “Tứ lang rất thích chữ ly mà Hoàn Hoàn vừa nói tới đúng không?” Tôi cố kìm nén nỗi căm hận trong lòng, biến nó thành nụ cười mỉm bên khóe miệng. “Đại Chu chúng ta không có quá nhiều sự kiêng kỵ về tên của quân vương, chẳng hạn bối phận của Hoàng thượng theo hàng chữ Huyền, tên thì chỉ sửa từ ba chấm thủy thành hai chấm thủy như bây giờ, còn các vị vương gia khác thì không sửa đổi gì cả, như thế vừa tỏ được sự thân mật giữa huynh đệ lại không làm mất cái tôn ti trên dưới.”

    Huyền Lăng khẽ mỉm cười, thế nhưng trong mắt lại lộ rõ vẻ nghi hoặc. Tôi cúi đầu, thoáng ửng hồng hai má. “Tứ lang xin chớ trách Hoàn Hoàn nhỏ mọn.”

    Y cất giọng rất mực dịu dàng: “Sao vậy?”

    Tôi ngoảnh mặt qua một bên để lộ thần thái thương cảm, cất tiếng thở dài: “Hoàng thượng đối xử với Ly Phi rất tốt, trong lòng Hoàn Hoàn cũng thấy vui thay cho muội ấy. Nói một câu thực lòng, bấy lâu nay Hoàn Hoàn vẫn luôn cảm thấy tứ lang và Ly Phi muội muội thực là một đôi do ông trời sắp đặt, bằng không tại sao Ly Phi đã bầu bạn bên tứ lang mười mấy năm trời mà hai bên chưa từng phát sinh chút mâu thuẫn nào? Hơn nữa trong tên của tứ lang có một chữ Lăng[22], trong tên của Ly Phi muội muội cũng có một chữ Lăng2, tuy rằng cùng âm không cùng nghĩa nhưng cũng cho thấy rõ là tứ lang và Ly Phi muội muội rất có duyên với nhau, còn Hoàn Hoàn rốt cuộc chỉ là người ngoài thôi.” Tôi gượng cười buồn bã. “Có lẽ hai tiếng tứ lang kia vốn nên dành cho Ly Phi chứ chẳng phải là thần thiếp.”

    [22] Là chữ: 凌. 2. Là chữ: 陵.

    Y đứng dậy nắm lấy bàn tay lạnh ngắt của tôi, dịu dàng nhìn tôi chăm chú. “Nàng thật sự để tâm tới điều này ư?”

    Tôi ngước mắt lên thản nhiên nhìn lại y, lộ rõ vẻ u buồn. “Có lẽ Hoàn Hoàn không nên để tâm tới điều này, nhưng nếu không bởi tứ lang thật lòng đối tốt với Hoàn Hoàn nhiều năm, cho dù chỉ vì cố kỵ thân phận, Hoàn Hoàn cũng ắt chẳng chịu nói mấy lời vừa rồi ra ngoài miệng.” Tôi hơi cúi đầu, chậm rãi quỳ xuống hành lễ. “Xin Hoàng thượng khoan thứ cho thần thiếp tội đố kỵ.”

    Y đưa tay ôm chặt tôi vào lòng. “Trẫm với nàng bề ngoài là quân thần, còn những lúc riêng tư thì chẳng khác gì phu thê, người khác đâu thể so sánh với nàng được.” Rồi y ghé đến bên tai tôi, khẽ cất tiếng rủ rỉ: “Tuy trẫm không đặt nặng những việc này nhưng nói gì thì nói tị húy cũng là điều nên làm, huống chi trẫm đâu nỡ lòng nào để Hoàn Hoàn của trẫm phải buồn chứ.”

    Y gọi Lý Trường lại: “Đi truyền chỉ ra khắp lục cung, trẫm ban cho An Chiêu viện tên mới là Ly Dung, sắc phong nàng ta làm Ly Phi chính nhị phẩm, nói với nàng ta hôm nay không cần phải tới tạ ơn nữa.”

    Tôi tựa người vào lòng Huyền Lăng, hơi nhếch khóe môi nở một nụ cười trong tĩnh lặng
     
  12. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 20: Lục cung giai lệ bừng nhan sắc
    Thế rồi tôi ngồi xuống cùng Huyền Lăng xem sách, xem được một lúc thì không kìm được đưa mắt nhìn những gốc chuối bên ngoài cửa sổ mà ngẩn ngơ.

    Huyền Lăng thấy tôi suốt một hồi lâu chẳng nói năng gì, bèn khẽ hỏi: “Đang nghĩ gì mà ngẩn ngơ thế?”

    Tôi thoáng sững người một chút rồi mới tỉnh táo trở lại, trên mặt lộ ra mấy nét thê lương, chậm rãi nói: “Hôm nay là ngày vui của An muội muội, thần thiếp bỗng nhớ lại mới hồi nào mình với Ly Phi và Đức phi tỷ tỷ còn cùng nhau vào cung, thân nhau chẳng khác gì tỷ muội. Tiếc là bây giờ Đức phi tỷ tỷ đã qua đời, dù có muốn ôn lại tình cảm tỷ muội một chút cũng chẳng còn cơ hội nữa.” Nói tới đây, tôi thương tâm khôn xiết, nước mắt không kìm được lã chã tuôn rơi.

    Huyền Lăng cũng có chút không đành lòng, cất giọng thổn thức: “Khi Đức phi còn tại thế, trẫm đã không đối xử tốt với nàng ấy, bây giờ nghĩ lại trong lòng thực có chút bất an.”

    Tôi khẽ kéo tay áo y, rơm rớm nước mắt, nói: “Thần thiếp nay đã được đứng vào hàng tứ phi, An muội muội thì cũng được phong làm Ly Phi rồi.” Tôi chậm rãi quỳ xuống. “Tỷ tỷ tuy được truy phong làm Đức phi nhưng tên thụy hãy còn chưa có, xin Hoàng thượng hãy rủ lòng thương mà ban thêm cho tỷ ấy một ân điển nữa đi. Còn cả Thuần muội muội đã qua đời từ sớm nữa, khi ra đi muội ấy còn ít tuổi biết chừng nào.”

    Huyền Lăng xoa vai tôi an ủi: “Người chết thì đã chết rồi, người sống chẳng thể làm gì hơn cho bọn họ được, mọi việc cứ theo ý nàng để tỏ lòng tưởng nhớ đi. Hoàng hậu hiện đang ốm, chuyện này nàng làm chủ là được rồi.”

    “Dạ!” Tới lúc này tôi mới đổi khóc làm cười, nói tiếp: “Dù gì cũng đã nói ra rồi, thần thiếp đánh bạo xin Hoàng thượng ban cho một ân điển nữa. Cẩn Phi vốn sợ tội tự sát, theo lệ thì không thể truy phong, có điều Hoàng trưởng tử cũng đã lớn rồi, cần chú ý tới thể diện của y một chút, hoặc không thì ít nhất cũng là thể diện của Hoàng hậu, bởi dù gì Hoàng trưởng tử cũng là do Hoàng hậu nuôi nấng trưởng thành.” Tôi làm ra vẻ thổn thức. “Mẹ ruột mà không được truy phong, chắc Hoàng trưởng tử sẽ thương tâm lắm.”

    Huyền Lăng chắp tay đứng đó, trầm ngâm suốt một hồi lâu rồi mới nói: “Thang thị tuy có tội lớn nhưng niệm tình nàng ta sinh được Hoàng trưởng tử, trước đây hầu hạ trẫm cũng hết lòng, vậy hãy phá lệ mà truy phong là được rồi.” Hơi dừng một chút, y lại nói tiếp: “Đã truy phong thì hãy truy phong một thể cho các phi tần đã qua đời đi, có điều riêng Hiền phi và Đức phi thuở trước thì quyết không thể truy phong được.”

    Tôi thầm run sợ nhưng cũng hiểu rõ nguồn cơn, vội vàng nói: “Dạ.”

    Huyền Lăng kéo tôi đứng dậy, vòng tay ôm lấy bờ eo tôi, nói: “Trẫm trao cho nàng đại quyền hiệp trợ quản lý lục cung, xem ra bây giờ nàng cũng vất vả hơn không ít rồi.”

    Tôi cúi đầu cười mỉm. “Có thể giúp đỡ Hoàng thượng, thần thiếp dù vất vả đến mấy cũng vui lòng.” Sau đó lại lộ vẻ trầm ngâm. “Có câu này thần thiếp không biết có nên nói hay không.”

    “Nàng nói đi.”

    Tôi suy nghĩ một chút rồi nói: “Vừa rồi Hoàng thượng nói tới việc truy phong với thần thiếp, thần thiếp bỗng nhớ đến một câu nói của Hoàng hậu trên Chiêu Dương điện hôm nay.”

    “Ồ?”

    “Hoàng hậu nương nương nói “các ngôi vị trong lục cung hãy còn trống rất nhiều”. Thần thiếp ngẫm lại thấy cũng đúng, tứ phi thì chỉ có mình thần thiếp, trong khi đó trong cung chẳng thiếu những người vào cung sớm hơn, đức hạnh vẹn toàn hơn thần thiếp muôn phần, do đó thần thiếp thân ở ngôi cao thực sự hết sức bất an. Đoan Phi tỷ tỷ vào cung sớm nhất nhưng lại vì thân thể không khỏe mà mãi chẳng được tấn phong, có lúc triều bái còn phải đứng sau thần thiếp, mỗi lần như thế thần thiếp đều cảm thấy hổ thẹn vô cùng.”

    Huyền Lăng nói: “Tính ra thì trong cung đã lâu lắm không có lần đại phong nào rồi, Hoàng hậu mà không nhắc đến thì đúng là trẫm cũng quên mất.”

    Tôi chậm rãi nói: “Thần thiếp cũng nghĩ như vậy. Người đã qua đời có thể tạm gác qua một bên, nhưng các tỷ muội ngày đêm kề cận thì nên được tấn phong mới phải. Hậu cung an định cũng giúp ích rất nhiều cho việc ở tiền triều.”

    Huyền Lăng nói: “Làm vậy tốt thì có tốt nhưng muốn đại phong dù sao cũng cần có lý do mới được. Chẳng lẽ lại lấy cớ là Dung Nhi vừa được phong làm Ly Phi để tấn phong cho toàn thể hậu cung? Như thế thì chẳng ra sao cả.”

    Tôi mím môi cười, nói: “Hoàng thượng đúng là mau quên quá. Trong dịp trăm ngày của Dư Bái, Dư Hàm và Linh Tê, Hoàng thượng đã từng đại xá thiên hạ, lại ban thưởng bổng lộc cho văn võ bá quan, chỉ riêng hậu cung là chẳng được gia phong gì cả. Hoàng thượng, người làm như thế rõ ràng là nhất bên trọng, nhất bên khinh đấy.”

    Huyền Lăng khẽ gật đầu. “Không ngờ nàng vẫn còn nhớ kĩ đến vậy, đó dù sao cũng là việc từ hơn một năm trước rồi mà.”

    “Không phải thần thiếp cố tình ghi nhớ việc này đâu, nhưng thần thiếp trộm nghĩ hậu cung là nơi để Hoàng thượng nghỉ ngơi thư giãn, nếu các tỷ muội chung sống vui vẻ bên nhau thì Hoàng thượng cũng có thể yên tâm.” Tôi thu nụ cười bên khóe miệng lại, trịnh trọng nói. “Thần thiếp chỉ cầu xin Hoàng thượng một việc này thôi, bất kể tấn phong cho các vị tỷ muội thế nào thì cũng phải để Đoan Phi tỷ tỷ được ngồi vào ngôi cao nhất, bằng không thì thần thiếp thực khó mà yên lòng được.”

    Huyền Lăng nói: “Đoan Phi vào cung lâu nhất, phong làm quý phi cũng rất xứng đáng. Có điều nói thực lòng, trẫm vẫn muốn dành vị trí đó cho nàng.”

    Tôi dịu dàng nói: “Được hoàng thượng xem trọng như vậy thần thiếp đã cảm kích lắm rồi, thực không muốn tính toán gì về vấn đề này cả.”

    Huyền Lăng có chút cảm khái, đưa tay khẽ vuốt ve bờ má tôi. “Được rồi, vậy trẫm sẽ hạ chỉ sắc phong Đoan Phi làm Đoan Quý phi đứng đầu trong tứ phi.” Y suy nghĩ một chút rồi nói tiếp: “Trước đây trẫm từng khiến Kính Phi phải chịu ấm ức rất nhiều, mà nàng ta tính tình lại hiền hòa, vậy hãy phong làm đức phi đi.”

    Tôi chậm rãi quỳ xuống. “Thần thiếp xin thay mấy vị tỷ tỷ cảm tạ Hoàng thượng, song chẳng hay Hoàng thượng có còn nhớ việc trên áo của Mẫn Phi có thêu hình thần điểu Phát Minh rất giống với phượng hoàng không? Phát Minh là thần điểu của phương Đông vốn ứng với ngôi quý phi, nếu bây giờ Đoan Phi tỷ tỷ được phong làm quý phi, không biết liệu Mẫn Phi có khó chịu không đây?”

    Huyền Lăng hơi cau mày thoáng lộ vẻ không vui. “Nàng ta còn trẻ, thời gian hãy còn dài.”

    Tôi thầm yên tâm hơn một chút, chậm rãi nói: “Lữ Chiêu dung là mẹ ruột của Thục Hòa Công chúa, trưởng nữ của Hoàng thượng, Từ Thục dung thì sinh được nhị điện hạ, hai vị này tất nhiên hơn hẳn người thường, thần thiếp nghĩ có thể phong làm phi được.”

    Huyền Lăng dịu dàng đỡ tôi đứng dậy. “Nàng nói vậy cũng không sai, có điều như vậy thì tam phi sẽ có bốn người là Hân Phi, Thục phi, Ly Phi và Mẫn Phi rồi.” Y cười gượng, nói tiếp: “Mẫn Phi tuổi còn trẻ lại hay hờn giận, trước giờ vốn không ưa Dung Nhi, hôm nay đã nổi nóng một phen không nhỏ rồi, nếu sau này lại ngang vai với Dung Nhi nữa thì thực không biết sẽ có bao nhiêu rắc rối xảy ra.”

    Tôi bật cười, nói: “Uẩn Dung dù sao cũng hãy còn trẻ tuổi, bồng bột, chỉ cần không làm gì quá đáng là được rồi.”

    “Uẩn Dung dù sao cũng là biểu muội của trẫm, không thể bạc đãi được, hãy phong nàng ta làm phu nhân tòng nhất phẩm đi, lại ban thêm một chữ “Trang” nữa để nàng ta nhớ rằng mình là một phi tần, sau này có làm gì cũng phải trang trọng.” Huyền Lăng trầm ngâm một chút rồi nói tiếp: “Có điều sau này nên để Hân Phi hay Trinh Phi làm người đứng đầu tam phi đây? Chuyện này cần phải nghĩ kĩ mới được.”

    Tôi mỉm cười, nói: “Hân Phi và Trinh Phi đều đã sinh nở, Hân Phi vào cung hầu hạ Hoàng thượng sớm hơn, Trinh Phi thì một lòng trung thành, lại sinh được Hoàng tử, quả thực khó mà phân định rõ là ai hơn ai kém.”

    Huyền Lăng trầm ngâm nói: “Trinh Phi dù sao cũng vào cung muộn hơn, cứ để Hân Phi làm người đứng đầu tam phi là được rồi. Ngoài ra bốn vị Quý nhân Phúc, Kỳ, Tường, Thụy ngày trước nay chỉ còn một mình Phúc Tần, nàng ta là người đôn hậu, thành thực nhất, hãy ban cho ngôi quý tần đi, như thế vừa có thể an ủi nàng ta lại vừa có thể khiến người khác biết rằng trẫm rất xem trọng những người an phận thủ thường.”

    Tôi nở nụ cười tươi. “Rốt cuộc vẫn là Hoàng thượng suy nghĩ chu toàn, thần thiếp thì không nghĩ được nhiều đến thế.”

    Huyền Lăng đưa tay nâng cằm tôi lên, khẽ cười, nói: “Đâu phải nàng suy nghĩ không chu toàn, chẳng qua là cố tình chờ trẫm nói những lời này ra đó thôi. Nàng suy nghĩ thêm một chút nữa đi, còn người nào cần tấn phong thì hãy liệt thành danh sách đưa trẫm xem thử, sau đó mọi việc cứ giao cho bộ Lễ là được rồi.” Tôi lại thay Hân Phi cảm tạ thêm lần nữa, Huyền Lăng cười tủm tỉm, hỏi tôi: “Nàng đã xin thay người khác nhiều như thế rồi, lại còn tạ ơn thay người khác nữa, tại sao không xin ân điển gì cho mình vậy?”

    Tôi tựa vào lòng y, cười nói: “Thần thiếp được Hoàng thượng sủng ái đã là ân điển lớn nhất rồi, đâu còn mong cầu điều gì khác nữa.”

    Y vòng tay qua ôm chặt lấy tôi, trên chiếc áo lụa mềm mại vẫn còn lưu lại mùi mực thơm thoang thoảng, bụi trúc phía sau điện bị gió thổi xào xạc đung đưa, lại càng làm bầu không khí buổi chiều thêm phần yên bình, tĩnh lặng, khiến người ta chỉ muốn chìm vào giấc ngủ.

    Đêm ấy tôi ngủ rất ngon, sáng sớm hôm sau tỉnh giấc liền cảm thấy tinh thần hết sức sảng khoái, sau khi chải chuốt, trang điểm một phen liền cho gọi người của phủ Nội vụ và bộ Lễ đến để cùng an bài sắp xếp cho buổi đại lễ sắp tới.

    Bận rộn mãi tới hoàng hôn, mọi việc coi như mới đâu ra đấy được khoảng ba phần, tôi mệt đến nỗi toàn thân mỏi nhừ, khẽ nói với Cận Tịch: “Ngày mai hãy mời Đoan Phi và Kính Phi tới đây, bản cung muốn cùng bọn họ bàn bạc xem danh sách các phi tần được tấn phong lần này có vấn đề gì không ổn hay không.” Cận Tịch lúc này đang ôm một bó hoa mộc cẩn vừa hái trong lòng, màu sắc đỏ trắng hồng đủ cả nhìn vô cùng thích mắt. Nàng ta cắm bó hoa vào trong một chiếc bình lớn đặt cạnh cửa sổ, sau đó mới cười tươi, nói: “Tin tức Hoàng thượng chuẩn bị đại phong cho lục cung đã truyền đi khắp rồi, Hoàng hậu chỉ nhắc tới Ly Phi mà rồi các phi tần trong cung đều được tấn phong, mọi người ắt đều cảm kích nương nương vô cùng.”

    Tôi cười, nói: “Ta tất nhiên không thể để một mình nàng ta làm người tốt rồi, nàng ta muốn nâng đỡ An Lăng Dung...” Nói tới đây tôi không kìm được cười phì một tiếng. “Bây giờ đã là An Ly Dung rồi, ta tội gì không thuận nước dong thuyền để mọi người đều được lợi chứ.” Tôi cầm lấy một chiếc kéo bạc, chậm rãi cắt tỉa bó hoa mộc cẩn, chẳng buồn ngẩng lên. “Bên Cảnh Xuân điện có tin tức gì không?”

    Cận Tịch đáp: “Nghe nói An Chiêu viện được ban cho chữ “ly” đó thì không dám tức giận, cũng không dám kêu than, chỉ hỏi là chữ “lệ” mà phủ Nội vụ chọn rất hay, tại sao lại không dùng.”

    Tôi vẫn chỉ cúi đầu chăm chú cắt tỉa những cành hoa. “Tại sao lại không dùng? Câu hỏi này mới nực cười làm sao, có lẽ phải đưa một vị tiên sinh đến dạy học cho cô ta mới được. Hỏi tại sao không dùng chữ “lệ” ư? Kêu Hoa Nghi tìm cách để lời này của cô ta truyền tới tai Hoàng hậu.”

    Chỉ e Hoàng hậu mà nghe được câu này, bệnh đau đầu sẽ lại càng nghiêm trọng hơn.

    Tôi hỏi: “Còn nghe ngóng được gì nữa không?”

    “Không biết vì cớ gì mà mấy gã thái giám soạn phong hiệu cho Ly Phi ở phủ Nội vụ mắc tội, bị Lý Trường dẫn người đến phạt đòn một trận rất nặng, sau đó còn bị đầy vào Bạo thất.” Nàng ta dè dặt cất tiếng. “Nghe nói đây là ý chỉ của Hoàng thượng.”

    Tôi khẽ “ừm” một tiếng, nói: “Chắc là vì nôn nóng muốn bợ đỡ vị Ly Phi nương nương kia nhưng lại không bợ đỡ đúng chỗ đấy thôi.”

    Cận Tịch hơi nhếch môi để lộ một nụ cười mỉm. “Trong mắt người ngoài chuyện hình như là thế này, đám thái giám của phủ Nội vụ nôn nóng muốn bợ đỡ Ly Phi nhưng kết quả lại là bị Hoàng thượng phạt đòn.”

    Tôi chọn lấy một bông mộc cẩn màu hồng đẹp nhất cài lên búi tóc cho Cận Tịch, hờ hững cất tiếng: “Chân tướng vốn dĩ không phải là như thế, chẳng qua là hai chuyện xảy ra đồng thời nên khiến người ta hiểu lầm thôi.”

    Cận Tịch vô thức đưa tay lên sờ bông hoa trên búi tóc một chút, nói: “Đa tạ nương nương.”

    “Bây giờ chắc không còn ai dám tùy tiện bợ đỡ lấy lòng Ly Phi nữa rồi.” Tôi khẽ mỉm cười, cẩn thận cắt tỉa từng bông hoa, đến khi tất cả đã hợp ý mình rồi mới chậm rãi nói tiếp: “Cái gì bản cung thấy thích thì giữ lại, cái gì bản cung cho rằng thừa thãi thì cắt đi, kỳ thực hai việc cắt tỉa hoa và cai quản hậu cung căn bản chẳng có gì khác biệt, đạo lý này bản cung hiểu rõ, Hoàng hậu lại càng hiểu hơn.”

    Cận Tịch cười, nói: “Những bông hoa này đều đã đẹp lắm rồi!”

    Tôi chỉ mỉm cười không nói.

    Hoa Nghi vén rèm đi vào bẩm báo: “Lữ Chiêu dung đang ở ngoài cầu kiến, nương nương có muốn gặp một chút không?”

    Tôi cười, nói: “Nàng ta tới cũng nhanh thật đấy!” Dứt lời liền sai một tiểu cung nữ bưng chậu vàng và khăn bông đến để rửa tay, lại quay sang nói với Hoa Nghi: “Mời Lữ Chiêu dung vào đây đi.”

    Lời vừa mới dứt thì Lữ Chiêu dung đã bước vào như một cơn gió, trên khuôn mặt ngợp đầy những nét cười phấn chấn. “An Ly Dung! An Ly Dung! Nương nương quả là mưu trí siêu quần, ta dù muốn không phục cũng không được!”

    Tôi mỉm cười, mời nàng ta ngồi xuống, lệnh cho Hoa Nghi: “Đi mang mật ong và tổ yến mà Lữ Chiêu dung thích ăn nhất tới đây.”

    Lữ Chiêu dung cất lời cảm tạ: “Nương nương thật khách sáo quá!”

    Tôi cười, nói: “Vốn cũng đến giờ dùng điểm tâm rồi, Chiêu dung có việc mừng gì thì cứ từ từ nói.”

    Lữ Chiêu dung cười đến híp cả mắt, vui vẻ nói: “Nương nương hẳn là đã biết rồi. Ly Phi? Không ngờ Hoàng thượng lại ban cho cô ta một phong hiệu như thế, thật khiến ta buồn cười đến chết mất.”

    Tôi chậm rãi bóc một quả nho bỏ vào miệng, sau đó mới nói: “Chuyện này có gì đáng cười đâu. Ly Phi ấy mà, Hoàng thượng vốn đã thích giọng hát như tiếng chim oanh của cô ta, còn khen cô ta dịu dàng như hoàng oanh nữa.”

    Nói xong những lời này tôi chỉ ngồi im lặng, Lữ Chiêu dung thì cười “hà hà”, nói: “Mặc kệ cô ta nói hay ho thế nào thì chữ ly cũng vẫn là chữ ly thôi. Tỷ muội chúng ta tuy đọc sách không nhiều nhưng ý nghĩa của từng con chữ thì vẫn hiểu được, Ly Phi, ngay đến tên cô ta cũng bị sửa thành An Ly Dung, như thế chẳng phải là một con chim hoàng oanh thì là gì? Hơn nữa cô ta đã vỡ giọng rồi, nói giọng của cô ta như chim oanh thực là cay nghiệt quá!” Nàng ta cười vang không ngớt, cuối cùng phải đưa khăn tay lên che miệng. “Đại Chu ta từ khi lập quốc tới giờ chưa từng có phi tần nào được ban cho phong hiệu như vậy, mới mẻ thì đúng là có mới mẻ nhưng thật khiến người ta phải cười đến đau cả bụng, hơn nữa đến tên cũng bị thay đổi thành ra như thế rồi thì chữ ly kia đâu còn tính là phong hiệu gì được nữa.” Tâm trạng nàng ta có vẻ rất tốt, cặp mắt lấp lánh sáng ngời, đôi bông tai vàng đính trân châu không ngớt đung đưa làm người ta như muốn hoa cả mắt.Tôi khẽ mỉm cười, chậm rãi nhấm nháp cái vị vừa chua vừa ngọt của quả nho trong miệng, điềm đạm nói: “Tỷ tỷ nói đúng lắm!”

    Lữ Chiêu dung cười khanh khách một hồi, sau đó mới tò mò hỏi: “Lần này Hoàng thượng phong cô ta làm Ly Phi, nương nương định tặng quà mừng gì vậy?”

    Tôi đưa tay chỉ bức tranh “Quan Âm tống tử” trên bàn, ung dung cất tiếng: “Chỗ cô ta đâu có thiếu thứ gì, mà tiểu muội cũng chẳng có món đồ tốt nào cả, đành dùng tạm bức tranh này làm quà thôi.”

    Lữ Chiêu dung nói: “Xét ra thì bây giờ cô ta đang được Hoàng thượng sủng ái, cũng không thể thất lễ quá được.” Sau đó liền gọi thị nữ hầu cận Thuyền Quyên lại, chỉ tay vào cây gậy như ý bạch ngọc mà thị đang bưng trên tay. “Ta thì vừa chọn được cái này.” Sau đó lại không kìm được mà cất tiếng cười vang. “Nương nương hãy nhìn kĩ xem, gậy như ý thì không có gì nhưng chiếc hộp đựng kia đã khiến ta phải tốn mất không ít tâm tư đấy.”

    Tôi nhất thời tò mò, liền đón lấy chiếc hộp mà xem thật kĩ, không kìm được bật cười. “Tỷ tỷ thực là xấu xa quá.”

    Thì ra bên trên chiếc hộp đựng gậy như ý đó của Lữ Chiêu dung có chạm trổ hình Tùng cầm song ly, tả cảnh hai con chim hoàng oanh chụm đầu giương cánh cùng đậu trên một gốc táo gai, mỗi đường nét đều cực kỳ tinh tế, lại có tới mười ba loại màu sắc đan xen nên bắt mắt vô cùng.

    Lữ Chiêu dung cười đến gập cả người lại. “Phải là hộp thế này thì mới hợp với Ly Phi nương nương của chúng ta chứ. Nương nương nhìn hai con hoàng oanh kia xem, thật là sống động quá, ta đã phải dẫn theo cung nữ lục tìm trong nhà kho suốt một hồi lâu mới tìm ra đấy.”

    Tôi che miệng cười, nói: “Trước đây muội từng nghe người ta kể câu chuyện mua tráp trả ngọc[23], bây giờ mới đoán được nguồn cơn thế nào, nhất định là cái tráp đó cũng đẹp như chiếc hộp này của tỷ nên người ta mới làm như thế.”

    [23] Tương truyền có một người nước Sở sang nước Trịnh bán ngọc, nhưng người nước Trịnh chỉ mua cái tráp đựng ngọc và trả lại ngọc. Câu này vốn được dùng để chế giễu những người thiển cận, không biết nhìn xa trông rộng - ND.

    Nàng ta lộ vẻ đắc chí nói: “Ly Phi nhìn thấy chiếc hộp này rồi nhất định sẽ quên mất là còn có cây gậy như ý ở bên trong ấy chứ.”

    “Tỷ phải cẩn thận đừng để cô ta bị động thai đấy!”

    “Nương nương yên tâm, cô ta sẽ không tức giận đâu, phong hiệu Ly Phi đó là do Hoàng thượng ban cho cô ta cơ mà, nếu cô ta giận há chẳng phải là giận Hoàng thượng sao? Cô ta không dám đâu.” Lữ Chiêu dung mỉm cười điềm đạm, mà bên trong vẻ điềm đạm ấy còn mang theo mấy tia khinh thường.

    Tôi hơi nhếch khóe môi nói: “Nói vậy cũng phải, mà muội còn có một chuyện hay hơn muốn kể với tỷ đây, Hoàng thượng từng khen Ly Phi của chúng ta tính tình khiêm tốn, nhún nhường, thực là một người lễ nghĩa đấy!” Dứt lời liền không kìm được cất tiếng cười lạnh.

    “Người lễ nghĩa? Cô ta mà cũng xứng ư? Tạm chưa nói tới hiện giờ, trong mấy năm mà nương nương ở ngoài cung, cô ta đã từng giở trò hãm hại bao nhiêu phi tần rồi chứ.” Lữ Chiêu dung hậm hực nói: “Chẳng trách nương nương lại tức giận, thì ra Hoàng thượng còn từng khen cô ta như thế.”

    Lữ Chiêu dung đọc sách không nhiều, nhất thời còn chưa hiểu được thâm ý bên trong. Cận Tịch thì đã đưa tay áo lên che miệng, cố nhịn cười tới nỗi mặt mũi đỏ bừng.

    Lữ Chiêu dung lộ vẻ khó hiểu, tôi bật cười phỉ phui nói: “Cận Tịch ngươi vốn sành sỏi lõi đời mà không ngờ cũng có lúc thiếu nghiêm túc như vậy, mau nói cho Chiêu dung biết nguồn cơn đi.”

    Cận Tịch để ý thấy xung quanh không có ai mới cụp mắt cười, nói: “Lời này vốn là do Hán Thành Đế nói ra để khen Triệu Phi Yến, câu gốc là “Triệu Tiệp dư vóc người đầy đặn, mềm tựa không xương, xử sự khiêm nhường, như gần như xa, thực là một người lễ nghĩa[24]”.”

    [24] Câu “thực là một người lễ nghĩa” kỳ thực có ý khen Triệu Phi Yến giỏi ngón nghề giường chiếu, cho nên Huyền Lăng khi nói ra lời khen kia mới lộ vẻ ám muội - ND.

    Lữ Chiêu dung tỉ mỉ nghe kĩ, sau đó liền lộ vẻ trầm ngâm. “Câu này nghe quen tai quá!” Dứt lời liền hơi ửng hồng hai má. “Có điều nghe có vẻ như chẳng phải lời gì hay ho cả.”

    Tôi ghé đến sát bên tai nàng ta nói giọng rất khẽ: “Trước đây trong cung của tỷ tỷ từng có một cuốn Chiêu Dương thú sử cơ mà, chỉ cần nghĩ về chuyện ấy một chút là khắc biết thôi, sao tỷ tỷ lại quên được nhỉ?”

    Lữ Chiêu dung giật nảy mình một cái, bất giác đỏ mặt tía tai, vội ngó khắp xung quanh một lượt, thấy không có ai rồi mới ngượng ngùng cười, nói: “Sao Thục phi nương nương lại nói tới chuyện này thế? Nhớ ngày trước khi vừa được Hoàng thượng sủng hạnh, bọn ta còn chưa hiểu gì hết, thế là mấy cung nữ già mới tìm sách này tới cho đọc. Về sau số lần Hoàng thượng ghé thăm cứ thưa dần, ta buồn chán quá mới lôi nó ra thỉnh thoảng đọc giải sầu một chút. Nhưng sau lần Hoàng hậu mượn việc giữa Thôi Thượng nghi và Lý công công để bày trò, ta không còn dám sơ suất, những thứ có vấn đề đều sai cung nữ hầu cận mang đi đốt sạch, trong cung của ta bây giờ đã hoàn toàn không còn loại sách đó nữa rồi.”

    Tôi khẽ cười, nói: “Chuyện này thì có gì đâu, đọc sách sử có thể giúp con người ta hiểu rõ những việc được mất, chẳng qua là người dâm cho nó là dâm, người trí cho nó là trí mà thôi.”

    Đang lúc trò chuyện thì Cận Tịch dẫn theo một tiểu cung nữ bưng canh tổ yến lên, lại tranh thủ lúc còn nóng mà đổ mật ong sền sệt vào. Tổ yến này vốn là huyết yến, màu sắc đỏ tươi, trong suốt không hề có chút tạp chất nào, lại được rót mật ong vàng óng lên trên nên trông lại càng bắt mắt, khiến người ta vừa nhìn đã muốn ăn rồi.

    Lữ Chiêu dung cười tủm tỉm đón lấy. “Nương nương đúng là có phúc, huyết yến này hiếm có vô cùng, loại quan yến mà cung của ta thường dùng không thể so sánh được.”

    Tôi cười, nói: “Chuyện này thì có gì đâu, bây giờ Thục Hòa Công chúa đang tuổi lớn, cần được ăn nhiều đồ ngon mới phải.” Sau đó bèn ngoảnh đầu qua dặn dò Cận Tịch: “Đi nói với phủ Nội vụ là sau này Linh Tê Công chúa ăn mặc thế nào thì Thục Hòa Công chúa ở cung của Chiêu dung cũng ăn mặc như vậy, đừng vì bản cung địa vị cao mà thiên vị Linh Tê, Thục Hòa Công chúa mới là trưởng nữ tôn quý nhất của Hoàng thượng.” Tôi suy nghĩ một chút rồi nói thêm: “Huyết yến trong cung của chúng ta cũng sắp dùng hết rồi, mau đi kêu phủ Nội vụ đưa thêm tới, đừng quên bảo bọn họ mang qua cung của Chiêu dung luôn.”

    Cận Tịch đáp “vâng” một tiếng rồi xoay người rời đi. Lữ Chiêu dung vội vàng đứng dậy, nói: “Vậy sao được chứ, Linh Tê Công chúa dù sao cũng là do nương nương sinh ra, thân phận tôn quý tột cùng.”

    Tôi vội cười, nói: “Tỷ tỷ khách sáo quá rồi, tự nơi đáy lòng muội vẫn luôn coi Thục Hòa, Ôn Nghi, Lung Nguyệt và Linh Tê như nhau, không phân biệt ai với ai, mà ngay đến Hòa Mục Công chúa của Mẫn Phi, muội cũng thương yêu vô cùng, chỉ là người ta thân phận cao sang nên muội không dám để lộ ra đấy thôi. Có điều bất kể thế nào thì cũng phải xét đến thứ tự trước sau, Thục Hòa Công chúa vốn là trưởng nữ nên tất nhiên tôn quý nhất, chỉ đáng hận cái đám nô tài của phủ Nội vụ mắt chó chẳng biết nhìn người nên mới khiến tỷ tỷ phải thương tâm, mà trong việc này muội cũng có lỗi vì đã không phát hiện ra sớm.”

    Lữ Chiêu dung nói: “Nương nương nói gì vậy chứ, ta kỳ thực cũng luôn coi Lung Nguyệt và Linh Tê như con ruột của mình, chỉ hiềm vì nương nương thân phận tôn quý lại ngày ngày phải bận rộn các việc lớn nhỏ trong cung nên không dám thân cận, sợ lũ tiểu nhân kia lại nói là ta nịnh nọt, bợ đỡ thì thực là không tốt cho danh dự của nương nương.”

    Tôi hơi cau mày, khẽ cất tiếng thở dài. “Lời đồn bên ngoài vốn đã nhiều không đếm xuể, hy vọng Chiêu dung tỷ tỷ cứ đối xử với muội như trước đây là được. Trong mấy năm muội ở ngoài cung, Lung Nguyệt tuy được Kính Phi tỷ tỷ hết mực thương yêu nhưng cũng từng phải chịu không ít nỗi ấm ức, Kính Phi tỷ tỷ chỉ có một mình chẳng thể nào lo hết được, nghe nói còn phải nhờ tới Chiêu dung tỷ tỷ không ít lần, bằng không thì Lung Nguyệt đã chẳng được như ngày hôm nay, thế mà tới bây giờ muội hãy còn chưa cảm ơn tỷ tỷ nữa.” Tôi nói những lời này với giọng rất chân thành, Lữ Chiêu dung vốn là người thẳng tính nên vô cùng cảm động.

    Lữ Chiêu dung nói: “Mấy năm đó Lung Nguyệt Công chúa rất khổ, nương nương cũng rất khổ, may mà bây giờ đã tốt hơn rồi, nhưng nương nương phải bận rộn việc nọ việc kia chắc cũng chẳng dễ chịu gì.”

    Tôi khẽ gật đầu. “Vẫn là tỷ tỷ hiểu lòng muội nhất. Chúng ta cùng là người làm mẹ, bao nhiêu tâm tư bỏ ra kỳ thực đều là vì con cái của mình. Trước đây tỷ tỷ chiếu cố Lung Nguyệt của muội như thế nào thì nay muội cũng xin đối xử với Thục Hòa của tỷ tỷ như thế, chỉ mong có thể báo đáp được tỷ tỷ phần nào.”

    Lữ Chiêu dung bất giác lộ ra mấy tia thương cảm. “Hoàng thượng tuy ban cho cô ta một chữ ly nhưng nói gì thì nói cô ta cũng ở ngôi phi rồi, từ nay cao hơn ta một bậc, hoàn toàn có thể chèn ép ta. Ta bây giờ vốn đã hoa tàn ít bướm đâu còn sợ gì nữa, chỉ đáng thương cho Thục Hòa của ta thôi, tính ra năm nay nó cũng mười lăm tuổi rồi, chỉ hai năm nữa là sẽ phải xuất giá, đến lúc đó lỡ như bị người mẹ chẳng ra gì ta đây làm liên lụy tới nỗi không tìm được một tấm chồng tốt thì ta thực có lỗi với nó quá.”

    Tôi có lòng muốn an ủi nàng ta, liền cười tủm tỉm, đứng dậy kéo tay nàng ta, nói: “Muội vốn nên chúc mừng tỷ tỷ từ sớm mới phải, chỉ là vừa rồi tỷ tỷ vội vã chạy vào làm muội quên khuấy đi mất. Sáng nay Hoàng thượng đã dặn dò rồi, trong lần đại phong này sẽ tấn phong tỷ tỷ làm Hân Phi đứng đầu trong tam phi, tỷ tỷ có vui không?”

    Lữ Chiêu dung mừng rỡ tột cùng, nhất thời có chút ngơ ngẩn, lẩm bẩm nói: “Việc đại phong cho toàn thể lục cung ta đúng là có nghe nói, nhưng hình như các ngôi vị còn chưa xác định cơ mà, lời nương nương nói đúng là sự thật ư?”

    “Trước đây khi lập cửu tần đã để tỷ tỷ phải chịu ấm ức đứng sau An Chiêu viện rồi, mấy năm nay muội đều thấy vô cùng khó chịu. Hôm nay Hoàng thượng ban phong hiệu cho Ly Phi, muội nhân tiện nhắc thêm một câu rằng tỷ tỷ là mẹ ruột của Thục Hòa Công chúa, trưởng nữ của Hoàng thượng, thế là Hoàng thượng liền quyết định như vậy luôn.” Tôi mỉm cười nhìn nàng ta. “Ly Phi dù đắc sủng đến mấy thì cũng không thể chèn ép người đứng đầu tam phi được, tỷ tỷ bây giờ có thể yên tâm rồi.”

    Lữ Chiêu dung mừng đến phát khóc, gần như không thể tin nổi, nghẹn ngào nói: “Chịu đựng cuộc sống trong cung bao nhiêu năm như vậy, không ngờ ta cũng có ngày được phong phi thế này.” Rồi nàng ta nhìn tôi chăm chú. “Nương nương không bỡn cợt ta đấy chứ?”

    Tôi nói: “Lần này Hoàng thượng muốn đại phong cho toàn thể lục cung, chỉ mấy ngày nữa là sẽ có ý chỉ ban xuống thôi, hiện giờ người đang bảo muội soạn danh sách. Chúc mừng tỷ tỷ.”

    Lữ Chiêu dung xúc động nói: “Nếu không nhờ nương nương chiếu cố, ta thực khó mà có được ngày hôm nay.”

    Tôi vội đỡ nàng ta đứng dậy, cười, nói: “Đều là tỷ muội với nhau còn khách sáo như thế làm gì? Đáng chúc mừng nhất vẫn là Đoan Phi tỷ tỷ, chúng ta sắp phải sửa cách xưng hô gọi tỷ ấy là Đoan Quý phi rồi.”

    Lữ Chiêu dung ngẩn ra, ngay sau đó liền gật đầu lia lịa, nói: “Chính thế, chính thế, Đoan Phi tỷ tỷ là người vào cung sớm nhất, lại vất vả nhất nữa, phong làm quý phi cũng đúng thôi, mọi người chắc đều tâm phục khẩu phục.”

    Đang lúc nói cười thì Cận Tịch đi vào bẩm báo: “Bẩm nương nương, Tiểu Dương của phủ Nội vụ vừa tới đây báo lại, huyết yến bây giờ chỉ đủ để Hoàng thượng dùng hằng ngày thôi, không còn dư ra chút nào cả.”

    Tôi thấy giọng nàng ta nghe đầy vẻ khó chịu, bèn hỏi: “Mấy hôm trước còn nói là có mấy chục cân huyết yến được tiến cống cơ mà, ta với Thái hậu và Hoàng hậu đều chưa lấy bao nhiêu, sao mới thoáng đó mà đã hết sạch rồi?”

    Cận Tịch buồn bực đáp: “Vốn dĩ thì vẫn còn, nhưng vừa rồi người của Thái hậu đã đến mang đi một ít, sau đó Hoàng hậu nương nương lại cho người tới nói là đã bẩm với Hoàng thượng rồi, bây giờ Ly Phi nương nương đang có thai, những thứ bổ dưỡng như huyết yến nên để cô ta ăn nhiều một chút, thế là dư ra bao nhiêu đều được đưa tới Cảnh Xuân điện hết thảy.”

    Lữ Chiêu dung kinh ngạc bật thốt: “Huyết yến? Đó là thứ mà chỉ tứ phi chính nhất phẩm và đế hậu mới được dùng cơ mà, cô ta thậm chí còn chưa được cử hành lễ sắc phong nữa, sao bây giờ đã đụng đến rồi vậy? Mà đó là còn chưa sinh cơ đấy, đến khi sinh rồi chẳng biết sẽ được cưng chiều đến mức nào nữa đây.”

    Tôi xua tay, nói: “Tỷ tỷ, cứ mặc kệ cô ta đi.” Suy nghĩ một chút, tôi nói thêm: “Chỉ là muội vốn muốn tỏ chút lòng thành với Thục Hòa, không ngờ lại chẳng được nữa rồi.” Dứt lời liền không kìm được khẽ thở dài một tiếng.

    Tiếng thở dài ấy của tôi khiến Lữ Chiêu dung cảm khái muôn vàn. Cận Tịch nói: “Vừa rồi tiểu thư và Chiêu dung nhắc tới Triệu Phi Yến, nô tỳ bỗng nhớ ra trong sách Hán thư có một câu nói rất hay.”

    Tôi chỉnh lại cây thoa phượng cài trên búi tóc, buồn bã gật đầu. “Ta biết ngươi muốn nói tới câu nào rồi, hẳn là “tỷ muội Triệu Phi Yến nổi lên từ nơi bần tiện, chẳng tuân theo lễ chế, mức độ còn vượt cả trước kia”. Ban tiên sinh nói việc xưa, thế mà vẫn khiến những người đương thời như chúng ta phải lòng đầy thổn thức.”

    Lữ Chiêu dung ngẩng đầu tỉ mỉ ngẫm nghĩ, sau đó liền cười gượng, nói: “Triệu Phi Yến sau khi đắc thế liền hoành hành trong hậu cung, tàn hại phi tần, thế mà Hán Thành Đế vẫn một mực sủng hạnh cô ta, thậm chí còn để mặc cốt nhục của mình bị giết mà chẳng thèm quản đến. Hoàng thượng tuy chưa đến nỗi hồ đồ như thế nhưng cô ta thì có khác nào Triệu Phi Yến đâu, sau này dù ta đứng đầu tam phi rồi chắc cũng vẫn phải nhường cô ta ba phần.”

    Tôi cũng lộ rõ nét buồn bã. “Tiếc rằng huyết yến đã hết rồi, Cận Tịch, đi lấy một ít cao phục linh tới đây tặng cho Lữ Chiêu dung đi.”

    Lữ Chiêu dung vẫn còn hậm hực không thôi. “Ta thực khó mà phục cô ta được, nương nương có cách nào hay không?”

    Tôi chỉ lặng im cau mày buồn bã, Cận Tịch thì bước lên trước, nói: “Chiêu dung nương nương cũng biết rồi đấy, thứ nhất đây là chủ ý của Hoàng hậu, thứ hai là nương nương nhà nô tỳ còn bận việc đại phong cho lục cung không thể phân thân, hy vọng nương nương có thể biện bạch cho nương nương nhà nô tỳ mấy câu trước mặt các vị nương nương, tiểu chủ khác.”

    Lữ Chiêu dung khẽ gật đầu, nói: “Điều này ta tất nhiên hiểu rõ.” Dứt lời liền không đợi Cận Tịch đi lấy cao phục linh, rảo bước ra ngoài rồi đi thẳng về hướng Yến Hy điện như một cơn gió.

    Thấy nàng ta đã đi xa rồi tôi mới khẽ cười, nói: “Lữ Chiêu dung bây giờ chắc đã căm hận Ly Phi lắm rồi, nếu Mẫn Phi mà biết việc này nữa chỉ e cũng sẽ nổi cơn lôi đình cho xem.”

    Cận Tịch cất giọng điềm đạm: “Lữ Chiêu dung vốn là người tốt bụng và thẳng tính, không chịu được lời nói khích, nhưng chừng mực thì cũng còn nắm được, hẳn không đến nỗi gây ra chuyện gì. Nương nương bây giờ đang ở vị trí này có một số lời không tiện nói ra và cũng không thể nói ra, mượn cái miệng của nàng ta một chút cũng là việc không tệ chút nào.”

    Tôi cầm chén trà lên khẽ nhấp một ngụm, chậm rãi nói: “Ta xin Hoàng thượng phong cho Đoan Phi làm quý phi cũng là vì duyên cớ này, thực hiếm có người nào tâm tư tinh tế mà ra tay lại được gọn ghẽ như nàng ta.” Lòng tôi thầm máy động, chợt nghĩ đến một việc. “Hoàng hậu chắc đã rất bất mãn với Ly Phi rồi, đúng là một việc đáng mừng.” Tôi tươi cười đi tới trước bàn trang điểm, mở hộp son phấn ra, nói tiếp: “Hoàng hậu ban cho Ly Phi nhiều huyết yến như thế, chẳng biết liệu cô ta có tiêu hóa hết được không đây?”

    Cận Tịch hơi cụp mắt xuống, khẽ hỏi: “Nương nương cũng cảm thấy Hoàng hậu không thật lòng thích Ly Phi ư?”

    Tôi mở hộp son đỏ tươi như máu ra, chấm ngón tay vào đó rồi nhẹ nhàng thoa đều lên hai bờ má, lập tức mang tới hai mảng màu hồng phớt đẹp tựa ánh ráng chiều ở nơi chân trời, còn thoang thoảng hương thơm ngọt ngào, dịu nhẹ. Tôi cười, nói: “Cũng giống như người ta dùng son để trang điểm vậy, thoa vào má thì nên nhạt một chút, bôi lên môi thì mới cần đậm. Nếu Hoàng hậu thật lòng muốn ban thưởng cho Ly Phi thì không cần phô trương đến thế, mỗi ngày sai phủ Nội vụ mang qua cho cô ta một ít là được, chứ đưa hết cho cô ta một lượt thế này sẽ chỉ khiến lục cung dị nghị mà thôi.”

    Cận Tịch cầm lấy chiếc lược cẩn thận chải đầu cho tôi, chậm rãi nói: “Đó mới là chỗ lợi hại của Hoàng hậu, thứ nhất có thể nhắc cô ta đừng thừa dịp mang thai đắc sủng mà quên gốc, thứ hai là khiến mối hiềm khích giữa Ly Phi và các phi tần khác nhiều thêm, trong tình hình như thế, Ly Phi nếu muốn bảo vệ bản thân và đứa bé trong bụng thì nhất định phải dựa dẫm vào Hoàng hậu. Có điều nói gì thì nói, quan hệ giữa bọn họ bây giờ xem ra chẳng còn tốt đẹp nữa rồi.”

    Tôi chăm chú nhìn mình trong gương, khẽ nói với Cận Tịch: “Đi lấy danh sách các phi tần lại đây, ta phải nghĩ kĩ xem lần này nên tấn phong bọn họ như thế nào cho hợp lý.”
     
  13. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 21: Ba nghìn yêu quý chất nêm một mình [25]
    [25] Trích Trường hận ca, Bạch Cư Dị. Dịch thơ: Tản Đà. Nguyên văn Hán Việt: Tam thiên sủng ái tại nhất thân - ND.

    Mùa này đang là dịp hoa phượng hoàng trong Thượng Lâm uyển tưng bừng khoe sắc. Buổi trưa hôm ấy, Kính Phi tới ngồi chơi ở Nhu Nghi điện của tôi, sau khi cùng tôi xem danh sách các phi tần sắp được tấn phong một lát liền ghé qua chái điện chơi đùa với mấy đứa nhỏ, nhất thời không kìm được nghĩ tới cái thai của An Ly Dung. Kính Phi cầm một miếng dưa mật lên ăn, chậm rãi hỏi: “Muội vẫn chưa đi thăm An thị lần nào đúng không?”

    Tôi hờ hững đáp: “Gần đây muội không có thời gian rảnh, vả lại cũng chẳng muốn đi. Cô ta giờ đang có thai nên chắc mong manh, yếu đuối lắm, lỡ có bề gì thì ai mà gánh nổi trách nhiệm.”

    Kính Phi tựa người vào thành lan can bên ngoài chái điện, nói: “Nếu đi có lẽ Thái hậu sẽ không vui, nhưng nếu không đi thì Hoàng thượng và Hoàng hậu sẽ không vừa lòng, huống chi muội còn là thục phi, bây giờ Hoàng hậu không quản việc gì hết, mọi trách nhiệm đều ở trên người muội cả, do đó vẫn nên đi thì hơn.”

    Lúc này hoa sen đã rụng mất gần một nửa, cũng chẳng còn tươi đẹp nữa, trong hồ có nuôi những con cá chép hai màu đỏ trắng không ngừng ngụp lặn vui đùa giữa những chiếc lá sen xanh biếc rung rinh, nhìn vui mắt vô cùng. Tôi khẽ cười, nói: “Nếu chỉ có một mình thì muội chẳng dám đi đâu, hy vọng tỷ tỷ có thể đi cùng với muội.”

    Kính Phi cười, bảo: “Nếu muội không muốn gánh mối hiềm nghi nào thì hãy đưa Vệ Lâm theo, như thế là thỏa đáng nhất.”

    Tôi hơi trầm ngâm rồi nói: “Vậy cũng tốt.”

    Tôi với Kính Phi cùng ngồi kiệu tới Cảnh Xuân điện, lúc này mới là đầu chiều, các phi tần và cung nữ đa phần hãy còn đang chìm trong giấc ngủ, ngay đến lũ hạc trắng bên đường cũng núp vào dưới gốc chuối mà ngủ gà ngủ gật.

    Bầu trời hôm nay vạn dặm biếc xanh không một gợn mây, ánh dương phủ khắp Tử Áo Thành như ngưng tụ lại thành những sợi màu vàng kim óng ánh, hết sức chói chang. Bên ngoài Trường Dương cung của An Ly Dung vốn trồng nhiều dương liễu nhất, những nhành liễu rủ hệt như một bức rèm thiên nhiên mát mẻ khiến Trường Dương cung toát ra một vẻ thanh tịnh và hết sức yên bình.

    Vừa bước qua nghi môn, tôi đã nghe thấy những tiếng nói cười vang lên không ngớt trong Cảnh Xuân điện, bèn chậm rãi đi vào, cất giọng hờ hững: “Xem ra bản cung đã tới muộn rồi, thật là náo nhiệt quá!” Mọi người nghe thấy giọng tôi thì lập tức im lặng. Tôi định thần nhìn kĩ thì thấy Mục Tần Uông thị, Triệu Tiệp dư, Dư Dung Quý nhân và Chu Bội đều đang ở đây.

    An Ly Dung thấy tôi tới thì làm bộ định đứng dậy, tôi liền ngăn nàng ta lại, nói: “Muội giờ đang có thai, còn để ý tới mấy thứ lễ nghi đó làm gì, nhớ phải chú ý nghỉ ngơi mới được.”

    An Ly Dung tới lúc này mới rụt rè nằm xuống, lại gọi Bảo Quyên tới dặn dò: “Đi mang chỗ trà Nga My Thúy mà bản cung cất kĩ lại đây, Thục phi tỷ tỷ chắc sẽ rất thích.”

    Dư Dung Quý nhân đưa mắt liếc tôi một cái, rồi lại cười, nói với An Ly Dung: “Nương nương thật thiên vị quá, có trà ngon mà lại cất đi chờ Thục phi nương nương tới mới mang ra mời.”

    An Ly Dung khẽ cười, nói: “Tỷ tỷ đối tốt với ta, ta vẫn luôn ghi nhớ, có gì tốt tất nhiên là phải để dành cho tỷ tỷ rồi. Hơn nữa tỷ tỷ thường ngày đã quen dùng những thứ tốt nhất, hôm nay tới chỗ ta, sao ta có thể đem loại trà bình thường ra mời được.”

    An Ly Dung tựa người vào một chiếc gối mềm thêu hoa theo kiểu Tô Châu, mái tóc dài đen nhánh không búi lại mà buông xõa trên gối, vì đang nằm giường nên nàng ta chỉ mặc một chiếc áo mỏng màu trắng có thắt nơ như ý màu xanh lam, duy có chiếc áo yếm thêu hoa trước ngực là mang màu đỏ tươi đầy vẻ vui mừng, phấn chấn, đồng thời lại càng tôn lên làn da trắng ngần của nàng ta. Hai mắt nàng ta sáng lấp lánh như sao, bờ môi thì đỏ tươi nhưng thấp thoáng một chút màu tím, trước giường có hai tiểu cung nữ tay cầm quạt lụa nhẹ nhàng phe phẩy, cả hai đều không dám dùng sức mạnh quá vì sợ làm nàng ta cảm lạnh.

    Tôi cười, nói: “Ta nhớ là lúc trước muội muội vẫn quen dùng một chiếc gối mềm thêu hoa bằng chỉ vàng cơ mà, sao hôm nay lại đổi sang chiếc này vậy?”

    Kính Phi cười, nói: “Vậy là nương nương không biết rồi, Ly Phi muội muội bây giờ đang có thai, mà chiếc gối kia lại thêu hoa bằng chỉ vàng nên khó tránh khỏi có chút thô ráp, Hoàng thượng vì muốn muội ấy ngủ ngon hơn nên đã đặc biệt sai người mang chiếc gối này tới đây.”

    Chu Bội ngồi tựa người trên chiếc ghế gỗ sưa chạm trổ hình chim loan và hoa hồng, cười tủm tỉm, nói: “Tần thiếp bây giờ mới biết là chỉ vàng thô ráp đấy. Nhớ khi xưa tần thiếp vẫn luôn dùng một chiếc gối gấm Vân Nam thêu hình hoa mai, mãi mấy hôm trước mới được Hoàng thượng ban cho một chiếc gối thêu hoa bằng chỉ vàng, lấy làm yêu thích rất mực. Xem ra tần thiếp đúng là hạng da thô thịt dày nên không xứng được dùng đồ tốt như Ly Phi.”

    Sắc mặt mọi người tức thì đều không dễ coi chút nào. Mục Tần cười gượng, nói: “Bọn tần thiếp trước giờ chỉ được dùng loại gối bình thường thôi, xem ra Hoàng thượng rốt cuộc vẫn thương Ly Phi nương nương nhất.”

    Tôi đưa tay đón lấy chén trà Nga My Thúy mà Bảo Quyên dâng lên, thấy nước trà trong chén xanh biếc tựa ngọc phỉ thúy, bắt mắt vô cùng. Tôi khẽ nhấp một ngụm, không kìm được cất tiếng khen: “Thật là thơm quá, trà trong cung của ta chẳng bằng được một nửa trà này.”

    An Ly Dung vội nói: “Đồ trong cung của muội đâu có được như Vị Ương cung, tỷ tỷ không chê đã là tốt lắm rồi.”

    Tôi đưa mắt nhìn quanh một chút, thấy trong Cảnh Xuân điện treo đầy những bức rèm mỏng thêu hình “Hòa Hợp nhị tiên” bằng chỉ bạc để che bớt ánh mặt trời từ ngoài chiếu vào, nhờ thế cái nóng nực của mùa hè đều bị ngăn lại bên ngoài hết thảy. Cách giường của An Ly Dung không xa có đặt một chiếc đỉnh mạ vàng bên trên điêu khắc hình hoa bách hợp, từ bên trong đó, từng làn khói mỏng vấn vít không ngớt bay ra khiến bầu không khí trong điện tràn ngập vẻ mờ ảo hư vô.

    Tôi khẽ hít vào một hơi, không kìm được ngạc nhiên, nói: “Muội muội đang có thai sao còn dùng loại hương nồng như thế này? Nhớ phải cẩn thận một chút mới được.” Rồi tôi cố tình nhấn mạnh: “Đặc biệt là xạ hương đấy, muội muội trước giờ vốn thích điều chế hương liệu, cẩn thận kẻo nhầm lẫn thì nguy to.”

    An Ly Dung cúi đầu cười khẽ. “Tỷ tỷ quá lời rồi. Loại hương liệu này được điều chế từ nước hoa tươi, chỉ là mùi hương thuần hơn thôi, không có vấn đề gì đâu. Vả lại đây chỉ là thứ muội tiện tay làm ra, đâu có dám dùng tới những thứ quý giá như xạ hương chứ!”

    Tôi khẽ lắc đầu, đứng dậy khẽ vuốt ve một bức rèm trong điện. “Muội muội còn nói nữa, bức rèm này được làm bằng loại vải Nguyệt Ảnh sa vốn là trân phẩm do Tây Việt tiến cống, giá một xấp chẳng dưới trăm lạng vàng, chỉ cần treo lên thì dù ánh mặt trời có chói chang đến mấy khi chiếu vào phòng cũng vẫn dịu nhẹ tựa ánh trăng, do đó mới được đặt tên là Nguyệt Ảnh. Chỉ riêng chỗ rèm được treo lên trong cung của muội bây giờ đã có giá chẳng dưới vạn lạng vàng rồi. Muội nói đi, cung của người khác có thể so với muội được không chứ? Chỉ từ đó thôi cũng đủ thấy Hoàng thượng rất sủng ái muội rồi.”

    Triệu Tiệp dư nhìn An Ly Dung bằng ánh mắt ngưỡng mộ, trong giọng nói có mấy tia đắc ý lộ ra: “Kể cũng đúng thôi, Hoàng thượng xem trọng cái thai trong bụng Ly Phi nương nương mà.”

    An Ly Dung cất giọng yêu kiều: “Loại trà kia của muội vốn là do Hoàng thượng thưởng cho, nếu tỷ tỷ thấy thích, muội xin tặng hết cho tỷ tỷ, mong tỷ tỷ không chê.”

    Tôi cười vẻ hết sức thân mật. “Ta đâu thể lấy không đồ của muội muội được, hơn nữa lần này ta tới đây vốn là để chúc mừng muội về việc muội vừa có thai và sắp được phong phi mà.”

    Chu Bội cười tủm tỉm. “Phải rồi, các phi tần khác còn chưa biết thế nào mà Hoàng thượng đã khâm định nương nương làm Ly Phi, qua đó đủ thấy người sủng ái nương nương tới mức nào. Nghe nói Lữ tỷ tỷ vào cung nhiều năm, lại sinh được Hoàng trưởng nữ, thế mà Hoàng thượng cũng chỉ chuẩn bị ban cho tỷ ấy ngôi vị Hân Phi thôi đấy, quyết không thể nào so sánh với nương nương được.”

    Tôi lệnh cho Hoa Nghi: “Mang đồ lên đây.”

    Hoa Nghi nhất nhất bày các thứ ra trên bàn, gồm có một chiếc bình vàng chạm khắc hoa văn hình chim uyên ương, hai cây quạt làm từ bạch ngọc, cuối cùng là một chiếc hộp gấm trắng ngần, bên trong đựng ba viên bảo thạch Cáp Huyết Hồng to bằng quả nhãn.

    Tôi vì muốn tránh mối hiềm nghi nên cố tình không tặng đồ ăn hay váy áo vải vóc, chờ Hoa Nghi bày ra xong liền cười tươi, nói: “Bình vàng là để cho muội muội ngắm chơi, quạt bạch ngọc thì dùng để quạt mát trong mùa hè, còn ba viên bảo thạch có lẽ tạm thời chưa cần dùng đến, nhưng chờ khi muội muội sinh con và được phong làm phu nhân là có thể gắn chúng lên mũ rồi.”

    Mọi người ghé lại gần xem, không kìm được tấm tắc khen ngợi. Chỉ thấy ba viên Cáp Huyết Hồng kia đỏ tươi như máu, kích thước rất đều nhau, hơn nữa còn chẳng có chút tạp chất nào, thực là vô cùng đẹp mắt.

    An Ly Dung đón lấy xem thử, sau đó liền vội vàng lên tiếng khước từ: “Muội làm sao dám nhận hậu lễ của tỷ tỷ chứ!”

    Tôi đưa tay nắm lấy đôi bờ vai gầy mảnh khảnh của nàng ta, ôn tồn nói: “Muội muội là báu vật trong lòng Hoàng thượng, không phải đồ tốt thì đâu xứng với muội. Nếu trong lòng muội còn có ta thì hãy nhận lấy món quà này. Có điều...” Tôi hỏi: “Vị thái y an thai cho muội có ở đây không thế?”Chợt một nữ tử thân hình thon thả dẫn theo một vị thái y đã khá có tuổi đi tới, cung kính nói: “Bẩm Thục phi nương nương, Hứa thái y đang ở đây.” Các thị nữ bên cạnh An Ly Dung, tôi nhận ra quá nửa nhưng nữ tử này trông lại khá lạ. Chỉ thấy trên người thị là một chiếc áo dài màu xanh lam thêu hoa văn hình chùm nho màu tím sẫm, trên đầu cài một cây trâm bạc hình bông cúc, trông có vẻ không giống một cung nữ bình thường, khuôn mặt mười phần thanh tú. Có điều bộ đồ trên người thị tuy chất vải không tệ nhưng lại khiến thị như già đi mấy tuổi.

    Tôi nói với An Ly Dung: “Muội muội bây giờ đang có thai, chuyện gì cũng cần phải cẩn thận mới được. Như lời Hoàng hậu nương nương đã nói đấy, ngàn vạn lần chớ sơ sảy để rồi bị sẩy thai như ta năm xưa. Cho nên hôm nay đừng nói là quà mà ta tặng muội muội, dù là quà của bất cứ ai thì cũng phải kiểm tra kĩ càng một phen mới được.”

    An Ly Dung chớp mắt một cái, vội vàng nói: “Tỷ tỷ nói vậy rõ ràng là xem muội như người ngoài mà, muội làm sao dám thế chứ!” Nói rồi liền lập lời thề: “Nếu muội mà mang lòng nghi ngờ tỷ tỷ thì sẽ bị...”

    Tôi vội bịt miệng nàng ta lại, khẽ trách: “Nói năng bậy bạ cái gì thế, chẳng biết kiêng kỵ gì cả. Ta làm như thế cũng là vì tình cảm tỷ muội giữa chúng ta thôi, nói gì thì nói, sự an toàn của muội cũng cần đặt lên trên hết mới được.”

    An Ly Dung còn muốn thoái thác nữa nhưng tôi đã gọi Vệ Lâm lại, trầm giọng nói: “Đây là Vệ thái y, có hai vị thái y cùng kiểm tra sẽ ổn thỏa hơn một chút.” Vệ Lâm vái chào một cái rồi bước lên phía trước cùng Hứa thái y xem xét suốt một hồi lâu, sau đó mới cất tiếng bẩm báo: “Khởi bẩm nương nương, trong mấy món đồ này không có thứ gì có thể gây ảnh hưởng tới thai khí.”

    Tôi mỉm cười gật đầu. “Vậy là muội muội và ta đều có thể yên tâm được rồi.”

    An Ly Dung cầm một viên bảo thạch lên mân mê ngắm nghía, màu đỏ tươi từ bảo thạch ánh lên làm khuôn mặt nàng ta càng thêm hồng hào, trông cực kỳ kiều diễm. Có điều chính giữa bờ môi nàng ta lại có một đốm màu tím, giữa màu đỏ thuần nhất kia thực là bắt mắt vô cùng. Tôi không khỏi thầm nghi hoặc, liền đưa mắt liếc qua phía Vệ Lâm một chút, thấy y đang thõng tay đứng một bên, bộ dạng hết sức cung kính.

    Tôi ân cần ngồi xuống bên cạnh nàng ta, nhìn gần thấy làn da nàng ta còn trắng hơn cả tuyết, khí sắc rất tốt nên mới bớt đi mấy phần nghi hoặc, sau đó lại kéo tay nàng ta hỏi han chuyện nọ chuyện kia. Các phi tần thấy bầu không khí có vẻ hòa hợp liền cũng góp vui mấy câu, Cảnh Xuân điện lập tức trở nên náo nhiệt. Tôi dặn dò An Ly Dung đôi lời về việc chú ý giữ gìn thân thể, sau đó lại nói: “Nghe nói y thuật của Hứa thái y rất lợi hại, hoàn toàn không thua kém Ôn thái y, ta hết sức yên tâm. Bây giờ thấy muội muội vẫn khỏe mạnh, cũng không bị nôn ọe quá nhiều, ta lẽ ra không nên vẽ rắn thêm chân làm gì nhưng cứ nghĩ tới việc của My Trang tỷ tỷ ngày trước là lòng ta lại có chút bồn chồn, mà Vệ thái y lại cũng đang ở kề bên, chi bằng muội hãy để y bắt mạch cho một chút nhé? Dù sao thì thêm một người càng đảm bảo mà.”

    Đôi hàng mi của An Ly Dung hơi run lên, bên khóe môi thoáng hiện nụ cười gượng gạo. “Đa tạ tỷ tỷ quan tâm, muội vốn nên nghe lời tỷ tỷ để Vệ thái y bắt mạch cho lần nữa, có điều Hứa thái y dù gì cũng là do Hoàng hậu tiến cử. Muội với tỷ tỷ đều muốn cẩn thận hơn một chút, nhưng nếu Hoàng hậu biết được chỉ e sẽ hoài nghi chúng ta cho rằng y thuật của Hứa thái y không tốt, như thế thì thực không hay chút nào.”

    Dư Dung Quý nhân cũng nói: “Kỳ thực cũng có gì đâu, bên cạnh Thục phi chắc chắn không thể thiếu người tài được, dù có cao minh hơn Hứa thái y cũng không phải chuyện gì lạ cả.”

    Thấy bọn họ đều như vậy, tôi thành ra không tiện nói gì thêm, đành lệnh cho Vệ Lâm lui xuống, lại hỏi An Ly Dung tình hình cái thai bây giờ thế nào. Hứa thái y đáp thay: “Thai khí của Ly Phi nương nương rất ổn định, chỉ nhìn khí sắc là đã đủ biết rồi.”

    Tôi khẽ gật đầu, trong không khí thoang thoảng một mùi hương ngọt ngào làm tâm thần người ta thư thái, tôi giả bộ say sưa hỏi: “Muội muội có còn nhớ Bách Hợp hương mà năm xưa chúng ta cùng nhau phối chế không?”

    An Ly Dung trầm ngâm suy nghĩ một lát rồi cười, nói: “Tất nhiên rồi, phương thuốc cổ vốn khó tìm, hồi đó muội với tỷ tỷ đã xem cùng nhau suốt một hồi lâu.”

    Tôi cất giọng dịu dàng: “Muội muội vốn giỏi phối chế hương liệu nhất, không biết thứ hương hôm nay tên là gì vậy?”

    “Là Ngưng Lộ hương.” Nàng ta nở nụ cười tươi, nói: “Nếu tỷ tỷ thích, muội đưa tặng tỷ tỷ một ít là được rồi.” Dứt lời bèn gọi nữ tử vận áo màu xanh lam kia lại. “Diên Vũ Nhi, ngươi đi lấy một ít Ngưng Lộ hương trong hộp đựng hương liệu của bản cung tới đây, nhớ gói ghém cho cẩn thận rồi hãy dâng lên cho nương nương nhé!”

    Tôi cười, nói: “Muội muội trả lễ thật nhanh quá, vừa mới tặng trà cho ta xong nay lại tặng hương liệu nữa. Sao ta dám làm phiền người bên cạnh muội muội thêm chứ!” Sau đó liền bảo Hoa Nghi: “Ngươi hãy theo vị cô nương này đi lấy hương liệu đi, nhớ đừng có vụng về, hấp tấp kẻo người ta lại chê cười.”

    Hoa Nghi đáp “vâng” một tiếng rồi rảo bước đi theo Diên Vũ Nhi, An Ly Dung vốn định lên tiếng ngăn cản nhưng nhìn thấy bộ dạng hồn nhiên, ngây thơ của Hoa Nghi thì lại thôi, chỉ nói: “Sau khi Ngọc Ẩn cô nương xuất giá, tỷ tỷ chỉ giữ Hoa Nghi lại bên cạnh để sai khiến thôi ư? Vị cô nương này trông đáng yêu quá.”

    Tôi khẽ thở dài, than: “Đúng vậy. Lưu Chu qua đời sớm, Ngọc Ẩn cũng có một chốn về tốt rồi, Cận Tịch thì thường ngày bận rộn, bây giờ bên cạnh ta chỉ còn lại một mình Hoa Nghi thôi. Nha đầu đó thực chẳng hiểu chuyện gì cả, ta chỉ vì thương thị ở ngoài cung không có nơi nương tựa nên mới giữ lại để sai khiến đó thôi, vốn cũng chẳng trông mong thị có thể làm gì.”

    Kính Phi cười, nói: “Hoa Nghi có thể giúp vui cho muội là tốt lắm rồi. Muội không nhìn thấy đám tượng gỗ trong cung của ta đó ư, ai cũng đờ đẫn như nhau cả, thật là nhạt nhẽo.” Tôi nói: “Vị cô nương vừa mời thái y ra ngoài trông thật không tệ chút nào, sao trước đây ta chưa từng thấy muội dẫn theo ra ngoài vậy?”

    An Ly Dung hơi cau mày lại, ngay sau đó đã tươi cười như thường. “Chẳng qua là một nha đầu vụng về mà thôi, muội thấy thị tướng mạo không tệ nên mới giữ lại chứ không thì đã đuổi đi rồi.”

    Vừa khéo lúc này Hoa Nghi trở ra, tươi cười vui vẻ, nói: “Nô tỳ nhìn thấy trong chiếc hộp đó của Ly Phi nương nương có rất nhiều hương liệu, trong bụng liền nghĩ nếu đem hết ra hòa vào nước để tắm thì sau này chắc người sẽ thơm như hoa luôn vậy.”

    Mọi người nghe thế liền không kìm được cười ầm lên, Dư Dung Quý nhân nói: “Đúng là một nha đầu không hiểu chuyện, những thứ hương liệu đó mùi vốn không nồng, phải phối hợp mấy loại với nhau thì mới dùng được.”

    Mọi người lại cười thêm mấy tiếng rồi đứng dậy cáo từ. Ra khỏi Trường Dương cung được mấy bước, tôi chợt nhớ ra là còn phải dặn dò An Ly Dung không cần đi thỉnh an các phi tần có địa vị cao hơn, bèn quay ngược trở lại, nhưng vừa tới dưới nghi môn thì đã nghe thấy bên trong vang lên tiếng phàn nàn mắng mỏ của một tiểu cung nữ: “Cái thứ gì thế chứ! Bảo Oanh tỷ tỷ và Bảo Quyên tỷ tỷ không có ở đó sao? Ai cần cô ta kéo thái y ra ngoài để lấy lòng người khác? Đúng là cái đồ chỉ một lòng muốn trèo cao!”

    Tôi biết thị đang mắng Diên Vũ Nhi, muốn nghe rõ thêm một chút thì tiếp theo đã không còn gì, lại càng không tiện vào trong, thế là xoay người quay về luôn.

    Trong Thượng Lâm uyển, bóng râm phủ khắp nên tôi không ngồi kiệu, vừa đi vừa hỏi Vệ Lâm: “Có nhìn ra điều gì khác thường không?”

    Vệ Lâm đáp: “Nhất thời thì chưa nhìn ra được gì. Nhưng trong lòng vi thần đã có mấy tia nghi hoặc, chờ sau khi quay về xem xét kĩ càng một phen sẽ bẩm rõ với nương nương.”

    Tôi xua tay, nói: “Đại nhân đi đi.”

    Y khom người hành lễ rồi cáo từ rời đi. Hoa Nghi ghé đến bên tai tôi, khẽ nói: “Vừa rồi nô tỳ đi lấy Ngưng Lộ hương thì nhìn thấy có mấy chiếc hộp được đặt trên đỉnh kệ, nghe nói những thứ mà Ly Phi không thích dùng nữa đều được cất cả vào đó. Nhưng nô tỳ thấy mấy chiếc hộp đó đều được trang trí rất đẹp, không giống như đồ bỏ đi, thế là tranh thủ lúc Diên Vũ Nhi không chú ý mà dùng châm tai cậy một chiếc hộp ra lấy được thứ này, nương nương hãy xem thử đi.”

    Nàng ta vốn cất thứ đó trong túi, lúc này liền lấy ra cho tôi xem, thì ra là một viên hương liệu màu hồng, mùi hương tỏa ra hết sức kỳ lạ, chẳng rõ được làm từ gì. Tôi bèn nói: “Muội cứ cất nó ở bên dưới bàn trang điểm của ta là được rồi.” Sau đó lại thấp giọng dặn dò: “Cô ả Diên Vũ Nhi kia có chút cổ quái, muội hãy đi điều tra lai lịch của cô ta xem sao!”

    Hoa Nghi gật đầu vâng lời. Kính Phi thở dài than: “Hương liệu của cô ta tất nhiên đều là đồ tốt rồi. Hôm nay tới Cảnh Xuân điện mới thấy thứ gì ở đó cũng thuộc vào hàng thượng phẩm, bây giờ cô ta vừa có thai mà Hoàng thượng, Hoàng hậu đã thưởng cho cô ta nhiều đồ tốt như thế, đợi sau này sinh nở xong thì chẳng biết sẽ được sủng ái tới mức nào nữa đây.”

    Tiếng thở dài của Kính Phi tựa như chậu nước lạnh giội thẳng xuống đầu tôi. Các phi tần trong cung vì lợi ích của bản thân nên đa phần đều hy vọng An Ly Dung không sinh nở được, nhưng còn tôi thì bất kể là vì thù cũ hận mới hay là vì tính mạng của bản thân đều quyết không thể để cô ta sinh đứa bé này ra.

    Trong lòng đã quyết định chủ ý như vậy, ngón tay tôi hơi dùng sức, tiện tay hái một bông hoa bên đường xuống. Một chất dịch màu xanh lục chảy ra dính vào ngón tay tôi, nhơm nhớp, bẩn thỉu. Tôi thầm sinh lòng chán ghét liền vứt bông hoa đó qua một bên, mỉm cười, nói: “Bông hoa này xấu quá. Tỷ tỷ, chúng ta cùng đi ngắm hoa nhài mới nở nhé!”

    Tối đến, tôi vừa tắm rửa xong xuôi, Hoa Nghi đứng sau lưng vừa cẩn thận chải đầu cho tôi vừa khẽ nói: “Nô tỳ đã đi hỏi han thăm dò rồi, ả Diên Vũ Nhi đó vốn là cung nữ hầu hạ việc tắm rửa bên cạnh Ly Phi, trong quãng thời gian Ly Phi thất sủng không biết thế nào mà Hoàng thượng lại nhìn trúng Diên Vũ Nhi, có điều tuy đã sủng hạnh mấy lần nhưng lại không ban cho danh phận gì cả. Bây giờ Ly Phi đang có thai không thể hầu hạ Hoàng thượng chuyện chăn gối, mỗi lần đều là Diên Vũ Nhi giữ Hoàng thượng lại qua đêm, tình hình như vậy đã kéo dài được mấy tháng rồi.”

    Tôi nhắm mắt lại, nói: “Diên Vũ Nhi không được ban cho danh phận tất nhiên là do ý của Ly Phi rồi, cô ta chỉ cần nói vài câu trước mặt Hoàng thượng là xong thôi. Hiện giờ, ngay đến những tiểu cung nữ ở Cảnh Xuân điện cũng dám mắng thị, xem ra cuộc sống của thị không được tốt đẹp cho lắm.” Tôi suy nghĩ một chút rồi nói tiếp: “Muội hãy tìm cách làm thân với thị một chút, chờ khi nào có dịp thì dẫn thị tới Nhu Nghi điện gặp ta.”
     
  14. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 22: Chốn thanh tịnh hương thầm ngào ngạt [26]
    [26] Trích Giá cô thiên - Quế hoa, Lý Thanh Chiếu. Nguyên văn Hán Việt: Tình sơ tích viễn chích hương lưu - ND.

    Ngày mùng Bảy tháng Tám năm Càn Nguyên thứ hai mươi ba, Huyền Lăng hạ chỉ đại phong cho toàn thể lục cung, sắc phong Đoan Phi Tề Nguyệt Tân làm Đoan Quý phi, Kính Phi Phùng Nhược Chiêu làm Đức phi, Mẫn Phi Hồ Uẩn Dung làm Trang Mẫn Phu nhân, Chiêu dung Lữ Doanh Phong làm Hân Phi, Chiêu viện An Ly Dung làm Ly Phi, Thục dung Từ Yến Nghi làm Trinh Phi, Tiệp dư Chu Bội làm Khánh Quý tần, Dung hoa Lưu Lệnh Nhàn làm Thận Quý tần, Tiệp dư Triệu Tiên Huệ làm Vận Quý tần, Phúc Tần Lê Oanh làm Phúc Quý tần, Mục Tần Uông Hiên Anh làm Phân nghi, Tiểu nghi Diệp Lan Y làm Diễm Tần, Dư Dung Quý nhân Vinh Xích Thược làm Vinh Tần, Xuân Quý nhân La Tích Tích làm Xuân Tần, Hủ Quý nhân Chúc Hàm Chỉ làm Hủ Tần, Anh Quý nhân Giang Thấm Thủy làm Anh Tần, Khang Quý tần Sử Di Vân làm Lương đệ, Mục Quý nhân Cảnh Thu làm Lương viện, Tài nhân Nghiêm Trí Tú làm Lân Quý nhân.

    Ngày Mười bảy tháng Tám lại có chiếu chỉ ban xuống truy phong Đức phi Thẩm My Trang làm Huệ Nghi Quý phi, Cẩn Phi Thang Tĩnh Ngôn làm Cung Cẩn Hiền phi, Thuần Tần Phương Thuần Ý làm Thuần Mẫn Phi, Tương Quý tần Tào Cầm Mặc làm Tương Mục Phi, Thụy Tần Lạc Lâm Chân làm Chiêu Tiết Phi, Thuận Tuyển thị Mộ Dung Thế Lan làm Thuận Thành Quý tần, thứ nhân Dương Mộng Sinh làm Cung Tĩnh Quý tần.

    Trong chỉ dụ có nói rõ đại quyền hiệp trợ quản lý lục cung được giao cho mấy phi tần có địa vị cao nhất là Đoan Quý phi Tề thị, tôi và Đức phi, nhưng Đoan Quý phi xưa nay vốn sức yếu nhiều bệnh nên vừa nghe thánh chỉ xong liền lập tức cất lời thoái thác. Tôi đành đích thân tới Phi Hương điện gặp mặt nàng ta, tha thiết khẩn cầu: “Xin tỷ tỷ hãy thương lấy muội, ngày đó Hoàng thượng để muội hiệp trợ quản lý lục cung, muội dù cẩn thận thế nào cũng vẫn không tránh được bị người ta ám hại. Tỷ tỷ còn nhớ việc về chiếc áo của Hồ Uẩn Dung không? Chỉ xảy ra một chút là có người đã khép muội vào tội không biết ước thúc rồi. Tỷ tỷ vào cung nhiều năm rất có uy vọng, Đức phi tỷ tỷ thì được lòng mọi người, nếu tỷ tỷ và Đức phi tỷ tỷ đều đồng lòng với muội, chúng ta hẳn có thể nương tựa vào nhau, bằng không bất kể là ai cũng khó mà tránh khỏi mưu đồ hãm hại của người khác.”

    Giờ đây Đức phi đã trở thành quý phi, địa vị đứng hàng thứ nhất trong các phi tần, ngay đến Ôn Nghi Công chúa mà nàng ta nuôi nấng cũng nhảy vọt lên trở thành vị công chúa tôn quý nhất. Đoan Quý phi nghe tôi nói xong liền vừa vuốt ve Ôn Nghi vừa trầm tư suy nghĩ, cuối cùng cũng khẽ gật đầu.

    Đại lễ tấn phong cho các phi tần được cử hành trong Thái miếu, kéo dài suốt ba canh giờ. Trong triều Càn Nguyên, đây mới là lần thứ hai có chuyện đại phong cho toàn thể lục cung như thế, lần đầu tiên là vào dịp đại hôn giữa Huyền Lăng và Thuần Nguyên Hoàng hậu. Trong dịp này, gần như tất cả các phi tần từng được sủng hạnh trong năm Càn Nguyên thứ hai mươi ba đều được tấn phong, toàn thể hậu cung ngợp trong không khí vui mừng náo nhiệt, các vở kịch trên Thính Tiên đài ở Thượng Lâm uyển kéo dài suốt ba ngày ba đêm, các cung thì cũng tưng bừng ca múa.

    Ly Phi An Ly Dung không được phép tham dự buổi đại lễ sắc phong hôm đó, nguyên nhân tất nhiên là do Hoàng hậu suy nghĩ tới cái thai trong bụng nàng ta. Thời tiết dịp này đang nóng, trong Thái miếu có quá nhiều người, Ly Phi đã mang thai hơn bốn tháng quả thực không tiện góp mặt, do đó cái danh xưng Ly Phi của nàng ta không tránh khỏi có chút hữu danh vô thực. Thế nhưng Hoàng hậu cũng lập tức an ủi nàng ta, rằng chờ khi sinh nở xong xuôi nàng ta sẽ được phong làm phu nhân, đâu cần lo cái việc nhất thời.

    Lời của Hoàng hậu tất nhiên là có lý. Chẳng hạn như lúc tôi đưa danh sách phi tần chuẩn bị được tấn phong cho nàng ta, nàng ta liền đề nghị phong Tiệp dư Triệu thị làm quý tần, tôi không hề tỏ ý phản đối.

    Mà điều đáng chú ý là trong buổi lễ truy phong được tổ chức sau đó ít ngày, theo sự diệt vong của nhà họ Quản và sự phục hưng của nhà họ Chân, Thụy Tần Lạc thị vốn tự vẫn mà chết cũng được truy phong làm phi, thụy hiệu là Chiêu Tiết. Đây kỳ thực cũng là điều trong tình lý, nhưng việc Dương Mộng Sinh vốn đã bị phế làm thứ nhân được Thái hậu đề nghị truy phong làm Cung Tĩnh Quý tần thì thật chẳng khác nào một cái tát nảy lửa vào mặt An Ly Dung, bởi nó hoàn toàn phủ định kết luận khi xưa rằng nàng ta nhiều năm không thể có thai là do bị Dương Phương nghi hãm hại. Trên thực tế, lần đó khi biết việc Dương Phương nghi nuốt vàng tự sát, Huyền Lăng cũng tỏ ra thương cảm. An Ly Dung sau khi biết tin thì lập tức cảm thấy bất an vô cùng.

    Khi tới thỉnh an Thái hậu, tôi đã từng rất nhiều lần nhìn thấy An Ly Dung đứng buông thõng hai tay bên ngoài hành lang của Di Ninh cung, sắc mặt cung kính chờ được bái kiến. Cái bụng của nàng ta lúc này đã nhô hẳn lên, Bảo Quyên và Bảo Oanh mỗi người đứng một bên dìu đỡ, lại càng khiến nàng ta trông có vẻ yếu ớt, đáng thương hơn.

    Thái hậu dường như không hề để tâm tới đứa bé sắp chào đời trong bụng Ly Phi, thường xuyên bắt nàng ta phải chờ cả nửa canh giờ rồi mới sai cung nữ ra bảo: “Thái hậu phải nghỉ ngơi, hôm nay không có thời gian rảnh.” Trong quãng thời gian đó, sự thương yêu mà Thái hậu dành cho tứ Hoàng tử Dư Nhuận lại càng thể hiện ra rõ ràng. “Ai gia đã có bốn đứa cháu hiếu thảo rồi. Huệ Nghi Quý phi đi sớm, ai gia chỉ đành thương yêu đứa cháu này hơn thôi.”

    Chuyện như thế lại càng khiến các phi tần thêm khinh miệt Ly Phi vốn đã hữu danh vô thực, chỉ sau một đêm trong hậu cung đã có rất nhiều hoàng oanh được nuôi, chủ đề chính của mọi người trong mỗi lần họp mặt cũng thường là con hoàng oanh mà mình nuôi bây giờ đã ra sao rồi.

    “Nó cứ hót suốt ngày, giọng nghe hay lắm, hệt như tiếng hát của Ly Phi vậy.”

    “Tỷ tỷ quên rồi ư? Ly Phi giờ đã không thể hát nữa rồi.”

    “Ha ha, biết nhảy múa cũng được mà, nhìn xem con hoàng oanh của ta đập cánh nhảy tưng tưng hay không này.”

    “Tỷ tỷ lại quên rồi, bây giờ cô ta đang mang thai, làm sao mà nhảy múa được nữa.”

    Đương nhiên bọn họ chỉ lén lút nói ra những lời này, không để truyền tới tai Huyền Lăng bao giờ. Có một lần, y hỏi tại sao trong cung bây giờ lại có nhiều hoàng oanh đến thế, Khánh Quý tần liền che miệng cười, đáp: “Bọn thần thiếp đều vô cùng ngưỡng mộ Ly Phi nương nương có phúc mang được thai rồng, do đó mới nuôi hoàng oanh nhằm mong cũng được như thế.”

    An Ly Dung ngày càng u uất, điều duy nhất khiến nàng ta vui mừng là phụ thân của nàng ta - An Bỉ Hòe rốt cuộc cũng đã được Huyền Lăng tha tội, ban cho ngàn lạng vàng về quê dưỡng lão.

    Mà khiến người ta bất ngờ nhất vẫn phải kể đến việc truy phong cho Mộ Dung Thế Lan. Tôi vẫn luôn cho rằng Huyền Lăng chẳng có tình cảm gì với nàng ta, nhưng rồi hôm đó, trong cung của tôi khi nói tới cuộc vui ở Quan Võ đài, y đã lộ vẻ ngơ ngẩn. “Phong thái của Ngọc Nhiêu khi cưỡi ngựa bắn cung rất giống với Thế Lan hồi mới vào cung.” Sau khi Mộ Dung Thế Lan chết, đây là lần đầu tiên y nhắc tới nàng ta trước mặt tôi như thế. “Khi đó nàng ấy mới mười bảy tuổi, rất bạo dạn, cũng rất ngây thơ, đáng yêu, hệt như một bông hồng vậy, kiều diễm nhưng nhiều gai.”

    Lúc đó tôi và Huyền Lăng cùng ngồi ngoài sân hóng mát, tôi vừa phe phẩy chiếc quạt tròn trong tay vừa khẽ cười, nói: “Nghe nói năm xưa Mộ Dung thị cũng từng đua ngựa với Hoàng thượng, như thế bộ dạng của Dư Dung Quý nhân khi cưỡi ngựa lẽ ra phải giống nàng ta hơn chứ nhỉ?”

    “Quả thực rất giống.” Huyền Lăng đưa mắt nhìn tôi. “Hoàn Hoàn, nếu trẫm truy phong cho nàng ấy, nàng sẽ không phản đối chứ?”

    Y hỏi như vậy, trong lòng hiển nhiên đã có dự tính rồi. Có điều Mộ Dung Thế Lan tuy độc ác nhưng chuyện dù gì cũng đã trôi qua nhiều năm, hơn nữa tôi cũng có chỗ trách nhầm nàng ta, thế là khẽ gật đầu. “Người chết thì đã chết rồi, thần thiếp cũng không muốn nhớ mãi ân oán năm xưa làm gì, việc này xin tùy Hoàng thượng quyết định.”

    Một làn gió thổi tới khiến mấy sợi tóc rối của y nhè nhẹ tung bay, y dõi mắt nhìn về phía xa, trong mắt thấp thoáng mấy tia tang thương dâu bể. “Trẫm còn muốn ban cho Dư Dung Quý nhân ngôi tần nữa.”

    Tôi thoáng trầm ngâm, rất nhanh sau đó đã cười, nói: “Tuy theo tổ chế thì tấn phong cho cung nữ phải theo từng cấp, nhưng nếu Hoàng thượng thích thì thỉnh thoảng phá lệ một lần cũng không sao cả.”

    Trên trời, vầng trăng dìu dịu treo cao, xung quanh là vô vàn vì sao lấp lánh. Hồ nước trước Nhu Nghi điện sóng gợn dập dềnh, bốn phía xung quanh đều tĩnh lặng, ngay đến lòng người cũng theo đó mà trở nên sáng trong hơn mấy phần. Y khẽ vuốt ve mái tóc dài buông xõa của tôi, nói: “Nàng có thể thông cảm được như vậy thì tốt quá rồi. Dung Nhi không được lòng mẫu hậu, thành ra Dung Nhi buồn bã, mẫu hậu khó chịu, mà trẫm cũng phiền muộn vô cùng.”

    Sau khi sự náo nhiệt của buổi lễ sắc phong qua đi, tôi rốt cuộc đã tìm được thời gian rảnh rỗi để triệu Vệ Lâm tới gặp mặt. Lúc này đang là cuối hạ, rất nhiều loài hoa mùa hạ ngoài vườn dường như biết rằng thời của mình sắp hết nên cố hết sức nở rộ đẹp tươi, còn tỏa hương nồng nàn như muốn níu giữ thời gian.

    Tôi lúc này đang ngồi trước giá thêu cẩn thận thêu bức hình Điêu Thuyền bái nguyệt lên một tấm vải đã được căng ra thẳng tắp, mỗi lần cây kim thêu đâm xuyên qua tấm vải thậm chí còn có thể nghe thấy một tiếng “xoạt” nhè nhẹ. Tôi chẳng buồn ngẩng đầu, hờ hững nói: “Bản cung triệu đại nhân tới là muốn hỏi một câu này, thai khí của Ly Phi có thật sự ổn định không?”

    Vệ Lâm đáp: “Phải vọng văn vấn khiến thì mới có thể phán đoán chuẩn xác được, ngày đó vi thần theo nương nương tới Cảnh Xuân điện mới chỉ được vọng văn, vậy nên đáp án đưa ra chưa chắc đã đúng.”

    Tôi cười, nói: “Vệ thái y tâm tư kín đáo, biết rõ bản cung sau khi đưa ngài qua đó ắt sẽ hỏi câu này, chắc sẽ không bao giờ nói với bản cung một đáp án tưởng như đúng mà lại sai đâu.”

    Vệ Lâm khẽ lắc đầu, nói: “Đúng như nương nương mong muốn, đứa bé của Ly Phi sợ là không cách nào sinh ra được.”

    Tôi mỉm cười ngẩng đầu lên, bên khóe môi lộ ra một tia dữ dằn. “Bản cung chẳng qua chỉ tùy tiện hỏi một câu thế thôi, sao đại nhân đã biết rằng bản cung không mong Ly Phi sinh đứa bé đó ra? Đại nhân nên biết vu cáo bản cung không phải là tội nhỏ đâu.”

    Vệ Lâm cười nhạt một tiếng, trong mắt thoáng qua một tia sáng rực. “Người bắt mạch cho Ly Phi là Hứa thái y đã báo rằng thai tượng ổn định, nếu nương nương tin vào điều này thì đã chẳng gọi vi thần đến hỏi rồi.”

    Tôi bất giác bật cười, chỉ tay vào chiếc ghế bên cạnh. “Ngồi xuống nói chuyện đi.” Tôi ngừng công việc trên tay lại, chậm rãi nói: “Đại nhân đã biết mong muốn của bản cung, vậy thì không cần nói những lời chiều theo tâm ý của bản cung nữa, cứ nói sự thực là được rồi.”

    Vệ Lâm khom người, nói: “Tranh thủ lúc không ai để ý, vi thần đã xem qua mạch án, thấy viết là thai tượng ổn định, phương thuốc an thai bên trên cũng là loại bình thường, thế nhưng trong số các loại dược liệu được kê ra lại có thêm mấy vị thuốc an thai bổ khí như ngải diệp, hoàng cầm, trữ ma căn và bạch truật.”

    Nơi đáy lòng tôi bất giác sinh ra một tia mừng rỡ, ngoài mặt thì lại làm ra vẻ kinh ngạc. “Mấy thứ khác thì bản cung không biết nhưng ngải diệp vốn dùng để ôn kinh chỉ huyết, không đến lúc thiết yếu thì quyết không thể dùng được.”

    “Nương nương nói không sai. Ngày đó trong Cảnh Xuân điện của Ly Phi, vi thần đã thấy có dấu vết của việc xông ngải diệp rồi, tuy bọn họ có đốt hương hòng át thứ mùi ấy đi nhưng vi thần tin rằng mình quyết không ngửi nhầm. Ly Phi mới mang thai bốn tháng mà đã phải dùng ngải diệp, qua đó đủ thấy đã có triệu chứng xuất huyết. Ngoài ra hoàng cầm và trữ ma căn đều được dùng để chỉ huyết giải độc, bạch truật thì có công dụng bổ khí, kiện tỳ, chỉ hãn, chỉ từ mấy loại thuốc này là đủ biết Ly Phi khí huyết hư tổn, thai tượng rất không ổn định. Bây giờ khí sắc của Ly Phi còn tốt như thế hoàn toàn là nhờ có mấy vị thuốc kia đề thần, cơ thể thực chất đã hư hao rất nặng, thêm vào đó thời gian gần đây tâm trạng của cô ta lại không được tốt, chỉ e càng về sau thai nhi sẽ càng nguy hiểm, gần như không thể kéo dài đến ngày sinh nở được.” Y hơi cúi về phía trước, hạ thấp giọng nói: “Thể chất của Ly Phi rất yếu, lại có hiện tương bị xạ hương xâm nhập vào người, vốn không dễ gì thụ thai. Chẳng biết cô ta đã dùng cách gì mà mang thai được như bây giờ, thế nhưng đứa bé đó có tám, chín phần mười là không giữ được.”

    Tôi cầm chén trà tới khẽ nhấp một ngụm, cười nói: “Việc trên đời vốn thường khó đoán, không phải Vệ thái y cũng cho rằng đứa bé đó còn một, hai phần mười khả năng giữ được ư? Hiện giờ Ly Phi là khối thịt trong lòng Hoàng thượng, các vị thái y ắt đều phải dốc toàn lực để giúp Ly Phi có thể sinh nở thuận lợi.”

    “Nhưng...” Vệ Lâm đưa mắt liếc tôi một cái. “Ly Phi dùng ngải diệp như thế chứng tỏ đã biết việc mình khó giữ được cái thai này, còn Hoàng thượng thì lại chưa biết gì cả. Nếu cái thai này thật sự không giữ được, nương nương cho rằng ai sẽ phải chịu trách nhiệm đây?”

    Trái tim tôi bất giác nảy lên một cái như bị sét đánh trúng, chỉ sau nháy mắt đã hiểu rõ nguồn cơn, mồ hôi lạnh sau lưng tuôn ra không ngớt. Thế nhưng ngoài mặt tôi vẫn ra vẻ thản nhiên, còn khẽ nở nụ cười điềm đạm. “Nếu cô ta tự không giữ được thì không có gì, nhưng lỡ như đụng phải ai thì coi như người đó xui xẻo.” Tâm tư tôi bỗng thầm máy động. “Chuyện này chỉ có hai chúng ta biết thôi, bản cung tất nhiên không phải lo bị liên can gì cả.”

    Vệ Lâm gật đầu, nói: “Chính thế, có điều nương nương với Ly Phi nương nương xưa nay vẫn luôn thân thiết, chắc Hoàng thượng sẽ không nghi ngờ gì nương nương đâu.”

    Tôi vốn biết Vệ Lâm khôn ngoan hơn Ôn Thực Sơ rất nhiều, nhưng cũng không ngờ y lại có đầu óc đến thế. Sau một thoáng trầm ngâm tôi bỗng nhớ tới một việc, bèn nói với Hoa Nghi: “Đi lấy chiếc hộp sứ hoa xanh trong ngăn kéo thứ ba bên dưới bàn trang điểm của bản cung lại đây.”

    Đó là một chiếc hộp sứ to bằng ngón tay cái, bên trong có một viên hương liệu màu hồng. Tôi đặt nó tới trước mặt Vệ Lâm. “Ngưng Lộ hương mà ngày đó cô ta dùng trong Cảnh Xuân điện không có vấn đề gì cả, nhưng thứ này thì bản cung lại không thể nhìn ra là gì, đại nhân hãy xem thử một chút xem sao!”

    Y đưa lên mũi ngửi kĩ một hồi, sau đó lại dùng ngón tay bóp lấy một ít bột vụn ra nhúng vào nước ngửi tiếp. Tôi thấy thần sắc y có vẻ nặng nề, khuôn mặt thì không biết vì cớ gì mà lại đỏ lên, trông có vẻ rất kỳ dị. Tôi cũng làm theo y, lấy một ít hương liệu nhúng vào nước và đưa lên mũi ngửi, lập tức cảm thấy lòng thầm ấm áp, trái tim thì đập rộn lên từng hồi, càng lúc càng nhanh, dần dần còn cảm thấy cả thân thể đều có chút lâng lâng hưng phấn. Tôi biết là không hay, vội vàng vẩy mạnh tay một cái vứt thứ đó đi, quát lớn: “Cận Tịch!”

    Khi Cận Tịch vội vàng chạy đến thì tôi đã vốc nước lạnh lên hắt vào mặt mình, dần tỉnh táo trở lại. Cận Tịch lấy một khối băng đến áp lên mặt Vệ Lâm, một hồi lâu sau y mới khôi phục lại thần sắc bình thường, khom người áy náy nói: “Vi thần thực sơ suất quá, không ngờ thứ hương liệu này lại ghê gớm như vậy!”

    Tôi ban cho y một chén trà đắng được pha rất đặc, nói: “Đại nhân cứ nói cho ta hay trong đó có những gì là được rồi.”

    Y khẽ nhấp một ngụm trà, đôi hàng lông mày nhíu chặt như dính cả vào nhau vì quá đắng. Mãi một hồi lâu sau y mới hơi hắng giọng, chậm rãi nói: “Y lan, đậu khấu, sơn thù du, nhục thung dung, thanh mộc hương, xà sàng tử, thiên gia hoa, nhũ hương, thiềm tô, mẫu lệ và viễn chí.”

    Tôi không nghe ra được gì, cất giọng nghi hoặc: “Hình như là các vị thuốc thì phải?”

    Y gật đầu, nói: “Nếu chia riêng rẽ chúng ra thì chỉ là các loại dược liệu bình thường, nhưng nếu trộn lẫn tất thảy vào thì sẽ hữu hiệu với cả nam và nữ...”

    Y không nói tiếp nữa nhưng tôi cũng đã biết đây là thứ gì, bất giác đỏ bừng hai má, bèn hỏi: “Thứ này sao mới chỉ nhúng một ít vào nước mà đã có công hiệu ghê gớm như vậy?”Vệ Lâm nói: “Bên trong đó, chỉ riêng y lan và xà sàng tử đã có hàm lượng rất cao rồi, mà đây vốn là một loại hương liệu, nếu mang đi đốt, dược tính chỉ e sẽ còn mạnh hơn, do đó thường thì khi sử dụng chỉ cần đem trộn một ít vào các loại hương liệu khác là cũng đủ rồi, ngoài ra làm như thế người khác còn không dễ gì phát hiện ra được.”

    Tôi thầm máy động trong lòng, bỗng nghĩ tới một việc, bèn hỏi: “Hoa y lan vốn đã có công hiệu khiến người ta động dục rồi, nếu kết hợp với Nga lê trướng trung hương thì sẽ ra sao?”

    “Cũng cùng công hiệu, chỉ là không thể bằng được loại hương này. Bởi lẽ hoa y lan dù sao cũng chỉ là hoa cỏ, còn y lan trong loại hương này thì đã được tinh luyện rồi. Nương nương thử nghĩ mà xem, hoa y lan không phải mùa nào cũng có, nhưng đã có loại hương này rồi thì không còn phải âu lo gì nữa.”

    Tôi gật đầu, nói: “Vậy được rồi, bản cung đã rõ, đại nhân cứ về trước đi, có gì bản cung sẽ cho truyền.”

    Mấy ngày tiếp đó thời tiết vô cùng nóng nực, đêm đến thì lại có gió lạnh hoặc mưa rào, sau mấy phen nóng lạnh thất thường, tôi rốt cuộc đã bị nhiễm phong hàn phải nằm giường không dậy nổi. Cơn bệnh này kéo dài mãi mà vẫn không có dấu hiệu khỏi khiến tôi ngày càng tiều tụy. Các phi tần lục tục tới thỉnh an nhưng tôi chẳng có sức để gặp, cuối cùng đành dứt khoát không gặp ai hết, giao mọi sự vụ trong cung cho Đức phi quản lý, bản thân thì tĩnh tâm dưỡng bệnh. Huyền Lăng thương tôi vô cùng, mỗi ngày đều tới Nhu Nghi điện hai lần sáng tối, ngay đến thuốc cũng tự tay bón cho tôi từng thìa.

    Sáng hôm ấy thức dậy, tôi thấy tinh thần tốt hơn một chút, vừa khéo lúc này Huyền Lăng cũng tới chỗ tôi sau khi vừa tan buổi chầu sớm, hai chúng tôi liền tán gẫu về những chuyện xảy ra trong thời gian vừa rồi. Dưới ánh ban mai đẹp như tranh vẽ, chúng tôi ngồi mặt đối mặt, thực cũng có mấy phần dáng vẻ của một cặp phu thê tương thân tương ái.

    Hoa Nghi vén rèm đi vào, dâng lên một bát cháo trắng thanh đạm, lại cho thêm mấy lát gừng tím lên trên.

    Huyền Lăng đón lấy bát cháo, cất giọng trìu mến: “Để trẫm bón cho nàng.”

    Hoa Nghi đứng thõng tay một bên, nói: “Nương nương, Ly Phi nương nương tới thỉnh an.”

    Huyền Lăng tiện miệng nói: “Gọi nàng ta vào đây đi.”

    Hoa Nghi thoáng có chút do dự. “Ly Phi nương nương đã tới mấy ngày rồi nhưng nương nương đều không gặp.”

    Huyền Lăng lộ vẻ không vui, ngoảnh đầu qua hỏi Hoa Nghi: “Ly Phi ngày nào cũng tới đây thỉnh an ư?”

    Hoa Nghi bối rối không biết phải làm sao, rất nhanh sau đó đã thành thực trả lời: “Dạ phải, mỗi buổi sáng đều tới, có điều nương nương không gặp lần nào.”

    Huyền Lăng đặt bát cháo xuống chiếc bàn nhỏ bên cạnh, nói với tôi: “Dung Nhi giờ đang mang thai, sao nàng lại để nàng ấy đứng bên ngoài mà không cho vào như thế?”

    Tôi ngoảnh mặt qua một bên. “Thần thiếp quả thực không muốn gặp muội ấy.”

    Bầu không khí đông cứng trong khoảnh khắc, y khẽ gọi tôi: “Thục phi.” Trong tiếng gọi ấy đã thấp thoáng mang theo một tia tức giận. Tôi lúc này không trang điểm, thêm vào đó lại đang ốm nên gầy rộc đi, khuôn mặt rơm rớm nước mắt trông thật đáng thương. “Hoàng thượng cũng nghĩ là thần thiếp nên gặp An muội muội ư? Thần thiếp còn chưa khỏi bệnh phong hàn, nếu gặp muội ấy rồi, nhỡ làm tổn thương tới muội ấy và thai nhi trong bụng thì phải làm sao? Thần thiếp thà bị Hoàng thượng trách móc chứ quyết không dám sơ sảy.”

    Huyền Lăng dãn hẳn đôi mày, mỉm cười, nói: “Trẫm biết mà, nàng với Ly Phi xưa nay vẫn luôn thân thiết với nhau, sao có thể không để ý tới nàng ấy giống như mẫu hậu được.”

    Tôi vừa khóc vừa cười, phỉ phui nói: “Rõ ràng là Hoàng thượng đã cả nghĩ mà.” Sau đó lại khẽ đẩy y một cái. “An muội muội bây giờ chắc còn đang chờ bên ngoài đấy, thần thiếp tuy có lòng suy nghĩ cho muội ấy nhưng chưa chắc muội ấy đã hiểu. Xin phiền Hoàng thượng đưa muội ấy về rồi nói cho muội ấy thông tỏ mọi điều, bằng không lỡ có khúc mắc gì thì thật là không hay.”

    Y nắm chặt lấy bàn tay tôi. “Trẫm bón cho nàng ăn xong rồi sẽ đi.”

    Tôi nở nụ cười tươi. “An muội muội đang mang thai làm sao chờ lâu được, Hoàng thượng mau đi đi! Muội ấy vốn đã hay cả nghĩ, sau khi mang thai còn thường xuyên suy nghĩ vu vơ, như thế thực không có lợi cho thai nhi chút nào. Thần thiếp vốn nên bầu bạn với muội ấy nhiều một chút mới phải, phiền nỗi thân thể chẳng ra sao, việc này đành nhờ Hoàng thượng vậy.” Hơi dừng một chút, tôi thoáng để lộ mấy tia buồn bã. “My Trang tỷ tỷ đi sớm, thần thiếp rất mong An muội muội được mẹ tròn con vuông.”

    Huyền Lăng hết sức vui mừng, sau một hồi chần chừ rốt cuộc đã rời đi.

    Tôi dần trầm mặt xuống, khẽ dặn dò Hoa Nghi: “Cô ta có tới nữa ta cũng sẽ không gặp, muội mà nhìn thấy cô ta thì cứ tránh đi thật xa là được, đừng động đến thân thể cô ta, bằng không dù có trăm cái miệng cũng chẳng giãi bày được nỗi oan ức đâu.”

    Một lát sau, Tiểu Liên Tử đi vào bẩm báo: “Nương nương, có một cung nữ từ Cảnh Xuân điện tới đây thỉnh an.”

    Tôi hơi trầm ngâm rồi đưa mắt ra hiệu, Hoa Nghi lập tức chạy ra ngoài, rất nhanh sau đó đã vui vẻ dẫn theo một người đi vào, cười tươi, nói: “Nương nương, Diên Vũ Nhi tới thỉnh an nương nương này.”

    Tôi khẽ cười, trách: “Hoa Nghi, muội thực không biết lớn nhỏ gì cả, không mời Diên Vũ cô nương vào đây ngồi mà cứ lôi lôi kéo kéo người ta là thế nào.”

    Diên Vũ Nhi thẹn thùng hành lễ: “Nghe nói Thục phi nương nương bị ốm, nô tỳ Diên Vũ đặc biệt tới đây thỉnh an nương nương.”

    Tôi cười khách sáo. “Cô nương đã có lòng rồi. Vừa rồi chủ tử của cô cũng tới, sao cô không đi cùng luôn thế?”

    Diên Vũ Nhi cúi gằm mặt, cắn chặt môi, gượng cười, nói: “Nhìn thấy Hoàng thượng cùng chủ tử đi rồi nô tỳ mới dám tới đây.”

    “Diên Vũ cô nương nói gì vậy, sao nghe cứ như là chủ tử của cô không thích cô xuất hiện trước mặt Hoàng thượng thế?” Tôi cười, nói: “Hoa Nghi, mang nho với sữa ra mời Diên Vũ cô nương đi!”

    Hoa Nghi thè lưỡi, nói: “Dù nương nương không nói thì nô tỳ cũng định làm vậy rồi đây.”

    Diên Vũ Nhi ngạc nhiên nhìn tôi và Hoa Nghi, cười nói: “Nương nương đối xử với Hoa Nghi tốt quá!”

    Tôi mỉm cười, nói: “Các cô thường ngày hầu hạ cũng vất vả rồi, hà tất phải bạc đãi làm gì. Chủ tử của cô vốn yếu đuối, tính tình lại tốt, chắc đối xử với các cô cũng không tệ chút nào.”

    Diên Vũ Nhi gượng cười một tiếng, cúi đầu không nói năng gì. Hoa Nghi khẽ kéo tay cô ta, không kìm được nói: “Chẳng phải thế đâu, Diên Vũ Nhi đã hầu hạ Hoàng thượng mấy tháng nay rồi, thế mà Ly Phi nương nương vẫn chẳng chịu xin Hoàng thượng ân thưởng cho cô ấy. Mà không có danh phận thì thôi cũng đành, nhưng đám tiểu cung nữ trong Cảnh Xuân điện ức hiếp cô ấy mà Ly Phi cũng không ngăn lại.”

    Tôi làm bộ giật mình, vội đứng dậy, nói: “Không ngờ lại có chuyện như vậy ư? Hoa Nghi, muội chớ có lôi lôi kéo kéo nữa, Diên Vũ cô nương bây giờ đã là tiểu chủ rồi, phải biết phân biệt tôn ti chứ!”

    Diên Vũ Nhi vội vàng quỳ xuống, khúm núm bất an nói: “Nương nương đừng nói như vậy, nô tỳ chỉ là một tiểu cung nữ thôi, đâu phải tiểu chủ gì cho cam. Hoa Nghi đối xử với nô tỳ rất tốt, nếu nương nương bắt nô tỳ với cô ấy phải phân ra kẻ trên người dưới, như thế nô tỳ thực là tội đáng muôn chết.”

    Tôi vội vàng đưa tay ra hiệu cho Hoa Nghi đỡ cô ta dậy, cất giọng dịu dàng: “Thứ cô nương còn thiếu chỉ là danh phận mà thôi, chứ đâu có khác gì các tiểu chủ khác. Chủ tử của cô đang mang thai nên hay quên cũng là điều bình thường, chờ hôm nào bản cung gặp Hoàng thượng sẽ nhắc tới việc này là được rồi. Có điều chuyện về Vinh Tần khi xưa chẳng hay cô nương có biết không?”

    Diên Vũ Nhi cúi đầu, rụt rè đáp: “Nô tỳ có biết. Khi đó Hoàng thượng sủng ái Vinh Tần nên sắc phong vội quá, kết quả là làm kinh động đến thai khí của Trinh Phi nương nương khiến Trinh Phi nương nương khó sinh.”

    Tôi quan sát khuôn mặt thanh tú của cô ta một chút, khẽ cười, nói: “Cô nương đúng là có lòng, không ngờ lại biết rõ chuyện này như vậy.”

    Tôi khẽ ho hai tiếng, Hoa Nghi vội vàng mang nước tới cho tôi, nói: “Nương nương đang ốm mà còn suy nghĩ nhiều như thế làm gì, hãy nghỉ ngơi một chút đi đã.”

    Tôi đưa tay xoa ngực, chậm rãi nói: “Không sao. Diên Vũ cô nương, gần đây chủ tử của cô vẫn khỏe chứ?”

    Cô ta hơi do dự , như vô tình như hữu ý né tránh ánh mắt của tôi. “Vẫn ổn, chỉ là nửa đêm thỉnh thoảng lại thức giấc.”

    “Bất luận Ly Phi có tốt hay không, trong việc này cô cũng đừng nên nôn nóng quá. Bây giờ thai rồng mới là quan trọng nhất, lỡ như chủ tử của cô có điều gì sơ sảy thì những người hầu hạ bên cạnh như bọn cô ắt sẽ bị phạt đầu tiên, biết chưa?”

    Cô ta hơi rụt người lại, ngoan ngoãn đáp: “Dạ, nô tỳ biết rồi.”

    Tôi đưa mắt nhìn ra ngoài ô cửa sổ trổ hoa, chỉ thấy bên bờ hồ, những lùm bách hợp đang nở hoa rực rỡ, dưới ánh bình minh chiếu xuống trông lại càng thanh tao, đẹp đẽ vô cùng.

    Diên Vũ Nhi nhìn đi theo hướng ánh mắt tôi, không kìm được cất tiếng khen: “Hoa này thật là đẹp quá, không giống hoa bách hợp bình thường chút nào.”

    Hoa Nghi cất tiếng cười giòn tan, nói: “Đó là hoa bách hợp đuôi cáo, cô nhìn nhụy hoa xem kìa, đã có màu đỏ lại còn dài và cong cong, giống hệt như đuôi cáo vậy. Điều hiếm có là nó còn tỏa mùi hương rất thơm và dễ sống nữa, chỉ cần là nơi có nước ắt sẽ sống được.”

    Tôi thầm máy động trong lòng, khẽ cười, nói: “Vừa rồi cô nói là chủ tử của cô đêm ngủ không ngon, mà hoa bách hợp lại có công hiệu thanh tâm an thần, giúp người ta xua đi những cơn kinh sợ, nếu cô thường xuyên hái nó về cắm trong điện thì ắt sẽ rất có ích cho chủ tử của cô. Chủ tử của cô mà khỏe mạnh, Hoàng thượng ắt sẽ vui vẻ, đến lúc đó chưa biết chừng lại ban danh phận cho cô. Cổ nhân đã dạy chúng ta rằng cầu người chẳng bằng cầu mình, câu ấy quyết chẳng sai đâu.”

    Diên Vũ Nhi ngoan ngoãn gật đầu. “Đa tạ Thục phi nương nương dạy bảo!”
     
  15. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 23: Hương thơm tiêu hồn đứt mộng
    Có lẽ là vì quãng thời gian trước suy nghĩ quá nhiều nên cơn bệnh của tôi lần này mãi vẫn chẳng có bao nhiêu khởi sắc. Suốt một thời gian dài tôi không bước chân ra khỏi cửa, ngày ngày chỉ cắm hoa, thêu thùa nhằm giết thời gian.

    Tuy Trung thu đã qua nhưng cái nóng vẫn chưa hề lui đi, những bông bách hợp đuôi cáo nở ở chỗ râm mát thì lại càng thêm yêu kiều, đẹp đẽ. Tôi đặc biệt thích giống hoa này, mỗi ngày đều sai Hoa Nghi đi hái một ít về, buổi sáng khi mới hái, chúng vẫn còn là nụ nhưng đến hoàng hôn, tất cả đều nở bung, từng làn gió mát thổi tới làm hương thơm tỏa ra khắp điện. Hoa Nghi nói: “Diên Vũ Nhi đúng là có lòng, ngày đó nương nương chỉ nhắc một câu thôi mà bây giờ cô ta ngày ngày đều đi hái hoa bách hợp đuôi cáo mang về. Thái y đã xem qua và nói là những bông hoa ấy không có vấn đề gì cả, mà nghe nói Ly Phi cũng có vẻ rất thích.”

    “Chắc cô ta không nói ra cách này là do ta dạy cho đấy chứ?”

    “Tất nhiên rồi, cô ta còn muốn lấy lòng Ly Phi mà, huống chi Ly Phi cũng đâu có cho phép cô ta nhiều lời.”

    Tôi mân mê bông hoa diên vĩ màu tím xanh trong tay, nói: “Nha đầu đó cũng đáng thương, vốn theo lẽ thường, một phi tần có người giúp mình lôi kéo Hoàng thượng không tính là chuyện xấu, nhưng Ly Phi bây giờ căn cơ chưa vững làm sao chịu để người bên cạnh chia bớt ân sủng, cũng khó trách cô ta lại áp chế Diên Vũ Nhi như vậy.”

    “Có điều...” Hoa Nghi nói: “Nghe nói gần đây Hoàng thượng thường qua đêm ở chỗ khác, Ly Phi nương nương đã có chút không vui rồi.”

    Việc này tôi cũng có nghe nói, thời gian gần đây tôi thường khuyên Huyền Lăng tới bầu bạn với An Ly Dung nhiều một chút để nàng ta bớt buồn, như vậy thành ra các cung khác đều bị ghẻ lạnh, nhưng mấy hôm trước vừa khéo là sinh nhật của Khánh Quý tần, các phi tần đều tới điện của nàng ta vui vẻ một phen, Huyền Lăng thì bầu bạn với nàng ta mấy ngày, rồi kế đến lại tới lượt Trang Mẫn Phu nhân than bị đau đầu, thế là Huyền Lăng cũng qua đêm ở chỗ nàng ta mấy ngày nữa.

    Tôi mỉm cười lắc đầu. “Có gì đâu, đằng nào mấy hôm nữa cũng là sinh nhật của Ly Phi rồi, Hoàng thượng ắt sẽ qua chỗ cô ta thôi, chúng ta đâu cần suy nghĩ nhiều quá làm gì. Có điều hôm đó Diên Vũ Nhi ắt sẽ bận rộn, muội hãy chuẩn bị sẵn hoa bách hợp để bên bờ hồ rồi kêu cô ta tự tới đó lấy là được rồi, như thế cô ta sẽ đỡ mất công lựa chọn.”

    Ngày mùng Một tháng Chín, Huyền Lăng quả nhiên đã tới Cảnh Xuân điện. Ly Phi không mời các phi tần khác tới chung vui, bọn họ cũng đa phần chẳng muốn tới làm gì, chỉ đưa quà tặng tới là xong, thành ra trong Cảnh Xuân điện chỉ có Huyền Lăng và nàng ta ở riêng với nhau. Lúc này An Ly Dung mang thai đã được năm tháng, theo lẽ thường dù có qua đêm với Huyền Lăng cũng không sao. Thế là trong Cảnh Xuân điện tưng bừng tiếng đàn ca nhảy múa, đứng từ nơi xa tít đã có thể nghe thấy rõ ràng, rất nhiều người trong cung đều vì thế mà càng thêm ghen ghét Ly Phi.

    Hôm ấy ngay từ sáng sớm, Đức phi đã dẫn Lung Nguyệt tới cung của tôi chơi. Lung Nguyệt bây giờ đã gần bảy tuổi rồi, cũng gần gũi với tôi hơn một chút, sẵn dịp này tôi liền tự tay dạy nó viết chữ. Lung Nguyệt mới học viết chưa lâu, tỏ ra hết sức nghiêm túc, những nét chữ tuy vẫn còn non nớt nhưng hạ bút đã đâu ra đấy rồi, đủ thấy sau này ắt sẽ có thành tựu. Đức phi thì ngồi một bên thêu thùa, thỉnh thoảng lại dịu dàng đưa mắt nhìn qua phía Lung Nguyệt. Thời gian cứ thế lặng lẽ trôi qua, mới thoắt đó mà trời đã tối.

    Thời tiết hôm nay rất nóng, thành ra Đức phi chẳng muốn đi lại, liền cùng Lung Nguyệt qua đêm tại Nhu Nghi điện luôn. Đêm ấy vầng trăng mảnh mai như chiếc lưỡi liềm, ngoài trời rất tối, tôi liền sai cung nữ mở rộng cửa sổ để gió thổi vào cho mát.

    Khi tôi nghe thấy những tiếng huyên náo bên ngoài thì đã là canh một. Trong cơn mơ màng, tôi giật mình thức giấc, khẽ đẩy Đức phi đang ôm Lung Nguyệt mà ngủ say bên cạnh một cái, nói: “Tỷ tỷ mau nghe thử xem kìa, bên ngoài hình như đã xảy ra chuyện gì đó rồi!”

    Đức phi tức thì choàng tỉnh, đang định cùng tôi khoác áo ra ngoài xem thử thế nào thì chợt Tiểu Doãn Tử hoang mang chạy vào bẩm báo: “Hai vị nương nương, không hay rồi, Ly Phi nương nương sẩy thai rồi.”

    Đức phi biến hẳn sắc mặt, khẽ quát: “Sẩy thai thì sẩy thai chứ sao, cớ gì ngươi lại hoang mang như thế?”

    Tiểu Doãn Tử mặt mày tái nhợt, run giọng đáp: “Bẩm Đức phi nương nương, Ly Phi sẩy thai là vì Hoàng thượng... Bản thân Hoàng thượng cũng đang kinh hãi lắm, việc không hay rồi.”

    Tôi và Đức phi nghe nói là Huyền Lăng xảy ra chuyện thì đồng thời biến hẳn sắc mặt. Đức phi dặn dò Hàm Châu trông coi Lung Nguyệt rồi vội vã cùng tôi thay xiêm y đi tới Cảnh Xuân điện.

    Lúc này Cảnh Xuân điện đã chìm trong hỗn loạn, khi tôi bước chân vào nội điện, dù trong lòng đã có sẵn sự chuẩn bị nhưng vẫn không kìm được cả kinh. Chỉ thấy trong điện ngợp đầy mùi máu tanh, Bảo Oanh và Bảo Quyên khóc nức nở không ngừng, vừa khóc vừa gọi “nương nương”, đồng thời dùng nước nóng lau mặt cho An Ly Dung. An Ly Dung nằm cuộn người trên chiếc giường trổ hoa làm bằng gỗ trầm hương rộng chừng chín thước, chiếc đệm mỏng dưới người bị máu tươi thấm đẫm, ngay đến chiếc màn màu xanh da trời thêu hình hoa lựu mắc phía trên cũng lốm đốm đầy vết máu. Thân thể nàng ta lúc này gần như nằm giữa vũng máu, chiếc áo lót màu đỏ trên người đã cởi ra được một nửa để lộ bờ vai thon trắng ngần, trên áo cũng dính đầy máu tươi. Đức phi kinh hãi đưa tay lên che mặt, lại ngoảnh đầu qua một bên không dám nhìn tiếp.

    Giữa đêm khuya trăng mờ, mùi máu và mùi thảo dược trong nội điện đan xen vô cùng nồng đậm. Các cung nhân mặt mày hốt hoảng đi lại thoăn thoắt không ngừng, vô số ngọn nến được thắp lên đung đưa bất định, bóng người in dưới đất cũng theo đó phập phù biến hóa không ngừng, thoạt nhìn thực chẳng khác gì ma quỷ.

    Tôi vội nói: “Ly Phi ăn mặc thế này thì thái y làm sao mà khám chữa được, các ngươi còn không mau khoác áo vào cho nương nương đi.”

    Tình cảnh này kỳ thực không khác với lúc My Trang lìa đời năm xưa là mấy, điều khác biệt duy nhất là khi đó My Trang đã không còn thở nữa, còn An Ly Dung bây giờ tuy đang hôn mê nhưng thỉnh thoảng vẫn rên rỉ mấy tiếng vì đau. Tôi cố gắng trấn định tâm thần, kéo Hứa thái y lại hỏi: “Hoàng thượng thế nào rồi?”

    Hứa thái y hai tay dính đầy máu tươi, những giọt máu vẫn còn tí tách chảy xuống từ trên đầu ngón tay, trên trán thì không ngớt rỉ mồ hôi, giọng nói đã có chút nghẹn ngào: “Khi Hoàng thượng tỉnh dậy thì nương nương đã biến thành bộ dạng này, trên người Hoàng thượng cũng toàn là máu, lúc này đã qua bên chái điện thay y phục rồi. Vì tận mắt nhìn thấy tình cảnh này nên Hoàng thượng đã phải chịu một phen kinh hãi không nhỏ!”

    Tôi hỏi: “Ly Phi thì sao?”

    Hứa thái y chỉ tay vào vũng máu trên giường, nói: “Nương nương chảy nhiều máu như vậy, đứa bé chắc chắn không thể giữ được. Người đang có thai không thể vận động quá mạnh, sao nương nương và Hoàng thượng lại thiếu kiềm chế như vậy chứ? Huống chi nương nương...” Nói tới đây lão liền ngậm miệng lại, vội vàng chạy đi cứu chữa cho Ly Phi.

    Tôi ngoảnh đầu nhìn qua, thấy trên chiếc bàn tròn làm bằng gỗ đàn hương vẫn còn mấy đĩa thức ăn chưa ăn hết, đặt cạnh đó là hai chiếc chén, một chén còn dư lại chút rượu hoa quế màu hổ phách, chén kia thì chỉ đựng nước mật ong. Trong chiếc bình sứ ngũ sắc đặt ngay cạnh bàn tròn cắm một bó hoa bách hợp đuôi cáo, những bông hoa nở cả ngày giờ đã hơi tàn, trên cánh hoa trắng muốt còn có mấy đốm màu vàng sậm, có lẽ là vì muốn giữ cho hoa tươi lâu hơn nên bên trên đó còn có dấu vết của một ít nước, đôi chút phấn hoa màu hồng dính cả vào đầu lá và cánh hoa. Tôi hơi cau mày lại, khẽ cất tiếng thở dài. “Hoa tàn, người cũng thành ra như vậy rồi, Ly Phi sau khi tỉnh dậy mà nhìn thấy những bông hoa này ắt sẽ càng thương tâm, mau mang vứt đi đi.”

    Rồi tôi lại vội vã chạy qua chái điện của Cảnh Xuân điện, lúc này Hoàng hậu đã ở bên đó với Huyền Lăng rồi. Có lẽ vì tới đây vội quá, mái tóc xưa nay vẫn luôn gọn gàng của Hoàng hậu lúc này cũng hơi bù xù. Huyền Lăng thì khoác một chiếc áo choàng màu vàng ngồi đó, trong tay cầm một chén trà nóng, mặt mày tái nhợt.

    Hoàng hậu thấy tôi và Đức phi cùng tới thì không kìm được hỏi: “Đã qua thăm Ly Phi chưa? Thái y nói thế nào?”

    Đức phi đưa mắt liếc nhìn tôi, lúng túng đáp: “Người thì vẫn đang hôn mê, thái y chỉ nói là đứa bé chắc chắn sẽ không giữ được.”

    Hoàng hậu không quá ngạc nhiên, chỉ lộ vẻ tiếc nuối. “Đang yên đang lành tại sao lại như thế chứ?”

    Một nửa khuôn mặt Huyền Lăng ẩn vào mé khuất ánh nến không chiếu tới được, giọng nói vang lên nghe đầy vẻ buồn bã: “Là trẫm không tốt, đều tại trẫm nên chuyện mới thành ra như thế.”

    Ánh mắt y ảm đạm tựa những vì sao rời rạc nơi chân trời, lại mờ đục giống như mắt cá, đôi bờ môi không ngừng run rẩy, bàn tay chậm rãi đưa về phía tôi. “Hoàn Hoàn, Hoàn Hoàn, trẫm lại mất một đứa con nữa rồi. Trẫm ngỡ rằng đã bao nhiêu năm trôi qua như thế, nàng và Yến Nghi đều sinh nở bình an, cả Uẩn Dung và My Trang cũng đều sinh được những đứa bé rồi, trẫm cứ ngỡ là ông trời đã tha thứ cho trẫm. Nhưng... nhưng, Dung Nhi vì trẫm nên mới mất đứa bé này. Đều tại trẫm... Là trẫm đã tự mình...” Y đau khổ đưa tay lên vò đầu bứt tóc, khuôn mặt cúi gằm xuống.

    Tôi bước đến bên cạnh Huyền Lăng nhanh hơn Hoàng hậu một bước, nhẹ nhàng kéo khuôn mặt đau khổ của y vào lòng mình, dịu dàng an ủi: “Không sao đâu, không sao đâu. Hoàng thượng, đã có nhiều Hoàng tử, Công chúa được sinh ra một cách bình an như thế rồi mà, ông trời có lý nào còn chưa chịu tha thứ cho Hoàng thượng chứ? Chuyện hôm nay có lẽ chỉ là tai nạn bất ngờ thôi.”

    “Không phải vậy...” Y đau khổ lắc đầu, khẽ lẩm bẩm nói: “Đã muộn như vậy rồi, trẫm vốn không nên uống rượu với Dung Nhi. Trẫm đã uống chút rượu, lại ở riêng với nàng ấy, trẫm biết rõ là nàng ấy...”

    Đức phi thấy Huyền Lăng như vậy thì không khỏi có chút nôn nóng, bèn khuyên nhủ: “Kỳ thực Ly Phi có thai đã được năm tháng, thái y thì trước giờ vẫn luôn nói muội ấy thai tượng ổn định, cho dù...” Hai bờ má bất giác đỏ bừng, nàng ta dịu dàng nói tiếp: “Chắc hẳn cũng không có vấn đề gì đâu.”

    Hoàng hậu cũng không kìm được hơi đỏ mặt, ôn tồn nói: “Hoàng thượng tuy yêu thích Ly Phi nhưng muội ấy vốn đang mang thai, quả thực cũng nên kiềm chế một chút mới phải.”

    Huyền Lăng khẽ lắc đầu, khuôn mặt lộ rõ vẻ áy náy. “Trẫm biết chứ. Có điều mỗi lần ở riêng với Ly Phi, trẫm đều không kìm được lòng mình, mấy lần trước vì luôn nhớ kĩ việc nàng ấy mang thai nên mới không sao, hôm nay có lẽ vì đã uống rượu...” Y dần để lộ ra mấy tia sợ hãi và đau khổ. “Trẫm nửa đêm thức giấc thì bỗng thấy người mình ướt nhẹp, quờ tay qua không ngờ lại toàn là máu, Dung Nhi thì đã đau quá mà ngất lịm đi rồi.”

    Đức phi nhớ tới tình cảnh vừa rồi thì không kìm được đưa tay lên che mặt lần nữa, vội vàng kéo Hoàng hậu đang định qua thăm Ly Phi lại, nói: “Hoàng hậu chớ nên đi. Phía bên đó... máu tươi chảy ra đầy giường, quả thực vô cùng đáng sợ.” Đang lúc trò chuyện thì chợt Tôn cô cô tách mọi người ra đi vào, chào hỏi mấy tiếng rồi nói: “Thái hậu đã bị kinh động rồi, Hoàng thượng bây giờ tâm trạng vẫn chưa ổn định, xin hãy tạm thời tới cung của Thái hậu nghỉ ngơi, còn về Ly Phi thì tự có thái y lo liệu.” Bà ta nhìn Huyền Lăng chăm chú, lời lẽ tuy uyển chuyển nhưng vẫn thấp thoáng lộ ra mấy tia nghiêm túc. “Thái hậu nói Ly Phi nương nương dù quan trọng đến mấy thì cũng không thể quan trọng hơn chuyện triều chính, Hoàng thượng cần phân rõ nặng nhẹ mới được, đừng nên làm lỡ buổi chầu sớm ngày mai.” Nói rồi liền gọi Lý Trường lại, hai người cùng dìu Huyền Lăng tới Di Ninh cung.

    An Ly Dung lần này không chỉ mất một thai nhi đã được năm tháng tuổi mà còn hoàn toàn mất đi khả năng làm mẹ. Sau khi biết tin này, nàng ta không hề ôm mặt mà khóc rống lên.

    Lúc này bóng hoa đổ xéo, những làn nắng đầu tiên của mùa thu đã chiếu xuống hàng dương liễu bên ngoài Cảnh Xuân điện. An Ly Dung bất chấp quang cảnh bên ngoài thế nào, khuôn mặt từ đầu đến cuối luôn hờ hững không có lấy một tia biểu cảm, có điều đôi tay lại nắm chặt chiếc chăn gấm đang đắp trên người. Lần sẩy thai này khiến sức khỏe của nàng ta bị tổn hại rất nặng, thân thể gầy rộc đi, sắc mặt thì tái nhợt như ma quỷ, hệt như một sợi tơ liễu trong làn gió xuân, yếu ớt vô chừng.

    Khi tôi nghe thấy thái y bẩm báo tin này với nàng ta thì liền dừng chân bên ngoài ô cửa sổ trổ hoa không đi vào trong nữa. Nàng ta đưa bàn tay gầy guộc, mảnh khảnh ra chậm rãi vén màn lên, trong khoảnh khắc xoay người lại, dường như nàng ta đã thấy rõ người bên ngoài cửa sổ chính là tôi.

    Thái y đã lui ra ngoài, trong điện không còn ai khác, nàng ta khẽ nói: “Muội mệt rồi, muốn ngủ một giấc, tỷ tỷ không cần phải vào thăm đâu.”

    Bên cạnh hàng lan can đỏ sậm trên hành lang, những ánh dương len lỏi qua muôn vàn cành lá chiếu xuống mang một thứ màu vàng bụi bặm mà cũ kĩ, rất nặng nề, còn toát ra một vẻ u ám khó tả. Tôi hơi nhếch môi, nỗi oán hận vô biên trong lòng biến thành một nụ cười mỉm bên khóe miệng. “Vậy cũng tốt, ta tới đây chỉ để nói với muội muội một tin vui thôi, đó là thần trí của ca ca ta đã dần khôi phục lại, bắt đầu nhớ ra được rất nhiều chuyện trước đây.” Hơi dừng một chút, tôi lại tiếp: “Là cố nhân với nhau, biết tin này muội muội hẳn là rất mừng.”

    “Vậy sao?” Cả người nàng ta chấn động, tựa như một mặt hồ tĩnh lặng đột nhiên bị tảng đá ném xuống, thế nhưng chỉ sau khoảnh khắc, bóng lưng mảnh khảnh kia đã lại khôi phục được sự trấn tĩnh, một giọng nói hững hờ vang lên: “Chúc mừng.”

    Tôi lẳng lặng nhìn bóng dáng mờ ảo ẩn sau màn của nàng ta, nhẹ nhàng cất tiếng: “Việc này tất nhiên là đáng mừng rồi, nhưng chỉ e cũng sẽ khiến người nào đó sợ hãi thôi.”

    “Vậy ư? Nếu tỷ tỷ cho rằng người đó là muội, e là tỷ tỷ sẽ phải thất vọng rồi.”

    Tôi đưa tay với lấy một nhành thường xuân đã bị ánh nắng thu hong khô trên tường, chậm rãi nói: “Muội muội bây giờ đang được Hoàng thượng sủng ái như thế, tất nhiên chẳng cần phải sợ gì rồi.” Bên khóe miệng thoáng hiện một nụ cười mỉm, tôi nói tiếp: “Muội muội vừa sẩy thai người hãy còn yếu, hãy nghỉ ngơi cho tốt đi.”

    “Tỷ tỷ...” Nàng ta níu tôi lại bằng một giọng nói trống rỗng mang đầy vẻ chua chát. “So với tỷ đang có bao nhiêu thứ trong tay, muội lại mất đi một thứ nữa rồi. Muội có gì để mà sợ đây? So với tỷ, muội vốn chẳng có gì cả.” Bức màn đung đưa nhè nhẹ tựa một gợn sóng trên mặt hồ, nàng ta lẳng lặng nằm xuống, tâm trạng dường như đã khôi phục lại như thường, không thèm để ý tới tôi thêm nữa.

    Tin tức này đối với Huyền Lăng mà nói là một sự đả kích hết sức nặng nề, cho dù y đã từng sai Hoàng hậu điều chế thuốc trụy thai, cho dù y đã từng sai người điều chế Hoan Nghi hương, cho dù y đã từng có rất nhiều đứa con mất đi sinh mệnh từ khi còn ở trong bụng mẹ, nhưng chưa lần nào y cảm thấy sợ hãi hơn lần này, bởi y đã dùng chính thân thể của mình để khiến một đứa bé phải xa lìa nhân thế.

    Trong mấy ngày đó, y rất nhiều lần nói với tôi: “Hoàn Hoàn, trẫm không sao quên được tình cảnh khi ấy, trẫm vừa tỉnh dậy thì đã thấy trên giường toàn là máu tươi, đứa bé đó, thực sự là do trẫm hại chết...” Khi nói những lời này, bàn tay đang cầm chén trà của y run lên lẩy bẩy, nước trà ấm nóng từ trong chén tràn ra chảy xuống kẽ ngón tay y, dần trở nên nguội lạnh. Tôi chẳng biết phải nói gì, chỉ biết ôm y vào lòng an ủi.

    Sự áy náy khiến y chẳng còn mặt mũi nào đi gặp Ly Phi; sự áy náy khiến y ban thưởng cho Ly Phi rất hậu, đồng thời còn định nghe theo ý của Hoàng hậu mà ban cho nàng ta ngôi vị phu nhân tòng nhất phẩm, để nàng ta được ngang hàng với Hồ Uẩn Dung; sự áy náy khiến y dành toàn bộ thời gian rảnh rỗi để tự trách bản thân mình, mãi vẫn chẳng thể nguôi ngoai, vì thế mà khiến cho các phi tần trong hậu cung lúc nào cũng tâm sự trùng trùng.

    Vì muốn Thái hậu nhẹ lòng, các phi tần có con cái thường xuyên mang chúng tới thỉnh an Thái hậu, trong đó Hân Phi và Trang Mẫn Phu nhân là chăm chỉ nhất. Sáng hôm đó trời nổi gió thu, thân thể tôi lúc này đã đỡ hơn một chút, bèn đưa Nhuận Nhi đi thỉnh an Thái hậu. Sắc mặt Thái hậu có vẻ khá uể oải, hiển nhiên việc Ly Phi sẩy thai đã khiến tâm trạng bà ta bị ảnh hưởng không ít. Tuy bà ta không hề xem trọng Ly Phi, cũng chưa chắc đã để tâm tới cái thai trong bụng nàng ta cho lắm, nhưng Huyền Lăng là đứa con trai duy nhất của bà ta, bà ta không thể không lo lắng cho y được.

    Hân Phi tính tình thẳng thắn, cởi mở, lại là mẹ ruột của Thục Hòa Công chúa, xưa nay vẫn khá được lòng Thái hậu, thêm vào đó hiện giờ địa vị của nàng ta trong lòng Huyền Lăng chẳng còn được như xưa, do đó lại càng hiếu thảo với Thái hậu hơn. Hôm nay nàng ta vận một chiếc áo dài thêu hoa màu bạc, mái tóc được búi theo kiểu Trường lạc kế, bên trên cài xéo một cây trâm bạc dài, lúc này đang đứng bên ô cửa sổ trổ hoa màu đỏ sẫm, cẩn thận rắc một nắm bột thơm vào trong chiếc lò hương sứ hình con chim hạc màu xanh. Thái hậu nhìn nàng ta, cười nói: “Vừa mới được phong phi xong, cớ gì mà lại ăn mặc giản dị thế này, trên người ngay đến một món đồ châu ngọc cũng không có nữa.”

    Hân Phi chắt lưỡi không ngừng, lắc đầu nguầy nguậy, nói: “Thần thiếp đâu dám. Hôm qua Mục Lương viện ăn mặc có hơi lộng lẫy một chút, kỳ thực cũng chỉ là cài mấy bông hoa bảo thạch trên đầu, mặc một chiếc váy thêu hoa màu hồng nữa, Hoàng thượng bắt gặp liền không vừa lòng, mắng lớn một trận rằng Mục Lương viện không có lương tâm, trong cung vừa mất một đứa bé, Ly Phi thì còn đang bệnh, nàng ta ăn mặc lòe loẹt như thế để cho ai xem! Mục Lương viện vừa thẹn vừa giận, chạy về cung của mình khóc suốt nửa buổi, đến hôm nay hai mắt vẫn còn đỏ hoe.”

    Thái hậu lúc này đang tựa người vào thành giường, nghe thấy thế liền hơi cau mày lại, hờ hững nói: “Nói bậy, trong cung từng có biết bao nhiêu phi tần sẩy thai chứ, Ly Phi đâu phải là người đầu tiên. Là tự cô ta không có phúc, Hoàng thượng hà tất phải trút giận sang người khác như thế, chẳng lẽ lại bắt tất mọi người trong cung phải để tang cho đứa bé vô phúc ấy sao? Nhất định là Mục Lương viện có chỗ nào đó không cẩn thận làm Hoàng thượng giận rồi.”

    Hân Phi chỉ tay về phía tôi, Đoan Quý phi, Phùng Đức phi và Trang Mẫn Phu nhân đang ngồi kế bên, khẽ cười, nói: “Người khác tạm chưa xét tới, nhưng Thái hậu xem kìa, mấy vị nương nương ngôi cao đắc sủng cũng đều ăn mặc giản dị như thế cả, chỉ từ đó cũng đủ thấy lần này Hoàng thượng giận tới mức nào rồi.”

    Mọi người không kìm được đưa mắt nhìn nhau, cùng nói khẽ: “Bọn thần thiếp quả thực không dám làm Hoàng thượng tức giận.”

    Tiếng thở dài của Thái hậu hòa vào trong ánh nắng thu dìu dịu như tranh vẽ, cơ hồ không thể nghe rõ: “Cứ làm ầm ĩ lên thế này thì đến bao giờ mới yên ổn trở lại được đây? Cũng khó trách Hoàng thượng lại như vậy, phải trơ mắt nhìn đứa bé mất đi, lại còn là vì chính bản thân mình nữa...” Bà ta không nói tiếp, những nếp nhăn nhìn như cánh hoa cúc trên trán chất chứa muôn vàn nỗi sầu lo không cách nào xua tan được, cặp mắt nhìn chằm chằm vào những làn khói trắng vương vất bay ra từ trong lò hương.

    Hân Phi thấy không khí trong điện có vẻ gượng gạo, mọi người thì đều ôm những tâm tư riêng, bèn cất tiếng cười đùa: “Thái hậu cứ nhìn làn khói kia mà ngây ra như thế, chứng tỏ thứ hương này không tệ chút nào.” Dứt lời lại quay qua nói với tôi: “Thục phi quả là hiếu thảo, đồ mang tới hiếu kính Thái hậu đều không tầm thường chút nào.”

    Tôi khẽ xoay chiếc vòng bạc nơi cổ tay, cười tủm tỉm, nói: “Kỳ thực đều là nhờ Hân Phi tỷ tỷ biết cách đốt hương đó thôi.”

    Thái hậu nghe chúng tôi nói thế thì liền gượng nở nụ cười. “Thứ hương này quả là không tệ, vừa thơm vừa nhuận phổi, ngửi rồi còn được an thần nữa. Nó tên là gì vậy?”

    Tôi vội đứng dậy, đáp: “Là Nga lê trướng trung hương.”

    Thái hậu khẽ gật đầu, đưa tay chỉnh lại chiếc áo gấm màu xanh trên người một chút, tiện miệng nói: “Tốt lắm, từ ngày mai hãy kêu phủ Nội vụ mỗi ngày đưa tới đây một ít cho ai gia.”

    Phùng Đức phi mỉm cười, nói: “Thái hậu thích là tốt rồi, đợi lát nữa thần thiếp quay về sẽ lập tức dặn dò phủ Nội vụ.”

    Tôi hơi cau mày, lắc đầu, nói: “Đức phi tỷ tỷ đáp ứng chuyện này tùy tiện quá rồi. Không sợ Thái hậu giận, thứ hương này vốn là do Ly Phi tự tay điều chế, Hoàng thượng nhất thời cao hứng nên mới thưởng cho thần thiếp một ít, ở phủ Nội vụ hoàn toàn không có. Nếu Thái hậu thật sự thích, để thần thiếp đi nhờ Ly Phi điều chế thêm ít nữa là được rồi.”

    Thái hậu lặng im một lát rồi nói: “Thôi, không cần phải rắc rối như vậy.

    Trang Mẫn Phu nhân nở một nụ cười tươi tắn. “Cũng phải, chẳng qua chỉ là một ít hương liệu mà thôi, có gì đáng kể đâu. Sáng sớm hôm nay thần thiếp đã tới Hoa phòng và chọn được mấy chậu y lan thượng phẩm mang tới đây đấy.” Nói rồi liền chỉ tay vào hai chậu hoa màu sắc sặc sỡ đủ cả trắng xanh hồng tím bên dưới chân tường, mỉm cười, nói tiếp: “Hoa này hiếm có vô cùng, thường ngày chẳng thể tìm thấy được đâu. Hôm nay vì Quý phi hỏi Hoa phòng xem có loại hoa nào mới mẻ không, bọn họ mới vội vàng dâng lên hiếu kính, thần thiếp vừa hay liền mượn hoa dâng Phật luôn.”

    Tôi bất giác có chút kinh hãi. “Đây chính là hoa y lan ư?”

    Đức phi cười, nói: “Giống hoa này hiếm có vô cùng, vốn là cống phẩm do mấy nước ở vùng Già Nam tiến cống, ta chưa từng được thấy bao giờ, nương nương cũng vậy ư?”

    “Quả đúng thế thật, có rất nhiều người mới từng nghe tiếng nó thôi chứ chưa thấy tận mắt lần nào, như ta trước đây cũng chỉ từng kiếm được một, hai chậu về mà thôi.” Khi nói những lời này, Trang Mẫn Phu nhân mắt hạnh lúng liếng đung đưa, hai má đỏ bừng, trông có vẻ rất lạ.

    Thái hậu ngồi thẳng người dậy, ân cần nói: “Sao vậy? Làm gì mà mặt đỏ thế này?”

    Tôn cô cô vội vàng rót một chén nước mơ đưa tới cho Trang Mẫn Phu nhân, nói: “Nương nương uống chút nước mơ đi.”

    Trang Mẫn Phu nhân mặt ngọc ửng đỏ, cho dù không trang điểm nhưng trông vẫn kiều diễm vô cùng, vội vàng lấy khăn tay ra liên tục lau má. “Không biết tại sao, thần thiếp tự dưng thấy nóng quá!”

    Tôn cô cô cười, nói: “Đã vào thu rồi mà không ngờ nương nương còn than nóng được nữa.” Lời còn chưa dứt ngón tay bà ta đã hơi run rẩy, vội vàng lấy một chiếc khăn tay màu xanh sẫm từ trong tay áo ra che mặt, kế đó cả kinh nói: “Sao mặt mấy vị nương nương đều đỏ hết cả lên thế này?”

    Thái hậu suy nghĩ một chút rồi trầm giọng nói: “Mang thứ hương đó lên đây.”

    Tôi hoang mang quỳ xuống, trong cơn nôn nóng, trên trán bất giác rỉ ra những hạt mồ hôi to như hạt đậu. “Xin Thái hậu thứ tội. Đây là lỗi của thần thiếp, thần thiếp không nhận ra hoa y lan nên mới nhất thời sơ suất như thế.”Mới thoắt đó đã lại qua mấy ngày, Tử Áo Thành rộng lớn dường như đã hoàn toàn chìm vào giữa sắc thu, vô cùng bình lặng. Hôm nay vừa khéo Đức phi được tặng cho một ít cua hồ Dương Trừng thượng hạng, bèn đem dâng lên cho Thái hậu, thế là ngoài Ly Phi vừa sẩy thai ra, tất cả các phi tần ngôi phi trở lên cùng với Hoàng hậu đều tới chỗ Thái hậu vừa ăn cua vừa ngắm hoa cúc, vui vẻ nói cười.

    Dùng bữa xong mọi người liền lấy lá cúc rửa tay để khử mùi tanh, sau đó lại cùng Thái hậu ngồi trong điện trò chuyện tâm tình, bầu không khí có vẻ hết sức hòa hợp. Thế nhưng khi Huyền Lăng đưa ra đề nghị phong An Ly Dung làm phu nhân tòng nhất phẩm, Thái hậu hơi trầm ngâm rồi nói: “Không vội.” Bà ta sai Tôn cô cô đi đốt một ít đàn hương, từng làn khói mỏng từ trong lò hương hình con hạc bay ra vương vất, mọi người trong điện lập tức trầm lặng hẳn đi.

    Khuôn mặt Thái hậu bị những làn khói trắng vây quanh, tôi nhất thời chẳng thể phân biệt nổi nụ cười trên mặt bà ta là thật lòng hay là theo thói quen, chỉ nghe bà ta ôn tồn nói: “Mấy đứa hãy ngửi kĩ mùi đàn hương này đi xem có thấy gì đặc biệt không!”

    Trang Mẫn Phu nhân khẽ cười, nói: “Đồ của Thái hậu tất nhiên đều là tốt nhất rồi.”

    Thái hậu mỉm cười, ánh mắt chỉ tập trung trên người Huyền Lăng. “Hoàng thượng thấy sao?”

    Huyền Lăng cười trừ, đáp: “Mùi hương tinh tế, hết sức thanh đạm.”

    Thái hậu khẽ gật đầu, khuôn mặt vẫn nguyên vẻ hờ hững. “Nghe nói Ly Phi rất giỏi điều chế hương liệu đúng không?”

    Hoàng hậu mỉm cười, nói: “Chế hương, ca hát, nhảy múa cùng với tính tình dịu dàng chính là những ưu điểm lớn nhất của Ly Phi.”

    Thái hậu khẽ gật đầu, tỏ vẻ hết sức tán đồng. “Hoàng thượng thích tới chỗ Ly Phi chắc cũng vì cô ta có những ưu điểm này rồi.” Giọng bà ta nghe hết sức bình tĩnh, hệt như mặt nước hồ thu không có lấy một gợn sóng. “Hương liệu mà Ly Phi điều chế có thể khiến người ta buông lỏng tinh thần, xua tan cơn mỏi mệt đúng không?”

    Huyền Lăng không biết bà ta có ý gì, đành đáp một tiếng “dạ”, sau đó mới nói: “Nhi thần có lúc bận rộn cả ngày trời, quả thực rất thích tới chỗ Ly Phi nghe nàng ấy ca hát, trò chuyện, còn hương liệu mà nàng ấy điều chế ra thì có tới hơn trăm loại, mỗi loại lại có một công hiệu riêng.”

    Thái hậu bất ngờ đổi giọng: “Ai gia có một câu này muốn hỏi riêng Hoàng thượng, An thị không phải bậc tuyệt sắc, về ca múa thì trong cung cũng chẳng thiếu những người hơn hẳn cô ta, tại sao Hoàng thượng lại thích cô ta đến thế?”

    Huyền Lăng mặt mũi đỏ bừng, các phi tần đang có mặt thì ai cũng có chút ghen tuông, chỉ duy có Hoàng hậu là vẫn ngồi yên điềm đạm, còn hơi khom người, nói: “Chắc hẳn là vì tính nết nàng ta dịu dàng.”

    Thái hậu khẽ cười hờ hững. “Trúc Tức, cho Hoàng thượng xem thứ đó đi.” Tôn cô cô lập tức xòe bàn tay, để lộ ra một viên hương liệu màu hồng to bằng hạt gạo, hình như đã bị đốt nhưng hãy còn chưa hết. Thái hậu nhẹ nhàng nói tiếp với giọng không nhanh không chậm: “Ngưng Lộ hương trong Cảnh Xuân điện của Ly Phi đúng là đồ tốt, có mùi thơm thanh tân tựa như trăm bông hoa tươi vậy. Còn viên hương liệu này thì lại càng là bảo bối hiếm có vô song.” Thái hậu đưa mắt nhìn Trinh Phi, trong mắt thoáng qua một tia thương xót. “Trinh Phi, nếu con mà có thứ này thì hẳn cũng sẽ giữ được trái tim của Hoàng thượng.”

    Huyền Lăng không kìm được hơi biến sắc. “Mẫu hậu, đó là thứ gì vậy?”

    Giọng của Thái hậu dịu đi vài phần, nhưng ánh mắt sắc bén kia thì lại như muốn xuyên thấu trái tim người ta: “Hoàng thượng, nam nữ giao hoan có lúc không cần đến tình cảm đâu, cứ dùng hương liệu là được rồi!”

    Hân Phi lộ vẻ vừa ngạc nhiên vừa khinh bỉ. “Noãn Tình hương?” Mọi người bất giác ngây ra, trong khi đưa mắt nhìn nhau đều khó giấu được vẻ xem thường.

    Thái hậu cười nhạt, nói: “So với những loại Noãn Tình hương bình thường, nó còn ghê gớm hơn nhiều. Ai gia đã kêu thái y xem qua rồi, thứ này chỉ cần đốt một chút thôi là có thể khiến cả nam lẫn nữ cùng nảy sinh dục niệm.

    Trang Mẫn Phu nhân thẹn thùng đưa khăn tay lên che mặt, liên tục phỉ phui nói: “Đồ lẳng lơ! Đồ lẳng lơ! An thị đê tiện như thế thì có khác gì Phó Như Kim năm xưa đâu chứ!” Thái hậu trước giờ vốn hận nhất việc Phó Như Kim dùng ngũ thạch tán để mê hoặc Huyền Lăng, khuôn mặt bất giác hơi co giật, lộ rõ vẻ dữ dằn.

    Huyền Lăng hơi ngẩn người rồi ngạc nhiên hỏi: “Có độc hay không?”

    Thái hậu nói: “Không có độc.”

    Huyền Lăng thở phào một hơi. “Mẫu hậu, có lẽ là Dung Nhi nhất thời hồ đồ thôi, hơn nữa nàng ấy làm thế cũng là vì muốn giữ trẫm lại.”

    “Con có biết ai gia tìm được thứ này ở đâu không?” Thái hậu nắm chặt bàn tay. “Ai gia vốn đã ôm lòng nghi ngờ rồi, tửu lượng của Hoàng thượng không kém, sao có thể mới uống chút rượu mà đã không kiềm chế nổi bản thân như thế chứ? Việc An thị có thai con vốn biết rõ, cho dù muốn làm việc kia thì cũng sẽ không buông thả quá mức, cớ gì mà lại không biết nặng nhẹ như vậy? Còn An thị thì cũng tự biết là mình có thai, tại sao lại không cự tuyệt con? Vì vậy ai gia đã sai Trúc Tức đi điều tra xem thế nào, kết quả là đã tìm thấy thứ này trong chỗ tro hương mà cung nữ của cô ta đổ đi hôm đó.”

    Đức phi vội cười, nói: “Thái hậu chớ nên tức giận. Ly Phi còn trẻ không hiểu chuyện, thái y trước giờ vẫn luôn nói là muội ấy thai khí ổn định, lại đã mang thai được năm tháng rồi, cho nên mới nhất thời lớn gan...”

    Hoàng hậu cũng nói: “Đứa bé đó dù sao cũng là của Ly Phi, chắc cô ta sẽ không tự mình làm một việc thiếu suy nghĩ như vậy đâu.”

    Thái hậu điều chỉnh lại hơi thở rồi mới nói: “Ai gia đã xem Đồng sử rồi, suốt một thời gian dài trước hôm sinh nhật của An thị, Hoàng thượng đều qua đêm ở chỗ Khánh Quý tần và Uẩn Dung.”

    Trang Mẫn Phu nhân “a” lên một tiếng, đôi mắt phượng như bừng bừng rực lửa. “Cô ta mang thai nên dễ suy nghĩ vu vơ, lẽ nào là vì muốn tranh sủng, lại ỷ rằng cái thai năm tháng của mình thai khí ổn định nên mới làm một việc hồ đồ như vậy?”

    Tôi suy nghĩ một chút rồi cất giọng nghi hoặc: “Thái hậu, liệu bên trong đó có sự hiểu lầm nào không? An muội muội dù lớn gan đến mấy thì cũng không dám lấy cái thai trong bụng ra làm trò đùa đâu, có khi nào...” Tôi thoáng trầm ngâm trong chốc lát rồi mới nói tiếp: “Có khi nào muội ấy bị người ta hãm hại không?”

    Hoàng hậu lập tức nảy sinh cảnh giác, trong mắt lóe lên một tia sắc bén. “Suy đoán của Thục phi quả thực rất có lý.”

    Thái hậu gọi Phương Nhược lại: “Ngươi nói đi.”

    Phương Nhược hơi khom người rồi mới nói: “Nô tỳ vâng lệnh Thái hậu đi điều tra, mọi vật trong Cảnh Xuân điện hôm đó nô tỳ đều đã kiểm tra và không thấy có gì khả nghi, nhưng đến phía sau điện thì lại phát hiện ra một đống tro hương, bên trong đó có một viên hương liệu mới cháy được một nửa. Nô tỳ bèn mang đi nhờ thái y xem qua, sau đó lại hỏi chuyện thị nữ ở Cảnh Xuân điện, thấy họ đều nói Ly Phi rất thích điều chế hương liệu, nhưng tất cả đều tự mình bảo quản, ngay đến hai thị tỳ tâm phúc là Bảo Oanh, Bảo Quyên cũng không được động đến. Nô tỳ lại thừa dịp không ai chú ý lén đi xem thử, thấy mấy chiếc hộp đựng hương liệu quan trọng đều đã bị khóa kĩ, nghĩ bụng nếu không có chìa khóa thì chắc chẳng thể làm gì được rồi.”

    Thái hậu ra hiệu cho bà ta nói tiếp, bà ta liền nói: “Nô tỳ đã làm theo lời dặn dò của Thái hậu, đem toàn bộ những thứ có đựng hương liệu về, thứ nào có khóa thì trực tiếp cậy ra, cuối cùng phát hiện có một chiếc hộp đựng toàn những viên hương liệu giống hệt như viên đã được tìm thấy.” Bà ta vừa nói vừa mở một chiếc hộp nhỏ nạm vàng ra, thấy bên trong hộp quả nhiên có mấy trăm viên hương liệu có màu sắc và mùi hương giống hệt như viên vừa nãy. Bà ta lại nói tiếp: “Hơn nữa mấy chiếc hộp có khóa đều được đặt trên đỉnh kệ cao, theo như lời của các cung nữ thì gần đây Ly Phi không định dùng đến nữa nhưng chẳng rõ vì sao hôm trước lại dùng.”

    Trang Mẫn Phu nhân lộ rõ vẻ khinh thường, cất giọng giễu cợt: “Còn có thể là vì sao nữa, cô ta muốn tranh sủng chứ có gì đâu, quả là vô sỉ!”

    Thái hậu đưa mắt nhìn Huyền Lăng, thấy rõ vẻ thất vọng và chấn động mà y để lộ ra khi biết được chân tướng, bèn cất giọng dịu dàng mang đầy vẻ xót thương: “Hoàng thượng không cần tự trách làm gì, cô ta sẩy thai đến nỗi không thể sinh nở được nữa hoàn toàn là tự làm tự chịu đấy thôi.” Huyền Lăng đáp “dạ” một tiếng, ngoảnh mặt qua một bên không nói gì thêm.

    Trinh Phi chăm chú nhìn các loại hương liệu một lát, đột nhiên chỉ tay vào một loại trong số đó. “Loại Nga lê trướng trung hương này chỗ Thục phi cũng có, nghe nói là do An thị tự tay điều chế, không biết có chỗ nào không ổn không?”

    Thái hậu cười lạnh một tiếng, chỉ nói: “Ổn hay không ổn, hai ngày trước người từng lĩnh giáo đâu phải là ít.”

    Hân Phi cắn chặt môi, nói: “Thứ hương liệu này vốn không có gì là không ổn, nhưng nếu đặt chung một chỗ với hoa y lan...” Hai má nàng ta bất giác đỏ bừng, ánh mắt lướt nhanh qua phía Noãn Tình hương. Trinh Phi vốn thông minh rất mực, lập tức hiểu ra, cũng đỏ mặt không dám hỏi thêm gì nữa.

    Tôi cúi đầu, nói: “Thái hậu, ngay từ đầu Ôn thái y đã cảnh báo việc này rồi, do đó thần thiếp chưa từng để hoa y lan trong điện.”

    Thái hậu khẽ gật đầu, ánh mắt nhìn về phía tôi dịu dàng hơn hẳn. “Ai gia biết con sẽ không làm thế mà.”

    “Ly Phi và hài nhi đều thích để hoa y lan trong điện.” Trang Mẫn Phu nhân tựa người vào chiếc ghế sau lưng, chỉ ngón tay thon về phía sắc thu tươi đẹp bên ngoài cửa sổ. “Nhưng trong cung của hài nhi không có loại hương nào ghê gớm thế này!”

    “Nếu không vì vô tình được lĩnh giáo sự lợi hại của loại hương này khi đặt chung một chỗ với hoa y lan, ai gia cũng khó mà biết được nguồn cơn sự việc.” Thái hậu đưa mắt nhìn Huyền Lăng chăm chú. “Hoàng thượng cho rằng việc này nên xử trí thế nào đây?”

    Nơi đáy mắt bừng lên những tia âm u và đau xót, Huyền Lăng trầm ngâm một lát rồi mới nói: “Dù gì nàng ta cũng vừa sẩy thai. Mẫu hậu, chỉ tước đoạt phong hiệu và giáng làm quý tần được chăng?”

    Thái hậu không tỏ thái độ gì, chỉ hờ hững nói: “Hoàng hậu đang ở đây, các phi tần địa vị tôn quý cũng thế, các con có thể từ từ thương lượng với nhau.”

    Trang Mẫn Phu nhân nói: “Đây là đại tội mê hoặc Hoàng thượng, năm xưa Phó Như Kim từng bị ban cho cái chết vì tội này.”

    Hân Phi gật đầu phụ họa: “Đúng thế, cô ta đem những việc ô uế ấy ra mê hoặc Hoàng thượng, dâm loạn hậu cung, quyết không thể tha được.”

    Tôi vội quỳ xuống khẩn cầu: “Ly Phi tuy điều chế Noãn Tình hương có tội nhưng vừa mới sẩy thai, sau này lại không thể sinh nở được nữa, thực sự đã phải nhận một bài học đắt giá rồi, xin Thái hậu hãy khoan thứ cho. Hơn nữa các loại hương liệu mà muội ấy điều chế ra chưa hẳn là không có ích.” Rồi tôi sai Cận Tịch đi mang hộp Thư ngân giao năm xưa tới, sau khi mở ra thấy nó đã đông cứng lại vì nhiều năm không dùng, thế nhưng mùi thơm thanh tân của hoa cỏ thì vẫn còn nguyên. Tôi lại nói tiếp: “Năm xưa thần thiếp bị mèo cào vào má, An muội muội đã tặng cho thần thiếp thứ này, quả nhiên vừa bôi lên vết thương liền đỡ hơn hẳn, còn chẳng để lại sẹo. Phàm việc gì cũng đều có hai mặt tốt xấu, xin Thái hậu hãy nghĩ tới những chỗ tốt của An muội muội mà tha cho muội ấy một lần.”

    Đoan Quý phi trầm ngâm một hồi lâu rồi mới hỏi: “Thục phi muội muội bị mèo cào trong lần mang thai đầu tiên đúng không?”

    Tôi lộ rõ vẻ ngạc nhiên. “Đúng thế, cớ sao Quý phi lại hỏi như vậy?”

    Đoan Quý phi nhìn qua phía Thái hậu. “Thần thiếp xưa nay thân thể vốn yếu đuối, không thể sinh nở, có điều hôm nay nghe Thục phi nói thế thì bỗng nhớ lại một việc, năm xưa Thục phi rất khỏe mạnh, cả khi có thai cũng vẫn ăn uống bình thường, cho dù bị Mộ Dung thị gây khó dễ thì cũng không lý nào mới quỳ có nửa canh giờ mà đã sẩy thai được, Thái hậu không cảm thấy trong chuyện này có vấn đề gì đó ư?”

    Thái hậu hơi trầm mặt xuống. “Việc ăn uống còn có thể đề phòng được, nhưng nếu bị người ta động chân động tay vào đồ trang sức thì đúng là khó lòng phát giác.” Bà ta đưa mắt nhìn chiếc hộp đựng Thư ngân giao kia, cất tiếng gọi: “Cát Tễ.”

    Lòng tôi thầm sảng khoái nhưng ngoài mặt lại làm ra vẻ ngẩn ngơ nhìn Cát Tễ cậy một ít Thư ngân giao đưa lên mũi ngửi. Khuôn mặt già nua của lão thoáng qua một tia kinh ngạc, rất nhanh sau đó đã bẩm báo: “Trong vật này có rất nhiều xạ hương, nếu mỗi ngày đều lấy ra bôi lên mặt, không đầy ba tháng là sẽ sẩy thai.”

    Tôi biến hẳn sắc mặt, không ngớt lắc đầu. “Sao có thể chứ! Muội ấy sao lại đi hại con ta chứ! Ta với An muội muội vào cung cùng ngày, khi muội ấy lẻ loi, cô độc chính ta đã đón muội ấy về phủ ở tạm, còn cả My Trang tỷ tỷ nữa, ba người bọn ta thân thiết với nhau biết bao nhiêu...” Tôi đưa tay che mặt, khóc không thành tiếng.

    Huyền Lăng vội ôm tôi vào lòng, mặt mày tái nhợt đi. “Cát Tễ, không phải nguyên nhân nào khác mà thật sự là vì Thư ngân giao ư? An thị xưa nay vẫn luôn giao hảo với Hoàn Hoàn cơ mà...”

    “Quyết không nhầm được.” Cát Tễ cung kính nói: “Thứ được gọi là Thư ngân giao này đã khô cứng lại, đủ thấy đã một thời gian dài nương nương không đụng đến rồi. Hơn nữa Thư ngân giao trong bình chỉ còn lại một nửa, vậy tức là nửa còn lại đã được dùng hết lên người nương nương, với liều lượng như thế thì sẩy thai là điều chắc chắn.”

    Tôi khóc lóc thảm thương. “Hoàng thượng, chúng ta đã nhầm cả rồi, vốn cho rằng là vì thứ hương đó... Ai ngờ, ai ngờ... Cô ta thật độc địa quá!”

    Đức phi cùng Trang Mẫn Phu nhân đưa mắt nhìn nhau, mặt mày tái nhợt, nói: “Ngay đến tỷ muội nhiều năm mà cũng đành lòng ra tay, lại còn giấu giếm kĩ càng không để ai phát hiện ra như thế nữa! Lòng người quả là khó đoán!”

    Sắc mặt Trang Mẫn Phu nhân trở nên nặng nề, nàng ta nói: “Chúng ta vốn đều cho rằng cung nữ Bảo Thước hầu hạ bên cạnh An thị chỉ vì lỡ miệng nên mới làm kinh động tới cái thai của Huệ Nghi Quý phi, nhưng bây giờ biết được người này tâm tư độc địa như thế, thực khó mà không nghi ngờ Bảo Thước là do cô ta sai khiến.”

    Đức phi hơi cau mày lại. “Thục phi đối xử với cô ta tốt hơn Huệ Nghi Quý phi nhiều, thế mà cô ta còn ra tay được, huống gì là Huệ Nghi Quý phi.” Nàng ta khẽ thở dài một tiếng, cất giọng buồn bã: “Chỉ đáng thương cho tứ điện hạ còn ít tuổi mà đã mồ côi mẹ, chẳng biết mỗi lần nhìn thấy tứ điện hạ, An thị có tâm trạng thế nào đây?”

    Huyền Lăng hơi nhếch khóe môi, để lộ một nụ cười lạnh lẽo. “Thục phi? Huệ Nghi Quý phi? Được lắm! Được lắm! Còn có ai nữa?” Y đưa tay lên che mặt. “Không ngờ nữ nhân mà trẫm sủng ái bao năm lại là một kẻ chẳng xứng làm người như vậy!”

    Tôn cô cô nói: “Nô tỳ có một việc này nghĩ mãi không thông, tại sao Noãn Tình hương của Ly Phi không chỉ hữu hiệu với Hoàng thượng mà còn làm bản thân mê loạn nữa? Không phải cô ta chỉ cần khiến Hoàng thượng ý loạn tình mê là được rồi sao?”

    Đoan Quý phi hơi nheo mắt lại, nhìn về hướng xa. “Tâm đầu ý hợp tất nhiên là việc tốt, nhưng nếu không phải thế thì sao? Có lẽ nếu cô ta không ý loạn tình mê thì khó mà hoan hảo với Hoàng thượng được.”

    Tôi bất giác nhướng mày. “Muội chỉ nhớ là năm xưa An thị không hề mong được ân sủng, đã bị ghẻ lạnh suốt một thời gian dài, về sau còn là do muội tiến cử lên Hoàng thượng. Mà lần đó hình như phụ thân cô ta vừa mới bị người ta làm liên lụy thì phải.”

    Trang Mẫn Phu nhân thở dài than: “Phải rồi, khi cô ta hại Thục phi nương nương còn hoàn toàn quên mất cái ơn tiến cử của nương nương nữa đấy!”

    Đức phi nói: “Như vậy xem ra ban đầu cô ta thật sự không có tình ý gì với Hoàng thượng, nếu không vì phụ thân...”

    Hoàng hậu xua tay, nói: “An thị đã hầu hạ bên cạnh Hoàng thượng nhiều năm như thế, cho dù có lỗi thì chắc cũng không đến mức không có chút tình ý nào với Hoàng thượng đâu.”

    Trinh Phi vốn từ đầu chẳng nói năng gì mấy, lúc này bất ngờ cất tiếng: “Thần thiếp bỗng nhớ tới Dương Phương nghi, hồi đó bên ngoài cửa cung của thần thiếp, cô ấy bị tố cáo là dùng túi thơm chứa xạ hương để hại An thị nhiều năm không có thai, thậm chí còn suýt làm liên lụy tới thần thiếp, cuối cùng đã phải nuốt vàng tự sát.” Nàng ta nhìn chằm chằm vào mắt Huyền Lăng. “Thần thiếp cả gan suy đoán thế này, rất có thể Dương Phương nghi chẳng làm gì sai cả, cô ta chỉ vì không muốn có thai nên mới bỏ xạ hương vào trong chiếc túi thơm đó rồi đeo theo trên mình, cuối cùng thừa cơ hãm hại Dương Phương nghi.”

    Thái hậu trầm ngâm một lát rồi nói: “Lần đó việc này vốn bị xử trí quá qua loa đại khái, bởi Dương thị không giống loại người như vậy. Suy đoán của con vừa hay là một sự giải thích cho mối nghi hoặc năm xưa.”

    Đức phi cất tiếng: “Nhưng lần này cô ta lại có thai.”

    Đoan Quý phi ngoảnh đầu nhìn ra ngoài cửa sổ. “Nếu không như thế, chắc phụ thân cô ta đã chết rũ trong ngục rồi.”

    Trên khuôn mặt tuấn tú của Huyền Lăng tràn ngập một vẻ u ám như thể gió mưa sắp đến, y lệnh cho Lý Trường: “Truyền ý chỉ của trẫm, cho người lục soát Cảnh Xuân điện.”

    Lý Trường hành động rất nhanh, không đầy một canh giờ sau đã có hai vật được đặt trước mặt Thái hậu, một trong số đó là một khối xạ hương thượng phẩm được bọc trong một chiếc khăn lụa thêu hoa, mùi thơm rất nồng, chính là loại Đương Môn Tử cực kỳ trân quý. Thái hậu đưa mắt thoáng liếc qua một cái rồi quát bảo: “Đem vứt ra ngoài!” Vật còn lại là một chiếc hộp nhỏ khảm trai hết sức tinh tế, Cát Tễ lấy một ít bột từ trong đó ra đưa lên mũi ngửi thử, hai tay bất giác run lên lẩy bẩy. “Thái hậu, là ngũ thạch tán.”

    Hai mắt Thái hậu lóe sáng, hiển nhiên giận dữ tột cùng. “To gan! Sau khi Phó Như Kim chết, ai gia đã hạ lệnh cấm tiệt thứ này trong cung, không ngờ An thị vẫn còn cất giữ nó như thế!” Dứt lời liền đưa mắt nhìn qua phía Huyền Lăng.

    Huyền Lăng hiểu ý bà ta, vội đứng dậy, nói: “Hài nhi năm đó nhất thời hồ đồ, bây giờ không còn dám như vậy nữa!” Dứt lời bèn vén tay áo lên để thái y bắt mạch. Cát Tễ đặt ngón tay lên cổ tay y, một lát sau mới ôn tồn nói: “Thái hậu, quả đúng là thế thật.”

    Thái hậu trầm ngâm một lát rồi lệnh: “Đưa An thị tới đây.”
     
  16. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 24: Hoa đào muốn rụng khó ai ngăn
    Di Ninh cung vô cùng rộng rãi và thoáng đãng, từng làn gió thu không ngớt thổi vào mang theo vẻ đìu hiu, lạnh lẽo của cỏ cây hoa lá sắp đến hồi rơi rụng. Giữa buổi trưa đầu thu trời đã hơi giá lạnh, những chiếc lá nửa xanh nửa vàng bắt đầu rung rinh trên cành, vẻ như muốn ở lại nhưng không sao ở lại được nữa, tràn ngập một nỗi bất lực lớn lao.

    Ly Phi An thị được đưa tới rất vội vàng, hiển nhiên là còn chưa kịp cẩn thận chải chuốt, trang điểm, trên mặt vẫn còn đọng lại thần sắc ủ dột, thân thể thì run rẩy không ngừng. Vì đang trong cơn bệnh nên mái tóc của nàng ta chỉ được búi lại một cách xuề xòa, bên trên cài xéo một cây trâm vàng nạm ngọc hình con chuồn chuồn. Nàng ta vận một bộ đồ màu trắng thêu hoa văn hình gợn sóng, bên ngoài lại khoác thêm một chiếc áo dài màu xanh, vừa định quỳ xuống thì đầu gối bỗng trở nên mềm nhũn, không kìm được ngồi sụp xuống đất.

    Huyền Lăng chẳng thèm nhìn nàng ta lấy một lần, Thái hậu thì chỉ hờ hững gọi: “Cát Tễ.”

    Cát Tễ kéo cổ tay nàng ta lại, đặt hai ngón tay lên trên đó. An Ly Dung vừa ngạc nhiên vừa sợ hãi, trên cổ tay nàng ta vẫn còn đeo một chiếc vòng vàng vô cùng đẹp đẽ, tinh xảo, nhưng vì nàng ta còn đang trong cơn bệnh nên tiều tụy và gầy yếu vô cùng, chiếc vòng vàng sáng lấp lánh đó lại càng khiến cổ tay nàng ta trông có vẻ gầy guộc như khúc củi, chẳng có lấy một chút sinh khí.

    Cát Tễ rất nhanh đã lên tiếng bẩm báo: “Thân thể nương nương rất yếu, song hoàn toàn không có dấu hiệu của việc dùng ngũ thạch tán.” Hơi dừng một chút lão lại nói tiếp: “Xin thứ cho vi thần nhiều lời, màu sắc và thành phần của loại ngũ thạch tán này hoàn toàn giống với loại mà Phó Tiệp dư đã dùng năm xưa.”

    Đoan Quý phi khẽ thở dài một tiếng, cất giọng u buồn: “Đáng thương thay cho Phó Tiệp dư.”

    Hoàng hậu cả kinh, khuôn mặt lúc xanh lúc đỏ, cuối cùng thì bị thay thế bằng vẻ căm phẫn và chấn động. “Chỗ ngũ thạch tán đó là do ngươi đưa cho Phó Như Kim ư? Ngươi... không ngờ lại làm một việc gây hại tới long thể của Hoàng thượng như thế!”

    An Ly Dung không nói năng gì, khi nhìn thấy xạ hương và ngũ thạch tán, trong mắt đã ánh lên những tia tuyệt vọng.

    Tôi chưa từng nhìn thấy Hoàng hậu tức giận như vậy bao giờ, trên khuôn mặt nàng ta tựa như có muôn vàn tia sét dữ dội đan xen. Hoàng hậu gằn giọng ra lệnh cho Tiễn Thu: “Vả vào miệng cô ta thật mạnh cho bản cung!”

    “Vả miệng” mà Hoàng hậu nói tới ở đây không phải là bạt tai theo kiểu thông thường mà là dùng một cây thước gỗ đánh vào miệng và cằm của An Ly Dung. Tiếng cây thước gỗ đánh vào da thịt vang lên “bốp bốp” không ngừng, nghe chẳng khác nào tiếng pháo nổ. Chẳng bao lâu sau, phần từ mũi An Ly Dung trở xuống đã sưng vù lên, miệng không ngừng rỉ máu tươi, đến cuối cùng nàng ta còn đau đớn nhổ ra hai cái răng.

    Huyền Lăng đưa tay ra hiệu ngừng lại, nhìn nàng ta bằng ánh mắt chán ghét, giọng nói vang lên đầy vẻ dữ dằn: “Con của Thục phi cùng với My Trang, Mộng Sinh, Như Kim đều là do nàng hại chết đúng không?”

    Ánh mắt của nàng ta bình lặng tựa mặt nước hồ thu, không hề xao động. Nàng ta chỉnh lại trang phục, khấu đầu hành lễ. “Kể từ lúc làm những việc năm xưa, thần thiếp sớm đã nghĩ tới ngày này rồi.”

    Huyền Lăng chăm chú nhìn An Ly Dung, trong mắt chất chứa những tia xót thương, đau đớn và căm ghét. “Ly Dung, nàng đã bầu bạn bên trẫm mười mấy năm, chưa từng làm trái ý trẫm bao giờ, ai mà ngờ nàng lại là một người tàn độc như thế!”

    “Thần thiếp thật sự không thích cái phong hiệu “Ly Phi” này, huống chi Hoàng thượng đâu từng thật lòng yêu thần thiếp, người chẳng qua chỉ thích thần thiếp thôi, so với thích một con mèo, một con chó thì có gì khác biệt? Thần thiếp là gì đây? Ly Phi ư? Chẳng qua chỉ là một con chim mà Hoàng thượng nuôi trong lồng thôi.” Nàng ta khẽ cười một tiếng, tựa như có một bông hoa yếu ớt nở trên môi. “Còn về tàn độc ư?” Nàng ta đưa mắt nhìn khắp mọi người một lượt, lướt qua chỗ Thái hậu, cuối cùng dừng lại trên khuôn mặt Huyền Lăng. “Những người ngồi đây lẽ nào có ai chưa từng tàn độc bao giờ?”

    Huyền Lăng lại hỏi thêm: “Có ai sai khiến nàng không?

    Nàng có gì muốn biện bạch không?”

    Nàng ta bái lạy lần nữa, cất giọng hờ hững và mỏi mệt: “Tất cả đều là lỗi của thần thiếp.”

    Huyền Lăng ngoảnh mặt đi, khẽ nói ra hai chữ: “Xử tử.”

    “Hoàng thượng, cứ để cô ta sống đi.” Thái hậu chậm rãi đứng dậy, mặt không hề đổi sắc, quay sang nhìn An Ly Dung. “Ai ai cũng có lúc tàn độc, nhưng đó là bởi vì người ta thân bất do kỷ. Vả chăng, sự tàn độc của ngươi đã vượt hơn người khác gấp cả trăm lần rồi. Ai gia sẽ không cho ngươi chết, còn để ngươi giữ lại phong hiệu Ly Phi, từ nay Cảnh Xuân điện sẽ chính là lãnh cung của ngươi. Chờ thân thể của ngươi bình phục rồi, ai gia sẽ ngày ngày sai ngươi đến vả vào miệng ngươi, bắt ngươi phải ngày ngày quỳ trước tượng Phật mà sám hối lỗi lầm. Có tấm gương là ngươi rồi, để xem sau này trong cung còn ai dám càn rỡ nữa!”

    An Ly Dung cười nhạt một tiếng, không thèm nói năng gì. Thái hậu gọi Lý Trường lại, ra lệnh: “Đưa ả đi giam vào Cảnh Xuân điện, không cho bất cứ ai hầu hạ nữa. Tất cả các cung nhân từng hầu hạ ả kẻ nào thân cận thì đem đi xử tử, những kẻ còn lại bán ra ngoài làm nô lệ, cả đời không được trở lại kinh thành. Ai gia phải nhìn ả tự sinh tự diệt trong cung, kẻo lại làm bẩn tay người nào giết ả.” Dứt lời liền quát bảo: “Lôi ả xuống!”

    Giữa sắc trời thu ảm đạm, An Ly Dung như một phiến lá vàng héo úa bị lôi đi, chẳng mấy chốc đã biến mất khỏi tầm mắt của mọi người. Trong ánh mắt cuối cùng mà nàng ta nhìn về phía Huyền Lăng không hề có một tia quyến luyến nào cả.

    Sau khi sự việc kết thúc, tôi tới trước tượng Quan Âm thắp một nét hương cho đứa bé đầu tiên còn chưa ra đời của tôi.

    Tôi có chút mỏi mệt, liền tựa vào chiếc sạp sau lưng mà nhìn Hoa Nghi cắm một bó bách hợp đuôi cáo vào bình, thấy nhụy hoa cong cong tha thướt, mà màu hồng đó thực giống với màu sắc của Noãn Tình hương, gần như là y hệt. Tôi lại cúi đầu chăm chú nhìn những ngón tay thon dài, trắng nõn của mình được bao bọc trong hộ giáp làm bằng vàng ròng chạm rỗng, nhớ lại lúc xưa từng có một ngày, chút phèn chua còn sót lại bên trên đó đã giúp tôi giấu trời qua biển, biến giả thành thật. Lại có một ngày khác, tôi đã dùng đôi tay này khều từng chút Noãn Tình hương ra trộn lẫn vào trong nhụy hoa của hoa bách hợp đuôi cáo, khép cánh hoa lại để nó trở thành nụ hoa như cũ, sau đó thì dạy Diên Vũ Nhi rằng chờ đến nửa đêm tưới thêm chút nước lên có thể khiến bó hoa tươi được lâu hơn. Tôi biết rõ thái y sẽ kiểm tra bó hoa, nhưng ắt không bao giờ mở nụ hoa ra để kiểm tra phần nhụy của nó.

    Tôi nghĩ tới đôi tay của Hứa thái y đêm đó, bên trên toàn là máu tươi ấm nóng chảy ra từ trong người An Ly Dung. Khi ấy tôi đã cúi đầu nhìn kĩ đôi bàn tay của mình, không ngửi thấy trên đó có chút mùi máu tanh nào, cũng không nhìn thấy bất cứ vết máu nào. Thế nhưng tôi biết rõ rằng đôi tay này của mình đã thấm đẫm máu tươi, vĩnh viễn không bao giờ có thể rửa sạch được.

    Chỉ sau một đêm, Cảnh Xuân điện đã trở nên trống rỗng, chẳng khác gì lãnh cung. Sự thất thế của An Ly Dung khiến các phi tần trong hậu cung đều hết sức vui mừng, nhưng đồng thời họ cũng cảm nhận được rõ ràng rằng, hóa ra đắc sủng và thất sủng chỉ cách nhau một lằn ranh.

    Việc trông coi Cảnh Xuân điện và An Ly Dung được giao cho Lý Trường, năm xưa chính vì An Ly Dung mà y và Cận Tịch đã phải chịu nhục, y hẳn sẽ chăm sóc cho nàng ta “thật tốt”. Tôi chỉ dặn dò một câu: “Đừng để cô ta chết.”

    Lý Trường khom người cười, nói: “Nô tài tuân lệnh.” Sau đó lại hạ giọng nói: “Hoàng thượng đã hạ lệnh trảm lập quyết An Bỉ Hòe rồi, chắc chỉ trong một, hai ngày tới đây thôi.”

    Tôi cúi đầu cười, nói: “Hãy chọn lúc nào thích hợp mà báo với cô ta tin này, dù sao cũng là cha con với nhau, cũng nên để cô ta khóc tang cho cha mình một chút.”

    Lý Trường nói: “Nô tài nhất định sẽ chọn một thời điểm thật tốt.”

    Thời gian cứ chậm rãi trôi đi, vì việc của Ly Phi mà hậu cung trở nên trầm lặng hơn hẳn, niềm vui ban đầu dần bị thay thể bằng nỗi buồn thương khi các phi tần cảm nhận được sự biến ảo khôn lường của ơn vua. Giữa chốn thâm cung tanh máu, sự trầm lặng thế này thực hiếm có vô cùng, chỉ có ba phi tần mới vào cung chưa lâu là vẫn ngày ngày nói cười vui vẻ, không hề tỏ ra buồn bã, ủ dột.

    Tối ấy Huyền Lăng nghỉ lại trong cung của Xuân Tần, giữa đêm thu tịch mịch, ngọn đèn trước giường liên tục nổ lốp bốp, Cận Tịch cười tủm tỉm, nói: “Chẳng biết ngày mai sẽ có việc mừng gì đây?”

    Sáng sớm ngủ dậy, tôi đi thỉnh an Thái hậu về rồi không có việc gì, liền ngồi chơi đùa với Dư Hàm và Linh Tê trong điện. Chợt Tiểu Doãn Tử chạy từ ngoài vào, vui mừng bẩm báo: “Khởi bẩm nương nương, Ẩn phi của lục Vương gia cùng chính phi của cửu Vương gia tới.”

    Lời còn chưa dứt thì Ngọc Ẩn và Ngọc Nhiêu đã vui vẻ dẫn theo một người đi vào, nói: “Tỷ tỷ xem bọn muội đưa ai tới này?”

    Trước mắt tôi xuất hiện một nam tử áo xanh vén áo quỳ xuống. “Thục phi nương nương.”

    Giọng nói quen thuộc ấy làm lòng tôi xao động, từng tia ấm áp không ngớt trào dâng. Tôi vội vàng bước tới đỡ y đứng dậy, còn chưa kịp nói gì thì nước mắt đã tuôn rơi lã chã, lát sau mới nghẹn ngào nói: “Ca ca, huynh khỏe hẳn rồi ư?”

    So với hồi còn bệnh, tinh thần ca ca đã tốt hơn nhiều, sắc mặt tuy vẫn hơi nhợt nhạt nhưng đã mang đầy sinh khí. Huynh ấy gầy hơn trước kia một chút, chiếc áo dài màu xanh trên người tựa hồ toát ra mấy nét quạnh hiu, cô độc. Tôi chăm chú nhìn ca ca từ trên xuống dưới một hồi, ca ca mỉm cười, nói: “Ta đúng là đã khỏe rồi. Thực Sơ cũng từng tới khám cho ta, quả thực đã không còn vấn đề gì nữa.” Sau đó lại nhìn kĩ tôi một lượt. “Hoàn Nhi, trông muội xinh hơn trước kia nhiều quá!”

    Tôi phỉ phui một tiếng: “Ca ca biết trêu muội thế này chứng tỏ là đã khỏi bệnh rồi.”

    Ca ca nhìn thấy Dư Hàm và Linh Tê thì không kìm được mừng rỡ nói: “Đây có phải là hai đứa cháu của ta không thế?”

    Tôi rơm rớm nước mắt gật đầu. “Đúng vậy, hai đứa nó hôm nay mới được gặp cậu lần đầu đấy!” Rồi liền đưa cả hai đứa bé cho ca ca bế. Ca ca bế mỗi đứa một bên, thương yêu vô cùng. Linh Tê đã lâu rồi không gặp Ngọc Nhiêu, liền đưa tay tới đòi bế.

    Ngọc Ẩn che miệng cười, nói: “Ngọc Nhiêu bây giờ thì bế Linh Tê nhưng chắc chẳng bao lâu sau sẽ được bế con của mình rồi.”

    Ngọc Nhiêu đỏ bừng hai má, thẹn thùng nói: “Nhị tỷ cứ suốt ngày trêu muội thôi, muội không thèm để ý đến tỷ nữa.” Ca ca bế thân thể nhỏ bé của Dư Hàm trên tay, thổn thức nói: “Ta cứ như vừa nằm mơ một giấc mơ vậy, sau khi trải qua vô số điều đáng sợ và tỉnh dậy thì thấy nhà họ Chân đã lại hưng thịnh như cũ rồi.” Y khẽ hôn lên trán Dư Hàm một cái, hai tay bất giác run lên lẩy bẩy. “Nếu Trí Ninh còn tại thế, Dư Hàm bây giờ đã có thêm một biểu ca rồi.”
    Nhắc đến tẩu tẩu và Trí Ninh, ca ca dù cứng cỏi đến mấy cũng không kìm được tuôn rơi nước mắt. Ngọc Nhiêu và Ngọc Ẩn cũng ngoảnh đầu qua một bên nhỏ lệ.

    Tôi dằn lòng ngồi xuống, khẽ nói: “Nhà họ Quản đã bị diệt tộc, nhưng muội vẫn muốn biết ngày đó khi huynh ở Lĩnh Nam, tại sao lại đột nhiên phát bệnh như vậy?”

    Ca ca cúi đầu trầm ngâm một lát rồi mới đáp: “Khi đó có một kẻ tự xưng là thái giám trong cung tới gặp ta, nói cho ta hay về cái chết thảm của Trí Ninh và Thiến Đào. Ta có thể chịu đựng sự khổ cực khi bị đày đến Lĩnh Nam hoàn toàn là vì nỗi nhớ mong cha mẹ vợ con, ta trước đó vẫn luôn cho rằng họ đều còn sống.” Y chỉ trả lời bằng mấy câu ngắn ngủi, thế nhưng tôi làm gì mà chẳng rõ trong những lời ấy ẩn chứa một thứ tình cảm sâu nặng đến nhường nào.

    Bốn chúng tôi ngồi cạnh nhau mà rơi nước mắt, ca ca khẽ vỗ lên tay tôi, cất lời an ủi: “Cũng còn may, Hoàn Nhi, muội vẫn bình an thế này là tốt lắm rồi.”

    Tốt lắm rồi ư? Thân thể tôi tuy đang ở trong chốn vàng son tôn quý, nhưng trái tim này thì sớm đã tan nát thảm thương rồi.

    Đương lúc chúng tôi trò chuyện thì chợt Lý Trường bước vào, khom người hành lễ: “Nô tài kính chào Thục phi nương nương, cửu Vương phi, Ẩn phi, đại công tử.”

    Tôi biết y tới đây nhất định là có chuyện, quả nhiên ngay sau đó y đã ghé tới bên tai tôi, nói khẽ mấy câu.

    Tôi suy nghĩ một chút rồi hỏi: “Thái hậu bây giờ đang làm gì thế?”

    Lý Trường đáp: “Lúc này có lẽ là đang niệm kinh ở Phật đường, chờ dùng bữa trưa xong e là còn phải ngủ trưa hai canh giờ nữa.”

    Tôi mỉm cười, nói: “Ngọc Ẩn với Ngọc Nhiêu hãy qua thăm Ngọc Diêu đi, ta nói chuyện với ca ca một lát đã. Thái hậu thương Ngọc Nhiêu nhất đấy, đợi Thái hậu ngủ trưa thức giấc rồi muội nhớ cùng Ngọc Ẩn đi thỉnh an Thái hậu.” Rồi tôi lại đặc biệt dặn dò Ngọc Ẩn: “Thái hậu ắt sẽ hỏi về Vưu Tĩnh Nhàn, sợ muội bạc đãi cô ta. Muội nhất định phải trả lời cẩn thận từng câu một đấy, đừng để Thái hậu cả nghĩ.”

    Hai người bọn họ dắt tay nhau rời đi, thấy xung quanh đã không còn ai khác, tôi mới nói: “Có kẻ nô tài lắm miệng, Ly Phi biết là huynh đã vào cung nên muốn gặp huynh một phen.”

    “Ly Phi?”

    “Chính là An Lăng Dung trước đây ấy.” Tôi hờ hững nói. “Cô ta bây giờ đã chẳng khác nào bị đầy vào lãnh cung, huynh có muốn đi gặp cô ta không?”

    Ca ca chấn động toàn thân, lập tức cụp mắt xuống, suy nghĩ một hồi lâu rồi mới khẽ nói: “Cũng tốt, có mấy lời ta rất muốn chính miệng hỏi cô ta cho rõ ràng.”

    Tôi nhẹ nhàng cất tiếng: “Vậy được rồi.” Sau đó liền ngoảnh đầu qua dặn dò Lý Trường: “Nhớ kín đáo một chút, đừng làm kinh động tới người khác.”

    Lý Trường gật đầu, nói: “Mọi việc đã có nô tài.” Dừng một chút, y lại nói tiếp: “Ly Phi nói muốn ăn hạnh nhân ngọt.”

    Tôi khẽ gật đầu. “Thái hậu nói rồi, cô ta muốn ăn gì thì cứ cho cô ta ăn, việc ăn mặc đừng để thiếu thốn, cô ta vẫn là Ly Phi nương nương.”

    Lý Trường đáp “dạ” một tiếng, dẫn ca ca ra ngoài.

    Tôi giữ Ngọc Ẩn và Ngọc Nhiêu lại cùng dùng bữa trưa, sau khi tán gẫu vu vơ một lát liền đưa bọn họ đi thỉnh an Thái hậu.

    Mặt trời dần ngả bóng về tây, mãi đến hoàng hôn, ca ca vẫn chưa trở về, tôi không kìm được thầm kinh hãi, bèn khoác một chiếc áo choàng màu xanh lục lên người rồi dẫn theo Cận Tịch tới Cảnh Xuân điện.

    Trường Dương cung khi xưa vốn phồn hoa, náo nhiệt, rộn tiếng nói cười, thế mà giờ đây lại trở nên đìu hiu, vắng vẻ, ngay đến bức tường đỏ bên ngoài cũng ánh lên một nỗi thê lương khó mà miêu tả bằng lời. Dưới ánh hoàng hôn mờ ảo, tòa cung điện trước mắt hệt như một con dã thú đang thoi thóp chút hơi tàn, nằm cứng đờ ở đó.

    Lúc này mặt trời đã khuất bóng về tây, ráng chiều phủ khắp bầu trời, vô số những sắc màu rực rỡ từ xanh đỏ tím vàng đan xen cực kỳ bắt mắt, tựa như nàng Cửu Thiên Huyền Nữ đang trải dải gấm bảy màu ra để cho những con người ở dưới nhân gian có dịp được thấy kiệt tác của thần tiên.

    Tôi dừng chân ngắm nhìn, ánh hoàng hôn lúc này thật giống với buổi tuyển tú năm xưa biết bao.

    Cùng là một bầu trời như thế, cùng là ánh ráng chiều như thế, cùng là những con người như thế nhưng lòng thì đã chẳng còn giống như xưa nữa rồi.

    Lúc này đây, ánh ráng chiều in vào mắt tôi chỉ giống như một sấp vải đoạn đã bị vò cho nhàu nhĩ, chẳng thể làm trái tim tôi xao động.

    Giữa ánh hoàng hôn, một bóng dáng cao lớn chậm rãi đi về phía tôi, từng làn gió lạnh thổi tới khiến góc áo của y tung bay lất phất, tựa như một con chim muốn vỗ cánh bay lên mà chẳng thể.

    Tôi bước lên mấy bước, ân cần hỏi: “Ca ca, sao lại lâu như vậy?”

    Y gật đầu, sau đó chỉ khẽ “ừm” một tiếng.

    “Ca ca, cô ta đã nói gì với huynh vậy?”

    Ca ca ngẩn ngơ lắc đầu, lẩm bẩm nói: “Không có gì, chỉ là những chuyện trước kia thôi. Cô ta kỳ thực cũng rất đáng thương.”

    Ca ca hơi dừng một chút, chậm rãi hỏi tôi: “Cô ta rất thích ăn hạnh nhân ngọt ư? Vừa rồi khi nói chuyện với ta, cô ta cứ ăn không ngừng.”

    Tôi lắc đầu, nói: “Muội không rõ.”

    Ca ca ghé đến bên tai tôi, khẽ hỏi: “Cô ta rất hận Hoàng hậu ư?” Tôi không nói gì, ca ca lại tiếp: “Lúc cuối cùng cô ta nhờ ta chuyển lời tới muội rằng: “Hoàng hậu, giết chết Hoàng hậu”.”

    Sắc trời dần tối, những tòa cung điện nguy nga tựa như bị màn đêm từ từ nuốt chửng, ánh sáng tắt dần khiến người ta có cảm giác nặng nề đến ngạt thở. Giữa bầu không khí tĩnh lặng, chợt có một tiếng thét chói tai vang lên: “Ly Phi nương nương qua đời rồi.”

    Ca ca bất giác ngẩn người, vội vàng ngoảnh đầu nhìn lại. Có lẽ tôi đã nhìn nhầm, nơi khóe mắt ca ca không ngờ lại ánh lên mấy giọt long lanh.

    Tôi ngây ra trong chốc lát, nàng ta chết rồi, An Lăng Dung đã chết rồi. Tôi đột nhiên cười lớn, cười một cách điên cuồng, ngay đến bản thân tôi cũng không ngờ được từ trong cổ họng mình lại có thể phát ra những tiếng cười sảng khoái như thế.

    Bên tai tôi dường như vẫn còn vang vọng những tiếng cười đùa vui vẻ của tôi với My Trang cùng giọng nói thẹn thùng của An Lăng Dung năm nào. Mười mấy năm đã trôi qua, bất kể là yêu hay hận, đến cuối cùng tất cả đều đã rời bỏ tôi mà đi.

    Cô quạnh xiết bao.

    Nhưng giữa chốn Tử Áo Thành vàng son hoa lệ này, xét cho cùng kỳ thực ai cũng như ai, chẳng có người nào mà không phải sống cả đời trong cô quạnh.

    Một hồi lâu sau, hai hàng lệ chậm rãi chảy dài trên bờ má.

    Lệ rơi người mất, chỉ vậy mà thôi.
     
  17. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 25: Hoa tàn người vắng ai mà biết ai [27]
    [27] Trích Táng hoa từ, Tào Tuyết Cần. Dịch thơ: nhóm Vũ Bội Hoàng. Nguyên văn Hán Việt: Hoa lạc nhân vong lưỡng bất tri - ND.

    Màn đêm tựa nỗi u buồn không ngớt dâng lên nơi đáy lòng tôi lúc này, hết sức lạnh lẽo và hiu quạnh.

    Chợt Lý Trường vội vã chạy từ xa tới, cười trừ, nói: “Rốt cuộc nô tài cũng tìm được nương nương và công tử rồi, Hoàng thượng nói là muốn dùng bữa tối với hai vị đấy!”

    Tôi khẽ gật đầu. “Phiền công công đi báo lại một tiếng rằng bản cung thay xiêm y xong sẽ lập tức cùng huynh trưởng qua bên đó ngay.”

    Lý Trường ngẩng đầu nhìn tôi, dè dặt nói: “Ly Phi đột nhiên qua đời, vậy...”

    Tôi đưa mắt nhìn những áng mây phiêu đãng giữa bầu trời đêm mông lung, mờ mịt, trầm giọng nói: “Công công cũng đã nói là đột nhiên rồi cơ mà. Chuyện lần này là tự bản thân cô ta nghĩ quẩn đấy thôi, hoàn toàn không liên quan tới người khác.”

    “Nương nương nói rất phải.” Lý Trường lén đưa mắt liếc qua phía ca ca, tôi biết ý của y, bèn nói: “Gia huynh suốt cả buổi chiều đều ở trong cung của bản cung, chưa từng tới nơi nào khác, ắt không có tin đồn bậy bạ nào truyền ra ngoài đâu, công công cứ yên tâm.”

    Lý Trường khẽ mỉm cười. “Dạ phải, xét cho cùng đều là tại đám người hầu hạ Ly Phi không cẩn thận đó thôi.”

    “Ừm.” Tôi đưa mắt liếc y. “Công công hẳn đã biết rõ nên bẩm báo thế nào với Thái hậu rồi.” Lý Trường khom người rời đi, tôi quay sang nói với ca ca: “Ca ca hãy quay về rửa mặt đi đã.”

    Ca ca thoáng lộ vẻ uể oải, hờ hững nói: “Ta thấy hơi mệt rồi!”

    Tôi khẽ kéo tay áo ca ca, nhẹ nhàng cất tiếng: “Nếu không đi thì tức là còn mang lòng oán hận. Tâm tư của y rất khó đoán, ca ca nhất định phải cẩn thận mới được.”

    Níu tay áo nhau trò chuyện thế này vốn là cử chỉ thân mật giữa hai huynh muội chúng tôi hồi còn ở nhà, y không kìm được khẽ nở một nụ cười mỉm, thở dài than: “Hoàng thượng từng hoài nghi ta như thế, bây giờ gặp mặt thực là có chút khó xử.”

    Tôi khẽ cười, nói: “Ca ca, làm người không chỉ cần xem kịch, còn phải biết diễn kịch nữa mới được. Huynh thử nghĩ mà xem, ngay đến Hoàng thượng còn có thể tỏ ra thản nhiên như thế, tại sao huynh lại không thể? Làm bạn với vua như chơi với hổ, ơn vua vô thường, chẳng có ai đắc thế vĩnh viễn, cũng chẳng có ai thất thế vĩnh viễn, điều quan trọng là huynh có còn giá trị lợi dụng hay không. Hiểu được điều này rồi thì huynh sẽ chẳng còn muốn để tâm xem ơn vua là thật tình hay là giả bộ nữa.”

    Ca ca chăm chú nhìn tôi một lát, cất giọng xót xa: “Hoàn Nhi, hình như muội đang nói tới chính bản thân mình.”

    “Tất cả mọi người trong thiên hạ đều chỉ là thần tử của y, nói tới ai mà không giống nhau đây? Ca ca bất tất phải nghĩ nhiều làm gì.” Tôi giúp y chỉnh lại cây trâm bạch ngọc cài trên búi tóc, dịu giọng nói: “Chúng ta đi thôi!”

    Tôi cố tình ăn mặc thật đơn giản, không đeo bất cứ món đồ trang sức hoa lệ nào, sau đó một tay dắt Lung Nguyệt, một tay bế Linh Tê, cùng ca ca bế theo Dư Hàm đi tới chỗ Huyền Lăng. Chúng tôi vừa định hành lễ thì Lung Nguyệt đã giãy ra khỏi tay tôi, chạy tới nhào vào lòng Huyền Lăng cất giọng ngọt ngào: “Phụ hoàng.”

    Huyền Lăng bế con bé lên, cười, nói: “Hôm nay con ngoan lắm, lại biết tự đi theo mẫu phi cơ đấy, đã ra dáng một tỷ tỷ lắm rồi.”

    Lung Nguyệt chớp chớp cặp mắt tròn xoe. “Đó là vì phụ hoàng thương Lung Nguyệt, Lung Nguyệt tất nhiên phải ngoan rồi.” Hơi dừng một chút, con bé lại ngó quanh bốn phía. “Sao mẫu phi còn chưa tới thế?” Lung Nguyệt lúc này đã có mấy phần khí thế của một công chúa, ngoảnh mặt qua nói với Tiểu Hạ Tử: “Đức phi nương nương hãy còn chưa tới, Tiểu Hạ Tử, ngươi mau đi mời đi!”

    Tiểu Hạ Tử không biết phải trả lời ra sao, đành nói: “Thục phi nương nương đã tới rồi.”

    Lung Nguyệt trề môi làm bộ giận dữ, Huyền Lăng vội cười, nói: “Hôm nay cữu cữu của con tới đây, chỗ ngồi thì lại không đủ, Đức phi liền nói là nhường cho cữu cữu của con.”

    Tôi đành khom người dỗ dành: “Đức mẫu phi biết là con thích ăn bánh bao thịt cua nhất, đang sai người đi làm. Bánh bao thịt cua khó làm lắm, cần phải trông coi cẩn thận mới được. Nếu bây giờ Đức mẫu phi của con tới đây, nhỡ đám nô tài làm hỏng mất bánh bao thì biết phải làm thế nào?”

    Lung Nguyệt hơi chu miệng lên, nhưng rồi lại nghĩ tới bánh bao thịt cua mà chỉ mùa thu mới được ăn, thế là đành im lặng không nói gì. Sau phen náo loạn của Lung Nguyệt, nghi lễ quân thần tất nhiên đã bị gạt bỏ, bầu không khí theo đó ấm áp hơn mấy phần. Huyền Lăng nhìn ca ca, nói: “Chất Thành bây giờ đã khỏe lại rồi, nhưng dịp này trời nổi gió thu, thường ngày vẫn cần chú ý giữ gìn mới được.”

    “Chất Thành” là tên tự của ca ca, thường ngày chỉ có những người gần gũi mới xưng hô như vậy. Nghe giọng Huyền Lăng hiển nhiên là thân mật vô cùng, cũng không để ý tới lễ nghĩa quân thần. Ca ca nghe vậy liền khom người nói: “Đa tạ Hoàng thượng quan tâm.”

    Tôi cười, nói: “Tứ lang suốt ngày chỉ biết nói người khác thôi, bản thân thì chẳng chú ý tới thân thể gì cả.” Dứt lời liền ngoảnh đầu gọi Hoa Nghi lại, chỉ tay vào một bát canh trên bàn, nói tiếp: “Biết là Hoàng thượng tối nay nhất định sẽ kêu Ngự thiện phòng làm canh gạch cua, mà cua vốn tính mát, do đó thần thiếp đã bảo Hoa Nghi hâm nóng rượu vàng với cánh hoa cúc, đợi lát nữa uống vừa hay có thể làm ấm dạ dày.”

    Lung Nguyệt lập tức nói: “Cũng chuẩn bị cho mẫu phi một phần nữa.”

    Dư Hàm và Linh Tê đã dần hiểu chuyện, đang lúc bi bô tập nói, Dư Hàm nghe Lung Nguyệt nói xong liền học theo tỷ tỷ: “Cũng chuẩn bị cho phụ hoàng một phần nữa.”

    Huyền Lăng vô cùng mừng rỡ, không kìm được nở một nụ cười hiền từ rất mực, bế Dư Hàm lại thơm lấy thơm để, ca ca thì chỉ mỉm cười ngồi nhìn. Huyền Lăng ngẩng đầu thấy y như vậy thì cười, nói: “Bây giờ ngươi cứ cô độc một mình thế này cũng không hay, trong nhà chẳng có ai chủ trì công việc, phụng dưỡng cha mẹ thật là không tiện chút nào. Thân thể dù sao cũng khỏe lại rồi, ngươi nên nghĩ tới việc lập gia thất mới đi thôi.”

    Nụ cười của ca ca trở nên cứng đờ, tôi biết là y không kìm được nhớ tới tẩu tẩu và Trí Ninh. Tẩu tẩu chết thảm, An Ly Dung lại vừa đột ngột qua đời, lúc này ca ca tất nhiên không có lòng dạ nào mà nghĩ tới chuyện cưới hỏi, nhưng nếu như thoái thác thì rất có khả năng Huyền Lăng sẽ nghi ngờ rằng ca ca vẫn còn ghi hận chuyện năm xưa. Tôi cười tủm tỉm, rót một chén rượu đưa tới bên môi Huyền Lăng, nói: “Trách nhiệm của cữu cữu không nhỏ chút nào đâu, nếu ca ca cưới vợ về rồi thì đâu còn thời gian nữa. Thần thiếp vốn muốn ca ca đích thân dạy Hàm Nhi đọc sách, cưỡi ngựa, bắn cung, tứ lang thì hay lắm, lại định để huynh ấy có cơ hội lười nhác.”

    Huyền Lăng bật cười, nói: “Chất Thành, nhìn muội muội của ngươi xem này, mồm mép càng lúc càng lợi hại hơn rồi.” Sau đó đưa đũa gắp một miếng thịt luộc cho tôi. “Trẫm vốn cũng chỉ có ý tốt thôi, nếu nàng không thích thì trẫm xin lỗi nàng là được chứ gì.” Cười đùa một phen xong, Huyền Lăng không nhắc gì tới việc kia nữa. Dư Hàm tuy còn ít tuổi nhưng rất giữ quy củ, trông rất đáng yêu, Lung Nguyệt thì nói cười như nhả ngọc, làm ai cũng thích, bầu không khí thực là vui vẻ vô cùng. Tôi gọi Hoa Nghi lại dặn dò: “Ngươi hãy về xem tứ điện hạ đã ngủ dậy chưa, nếu dậy rồi thì nhớ kêu Bình Nương nấu cháo sữa bò cho điện hạ ăn.”

    Hoa Nghi vâng lời rời đi. Sự bình lặng bất ngờ bị những bước chân dồn dập của Lý Trường phá vỡ, y ghé đến bên cạnh Huyền Lăng, nói khẽ: “Hoàng thượng, Ly Phi nương nương qua đời rồi.” Vừa nói, y vừa lén liếc nhìn sắc mặt Huyền Lăng, ngay sau đó lập tức cúi đầu.

    Huyền Lăng không kìm được rùng mình một cái, đôi đũa bạc trong tay rung lên nhè nhẹ. Ca ca vội vàng đứng dậy, nói: “Hoàng thượng xin hãy bớt đau thương.”

    Huyền Lăng ngẩn ra, kế đó liền hờ hững nói: “Chỉ là một tội nhân mà thôi, bớt đau thương gì chứ?”

    Tôi làm bộ như vừa mới hay tin, cất tiếng hỏi: “Chuyện xảy ra khi nào vậy?”

    “Dạ, vào giờ Dậu một khắc, Ly Phi nương nương nói là muốn ăn hạnh nhân, liền kêu người mang tới một ít. Kỳ thực lượng hạnh nhân như thế hoàn toàn không thể gây ra chuyện gì, ai ngờ Ly Phi nương nương đã tích trữ hạnh nhân từ nhiều ngày trước, đến hôm nay mới mang ra ăn. Thái y sau khi kiểm tra đã nói là chết do trúng độc vì ăn quá nhiều hạnh nhân.”

    Huyền Lăng thoáng lộ vẻ buồn bã, đặt mạnh đôi đũa xuống bàn, trầm giọng nói: “Nhất định là cô ta đã hay tin An Bỉ Hòe bị xử tử, do đó mới ôm lòng tìm đến cái chết. Trẫm đã rộng lượng tha mạng cho cô ta rồi, thế mà cô ta còn không biết cảm kích ơn vua, có chết cũng không đáng tiếc.”

    Lý Trường vội vàng quỳ xuống, nói: “Đều tại nô tài không cẩn thận nên mới để Ly Phi nương nương tự vẫn như thế.” Y hơi dừng lại, cúi đầu lộ rõ vẻ tự trách. “Phi tần tự vẫn là việc chẳng lành, tất thảy đều là lỗi của nô tài.”

    Huyền Lăng nghe nhắc tới hai chữ “chẳng lành” thì thoáng để lộ một tia chán ghét và buồn bã không dễ gì phát giác, đoạn y xua tay một cái ra hiệu cho Lý Trường đứng dậy. “Nếu không vì có lòng tìm tới cái chết từ sớm thì An thị đã chẳng tích trữ hạnh nhân như vậy rồi, chuyện này không trách ngươi được.”

    “An thị vốn đắc sủng nhiều năm, bây giờ lại bị cấm túc trong Cảnh Xuân điện như vậy thì làm sao chịu nổi. Theo thần thiếp thấy, cô ta tự vẫn chẳng phải vì phụ thân mình mà là vì tuyệt vọng đó thôi.” Tôi nhìn Huyền Lăng chăm chú. “An thị tuy gây ra rất nhiều tội ác nhưng dù sao cũng từng hầu hạ Hoàng thượng nhiều năm...”

    Y cất giọng kiên quyết: “Trẫm sẽ không đi thăm cô ta đâu.”

    “Dạ!” Hơi dừng một chút, tôi lại nói tiếp: “Kỳ thực dù Hoàng thượng không ban cho cô ta chút thể diện nào sau khi chết thì cũng không sao, có điều nói gì thì nói, thể diện của hoàng gia vẫn là quan trọng nhất, nếu tin Ly Phi vốn đắc sủng nhiều năm bỗng dưng tự vẫn truyền ra ngoài thì chỉ e người ta sẽ cho rằng Hoàng thượng vì phụ thân cô ta mà trút giận lên cô ta, như thế thì thực là không hay chút nào.”

    Y trầm giọng hỏi: “Nàng không hận cô ta ư?”

    Tôi nở một nụ cười điềm đạm, thản nhiên nói: “Thần thiếp và An thị vào cung cùng năm, bấy lâu nay vẫn luôn giao hảo, thực không ngờ An thị lại ám hại thần thiếp như vậy. Chính vì oán hận nên thần thiếp mới không muốn đứng ra chủ trì tang lễ của cô ta, nhưng để chặn họng người đời thì việc này không làm không được, do đó xin Hoàng thượng hãy mời Hoàng hậu đứng ra an bài việc này.” Tôi hơi khom người hành lễ. “Mong Hoàng thượng hãy đích thân đi dặn dò Hoàng hậu, vậy cũng coi như là tỏ chút lòng thành cuối cùng với Ly Phi.”

    Huyền Lăng thoáng trầm ngâm rồi nói: “Trẫm rõ rồi.” Y đứng dậy, gọi Lý Trường lại: “Trẫm bỗng thấy hơi mệt, tới chỗ Vinh Tần thôi.” Sau đó lại ngoảnh đầu dặn dò tôi: “Thục phi, nàng hãy ngồi với Chất Thành trêm chút nữa, trẫm qua thăm Xích Thược.”

    Tôi vội vàng đứng dậy tiễn y tới bên ngoài nghi môn, giữa làn gió đêm se lạnh, chiếc áo bào màu xanh sẫm thêu hình chín con rồng bằng chỉ vàng của y không ngừng bay lất phất. Y khẽ nắm lấy bàn tay tôi, trầm giọng nói: “Vừa rồi khi trẫm đề nghị ca ca nàng lấy vợ, y hình như có vẻ buồn bã không vui thì phải.”

    Tôi không khỏi thầm ngạc nhiên về sự nhạy bén của y đêm nay, bèn ôn tồn nói: “Tẩu tẩu là thê tử duy nhất của ca ca, lại còn Trí Ninh nữa, nó còn nhỏ như vậy mà đã chết yểu cùng ngày với mẫu thân rồi, ca ca rất xem trọng vợ con nên bấy lâu nay vẫn luôn thương tâm rất mực. Năm ấy ca ca thần chí thất thường cũng là do việc này mà ra.”

    “Trẫm cũng thương y mất vợ mất con, có điều người còn sống dù gì cũng phải sống tiếp thôi.”

    Tôi khẽ nói: “Dạ, Hoàng thượng nói rất phải, có điều việc này dù sao cũng cần có thời gian xoa dịu mới được.”

    Y gật đầu, nói: “Vậy được rồi, thời gian cũng không còn sớm nữa, nàng nhớ tiễn ca ca nàng rời cung cho cẩn thận.” Y hơi dừng một chút rồi dặn dò thêm: “Hãy nói với ca ca nàng, chuyện trước đây đã trôi qua rồi, trẫm sẽ không để uổng phí tài năng của y đâu.”

    Tôi khom người tiễn y rời đi, Cận Tịch bước tới đỡ lấy tôi, ghé đến bên tai tôi, khẽ nói: “An thị là người Thái hậu ghét bỏ, lẽ ra không cần Hoàng thượng hao tâm tổn sức như thế mới đúng.”

    Tôi vuốt nhẹ mép áo một chút, hờ hững nói: “Người Thái hậu ghét bỏ chưa chắc Hoàng thượng đã ghét bỏ, mà cho dù có ghét bỏ thì cũng chưa chắc đã cạn tình. Lần này để cho y trọn tình trọn nghĩa, như thế sau này ắt sẽ chẳng còn nghĩ tới những chỗ tốt của cô ta nữa.”

    “Tình cảm đã cạn, sau này ắt sẽ không còn mối hậu họa như Mộ Dung thị nữa, xem ra hôm nay nương nương quả đã phải hao tâm tổn trí một phen.” Nàng ta lén đưa mắt nhìn tôi. “Lần này làm phiền tới Hoàng hậu, chắc hẳn nương nương cũng đã có những ý đồ riêng rồi.”

    Tôi trầm ngâm suốt một hồi lâu rồi mới nói: “Lý Trường là một người rất có chủ kiến, y đã ôm lòng muốn dồn Ly Phi vào chỗ chết từ lâu, mỗi lần đều đưa một ít hạnh nhân tới cho cô ta, thời gian lâu rồi cô ta cũng sẽ trúng độc mà chết, thần không biết quỷ không hay.”

    Cận Tịch hơi cụp mắt xuống. “Phen nhục nhã do Ly Phi mang tới khi xưa, nô tỳ và Lý Trường suốt đời không quên.”

    Tôi vỗ nhẹ mu bàn tay nàng ta tỏ ý thương xót, thấp giọng nói: “Chuyện dù sao cũng qua rồi, kỳ thực cô ta sống như thế còn chẳng bằng chết luôn đi cho gọn ghẽ.”

    Ngoài sân có trồng mấy khóm “Vãn ngọc đinh hương”, giống hoa này có thời gian nở hoa rất dài, thường phải vào thu mười mấy ngày rồi mới bắt đầu có dấu hiệu lụi tàn. Lúc này trên nền gạch xanh rơi đầy những cánh hoa đinh hương màu tím, khung cảnh xiết nỗi u buồn.

    Người chết cũng giống hoa rơi, chỉ cần một cơn gió thổi qua là chẳng còn tăm tích, tựa như chưa từng đến cõi đời này.

    Hoàng hậu đã bị ghẻ lạnh một thời gian dài, thế mà lần này lại được Huyền Lăng đích thân tới nhờ cậy chủ trì tang lễ, tất nhiên không dám sơ suất chút nào. Nàng ta vì muốn cầu phúc cho hậu cung nên đã cho đặt linh vị của Ly Phi tại Diên Niên điện và mời pháp sư tới khấn vái đủ bảy bảy bốn mươi chín ngày, đồng thời bắt đầu an bài mọi việc trong tang lễ.

    Lúc này đã là đầu đông, Hoa Nghi ôm một bó hoa mai nở sớm về cắm vào bình, chậm rãi nói: “Phi tần tự vẫn là việc chẳng lành, Hoàng hậu liền nói với bên ngoài là Ly Phi đột ngột qua đời để bưng bít. Kỳ thực mọi người trong cung tuy ngoài miệng không nói gì nhưng ai mà chẳng biết cô ta sợ tội tự sát. Xét cho cùng vẫn là An thị gặp may, được chôn cất với tên thụy là Ly Âm Quý tần.”

    “Ly Âm Quý tần?” Tôi cười phì một tiếng, đưa tay khẽ vuốt ve chiếc nhẫn bạc trên ngón tay trắng ngần. “Chắc đây chính là kiệt tác của Hoàng hậu rồi.”

    “Dạ!” Hoa Nghi nhíu chặt đôi mày, cất giọng nghi hoặc: “Hoàng thượng đã lâu lắm rồi không qua thăm Hoàng hậu, chẳng dễ dàng gì mới nhờ cậy cô ta một việc thế này, ấy vậy mà cô ta lại không tự mình lo liệu, các sự vụ đều giao cả cho Lưu An nhân và Tiễn Thu, chỉ nói là mình vẫn chưa hết đau đầu. Cô ta chịu hao tâm tổn sức để nghĩ tên thụy cho An thị như thế thật chẳng rõ là vì nguyên nhân gì nữa?”

    “Có gì đâu mà phải nghĩ nhiều.” Tôi đưa tay hái lấy một bông mai đỏ vừa hé nở, thoạt nhìn trên đầu ngón tay tựa như có một bông hoa máu đỏ tươi. “Mọi người trong chốn hậu cung này dù có làm gì đi chăng nữa thì xét cho cùng cũng đều là vì bản thân mà thôi.”

    Hoa Nghi “dạ” một tiếng, lại nói tiếp: “Sau khi được Hoàng thượng ghé thăm, Hoàng hậu vẫn chẳng thể nào đắc sủng trở lại. Bây giờ tang lễ của Ly Âm Quý tần đã kết thúc, dường như Hoàng thượng lại càng ghét bỏ Hoàng hậu, thường ngày rất ít khi gặp mặt.”

    Tôi khẽ gật đầu, khoác áo đứng dậy, nói: “Bản cung đi thăm Trinh Phi một chút.”

    Khi tôi tới nơi thì Yến Nghi đang ngồi xem sách trong điện, dáng vẻ hết sức say mê. Trên người nàng ta là một chiếc áo cân vạt màu xanh nõn chuối thêu những đường hoa văn màu đỏ tía, phía dưới thì là một chiếc váy dài màu xanh lục, mái tóc được búi lại gọn ghẽ trên đầu và cố định bằng một cây trâm vàng. Tôi không kìm được thầm khen ngợi, màu xanh nõn chuoái kia thực là hợp với tính cách dịu dàng, trầm lặng của Yến Nghi.

    Không Thúy điện hết sức thoáng đãng, rộng rãi, bên trong còn vương vất mùi hoa mai dìu dịu. Ánh dương bị bức rèm ngăn lại một phần, chiếu vào trong điện vô số đốm sáng li ti, nhìn hệt như những bông hoa vàng ươm rực rỡ, lại càng tôn lên dáng vẻ thanh tao của Yến Nghi lúc này.

    Tôi vén rèm đi vào, khẽ cười, hỏi: “Muội đang xem sách gì thế? Trông bộ dạng thực là say mê quá chừng.”

    Nàng ta nhìn thấy tôi thì đặt cuốn sách qua một bên, cười, nói: “Có gì đâu mà say mê, Bái Nhi khó khăn lắm mới chịu ngủ, muội chẳng qua chỉ đọc sách để giết thời gian thôi.”

    Trên bức tường bên cạnh nàng ta có treo một bức Trang Tử thu thủy đồ vừa vẽ, bên trên chỉ có vài nét đơn sơ nhưng ý cảnh lại được thể hiện mạch lạc vô cùng, thực không giống như tác phẩm của một nữ tử trong khuê các. Tôi gật đầu cười, nói: “Tài vẽ của muội muội đúng là ngày càng tiến bộ. Có điều nếu muội vẽ tranh chim cá cỏ cây hoặc là non nước hữu tình, có lẽ Hoàng thượng sẽ vừa ý hơn đấy.”

    Nàng ta mỉm cười, nói: “Hoàng thượng không thường xuyên tới đây, tới rồi cũng chẳng để ý tới mấy tiểu tiết này, do đó vẽ gì cũng như nhau cả, tốt nhất là cứ vẽ những thứ mình thích.”

    Tôi nhẹ nhàng ngồi xuống bên cạnh nàng ta. “An thị đã chết, muội muội bây giờ cũng có thể nhẹ lòng hơn được phần nào rồi.”

    Nàng ta khẽ cười. “Khi Ly Phi còn tại thế, muội vẫn luôn oán hận cô ta, nhưng bây giờ suy nghĩ thông suốt rồi, kỳ thực không có cô ta thì cũng có người khác thôi. Hoàng thượng vốn chẳng có bao nhiêu tình cảm với muội, sẽ không vì người khác mà thêm hay bớt đi mấy phần đâu.”

    Tôi nhìn nàng ta chăm chú. “Nếu muội muội thật sự nghĩ được như vậy thì hoàn toàn không cần để ý tới Vinh Tần làm gì.”
    Trong mắt nàng ta lộ ra một nét buồn thương man mác. “Nghĩ được như vậy là một chuyện, còn có làm được hay không lại là chuyện khác.”

    Ly Phi đã qua đời, tam phi bây giờ chỉ còn lại nàng ta và Hân Phi. Kỳ thực trong các phi tần, ngoài tôi ra thì chỉ có nàng ta là sinh được hoàng tử, địa vị tất nhiên không tầm thường. Nhưng mỗi lần đến cung của nàng ta, tôi đều cảm thấy thời gian thật dài đằng đẵng, trên tay Yến Nghi luôn có một tấm khăn thêu mãi vẫn không xong, có một cuốn sách đọc mãi cũng không hết. Ngẫm phận nàng ta thật giống như cây quạt tròn bị gác bỏ một bên giữa mùa thu, trong lòng luôn chứa chan những nỗi niềm u uất vô biên vô tận.

    Nàng ta tự tay rót cho tôi một chén trà đắng, điềm đạm nói: “Bây giờ An thị đã qua đời, thế mà còn phải nhận một cái tên thụy kỳ quái như Ly Âm Quý tần, quả là cay đắng.”

    Tôi chăm chú ngửi mùi trà trong chén, cất giọng hững hờ: “Đó là một phen khổ tâm của Hoàng hậu.”

    “Tiếc rằng một phen khổ tâm ấy lại chẳng nhận được sự thông cảm của Hoàng thượng. Sau khi nương nương thoái thác việc chủ trì tang lễ cho Ly Phi, Hoàng hậu liền phải nhận lấy củ khoai lang nóng bỏng này. Ly Phi là do Hoàng hậu một tay đề bạt, dù lần này trong tang lễ, cô ta đã cố hết sức hạ thấp Ly Phi, lại mượn cớ đau đầu để không hết lòng lo liệu, song trong mắt Hoàng thượng thì Hoàng hậu và Ly Phi vẫn là những người gần gũi với nhau. Ly Phi nay đã chết rồi, Hoàng thượng giữ cho cô ta chút thể diện như thế lại càng cạn hết tình xưa nghĩa cũ. Ngày sau Hoàng thượng mà nghĩ tới những việc xấu xa do Ly Phi làm ra, ắt cũng sẽ nhớ lại buổi tang lễ phong quang của cô ta là do Hoàng hậu chủ trì, mà lúc sinh tiền cô ta và Hoàng hậu còn rất gần gũi. Hoàng hậu vốn lõi đời, làm gì chẳng hiểu đạo lý bên trong, có điều dù nghĩ ra cái tên thụy Ly Âm Quý tần kia để hạ thấp An thị thì rốt cuộc vẫn không tránh khỏi bị trút giận. Do đó suốt một thời gian dài vừa qua, cô ta dù muốn gặp Hoàng thượng một lần cũng chẳng được.”

    Tôi thầm kinh ngạc về tâm tư tinh tế của nàng ta, không kìm được cười, nói: “Muội muội đúng là thông minh hơn người.”

    “Muội đâu so được với tỷ tỷ.” Nàng ta nhìn tôi chăm chú. “Hoàng hậu tuy hiểu rõ nguồn cơn nhưng do được Hoàng thượng đích thân dặn dò nên chẳng thể nào thoái thác, biết rõ nguy hiểm mà vẫn phải dấn thân vào.” Hơi dừng một chút, nàng ta để lộ vẻ nghi hoặc. “Tỷ tỷ hao tổn tâm tư như vậy lẽ nào là bởi có lòng muốn ngồi vào ghế phượng như Trang Mẫn Phu nhân?”

    Tôi khẽ lắc đầu. “Một khi ngồi lên vị trí đó thì sẽ trở thành đích ngắm cho tất cả mọi người, ta đâu ngu ngốc đến vậy. Huống chi nếu ta thật sự có ý này, Hồ Uẩn Dung hẳn sớm đã coi ta như cái gai trong mắt rồi, chẳng chịu đứng chung trận tuyến với ta như bây giờ đâu.”

    Nàng ta cười, nói: “Muội cũng nghĩ tỷ tỷ sẽ không lỗ mãng như vậy.”

    Trời đã đổ bóng hoàng hôn, những ngọn đèn lồng trong các cung dần được thắp sáng, khắp nơi ánh lửa lập lòe, ánh sáng chiếu lên mấy gốc hoa trà tạo thành một mảng màu sắc vô cùng diễm lệ. Yến Nghi dõi mắt nhìn về phía xa, nhẹ nhàng cất tiếng: “Xích Thược vô lễ mà lại ngày càng được ân sủng, ngay đến Xuân Tần và Hủ Tần mới vào cung cũng chẳng làm gì được đấy.” Ba phi tần xuất thân từ các vương phủ hiện giờ rất được Huyền Lăng sủng ái, trong đó Xuân Tần và Hủ Tần chiếm phần hơn, tựa như một cặp hoa chung gốc, còn Anh Tần Giang Thấm Thủy thì hơi thua kém một chút nhưng cũng coi như không tệ. Có điều dù là như thế, Xích Thược vẫn vô cùng đắc sủng, số lần Huyền Lăng ghé thăm mỗi tháng chẳng hề giảm bớt.

    Hủ Tần vốn ở chung một cung với Anh Tần từng lén kể với tôi: “Ở những chỗ vắng người, tần thiếp thường xuyên nhìn thấy Anh Tần rơi lệ, chẳng rõ là vì duyên cớ gì nữa.”

    Tôi nói: “Chắc là ở nhà cô ta còn có cha mẹ cho nên mới nhớ người thân đấy thôi.”

    Hủ Tần khẽ lắc đầu. “Hồi mới vào cung, cô ta đâu có nhớ người thân gì đâu, bây giờ khóc lóc như thế thực là quái lạ.”

    Hủ Tần xuất thân từ phủ Thanh Hà Vương, vốn là một ca nữ cực kỳ xuất chúng. Ngọc Ẩn từng cười, nói với tôi: “Tuy Vương gia không có tâm tư gì với những người khác nhưng tướng mạo của Thái Chỉ thì quả có thể xếp vào hạng nhất trong số các thị nữ trong vương phủ. Muội cũng không thể không đề phòng, liền nhân cơ hội này đưa cô ta vào cung luôn, có một Vưu Tĩnh Nhàn trong phủ đã là đủ lắm rồi.”

    Tôi không kìm được nói: “Tính cách Vương gia thế nào muội cũng rõ, việc gì mà phải không yên tâm như vậy.”

    Ngọc Ẩn bất giác hơi cụp mi mắt, ánh mắt nhìn về phía tôi không tránh được lộ ra mấy tia ai oán. “Tỷ tỷ tất nhiên biết rõ tính cách của Vương gia, có điều bản thân muội vẫn cứ không thể yên tâm được!”

    Tôi tự biết lời này của mình có phần lỗ mãng nên khiến Ngọc Ẩn cả nghĩ, đang định chuyển chủ đề câu chuyện thì chợt để ý thấy thần sắc muội ấy vẫn tĩnh lặng như thường, trong lòng thầm nghi hoặc không biết vừa rồi có phải mình đã nhìn nhầm hay không, bèn hỏi: “Muội trước giờ vẫn chẳng để Vưu Tĩnh Nhàn vào lòng, cũng nói là Vương gia không để ý tới cô ta lắm, sao bây giờ lại có vẻ lo lắng thế vậy?”

    Ngọc Ẩn trầm ngâm đáp: “Vương gia quả đúng là không thích cô ta nhưng cô ta dù sao cũng xuất thân thế gia, đọc rộng biết nhiều, có lúc còn có thể trò chuyện với Vương gia mấy câu.” Sau đó không kìm được lộ vẻ tiếc nuối. “Còn muội đọc sách chẳng được bao nhiêu, thực sự phải chịu thua thiệt rất nhiều về mặt này.”

    Thế rồi Ngọc Ẩn liền đổi tên Thái Chỉ thành Hàm Chỉ mà nhân tiện đưa vào cung luôn. Hủ Tần không biết duyên cớ bên trong, lại cũng có lòng muốn báo đáp ơn thu nhận của Huyền Thanh năm xưa, thấy tôi là tỷ tỷ của Ngọc Ẩn - trắc phi của Huyền Thanh thì thường ngày tỏ ra hết sức gần gũi.

    Trong khi tôi suy nghĩ vẩn vơ thì Yến Nghi vẫn chỉ ngồi lặng im ở đó, tôi biết hành động của Huyền Lăng năm xưa đã làm nàng ta thương tâm tột độ, vô vàn tình cảm chân thành như bị một chậu nước lạnh giội lên. Nhưng dù thế nào đi nữa, nàng ta cũng vẫn còn yêu Huyền Lăng, mà chính bởi vì yêu nên mới sinh ra những nỗi niềm ai oán.

    Tôi khuyên giải vài câu rồi đành cất tiếng cáo từ, bám vào tay Cận Tịch chậm rãi bước đi trong Thượng Lâm uyển một hồi lâu, bóng dáng thê lương của Yến Nghi cứ vương vất mãi trong lòng. Từng làn gió đêm nhẹ nhàng thổi lại, cành lá trong Thượng Lâm uyển xào xạc lung lay, đông tới mang cái lạnh về, còn mang theo cả sự tiêu điều, héo hắt. Tôi kéo chiếc áo choàng vào sát người một chút, cố gắng bước đi nhanh hơn. Bỗng có tiếng khóc thút thít từ đâu đó vọng lại, tôi không kìm được cất giọng nghi hoặc: “Muộn thế này rồi mà còn có ai đang khóc ở đây thế?”

    Tiểu Doãn Tử vội vàng cầm đèn bước lên phía trước tìm kiếm, chừng một tuần trà sau thì dẫn theo một người trở lại. Người đó có thân hình yểu điệu, nhan sắc mỹ miều, không phải Anh Tần thì còn là ai? Tôi thấy nàng ta mặc một chiếc áo dài thêu hình bướm vờn hoa màu hồng, dáng người có vẻ yếu ớt, chắc vì đã khóc trong gió lạnh một hồi lâu nên đầu mũi đã đỏ ửng, đôi mắt cũng hơi sưng tấy. Anh Tần nhìn thấy tôi thì sợ đến ngây người, không kìm được lùi về phía sau hai bước, sau đó mới nhớ ra là cần phải hành lễ.

    Tôi liếc thấy chiếc khăn tay buộc trên vạt áo của nàng ta đã ướt thẫm một mảng, bèn cố kìm nén nỗi nghi hoặc trong lòng, ân cần hỏi: “Trời đang lạnh giá thế này, sao Anh Tần muội muội lại khóc một mình ở đây thế?”

    Nàng ta hơi rụt người lại, dè dặt đáp: “Tần thiếp không dám khóc trong cung của mình.”

    Thấy nàng ta có vẻ giấu đầu hở đuôi như thế, tôi nói năng lại càng ôn tồn hơn: “Sắp sang năm mới rồi, có phải muội muội nhớ nhà không?” Sau đó lại quay sang dặn dò Cận Tịch: “Đợi lát nữa nhớ sai người đi nói với Hoàng thượng là thân thể Anh Tần không khỏe, hãy để người nhà nàng ta vào cung thăm nom một chút.” Cận Tịch đáp “vâng” một tiếng. Tôi cười, hỏi Anh Tần: “Bản cung tự tiện làm chủ như vậy không biết Anh Tần thấy thế nào?”

    Anh Tần hoang mang quỳ xuống. “Đa tạ Thục phi nương nương có lòng xót thương. Tần thiếp phúc bạc, cha mẹ đều đã qua đời, trong nhà chẳng còn ai thân thích, do đó mới được Đức thái phi chọn từ trong phủ đưa vào cung.”

    “Ồ?” Tôi hơi nhướng mày lên. “Đã không phải là nhớ người thân, Anh Tần vì cớ gì mà thương tâm đến vậy? Hoàng thượng vẫn hết sức sủng ái muội muội, lẽ nào có người nào đó gây khó dễ cho muội ư? Có điều ấm ức gì, muội cứ việc nói với bản cung.”

    Anh Tần thoáng lộ vẻ trù trừ, ngón tay đang đeo hộ giáp bằng vàng ròng run lên lẩy bẩy, thấp giọng nói: “Đêm qua xe Phượng loan xuân ân lại tới đón Xuân Tần đi.”

    Tôi dừng ánh mắt trên khuôn mặt như phủ hơi sương của nàng ta, chợt cười, nói: “Trong cung có nhiều phi tần như thế, Hoàng thượng làm sao mà chiều lòng tất cả được. Muội muội hãy mở rộng lòng mình, đừng vì thế mà thương tâm hay ghen tị, kẻo lại bị người ta chê trách là nhỏ mọn đấy.”

    Nàng ta ngước mắt lên nhìn tôi, khẽ nói: “Nương nương không trách tội tần thiếp ư?”

    Tôi bất giác bật cười. “Chúng ta đều là nữ tử, khó tránh khỏi có lúc vì tương tư mà thương tâm ghen tị, đến bản cung cũng chẳng thể nào tránh nổi, sao lại trách muội muội chứ?” Tôi hơi nhếch khóe môi để lộ một nụ cười đầy ý vị. “Có điều chút tâm tư này muội muội nhất định phải khắc chế, nhược bằng để người khác biết được thì ắt sẽ là họa chứ không phải phúc đâu.”

    Trong mắt lóe lên ánh lệ long lanh, nàng ta lập tức quỳ xuống. “Tần thiếp xin vâng theo lời dạy bảo của nương nương.”

    Anh Tần rụt rè cáo lui, tôi chăm chú nhìn theo cái bóng của nàng ta, suốt một hồi lâu không nói năng gì. Tiểu Doãn Tử cười, nói: “Anh Tần tiểu chủ đúng là thẳng tính, ngay đến chuyện như thế mà cũng nói ra, chỉ qua đó thôi cũng đủ thấy nương nương đức cao vọng trọng nên nàng ta mới không dám nói dối.”

    Tôi chỉ nhìn Tiểu Doãn Tử mà cười khẽ. Cận Tịch nói: “Nô tỳ thì thấy Anh Tần rõ ràng chỉ kiếm cớ nói bừa vậy thôi.”

    “Cô ta đã không còn người nhà, phen khóc lóc này ắt không phải là vì nhớ người thân. Mà thời gian qua Hoàng thượng vẫn thường xuyên sủng hạnh cô ta và Xuân Tần, Hủ Tần, không hề có vẻ gì là ghẻ lạnh, do đó chuyện này quả thực có rất nhiều điểm đáng ngờ.”

    Cận Tịch nói: “Dạ phải, tội danh phi tần đố kỵ không phải là nhỏ, vậy mà cô ta thà mạo hiểm chịu phạt chứ nhất quyết không nói ra chân tướng, chứng tỏ tội trạng mà chân tướng ấy đem tới còn lớn hơn tội đố kỵ kia nhiều.”

    Tôi khẽ gật đầu. “Ai ai cũng có bí mật của riêng mình, ta hà tất phải truy cứu đến cùng làm gì cho rắc rối, chỉ cần cô ta không làm việc gì quá đáng là được rồi.” Tôi thấy Tiểu Doãn Tử có vẻ lúng túng bèn nói: “Ngươi bây giờ đã là thái giám quản sự rồi, đừng việc gì cũng chỉ chăm chăm nịnh nọt bản cung như thế, hãy chú ý học theo Cận Tịch nhiều vào.”

    Tiểu Doãn Tử cung kính đáp “vâng” một tiếng, sau đó liền dẫn tôi về cung. Trên đường quay về Nhu Nghi điện ắt phải đi qua Nghi Nguyên điện, tôi vạch ngón tay ra tính toán. “Lúc này chắc Hoàng thượng đang lật thẻ bài rồi.”

    Tiểu Doãn Tử nói: “Dạ phải. Mấy ngày nay Hoàng thượng chủ yếu chọn các vị tiểu chủ Diễm Tần, Vinh Tần, Xuân Tần, Hủ Tần và Anh Tần.”

    Lời còn chưa dứt, tôi đã nhìn thấy bên ngoài Nghi Nguyên điện có một nữ tử vận cung trang đang đứng, ngay từ xa nàng ta đã nhún gối hành lễ với tôi: “Tần thiếp bái kiến Thục phi nương nương, nương nương vạn phúc kim an!”

    Tôi định thần nhìn kĩ thấy hóa ra là Hủ Tần. Để ý thấy xe Phượng loan xuân ân đang dừng ngay sau lưng nàng ta, tôi không kìm được cất tiếng hỏi: “Trời tối gió to thế này, sao muội muội lại đứng ở đây thế? Cẩn thận kẻo bị trúng gió đấy.”

    Hủ Tần đưa mắt nhìn Nghi Nguyên điện, lộ rõ vẻ sợ hãi, nói: “Tần thiếp vâng chỉ tới đây, vừa khéo đại điện hạ lại ở bên trong, Lý công công nói là Hoàng thượng lúc này đang tức giận, kêu tần thiếp tạm thời đừng vào.”

    Nàng ta còn chưa dứt lời, tôi đã nghe thấy giọng của Huyền Lăng vang lên: “Trẫm bảo con đọc Gián Thái Tông thập tứ sơ của Ngụy Trưng, con nay đã có thể đọc thuộc lòng trôi chảy, xem ra đã bỏ ra không ít công phu. Trẫm hỏi con thế nào là khoanh tay trị nước, con cũng biết đó là trị nước theo lối vô vi, nhưng trẫm hỏi con Thái Tông làm thế nào để có thể khoanh tay trị nước, con lại chỉ biết đem thiên văn chương cứng nhắc kia ra đọc cho trẫm nghe. Đường Thái Tông biết tiếp nhận lời can gián, nghe theo những lời can trong thiên văn chương này của Ngụy Trưng lẽ nào không phải là một cách để buông tay trị nước đó ư? Con chỉ biết đọc sách một cách cứng nhắc mà không biết suy một ra ba, lẽ nào khi con ở trong thư phòng, sư phụ con chưa từng kể về lối cai trị nhân đức của Thái Tông ư?”

    Hoàng trưởng tử cất giọng rụt rè: “Sách Trinh Quan chính yếu đã nói tới chuyện này rồi, mẫu hậu cũng bảo nhi thần phải đọc cho thật kĩ.”

    Huyền Lăng cười lạnh không ngớt. “Sư phụ với mẫu hậu của con đều cần mẫn, nhưng con thì lại lười nhác quá chừng. Con năm tuổi đã vào thư phòng, tới bây giờ đã được hơn mười năm, vậy bao nhiêu cuốn sách từng đọc con để vào đâu hết rồi? Trẫm nhớ là hai năm trước con còn có thể đọc thuộc lòng được mấy đoạn dài trong Trinh Quan chính yếu, lẽ nào bây giờ đã quên hết rồi sao? Sư phụ của con cũng nhẫn nại thực đó, nếu đổi lại là trẫm, chỉ e sớm đã bị con làm cho tức chết từ lâu rồi!”

    Hoàng trưởng tử hình như đã quỳ xuống. “Phụ hoàng bớt giận!”

    “Bớt giận? Trẫm cũng muốn bớt giận lắm chứ, nhưng con lại làm cho trẫm không thể không tức giận! Con là con cả của trẫm, trẫm không mong con có thể kiến công lập nghiệp gì hết, chỉ hy vọng con có thể trở thành tấm gương cho mấy đệ đệ, muội muội của con, như thế trẫm cũng được yên lòng hơn một chút! Trẫm thực không ngờ con lại kém cỏi tới mức này!”

    Nửa đêm gió lớn, giọng nói của Huyền Lăng vang đi rất xa, ngay đến cái bóng của y in lên cửa sổ cũng thấp thoáng lộ ra mấy tia giận dữ. Hủ Tần vào cung chưa lâu, chưa từng nhìn thấy Huyền Lăng nổi giận như vậy, không kìm được run rẩy đưa mắt nhìn tôi. Tôi mỉm cười, nói: “Hoàng thượng là bậc thiên tử tôn quý nhất trên đời, tất nhiên không thể ôn hòa, điềm đạm như Vương gia rồi.”

    Hủ Tần mỉm cười nền nã. “Vương gia bây giờ còn chưa có con, ngày sau mà có rồi, một khi dạy con chỉ sợ còn nghiêm khắc hơn Hoàng thượng bây giờ ấy chứ.”

    Tôi nghe nàng ta nói vậy, trái tim bất giác nảy lên một cái, hai bờ má nóng bừng, thậm chí còn không phát hiện có một làn gió lạnh thổi tới, khi ngẩng đầu lên thì bỗng thấy Hoàng trưởng tử mặt mày ủ dột đi ra. Tiếng quát đầy giận dữ của Huyền Lăng vang vọng ra ngoài theo làn gió: “Ba ngày tới con hãy đọc thiên văn chương ấy cho thông suốt, nếu còn chưa hiểu ý nghĩa của nó thì đừng tới gặp trẫm!”

    Hoàng trưởng tử nhìn thấy tôi và Hủ Tần thì không kìm được đỏ mặt tía tai, vội cúi đầu, chắp tay nói: “Nhi thần kính chào Thục mẫu phi, Hủ mẫu phi.”

    Hủ Tần và Hoàng trưởng tử tuổi tác xấp xỉ nhau, nhận lễ như vậy của y thì không khỏi đỏ mặt, nàng ta vội lùi về phía sau hai bước. Tôi cười, nói: “Muội tuy còn trẻ nhưng bối phận cao thấp bày ra đó, nhận một lễ này của Hoàng trưởng tử cũng không sao hết.” Hủ Tần tới lúc này mới yên tâm nhận lễ. Tôi nói: “Muội cũng đợi khá lâu rồi, mau vào trong đi. Hoàng thượng lúc này đang tức giận, ăn nói nhớ phải dịu dàng, cẩn thận một chút.”

    Hủ Tần khẽ gật đầu, vội vàng đi vào trong điện.

    Tôi đưa mắt nhìn Dư Ly, thấy y đã là một thiếu niên mười sáu, mười bảy tuổi, vì được nuôi ở cung của Hoàng hậu nên lời lẽ, cử chỉ đều rất hợp với lễ nghi. Tướng mạo của y vốn không tầm thường, chiếc áo lông cáo màu xanh viền đen trên người lại càng khiến phong thái của y thêm phần xuất chúng. Thế nhưng y từ nhỏ đã bị quản thúc nghiêm ngặt, thần sắc không tránh khỏi có chút e dè, trong mắt chẳng có vẻ bừng bừng rạng rỡ, đã thế lúc này còn có thêm mấy tia ủ dột, buồn bã. Tôi đưa tay vỗ nhẹ lên bờ vai y, dịu giọng an ủi: “Phụ hoàng con đang lúc tức giận, nói năng khó tránh khỏi có hơi nặng nề, con đừng để vào lòng. Cha con dù sao cũng là cha con, chờ mấy ngày nữa mọi việc sẽ lại đâu vào đấy thôi.”

    Dư Ly thấp giọng đáp: “Dạ. Đa tạ Thục mẫu phi quan tâm!”

    Tôi ôn tồn nói: “Trời cũng tối rồi, con còn phải xuất cung về vương phủ, đường ban đêm lại khó đi, mau về nhanh đi.”

    Y lại càng cúi đầu thấp hơn, gần như đã vùi mặt vào vạt áo. “Mẫu hậu còn đang ở trong cung chờ hỏi bài nhi thần.”

    Tôi thoáng lộ vẻ ngạc nhiên. “Đã muộn thế này rồi cơ mà. Ngày mai giờ nào thì con phải tới thư phòng?”

    “Giờ Dần ba khắc.”

    Tôi bật thốt: “Giờ Dần ba khắc? Lúc đó trời vẫn còn tối đen mờ mịt, mỗi ngày con chỉ được ngủ ít như vậy thôi sao?”

    “Mẫu hậu thường nói vụng về thì phải lo thân sớm, nhi thần không được thông minh như người khác nên cần phải chăm chỉ chuyên cần, ngày đêm khổ học.”

    Tôi thở dài, than: “Hoàng hậu mong con hăng hái phấn đấu như thế kỳ thực không sai, nhưng con cũng nên quý trọng thân thể của mình một chút.” Sau đó lại mỉm cười nhìn y. “Nghe nói phụ hoàng của con đang chọn vương phi cho con rồi đấy, xem ra ta lại sắp được uống rượu mừng rồi.”

    Dư Ly nghe vậy thì không hề tỏ ra mừng rỡ. “Mẫu hậu nói nhi thần còn nhỏ, học tập vẫn là quan trọng nhất, đừng vì chuyện nhi nữ tình trường mà phân tâm kẻo làm phụ hoàng tức giận.”

    Tôi đành nói: “Hoàng hậu nuôi dưỡng con cũng vất vả, con cứ chịu khó nghe lời đi vậy.”

    Tôi xoay người định đi, chợt Dư Ly thấp giọng gọi khẽ: “Thục mẫu phi xin dừng bước!”

    Tôi ôn tồn hỏi: “Còn có chuyện gì vậy?”

    Y ngẩng đầu lên, trong mắt lộ ra mấy tia ấm áp, chân thành. “Nghe nói mẫu phi của nhi thần được truy phong là nhờ ý tốt của Thục mẫu phi, nhi thần không thể tới tận nơi bái phỏng đã là bất hiếu, hôm nay xin có lời cảm tạ tại đây.”

    Tôi bất giác sững người, chợt nhớ ra mẫu phi mà y nói tới ở đây là thân mẫu Cẩn Phi của y, không kìm được cười, nói: “Con là trưởng tử của Hoàng thượng, mẹ ruột của con lại qua đời sớm, được truy phong như thế cũng là lẽ thường, con không cần cảm tạ ta làm gì cả.”

    Sắc mặt y lộ rõ vẻ u uất, hệt như thời tiết lúc này. “Mẫu phi của nhi thần chết một cách không rõ ràng, bao năm nay trong cung đầy rẫy tin đồn, ngay đến phụ hoàng cũng chẳng buồn xót thương. Nhi thần là người làm con mà chẳng thể làm gì, mãi đến dịp vừa rồi cũng phải nhờ phúc của Thục mẫu phi mới có thể làm tròn phận hiếu, ơn này nhi thần quyết chẳng dám quên.”

    Dư Ly khom người vái một cái thật sâu, tôi vội vàng ngăn y lại. “Đây vốn chẳng phải tâm ý của một mình ta. Hoàng hậu là đích mẫu của con, việc này xét cho cùng cũng cần Hoàng hậu ân chuẩn mới được.”

    Dư Ly miễn cưỡng nhếch khóe môi. “Mẫu hậu đối xử với nhi thần quả thực không tệ, nhưng người vẫn luôn cho rằng mẫu phi là người có tội, thậm chí còn không cho nhi thần được nhắc tới chứ đừng nói gì đến chuyện khác. Thục mẫu phi không cần an ủi nhi thần làm gì.” Y cung tay, thấp giọng nói: “Trời đêm lạnh lẽo, Thục mẫu phi xin bảo trọng. Nhi thần cáo lui!”

    Cẩn Phi qua đời sớm, Dư Ly lại không được phụ thân thương yêu, Hoàng hậu thì dạy dỗ nghiêm khắc, thành ra tuy là trưởng tử nhưng mười mấy năm nay cuộc sống của y vẫn luôn ngột ngạt, bức bối vô cùng, chưa có lúc nào thật sự được vui vẻ. Tôi dõi mắt nhìn theo bóng lưng hơi cong của y lúc rời đi, không kìm được khẽ thở dài một tiếng
     
  18. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 26: Hoa trời sắc nước thảy đều vui
    [28] Trích Thanh bình điệu kỳ 3, Lý Bạch. Dịch thơ: Trần Trọng San. Nguyên văn Hán Việt: Danh hoa khuynh quốc lưỡng tương hoan - ND.

    Mùa đông năm nay cứ thế trôi qua trong tĩnh lặng, thế nhưng sự tĩnh lặng ấy kỳ thực chỉ là vẻ ngoài.

    Xưa nay khi tuyển tú, chỉ có duy nhất Hoàng hậu được phép bầu bạn với Hoàng đế cùng tới Vân Ý điện, các phi tần khác thì nhất loạt không được ghé qua, quy định như vậy chính là để tỏ rõ rằng Hoàng hậu là mẫu nghi thiên hạ, sự tôn quý không nữ tử nào sánh bằng. Thế nhưng đợt tuyển tú năm nay, Huyền Lăng lại thông báo với tôi từ sớm, nhất quyết yêu cầu tôi đi cùng. “Hoàng hậu ngồi ở đó chỉ là cho có mà thôi, trẫm vẫn muốn nghe ý của nàng hơn.”

    Hoàng hậu sớm đã bị ghẻ lạnh, mọi việc trong hậu cung đều do tôi một tay an bài, tôi vốn cũng không muốn cự tuyệt, bèn trầm ngâm nói: “Hoàng hậu nương nương thì tất nhiên phải đi, có điều theo tổ chế thì phi tần không được phép tham dự buổi tuyển tú, thần thiếp mà đi thì đám ngôn quan kia ắt sẽ lại lắm chuyện, như thế thực là không hay chút nào. Chi bằng Hoàng thượng hãy mời Quý phi tỷ tỷ và Đức phi tỷ tỷ cùng đi, như thế vừa hay thể hiện được cái ý hậu phi đồng lòng, lại tránh cho đám ngôn quan chỉ chăm chăm soi mói một mình thần thiếp.”

    Huyền Lăng gật đầu, mỉm cười. “Vậy cũng tốt, dù sao Hoàng hậu cũng chỉ cần xem thôi là được, bất tất phải đưa ra chủ ý gì.”

    Tôi dịu dàng đưa mắt nhìn y. “Thần thiếp biết chứ, lần này nhất định sẽ chọn cho Hoàng trưởng tử một người vợ hiền, lại lựa thêm giai lệ về cho Hoàng thượng.”

    Vì việc tuyển tú lần này, tôi cùng Quý phi, Đức phi đều phải chuẩn bị sẵn tinh thần từ sớm. Kỳ thực trong lòng mọi người đều đã có tính toán, lớp phi tần trẻ tuổi trong cung bây giờ đã có Diễm Tần, Vinh Tần, Xuân Tần, Hủ Tần, Anh Tần, mỗi người một vẻ, do đó mục tiêu chủ yếu lần này là chọn chính phi cho Hoàng trưởng tử, điều kiện cực kỳ nghiêm ngặt. Thái hậu còn từng đặc biệt gọi tôi với Quý phi, Đức phi tới dặn dò kĩ càng một phen, đó là việc tuyển tú lần này cần hết sức cẩn trọng, nhất định phải chọn cho Hoàng trưởng tử một nữ tử đoan trang, nền nếp làm vợ, lại nói rằng chọn chính phi quan trọng là ở đức chứ không phải ở sắc, chớ nên chỉ để tâm xem nữ tử đó có xinh đẹp hay không mà còn phải chú ý đến lời lẽ, cử chỉ của nàng ta, ngoài ra hãy chọn thêm mấy nữ tử con nhà lành kiêm đủ tài đức vào hầu Hoàng thượng, quyết đừng để xuất hiện hạng người như An Lăng Dung hay Phó Như Kim nữa.

    Hôm ấy Ngọc Nhiêu vào cung thăm tôi, đang lúc tán gẫu thì tôi chợt nhớ đến một việc, bèn hỏi: “Cửu Vương gia đối xử với muội có tốt không?” Ngọc Nhiêu đưa cây quạt tròn lên che mặt, xấu hổ nói: “Cứ suốt ngày hỏi người ta vấn đề này thôi, tỷ tỷ không thấy phiền sao?”

    Tôi bật cười khúc khích, nói: “Ta là tỷ tỷ của muội cơ mà, sợ gì chứ!”

    Ngọc Nhiêu e thẹn gật đầu. “Tốt, tốt lắm!”

    Hoa Nghi đứng kế bên không kìm được cười, nói: “Chỉ cần nói một chữ tốt là cũng đủ rồi, Vương phi việc gì phải nói ra hai chữ tốt như thế, lẽ nào sợ người khác không biết là Vương gia rất thương Vương phi ư? Thực ra mọi người trong cung ai chẳng rõ, mỗi lần Vương phi vào cung, Vương gia đều đích thân tiễn tới tận trước cửa cung, đi đâu cũng thành đôi thành cặp cả.”

    Ngọc Nhiêu làm bộ hờn giận, nói với tôi: “Tỷ tỷ mà không vả miệng nha đầu này mấy cái thì muội không chịu đâu, mồm mép lém lỉnh thực là đáng ghét quá.”

    Tôi bật cười ngăn muội ấy lại, lại kêu Hoa Nghi ra ngoài, sau đó mới thấp giọng hỏi: “Muội với Vương gia thành thân cũng được hơn nửa năm rồi, phu thê đã ân ái như thế tại sao vẫn chưa thấy có động tĩnh gì vậy?”

    Ngọc Nhiêu hơi ngây ra một chút rồi mới hiểu được ý tứ của tôi, mặt mũi thoáng cái đã đỏ bừng, thẹn thùng nói: “Muội làm sao biết được, vả lại Ngọc Ẩn tỷ tỷ và lục Vương gia cũng chưa có động tĩnh gì đấy thôi.”

    Tôi không tiện giải thích với muội ấy về quan hệ giữa Ngọc Ẩn và Thanh, chỉ nói: “Muội cứ nói ta hay chuyện của mình là được rồi.”

    Ngọc Nhiêu quấn ngón tay vào mép áo, ấp úng nói: “Muội thật sự không biết.”

    Tôi không tiện hỏi gì thêm nữa, đúng lúc này thì Cận Tịch đi vào bẩm báo: “Trang Mẫn Phu nhân tới thăm nương nương.”

    Tôi và Ngọc Nhiêu đưa mắt nhìn nhau, trong lòng thầm nghĩ Hồ Uẩn Dung rất ít khi tới đây, lần này bất ngờ bái phỏng chẳng biết là có ý gì, nhưng cũng không dám thất lễ, lập tức đứng dậy ra ngoài nghênh đón, từ xa đã cười, nói: “Muội muội thực hiếm khi có nhã hứng thế này.”

    Sau khi Hoàng hậu bị ghẻ lạnh, Hồ Uẩn Dung thực là đắc chí vô cùng, ăn mặc, trang điểm lại càng quý phái, trang trọng hơn ngày trước. Hôm nay nàng ta vận một chiếc áo dài màu đỏ tía may bằng vải đoạn, bên trên thêu hình hoa phù dung bằng chỉ vàng theo lối cung đình, nhụy hoa thì toàn là những viên trân châu li ti lấp lánh, trên đầu lại cài đủ mười hai cây Cảnh phúc trường cẩm trâm làm bằng vàng ròng đính mã não, vô cùng bắt mắt. Khi nàng ta bước đi, đôi khuyên tai đung đưa nhè nhẹ phát ra những tiếng tinh tang, cả thân thể như được bao bọc trong một quầng sáng màu vàng khiến người ta không dám nhìn thẳng. Trong khi đó, lúc này tôi lại chỉ mặc một chiếc áo gấm màu tím nhạt, trên đầu thì cài trâm bạch ngọc đơn sơ, người nào không rõ nội tình rất có thể sẽ cho rằng tôi chỉ là một phi tần bình thường, địa vị thua nàng ta xa lắc.

    Hồ Uẩn Dung bước tới nắm lấy tay tôi, sau khi quan sát tôi một chút liền cười tủm tỉm, nói: “Tỷ tỷ ăn mặc thực là đơn giản quá, chẳng trách biểu ca lại cứ thường xuyên khen tỷ tỷ biết lo việc gia đình, không giống muội đây chỉ thích xa hoa quá trớn nên thành ra không được lòng biểu ca cho lắm.”

    “Làm gì có nữ tử nào không thích ăn mặc đẹp đâu.” Ngọc Nhiêu mân mê chiếc vòng ngọc phỉ thúy trên tay một chút, khẽ cười, nói. “Nhưng bây giờ không chỉ mình đại tỷ tỷ của ta không dám, ngay đến ta cũng vậy cả thôi.”

    Hồ Uẩn Dung tươi cười liếc mắt nhìn qua. “Thế thì quả là lạ thật, mấy tỷ muội nhà họ Chân bây giờ, một người là thục phi chính nhất phẩm đương triều, một người là trắc phi của thân vương, tứ tiểu thư lại càng là chính phi tôn quý nhất trong phủ Bình Dương Vương, sao đến ăn mặc đẹp một chút mà cũng không được vậy?”

    Ngọc Nhiêu khẽ lắc đầu, đưa mắt nhìn ra ngoài Vị Ương cung một chút, thấp giọng nói: “Sau khi tỷ tỷ của ta từ chùa Cam Lộ trở về, những lời đồn đại trong cung còn ít hay sao? Ngay tới bọn ta cũng bị người ta để ý, mà miệng lưỡi người đời thì thực là đáng sợ vô cùng, bọn ta không thể không cẩn thận được.”

    Hồ Uẩn Dung dõi mắt nhìn về hướng Chiêu Dương điện, nở một nụ cười hiểu ý. “Bây giờ cô ta không được lòng biểu ca, tất nhiên khó có thể vui vẻ được rồi, có chút lời oán trách cũng là bình thường thôi.” Nàng ta bước lại gần một chút, nói tiếp: “Thục phi tỷ tỷ có phải đã nghe thấy lời gì rồi không? Tỷ tỷ vốn hiền đức, muội thì là người thấy chuyện bất bình chẳng tha, ắt phải biện bạch cho tỷ tỷ một phen mới được.”

    Tôi lắc đầu, thở dài than: “Cô ta là người thông minh, cẩn thận vô cùng, sao có thể để lộ chút sơ hở nào để chúng ta nắm được thóp của cô ta chứ. Thôi bỏ qua đi, đều là những lời không liên can được nói ra từ miệng những kẻ chẳng liên can mà thôi.”

    Hồ Uẩn Dung khẽ gật đầu, trầm ngâm nói: “Cũng phải.”

    Tôi cười, nói với nàng ta: “Muội muội hiếm có khi nào ra ngoài đi lại thế này, hôm nay đúng là có nhã hứng quá!”

    Hồ Uẩn Dung cười hì hì một tiếng, dắt một nữ tử đi tới trước mặt tôi, nói: “Vị này là con gái nuôi của Tùy Quốc công phu nhân, tên gọi Hứa Di Nhân, tỷ tỷ nhìn xem có phải là một mỹ nhân không?”

    Nữ tử đó tuổi chừng mười lăm, mười sáu, dung nhan xinh đẹp, yêu kiều, là một mỹ nhân cực kỳ xuất chúng, chờ Hồ Uẩn Dung giới thiệu xong liền cung kính hành lễ với tôi. Tôi tiện miệng cười, nói: “Chẳng trách lại tên là Di Nhân, quả nhiên vừa gặp đã khiến người ta tâm thần sảng khoái. Cô bé này đã được nhà nào chấm làm con dâu chưa vậy?”

    Hồ Uẩn Dung hơi nghiêng đầu, ánh mắt nhìn về phía Hứa Di Nhân hệt như đang nhìn một món đồ chơi thú vị của mình. “Di Nhân tuy không phải là con gái dòng đích của Tùy Quốc công, nhưng Quốc công phu nhân đã nuôi cô bé từ nhỏ, coi như hòn ngọc trên tay vậy, sao có thể tùy tiện để nhà nào chấm làm con dâu được.”

    Tôi loáng thoáng đoán được ý tứ của nàng ta khi tới đây, bèn thu lại nụ cười, đưa mắt nhìn nàng ta chăm chú. “Muội muội vốn là người lòng dạ nhiệt thành rất mực, có phải đã chọn được ai cho Hứa tiểu thư rồi không?”

    Hồ Uẩn Dung chậm rãi bước ra ngoài sân, tiện tay hái một bông hoa trắng muốt. “Dù là giống hoa tốt thì cũng cần trồng trong cung của Thục phi tỷ tỷ thì mới có thể nở đẹp được, chứ nếu tùy tiện trồng trong một gia đình nghèo khó thì ắt không thể có màu sắc đẹp thế này. Tỷ tỷ đã cảm thấy gặp Di Nhân có thể khiến người ta tâm thần sảng khoái như thế, chi bằng hãy giữ lại trong cung mà dạy dỗ một phen, như vậy sau này những người nhìn thấy cũng sẽ được sướng mắt vui lòng.” Tôi còn đang trầm ngâm thì nàng ta đã nhìn tôi chăm chú, chậm rãi nói tiếp: “Di Nhân với tiểu muội tính tình rất hợp nhau, tiểu muội cũng muốn có thêm một người bầu bạn trong cung. Nếu tỷ tỷ cảm thấy Di Nhân không xứng hoặc là không thích hợp hầu hạ Hoàng thượng, vậy thì để cô ấy hầu hạ bên cạnh tiểu muội cũng được.” Dứt lời bèn tiếp tục mân mê bông hoa trong tay, không nói gì thêm.

    Hứa Di Nhân thướt tha quỳ xuống. “Nô tỳ vốn xuẩn ngốc, có thể hầu hạ bên cạnh Phu nhân đã là may mắn lắm rồi, đâu dám với cao mong cầu được vào cung hầu hạ Hoàng thượng.”

    Tôi thoáng suy nghĩ rồi mỉm cười, nói: “Muội muội lòng dạ thẳng thắn, đây là điều hiếm có vô cùng. Di Nhân hợp tính với muội muội, đã thế còn là hòn ngọc minh châu trên tay Tùy Quốc công phu nhân, ta nghĩ trong buổi tuyển tú ngày mai nhất định sẽ được Hoàng thượng để mắt.” Rồi tôi chậm rãi đi lên phía trước hái một bông hoa màu hồng cài vào mái tóc mây của Di Nhân. “Muội muội vừa có sắc vừa có hương như bông hoa này vậy, ắt sẽ được bệ hạ thương yêu. Mà muội muội gần gũi với Trang Mẫn Phu nhân cũng tức là gần gũi với bản cung, sau này mỗi khi có thời gian rảnh nhớ tới Nhu Nghi điện chơi nhé!”

    Hồ Uẩn Dung hơi nhếch khóe môi nở một nụ cười tươi tắn. “Có những lời này của Thục phi, tiểu muội cũng có thể yên tâm được rồi.” Nàng ta ngẩng đầu nhìn trời một chút, nói tiếp: “Sắc trời không còn sớm nữa, tiểu muội còn phải đi thỉnh an Thái hậu, xin phép cáo từ!”

    Tôi tiễn nàng ta tới tận nghi môn, sau đó mới cùng Ngọc Nhiêu dắt tay nhau trở vào trong. Ngọc Nhiêu bưng một chén trà đưa tới cho tôi rồi chống cằm, nói: “Buổi đại tuyển hãy còn chưa bắt đầu, không ngờ cô ta đã nôn nóng thu xếp cho người của mình như thế rồi.”

    Tôi thổi nhẹ mấy hơi cho trà bớt nóng, chậm rãi nói: “Tuổi già nhan sắc tàn phai là điều mà nữ nhân nào cũng sợ, sao có thể không an bài sẵn hậu chiêu cho bản thân chứ!” Tôi đặt chén trà xuống bàn, đưa tay lên day khóe mắt. “Ngay đến ta mỗi sáng thức dậy cũng đều cảm thấy mình đã già hơn hôm qua một chút.”

    Ngọc Nhiêu ghé đến gần tôi, cất giọng thân mật: “Ai dám nói là tỷ tỷ già chứ, ở gần sát thế này rồi mà muội vẫn chẳng nhìn ra được nếp nhăn nào cả.”

    Tôi cầm một lọn tóc lên chăm chú nhìn kĩ. “Tóc còn chưa bạc nhưng lòng sớm đã già rồi, như nhau cả thôi.”

    Ngọc Nhiêu tựa người vào cánh tay tôi, cau mày, nói: “Tỷ tỷ cần gì phải sợ già, người nào nôn nóng mới sợ già. Cô ta rõ ràng không phải chỉ sửa nhà trước lúc trời mưa mà còn bày sẵn con đường về sau cho mình. Hoàng hậu thất sủng đã lâu, cô ta là người làm biểu muội khó tránh khỏi ôm lòng được đất Lũng còn mong đất Thục. Hiện giờ tỷ tỷ quyền cao chức trọng, nếu cô ta thật sự có lòng tranh đoạt ngôi hậu thì không thể không đề phòng, chỉ e sau này cô ta sẽ coi tỷ tỷ là hòn đá cản đường đấy.”

    Tôi cảm nhận được sự lo lắng của Ngọc Nhiêu liền khẽ vỗ vào tay muội ấy tỏ ý an ủi. “Sau khi trở thành vương phi, tâm tư của muội đã tinh tế hơn nhiều rồi, có điều không cần phải lo cho ta đâu.”

    Ngọc Nhiêu khẽ gật đầu. “May mà cô ta cũng coi như là bụng dạ thẳng thắn, không hề vòng vo tam quốc. Có điều cô ả Hứa Di Nhân kia hình như cũng có tâm kế, bằng không Hồ Uẩn Dung đã chẳng cần tới đây một chuyến như vậy rồi.” Dừng một chút Ngọc Nhiêu lại nói tiếp: “Việc của Hứa Di Nhân hôm nay, tỷ tỷ vốn chẳng cần đáp ứng với cô ta, cứ thoái thác rằng mọi việc đều do Hoàng thượng định đoạt là được mà.”

    Tôi khẽ nhấp một ngụm trà, nói: “Ở trong cung, người nào bụng dạ thẳng thắn thường phải chịu thiệt, nhưng riêng cô ta lại là ngoài lệ. Với thân phận của cô ta, càng nói thẳng Hoàng thượng lại càng dễ tiếp nhận, chẳng cần phải e ngại điều gì. Vừa rồi nếu ta không đồng ý, cô ta ắt sẽ dẫn Hứa Di Nhân đi gặp Hoàng thượng, tuy có chút không hợp quy củ nhưng với cô ta mà nói thì chẳng đáng kể gì. Vả chăng Hoàng thượng trước giờ chưa từng từ chối mỹ nhân, nhất định sẽ không để cô ta phải mất mặt đâu.”

    Ngọc Nhiêu đưa chân đá nhẹ chậu hoa đỗ quyên đang nở rộ dưới đất, trầm ngâm nói: “Cô ta vốn có thể tự dẫn Hứa Di Nhân đi gặp Hoàng thượng, tại sao còn phải nhờ tỷ tỷ giúp đỡ như thế? Bây giờ tỷ tỷ đã đồng ý giúp cô ta rồi, trong ngày tuyển tú, cô ả Hứa Di Nhân kia mười phần thì có tám, chín là sẽ được chọn vào cung và trở thành cánh tay đắc lực của cô ta.”

    “Hiện giờ Hoàng hậu tuy đang thất thế nhưng còn chưa đến mức thất bại hoàn toàn, cô ta tất nhiên không muốn làm ra những việc quá trớn để bị người khác dị nghị rồi. Vả lại nếu cô ta làm thế, Hứa Di Nhân sẽ bị chú ý quá mức, sau này dù đắc sủng cũng chưa chắc đã được dài lâu.” Tôi khẽ nhấp thêm ngụm trà nữa, chợt nở nụ cười tươi. “Huống chi, vừa rồi ta đã đồng ý điều gì với cô ta đâu nào?”

    Phía bên này chuyện của Hứa Di Nhân vừa mới nổi lên, phía bên kia Hoàng hậu đã bắt đầu tính việc chọn chính phi cho Hoàng trưởng tử rồi.

    Lúc này đang là dịp trăm hoa bắt đầu khoe sắc, mà Phượng Nghi cung ấm áp, thoáng đãng, hoa mẫu đơn nở sớm nhất và cũng đẹp nhất, những nơi khác tất nhiên không thể so sánh được. Đầu chiều hôm nay nắng xuân dịu nhẹ, ngay đến cặp uyên ương trên hồ nước trước điện cũng lộ vẻ uể oải, mơ màng, tôi nằm nghiêng trên chiếc giường tử đàn vỗ về ru Linh Tê ngủ, mắt nhìn chiếc rèm châu màu trắng mênh mang, bất giác cảm thấy có mấy phần mỏi mệt. Đang lúc đầu óc mông lung, Tiểu Doãn Tử chợt lặng lẽ đi vào đứng bên cạnh tôi. Thấy hắn suốt một hồi lâu chẳng nói năng gì, tôi cũng lười chẳng muốn mở mắt ra, chỉ bảo: “Có gì thì cứ nói đi!”

    Tiểu Doãn Tử cười gượng, nói: “Thực đã quấy rầy giấc ngủ của nương nương rồi. Hoàng hậu cho người tới mời nương nương qua bên đó ngắm hoa mẫu đơn.” Tôi còn chưa lên tiếng thì y đã nói tiếp: “Tiếng là ngắm hoa mẫu đơn chứ thực chất là chọn chính phi cho Hoàng trưởng tử đấy thôi, vả lại dù có chọn thế nào đi nữa thì đến cuối cùng vẫn khó có thể là ai khác ngoài bát tiểu thư của nhà họ Chu được.”

    Nhà họ Chu bắt đầu tính từ Thái hậu đến giờ đã có ba vị chủ nhân của hậu cung, tất nhiên không cam lòng để quyền lực rơi vào tay người ngoài. Chỉ đáng tiếc, sau tỷ muội Hoàng hậu, nhà họ Chu đã không còn nữ tử xuất chúng nào, thêm vào đó lại có mấy vị tiểu thư còn chưa xuất giá chết yểu, thành ra ngay đến bát tiểu thư lớn tuổi nhất trong nhà cũng chỉ mới mười bốn mà thôi. Nếu không vì Hoàng hậu đã không còn quyền lựa chọn trong ngày tuyển tú thì hôm nay đã chẳng cần phải hao tổn tâm tư thế này. Có điều nếu mọi việc được tiến hành ổn thỏa thì nàng ta với Huyền Lăng sẽ thân càng thêm thân, ngôi hoàng hậu cũng được vững chãi hơn phần nào.

    Tiểu Doãn Tử nói: “Nương nương không đi cũng được mà, có phải việc gì quan trọng đâu chứ. Bất kể Hoàng hậu vừa ý ai thì đến ngày tuyển tú Hoàng thượng cũng vẫn sẽ nghe theo ý của nương nương thôi.”

    Tôi chậm rãi đứng dậy, hờ hững nói: “Gọi Cận Tịch vào đây hầu hạ ta chải đầu, trang điểm đi.” Sau đó lại đưa mắt liếc hắn. “Hoàng hậu là chủ nhân của hậu cung, là người chí thân của Thái hậu. Nhớ kĩ, ăn nói phải cẩn thận.” Tiểu Doãn Tử vội cúi đầu, không dám nói gì thêm.

    Còn chưa bước vào Phượng Nghi cung, tôi đã nghe thấy tiếng nói cười rôm rả bên trong, vô cùng náo nhiệt, bèn cất tiếng hỏi: “Hoàng trưởng tử đã tới chưa?”

    Một gã tiểu thái giám giữ cửa đáp: “Bẩm Thục phi nương nương, Hoàng trưởng tử đã tới rồi.”

    Hoàng hậu đang ốm cần được yên tĩnh, quãng thời gian vừa qua Phượng Nghi cung vẫn luôn hết sức thanh tịnh, tình hình náo nhiệt thế này thực là hiếm có vô cùng. Chỉ thấy lúc này khắp nơi đều là những bóng nữ tử yểu điệu, thướt tha, tiếng nói cười nghe như oanh kêu yến hót, êm tai vô cùng. Giữa cảnh xuân tươi đẹp ấy, Hoàng trưởng tử lại chỉ ngồi cứng đờ bên cạnh Hoàng hậu, khuôn mặt đầy vẻ cung kính, vậy nhưng lại chẳng ngước mắt lên ngắm nhìn ai. Hoàng hậu mỉm cười, nhìn mười mấy mỹ nhân trước mặt, lại ngó qua Hoàng trưởng tử, không kìm được hơi cau mày, nhưng rất nhanh sau đó đã khôi phục vẻ thản nhiên. “Hoàng nhi đã tìm được nữ tử nào vừa ý chưa?”

    Hoàng trưởng tử ngẩng đầu nhìn quanh một chút, sau đó lại vội vã cúi đầu. “Mẫu hậu anh minh, có mẫu hậu làm chủ là được rồi.”

    Hoàng hậu đưa tay khẽ vuốt ve hình thêu giao long trên vạt áo Hoàng trưởng tử, ôn tồn nói: “Con cứ thoải mái lựa chọn đi, nếu nhìn trúng ai thì hãy tự đi cầu xin phụ hoàng. Bây giờ con lớn rồi, mẫu hậu chỉ có thể an bài giúp con một số việc thôi, không thể chuyện gì cũng làm chủ thay con được.”

    Hoàng trưởng tử lại càng cúi đầu thấp hơn, chợt ngoảnh mặt qua nhìn thấy tôi thì liền đứng bật dậy như được đại xá. “Thục mẫu phi vạn an!”

    Mọi người nghe thấy thế thì đều dừng nói cười, nhất loạt quỳ xuống sau lưng Hoàng trưởng tử, ai cũng lộ vẻ hoang mang. “Thục phi nương nương vạn phúc kim an!” Trong số đó có một người đứng mãi phía xa, không hề quỳ xuống hành đại lễ như những người khác, chỉ hơi nhún gối coi như chào hỏi. Tôi thấy thần sắc nàng ta đầy vẻ cao ngạo, ăn vận cũng quý phái hơn hẳn những người khác, trong lòng đã lờ mờ đoán được là ai, nhưng chỉ làm bộ như không nhìn thấy.

    Hoàng hậu cầm chén trà lên nhấp một ngụm, hờ hững nói: “Chỉ là gặp mặt bình thường mà thôi, không cần phải hành đại lễ như vậy.”

    Tôi ôn tồn nói: “Đều đứng dậy cả đi, hôm nay chúng ta chỉ là lần đầu gặp mặt, sau này khi tuyển tú ở Vân Ý điện, bản cung và các vị tiểu thư sẽ còn gặp lại nhau nữa.” Dứt lời lại mỉm cười, nhìn Hoàng trưởng tử. “Hoàng trưởng tử hình như lại cao hơn rồi.”

    Hoàng hậu hôm nay có lòng muốn chọn chính phi cho Hoàng trưởng tử, chỉ mời tôi và Đức phi tới gọi là cho có.

    Chẳng bao lâu sau, Đức phi cũng đã tới nơi, thừa dịp Hoàng hậu không nhìn thấy liền lén cười, nói: “Hôm nay cô ta kéo chúng ta tới đây như thế quả là một nước cờ hay, sau này có nói là Hoàng trưởng tử chọn trúng ai cũng tiện bề bảo rằng đó là do y tự mình lựa chọn, không phải hoàn toàn do cô ta quyết định, vả lại người được chọn ngay đến chúng ta cũng vừa lòng.”

    Tôi chỉ cười tủm tỉm, khẽ lắc đầu không nói gì.

    Lúc này một hậu hai phi đều đã an tọa, Hoàng hậu lại kêu mười mấy nữ tử kia hãy ngồi xuống luôn. “Mùa xuân năm nay, hoa mẫu đơn ở Phượng Nghi cung nở sớm, lại gặp đúng năm có dịp tuyển tú, thật là một điềm may. Hôm nay bản cung mời các vị tới đây, thứ nhất là để ngắm hoa, thứ hai là để mọi người thêm phần gần gũi.” Nói rồi lại nhìn tôi và Đức phi. “Các vị tiểu thư tới đây hôm nay không ai là không xuất thân từ gia đình công khanh quý tộc, hơn nữa còn thuộc hàng xuất sắc trong số các tú nữ lần này, người nào cũng có dung nhan xinh đẹp, thông hiểu thi thư, cử chỉ tao nhã. Hoàng thượng từng nói với bản cung, cuộc tuyển tú năm nay cốt yếu là để chọn chính phi cho Hoàng trưởng tử, mà Thục phi bây giờ đang đắc sủng nhất hậu cung, bản thân lại có hoàng tử, hãy cứ coi đây như một lần thử nghiệm đi, sau này còn tiện chọn chính phi cho tam điện hạ.”

    Ý tứ của nàng ta hết sức rõ ràng, lần tuyển tú này là chọn chính phi cho Hoàng trưởng tử trước rồi mới chọn cung tần vào cung, hơn nữa trong cung đã có phi tần đắc sủng như Thục phi rồi, những người mới vào tiền đồ ra sao quả thực rất khó nói, tất nhiên không thể so sánh với chính phi của Hoàng tử.

    Lời còn chưa dứt, các nữ tử đã đồng loạt đổ dồn ánh mắt về phía Hoàng trưởng tử, ai cũng lộ vẻ khát khao. Hoàng hậu khẽ nở nụ cười, làm bộ như không phát hiện, lần lượt giới thiệu từng người một, người nào được xướng tên đều thẹn thùng bước ra hành lễ, tranh thủ lúc ấy còn lén liếc mắt đưa tình với Hoàng trưởng tử. Khi nói tới người cuối cùng, giọng nói của Hoàng hậu lộ ra một tia trịnh trọng không dễ gì phát giác: “Đây là con gái út của Chu Hành Minh, lễ quan ở trường Thái Học, cũng là đường cữu cữu của con, xếp hàng thứ tám trong nhà, con nên gọi là “biểu muội”.”

    Tôi lạnh lùng đưa mắt nhìn qua, thấy đó chính là nữ tử thần sắc cao ngạo không chịu hành lễ vừa rồi, lúc này trông cũng vẫn lạnh lùng, hờ hững, quả thực rất giống với Hoàng hậu thường ngày. Có điều nhan sắc của nàng ta không thể tính là mười phần mỹ lệ, đã thế vì mặc bộ đồ lộng lẫy màu vàng nhạt trên người cộng thêm vẻ đoan trang, nền nã cố ý bày ra mà nét xinh xắn vốn có lại càng giảm bớt.

    Hoàng trưởng tử y lời xưng hô: “Biểu muội.”

    Nghe Dư Ly nói thế, nàng ta cũng chỉ hơi khom người. “Thần nữ nhũ danh là Thiến Uy.”

    Hoàng trưởng tử gật đầu tỏ ý đã biết, không nói gì thêm nữa. Chu Thiến Uy khẽ cắn môi, cũng ngoảnh đầu qua một bên, không nói gì. Đức phi đi đâu cũng dẫn theo Lung Nguyệt, lúc này Lung Nguyệt sớm đã buồn chán, nhìn thấy hình thêu bông hoa mẫu đơn trên váy của Chu Thiến Uy vô cùng tinh tế, không kìm được nổi lòng nghịch ngợm, liền đưa tay tới sờ thử rồi cười khúc khích, nói: “Bông hoa mẫu đơn này cũng đẹp như hoa trong cung của mẫu hậu vậy.”

    Chu Thiến Uy cười chẳng hé răng, đoan trang vô cùng. “Đa tạ Công chúa khen ngợi!” Sau đó làm bộ vô ý đưa tay khẽ phủi một cái vào chỗ mà Lung Nguyệt vừa sờ vào. Đức phi nhìn thấy thế thì hơi cau mày lại, cầm tay Lung Nguyệt cười, nói: “Mấy bông “Ngọc Bản Bạch” bên kia đang nở đẹp lắm, mẫu phi đưa con qua đó xem.”

    Tôi cũng thầm thấy không vui, Hoàng hậu thì tai thính mắt tinh, tất nhiên cũng phát hiện ra ngay, lập tức cười, nói: “Năm nay giống mẫu đơn Ngụy Tử trong cung của bản cung nở đẹp nhất đấy, mọi người cứ thoải mái ngắm hoa đi.”

    Mọi người nghe vậy liền tản đi, Hoàng trưởng tử trong bộ đồ màu xanh đứng trước một khóm hoa Diêu Hoàng trân quý nhất, những bông hoa vàng ươm rực rỡ đan xen, bông nào bông nấy đều to như đĩa ngọc, tỏa hương thoang thoảng, hệt như vầng mặt trời mới mọc phía đằng đông. Hoàng hậu hơi hất hàm một cái, Chu Thiến Uy liền bưng một đĩa hoa quả đi lên phía trước, nói: “Nghe nói điện hạ thích ăn mơ tẩm nước gừng nhất, thần nữ đặc biệt mang tới đây dâng lên điện hạ.”

    Giữa làn gió ấm nhẹ thổi làm lòng người đắm say, Hoàng trưởng tử với Chu Thiến Uy đứng kề vai bên những bông hoa vàng tươi bắt mắt, thật chẳng khác gì một đôi người ngọc.

    Hoàng trưởng tử đưa tay nhón lấy một quả mơ, mỉm cười, nói: “Cũng không hẳn là thích, chỉ là mẫu hậu nói quả mơ có thể giải khát, gừng thì làm ấm dạ dày, do đó mới chế thành mứt và bảo ta ăn nhiều một chút.”

    Chu Thiến Uy nghiêm túc nói: “Hoàng hậu cũng chỉ suy nghĩ cho sức khỏe của điện hạ thôi, điện hạ nên nghe lời Hoàng hậu.” Nói rồi lại đưa tới cho y một quả nữa.

    Hoàng trưởng tử chẳng nói đúng sai, chỉ nhìn theo bóng Lung Nguyệt đang chơi đùa vui vẻ phía xa, nói: “Biểu muội hình như không thích trẻ con lắm thì phải.”

    Chu Thiến Uy bất giác hơi cau mày lại. “Trẻ con thường nghịch ngợm và không hiểu chuyện, người lớn chúng ta không cần tính toán làm gì, cũng không cần để tâm tới chúng. Bộ đồ này thần thiếp đặc biệt mặc tới đây để gặp điện hạ, nhỡ bị làm nhàu mất thì phải làm sao?”

    Hoàng trưởng tử nghe vậy liền khẽ nở nụ cười, đón lấy quả mơ trong tay Chu Thiến Uy rồi gọi Lung Nguyệt lại: “Oản Oản lại đây.” Sau đó y kéo Lung Nguyệt vào lòng, âu yếm nói: “Muội vốn thích ăn mơ tẩm nước gừng, cả đĩa này cho muội hết đấy.”

    Lung Nguyệt cười tươi vui vẻ, nắm tay Hoàng trưởng tử, nói: “Lung Nguyệt biết là đại hoàng huynh thương Lung Nguyệt nhất mà.”

    Sắc mặt Chu Thiến Uy lúc trắng lúc đỏ, chỉ biết ngoảnh mặt qua một bên không nói gì thêm.

    Tôi mỉm cười, nói với Hoàng hậu: “Chắc tại chúng ta ở đây nên bọn trẻ mới không được tự nhiên cho lắm.”

    Hoàng hậu khẽ gật đầu. “Bên ngoài nổi gió rồi, Thục phi hãy vào trong thay xiêm y với bản cung đi.”

    Tôi đang định đồng ý thì Lung Nguyệt chợt chạy tới, nắm lấy tay tôi, chu môi lên nói: “Mẫu phi biến mất rồi, Thục mẫu phi đi tìm với con đi.” Tôi ngó quanh bốn phía, quả nhiên không thấy bóng dáng Đức phi đâu. Hoàng hậu cũng không muốn làm khó, bèn nói: “Mau đi đi!”

    Chúng tôi mới đi quanh một vòng thì đã thấy Đức phi từ bên ngoài nghi môn đi vào, tôi bèn hỏi: “Sao tỷ ra ngoài mà không nói tiếng nào thế? May mà Hoàng hậu không trách tội.”

    Đức phi cười “khì” một tiếng, nói: “Bây giờ cô ta chỉ một lòng nghĩ tới sự vinh hoa phú quý của nhà họ Chu thôi, đâu còn thời gian mà để tâm tới chúng ta.” Sau đó lại khẽ cười. “Phượng Nghi cung này ngột ngạt quá, lại không có việc gì của chúng ta, chi bằng hãy qua Thượng Lâm uyển đi dạo một chút, hoa mẫu đơn bên đó nở cũng đẹp lắm.” Liếc thấy Hoàng trưởng tử và Chu Thiến Uy lẳng lặng đứng cạnh nhau, đám nữ tử bên cạnh người thì rủ y đi ngắm hoa, người thì ra rả trò chuyện, Đức phi không kìm được nói: “Hoàng trưởng tử có vẻ mất tự nhiên quá kìa. Oản Oản, con đi rủ đại hoàng huynh của con tới Trầm Hương đình ngắm hoa đi, cứ nói là hoa mẫu đơn bên đó nở cũng đẹp lắm.”

    Lung Nguyệt khẽ gật đầu. “Con cũng thấy đại hoàng huynh có vẻ đang đau đầu lắm, đâu còn tâm trạng mà ngắm hoa.” Dứt lời liền vui vẻ chạy đi.

    Tôi nhìn những nữ tử đang vây quanh Hoàng trưởng tử ở phía xa, ai cũng như muốn phô bày hết sự xinh đẹp của mình, trong lòng thầm nhủ cuộc sống nơi hoàng tộc xa hoa phú quý biết bao nhiêu, chẳng trách lại khiến người ta tâm thần mê đắm.

    Tuy nói là tới Thượng Lâm uyển nhưng những cánh hoa đào màu hồng trôi trên hồ Thái Dịch cùng hàng liễu nửa xanh nửa vàng ở đó lại chẳng thể khiến Đức phi nổi hứng ngắm nhìn. Tôi biết nàng ta không phải là người lỗ mãng nên cũng không hỏi nhiều, chỉ lẳng lặng đi theo tới Trầm Hương đình. Còn chưa tới gần, tôi đã nghe có tiếng nhạc du dương vọng lại, có lẽ có người gõ phách sai nhịp nên tiếng nhạc liền dừng lại một chút, sau đó thì tiếp tục vang lên lần nữa. Tôi đi về hướng phát ra âm thanh, thấy bên cạnh Trầm Hương đình có một nữ tử vận áo màu đỏ đang say sưa nhảy múa theo tiếng nhạc. Nàng ta xoay liền một mạch mười mấy vòng rồi dừng lại, dường như có vẻ rất khổ não, quay sang nói với nhạc sư: “Ta vẫn không thể nào xoay đủ mười sáu vòng. Lại nào! Lại nào!”

    Nhạc sư ôn tồn khuyên nhủ: “Hứa tiểu thư đã tập suốt cả buổi trưa rồi, nên nghỉ ngơi một chút đi thôi.”
    Nữ tử đó lộ vẻ giận dỗi. “Không xoay đủ mười sáu vòng thì ta không nghỉ đâu.”

    Mấy vị nhạc sư nhìn nhau cười gượng, đành tiếp tục tấu nhạc. Tôi khẽ mỉm cười một tiếng, khẽ gọi: “Di Nhân muội muội.” Nàng ta xoay người lại, nhìn thấy tôi thì bất giác lộ vẻ ngạc nhiên và ngượng ngập, vội vàng chạy tới khom người hành lễ. “Thần nữ đang luyện tập chút ngón nghề vặt vãnh ở đây, đã khiến nương nương chê cười rồi.”

    Chắc hẳn nàng ta luyện tập khá vất vả, khuôn mặt đỏ bừng, miệng thở hổn hển, trên trán rỉ ra những giọt mồ hôi lấm tấm. Tôi cười, nói: “Nếu muội muốn học Hồ Toàn vũ, tại sao lại không tới tìm ta?”

    Mặt nàng ta lại càng đỏ hơn, cúi đầu, nói: “Thần nữ sợ quấy rầy nương nương.”

    Tôi bỏ chiếc khăn choàng thêu hình hoa quỳnh bằng chỉ vàng trên tay xuống giao cho Đức phi, nhìn Hứa Di Nhân, nói: “Muốn làm được động tác vừa rồi, muội cần giơ ngang hai tay, cánh tay nhất định phải thẳng, nhưng nhớ đừng dùng sức quá, phải làm sao cho mình trông như mềm mại như không xương; bàn chân thì kiễng lên thật cao, đồng thời hít sâu một hơi, khi xoay đủ mười sáu vòng thì một hơi ấy vừa khéo thở ra hết, hơi thở nhớ phải thật đều, vậy thì trông mới đẹp và hoàn chỉnh.” Dứt lời tôi liền làm mẫu một lần cho nàng ta xem.

    Hứa Di Nhân hết sức thông minh, chỉ sau mấy lần là đã học được. Nàng ta vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, khẩn khoản cất tiếng van nài: “Xin nương nương hãy thu thần nữ làm đệ tử đi. Có nương nương dạy bảo, thần nữ sẽ không phải vất vả thế này nữa.”

    Tôi vội nói: “Di Nhân muội muội là thiên kim của Tùy Quốc công, sao có thể làm đệ tử học múa của bản cung được, điều này muôn vạn lần không thể.”

    Thần sắc Hứa Di Nhân ảm đạm hẳn đi, tựa như vô cùng ấm ức. Đức phi thấy vậy liền khẽ cười, trách tôi: “Chuyện này thì có gì ghê gớm đâu. Muội là bậc quốc thủ trong nghề múa, Di Nhân muội muội lại thành tâm muốn học, nhận người ta làm đệ tử vừa hay có thể làm nên một phen giai thoại ấy chứ!”

    Hứa Di Nhân lộ rõ vẻ mừng vui. “Thục phi nương nương hãy chỉ dạy cho thần nữ đi mà!”

    Tôi cười tủm tỉm, nói: “Muội muội có Trang Mẫn Phu nhân giúp đỡ, việc vào cung hẳn là không thành vấn đề, học múa xong rồi cũng tiện lấy lòng Hoàng thượng.”

    Hứa Di Nhân vội cúi đầu. “Thần nữ không dám nghĩ như vậy.”

    Tôi nắm bàn tay nàng ta, cất giọng chân thành: “Muội bây giờ là đệ tử của ta, ta tất nhiên sẽ dốc lòng chỉ dạy để muội không phải vất vả vô ích. Có điều nếu muội không học Hồ Toàn vũ cũng chẳng sao, đã hơn nửa năm nay Hoàng thượng không thích xem điệu vũ này nữa rồi, mỗi lần xem đều nói là bị hoa mắt.”

    Hứa Di Nhân kinh hãi bật thốt: “Trước đây không phải là Hoàng thượng rất thích Hồ Toàn vũ ư?”

    “Đó là trước đây. Ta không ngại nói thực cho muội biết, từ khi An thị dùng ngũ thạch tán hãm hại, thân thể Hoàng thượng đã kém hẳn trước kia rồi. Tuy ngài vẫn thường xuyên mở tiệc đêm và cho ca múa tưng bừng nhưng đã chẳng mấy khi tập trung xem nữa. Anh Tần vốn giỏi Hồ Toàn vũ nhất, nhưng bây giờ cũng chẳng mấy khi múa nữa rồi, bắt đầu đổi qua tập Trúc Tri vũ. Kỳ thực bây giờ Hoàng thượng thỉnh thoảng có rảnh thì cũng thích giết thời gian ở chỗ mấy phi tần trẻ tuổi, ít khi xem người khác múa lắm.”

    Hứa Di Nhân lộ vẻ vừa thảng thốt vừa nghi hoặc, Đức phi cười, nói: “Hoàng thượng hay tới chỗ Thục phi nhất, Thục phi tất nhiên hiểu rất rõ sở thích của Hoàng thượng. Không tin muội cứ hỏi các vị nhạc sư bên cạnh thì biết, Thục phi vốn giỏi múa Kinh Hồng vũ nhất nhưng cũng lâu lắm không múa rồi đấy.”

    Thấy mấy vị nhạc sư nhao nhao gật đầu, Hứa Di Nhân dần lộ vẻ ủ dột. Đức phi cười, nói với tôi: “Có điều nói gì đi chăng nữa thì tình mới cũng không thể bằng tình cũ được. Muội bây giờ tuy không múa nữa nhưng Hoàng thượng vẫn thương yêu muội vô cùng, còn mấy người Anh Tần, Hủ Tần, Vinh Tần dù có giỏi hát giỏi múa đến mấy thì rốt cuộc vẫn chỉ được ở ngôi tần thôi. Hoàng thượng chẳng qua là nhất thời ham thích sự mới mẻ, đợi cơn ham mê qua rồi, lại có các cung tần mới vào cung, cuộc sống của mấy người bọn họ ắt sẽ chẳng khác ở trong lãnh cung là mấy.”

    Tôi vội đưa mắt liếc Đức phi một cái, cười, nói: “Đức phi tỷ tỷ chỉ nói đùa đấy thôi, muội muội đừng để vào lòng. Huống chi chuyện như vậy tuy năm nào cũng xảy ra trong cung nhưng ắt sẽ không rơi vào người một vị tiểu thư quý tộc như muội đâu.”

    Hứa Di Nhân chậm rãi ngồi xuống hàng lan can gần đó, một nét sầu khổ dần lộ ra bên khóe môi, lại chăm chú nhìn vào một bụi mẫu đơn bên cạnh Trầm Hương đình mà trầm tư suy nghĩ.

    Đức phi tự biết là đã lỡ lời, vội vàng kéo tay tôi, nói: “Ra ngoài đã lâu quá rồi, Hoàng hậu nhất định là đang tìm chúng ta đấy. Ta cũng muốn quay lại Phượng Nghi cung xem xem hôm nay Hoàng trưởng tử nhìn trúng vị thiên kim tiểu thư của nhà nào.”

    Tôi đón lấy chiếc khăn choàng từ tay Đức phi khoác lên người như cũ, lắc đầu, nói: “Kỳ thực cũng có gì đâu, đám thiên kim tiểu thư đó đều tự thị thân phận cao quý, kiêu ngạo vô cùng, mà Hoàng trưởng tử lại thích những người dịu dàng, hiền thục, chỉ e chẳng vừa mắt ai đâu.”

    Tôi và Đức phi vừa đi vừa nói, chẳng mấy chốc đã đi xa. Chừng một tuần hương sau, tôi và Đức phi quay ngược trở về theo đường cũ, khi còn cách Trầm Hương đình một đoạn khá xa thì dừng chân lại. Lúc này, những vị nhạc sư kia đều đã tản đi không còn bóng dáng, trước đình, mấy khóm mẫu đơn vẫn khoe sắc vui tươi, lại càng làm tôn lên vẻ diễm lệ của Hứa Di Nhân trong bộ váy áo màu đỏ.

    Đứng phía sau một bụi cây um tùm, Đức phi nhìn về phía xa, đột nhiên nở nụ cười tươi. “Lung Nguyệt đúng là một đứa bé ngoan.”

    Chỉ thấy dưới làn nắng mùa xuân ấm áp, hai bóng người một lớn một nhỏ chậm rãi đi về phía Trầm Hương đình, cuối cùng dừng chân trước một khóm mẫu đơn.

    Lung Nguyệt cất giọng tò mò: “Sao màu sắc của mấy bông hoa này không giống hồi sáng lúc mẫu phi dẫn muội tới nhỉ?” Dư Ly nhất thời không thể trả lời, bất giác có chút lúng túng. Hứa Di Nhân đi tới, nắm lấy bàn tay Lung Nguyệt, dịu dàng nói: “Giống hoa này tên gọi Mỹ Nhân Diện[29], buổi sáng thì đỏ sậm, buổi chiều hóa xanh biếc, đến chiều tối sẽ chuyển vàng, đêm về hóa thành màu trắng, mùi hương cũng mỗi lúc một khác, giống hệt như khuôn mặt của một mỹ nhân vậy, trong một ngày cũng biến đổi không ngừng, lúc thì vui vẻ, lúc lại hờn giận.”

    [29] Có nghĩa là khuôn mặt mỹ nhân.

    Lung Nguyệt biết là Hứa Di Nhân thích mình, liền đưa tay chỉ vào mặt nàng ta mà cười, nói: “Đây chính là khuôn mặt của một mỹ nhân chứ còn gì nữa.” Hứa Di Nhân thẹn đến đỏ bừng mặt, Lung Nguyệt lại càng không chịu buông tha. “Đại hoàng huynh nói xem có đúng thế không?”

    Dư Ly khẽ mỉm cười, cất tiếng ngâm: “Hoa trời sắc nước thảy đều vui.”

    Bên Trầm Hương đình, những bông mẫu đơn, thược dược đua nhau khoe sắc, xiêm y phớt qua đều lưu lại hương thơm. Tôi với Đức phi dù đứng ở mãi xa cũng vẫn có thể ngửi thấy đôi làn hương ngọt ngào, thanh tân bay lại.

    Giữa thảm cỏ xanh biếc, một cây thoa cài đầu đính trân châu nằm lọt thỏm bên trên, hẳn là do Hứa Di Nhân đánh rơi hồi nãy khi tập múa. Dư Ly khom người nhặt nó lên, hỏi: “Có phải của nàng không vậy?”

    Hứa Di Nhân thẹn thùng gật đầu, đưa tay đón lấy. Dư Ly nói: “Cây thoa này có thể coi là trân quý, tiếc rằng kiểu dáng lại khá cũ rồi. Ai đã tặng nó cho nàng vậy?”

    “Là Trang Mẫn Phu nhân.” Hứa Di Nhân lại càng đỏ mặt, rụt rè đáp. “Thần nữ vốn xấu xí, thô kệch, cài cái gì cũng vậy cả thôi.”

    Dư Ly tiện tay hái lấy một bông Mỹ Nhân Diện cài lên búi tóc cho nàng ta. “Người trong cung sẽ chẳng đặt cho hoa mẫu đơn một cái tên tao nhã như Mỹ Nhân Diện đâu, nhưng vì nàng, ta sẽ nhớ giống hoa này tên gọi là Mỹ Nhân Diện.” Sau đó lại dịu giọng hỏi: “Nàng tên gì vậy?”

    Hứa Di Nhân ngẩng đầu lên, e thẹn đáp: “Dạ bẩm điện hạ, thần nữ là Hứa Di Nhân, tú nữ trong dịp tuyển tú năm nay.”

    Từ phía đằng xa nhìn thấy cảnh này, tôi hơi nhếch khóe môi, quay sang nói với Đức phi cũng vừa hé nở nụ cười. “Hứa Di Nhân đúng là không tệ chút nào.”

    Mấy hôm nay trời đổ mưa rả rích, trong không khí ngợp đầy mùi hương thanh tân của hoa cỏ mùa xuân. Tôi tới Nghi Nguyên điện đưa canh hoa đào câu kỷ cho Huyền Lăng rồi quay trở về, trên đường bỗng ngửi thấy một làn hương thơm ngào ngạt bay tới, không kìm được nhắm mắt lại đắm mình vào trong đó, chợt nghe có một tiếng gọi khe khẽ vang lên: “Thục mẫu phi.”

    Tôi mở mắt ra nhìn, thấy người vừa cất tiếng là Dư Ly lúc này đang cầm ô đứng một mình bên cạnh Trầm Hương đình.

    Tôi ôn tồn cười, nói: “Điện hạ ngắm cảnh trong mưa thế này quả là có nhã hứng.”

    Y lộ vẻ trù trừ, dường như có điều gì muốn nói nhưng một lát sau lại chỉ hỏi: “Mẫu phi vừa từ chỗ phụ hoàng về đúng không? Chẳng hay phụ hoàng hôm nay tâm trạng thế nào?” “Trời mưa vốn đã dễ làm lòng người phiền muộn, huống chi bây giờ tấu sớ đang chất cao như núi.”

    Y gượng cười một tiếng, lo lắng nói: “Có mẫu phi giúp đỡ xem tấu chương, chắc phụ hoàng sẽ không phiền não đâu.”

    Tôi thấy y có vẻ muốn nói mà lại thôi, không kìm được nhớ đến những lời của Huyền Lăng vừa rồi: “Mấy ngày nay đứa bé Dư Ly đó rất ân cần tới thỉnh an, hình như có lời gì đó muốn nói với trẫm nhưng lại không dám nói thì phải.”

    Khi đó tôi lập tức cười, nói: “Con trẻ đến tỏ lòng hiếu thảo mà Hoàng thượng còn nghi ngờ nữa. Hoàng trưởng tử vốn là người chí hiếu mà.”

    Huyền Lăng bật cười. “Điều này thì trẫm tin, có điều trẫm thực sự chẳng thể ưa được cái bộ dạng nhu nhược, thiếu quyết đoán của nó.”

    Tôi ngẩng đầu nhìn thấy Dư Ly đang hơi cau mày, thầm nghĩ tính tình vừa ôn hòa vừa có chút nhu nhược đó kỳ thực rất giống với mẫu phi của y. Tôi đang định cất tiếng thì chợt liếc thấy trên chiếc ô giấy dầu của y có bức hình một bông hoa hồng ngậm sương được vẽ theo lối chấm phá, trông hết sức uyển chuyển, động lòng người. Tỉ mỉ nhìn kĩ, những nét vẽ đó có phần hơi mỏng manh, mềm yếu, hoàn toàn không phải là thủ pháp của họa sư trong cung.

    Tôi thầm máy động trong lòng, lập tức dịu dàng nói: “Hoàng thượng gần đây thường khen điện hạ hiếu thảo, hay tới thỉnh an, lại nói là điện hạ sắp thành gia lập thất nên cũng hiểu chuyện hơn nhiều rồi.”

    Dư Ly dãn hẳn đôi mày. “Phụ hoàng thực hiếm có khi nào khen nhi thần như thế.” Hơi dừng một chút, y thử cất tiếng thăm dò: “Nhi thần không hiểu lắm về chuyện tuyển tú, muốn thỉnh giáo Thục mẫu phi một chút.”

    “Điện hạ cứ việc nói đi!”

    “Hôm tuyển tú đó, hôm tuyển tú đó... có phải nhi thần muốn chọn vị tú nữ nào thì chọn không?”

    “Tất nhiên không phải thế rồi.” Tôi mỉm cười, nhìn y. “Cho dù điện hạ sinh ra trong gia đình đế vương thì việc hôn nhân cũng vẫn phải nghe theo lời cha mẹ, do đó người làm chủ tất nhiên là Hoàng thượng và Hoàng hậu rồi.”

    Ánh mắt lộ rõ vẻ ảm đạm, Dư Ly thấp giọng hỏi: “Nếu mẫu hậu không vừa ý với người mà nhi thần chọn thì sao?”

    “Thiên tử nhất ngôn cửu đỉnh.” Tôi nhìn y, cất giọng ôn tồn. “Điện hạ hình như đã có ý trung nhân rồi thì phải.” Thấy y hoang mang lắc đầu, tôi cố ý nói: “Có phải là bát tiểu thư nhà họ Chu không vậy? Được như thế sẽ thân càng thêm thân, Hoàng hậu nhất định sẽ rất vui lòng tác thành.”

    Dư Ly nhíu chặt đôi mày, nói: “Thục mẫu phi xưa nay vẫn rất hiểu lòng người, đừng trêu nhi thần như thế nữa mà.” Suy nghĩ một chút, y nói tiếp: “Phụ hoàng là thiên tử, lần tuyển tú này cốt yếu vẫn là chọn cung tần cho phụ hoàng.”

    Tôi thầm cảm thấy tức cười, đưa mắt nhìn những gốc đào nở hoa rực rỡ trước mắt. “Mục đích chính của lần tuyển tú này là chọn phi cho điện hạ, còn về cung tần thì cần chờ điện hạ tìm được người vừa ý trước đã. Vậy nên hôm đó điện hạ sẽ rất bận rộn, vừa phải phóng mắt lựa chọn lại vừa phải để ý xem ý tứ của Hoàng thượng và Hoàng hậu thế nào, sau đó mới quyết định xem nên giao ngọc như ý cho ai.”

    Dư Ly rụt rè nói: “Nhi thần tự biết mình xuẩn ngốc, nhất định sẽ được cái này thì mất cái kia, lỡ như phụ hoàng không vừa ý...” Trong mắt y dần lộ ra những tia nôn nóng, dường như đang hết sức bất an.

    “Chọn phi là chuyện cả đời, tuy con cháu quý tộc có thể thê thiếp thành đàn, nhưng muốn tìm được một người vừa ý để có thể chung sống tới lúc đầu bạc răng long cũng không phải là việc dễ. Kỳ thực Hoàng thượng cũng từng nói với bản cung rồi, việc chọn phi xét cho cùng vẫn phải xem ý của bản thân điện hạ, bằng không dù Hoàng thượng có vừa ý thế nào đi nữa thì hai phu thê điện hạ cũng khó lòng hòa hợp. Hoàng thượng cũng biết là Hoàng hậu thương điện hạ, lo rằng quan tâm tắc loạn, do đó đã bảo Hoàng hậu chớ quan tâm tới việc này nhiều quá, vì thế Hoàng hậu mới an bài cho điện hạ gặp các vị tiểu thư khuê tú kia trước. Hoàng hậu kỳ thực sớm đã chỉ đường cho điện hạ ra khỏi bến mê rồi... “Nếu nhìn trúng ai thì hãy tự đi cầu xin phụ hoàng, bây giờ con lớn rồi, mẫu hậu chỉ có thể an bài giúp con một số việc thôi, không thể chuyện gì cũng làm chủ thay con được”. Vậy thì nếu điện hạ đã có chủ ý riêng của mình, tại sao không lén đi nói với Hoàng thượng luôn? Như thế còn có thể tỏ lòng hiếu thảo của điện hạ với Hoàng thượng nữa.”

    Dư Ly càng nghe, thần sắc lại càng buông lỏng, đến cuối cùng đôi hàng lông mày dãn hẳn ra, cười tươi, nói: “Đa tạ Thục mẫu phi chỉ dạy!”

    “Bản cung nào có chỉ dạy gì đâu, chẳng qua chỉ nhắc lại lời của Hoàng hậu nương nương mà thôi. Nhưng ta cũng phải nhắc nhở điện hạ một câu này, nếu thật sự đã có ý trung nhân thì cứ lén đi hỏi ý của Hoàng thượng là được, chứ nhỡ để tin tức truyền ra ngoài thì thứ nhất là người ta sẽ nói điện hạ không biết tự trọng, thứ hai là dù việc có thành công hay không cũng sẽ sinh ra những lời ong tiếng ve, thực không có lợi cho điện hạ chút nào.”

    Dư Ly khom người vái một cái thật sâu. “Dù kết quả thế nào, thần nhi cũng đều vô cùng cảm tạ ơn chiếu cố của mẫu phi, quyết không dám quên.”

    Tôi lại nói bằng giọng càng hòa nhã hơn: “Chúng ta là người một nhà, nói những lời xa lạ ấy ra làm gì! Bản cung đi trước một bước đây, chúc điện hạ phen này mã đáo thành công, ý nguyện đạt thành.”

    Đến đêm hôm ấy, tôi ngồi trong nội điện nhìn Lung Nguyệt chơi đùa với cây đàn tỳ bà tên gọi Thiêu Tào. Đó vốn là vật yêu thích của Dương Thục phi triều trước, khi thu dọn nhà kho thì bất ngờ lộ ra, điều đặc biệt là âm sắc vẫn còn như mới, du dương, uyển chuyển. Lung Nguyệt tính tình vốn bay bổng, vừa nhìn thấy đã vô cùng yêu thích, Thái hậu liền ban cho con bé, tạm thời để tại chỗ tôi để chỉnh lại dây đàn. Thế là từ đó, Lung Nguyệt gần như đêm nào cũng tới chỗ tôi chơi, bám riết lấy cây đàn.

    Bên ngoài ô cửa sổ được treo rèm trúc, trời đổ mưa phùn, vô số hạt mưa rơi xuống mấy tàu lá chuối giữa vườn làm phát ra những âm thanh tí tách hết sức trong trẻo, vui tai.

    Lung Nguyệt vốn rất thích nghe tiếng mưa rơi, vậy nhưng lúc này lại tập trung toàn bộ tinh thần vào việc gảy tỳ bà, ấy là một khúc nhạc mà nhạc sư Tạ Kim Nương vừa dạy cho con bé, âm luật đơn giản nhưng nghe vào giữa đêm mưa này lại thấp thoáng lộ ra mấy tia ai oán. Tôi bất giác cười, nói: “Muôn thuở tỳ bà lưu điệu rợ, khúc đàn ai oán mạch sầu tuôn[30]. Lung Nguyệt bây giờ đã lĩnh ngộ được sự u oán ẩn trong tỳ bà rồi đấy.”

    Lời này vừa ra khỏi miệng tôi đã loáng thoáng cảm thấy có chút không lành. Lung Nguyệt giờ đang học thi thư của Vương An Thạch, tất nhiên có biết điển cố về Vương Chiêu Quân, bèn nghiêng đầu qua nở một nụ cười ngọt ngào. “Đời người vui ở hiểu lòng nhau[31], quả thực chẳng cần Công chúa ôm đàn nhiều u oán[32] làm gì.”

    [30] Trích Vịnh hoài cổ tích kỳ 4, Đỗ Phủ. Dịch thơ Chi Điền. Nguyên văn Hán Việt: Thiên tải tỳ bà tác hồ ngữ, phân minh oán hận khúc trung luận - ND.

    [31] Trích Minh Phi khúc kỳ 2, Vương An Thạch. Nguyên văn Hán Việt: Nhân sinh lạc tại tương tri tâm - ND.

    [32] Trích Cổ tòng quân hành, Lý Kỳ. Nguyên văn Hán Việt: Công chúa tỳ bà u oán đa - ND.

    Tôi không ngờ Lung Nguyệt lại nghĩ như vậy, liền mỉm cười, đút một miếng mứt hoa quả vào miệng cô bé. Đêm dần về khuya, Hoa Nghi bèn đi thắp thêm mấy ngọn đèn, lại khều bấc đèn một chút làm mấy tia lửa nhỏ bắn ra tung tóe. Chợt có một giọng nói vang lên: “Bấc đèn vụt nổ tưng bừng, phải chăng là có tin mừng gì ư?”

    Tôi ngoảnh đầu lại thấy là Huyền Lăng, bèn nở một nụ cười ngọt ngào, nói: “Hoàng thượng sắp có thêm giai lệ, lại sắp có con dâu, lẽ nào còn không tính là việc mừng ư?”

    Huyền Lăng cười “phì” một tiếng. “Lần tuyển tú này chủ yếu là để chọn phi cho Dư Ly, còn cung tần thì chẳng qua là chọn thêm cho có mà thôi. Vả lại xét kĩ ra thì con dâu của trẫm cũng là con dâu của nàng mà.”

    Tôi hơi trề môi, khẽ cười, nói: “Thần thiếp đâu xứng nhận Tề Vương gia làm con dâu chứ. Người ta chỉ là con dâu của Hoàng thượng và Hoàng hậu thôi.”

    Huyền Lăng đưa tay khẽ cào mũi tôi một cái, cười vang vui vẻ. “Lại nổi tính ghen tuông trẻ con rồi đấy, Lung Nguyệt còn đang ở đây kìa.”

    Lung Nguyệt bật cười khúc khích một tiếng, quay sang làm mặt quỷ, sau đó lại tiếp tục chơi đùa với cây đàn tỳ bà của mình.

    Y khẽ đẩy tôi một cái. “Thấy trẫm đến mà không cho trẫm ngồi xuống, nàng đúng là ngày càng ghê gớm hơn rồi đấy!” Tôi không kìm được khẽ phỉ phui một tiếng, hơi nhích người để y ngồi xuống cạnh mình. Huyền Lăng nói tiếp: “Nhân tiện nói tới việc con dâu, trẫm có việc này muốn nghe ý kiến của nàng.”

    Tôi tiện tay cầm một quả quýt lên bóc vỏ, ngoài miệng thì vẫn không quên làm bộ giận dỗi với y: “Thần thiếp thì có thể đưa ra ý kiến gì được, chẳng qua nghe thì cứ nghe thôi.” Huyền Lăng lấy chiếc lược ngọc tôi dùng để cố định mái tóc xuống, lướt nhẹ bàn tay trên mái tóc óng mượt của tôi, cất giọng đầy tâm sự: “Chiều nay khi tới thỉnh an trẫm, Dư Ly có nói là nhìn trúng một tú nữ tên gọi Hứa Di Nhân, muốn nạp cô ta làm phi. Trẫm nghe ngóng một chút thì được biết đó là người mà Uẩn Dung tiến cử, thỉnh thoảng lại tới cung của nàng ấy chơi.”

    Tôi hơi ngẩn ra một chút, ngoảnh đầu lại nhìn Huyền Lăng. “Thần thiếp có biết tú nữ đó, cô ấy là con gái nuôi của Tùy Quốc công, tính tình thì đoan trang, nết na vô cùng. Có điều...” Tôi đưa mắt liếc y một chút. “Uẩn Dung muội muội từng nói với thần thiếp là muốn thần thiếp giữ cô ấy lại để hầu hạ Hoàng thượng.”

    Y khẽ “ồ” lên một tiếng, hờ hững nói: “Uẩn Dung quả là có lòng.” Sau đó thoáng lộ vẻ tức giận. “Đó đã là người mà Uẩn Dung chuẩn bị cho trẫm, tại sao Dư Ly lại nhìn trúng như vậy? Lẽ nào đứa bé ấy không biết tốt xấu đến thế ư?”

    Tôi đưa một múi quýt cho y, khẽ nói: “Chuyện này Uẩn Dung chỉ từng nói với thần thiếp, e là ngay đến Hoàng thượng cũng chưa hay, Hoàng trưởng tử làm sao mà biết được. Việc này có lẽ chỉ là trùng hợp thôi.” Tôi mím môi cười, nói: “Hoàng trưởng tử chịu vì một nữ tử mà tới gặp Hoàng thượng nói ra những lời đó, xem ra Hứa Di Nhân quả là có chỗ động lòng người.”

    Huyền Lăng trầm ngâm nói: “Cũng phải, đứa bé đó mỗi lần gặp trẫm đều nhút nhát vô cùng, lần này dám nói ra những lời như vậy quả là hiếm có.”

    Tôi khẽ gật đầu. “Hoàng thượng bấy lâu nay vẫn thường nói là Hoàng trưởng tử tính tình nhu nhược, nhưng cứ nhìn việc đó mà xét thì y cũng có khí phách nam nhi đấy chứ, không kém cỏi tới mức như Hoàng thượng nghĩ đâu.”

    Huyền Lăng mỉm cười, nói: “Như vậy xem ra nữ tử tên gọi Hứa Di Nhân kia thật sự không tệ. Nếu cô ta có thể khiến Dư Ly thay đổi thì trẫm cũng được yên tâm hơn phần nào.”

    Tôi chợt thu lại nụ cười, do dự nói: “Hứa tiểu thư vốn được Uẩn Dung chuẩn bị cho Hoàng thượng, nếu muội ấy mà biết việc này thì sợ sẽ không vui. Vả lại mấy hôm trước, Hoàng hậu còn an bài cho Hoàng trưởng tử gặp mười mấy tú nữ xuất chúng, trong số đó có cả Chu Thiến Uy, cháu gái gọi Hoàng hậu bằng cô nữa.”

    Huyền Lăng khẽ “hừ” một tiếng vẻ rất không vui. “Gặp mặt chẳng qua chỉ là cái cớ, xét cho cùng đều là vì Chu Thiến Uy kia đấy thôi. Trẫm đã không cho phép Hoàng hậu tham dự vào việc tuyển tú này rồi, không ngờ nàng ta vẫn còn hao tổn tâm tư như vậy.”

    Tôi ôn tồn khuyên nhủ: “Dù sao Hoàng trưởng tử cũng là do Hoàng hậu một tay nuôi nấng, hai người mẹ con tình sâu mà.”

    “Trẫm cũng hy vọng thật sự là mẹ con tình sâu. Hoàng hậu từng có lần kể với trẫm, Chu Thiến Uy dung mạo tuy không xuất chúng nhưng tính tình thì hết sức dịu dàng, hòa nhã.”

    Lung Nguyệt nghe thế liền ngoảnh đầu qua, khuôn mặt thoáng lộ vẻ giận dữ, hậm hực nói: “Mẫu hậu nói không đúng! Vị Chu bát tiểu thư đó không thích nhi thần. Nhi thần thích bông hoa mẫu đơn trên váy của cô ta nên đưa tay sờ một chút, thế là cô ta liền chê tay nhi thần bẩn, vội vàng phủi lấy phủi để.” Con bé bỏ cây đàn tỳ bà trong lòng xuống, chạy tới trèo lên người Huyền Lăng. “Nhi thần không thích nữ nhân đó, nếu đại hoàng huynh mà cưới cô ta về thì nhất định sẽ không thích nhi thần nữa đâu.”

    Huyền Lăng xưa nay vốn thích đứa con gái này nhất, lập tức tức giận đến sững người. “Trẻ con thường không nói dối, xem ra là Hoàng hậu nhìn người không kĩ, chỉ nhận người thân rồi. Cô ta đã chê Công chúa của trẫm tay bẩn, vậy thì tất nhiên cũng xem thường hoàng tộc. Trẫm quyết không miễn cưỡng cô ta làm gì!”

    “Vậy còn Uẩn Dung...”

    Y lạnh lùng nói: “Trẫm hiểu tâm tư của Uẩn Dung, nàng ấy trăm phương ngàn kế tiến cử giai lệ cho trẫm chẳng qua là mong không bị trẫm ghẻ lạnh thôi. Trẫm sẽ đối tốt với nàng ấy, không cần nàng ấy phải hao tổn tâm cơ!”

    Tôi dịu dàng cất tiếng: “Uẩn Dung là người có lòng, rất hiểu tâm tư của Hoàng thượng, mà Hoàng thượng lại xem trọng việc chọn phi cho Hoàng trưởng tử, nếu muội ấy biết rõ nguồn cơn thì ắt sẽ chịu thôi.” Sau đó lại lay nhẹ cánh tay y. “Chỉ sợ đến lúc đó, Hoàng thượng nhìn thấy Hứa Di Nhân rồi sẽ lại không nỡ để cô ấy lấy Hoàng trưởng tử ấy chứ.”

    Huyền Lăng không kìm được bật cười. “Nàng chớ đùa nữa. Con gái nuôi của Tùy Quốc công kỳ thực xuất thân cũng không tính là cao quý, nhưng trẫm xem trọng việc cô ta có thể khiến Dư Ly thay đổi tâm tính, còn kỳ dư đều có thể cho qua. Đợi đến ngày tuyển tú trẫm sẽ xem kĩ một phen, nếu thật sự ổn thỏa, trẫm tất nhiên sẽ tác thành cho mối nhân duyên này.”

    Ngoài cửa sổ mưa rơi rả rích, tôi vùi đầu vào lòng Huyền Lăng, trong lòng thầm nghĩ cơn mưa này thật tuyệt, trời và đất vốn cách nhau một khoảng mênh mang cứ thế được nối liền với nhau, khó mà chia lìa. Cũng giống như duyên phận giữa con người, chỉ cần tiện tay chỉ lối là có thể làm nên một mối nhân duyên.
     
  19. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 27: Muôn hồng nghìn tía cùng khoe sắc
    Ngày Mười sáu tháng Ba năm Càn Nguyên thứ hai mươi tư, trời xuân tỏa nắng vô cùng ấm áp.

    Ánh dương xuân tựa một dải lụa mềm phủ xuống từng góc nhỏ trong Vị Ương cung. Ngoài sân, mười sáu gốc đào đồng loạt nở hoa màu hồng phấn hệt như vô số bông tuyết màu hồng rung rinh, xen giữa đó là rất nhiều cánh bướm rập rờn bay lượn, vô cùng đẹp mắt. Có điều, tất cả những thứ ấy đều không thể so được với buổi tuyển tú rầm rộ ở Vân Ý điện, cho dù không có tiếng kèn trống hay tiếng lễ bái vang trời thì người ta vẫn có thể cảm nhận được sự náo nhiệt và chờ mong trong những con người đang góp mặt, không cần nghĩ cũng biết đó là một cảnh tượng vui tươi, tưng bừng đến mức nào.

    Cái gọi là sắc xuân làm lòng người say đắm lúc này đã ở trong Vân Ý điện hết thảy.

    Bởi vì thân thể Hoàng hậu vẫn yếu ớt, cần được tĩnh dưỡng, không tiện lao tâm lao lực quá độ, do đó ba phi tử địa vị cao quý là Quý phi, Thục phi và Đức phi phải tới giúp đỡ, một hậu ba phi cùng ngồi với Hoàng đế trong Vân Ý điện chủ trì đại cuộc. Các tú nữ sớm đã trải qua hai vòng sơ tuyển, những người có thể tới Vân Ý điện hôm nay sinh thần bát tự không được xung khắc với Hoàng đế, trên người không được có sẹo, nói năng phải lưu loát, ngoài ra còn một số điều kiện hà khắc khác về dung mạo, do đó tất thảy bọn họ hẳn nhiên đều là những bậc giai lệ hiếm có trên đời.

    Lúc trời còn chưa sáng hẳn, tôi đã trở dậy chải đầu trang điểm, thay xiêm y. Đây là lần đầu tiên phi tử được tham dự vào việc tuyển tú kể từ khi Đại Chu khai quốc đến nay, tôi không thể không xem trọng, mà chắc hẳn Đức phi và Quý phi cũng đều như thế.

    Nhớ hồi chiều qua tôi còn vui vẻ trò chuyện với Đức phi, nghe kể rằng lão thần tiền triều Tư không chính nhất phẩm Tô Toại Tín nghe nói Thục phi được tham dự buổi đại lễ tuyển tú thì lập tức dâng tấu lên Huyền Lăng chỉ trích tôi “mê hoặc quân chủ, phá hoại cung quy, Hoàng hậu vẫn còn tại thế mà lại dám tiếm việt phạm thượng”. Huyền Lăng liền cười tủm tỉm, khuyên nhủ lão: “Hoàng hậu đúng là còn tại thế nhưng thân thể lại không được khỏe. Huống chi nếu Thục phi mê hoặc quân chủ, Đức phi với Quý phi cùng đi lẽ nào cũng thế cả ư? Thục phi hiện hiệp trợ quản lý hậu cung mà không hề chuyên quyền hống hách, việc gì cũng đều hỏi ý Quý phi và Đức phi, hết sức hiền lương, thục đức, chính là tấm gương cho hậu cung.”

    Tôi cười, nói: “Không có Đức phi tỷ tỷ và Quý phi tỷ tỷ thì muội là kẻ mê hoặc quân chủ; có hai vị tỷ tỷ rồi muộn liền trở thành tấm gương cho hậu cung, qua đó đủ thấy hai vị tỷ tỷ mới là những người hiền lương, thục đức thật sự, muội đi đến đâu cũng phải núp bóng thì mới có thể sống yên ổn được.” Đức phi cười đến nghiêng ngả. “Không có muội thì ta với Quý phi tỷ tỷ chẳng qua chỉ là những phi tử không quyền không thế mà thôi. Tạm chưa nói tới Quý phi tỷ tỷ, bây giờ dù Ôn Nghi đã mất mẹ ruột nhưng cũng chẳng ai dám coi thường nữa rồi.”

    Tôi nhắm mắt lại không nói gì, bá quan văn võ trong triều có ai mà không biết nhìn sắc mặt Huyền Lăng, nhưng Tư không Tô Toại Tín lại là lão thần năm xưa từng ủng hộ Chu thị ngồi lên ngôi hậu, bây giờ đương nhiên không chịu trơ mắt nhìn tôi gặm nhấm bảo tọa hoàng hậu từng chút một như thế.

    Động tác của Cận Tịch hết sức đều đặn và nhẹ nhàng, phấn Tử Quỳ giúp khuôn mặt của tôi dần trở nên mịn màng và tinh tế, hoàn toàn không còn vẻ mệt mỏi vì hôm qua giúp Huyền Lăng xem tấu sớ đến tận nửa đêm. Tôi khẽ nở nụ cười, lão thần quý ở chữ “lão”, nguyên lão hai triều, phò tá đế vương, thế nhưng cũng chính vì chữ “lão” ấy nên tôi chẳng cần đấu đá với lão làm gì, kẻ địch của lão là thời gian.

    Khi mở mắt ra, Cận Tịch đã giúp tôi trang điểm xong xuôi. Tôi mỉm cười uể oải, vì phải chủ trì buổi lễ tuyển tú nên hôm nay tôi mặc một bộ xiêm y thêu hình chim địch và cỏ xuyến, màu sắc chỉ nhạt hơn áo của Hoàng hậu một chút. Trong buổi đại lễ này, nếu tôi ăn vận nổi bật quá thì khó tránh khỏi vướng mối hiềm nghi khách lấn át chủ, bởi Hoàng hậu dù sao vẫn là chủ nhân của hậu cung; nhưng nếu ăn mặc đơn giản quá thì lại là mang lòng bất kính, không coi buổi lễ trọng đại này ra gì. Hiện giờ tôi còn chưa muốn khiêu khích quyền uy của Hoàng hậu, do đó chỉ ăn vận, trang điểm bình thường theo đúng quy cách của thục phi, không hề quá phận chút nào.

    Trời vừa mới sáng thì Hội Xuân ở cung của Hoàng hậu đã tới giục: “Thục phi nương nương vạn phúc kim an. Các tú nữ đã có mặt ở Vân Ý điện, Hoàng hậu nương nương sai nô tỳ tới đây mời Thục phi nương nương khởi hành, mong nương nương đừng để lỡ thời gian.”

    Kiệu xe đã được chuẩn bị sẵn, khi tôi tới nơi thì thấy Hoàng hậu đã ngồi ở phía trên. Tôi mỉm cười dịu dàng, trước mắt người khác, nàng ta luôn tỏ rõ khí độ của một vị chính cung nương nương như thế. Quý phi ngồi ở bên trái, tôi và Đức phi thì ngồi bên phải. Huyền Lăng còn chưa tới, trong số tam phi, tôi là người đến sau cùng.

    Trong gian đại điện nguy nga, tráng lệ, các tú nữ xinh đẹp như hoa đứng túm tụm vào nhau, nhưng tất thảy đều vô cùng yên tĩnh, không phát ra chút âm thanh nào. Không ai bảo ai, khi nhìn thấy tôi, các tú nữ nhất loạt quỳ xuống thỉnh an, tiếng lễ bái vô cùng vang dội. Tôi ôn tồn nói một tiếng “đứng dậy cả đi” rồi bước tới hành lễ thỉnh an Hoàng hậu, sau đó lại quay sang chào hỏi Quý phi và Đức phi.

    Chờ tôi an tọa, Đức phi liền ghé đến bên tai tôi, cười nói: “Vừa rồi Hoàng hậu tới trước, các tú nữ thỉnh an không được cung kính, chỉnh tề như thế này đâu.”

    Tôi đưa mắt liếc nhìn Hoàng hậu lúc này mặt mày hờ hững chẳng thể nhìn ra mừng giận, thấp giọng nói: “Trong cung nổi gió thế nào thì bên ngoài mưa rơi như thế, xưa nay vẫn luôn là như vậy.”

    Khi nhìn qua phía Hoàng hậu, ánh mắt ôn hòa của Đức phi trở nên lạnh lùng vô hạn: “Trong cung bây giờ, Thục phi đắc thế, Hoàng hậu thất sủng, đó đã là việc chắc như đinh đóng cột, có ai mà còn chưa biết nữa đây?”

    Khi Huyền Lăng tới nơi, các tú nữ đều nhất tề sôi sục, vô số ánh mắt sáng như sao cùng nhìn chằm chặp về phía y. Sau một phen hành lễ, cuộc tuyển tú bắt đầu.

    Kỳ thực cũng chẳng có gì là mới mẻ và bất ngờ, cuộc tuyển tú lần này cốt là để chọn phi cho Dư Ly, mà tôi và Huyền Lăng thì đều sớm biết rõ một phen công phu này chỉ là làm cho có, người được chọn cuối cùng ắt sẽ là Hứa Di Nhân.

    Tôi ngồi trên ghế cao, có chút mơ màng và mê say nhìn xuống những nữ tử thướt tha xinh đẹp phía dưới. Giọng nói the thé nhịp nhàng của các thái giám không ngớt vang lên, lần lượt báo rõ tên họ, gia thế và tuổi tác của từng nữ tử. Đức phi bên cạnh tôi thì thỉnh thoảng lại ghé đến rì rầm vài câu bình phẩm về tướng mạo của những con người phía dưới. Tôi cứ ngồi đó lẳng lặng nhìn những tấm dung nhan xinh đẹp như hoa tựa ngọc xếp hàng lần lượt đi lên phía trước, cung kính quỳ xuống hành lễ. Tôi nhìn thấy ánh mắt dịu dàng, đắm đuối của bọn họ lướt qua khuôn mặt Huyền Lăng, lướt qua những chiếc ghế xa hoa rực rỡ trên cao, lại nhìn thấy sự khao khát và âu lo đối với tương lai vô định thoáng qua trong mắt bọn họ.

    Bọn họ thật giống với tôi, My Trang và An Lăng Dung của ngày xưa biết bao nhiêu.

    Thời gian không ngừng trôi khiến người ta chỉ cảm nhận được sự vô tình. Vân Ý điện vẫn là Vân Ý điện nhưng những tấm dung nhan phía dưới thì đã đổi thay. Bây giờ chỉ còn lại mình tôi ngồi trên bảo tọa mà nhớ về những hồi ức xa xưa, khung cảnh náo nhiệt năm nào hệt như hoa trong gương, trăng dưới nước.

    “Chu Thiến Uy, con gái của Thái Học lễ quan Chu Hành Minh, mười bốn tuổi!” Khi đọc tới cái tên này, gã thái giám cố tình dài kéo giọng.

    Huyền Lăng ngoảnh đầu qua hỏi Hoàng hậu: “Chu Hành Minh... hình như là đường huynh của Hoàng hậu đúng không?”

    Hoàng hậu vốn ngồi nghiêm trang suốt một hồi lâu, lúc này mới nở nụ cười. “Đúng thế, Thiến Uy là con gái út nhà đường huynh thần thiếp, rất thông minh, hiểu chuyện.”

    “Thông minh, hiểu chuyện thì tốt.” Huyền Lăng gọi nàng ta lại: “Ngươi bước lên mấy bước đi!”

    Chu Thiến Uy y lời bước lên phía trước. Hoàng hậu hơi hất hàm, Đức phi hiểu ý, liền hắt chén trà trong tay xuống đất. Chu Thiến Uy vẫn ung dung, điềm đạm bước qua, không để lộ chút vẻ do dự nào, cũng không hề né tránh.

    Huyền Lăng bất giác mỉm cười. “Nhà họ Chu đúng là có gia giáo.”

    Hoàng hậu khẽ nở nụ cười dịu nhẹ như làn gió xuân. “Thiến Uy năm nay mười bốn tuổi, Dư Ly thì mười sáu, tuổi tác hai người vừa khéo hợp nhau. Không phải thần thiếp thiên vị, song Thiến Uy thực sự nết na vô cùng, hệt như Thục phi năm xưa.” Nói đoạn, nàng ta đưa mắt nhìn tôi. “Muội muội năm xưa cũng từng như thế, không biết bây giờ có còn nhớ chăng?”

    Huyền Lăng nhớ lại việc xưa, không kìm được cười tươi dịu dàng, lại đưa mắt quan sát Chu Thiến Uy thêm một lát rồi nói: “Lối ăn mặc hôm nay cũng rất ổn thỏa, đơn giản mà không đánh mất vẻ cao sang.”

    Chu Thiến Uy hôm nay mặc một chiếc áo tay rộng màu xanh lam thêu hình chim chóc kết hợp cùng một chiếc váy dài thêu hình hoa mẫu đơn, quả thực đã khiến cô ta trông yêu kiều, xinh đẹp thêm vài phần.

    Hứa Di Nhân đang đứng phía sau Chu Thiến Uy hai hàng lúc này lộ rõ vẻ âu lo, trên đầu mũi rỉ ra những giọt mồ hôi lấm tấm, hiềm rằng cô nàng tú nữ đứng trước mặt nàng ta quá cao nên làm nàng ta bị che khuất, khiến Huyền Lăng không thể nhìn thấy được.

    Mấy ngày nay Huyền Lăng bận rộn việc triều chính, có lẽ đã quên mất Hứa Di Nhân rồi cũng chưa biết chừng. Tôi không khỏi có chút thấp thỏm, trông bộ dạng Huyền Lăng bây giờ thì hình như khá thích Chu Thiến Uy, nếu để y mở miệng chọn Chu Thiến Uy thì bao nhiêu công sức trước đó coi như uổng phí hết cả.

    Tôi bèn cười, nói: “Hoàng hậu thực đã đề cao thần thiếp quá rồi, thần thiếp năm xưa nào có được nết na, điềm đạm như Chu tiểu thư đây, chẳng qua chỉ gặp may mà thôi.” Sau đó lại dịu dàng nhìn Huyền Lăng. “Hoàng thượng vốn thương yêu Hoàng trưởng tử nhất, mà Chu tiểu thư xuất thân cao quý, quả là rất hợp với Hoàng trưởng tử. Có điều Chu tiểu thư và Hoàng trưởng tử là huynh muội con cô con cậu, không biết trước đây đã từng gặp nhau trong cung chưa, ấn tượng của hai bên về nhau thế nào?”

    Hoàng hậu đang định lên tiếng thì Đức phi làm bộ như không nhìn thấy, cười khúc khích, nói: “Chu tiểu thư đúng là rất biết chọn màu sắc cho y phục, màu xanh lam vốn là màu mà Hoàng thượng thích nhất, có điều theo như thần thiếp nhớ thì Hoàng trưởng tử thích màu hồng hơn. Tính ra thì nếu Hoàng trưởng tử nhìn thấy Chu tiểu thư, có lẽ sẽ cảm thấy cô ấy thích hợp với Hoàng thượng hơn đấy.”

    Huyền Lăng lắc đầu, cười khẽ. “Đức phi qua lại với Thục phi đã lâu, bây giờ mồm mép cũng lém lỉnh chẳng kém gì Thục phi rồi đấy.”

    Đoan Quý phi ngồi nghiêm trang trên ghế, đưa cây quạt tròn trong tay lên chỉ về phía xa. “Đứng chung hàng dọc với Chu tiểu thư không phải cũng có một nữ tử vận đồ màu hồng đó ư?”

    Huyền Lăng tiện tay khẽ vẫy một cái, người bước ra chính là Hứa Di Nhân. Nàng ta hôm nay mặc một chiếc áo mới cân vạt màu hồng, phía dưới là tà váy dài màu trắng, trên đầu cài một cây trâm bạc hình bông hoa mai, trông thanh tú mà không kém phần kiều diễm.

    Gã thái giám phụ trách lễ nghi hô lớn: “Hứa Di Nhân, con gái nuôi của Tùy Quốc công, mười sáu tuổi.”

    Huyền Lăng nghe thấy ba chữ Hứa Di Nhân thì đôi mày hơi máy động, sau khi nhìn kĩ một chút bèn khẽ gật đầu. “Nhan sắc không tệ, tuổi tác cũng tương đương với Dư Ly.” Rồi y lại hỏi Hứa Di Nhân đang đứng phía dưới: “Ngươi từng đọc những sách gì rồi?”

    Hứa Di Nhân đáp ngay: “Ngoài Nữ tắc ra, thần nữ có đọc qua Kinh Thi, Kinh Thư.”

    Huyền Lăng suy nghĩ một chút rồi nói: “Trẫm sẽ kiểm tra ngươi và Chu thị một chút, các ngươi cứ suy nghĩ kĩ rồi hãy trả lời trẫm.”

    “Dạ!”

    Huyền Lăng nói: “Bài Quan thư mở đầu Kinh Thi có viết, quan quan thư cưu, tại hà chi châu, yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu, nên giải thích ra sao?”

    Chu Thiến Uy thoáng trầm ngâm rồi ung dung nói: “Thi tam bách, tư vô tà[33]. Bài Quan thư này nói về cái đức của hậu phi, rằng thục nữ thì nên thành đôi với quân tử, có chọn người thì phải chọn người hiền, đừng quá để tâm tới nhan sắc, thân là hậu phi hiền đức thì nên chọn thục nữ cho đấng quân vương, từ đó nối dài dòng dõi cho hoàng tộc.”

    [33] Kinh Thi ba trăm bài, mỗi bài đều chân thực - ND.

    Đây là lời chú giải Kinh Thi của Mao phu tử, Chu Thiến Uy đọc lại theo sách ắt không có sai sót gì. Hoàng hậu mỉm cười, gật đầu, cầm chén trà lên khẽ nhấp một ngụm, lộ vẻ nhẹ nhõm.

    Hứa Di Nhân trù trừ do dự, lặng im không nói gì. Sau khi thái giám giục giã mấy lần, dường như nàng ta phải hạ quyết tâm rất lớn, sau đó trấn định tinh thần, ngẩng mặt lên, mỉm cười, nói: “Thi tam bách quý ở chỗ dân phong thuần phác, cử chỉ tự nhiên. Thục nữ và quân tử đều xuất thân từ dân gian, thục nữ yểu điệu, quân tử nhìn mà nhớ nhung, từ đó có thể thấy trăm họ không hề cổ hủ. Quân tử theo đuổi mà không được vẫn không thất lễ, chỉ trằn trọc nhớ nhung, đủ thấy dân phong thuần hậu, không có những hạng cường hào ác bá, ấy là nhờ công giáo hóa. Cho nên thần nữ cho rằng bài Quan thư này chỉ viết về dân phong chứ không hề nói về cái đức của hậu phi. Dân gian đều là thục nữ, quân tử, người phẩm cách cao quý không phải chỉ có hậu phi, khi ấy thiên hạ cớ gì mà chẳng thái bình thịnh trị?”

    Huyền Lăng trầm ngâm một chút rồi mỉm cười, vỗ tay, nói: “Từ lễ nhỏ mà suy ra đức lớn, tốt lắm!”

    Hoàng hậu hơi cau mày, khẽ nói với Huyền Lăng: “Nghe nói Tùy Quốc công chỉ có hai người con trai, còn Hứa thị này là con gái nuôi, thân phận không được cao cho lắm.”

    Huyền Lăng đưa mắt liếc qua, miệng vẫn khẽ cười. “Trong lòng Hoàng hậu hình như đã có định kiến rồi thì phải? Trẫm lần này cốt muốn chọn thục nữ làm dâu, xuất thân chỉ là thứ yếu.”

    Hoàng hậu vội vàng cúi đầu, nói: “Cũng không hẳn là như vậy.” Suy nghĩ một chút, nàng ta lại nói tiếp: “Hoàng thượng không muốn thần thiếp can dự vào việc này quá nhiều, chi bằng... hãy để Hoàng trưởng tử tự mình lựa chọn đi, bởi đây dù sao cũng là chuyện của y.”

    Đức phi mỉm cười, thoáng liếc qua tôi một cái, đoạn quay sang nói với Hoàng hậu: “Kỳ thực chỉ cần Hoàng thượng và Hoàng hậu quyết định là được rồi, việc gì phải hỏi Hoàng trưởng tử. Hoàng trưởng tử dù sao cũng cần nghe theo sự quyết định của bề trên mà.”

    Hoàng hậu trầm ngâm do dự, thấy Huyền Lăng lộ rõ vẻ tán thưởng với Hứa Di Nhân thì sắc mặt liền trầm hẳn xuống, nói: “Cứ để Hoàng trưởng tử tự làm chủ đi.”

    Một lát sau Hoàng trưởng tử đã đến nơi Hoàng hậu ôn tồn gọi y tới, giúp y chỉnh lại chiếc mũ vàng búi tóc trên đầu. “Hứa thị và Chu thị đều là người mà phụ hoàng và mẫu hậu vừa ý, con hãy tự chọn lấy một người và trao ngọc như ý cho người đó.” Rồi nàng ta lại trịnh trọng dặn dò: “Cưới vợ phải nhìn vào đức hạnh, đã tới lúc con cần tự quyết việc của mình rồi.”

    Dư Ly cầm ngọc như ý trong tay, do dự nói: “Vẫn mong phụ hoàng, mẫu hậu làm chủ cho nhi thần.”

    Huyền Lăng hơi cau mày lại. “Bây giờ không cần phải hỏi ý kiến của ai khác, con hãy tự quyết định là được rồi.”

    Dư Ly thấy Hoàng hậu mặt không biểu cảm, Huyền Lăng thì cũng không nói nhiều, bèn đưa mắt nhìn tôi cầu cứu, trên khuôn mặt đôn hậu ngợp đầy vẻ âu lo và do dự. Tôi ôn tồn nói: “Điện hạ đi đi. Lấy vợ là chuyện cả đời, quan trọng nhất là hai bên phải có tình cảm, như vậy thì phu thê mới được hòa thuận, hoàng thất mới được yên vui.”

    Dư Ly thoáng do dự rồi không suy nghĩ nhiều thêm nữa, đi thẳng về phía Hứa Di Nhân. Hoàng hậu lập tức biến sắc, hô lớn: “Ly Nhi...”

    Dư Ly vội vã ngoảnh đầu, vẻ do dự như một làn mây mù phủ dày trên mặt. Y lưỡng lự hỏi: “Mẫu hậu có điều gì dặn dò ư?”

    Hoàng hậu lập tức cười hiền dịu. “Mẫu hậu có thể dặn dò gì được đây, chẳng qua chỉ muốn nhắc con rằng ngọc như ý rất nặng, phải cầm cho chắc đấy.”

    Sự trầm lặng của Dư Ly lan ra khắp gian điện, vẻ bất lực trong mắt ngày một nặng nề, cuối cùng y khẽ nói: “Dạ.”

    Tôi bất giác có chút nôn nóng, nhưng chỉ biết lẳng lặng nhìn xuống phía dưới, thấy Hứa Di Nhân cũng đang lộ rõ vẻ âu lo và bất lực.

    Khi nàng ta ngước mắt lên vừa khéo bắt gặp ánh mắt lạnh giá của tôi. Nàng ta thông minh hết sức, làm gì mà chẳng biết mình bây giờ đã được liệt ra để Hoàng trưởng tử lựa chọn, một khi không được chọn thì ngay cả Huyền Lăng cũng sẽ không nạp nàng ta vào cung. Lần này nàng ta hưng phấn tới đây, nếu như thảm bại quay về thì chỉ e sẽ chẳng còn chỗ đứng trong phủ Tùy Quốc công nữa.

    Sự yếu mềm chỉ thoáng qua trong khoảnh khắc, Hứa Di Nhân đưa tay vuốt nhẹ tóc mai, nở một nụ cười vô cùng kiều diễm. Nàng ta dịu dàng nói: “Hoàng hậu nói rất đúng, điện hạ nhớ phải cẩn thận.”

    Dư Ly đột nhiên hít sâu một hơi, cánh tay bất ngờ khựng lại, ngọc như ý được đưa từ trước mặt Chu Thiến Uy tới trước mặt Hứa Di Nhân.

    Hoàng hậu hơi tái mặt đi, đang định cất lời thì không còn kịp nữa, Hứa Di Nhân đã cầm chắc ngọc như ý trong tay, đoạn đưa lên ngang mặt rồi quỳ xuống, cất giọng dịu dàng: “Thần nữ đa tạ điện hạ thương yêu, đa tạ Hoàng thượng, Hoàng hậu thương yêu.”

    Hoàng hậu thở ra một hơi, hệt như một tiếng thở dài nhè nhẹ, âm thanh kéo dài mãi trong Vân Ý điện tịch mịch. Chu Thiến Uy chậm rãi lùi về hàng, khó mà giấu nổi vẻ thất vọng. Dư Ly dường như có chút bất an, đưa mắt nhìn Hoàng hậu. “Mẫu hậu không đồng ý ư?”Hoàng hậu lặng lẽ lắc đầu, ngay sau đó đã khôi phục vẻ thản nhiên. “Đâu có, con đã có chủ ý của mình rồi, mẫu hậu rất vui.” Hơi dừng một chút, nàng ta nói tiếp bằng giọng đầy ý vị: “Hoàng trưởng tử quả nhiên đã trưởng thành rồi.”

    Dư Ly gật đầu, đưa tay cầm lấy ngọc như ý, dắt Hứa Di Nhân đi lên cùng hành lễ. Huyền Lăng mỉm cười, gật đầu, nói: “Tốt lắm, trẫm cũng rất vừa ý Hứa thị. Ngày Hai mươi sáu tháng sau, trẫm sẽ tổ chức lễ thành thân cho các con.”

    Sự việc coi như đã ngã ngũ, màn tuyển tú kế đó chẳng qua chỉ là cho có mà thôi, tôi cũng chẳng can dự quá nhiều, chỉ lặng im ngồi đó nhìn vẻ hụt hẫng khó mà che giấu nổi của Hoàng hậu.

    Huyền Lăng cũng lộ vẻ mỏi mệt, thỉnh thoảng nhìn trúng tú nữ nào đó thì Hoàng hậu lại khẽ nói một câu: “Lần trước thần thiếp từng cho gọi người này vào cung để Hoàng trưởng tử xem mặt trước rồi, Hoàng thượng đừng nên lưu lại thì hơn.” Liên tiếp mấy lần như vậy, một số tú nữ xuất chúng đều bị gạt bỏ không được chọn. Huyền Lăng càng lúc càng mất hứng, hiềm vì thể diện của Hoàng hậu nên không thể phát tác. Hoàng hậu vẫn làm bộ như không phát hiện, thần sắc hiền hòa như làn nước mùa thu. “Chọn thục nữ danh môn vào hầu hạ kề bên Hoàng thượng vốn là chức trách của thần thiếp.” Rồi nàng ta cười dịu dàng. “Tú nữ có quá nhiều, thần thiếp sợ Hoàng thượng mỏi mệt nên đã chọn sẵn mấy nữ tử tuyệt sắc rồi, mời Hoàng thượng ghé mắt.”

    Hoàng hậu vỗ tay ba cái, lập tức có ba thiếu nữ thanh xuân, tươi trẻ chậm rãi bước vào từ ngoài điện. Người đi đầu thân hình yểu điệu, thướt tha, dung nhan xinh đẹp khó nói bằng lời, mỗi bước đi đều nhẹ nhàng như chim hồng bay lượn, đợi đi tới gần rồi còn có thể nhìn thấy đôi mắt nàng ta trong veo, u uất chất chứa đầy tâm sự, tựa như bầu trời đêm tịch mịch.

    Gã thái giám phụ trách lễ nghi hô lớn: “Vệ Quân, con gái của Hiệu thư lang tòng thất phẩm Vệ Bộ Diên ở Hoằng Văn quán, mười bảy tuổi.”

    Vệ Bộ Diên? Cái tên này hình như tôi từng nghe thấy ở đâu đó rồi. Thế nhưng ánh mắt thoáng lộ vẻ ngẩn ngơ của Huyền Lăng không cho phép tôi nghĩ nhiều, sau khi nhìn khuôn mặt thanh tú, xinh đẹp kia một lát, y bèn quay qua hỏi Đoan Quý phi: “Quý phi, nàng thấy nàng ta giống ai?”

    Đoan Quý phi vốn thông minh rất mực, chỉ khẽ mỉm cười. “Giống bản thân nàng ta.”

    Đức phi chăm chú nhìn tôi rồi đưa quạt tròn lên che mặt, thở dài than: “Oan nghiệt! Oan nghiệt! Năm xưa Phó Như Kim vào cung cũng chính là như thế này, bây giờ muội đã ở đây, thế mà cô ta còn tìm một người giống muội tới làm gì nữa chứ?”

    Kỳ thực nếu nhìn kĩ, Vệ Quân tối đa cũng chỉ giống tôi khoảng ba, bốn phần, mà nhìn vẻ bình tĩnh của Đức phi lúc này thì dường như nàng ta với Thuần Nguyên Hoàng hậu không giống nhau lắm. Tôi khẽ thở dài một hơi, cho dù giống tôi thì Vệ Quân cũng có những chỗ động lòng người của riêng mình.

    Theo sau Vệ Quân là hai mỹ nhân khác, một người là Chu thị vóc dáng cao ráo, thần sắc lạnh lùng, thân thể có hơi đẫy đà một chút; người kia là Khương thị có thân hình nhỏ nhắn, thần thái nhu mì, mỗi bước đi đều mang đầy vẻ quyến rũ.

    Ba người nhất tề hành lễ, rồi Hoàng hậu ngoảnh đầu qua chăm chú nhìn Huyền Lăng. “Hoàng thượng thấy thế nào?”

    Huyền Lăng lúc này còn đang thẫn thờ, khó có thể nhìn ra là buồn hay là vui. Sau một hồi trầm lặng, các tú nữ phía dưới đều có vẻ thấp thỏm không yên, Lý Trường lén ghé tới cạnh y, khẽ hỏi: “Hoàng thượng, có giữ thẻ bài của ai lại không?”

    “Ừm.” Ánh mắt Huyền Lăng vẫn lững lờ bất định, lẳng lặng viết vào tay Lý Trường một chữ “Vệ” và một chữ “Khương”.

    Tôi lạnh lùng ngồi nhìn, ba người chọn hai, phen này Hoàng hậu coi như đã nắm phần thắng trong tay rồi.

    “Chúc mừng Hoàng thượng!” Hoàng hậu nở nụ cười nền nã. “Cũng chúc mừng Thục phi muội muội nữa, mới cách đây chưa lâu, mấy muội muội lần lượt xuất giá, bây giờ thì lại có một tú nữ dung mạo tương tự vào cung bầu bạn.”

    “Dung mạo tương tự thần thiếp thì có gì là tốt đâu. Thần thiếp chẳng qua chỉ là hạng son phấn tầm thường, đâu có được trẻ trung, xinh đẹp như Vệ muội muội.”

    Huyền Lăng nhìn tôi chăm chú, cất giọng dịu dàng: “Mỹ nhân có nét giống nhau là lẽ thường tình, nhưng Hoàn Hoàn thì chỉ có một thôi.”

    Có tiền lệ của Phó Như Kim ngày trước, việc Vệ Quân vào cung lần này ắt sẽ gây ra một cơn phong ba không nhỏ. Có điều nàng ta không giống tôi lắm, cũng chẳng quá giống Ngọc Nhiêu, và có lẽ cũng không giống Thuần Nguyên Hoàng hậu được mấy phần. Nhưng không thể phủ nhận rằng nàng ta quả thực có cái thần vận như giống mà không ấy, khiến người ta sau khi lờ mờ cảm thấy không giống lại không kìm được muốn tỉ mỉ nghiên cứu một phen.

    Sau một hồi suy nghĩ vu vơ, gã thái giám phụ trách lễ nghi đã đọc xong tên của rất nhiều tú nữ. Tôi ngoảnh đầu nhìn qua thì thấy Huyền Lăng cũng có chút tâm thần bất định, chỉ tiện tay chọn thêm một vài tú nữ khác, trong số đó có một người rất xinh đẹp khiến người ta chỉ cần nhìn thoáng qua là khó mà quên nổi.

    Chờ sau khi mọi việc xong xuôi, Huyền Lăng cảm thấy khá mỏi mệt, liền đứng dậy dặn dò: “Các nàng cũng mệt rồi, hãy quay về nghỉ ngơi đi.”

    Hoàng hậu hơi nhún người. “Vậy danh phận của các cung tần mới đều do Thục phi muội muội quyết định cả ư?”

    Huyền Lăng suy nghĩ một chút rồi nói: “Trẫm xử lý xong chính vụ sẽ tới Phượng Nghi cung.”

    Mọi người cáo từ rời đi, Đoan Quý phi đi trước, tôi và Đức phi thì chậm rãi theo sau, cùng đi về hướng hồ Thái Dịch. Sau khi tìm đến một nơi yên tĩnh, Đoan Quý phi chậm rãi ngồi xuống, Cát Tường bước tới sau lưng nhẹ nhàng xoa bóp vai cho nàng ta. Nàng ta nhìn mặt hồ gợn sóng mà khẽ nói: “Đã lâu lắm rồi không mệt như thế này. Chỉ là tuyển tú mà thôi, không ngờ cũng chứa đầy những chước quỷ mưu ma như chuyện quốc gia đại sự của nam nhân vậy.”

    “Còn chẳng phải thế sao!” Đức phi đưa tay lên xoa trán, thở dài than. “Việc tuyển phi của Hoàng trưởng tử thì coi như đã được như ý nguyện, nhưng bỗng dưng lại có Vệ thị với Khương thị từ đâu nhảy ra, sau này chỉ e sẽ lại phải đau đầu rồi. Cứ nhớ lại bộ dạng của Phó Như Kim năm xưa là muội lại cảm thấy sợ hãi.”

    Đoan Quý phi thấy tôi chỉ nhìn mặt hồ mà ngơ ngẩn, bèn đưa tay tới khẽ nắm tay tôi. “Cô ta không giống Thuần Nguyên Hoàng hậu là mấy, không đáng để muội phải đau đầu đâu.” Sau đó lại thở ra một hơi, nhẹ nhàng đón lấy một bông hoa vừa bị làn gió thổi tới làm rụng. “Không ngờ Hoàng trưởng tử cũng là một người chí tình chí tính như thế. Kỳ thực Hoàng hậu cũng quá nôn nóng, cứ để Hoàng trưởng tử cưới Chu thị cũng không hay, hiện giờ thì tuy là thân càng thêm thân nhưng khó mà đảm bảo rằng người ta sẽ không cho là nàng ta có ý lôi kéo ngoại thích để giành ngôi báu. Tất nhiên cưới Hứa Di Nhân cũng không hẳn là hay, Hứa thị chỉ là con nuôi, thế lực sau lưng cũng không đủ mạnh, cho dù có được làm chính phi của Hoàng tử thì sau này cũng khó có thể trở thành thái tử phi, rốt cuộc người chịu thiệt vẫn là Hoàng trưởng tử.”

    Tôi khom người vái Đức phi một cái thật sâu. “Việc này còn phải cảm tạ mưu trí của Đức phi tỷ tỷ rất nhiều.”

    Đức phi nhìn mặt hồ chăm chú, cười lạnh, nói: “Nếu Hoàng trưởng tử trở thành thái tử thì sau này nàng ta sẽ có thể dựa vào đó mà một mình ngồi vững trên ghế thái hậu, đến khi ấy người ta là dao thớt, chúng ta là cá thịt, chúng ta còn có đất sống trong chốn hậu cung này nữa ư? Do đó ta tất nhiên không thể để cô ta được như ý nguyện rồi.”

    Đoan Quý phi mỉm cười, cất tiếng: “Nói gì thì nói trong ván cờ hiện tại, Hoàng hậu cũng chẳng được lòng ai.”

    Một làn gió xuân thổi tới, dịu dàng lướt qua trùng trùng cung điện, lớp lớp tường thành.

    “Nếu mọi việc đều suôn sẻ, cô ta đã chẳng cần vất vả tìm Vệ thị và Khương thị về thế này rồi.” Đoan Quý phi thở dài, than. “Là tự Hoàng hậu không nhìn thấu được đó thôi, nhưng thử hỏi trong chốn hậu cung này, có mấy người có thể nhìn thấu được?” Nàng ta vừa nói vừa chỉ tay về phía Yến Hy điện ở phía xa. “Tôn quý như cô ta mà cũng phải lo trước lo sau, đề phòng lúc tuổi già sắc phai thất sủng, huống hồ là người khác. Có điều, xét cho cùng thì người tính vẫn chẳng bằng trời tính.”

    Sau khi thánh chỉ ban Hứa Di Nhân cho Hoàng trưởng tử làm chính phi được ban xuống, Hồ Uẩn Dung dù kinh ngạc vạn phần nhưng không dám làm lớn chuyện, chỉ sai người đưa Hứa Di Nhân về phủ Tùy Quốc công chờ xuất giá. Tất nhiên, nàng ta hao tổn một phen tâm tư như thế mà cuối cùng lại thành may áo cưới cho người khác, trong lòng rốt cuộc vẫn có chút tức giận. Nhưng dù nàng ta có nghe ngóng thế nào thì đầu đuôi sự việc vẫn là Hứa Di Nhân và Hoàng trưởng tử tâm đầu ý hợp từ trước. Hồ Uẩn Dung không thể trách Huyền Lăng, cũng không thể trách Hoàng hậu, chỉ đành đóng cửa giận dỗi, dù Huyền Lăng đã cố hết sức dỗ dành nhưng cũng phải mấy ngày sau, mọi việc mới êm xuôi.

    Chờ đến khi thánh chỉ sắc phong cho các cung tần mới được ban ra, Hồ Uẩn Dung lập tức vui mừng hết cỡ. Trong số sáu người được chọn cuối cùng thì Vệ thị danh phận cao nhất, được phong làm quý nhân chính lục phẩm, ban hiệu là “Quỳnh”. Kế đến là Khương thị và Lý thị - nữ tử được Huyền Lăng tự chọn. Khương thị được phong làm mỹ nhân tòng lục phẩm, Lý thị thì được phong làm tài nhân tòng lục phẩm. Ba người còn lại một người được phong làm tuyển thị, hai người được phong làm thái nữ.

    Cận Tịch cười, nói: “Khương thị vốn là một mỹ nhân, lại được phong làm mỹ nhân, hơn nữa cô ta lại mang họ “Khương mỹ nữ[34]”, qua đó đủ thấy chuyện này trùng hợp đến chừng nào.” Hơi dừng một chút, nàng ta lại nói tiếp: “Chắc nương nương cũng biết tại sao tâm trạng Trang Mẫn Phu nhân lại tốt lên rồi, thì ra là vị Lý Tài nhân kia có họ khá gần với cô ta.”

    [34] Chữ khương: 姜, chữ mỹ: 美, chữ nữ: 女. Cách nói này kỳ thực thì không hoàn toàn chuẩn xác vì chữ mỹ phải bỏ chữ đại - 大 bên dưới đi rồi ghép với chữ nữ thì mới thành chữ khương, nhưng vẫn hay được dùng - ND.

    Lúc này tôi đang ngồi bên cửa sổ dạy Dư Nhuận và Dư Hàm nhận mặt chữ, nghe vậy liền khẽ mỉm cười. “Cô ta mất cái này rồi lại được cái kia, đương nhiên là vui vẻ rồi.” Ngoài miệng tuy cười nhưng tôi lại khó có thể che giấu nỗi phiền muộn trong lòng, lần này Vệ thị và Khương thị được chọn, thái độ của Huyền Lăng với Hoàng hậu dường như đã lại tốt lên nhiều.

    Dưới ánh dương xuân phủ khắp, Chiêu Dương điện rốt cuộc đã lại khôi phục vẻ náo nhiệt như xưa.

    Thời gian các cung tần mới vào cung vốn là đầu tháng Tư, nhưng lần này để tránh lễ đại hôn của Hoàng trưởng tử nên được dời tới ngày mùng Tám tháng Năm. Hôn sự của Hoàng trưởng tử được giao hết cho phủ Nội vụ an bài, tôi và Quý phi, Đức phi chỉ giúp kiểm tra xem lễ nghi có chỗ nào sai sót không. Có điều độ này tôi vẫn rất bận rộn, Huyền Lăng sau khi thương lượng với Hoàng hậu về ngôi vị của các cung tần liền giao hết những việc còn lại cho tôi, thế là mỗi ngày tôi đều phải cùng Lý Trường và Cận Tịch xử lý đủ thứ vấn đề vụn vặt. Trong sự bận bịu ấy, thời gian dường như lại càng chẳng chịu nể mặt ai, trôi nhanh vô cùng.

    Mãi đến tháng Tư tôi mới có dịp nghỉ ngơi một chút. Huyền Lăng vì muốn an ủi tôi phần nào nên đặc biệt cho chèo thuyền dạo chơi trên hồ Thái Dịch, nhân tiện mừng sinh nhật tôi.

    Vì dịp này trong cung đang bận rộn chuẩn bị cho lễ đại hôn của Hoàng trưởng tử nên sinh nhật của tôi không tiện phô trương quá mức. Vả lại đối với một nữ tử tuổi gần ba chục mà nói, ngày sinh mỗi năm chẳng có ý nghĩa gì nhiều, chỉ lạnh lùng báo rằng nữ tử đó đã lại già thêm một tuổi.

    Mà tôi lúc này chỉ đắm mình trong quãng thời gian thanh nhàn hiếm có, cảm nhận hương hoa thơm nức xung quanh, thấy ngay đến nước hồ Thái Dịch cũng trong veo và toát ra một sự ấm áp khó mà dùng lời miêu tả.

    Nhân gian tháng Tư, hương thơm ngợp trời.

    Tôi tựa đầu vào vai Huyền Lăng, cùng y tay nắm chặt tay, mặc cho những làn gió ấm phớt nhẹ qua mặt. Trong khoang thuyền, Hàm Nhi, Nhuận Nhi, Linh Tê và Lung Nguyệt chơi đùa với nhau vô cùng vui vẻ. Lung Nguyệt là trưởng tỷ, lúc này đang rất ra dáng dạy Linh Tê gảy đàn tỳ bà, Hàm Nhi thì đang nghịch mấy quân cờ với Nhuận Nhi, bộ dạng mười phần thích thú, ngay đến mái tóc đã rối bù cũng chẳng để tâm. Là một người mẹ, nhìn thấy khung cảnh như vậy, tôi thực thỏa mãn vô cùng.

    Trên hồ gió lớn, thuyền rồng lại đi ngược gió nên khá chậm. Huyền Lăng buộc lại áo choàng cho tôi, dịu dàng nói: “Hoàn Hoàn, dường như thời gian đặc biệt hậu đãi nàng, nàng của bây giờ với mười năm trước chẳng có gì khác biệt.”

    “Có thể khác biệt gì được chứ?” Tôi ghé đến bên tai y, khẽ cất tiếng rủ rỉ dịu dàng: “Bây giờ tứ lang còn chưa già, Hoàn Hoàn cũng không dám già.”

    Y thổn thức nói: “Mấy năm nay trẫm luôn cảm thấy mình không còn được như trước nữa. Hoàn Hoàn, có phải trẫm đã già rồi không?” Giọng y bất giác hơi trầm xuống. “Dư Ly sắp thành thân rồi, tiền triều lại có người nhắc tới việc lập thái tử. Nghe thấy những lời đó trẫm khó chịu vô cùng, chắc bọn họ đều thấy trẫm đã già nên mới nôn nóng như thế.”

    “Tứ lang.” Tôi ôn tồn an ủi. “Tứ lang đang tuổi tráng niên, việc này chẳng cần gấp quá làm gì, Hoàng trưởng tử dù có tốt đến mấy thì cũng cần rèn luyện mới được. Các vị đại nhân ở tiền triều có lẽ vì sợ tứ lang vất vả nên muốn có người phân ưu giúp tứ lang đấy thôi!”

    Y bất giác nắm chặt lấy bàn tay tôi làm tôi đau nhói. “Trẫm đã xem chiếu thư mà nàng viết thay trẫm rồi, quả là không tệ. Có nàng giúp đỡ trẫm rất yên tâm.”

    Tôi lộ vẻ nghiêm túc, làm bộ định quỳ xuống. “Thần thiếp không dám can dự vào việc triều chính.”

    Y ôm chặt tôi vào lòng. “Đừng sợ, trẫm tự có tính toán.” Tôi khép hờ đôi mắt, được rồi, nếu y thật sự tin tưởng tôi như vậy, những năm tháng còn lại của cuộc đời có lẽ chúng tôi sẽ có thể sống nhẹ nhàng hơn một chút.

    Gió lớn dần lên, trên hồ Thái Dịch có những con sóng vỗ vào mạn thuyền. Huyền Lăng dịu dàng nói: “Gió lớn rồi, chúng ta tránh vào khoang thuyền thôi.”

    Tôi đang định trả lời thì chợt thấy dưới hàng liễu biếc xanh bên bờ hồ Thái Dịch có một con thuyền nhỏ đang đung đưa theo sóng, mà người trên thuyền hình như là Anh Tần, nhìn thần sắc có vẻ rất buồn bã, ủ dột. Tôi khẽ kêu lên: “Đó là Anh Tần thì phải.”

    Huyền Lăng hơi nhướng mày, buồn bực nói: “Nàng ta lại phát điên gì thế chứ! Trẫm đã hai lần triệu kiến mà nàng ta đều thoái thác là thân thể không khỏe, thế mà hôm nay còn tới đây hóng gió nữa.”

    Tôi thầm nghi hoặc, nhưng cũng chỉ đành dịu dàng nói: “Nhìn vẻ mặt Anh Tần thì có lẽ thân thể thật sự không thoải mái, Hoàng thượng cứ nên sai người đón nàng ta tới đây đi, chứ để nàng ta sẩy chân ngã xuống nước thì không hay đâu. Dù sao Vệ thái y cũng đang ở trên thuyền, có thể bảo y khám thử xem Anh Tần rốt cuộc bị làm sao.”

    Lý Trường chèo một con thuyền nhỏ qua đón Anh Tần lên thuyền rồng. Anh Tần lúc này mặt mày tái nhợt, sau khi miễn cưỡng hành lễ thỉnh an liền ngồi im không nói năng gì. Huyền Lăng vốn không thích nhìn bộ dạng ốm yếu đầy vẻ thê lương này của Anh Tần nên chỉ hờ hững dặn dò Vệ Lâm: “Ngươi hãy bắt mạch cho Anh Tần xem nàng ta bị bệnh gì đi.”

    Anh Tần bất giác co rụt người lại, thoáng lộ vẻ hoang mang. “Thần thiếp chỉ không may bị nhiễm phong hàn thôi.” Chiếc thuyền rồng không ngớt lắc lư khiến sắc mặt Anh Tần trông lại càng nhợt nhạt khó coi, nàng ta đưa tay lên giữ chặt ngực, dường như muốn ép cơn buồn nôn khó chịu trở vào trong bụng.

    Huyền Lăng phất tay một cái, không nói nhiều thêm. Vệ Lâm cung kính nói: “Mời tiểu chủ!”

    Anh Tần hết cách, đành đưa cánh tay gầy guộc ra để Vệ Lâm thăm mạch. Vệ Lâm khẽ đặt hai ngón tay lên cổ tay Anh Tần, sau một thoáng trầm ngâm, trên mặt chợt lộ rõ vẻ mừng vui. “Chúc mừng Hoàng thượng, chúc mừng tiểu chủ, tiểu chủ có thai rồi.”

    Anh Tần ngẩn ra, dường như không thể tin nổi, cùng Huyền Lăng đồng thanh hô lên: “Thật thế ư?”

    Vệ Lâm bật cười, nói: “Ắt không sai được, tiểu chủ đã có thai chừng hai tháng rồi.” Hơi dừng một chút, y ân cần hỏi: “Tiểu chủ không phát hiện ra sự bất thường trong kỳ kinh của mình ư?”

    Anh Tần ngẩn ngơ lắc đầu, bộ dạng đó thật khiến người ta không kìm được sinh lòng xót thương. Tôi dịu dàng cất tiếng: “Nhất định là lần đầu tiên biết bản thân sắp được làm mẹ nên vui mừng quá đây mà, thần thiếp năm xưa cũng từng thế này đấy.”

    Huyền Lăng mừng rỡ vô cùng, vội vàng lệnh cho Lý Trường: “Ngươi hãy đưa Anh Tần về cung cẩn thận, đừng để nàng ta ở chung với Hủ Tần, Xuân Tần nữa, lỡ có va vấp gì thì nguy to, tạm thời hãy để nàng ta tới ở tại chính điện của Ngọc Bình cung. Đợi lát nữa trẫm sẽ đi thăm nàng ta.”

    Anh Tần dường như vui mừng quá độ, sau khi ngơ ngẩn tạ ơn liền được đưa về cung.

    Tôi tươi cười vái dài một cái. “Chúc mừng Hoàng thượng, người nhớ tấn phong cho Anh Tần muội muội đấy nhé!” Huyền Lăng hết sức hài lòng, cười nói: “Đúng là cần tấn phong, nhưng bây giờ hãy còn chưa vội, chờ sau khi tất thảy những việc rắc rối trước mắt được xử lý xong xuôi, trẫm tất nhiên sẽ không bạc đãi nàng ta.”

    Tôi bật cười khúc khích, ghé đến bên tai y, khẽ nói: “Hoàng thượng vừa than là mình đã già, ai ngờ lại có một hoàng tử nhảy ra nói cho Hoàng thượng biết sự thật hoàn toàn không phải thế. Lần này các muội muội mới chuẩn bị vào cung, chỉ e tới đây sẽ có vô số hoàng tử đến nói với Hoàng thượng là người sắp cải lão hoàn đồng rồi.”

    Huyền Lăng cúi đầu, hôn nhẹ lên trán tôi một cái. “Những việc khác tạm chưa nói tới, trẫm bây giờ chỉ muốn cùng nàng sinh thêm một hoàng tử nữa thôi.”
     
  20. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 28: Hai chốn trầm ngâm thảy đều hay
    [35] Trích Giá cô thiên - Nguyên tịch hữu sở mộng, Khương Quỳ. Nguyên văn Hán Việt: Lưỡng xứ trầm ngâm các tự tri - ND.

    Anh Tần có thai là một việc rất đáng mừng, vì mọi người đều đang bận rộn chuẩn bị cho lễ thành thân của Hoàng trưởng tử cùng việc các cung tần mới vào cung, Huyền Lăng liền nhờ cậy Trinh Phi thường ngày vốn hợp tính với Anh Tần tới chăm sóc nàng ta, Hân Phi thì ở gần chỗ Anh Tần nên cũng thường xuyên lui tới.

    Hôm ấy tôi vừa xử lý ổn thỏa những việc vụn vặt trong tay, chợt nhớ ra đêm qua khi nhắc tới hôn sự của Hoàng trưởng tử, Huyền Lăng có nói rằng Thục Hòa Công chúa cũng đến tuổi xuất giá rồi.

    Tôi không khỏi hơi ngây ra. “Trước đây Hoàng thượng chưa từng nói tới việc này, sao hôm nay tự dưng lại nhắc đến vậy?”

    Huyền Lăng cào nhẹ mũi tôi một cái. “Nàng cho rằng trẫm không nhắc đến tức là không để tâm sao? Vả lại trước đây nàng đã ba phen bốn bận nói việc này với trẫm rồi mà.” Tôi có chút xấu hổ, liền cố ý làm bộ giận dỗi với y. “Ai mà biết được tứ lang lại ghi nhớ lời của thần thiếp vào lòng như thế chứ!”

    Huyền Lăng hào hứng nói về các sự lựa chọn, lại lần lượt bình phẩm từng người. Tôi chăm chú lắng nghe, thấy đó đều là những bậc thanh niên tuấn kiệt thường xuất hiện trên các bản tấu sớ. Rồi Huyền Lăng lại nói với tôi: “Khi nào có thời gian rảnh rỗi, nàng hãy đi gặp Hân Phi nói việc này cho nàng ta biết, dù sao nàng ta cũng là mẹ ruột của Thục Hòa.”

    Thế là tôi bèn trở dậy thay xiêm y, lập tức đi tới chỗ Hân Phi. Thục Hòa Công chúa vốn ngồi bên cạnh mẫu thân, mới nghe được một nửa đã đỏ mặt tía tai vội vàng trốn vào nội điện, còn Hân Phi thì hỏi han kĩ càng từng câu, sau đó liền thở dài cảm khái: “A Di Đà Phật, xem ra Hoàng thượng đã thật sự chịu để tâm lựa chọn rồi. Tuy ta không được tận mắt nhìn thấy nhưng nghe nói vậy cũng thấy rất vui mừng.”

    Tôi cười tủm tỉm, nhìn nàng ta. “Thục Hòa Công chúa là trưởng nữ của Hoàng thượng, Hoàng thượng có thể không cẩn thận chọn phò mã được sao? Hoàng thượng ngoài miệng tuy không nói gì nhưng trong lòng kỳ thực thương yêu Công chúa và tỷ tỷ lắm đấy.”

    Hân Phi mừng rỡ không thôi, đưa tay lên xoa ngực, nói: “Ta cũng không mong điều gì khác, chỉ hy vọng không phải là hòa thân hoặc gả đi xa, nếu có thể gả chồng trong kinh thì đương nhiên là tốt nhất.”

    Thế rồi chúng tôi lại tán gẫu thêm về chuyện mấy vị Trưởng công chúa chọn phò mã năm xưa, mãi một hồi lâu sau mới dừng, nhưng Hân Phi còn chưa hết hưng phấn, cài vội một cây trâm ngọc lên đầu rồi kéo tôi ra ngoài. “Anh Tần sau khi có thai tinh thần vẫn luôn hoảng hốt, chúng ta cùng qua thăm nàng ta một chút nhé!”

    Trong Ngọc Bình cung, Xuân Tần và Hủ Tần đang cùng nghiên cứu một bản cầm phổ cũ, Anh Tần thì ngồi một mình trên hành lang mà chơi đùa với một con vẹt, thấy chúng tôi tới, cả ba vội vàng hành lễ. Tôi đưa tay đỡ lấy Anh Tần, cười, nói: “Đừng như vậy, lỡ làm ảnh hưởng đến thai khí thì không hay đâu.” Sau đó lại hỏi: “Thái y dặn rằng đi lại nhiều một chút có thể giúp an thai, muội làm theo chưa thế?”

    Xuân Tần vốn tính hoạt bát, nhanh nhảu đáp thay: “Làm gì có! Anh Tần tỷ tỷ lười đi lại lắm, cả ngày đều ngồi không buồn bực trong phòng, con vẹt này còn là do phủ Nội vụ kiếm cách dâng lên đấy, bằng không tỷ ấy ngay đến bậu cửa cũng chẳng chịu bước qua đâu.”

    Hân Phi vỗ tay cười, nói: “Vậy thì trùng hợp quá, ta và Thục phi nương nương tới đây chính là để rủ muội đi dạo đấy. Bây giờ phong cảnh ở hồ Thái Dịch đang vào độ đẹp nhất, muội tới đó dạo chơi, tâm trạng ắt sẽ thư thái hơn nhiều, sau này tiểu Hoàng tử cũng sẽ thích nói thích cười hơn.” Dứt lời liền nắm tay Anh Tần kéo đi, không cho phân bua gì nữa.

    Cả đoàn người chậm rãi, cẩn thận bước đi, Hân Phi vừa nhìn đường vừa kể với Anh Tần những việc của Thục Hòa hồi nhỏ, Anh Tần thỉnh thoảng mới khẽ đáp lại một câu. Tôi thầm cảm thấy kỳ lạ vô cùng, nhưng nhất thời cũng không nhìn ra được điều gì, chỉ để ý nhìn đường, đồng thời góp chuyện đôi câu.

    Khi đi tới Tuế Hàn các, mặt hồ phía trước đã thoáng đãng vô cùng, phong cảnh thực là tươi đẹp, chúng tôi liền cùng nhau ngồi xuống nghỉ ngơi. Phía đằng xa, ca nữ của Trang Mẫn Phu nhân đang cất cao tiếng hát mà hát bài dân ca Thượng da mang âm vận cổ:

    Hỡi trời! Ta nguyện với chàng tương tri, mãi mãi chẳng phân ly. Chờ núi mòn, sông kiệt, đông vang sấm dậy, hè mưa tuyết, trời đất hợp, mới cùng chàng ly biệt[36].

    Tiếng ca vang vọng mãi không thôi, hết sức động lòng người, ngay đến cảnh xuân rực rỡ trong Thượng Lâm uyển cũng như vì thế mà ngưng đọng trong khoảnh khắc.

    Giữa tiếng ca ấy, Anh Tần lộ rõ vẻ ngẩn ngơ, ánh mắt nhìn đăm đăm về một phía, tâm hồn thì như đã bay đến phương xa. Tôi nhìn đi theo hướng ánh mắt nàng ta, thấy nàng ta hình như đang nhìn một cây sồi xanh biếc bên bờ hồ Thái Dịch, nhưng rồi trước mắt bỗng như có một chiếc áo bào màu đỏ sậm của Vũ lâm lang[37] thoáng qua. Tôi gần như cho rằng mình đã nhìn nhầm, thế nhưng lại thấy trong mắt Anh Tần rõ ràng nổi lên mấy làn gợn nhẹ, ánh mắt thì càng thêm ấm áp và mờ mịt. Tự nơi đáy lòng bất giác dâng lên một tia hồ nghi, tôi cố kìm nén những gợn sóng trong lòng, hơi hất hàm ra hiệu. Hoa Nghi hiểu ý, liền âm thầm đi về hướng gốc sồi xanh kia.

    [36] Dịch thơ: Điệp Luyến Hoa, có chỉnh sửa. Nguyên văn Hán Việt: Thượng da! Ngã dục dữ quân tương tri, trường mệnh vô tuyệt suy. Sơn vô lăng, giang thủy vi kiệt, đông lôi chấn chấn, hạ vũ tuyết, thiên địa hợp, nãi cảm dữ quân tuyệt! - ND.

    [37] Tức là lính trong Vũ lâm quân, tương đương với thị vệ.

    Tôi kéo tay Anh Tần đi vào trong các, mỉm cười, nói: “Muội vừa có thai, phải chú ý giữ gìn thân thể mới được.” Ánh mắt Anh Tần lộ rõ vẻ lưu luyến không nỡ rời, nhưng ngoài miệng cũng chỉ đành đáp “dạ” một tiếng.

    Tôi nhìn ra mối tâm sự mà nàng ta không kịp giấu đi, lại càng ân cần dặn dò tỉ mỉ. Hân Phi tươi cười bước tới. “Những lời này Thục phi dặn dò muội là thích hợp nhất đấy. Trong cung chỉ có Thục phi là có đủ cả nếp lẫn tẻ, tất nhiên là nhiều kinh nghiệm nhất rồi.”

    Tôi bật cười phỉ phui một tiếng: “Hân Phi tỷ tỷ đúng là mồm miệng chua ngoa quá. Bọn muội cũng cần thỉnh giáo tỷ một chút đây, phải làm sao mới nuôi được một cô Công chúa vừa xinh đẹp lại vừa nết na như thế vậy?”

    Người làm mẹ cứ nói tới chuyện con cái là bắt đầu tràng giang đại hải, Anh Tần cũng vì thế mà tạm gác tâm sự qua một bên.

    Nói chuyện được một hồi thì Hoa Nghi bước tới đỡ lấy tay tôi, cười tươi, nói: “Nương nương nên quay về nghỉ ngơi một chút, canh tổ yến chắc đã được hầm xong rồi đấy!” Tôi bám vào tay nàng ta chậm rãi bước đi, tà váy dài màu trắng bạc lướt nhẹ trên con đường lát đá cuội sạch bong không có một hạt bụi. Trên tay vẫn cầm một cành liễu vừa tiện tay hái, tôi buột miệng dặn dò Hoa Nghi: “Lúc quay về nhớ dùng chỉ đỏ treo một cành liễu lên trước cửa cung, làm như thế có thể cầu phúc.”

    Tiểu Doãn Tử cười hì hì, bước tới nói: “Chữ “liễu” đồng âm với chữ “lưu”, trong ngày xuân các vị nương nương, tiểu chủ đều làm như vậy cả, hy vọng có thể giữ được Hoàng thượng lại. Nhưng nương nương kỳ thực không cần phải thế, Hoàng thượng có hôm nào mà không tới chỗ chúng ta đâu.”

    Tôi vốn định mắng hắn lắm miệng nhưng vì mọi người đều đang ở đây nên không tiện mở lời, chỉ khẽ mím môi nở một nụ cười, cũng không giải thích gì cả. Từng làn gió xuân ấm áp thổi tới khiến người ta thầm cảm thấy thư thái, Hân Phi cười tươi, nói: “Lời này của Tiểu Doãn Tử quả là đúng lắm, chờ khi Anh Tần muội muội sinh nở xong rồi Hoàng thượng ắt cũng sẽ đối xử với muội muội như vậy.”

    Tôi cảm thấy hơi mỏi mệt, đang định xoay người rời đi thì bất ngờ nhìn thấy Thanh.

    Bên bờ hồ Thái Dịch, liễu rủ biếc xanh, y vận một bộ đồ màu trắng bạc đứng lặng im trong gió, thần thái ngợp nỗi buồn thương.

    Tôi không khỏi hơi sững người vì kinh ngạc, Anh Tần rụt rè lùi về phía sau hai bước, nhưng Hân Phi thì lại cười tươi, bước đến trêu chọc: “Lâu lắm không gặp Vương gia rồi, đúng là người đã thành gia lập thất có khác, chẳng còn được tiêu dao tự tại như trước kia. Bây giờ Vương gia đã có hai vị trắc phi, chỉ e có mọc cánh cũng khó mà bay thoát được.”

    Các cung nhân bên cạnh nghe thế đều không kìm được cười vang vui vẻ, Huyền Thanh cũng khẽ mỉm cười điềm đạm. “Hân Phi đúng là hài hước quá.”

    Y ngoảnh đầu qua, nhìn thấy tôi đứng sau lưng Hân Phi thì thoáng ngẩn ra một chút, ngay sau đó lập tức khom người. “Hóa ra Thục phi cũng ở đây. Đã lâu lắm không gặp rồi, Thục phi vẫn khỏe chứ?”

    Câu “đã lâu lắm không gặp rồi” đó của y khiến tôi bất giác sinh lòng cảm khái, lần trước gặp y là trong hôm Ngọc Ẩn xuất giá, tính đến nay cũng phải tám, chín tháng rồi, thoáng ngẫm lại mới thấy thời gian chẳng bao giờ đợi chờ ai.

    Tôi ung dung đáp: “Làm phiền Vương gia quan tâm rồi, bản cung vẫn khỏe. Không biết hôm nay Vương gia vào cung có việc gì vậy?”

    Từng lời lẽ, cử chỉ của tôi đều hoàn toàn phù hợp với quy củ cung đình, không có một tia sơ hở nào, giống hệt như y lúc này đây. “Lâu rồi không vào cung, hôm nay ta tới là để thỉnh an Thái hậu.”

    Tôi vừa định mở lời thì bỗng thấy đằng sau gốc liễu bên cạnh y có một nữ tử tha thướt đi ra, nhẹ nhàng cất tiếng: “Bên hồ Thái Dịch gió lớn, Vương gia cứ nên khoác áo choàng thì hơn.” Dứt lời liền bước tới khoác lên vai y một chiếc áo choàng dày ấm áp.

    Giọng nói ấy thật dịu dàng biết mấy, cử chỉ ấy thật thân mật biết chừng nào, dường như giữa trời đất này, nàng ta chỉ nhìn thấy một mình Huyền Thanh mà thôi. Huyền Thanh hơi nhích người tránh khỏi đôi tay đang định thắt nút áo choàng giúp y của nữ tử đó. “Đa tạ!”

    Nàng ta không hề để bụng, chỉ khẽ mỉm cười. “Chúng ta là phu thê, Vương gia hà tất phải khách sáo như thế làm gì.”
    Năm chữ “chúng ta là phu thê” đó được nói ra rất tự nhiên, bên trong còn ẩn chứa mấy tia đắc ý và vui mừng. Thì ra có thể quang minh chính đại đứng bên cạnh y là một việc hạnh phúc và đáng kiêu ngạo đến thế.

    Tôi chăm chú nhìn nữ tử trước mắt, thấy nàng ta có dung nhan xinh đẹp, vóc người cân đối, xiêm y lộng lẫy mà không kém phần trang nhã. Tôi chưa gặp nữ tử này bao giờ, nhưng nàng ta rất nhanh sau đó đã khom người hành lễ: “Thiếp thân Thanh Hà Vương Trắc phi Vưu Tĩnh Nhàn bái kiến Thục phi nương nương, nương nương vạn phúc kim an!”

    Tới lúc này tôi mới nhớ ra trong ngày đại hôn của Thanh Hà Vương, vị Trắc phi Vưu thị này hãy còn đang bệnh nên không thể ra ngoài, do đó hôm nay mới là lần đầu tiên tôi gặp nàng ta. Không ngờ nàng ta lại xinh đẹp, dịu dàng như thế, thật khiến người ta chẳng thể sinh ra chút ác cảm nào.

    Tôi vội đưa tay tới đỡ lấy nàng ta, ôn tồn nói: “Chúng ta là người một nhà với nhau cả, Tĩnh phi đâu cần khách sáo như thế làm gì!”

    Nàng ta mỉm cười nền nã. “Đáng ra thiếp thân phải tới thỉnh an Thục phi nương nương từ sớm, hiềm rằng thân thể luôn không khỏe, thực là thất lễ quá. Vậy nên hôm nay thiếp thân mới cùng Vương gia vào cung, thứ nhất là để thỉnh an Thái hậu, tiếp đến cũng là muốn thỉnh tội với các vị nương nương.”

    “Tĩnh phi thân thể không khỏe vốn nên nghỉ ngơi mới đúng, bản cung và Thái hậu đều hy vọng Tĩnh phi được an khang, há lại đi để tâm tới mấy thứ lễ nghi phù phiếm kia làm gì. Bên hồ Thái Dịch gió lớn, Tĩnh phi lo cho thân thể Vương gia là phải, nhưng cũng cần lo cho thân thể của mình, bằng không Vương gia làm sao mà yên tâm được.”

    Nàng ta bất giác ửng hồng hai má, vội vàng cúi đầu, lí nhí nói: “Thục phi nương nương nói rất phải.”

    Tôi cười, nói: “Sao hôm nay Ngọc Ẩn không cùng tới thỉnh an Thái hậu vậy? Thực là vô phép quá. Tĩnh phi và Ngọc Ẩn vốn cùng hầu hạ Vương gia, khi nào rảnh rỗi nhớ phải thay bản cung dạy dỗ muội ấy mới được.”

    Vưu Tĩnh Nhàn chỉ cười không nói, Huyền Thanh thì ôn tồn nói: “Hôm nay điền trang cho người tới bẩm báo tình hình mùa vụ, Ngọc Ẩn phải ở trong phủ lo liệu công việc cho nên mới không thể đi cùng.”

    Vưu Tĩnh Nhàn lộ vẻ áy náy. “Ngọc Ẩn tỷ tỷ rất giỏi lo liệu việc nhà, không như thiếp thân suốt ngày bệnh tật, ốm yếu làm liên lụy tới người khác.”

    Tôi ôn tồn nói: “Tĩnh phi quá cả nghĩ rồi. Nghe nói Tĩnh phi thông hiểu thi thư, lại được Thái hậu yêu thích, sao có thể nói là làm liên lụy tới người khác được.”

    Huyền Thanh cũng cất giọng hiền hòa nói với nàng ta: “Nàng đừng cả nghĩ.”

    Nàng ta nghe thế mới chịu nở nụ cười tươi tắn, đủ thấy một tràng dài những lời vừa rồi của tôi cũng không so sánh được với một câu nói của Huyền Thanh. Nàng ta hơi ngước mắt lên, khẽ nói: “Ngọc Ẩn tỷ tỷ là nghĩa muội của nương nương, nương nương nếu không chê thiếp thân ngốc nghếch thì hãy cứ coi thiếp thân như muội muội là được rồi.”

    Tôi chỉ khẽ cười điềm đạm. “Tĩnh phi nói thế thực là đề cao bản cung quá!”

    “Thời gian không còn sớm nữa, chúng ta đừng để Thái hậu phải đợi lâu.” Huyền Thanh đưa mắt liếc tôi, thoáng ngập ngừng một chút rồi đi tới đỡ lấy khuỷu tay Vưu Tĩnh Nhàn. “Đi cẩn thận một chút!” Vưu Tĩnh Nhàn ửng hồng hai má, lí nhí đáp “vâng” một tiếng rồi đưa tay nắm chặt lấy bàn tay y.

    Tôi thầm cảm thấy chua xót, ngoảnh đầu qua ngắm nhìn mấy gốc ngọc lan đang nở hoa rực rỡ bên bờ hồ. Những bông hoa thoang thoảng hương thơm đó nhìn hệt như những chiếc chén tuyết trắng ngần chen chúc nhau, bông nào bông nấy mang đầy sắc xuân nồng đậm. Hân Phi khẽ cười, nói: “Lục Vương gia đối xử với Tĩnh phi tốt quá, chắc hẳn không thua kém nghĩa muội Ẩn phi của nương nương chút nào, thế này gọi là gì ấy nhỉ... À, là kẻ tám lạng người nửa cân, lục Vương gia quả đúng là một lãng tử đa tình.”

    Tôi dõi mắt nhìn bóng dáng y dần biến mất giữa rặng liễu biếc xanh bên bờ hồ, lại tán gẫu với Hân Phi thêm vài câu rồi mới cáo từ rời đi. Khi về tới Nhu Nghi điện, tôi chợt nhìn thấy Diệp Lan Y đã chờ sẵn bên trong điện, đang cầm một chén mật ong vui vẻ nhấm nháp, không kìm được thầm kinh ngạc. Tiểu Doãn Tử dâng trà lên, nói: “Nương nương về thật đúng lúc quá, Diễm Tần tiểu chủ cũng vừa mới tới đây thôi!”

    Tôi để yên cho Hoa Nghi giúp mình cởi áo ngoài ra, cười, nói: “Muội muội thực hiếm có khi nào tới đây ngồi chơi thế này.”

    Nàng ta chẳng buồn ngẩng đầu lên, chỉ nói với Tiểu Doãn Tử: “Mang một chén trà nóng lên đây, nhớ phải nóng vào đấy!”

    Tiểu Doãn Tử không hiểu ý nàng ta, nhưng thấy tôi không nói gì thì chỉ đành rời đi. Thấy xung quanh đã không còn ai, Diệp Lan Y mới hờ hững nói: “Bên hồ Thái Dịch gió lớn, ta sợ trái tim nương nương bị lạnh cho nên mới phải kêu người mang trà nóng lên như thế.”

    Tôi biết nàng ta muốn nói tới việc gì, bèn ngồi xuống, nói: “Cô thấy cả rồi ư?”

    “Vương gia một lần cưới liền hai vợ, đã gặp Ẩn phi rồi sao có thể không gặp luôn vị Tĩnh phi kia chứ? Cái tiếng si tình nghe nói đã lâu, quả là trăm nghe không bằng một thấy.” Dứt lời lại vội vàng đưa tay lên bịt miệng. “Ta nói nhầm mất rồi, Vương gia không có người vợ nào cả, chỉ có hai nàng thiếp xinh đẹp mỹ miều bầu bạn kề bên mà thôi.”

    Tôi đưa mắt liếc nàng ta. “Cô lại nấp ở đâu để xem kịch hay vậy?”

    Nàng ta hơi nhếch khóe môi coi như cười mỉm. “Làm người thật vất vả, đi đâu cũng phải diễn kịch, trong cung thì lại càng có kịch hay ở khắp nơi, ta thực không tiện bước ra làm ảnh hưởng tới vở kịch giữa nương nương và Vương gia.”

    “Cô không cho rằng Tĩnh phi cũng chỉ diễn kịch thôi ư?”

    “Có rất nhiều việc vừa nhìn đã thấy giả dối, nhưng tình cảm của người ta thì lại rất chân thành. Nương nương mới chỉ thấy một lần thôi mà đã không thoải mái như vậy rồi, không biết sự si tình ấy ngày ngày lọt vào mắt Ẩn phi thì sẽ sao đây? Ta chỉ biết là ai ai cũng thích xem vở kịch giữa Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài, xem xong thì đều thổn thức, nhưng nếu như lọt vào mắt Mã Văn Tài, hắn không nổi điên, muốn giết chết Lương Sơn Bá ngay mới là chuyện lạ.”

    Tôi cúi đầu, khẽ nói: “Ngọc Ẩn chưa chắc đã là Mã Văn Tài.”

    Diệp Lan Y cất giọng hờ hững: “Chớ xem nhẹ lòng đố kỵ của nữ nhân. Ta quên mất, Mã Văn Tài chưa chắc đã thật sự muốn giết Lương Sơn Bá, nhưng nữ nhân thì không cần phải nghi ngờ gì cả.” Hơi dừng một chút, nàng ta lại nói tiếp: “Sau khi thành thân, Vương gia vốn chỉ vào cung cùng Ẩn phi, bây giờ Tĩnh phi đã khỏe lại, Ẩn phi hôm nay ngoài lo liệu việc nhà ra chỉ e sẽ phải nếm thử mùi vị bị ghẻ lạnh rồi.”

    “Có gì đáng kể đâu.” Tôi mỉm cười điềm đạm. “Năm xưa muội ấy đã quen thấy cảnh ta bị ghẻ lạnh rồi, ắt sẽ không sợ hãi gì cả. Xét cho cùng thì bây giờ Ngọc Ẩn và Vưu Tĩnh Nhàn cũng ngồi ngang hàng với nhau.”

    “Chính vì hai người bọn họ ngồi ngang hàng với nhau, cho nên Vương gia mà đối tốt với ai hơn một chút, người kia nếu như lòng dạ hẹp hòi ắt sẽ không thể chịu đựng được.” Nàng ta khuấy nhẹ chén mật ong, khuôn mặt như cười mà chẳng phải cười in bóng vào trong chén. “Tại sao Vương gia lại cưới Chân Ngọc Ẩn, nương nương hẳn là biết rõ hơn ta. Bức tranh cắt đó cớ gì lại vô duyên vô cớ rơi ra ngoài? Vương gia vốn không phải một người không cẩn thận như thế.”

    Tôi thầm khen sự thông minh cùng khả năng quan sát nhạy bén của nàng ta, thở dài than: “Ván đã đóng thuyền, Diễm Tần nên hiểu rằng thứ gì nắm trong tay mới là đáng tin cậy nhất. Vả lại ta với cô ngay từ sớm đã không có cơ hội như Ngọc Ẩn rồi. Muội ấy tuy có lòng riêng nhưng cũng không thể chê trách gì được.”

    “Người không vì mình trời tru đất diệt, chỉ hy vọng Ẩn phi đừng tru diệt luôn cả lương tâm của mình.” Nàng ta cầm chén nước mật ong lên, uống một hơi cạn sạch. “Xin cáo từ, ta phải quay về nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng đây. Sau này e là còn vô số vở kịch hay khác, không thể không xem được.” Dứt lời liền tự mình rời đi, chiếc áo màu xanh lất phất tung bay trong gió, bóng lưng ngợp đầy vẻ cô đơn.

    Diệp Lan Y rất cô đơn, bởi vì yêu sâu sắc, bởi vì vĩnh viễn không có được, cho nên mới cô đơn đến nhường này.

    Cận Tịch thấy tôi trầm tư thì liền bước ra từ sau bức bình phong, mang tới cho tôi một đĩa mứt anh đào, cười tủm tỉm, nói: “Nương nương có biết tại sao các phi tần trong cung thích ăn đồ ngọt không?”

    Tôi tiện tay cầm một quả anh đào đỏ tươi như máu lên, bỏ vào miệng. “Có lẽ là vì trong lòng đắng quá nên đành ăn đồ ngọt để bù đắp thôi.”

    “Phải rồi, vậy nương nương hãy ăn nhiều một chút.” Hơi dừng một chút, nàng ta lại nói tiếp: “Lời của Diễm Tần tiểu chủ kỳ thực nương nương không cần phải để trong lòng làm gì.”

    Tôi thở dài than: “Nhưng những lời đó của cô ta cũng chính là nỗi lo lắng của ta về Ngọc Ẩn. Hôm nay ta vừa gặp đã biết Vưu Tĩnh Nhàn là một nữ tử lớn lên trong sự thương yêu của cha mẹ, cô ấy thích thể hiện tình yêu của mình với Vương gia, bất kể là ở trước mặt hay sau lưng người khác, cũng bởi thế nên việc cô ta đổ bệnh vì Vương gia khi xưa mới sục sôi lên như vậy. Còn về Ngọc Ẩn, muội ấy kín đáo hơn nhiều.”

    Cận Tịch mỉm cười, an ủi: “Ẩn phi là người có phúc, tất nhiên biết rõ cần phải trân trọng niềm hạnh phúc ấy. Hơn nữa trong vương phủ dù sao cũng chỉ có hai nữ nhân, cho dù Ẩn phi có vì việc Tĩnh phi chen ngang năm xưa mà tức giận thì cũng hiểu rõ rằng bất kể là ai trong số hai người bọn họ xảy ra chuyện thì người kia cũng không cách nào thoát khỏi mối nghi ngờ. Nương nương bây giờ cứ nên suy nghĩ cho bản thân thì hơn.”
     
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này