1. Thông báo

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan (Vui lòng click vào ảnh để xem chi tiết)

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan
    Dismiss Notice

Ngôn tình Hậu cung Chân Hoàn truyện - Tác giả: Lưu Liễm Tử - Tình trạng: Full

Thảo luận trong 'Truyện dịch' bắt đầu bởi Vân Yên, 28/8/17.

Những người đang xem bài viết này (Thành viên: 0, Khách: 0)

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 16: Gương vẫn gương xưa người đã khác[32]
    [32] Trích Ngọc xuân lâu - Thành thượng phong quang oanh ngữ loạn của Tiền Duy Diễn. Nguyên văn Hán Việt: Loan kính chu nhan kinh ám hoán - ND.

    Đi được nửa đường thì chúng tôi gặp một đội nhân mã mấy ngàn người do Huyền Lăng phái tới tiếp ứng, cầm đầu là Hạ Ngải. Hắn thấy tôi được hộ tống trở về thì vô cùng ngạc nhiên, sau đó liền than rằng sông Vị Nam dâng nước lũ làm hành trình bị trở ngại, do đó không thể tới tiếp ứng như ước hẹn. Rồi hắn cũng không dám hỏi han quá nhiều, chỉ lẳng lặng đưa tôi về cung theo sự an bài từ trước.

    Mọi việc đều thuận lợi, đến khi tôi về tới Tử Áo Thành thì đã là nửa đêm bốn ngày sau rồi.

    Cận Tịch tin tức nhanh nhạy, vừa hầu hạ tôi tắm rửa vừa khẽ nói: “Hoàng thượng khi hay tin lục Vương gia tự tiện cầm quân xuất kinh đã vô cùng tức giận, về sau lại biết nương nương được người của Vương gia và Hạ Ngải cùng nhau hộ tống về cung thì hết sức nghi ngờ, lúc này không biết đang tức giận điên cuồng tới mức nào nữa.” Nàng ta nhìn tôi vẻ âu lo. “Hoàng thượng đã phái người tới truyền chỉ rồi, bảo nương nương giờ cứ nghỉ ngơi trước đã, khi trời sáng hãy đến Nghi Nguyên điện bái kiến. Ma Cách còn chưa chết, lại xảy ra chuyện của lục Vương gia, Hồ Uẩn Dung hai ngày nay đã nói vào nói ra không ít lời bên tai Hoàng thượng, nương nương đã nghĩ ra cách ứng phó nào chưa?”

    Tôi mệt mỏi lắc đầu, xung quanh hơi nước bốc lên nghi ngút phả thẳng vào mặt tôi, bên trong xen lẫn hương thơm nồng nàn của hoa hồng. Cận Tịch múc từng gáo nước dội vào người tôi, giữa tiếng nước rào rào, tôi nghe thấy giọng nói đầy vẻ bình tĩnh của chính mình: “Hoàng thượng nói là ta kinh hãi thành bệnh, đến bây giờ vẫn chưa tuyên bố bệnh tình của ta có chuyển biến tốt, trong thiên hạ có người làm mẹ nào mà không quan tâm tới con gái của mình, lúc này nên để mẫu thân tới thăm ta một chút. Hoàng thượng không để người khác tới quấy nhiễu ta tĩnh dưỡng, vậy thì hãy kêu Hoa Nghi tranh thủ lúc đêm khuya đi mời mẫu thân ta và cửu Vương phi vào cung, trước tiên cứ tới Nghi Nguyên điện cầu xin Hoàng thượng cho đến thăm ta một chút.” Tôi chậm rãi nhắm đôi mắt lại. “Lỡ như Hoàng thượng thật sự muốn giết ta hoặc là phế truất ta, đây cũng có thể coi là lần gặp mặt cuối cùng của ta với mẫu thân và tiểu muội rồi.”

    Cận Tịch nghe vậy liền không kìm được thầm thương cảm, đành cười gượng, nói: “Hoàng thượng nhất định sẽ đồng ý thôi, từ khi nương nương vào cung tới giờ, cho dù là lúc mang thai sinh nở, lão phu nhân cũng rất ít khi vào cung, chưa từng gặp mặt Hoàng thượng, tính ra thì Hoàng thượng dù gì cũng phải nể mặt nhạc mẫu một lần chứ. Nương nương nói rất đúng, chúng ta dù sao cũng vẫn còn cửu Vương phi, Hoàng thượng chắc sẽ không làm quá đâu.”

    Ngọc Nhiêu, đâu phải là chỉ có Ngọc Nhiêu.

    Giữa làn hơi nước bao quanh, tôi hơi nhếch khóe môi nở một nụ cười lạnh lẽo, kế đó lặng lẽ nhắm đôi mắt lại không nói gì thêm.

    Khi trời gần sáng, phía đằng đông lộ ra một vệt màu trắng bạc, rồi sau đó dần dần biến thành màu trắng hồng, màu vàng cam nhạt, màu đỏ tươi, và cuối cùng bầu trời chỉ còn lại một mảng trong xanh biêng biếc.

    Tôi đứng lặng lẽ trong Nghi Nguyên điện, trên người là một bộ xiêm y may bằng lụa mỏng thêu hình hoa lê. Đang dịp giữa hè, mồ hôi rỉ ra làm áo váy dính sát vào da thịt mang tới cảm giác nhớp nháp vô cùng khó chịu.

    Huyền Lăng không nói gì, nhưng ánh mắt y thì vẫn đầy vẻ lạnh lùng và xa cách, dường như khắp toàn thân y không có chỗ nào là không tỏa ra hơi lạnh.

    Tôi cung tay nói: “Thần thiếp không thể hoàn thành nhiệm vụ mà Hoàng thượng giao, tội đáng muôn chết.”

    Y dường như đã khẽ cười. “Đúng là đáng chết, nhưng tội đáng muôn chết thì lại không phải ở chuyện này...” Y không nói tiếp nữa, tôi thì biết rõ nhưng không hỏi, chỉ lặng lẽ cung tay đứng đó.

    Lúc này trời vừa sáng, vì gian điện rộng quá nên ánh sáng không thể chiếu rọi hết được, vẫn còn hơi u ám. Trong bình hoa đặt trên chiếc bàn gần đó có cắm một bó hướng dương vừa hái, không ngừng tỏa hương. Tôi lặng lẽ nhìn y, cất giọng thành khẩn: “Thần thiếp có tội, quả thực không dám cầu xin gì cho mình, chỉ mong Hoàng thượng hãy xót thương mẫu thân cùng muội muội của thần thiếp, bọn họ đã ở ngoài điện cầu kiến từ nửa đêm rồi...”

    Một làn gió sớm mát rượi thổi vào, xen lẫn bên trong đó dường như còn có giọng nói của Ngọc Nhiêu: “Công công không cần khuyên nữa, nếu Hoàng thượng không rảnh thì để ta với mẫu thân chờ thêm một lát nữa là được rồi.”

    Giọng của Lý Trường vang lên vẻ vừa nôn nóng vừa bất lực: “Chao ôi, Vương phi mà cứ tiếp tục thế này, lỡ như Vương gia trách tội thì lão nô biết phải làm sao!”

    Ngọc Nhiêu chắc hẳn cũng đã sốt ruột, bèn đi tới vừa đập cửa điện vừa cất giọng trong trẻo: “Tỷ phu! Tỷ phu! Tỷ tỷ bị ốm nặng đã lâu như thế rồi, tỷ phu hãy để muội và mẫu thân đi thăm tỷ ấy một chút đi mà!”

    Huyền Lăng bất giác máy động đôi mày, hiển nhiên là đã bị lời cầu xin của Ngọc Nhiêu đánh động. Tôi bèn khẩn khoản cất tiếng van nài: “Hoàng thượng xin hãy kiếm lấy cái cớ nào đó kêu Ngọc Nhiêu và mẫu thân thần thiếp rời đi là được, thần thiếp thực không đành lòng để bọn họ phải thương tâm. Thần thiếp tuy có lỗi nhưng xin Hoàng thượng hãy nghĩ đến tình nghĩa bao năm nay giữa chúng ta...”

    Y đưa mắt liếc tôi, lạnh lùng nói: “Nàng đang ốm, không tiện gặp người khác vào lúc này.”

    Tôi hiểu ý, bèn rảo bước đi nhanh đến phía sau bức bình phong trong điện. Huyền Lăng lớn tiếng nói: “Mau mời lão phu nhân và cửu Vương phi vào đây.”

    Cổ họng tôi đột nhiên nghẹn lại, tự nơi đáy lòng trào dâng một thứ cảm giác khó tả bằng lời. Tôi trước giờ chưa từng căng thẳng như thế, hoàn toàn không khống chế nổi nhịp tim của bản thân.

    Có lẽ đây sẽ là ván cược cuối cùng trong cuộc đời này của tôi.

    Cửa điện đột ngột mở ra mang theo một luồng sáng rực rỡ từ ngoài điện chiếu vào, người ở trong điện nhất thời không thể mở to mắt ra được. Huyền Lăng hơi nheo mắt lại nhìn về phía hai nữ tử đang cùng cất bước đi vào trong Nghi Nguyên điện.

    Hai người cung kính quỳ xuống hành lễ, Huyền Lăng nhìn qua phía Ngọc Nhiêu, cất giọng ôn tồn khác hẳn vừa rồi: “Ngọc Nhiêu, có chuyện gì muội cứ từ từ nói là được rồi, không cần phải nôn nóng.”

    Ngọc Nhiêu vừa khóc nức nở vừa nói: “Thời gian qua tỷ tỷ cứ ốm mãi không khỏi, muội đã lâu lắm không được gặp tỷ tỷ rồi, muội lo là...”

    Mẫu thân cất giọng dịu dàng điềm đạm cắt ngang lời của Ngọc Nhiêu: “Xin Hoàng thượng hãy cho phép thần phụ được gặp Thục phi một lần.”

    Mẫu thân sau khi đi vào trong điện thì một mực cúi đầu. Bà là người đã có tuổi, lại đang mùa hè nên tà váy rất ngắn, cứ quỳ dưới đất quả thực không được tiện lắm. Huyền Lăng dường như có chút áy náy, vốn định sai người tới đỡ bà dậy nhưng sau lại khách sáo nói: “Chân phu nhân mau đứng dậy đi, khỏi cần quỳ nữa.”

    Chính lúc này, tầm mắt của Huyền Lăng bắt gặp khuôn mặt đang ngước lên của mẫu thân, thần sắc tức thì biến đổi hoàn toàn, đôi bờ vai hơi run rẩy, tâm tư chìm trong một cơn chấn động và mừng rỡ tột cùng, như thể có một món bảo vật vốn đã mất lâu rồi nay bỗng xuất hiện trở lại trước mặt y. Huyền Lăng rảo bước đi tới trước mặt mẫu thân, nhìn chằm chằm vào khuôn mặt bà, chừng như muốn moi móc ra vô số sự quen thuộc của ngày xưa từ trên đó.

    Ngọc Nhiêu nghi hoặc vô cùng, chẳng biết là có chuyện gì xảy ra. Mẫu thân cũng cực kỳ kinh ngạc, không rõ cớ gì mà Huyền Lăng lại đột nhiên thất thố như thế.

    Trái tim vốn suýt nhảy ra ngoài cổ họng của tôi rốt cuộc đã yên ổn trở lại trong lồng ngực, ba hồn bảy phách cũng quay về trong cơ thể. Tôi không dám động đậy, sợ rằng sẽ không kìm nén được những giọt lệ đã rưng rưng trong khóe mắt.

    Một hồi lâu sau, chỉ nghe Huyền Lăng kêu “a” lên một tiếng, kèm theo đó là một tiếng thở dài mang theo nỗi thất vọng cùng buồn bã tột cùng, thực là trái ngược hoàn toàn với nỗi mừng vui mà y vừa mới thể hiện ra khi nãy. Huyền Lăng đang quay lưng về phía tôi, tôi không thể nhìn thấy vẻ mặt của y lúc này, chỉ thấy chiếc long bào trên người y nhẹ nhàng lay động, hai bàn tay đang chắp sau lưng thì không ngừng run lên lẩy bẩy.

    Mẫu thân còn chưa biết là đã xảy ra chuyện gì, đành đánh bạo cầu xin: “Không biết có phải Thục phi đã làm điều gì đó đắc tội với Hoàng thượng trong lúc đau bệnh thần chí không rõ ràng hay không, nhưng dù thật sự là như thế thì cũng mong Hoàng thượng hãy niệm tình Thục phi đã hầu hạ Hoàng thượng hơn mười năm nay mà khoan hồng đại lượng, đừng nên trách tội làm gì.”Huyền Lăng cất giọng ngẩn ngơ: “Bà là ai?”

    Mẫu thân và Ngọc Nhiêu ngơ ngác nhìn nhau, cuối cùng đành trả lời: “Thần phụ là Chân Vân thị, thê tử của Chân Viễn Đạo.”

    Huyền Lăng chậm rãi lùi về phía sau hai bước. “Bà bao nhiêu tuổi rồi?”

    Câu hỏi này của Huyền Lăng quá kỳ lạ, Ngọc Nhiêu nghe mà vừa kinh ngạc vừa hồ nghi, mặt mày bất giác tái nhợt. Thế nhưng quân vương đã hỏi chuyện thì không thể không trả lời, mẫu thân rốt cuộc vẫn bình tĩnh đáp: “Thần phụ năm nay tuổi vừa tròn năm chục.”

    “Tuổi vừa tròn năm chục...” Huyền Lăng khẽ cất tiếng lẩm bẩm. “Nếu nàng vẫn còn sống, bộ dạng chắc cũng giống như bà ta bây giờ...” Y dần tỉnh táo trở lại, bèn gượng cười, nói: “Phu nhân rất biết giữ gìn, nhìn chỉ như người mới ngoài bốn chục, vậy nên trẫm mới mạo muội hỏi một câu như thế.”

    Mẫu thân mỉm cười điềm đạm, thực là rất có phong độ của một bậc mệnh phụ cao quý, cử chỉ hết sức đắc thể. “Hoàng thượng quá khen, thần phụ thẹn không dám nhận.”

    Tôi đưa mắt nhìn ra từ phía sau bức bình phong, thấy mẫu thân và Ngọc Nhiêu giống hệt hai bông sen cùng nở dưới ánh bình minh rạng rỡ và ấm áp. Nếu nói Ngọc Nhiêu là một bông sen vừa hé nở vẫn còn hơi e ấp, kiều diễm tột cùng, vậy thì mẫu thân chính là một bông sen đã qua thời nở rộ, bắt đầu có dấu hiệu úa tàn, nếu tỉ mỉ nhìn kĩ còn có thể thấy được không ít nét phong sương.

    Ngoài đôi mắt ra, Ngọc Ẩn có lẽ giống với mẹ ruột Hà Miên Miên của mình. Còn trong số ba tỷ muội cùng cha cùng mẹ chúng tôi, Ngọc Nhiêu chính là người giống mẫu thân nhất. Lúc này khi đứng bên cạnh mẫu thân, Ngọc Nhiêu thật giống như hình ảnh của mẫu thân thời còn thiếu nữ, khiến người ta không kìm được sinh lòng cảm khái khôn nguôi.

    Kỳ thực trong mấy năm phụ thân bị biếm đến đất Thục, mẫu thân đã phải chịu không ít nỗi khổ, do đó già đi rất nhanh. Nếu đứng ở vị trí của Huyền Lăng mà nhìn kĩ, dù mẫu thân có dùng nhiều phấn son đến mấy cũng không cách nào che giấu được những nếp nhăn trên mặt, hơn nữa tóc mai của bà lúc này cũng đã bắt đầu điểm bạc rồi.

    Tôi khẽ hít một hơi khí lạnh, Huyền Lăng lúc nào cũng đối tốt với Ngọc Nhiêu chẳng qua là bởi vì dung mạo của muội ấy giống Thuần Nguyên Hoàng hậu hồi trẻ mà thôi.

    Hồng nhan như hoa thì sao chứ? Bàn tay của thời gian hết sức công bằng, nó nhẹ nhàng vuốt qua khuôn mặt của mỗi nữ tử, chẳng hề thiên vị bất kỳ ai. Với mẫu thân là thế, với tôi là thế, với Ngọc Nhiêu là thế, với Thuần Nguyên Hoàng hậu cũng là như thế.

    Tôi chậm rãi nở một nụ cười gượng gạo, tự cổ mỹ nhân như danh tướng, chẳng khoe đầu bạc với thế gian. Nếu thật sự bạch đầu giai lão, đối với Huyền Lăng cùng Thuần Nguyên Hoàng hậu mà nói, chưa biết chừng lại là một chuyện đau khổ.

    Huyền Lăng nói bằng giọng hết sức ôn tồn: “Lão phu nhân muốn gặp Thục phi tất nhiên là không có vấn đề gì cả, có điều Thục phi sáng nay vừa uống thuốc, bây giờ e là còn đang ngủ. Lão phu nhân và tiểu di chi bằng hãy qua chỗ Đức phi ngồi tạm một lát đã, đợi khi Thục phi tỉnh lại trẫm sẽ lập tức cho người qua mời. Lão phu nhân hình như rất ít khi vào cung thì phải, thành ra trước đây trẫm chưa gặp bao giờ.”

    Mẫu thân cười rất mực dịu dàng. “Thần phụ xưa nay vẫn hay đau bệnh, lại không hiểu quy củ trong cung lắm, do đó rất ít khi vào cung. Thỉnh thoảng tới thăm Thục phi, thần phụ cũng chỉ theo cùng mọi người, lúc nào may mắn lắm thì mới được thấy long nhan từ xa, thực là phúc bạc.”

    Huyền Lăng cất giọng hòa nhã: “Lão phu nhân khách sáo quá rồi, Thục phi là thê tử của trẫm, lão phu nhân thì là nhạc mẫu của trẫm, cả gia đình chúng ta nên thường xuyên tụ họp vui vầy mới phải.”

    Mẫu thân tiếp tục tươi cười đối đáp với y, tiến thoái đều mười phần đắc thể. Tôi ngẩn ngơ nhớ lại hồi mình thơ bé, hình như là lúc mới năm, sáu tuổi, khi đó Thuần Nguyên Hoàng hậu vừa mang thai, gia quyến của các quan viên trong kinh đều tới trung cung chúc mừng. Mọi người đều biết đó là cái thai đầu tiên của đích Hoàng hậu, rất có thể sẽ là rường cột quốc gia sau này.

    Hôm ấy vốn là ngày thiên hạ cùng vui, vậy nhưng mẫu thân khi trở về lại có chút buồn bã uể oải, khi phụ thân hỏi thì mẫu thân bèn cười, đáp: “Ai ai cũng nói là thiếp thân trông giống Hoàng hậu, chỉ có điều lớn hơn mấy tuổi mà thôi.”

    Phụ thân vốn là người cơ trí tột cùng, lập tức nói: “Sau này nếu không có việc gì thì nàng đừng nên vào cung, kẻo lại sinh điều bất trắc.”

    Khi đó tôi còn rất nhỏ, chỉ biết tựa người vào đùi bà mà nghịch ngợm một dải dây lụa. Khi tuổi tác lớn dần, tôi sớm đã quên đi những lời ấy, chỉ biết là sau khi mình vào cung dù đã trải qua mấy phen chìm nổi nhưng mẫu thân rất ít khi tới thăm nom, thỉnh thoảng có một lần thì cũng là tranh thủ lúc Huyền Lăng đã đi rồi, lại càng không đi bái kiến Hoàng hậu và Thái hậu. Cũng có lúc tôi nghi hoặc hỏi dò nhưng mẫu thân chỉ cười, đáp: “Mẫu thân không hiểu quy củ lắm, không gặp những người tôn quý thì hơn. Huống chi mẫu thân nếu thường xuyên thăm con thì người ta ắt sẽ nói ra nói vào, bảo là con ỷ được sủng ái mà kiêu ngạo, mấy việc thế này cứ nên cẩn thận thì hơn.”

    Đúng vậy, cứ nên cẩn thận thì hơn. Mẫu thân bấy lâu nay vẫn luôn tỉnh táo và biết mình biết người, vậy nên bà và phụ thân mới có thể sống bên nhau hòa thuận nhiều năm, ngoài Hà di nương ra thì các vị di nương trong phủ chẳng qua chỉ là thứ đồ bài trí cho có.

    Tôi chậm rãi đưa tay lên che miệng, uể oải tựa người vào bức bình phong, trong lòng thầm nhủ sự đời chính là như vậy, tôi trước nay vốn chưa từng có thể tránh thoát, lại càng không thể oán trách gì Thuần Nguyên Hoàng hậu.

    Một hồi lâu sau tôi mới chậm rãi đi ra, bước sen vốn luyện thành từ nhỏ thướt tha rất mực, đi trên nền gạch chẳng phát ra tiếng động nào. Y nhìn thấy tôi thì không hề tỏ vẻ ngạc nhiên, chỉ đưa tay tới nhẹ nhàng vuốt ve khuôn mặt tôi. “Hoàn Hoàn, trẫm đột nhiên phát hiện ra một chuyện vô cùng quan trọng.”

    Bàn tay y lạnh giá vô cùng, tựa như vừa ngâm vào nước lạnh giữa ngày đông tháng Chạp. Tôi chỉ khẽ cất tiếng hỏi: “Chuyện gì?”

    Y không trả lời mà ôm tôi vào lòng. “Không có gì cả. Nàng không cần phải biết.”

    Tôi khẽ “ừm” một tiếng, nói: “Tứ lang, thần thiếp đã mắc tội lớn, chàng muốn trừng phạt thế nào cũng được, có điều đừng tức giận quá mà làm tổn hại đến thân thể.”

    Y không nói gì, chỉ lặng lẽ ôm tôi, mãi một lúc sau mới nhẹ nhàng cất tiếng: “Tái ngoại vốn là đất phong sương, trẫm quả thực đã làm khó nàng rồi.”

    Tôi mỉm cười dịu dàng. “Ngày đó thần thiếp cũng rất sợ hãi, nhưng về sau Ngọc Diêu đã tới. Ngọc Diêu trẻ hơn thần thiếp, nhìn bộ dạng của Ma Cách thì hình như cũng rất thích muội ấy.”

    Y đưa tay khẽ vỗ vai tôi. “Không sao cả, nàng bình an trở về là tốt rồi.” Vừa nói y vừa nhìn tôi chăm chú. “Bây giờ muội muội nàng đã đi hòa thân, Ma Cách cũng không có dị nghị gì, vậy việc này hãy dừng ở đây đi, sau này có gì thì sẽ tính tiếp.”

    Tôi gật đầu, y cũng không nói gì thêm. Tôi suy nghĩ một chút rồi cuối cùng vẫn không yên tâm, bèn nói: “Đa tạ Hoàng thượng đã phái lục Vương gia cầm quân tới cứu thần thiếp.”

    Y không nói một lời, hai mắt nhắm hờ, dường như không nghe thấy lời tôi nói. Ánh dương từ ngoài cửa điện rọi vào chiếu lên khuôn mặt y, sắc mặt y lúc này vẫn bình tĩnh vô cùng, thế nhưng hai dòng lệ nóng lại đã rỉ ra từ lúc nào chẳng hay.

    Đây là lần đầu tiên tôi thấy y thất thố rơi nước mắt như vậy, trong lòng trào dâng một thứ cảm xúc khó diễn tả bằng lời.

    Tôi đưa tay che mặt, chậm rãi nhắm đôi mắt lại.
     
  2. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 17: Trời ghen tâm nguyện chẳng chiều nhau[33]
    [33] Trích Hoán khê sa - Chuyển chúc phiêu bồng nhất mộng quy của Lý Dục. Dịch thơ: Nguyễn Chí Viễn. Nguyên văn Hán Việt: Thiên giáo tâm nguyện dữ thân vi - ND.

    Ngoài cửa sổ, ánh trăng trắng lóa len qua những tán lá cây chiếu rọi vào phòng, chờ đến khi trời sáng thì liền biến thành ánh dương trong vắt và tràn đầy sức sống. Kỳ thực sân vắng lặng thinh cũng được, cung cấm phồn hoa cũng thế, dù tôi giờ đã đứng ở nơi cao nhất trong chốn hậu cung này để cúi nhìn chúng sinh rồi, thế nhưng trái tim thì lại giống như một con cá đang lẳng lặng lặn xuống đáy biển Tử Áo Thành, bình thản đón lấy từng tia sáng len qua mặt biển chiếu xuống, lại bình thản nhìn thời gian trôi qua.

    Tôi đã quen rồi, quen với cuộc sống trong chốn hậu cung, không còn khăng khăng đòi có được tình yêu của kẻ quân vương như hồi còn trẻ nữa. Tôi giờ đây đã quen nhìn các phi tần trẻ tuổi hơn tôi dùng trăm phương ngàn kế để tranh giành sự sủng ái có hạn của Huyền Lăng, để mong được Huyền Lăng sủng hạnh, qua đó nâng cao địa vị của bản thân.

    Tôi đã dần già đi, thế nhưng sự quan tâm mà Huyền Lăng dành cho tôi vẫn không hề suy giảm, hơn nữa còn đặc biệt hậu đãi cha mẹ tôi. Cho dù Hồ Uẩn Dung vì sự sủng ái của Huyền Lăng mà được sắc phong làm hiền phi thì tôi vẫn là thục phi cao cao tại thượng, địa vị sừng sững không ai lay chuyển được. So với sự huênh hoang tự mãn của Hồ Uẩn Dung vốn xinh đẹp trẻ tuổi, tôi tỏ ra quá yên tĩnh, thường ngày chỉ lẳng lặng xử lý sự vụ trong cung, lẳng lặng nuôi dạy con cái, khi rảnh rỗi thì uống trà trò chuyện với các phi tần có quan hệ thân mật với mình.

    Nếu không xảy ra chuyện gì bất ngờ, tôi tin rằng cuộc sống của mình sẽ cứ thế này tiếp mãi, cho tới khi tôi trở thành thái phi, hoặc là thái hậu.

    Tất nhiên, trong cuộc sống của tôi cũng có một chuyện khiến tôi cảm thấy vô cùng mới mẻ và thỏa mãn, ấy là Tuyết Phách.

    Sau khi từ biên cảnh trở về được hơn chín tháng, tôi liền sinh cho Huyền Lăng cô con gái thứ sáu, phong hiệu là Tuyết Phách Công chúa, nhũ danh là Thiên Vũ. Đó là một cô bé xinh đẹp có làn da trắng ngần tựa như những bông tuyết dưới ánh trăng. Hơn nữa cô bé còn rất thích cười, khi cười trông giống một bông mai đỏ đang dần dần hé nở giữa trời tuyết rơi trắng xóa, trong trẻo và thuần khiết vô cùng.

    Lũ trẻ cứ thế lớn lên từng ngày, thời gian cũng từng ngày trôi qua.

    Thỉnh thoảng có buổi đêm khuya, Huyền Lăng lại sủng hạnh các phi tần xinh đẹp như hoa ở Đông thất của Nghi Nguyên điện, còn tôi thì ngồi trong Tây thất lẳng lặng chong đèn phê duyệt từng bản tấu sớ. Cuộc sống của tôi cũng không tính là ngồi đáy giếng nhìn trời, ít nhất thì cứ vài tháng một lần tôi lại có thể tới gần với cuộc sống của Huyền Thanh qua các bản tấu chương còn thơm mùi mực.

    Từ sau chuyện lần đó, y không về kinh mà tự nhận tội tùy tiện cầm quân xuất quan, sau đó xin được ở lại trấn thủ nơi biên ải coi như chịu phạt.

    Y trấn thủ Nhạn Minh quan sáu tháng, quân Hách Hách không dám xâm phạm. Y đi tuần biên cảnh, bước chân trải dài một mạch từ Nhạn Minh quan tới đất Bãi Di ở Nam Chiếu, nơi thân mẫu của mình được sinh ra.

    Một năm sau đó, Ngọc Diêu sinh được một cô con gái. Muội ấy vốn tính dịu dàng mà không kém phần kiên nghị, rất được Ma Cách yêu thương, vừa khéo lúc này Đông trướng Yên thị Đóa Lan Ca mắc bệnh qua đời, Ma Cách liền lập Ngọc Diêu làm đại phi của Hách Hách. Năm ấy Huyền Thanh đã thay mặt Đại Chu đưa tặng quà mừng.

    Nhạn Minh quan đổ tuyết lớn, y và các tướng sĩ cùng nhau trấn thủ biên quan, trên áo giáp tuyết rơi dày ba tấc, rất được các tướng sĩ kính phục.

    Trong thời gian cầm quân, y cùng ăn cùng ngủ với tướng sĩ, không hề vì mình là thân vương mà kiêu ngạo, thế nên mọi người lại càng thêm mến yêu, không ai là không phục.

    Y trị quân nghiêm minh, không động đến chút tài sản nào của trăm họ, được người ta gọi là hiền vương.

    Y tôn trọng Hách Hách, vỗ về dân chúng, chốn biên cảnh trở nên yên bình, Hỗ Thị càng thêm hưng thịnh, trăm họ được an cư lạc nghiệp.

    ...

    Trong vô số đêm tôi được thị tẩm, trời bên ngoài hoặc là đổ mưa hoặc là trong vắt dưới ánh trăng chiếu rọi, tôi đều khoác áo trở dậy, lẳng lặng đi tới bên ô cửa sổ chạm trổ hình uyên ương mà đứng im đón gió, hy vọng mình có thể mượn ngọn gió thổi tới từ hướng bắc để nghe thấy giọng nói của y, hoặc là cảm nhận được đôi làn hơi thở của y. Cạnh giường có treo một cuộn tranh chữ nền đỏ, bên trên viết một hàng chữ vàng rất lớn: “Hoa thắm trăng tròn người trường cửu.” Hoa thắm trăng tròn dễ kiếm, tiếc rằng người thì lại chẳng thể vĩnh viễn ở bên nhau sum họp vui vầy, nhưng ít nhất bầu trời đêm trên cao bây giờ cũng thuộc về cả tôi và y.

    Có điều một hồi lâu sau, bên tai tôi chỉ có tiếng thở đều đều của Huyền Lăng, những âm thanh ấy thực ở gần tôi biết mấy.

    Vậy nhưng mỗi lần nhìn thấy những bản tấu sớ như thế, Huyền Lăng sau khi yên tâm lại không kìm được cau mày phiền muộn. “Huyền Thanh làm thế chẳng phải là mua chuộc lòng người ư?”

    Tôi không dám khuyên, cũng chẳng dám nói gì, bởi từ sau phen biến cố ở Thái Bình hành cung, Huyền Lăng rất không thích tôi nhắc tới Huyền Thanh. Y lại chỉ tay vào một bản tấu sớ Huyền Thanh dâng lên, gằn giọng nói: “Y lại dâng sớ xin phát thêm quân hưởng[34] cho tướng sĩ để họ được ăn no mặc ấm, chẳng lẽ trẫm thường ngày đối xử với các tướng sĩ ở biên quan rất tệ hay sao?”

    [34] Chỉ loại tiền chi dùng cho các việc trong quân đội - ND.

    Hủ Quý tần vốn đang hầu hạ cạnh bên rốt cuộc đã không kìm nén được mà bưng một đĩa đồ điểm tâm đi tới, dịu dàng khuyên nhủ: “Lục Vương gia đề nghị như vậy kỳ thực cũng vì mong các tướng sĩ ở biên quan cảm niệm hoàng ân mà trung thành với Hoàng thượng hơn thôi.”

    Huyền Lăng nghe thế thì chỉ cười lạnh. “Cảm niệm hoàng ân hay là cảm niệm y vì xin được hoàng ân? Là trung thành với trẫm hay trung thành với y?” Y đưa mắt liếc nhìn Hủ Quý tần một cái rồi lại nói tiếp: “Trẫm nhớ ra rồi, nàng vốn là người của phủ Thanh Hà Vương, tất nhiên phải nói giúp y rồi.” Y bước lên hai bước, đưa tay chụp lấy bờ vai yếu ớt của Hủ Quý tần, quát lên: “Có phải trước khi vào cung nàng đã có tư tình với y rồi không?”

    Hủ Quý tần sợ đến nỗi mặt mày tái nhợt, không kìm được bật khóc nức nở. “Thần thiếp sau khi vào cung vẫn luôn theo hầu Hoàng thượng, một lòng trung thành, làm sao lại có tư tình gì được chứ?” Hủ Quý tần nào đã từng thấy Huyền Lăng dữ dằn như vậy, tức thì phủ phục xuống đất, không ngừng khấu đầu đến tứa máu tươi. “Thần thiếp tuyệt đối không có tư tình với lục Vương gia. Mong Hoàng thượng minh giám!” Nhưng Huyền Lăng vẫn không nguôi giận, còn lớn tiếng quát: “Cút, trẫm không muốn gặp lại nàng nữa. Y xin trẫm tăng quân hưởng, trẫm cũng không bao giờ để y được như ý nguyện đâu.”

    Kể từ đó, Hủ Quý tần vốn một thời đắc thế bắt đầu thất sủng, Huyền Lăng thì ngày một đa nghi, các phi tần không ai dám bàn tán tới chuyện triều chính, duy có Hồ Uẩn Dung là càng ngày càng đắc sủng.

    Hai năm sau, Huyền Thanh lại một lần nữa xin tăng quân lương cho tướng sĩ ở biên ải, nói là vùng Nhạn Minh quan này rét lạnh vô cùng, hy vọng Huyền Lăng có thể ban ân trạch tới đó. Nhưng Huyền Lăng lại chỉ trầm ngâm không trả lời, cuối cùng triệu y về kinh bẩm báo công việc.

    Khi tôi gặp lại y lần nữa thì đã là dịp cuối xuân đầu hạ, vì năm nay trời nóng sớm nên lúc này tôi đã đến ở tại Thái Bình hành cung. Dưới ánh dương xuân phủ khắp, những bông sen trong hồ Phiên Nguyệt đã nở ngợp trời ngợp đất, khung cảnh chìm trong một mảng hồng hồng trắng trắng đan xen khó mà phân tách.

    Linh Tê rất thích hoa sen, bèn dắt tay tôi cùng tới đó dạo chơi. Linh Tê vốn tính điềm đạm ít nói, cho dù có thích thứ gì cũng không bao giờ lớn tiếng càm ràm hay nằng nặc van xin, chỉ mở to cặp mắt trong veo mọng nước ra nhìn khiến ai cũng phải mềm lòng.

    Buổi chiều hôm ấy, tôi một tay dắt Linh Tê, một tay bế Tuyết Phách chậm rãi bước đi bên bờ hồ Phiên Nguyệt. Sau khi đi qua cây cầu Kính trên hồ Phiên Nguyệt thì tới cầu U Phong, dưới cầu hoa sen nở rộ, dõi mắt nhìn đi, đâu đâu cũng thấy những bông hoa trắng ngần thuần khiết, so ra thì còn khiến người ta cảm thấy tâm thần thư thái hơn những loài hoa diêm dúa khác nhiều. Bỗng đâu có một con chuồn chuồn đỏ đậu lại trên một chiếc lá sen xanh biếc, Linh Tê không kìm được mừng rỡ kêu lên: “Chuồn chuồn, chuồn chuồn đỏ kìa...”
    Ánh dương rạng rỡ từ trên cao rọi xuống mặt hồ làm phản chiếu những tia sáng vàng ươm chói lóa, tôi nhất thời không mở mắt ra được, chỉ ngửi thấy gần đó thấp thoáng hương hoa tố hinh, hoa nhài, hoa hàm tiếu, dần dần át cả mùi hoa sen, liền lẩm bẩm nói: “Chỗ này không nên trồng những loài hoa khác mới đúng chứ nhỉ?”

    Chợt một giọng nói ôn tồn vang lên: “Hương sen đã đủ thanh tân rồi, nếu trồng thêm những loài hoa khác bên cạnh thì mùi hương sẽ trở nên hỗn loạn, không còn thuần khiết nữa.”

    Giọng nói quen thuộc ấy vang vọng trong lòng tôi không biết bao nhiêu lần, tôi gần như có thể nghe thấy tiếng tim đập của chính mình. Hơi thở của y vừa quen thuộc lại vừa xa lạ, trong sự khô hanh của gió cát cùng với sự lạnh lẽo của giáp trụ chiến mã lại xen lẫn một tia điềm đạm của hoa đỗ nhược. Tôi chợt cảm thấy cõi lòng thư thái, trái tim chưa bao giờ an định như lúc này.

    Tôi mở mắt ra, thấy y đứng ở nơi tận cùng của ánh sáng, tựa như bước ra từ trong mây. Linh Tê chăm chú nhìn một lát rồi thử thăm dò: “Lục vương thúc...”

    Y hơi khom người xuống, cặp mắt nheo lại thành hai vầng trăng khuyết cong cong, bên khóe miệng thoáng hiện nụ cười. “Linh Tê đã lớn thế này rồi cơ đấy.”

    Y đã đen hơn, cũng gầy hơn, khuôn mặt khi xưa vốn ôn hòa trở nên góc cạnh vì những làn gió cát nơi biên ải, trong cặp mắt như ngưng tụ những tia hàn khí sắc lạnh từ vầng trăng trên cao chiếu xuống, làm tăng thêm mấy phần cương nghị. Vì phải vào cung nên y đã cởi bỏ giáp trụ, chỉ mặc trên người một chiếc áo dài màu trắng may bằng vải lụa, nơi tay áo có thêu mấy chữ vạn màu xanh, vẻ cát bụi dặm trường trên khuôn mặt hãy còn chưa kịp rửa sạch.

    Đã bao ngày dài đằng đẵng lặng lẽ trôi qua, tôi gần như là trông mòn con mắt, nay rốt cuộc đã được gặp lại y lần nữa, thật là đột ngột xiết bao. Vô số chuyện xưa liên tục hiện về trước mắt, nhưng lại bị ngăn cách bởi tấm màn thời gian, khiến tôi vừa vui vừa buồn.

    Tôi khẽ nói: “Sớm đã nghe nói lục Vương gia sắp về, nhưng không ngờ lại nhanh như thế.”

    Dưới ánh dương vừa ấm áp vừa rạng rỡ, y nhìn tôi chăm chú một hồi lâu rồi mới hỏi: “Đã lâu rồi không gặp Thục phi nương nương, nương nương vẫn khỏe chứ?”

    Khung cảnh ở Thái Bình hành cung vẫn giống hệt ngày nào, dường như không hề thay đổi, tôi phải cố hết sức mới kìm nén được cơn nghẹn ngào nơi cổ họng, dịu dàng cất tiếng trả lời: “Nhờ phúc của Vương gia, ta vẫn khỏe.”

    Y đưa mắt nhìn cô bé đang ngủ say trong lòng tôi, ôn tồn nói: “Đây chắc là Tuyết Phách Công chúa.” Sau khi chăm chú nhìn một lúc, y lại nói tiếp: “Trông giống nương nương quá.”

    Linh Tê với một gốc xương bồ bên bờ hồ lại mà nghịch ngợm, đồng thời cười nói: “Dạ phải, đúng là rất giống mà. Muội muội của con bây giờ đã mười bốn tháng tuổi rồi đấy.”

    Huyền Thanh nghe thế thì ngẩn ra, lập tức đưa mắt nhìn qua phía tôi, dường như có ý dò hỏi. Tôi hiểu được nỗi nghi hoặc của y, bèn cố hết sức đè nén sự thấp thỏm và sợ hãi trong lòng, khẽ cười, nói: “Hoàng thượng thường ngày thương yêu cô con gái này lắm.” Ánh mắt tôi vẫn giữ nguyên vẻ điềm tĩnh. “Bản cung đã sinh được ba cô con gái rồi mà Vương gia vẫn chỉ có một mình tiểu thế tử, đến giờ vẫn chưa có cô con gái nào nữa.”

    Y hơi cụp cặp mi mắt xuống, tựa như một con chim nhẹ nhàng thu cánh về, chỉ khẽ mỉm cười coi như đáp lại. Tôi lại nói tiếp: “Bây giờ Triệt Nhi đã lớn lắm rồi đấy, Vương gia đã gặp thằng bé chưa vậy?”

    Y đưa tay vuốt ve khuôn mặt hồng hào như quả táo đỏ của Tuyết Phách vẻ đầy cưng nựng, rồi chậm rãi nói: “Lúc về phủ thay y phục ta gặp rồi, Ngọc Ẩn đã dẫn theo thằng bé đứng ngoài cửa vương phủ chờ ta.” Khẽ cười một tiếng, y lại nói tiếp: “Thằng bé đúng là đã cao hơn nhiều rồi, qua đó đủ thấy Ngọc Ẩn quả thực rất thương yêu nó.”

    Tôi thầm máy động trong lòng, bèn nói: “Ngọc Ẩn là một người mẹ tốt.”

    Y không trả lời, chỉ khẽ mỉm cười nhìn Tuyết Phách. Dường như cảm nhận được ánh mắt thương yêu của y, Tuyết Phách chậm rãi mở mắt ra, cặp mắt trong veo đen láy nhìn Huyền Thanh vẻ tò mò, một lát sau liền nở nụ cười ngọt ngào vô hạn. Linh Tê cũng khẽ cười, còn lay nhẹ tay tôi, nói: “Mẫu phi, xem ra muội muội rất thích lục vương thúc đấy.”

    Huyền Thanh bật cười, chớp chớp mắt với Linh Tê mấy cái, lòng tôi bất giác mềm lại, sinh ra cảm giác quyến luyến và ấm áp khó tả, bàn tay hơi lỏng ra, Huyền Thanh liền đón lấy Tuyết Phách, bế trong lòng một cách rất tự nhiên. Y bế rất cẩn thận, tựa như trong lòng là một thứ bảo vật quý giá nhất trên đời, miệng thì dịu dàng dỗ dành. Tuyết Phách cười rất vui vẻ, tiếng cười trong trẻo vô cùng, hệt như tiếng chuông gió treo trước hiên nhà khiến ai nghe cũng cảm thấy thư thái.

    “Hoa sen trong hồ Phiên Nguyệt vẫn như xưa, nương nương thì đã lại có thêm một cô con gái, chắc hẳn cuộc sống trong cung không tệ chút nào.” Giọng nói của y như một dải lụa mềm mại chậm rãi trải ra, ấm áp mà bình tĩnh. “Ta rất yên tâm.”

    “Đa tạ Vương gia.” Tôi ngoảnh đầu nhìn những bông sen đang vươn mình đón gió khắp hồ, khẽ cười, nói: “Nơi biên ải ngợp đầy bóng đao bóng kiếm, lại rét lạnh hoang vu, Ngọc Ẩn ở nhà lo lắng cho Vương gia lắm đấy.”

    Y nhìn tôi vẻ trìu mến. “Đa tạ Thục phi, sau khi quay về ta sẽ dặn dò Ngọc Ẩn cẩn thận, bảo nàng ấy không cần lo lắng quá mức.”

    Y không nói nhiều thêm, chỉ ôm Tuyết Phách trong lòng mà chơi đùa với nó. Tôi lúc này cảm thấy thư thái vô cùng, trong lòng ngợp đầy sự ấm áp. Dư Hàm và Linh Tê hồi nhỏ đều không có cơ hội được y bế trong lòng, chỉ duy có mình Tuyết Phách là có phúc thôi.

    “Thục phi nương nương vạn phúc kim an.” Chỉ sau nháy mắt, tâm trạng thư thái của tôi đã bị giọng nói the thé quen thuộc của Lý Trường phá vỡ.

    Y mặt mày tươi tắn đứng sau lưng tôi, khom người nói: “Chẳng trách Hoàng thượng đợi mãi mà chẳng thấy Vương gia đến, hóa ra Vương gia đã bị Tuyết Phách Công chúa giữ chân tại đây rồi. Khởi bẩm Vương gia, Hoàng thượng kêu nô tài tới đây mời ngài đấy ạ!”

    Huyền Thanh hơi biến sắc mặt, áy náy nói: “Vậy bản vương sẽ đi gặp hoàng huynh ngay.”

    Dứt lời, y bèn đưa trả Tuyết Phách lại cho tôi. Bên dưới tã lót, đầu ngón tay y nhẹ nhàng lướt qua cổ tay tôi, mà bên trên đó, tôi vẫn còn đeo chiếc vòng san hô do y tặng ngày nào.

    Y cáo từ rời đi, Lý Trường đi theo bên cạnh y, làu bàu nói: “Hoàng thượng thủ túc tình thâm, do đó mới kêu nô tài tới đây xem thế nào đấy.” Vừa nói vừa lén nhìn qua phía tôi, ánh mắt lộ rõ vẻ ưu lo, dường như đang muốn nhắc nhở tôi điều gì.

    Sáng hôm sau, tôi nghe nói Huyền Lăng đã giữ Huyền Thanh lại trong cung uống rượu, chuyện trò hết sức vui vẻ, rồi Huyền Thanh say rượu và được đưa qua ngủ lại ở chái điện của Thủy Lục Nam Huân điện.

    Đến khi tôi ngủ trưa thức dậy thì Tiểu Hạ Tử tới truyền gọi: “Hoàng thượng đang chờ nương nương ở Thủy Lục Nam Huân điện ạ!”

    Vì lần truyền gọi này quá đột ngột nên tôi chỉ kịp trang điểm qua loa, sau đó vội vã tới Thủy Lục Nam Huân điện. Khi tôi đi tới trước cửa điện thì thấy rèm trúc buông lơi lớp lớp, Lý Trường tranh thủ lúc thỉnh an mà ghé đến bên tai tôi khẽ nói: “Chuyện hôm qua, Hoàng thượng và Hiền phi đều đã thấy hết rồi.”

    Chẳng qua chỉ là mấy lời ngắn ngủi, tôi cũng chẳng kịp hỏi han kĩ càng, thế nhưng trái tim thì như đã chìm vào trong băng tuyết, toàn thân đều lạnh giá tột cùng.

    Huyền Lăng lúc này nằm một mình trên chiếu trúc, không hề trở dậy khi tôi đi vào. Tôi chỉnh lại xiêm y rồi cung kính hành lễ, sau đó lại cung kính thỉnh an. Y chẳng hề xoay người, chỉ cất giọng hờ hững: “Ừm, nàng tới rồi à!”

    Tôi không dám nói nhiều, chỉ lẳng lặng ngồi xuống bên cạnh y, thấy bên giường có đặt một chiếc quạt tròn dùng để che mặt, chẳng biết là do phi tần nào lưu lại. Tôi cảm thấy có chút quen mắt, chiếc quạt đó có phần cán được chạm rỗng nạm vàng, bên dưới treo một dải tua màu đỏ hình quả hạnh, mặt quạt thì làm bằng vải lụa, bên trên thêu bức hình “Viễn sơn hàm yên” liên miên bất tận, nhìn lâu rồi lại khiến người ta cảm thấy hơi hoa mắt nhức đầu.

    Tôi thấy Huyền Lăng một mực nhắm mắt, mồ hôi trên trán không ngớt rỉ ra, bèn tiện tay cầm cây quạt kia lên, vừa phe phẩy quạt cho y vừa dịu dàng cười, nói: “Tứ lang chắc đang nóng quá thì phải, mồ hôi nhễ nhại cả rồi kìa...”

    Huyền Lăng đột ngột ngồi dậy trừng mắt nhìn tôi, kế đó vung tay tát thẳng vào mặt tôi một cái thật mạnh.

    Cái tát ấy đến quá đột ngột, tôi đau đến nỗi mặt mũi tê rần, nổ đom đóm mắt, tức thì ngây người đờ đẫn. Tôi đã hầu hạ y suốt bao nhiêu năm nay, thế nhưng đây mới là lần đầu tiên bị y đánh thế này, thậm chí lần trước hạ lệnh cấm túc tôi, y cũng không hề đụng tới tôi dù chỉ là một ngón tay.

    Cố kìm nén những giọt lệ bên khóe mắt, tôi quỳ xuống, nói: “Hoàng thượng, người muốn đánh muốn mắng thế nào cũng được, nhưng không biết thần thiếp đã làm sai điều gì? Xin Hoàng thượng chỉ rõ cho thần thiếp được hay!”

    “Chỉ rõ?” Trên trán y tuôn đầy mồ hôi, bên khóe miệng thấp thoáng một nụ cười lạnh lẽo hoàn toàn trái ngược với thời tiết ấm áp hiện giờ. “Những lời đó dù chỉ là nói ra khỏi miệng thôi trẫm cũng thấy thẹn.”

    Tôi đưa tay vuốt ve chỗ đau bỏng rát trên mặt, rơm rớm nước mắt, ngẩng đầu nói: “Thần thiếp tin rằng trên đời này không có chuyện gì mà không thể nói ra, cho nên Hoàng thượng có gì cứ nói, thần thiếp xin rửa tai lắng nghe.”

    Huyền Lăng hơi nheo mắt lại, từ trong mắt chiếu ra những tia băng giá tột cùng. “Hôm qua ở Ngự uyển, nàng và Huyền Thanh đã làm những gì?”

    Tôi bất giác thầm chấn động, vội vàng giữ lòng bình tĩnh, hờ hững nói: “Lúc đó là thanh thiên bạch nhật, trong Ngự uyển lại có nhiều người qua lại, Hoàng thượng cho rằng thần thiếp và lục Vương gia có thể làm gì được đây? Thần thiếp chẳng qua chỉ tình cờ gặp lục Vương gia, hai bên chào hỏi nhau đôi câu, y rất quý Tuyết Phách, bèn bế con bé một lát.” Tôi suy nghĩ một chút rồi lại nói tiếp: “Thân vương bế Công chúa hoặc Hoàng tử tuy rằng không hợp quy củ, nhưng lục Vương gia vừa bụi bặm dặm trường về đây, y muốn bế Phách Tuyết thần thiếp làm sao nỡ lòng ngăn cản.” Tôi bất giác thầm chua xót trong lòng. “Dù gì Phách Tuyết cũng là điệt nữ của lục Vương gia, thần thiếp không thể không để tâm tới tình thúc điệt của bọn họ được.”

    Y lặng im một lát rồi đưa tay nâng cằm tôi lên. “Tình thúc điệt? Chỉ dựa vào đó mà có thể khiến nàng và y nửa buồn nửa vui nói chuyện với nhau suốt một hồi lâu ư? Chẳng lẽ nàng thật sự cho rằng trẫm không thể nhìn ra chút gì? Năm xưa Thái hậu và...” Y bừng bừng giận dữ, nhưng rốt cuộc vẫn kìm nén được không nói ra những lời phía sau.

    Tôi thầm chấn động, rốt cuộc đã hiểu ra y cứ canh cánh trong lòng như thế là vì duyên cớ gì... Chuyện giữa Nhiếp chính vương và Thái hậu năm xưa, Huyền Lăng không phải là không biết. Tôi lặng lẽ nhìn y một lát rồi bình tĩnh nói: “Thần thiếp nửa buồn nửa vui như thế là vì Ngọc Ẩn, muội ấy không có phu quân ngày ngày ở bên như thần thiếp, lúc nào cũng ngóng lục Vương gia trở về để được đoàn tụ, thần thiếp quan tâm tới muội ấy một chút cũng là lẽ thường thôi.”

    Y cười khẩy một tiếng, bàn tay đang bóp cằm tôi bất giác dùng sức mạnh hơn. “Rốt cuộc là nàng hay là Ngọc Ẩn mong Huyền Thanh quay về, điều này tự nàng biết rõ!”

    Nơi cằm truyền tới cảm giác rấm rứt đau, tôi nhìn y chăm chú. “Nói thực lòng, thần thiếp không hề hy vọng lục Vương gia quay về, bởi vì lục Vương gia vừa về cung, Hoàng thượng liền trở nên mừng giận vô thường, nghi ngờ vợ con, toàn hậu cung đều chẳng được yên ổn.” Tôi dứt khoát nói thẳng. “Hoàng thượng từng vì một câu khuyên nhủ của Hủ Quý tần mà ghẻ lạnh nàng ta, bây giờ lại vì một cuộc trò chuyện bình thường với lục Vương gia mà nghi ngờ thần thiếp, nếu Hoàng thượng có chứng cứ xác thực thì cứ phế truất thần thiếp đi, thần thiếp quyết chẳng dám oán trách nửa lời!”

    “Chứng cứ xác thực?” Y buông bàn tay đang giữ cằm tôi ra. “Năm xưa y từng bất chấp tất cả dẫn quân đi cứu nàng về từ trong tay Ma Cách, nàng thật sự không cảm động chút nào ư?”

    Tôi làm bộ ngẩn ngơ và kinh ngạc nhìn thẳng vào đôi mắt lạnh lẽo của y, run giọng nói: “Không phải là Hoàng thượng phái lục Vương gia tới cứu thần thiếp về ư?”

    Huyền Lăng hơi sững người, ngay sau đó liền bình tĩnh trở lại, vẻ lạnh lùng băng giá nơi đáy mắt dần tan bớt. “Đương nhiên, là trẫm đã ra lệnh cho y.”

    Tôi khẽ “ồ” lên một tiếng, ngạc nhiên nói tiếp: “Nếu Hoàng thượng phái Lý Trường đi, lẽ nào thần thiếp cũng phải cảm động vì Lý Trường ư? Rõ ràng là không phải thế rồi!” Rồi tôi lại làm bộ làm tịch. “Huống chi thần thiếp đến bây giờ vẫn còn rất oán hận lục Vương gia, sao khi đó y lại để Ngọc Diêu đi theo đại quân chứ? Nếu không vì thế, Ngọc Diêu đã chẳng trở thành đại phi của Ma Cách, còn thần thiếp thì đã mấy năm rồi vẫn chẳng được gặp lại muội muội ruột thịt lấy một lần.”

    Sau một thoáng trầm lặng, chợt nghe có tiếng gió rì rào nổi lên làm những chiếc lá sen dày đặc bên ngoài cửa sổ đung đưa không ngớt. Sắc mặt dần trở nên ôn hòa, y đưa tay tới vuốt ve chỗ bị đánh đến sưng vù trên má tôi, hỏi: “Có đau không?”

    Tôi bất giác đỏ hoe hai mắt, chỉ tay vào ngực mình. “Chỗ này đau.”

    Y đưa tay nắm lấy bờ vai tôi, đang định cất tiếng an ủi, chợt lại lạnh lùng nói: “Nàng đã oán trách y thì cớ gì còn nói chuyện với y lâu như vậy?”

    Tôi cúi xuống, bật khóc rấm rứt. “Năm xưa, thần thiếp bị Hoa Phi gây khó dễ rất nhiều, thế nhưng vì Hoàng thượng nên thần thiếp có thể nhẫn nhịn. Nay lục Vương gia dù tệ đến mấy thì cũng là muội phu của thần thiếp, là huynh đệ ruột thịt của Hoàng thượng, thần thiếp sao có thể không nể mặt một chút chứ!”

    Y hơi sững ra, sắc mặt lại trở nên ôn hòa hơn một chút, đứng dậy đi tới chỗ chiếc hũ lớn cạnh giường lấy ra mấy miếng băng vụn rồi nhẹ nhàng áp lên má tôi. Cái lạnh từ mấy miếng băng vụn đó nhanh chóng ngấm vào trong da thịt khiến tôi không kìm được rùng mình một cái, lông tóc toàn thân đều như dựng đứng cả lên.

    Động tác của Huyền Lăng hết sức nhẹ nhàng, dòng nước lạnh giá tan ra từ mấy miếng băng kia chậm rãi chảy xuống cổ tôi, lại chảy xuống tiếp nữa, ngay đến giọng nói của y cũng vì thế mà trở nên có chút mơ hồ: “Trẫm không thể không kiêng dè lão lục, bởi phụ hoàng khi xưa vốn thương yêu y nhất và mấy lần muốn lập y làm thái tử. Nếu không vì quần thần phản đối, người ngồi trên ngự tọa giữa chốn triều đường hôm nay đã chẳng phải là trẫm rồi. Huống chi bất kể là về thi thư hay võ nghệ, y đều được phụ hoàng tận tâm dạy dỗ, không có môn nào mà không hơn trẫm cả, bây giờ lại nắm binh quyền trong tay nữa. Lỡ như y nảy sinh ý đồ phản trắc như Nhữ Nam Vương ngày trước... Trẫm không thể không đề phòng được!”

    Lòng tôi bất giác thầm giá lạnh, lạnh tới nỗi sinh ra những tia đau đớn tột cùng. “Hoàng thượng, lục Vương gia sẽ không làm vậy đâu!”

    Y đột ngột vứt mấy miếng băng trong tay qua một bên làm phát ra những tiếng lộc cộc, còn lưu lại trên mặt đất một vệt nước dài. Khuôn mặt y trầm hẳn xuống, quát bảo: “Nàng không phải y thì làm sao biết được trong lòng y nghĩ gì, chẳng lẽ y có tâm tư thế nào đều nói với nàng hết hay sao? Đúng như suy nghĩ của trẫm mà, y nhất định đã ôm lòng nhòm ngó nàng từ lâu rồi!”

    Tôi vội vàng quỳ xuống. “Thần thiếp không dám! Thần thiếp chỉ thấy là lục Vương gia xưa nay vẫn luôn rất tôn kính Hoàng thượng...”

    “Dù tôn kính đến mấy thì sau khi nắm binh quyền trong tay cũng sẽ có dị tâm, huống chi phụ hoàng vốn muốn lập y làm thái tử, khó ai có thể đảm bảo rằng y bây giờ không ôm lòng nhòm ngó ngôi báu!” Sắc mặt Huyền Lăng sáng tối bất định, trong mắt thoáng qua những tia hồ nghi, cuối cùng y cất giọng lạnh lùng: “Huống chi trong hoàng tộc vốn chẳng có tình thủ túc, chỉ có nghĩa quân thần. Có một câu này không dễ nghe nhưng chính là sự thật, quân muốn thần chết thần không thể không chết!”

    Tôi giống như bị người ta giội một chậu nước băng xuống đầu, cái lạnh thấu xương nhanh chóng lan từ đỉnh đầu ra khắp toàn thân làm tôi tê dại, không thể động đậy, chỉ cảm thấy như có vô số mũi kim sắc bén và lạnh giá đang đâm vào đầu mình, mang tới cảm giác đau đớn tột độ. Tôi hét lên theo bản năng: “Hoàng thượng! Lục Vương gia là huynh đệ ruột thịt của người cơ mà...”

    “Ngày đó, khi trẫm quyết định cùng mẫu hậu tranh đoạt ngôi báu thì đã quên rằng y là huynh đệ ruột thịt của trẫm rồi, những năm nay trẫm cũng đã hậu đãi y hết mức, căn bản không thiếu nợ gì y cả.” Y hơi dừng một chút rồi nói tiếp bằng giọng chứa đầy sát cơ: “Hôm qua khi trò chuyện với trẫm, y lại nhắc tới việc trong quân, mỗi kiến giải đều sâu sắc vô cùng. Người này nếu như dùng tốt thì còn đỡ, nhưng chỉ cần sơ sảy một chút thôi là sẽ trở thành mối nguy lớn, trẫm quyết không thể giữ y lại được!”

    Tôi cố gắng khuyên thêm: “Hoàng thượng, xin hãy suy nghĩ kĩ càng, lục Vương gia thân mang quân công lại không phạm phải lỗi lầm gì, nếu trừ bỏ chỉ e sẽ gây ảnh hưởng không hay...”

    “Thục phi, nàng xưa nay làm việc chưa từng khiến trẫm phải thất vọng bao giờ.” Huyền Lăng chậm rãi đứng dậy, đem đặt một gói giấy lên bàn. “Việc lần này trẫm giao cho nàng làm, chỉ được thành công không được thất bại.” Y đưa tay dịu dàng vuốt ve khuôn mặt tôi. “Nàng hãy dùng hành động của mình để nói với trẫm là nàng không có tư tình gì với y. Bất kể thế nào trẫm cũng phải trừ bỏ lão lục, chẳng qua vì muốn cho nàng một cơ hội nên mới giao việc này cho nàng.”

    Đôi bờ môi tôi run rẩy, chỉ biết ra sức lắc đầu theo bản năng, căn bản không dám nhận lấy gói thuốc độc kia.

    Giọng nói của y trở nên dữ dằn và tàn độc: “Tất thảy mọi việc trẫm đều đã an bài ổn thỏa rồi. Lúc này y đang ở Đồng Hoa đài chờ trẫm tới cùng y đi dự tiệc, nàng hãy thay trẫm qua đó đi. Trẫm chờ tin tốt của nàng.”

    Tôi nói: “Hoàng thượng, vậy xin hãy để thần thiếp đi thay xiêm y đã.”

    “Khỏi cần thay y phục nữa.” Y đưa tay giúp tôi chỉnh lại chiếc bộ dao cài trên búi tóc, cất giọng hững hờ. “Hoàn Hoàn của trẫm bao giờ cũng đẹp như thế cả. Nếu trẫm là lão lục thì ắt sẽ cam tâm tình nguyện uống chén rượu độc mà nàng tự tay đưa tới. Mau đi đi!”

    Tôi đờ đẫn toàn thân, để mặc cho y đỡ dậy, lại để cho Tiểu Hạ Tử dìu mình đi thẳng tới Đồng Hoa đài. Giọng nói lạnh tựa băng sương của Huyền Lăng vang lên sau lưng tôi: “Sau khi việc thành, Hàm Nhi sẽ trở thành thái tử của Đại Chu, tuyệt đối không có chút dị nghị nào, bởi vì nó có một vị mẫu phi vừa giỏi giang lại vừa được trẫm tín nhiệm.”

    Trong khoảnh khắc ngoảnh đầu nhìn lại, tôi thấy giữa làn ánh sáng lờ mờ, đôi mắt y sâu thẳm tựa như hố đen không đáy, trống rỗng khó lường, từ bên trong còn như có một lưỡi kiếm sắc bén màu tím sậm phóng ra, cứ thế lao thẳng về phía Đồng Hoa đài.

    Phía trước chẳng còn đường, nhưng lùi về phía sau tôi cũng chỉ còn một con đường chết.

    Tà váy dài màu đỏ nhè nhẹ lướt đi trên nền đá cẩm thạch, vì trong điện bày tiệc nên nền đá bên ngoài của Đồng Hoa đài mới được rửa sạch kĩ càng, trở nên bóng loáng tới mức có thể dùng làm gương soi. Tiểu Hạ Tử lẳng lặng dẫn tôi đi vào phòng trong, Huyền Thanh vừa thấy có động tĩnh liền nghiêm túc đứng dậy, chuẩn bị khom người hành lễ.

    “Là ta.” Cách nhau một bức rèm ngọc bích, tôi cố gắng dùng đầu lưỡi kìm nén cho giọng mình khỏi run, ôn tồn nói: “Vương gia không cần khách sáo.”

    Tiểu Hạ Tử bước lên phía trước, cung kính vén rèm lên giúp tôi, dưới ánh ngọc xanh biếc chỉ thấy y hôm nay vận một chiếc áo dài màu đồng, mái tóc được dùng mũ vàng búi lại gọn ghẽ. Trong khoảnh khắc chúng tôi bốn mắt nhìn nhau, từ ngoài cửa sổ, một làn gió nhè nhẹ thổi vào phòng, dưới ánh hoàng hôn mờ tối, khung cảnh nơi đây chẳng khác nào một giấc mộng êm đềm tột bậc.

    Tôi bất giác sững người trong khoảnh khắc, Đồng Hoa đài vẫn rợp bóng cây như ngày nào, khắp nơi vi vu gió thổi, nơi góc tường, những bông tịch nhan nở rộ hệt như một mảng tuyết trắng. Thời gian tựa hồ chảy ngược, trôi về những tháng năm tôi mới vào cung, khi đó là dịp cuối tháng Bảy, tôi đã gặp y lần đầu ở chính Đồng Hoa đài này.Ngày tháng trong Tử Áo Thành thật giống như một cuộn chỉ, càng kéo lại càng dài đằng đẵng, trong những khoảnh khắc cô đơn, tôi thường xuyên nhớ về quãng thời gian trên đỉnh Lăng Vân, nhớ về người thương mà mình đã lâu rồi không gặp. Sau muôn vàn nỗi nhớ nhung khôn tả, lúc này đây, tôi lại chỉ mong rằng mình vĩnh viễn không phải gặp y, không phải mặt đối mặt với y thế này, được vậy thì tốt biết bao.

    Tiểu Hạ Tử khom người cười trừ, nói: “Hoàng thượng hôm nay ngủ trưa không được ngon lắm, bây giờ vẫn còn rất mệt, do đó mới kêu nương nương tới đây uống với Vương gia vài chén trước. Đợi lát nữa Hoàng thượng thay y phục xong rồi sẽ tới.”

    Huyền Thanh hơi nhướng mày, hỏi: “Hoàng thượng không được khỏe ư?”

    Tiểu Hạ Tử đảo mắt một cái, lập tức cười tươi. “Hoàng thượng long thể an khang, chỉ là hiện giờ trời nóng nên ham ngủ, hồi chiều lại có Xuân Tần tiểu chủ ghé tới mà thôi.”

    Đã tới nước này rồi thì Huyền Thanh tất nhiên không tiện hỏi gì thêm. Tiểu Hạ Tử đặt chiếc khay mã não trong tay xuống, giữa khay có một bình rượu làm bằng ngọc trắng hòa điền chạm trổ hình hoa sen, rượu trong bình đỏ tươi trong vắt, còn tỏa hương thơm ngọt ngào làm lòng người đắm say. Nắp bình rượu được ghép lại từ hai miếng ngọc hòa điền riêng rẽ, không có một khe hở nào, thoạt nhìn ai cũng nghĩ đó chỉ là một miếng ngọc hoàn chỉnh chứ chẳng phải hai.

    Y khẽ cười điềm đạm. “Làm phiền Thục phi rồi.”

    Tôi bất giác thầm chua xót, quãng đường từ Thủy Lục Nam Huân điện tới Đồng Hoa đài chẳng qua chỉ phải đi mất chừng một tuần trà, thế nhưng tôi lại cảm thấy như đã đi hết nửa cuộc đời vậy, đôi chân trở nên mềm nhũn, thiếu chút nữa thì không đứng vững nổi.

    Tiểu Hạ Tử đặt bình rượu tới bên tay tôi, cười tươi rạng rỡ, nói: “Phiền Thục phi nương nương ở lại đây với Vương gia một lát, nô tài đi mời Hoàng thượng đây.”

    Bình rượu lạnh băng ở gần quá làm tay tôi như đông cứng lại, việc đã tới nước này rồi, tôi còn có thể làm gì được nữa đây?

    Tôi dằn lòng mỉm cười, nói: “Hiếm có khi nào được ngồi uống rượu với Vương gia thế này.”

    Bốn phía xung quanh đã chẳng còn ai, chỉ có tôi và y ngồi bên nhau trong tĩnh lặng. Giọng y vang lên nghe thanh tân như cây lá dịp đầu hè: “Nàng vẫn thích mặc đồ màu đỏ như xưa.” Ký ức chợt lại ùa về, trong lần gặp gỡ tình cờ nơi Đồng Hoa đài năm xưa, tôi cũng mặc một bộ áo váy màu đỏ hệt như lúc này. Chuyện trên đời cớ gì lại trùng hợp tới nhường này?

    Tôi đưa mắt nhìn những bông tịch nhan trắng muốt chẳng chút hương thơm bên ngoài cửa sổ, bất giác thở dài. “Đồng Hoa đài đã nhiều năm lạnh lẽo, nhưng những bông tịch nhan này vẫn cứ tàn rồi lại nở, chẳng hề đổi khác.”

    “Thục phi có còn nhớ lời ta từng nói khi xưa không? Tịch nhan là loài hoa chỉ nở một đêm thôi, cũng giống như những cuộc tình không thể để lộ ra ngoài và không được người đời tiếp nhận vậy. Nhưng có một số cuộc tình dù trái lẽ luân thường đến mấy thì ở trong lòng người ta vẫn luôn tươi tốt sum suê, vĩnh viễn chẳng bao giờ héo úa.”

    Tôi khẽ thở dài. “Liệu có khi nào người ta cảm thấy những bông tịch nhan kia chướng mắt mà nhổ sạch chúng đi, không lưu lại một chút gì không?”

    “Có lẽ là có.” Y cất giọng ôn tồn, thế nhưng bên trong lại toát ra một vẻ kiên định khó mà dùng lời để miêu tả. “Nhưng người ta chỉ có thể nhổ bỏ những bông tịch nhan bên ngoài kia thôi, còn những bông tịch nhan nở trong lòng thì vĩnh viễn không bao giờ nhổ được.”

    Tôi đưa tay ấn vào chiếc nút bên phải nắp bình rượu, một dòng rượu đỏ tươi liền chậm rãi chảy ra, rồi tôi đưa tới trước mặt y một chén rượu đầy. “Những năm nay ở chốn biên quan, Vương gia đã phải chịu khổ nhiều rồi.”

    Y nở một nụ cười trong vắt như ánh trăng đêm rằm. “Thục phi chắc đã từng nghe đôi câu thơ này, chỉ nguyện người trường cửu, ngàn dặm dưới trăng thâu[35]. Chỉ cần nghĩ đến việc ánh trăng ngoài xa ngàn dặm cũng đang chiếu xuống người thương của mình, ta dù vất vả hơn nữa thì cũng có sao?” Hơi dừng một chút, y lại nói tiếp: “Trước khi vào cung, ta từng tới đỉnh Lăng Vân một chuyến, non nước cỏ cây ở đó vẫn hệt như xưa.”

    [35] Trích Thủy điệu ca đầu - Bính thìn Trung thu của Tô Đông Pha. Dịch thơ: Nguyễn Chí Viễn. Nguyên văn Hán Việt: Đãn nguyện nhân trường cửu, thiên lý cộng thiền quyên - ND.

    Tôi khẽ mỉm cười. “Đáng tiếc, kiếp này ta đã chẳng còn cơ hội quay về nơi đó nữa rồi.”

    Y nhìn tôi chăm chú. “Nàng cũng muốn quay về đó ư?”

    “Vương gia tin không? Ta từng vô số lần nằm mơ mình được về đó, dường như tất thảy vẫn giống năm xưa, không hề thay đổi. Có điều khi tỉnh mộng, thấy mình đang ở giữa thâm cung, ta hiểu rằng giấc mộng ấy không thể nào trở thành hiện thực.”

    “Sau khi nàng về cung, cứ mỗi lần tới nơi ở cũ của nàng, ta lại muốn ở lại đó mãi không về. Quãng thời gian tươi đẹp nhất trong cuộc đời này của ta chính là ở trên đỉnh Lăng Vân.”

    Tự nơi đáy lòng trào lên cảm giác ấm áp và đau khổ đan xen, lúc này tôi thực chẳng biết phải nói gì, bèn ngẩn ngơ dõi mắt nhìn ra ngoài cửa sổ.

    Đang dịp đầu hạ, mấy gốc ngô đồng cạnh Đồng Hoa đài lại càng xanh biêng biếc, khung cảnh đầy vẻ tịch mịch. Hoa ngô đồng phần lớn đã úa tàn, chỉ còn lại lác đác vài bông còn đậu trên cành cây, nhưng cũng ngợp một nét tiêu điều ủ dột. Trời dần về đêm, tất thảy mọi thứ không ngừng bị màn đêm nuốt chửng, khắp nơi trong hành cung bắt đầu thắp đèn, trông hệt như những vì sao lặng lẽ mọc lên từ nơi chân trời vậy, thoạt nhìn tưởng ở gần nhưng lại hết sức xa xôi.

    Đó là ánh đèn của chốn nhân gian, còn tôi giờ lại đang dạo bước nơi địa ngục.

    Qua ô cửa sổ khép hờ có thể nhìn thấy vầng trăng vừa mọc đang chiếu xuống những tia sáng dịu êm, thế nhưng trăng ngày Mười bảy đã dần trở nên tàn khuyết chứ chẳng còn được tròn đầy nữa.

    “Nàng còn nhớ tấm thiếp hợp hôn đó không?”

    Lòng tôi bỗng như mềm lại, cơ hồ không kìm nén được những giọt lệ bên khóe mắt, đành lén dùng khăn tay lau đi, kế đó gượng cười, nói: “Nhớ.”

    Y khẽ mỉm cười. “Chúng ta mới chỉ có thiếp hợp hôn thôi, hãy còn chưa uống rượu giao bôi đâu đấy.”

    Toàn thân tôi chấn động, trong lòng dâng lên một nỗi tuyệt vọng cùng đau đớn tột cùng, hai hàng nước mắt lã chã tuôn rơi.

    Giấc mộng ấy đến bây giờ còn chưa thực hiện được, vậy hôm nay hãy để tôi hoàn toàn buông thả một lần đi. Ngón tay trong tay áo ấn nhẹ vào chiếc nút bên trái nắp bình rượu, một dòng rượu đỏ tươi tức thì chảy ra từ nơi miệng bình. Tôi đưa khăn tay lên lau khô nước mắt, cười tươi rạng rỡ hệt như một bông hoa lê vừa hé nở. “Được, vậy hôm nay chúng ta uống rượu giao bôi.”

    Thân thể y hơi run lên, giống hệt như mặt hồ lăn tăn gợn sóng, giọng nói thì trong veo ấm áp: “Gió đêm lớn quá, nàng đi đóng cửa sổ lại đi.”

    Giọng nói ấy mới thật thân thiết và quen thuộc biết nhường nào, hệt như những ngày xưa vậy, làm tôi cảm thấy vừa ấm áp lại vừa chua xót. Chờ khi tôi đóng cửa sổ xong, y nhẹ nhàng nói tiếp: “Nàng hãy nhìn kĩ hoa văn trên cửa sổ xem đi, có phải là rất hợp cảnh không?”

    Hoa văn trên cửa sổ được điêu khắc cực kỳ tinh tế và phức tạp, tất thảy đều là hình hoa hợp hoan trên nền màu đỏ, phần nhụy hoa còn được sơn màu vàng tươi bắt mắt, cho dù đã trải qua rất nhiều năm tháng mà màu sắc vẫn chẳng hề phai nhạt, quả thực rất giống với hai thứ màu thường được dùng trong hôn lễ. Y lại nói tiếp: “Mẫu phi của ta thích hoa hợp hoan, do đó khi cho xây dựng Đồng Hoa đài, phụ hoàng mới sai người điêu khắc hình hoa hợp hoan lên cửa sổ. Hợp hoan, ấy là một cái tên vừa trường cửu mà lại vừa dịu dàng.”

    Tôi khẽ mỉm cười. “Ở Lũ Nguyệt Khai Vân quán của huynh trước đây không phải cũng trồng toàn hoa hợp hoan đó ư?”

    Y khẽ gật đầu, thần sắc vừa mơ màng vừa ảm đạm, thế nhưng thấp thoáng bên trong đó còn có một tia rạng rỡ. “Ta từ nhỏ đã lớn lên ở Đồng Hoa đài, mãi sau khi Chiêu Hiến Thái hậu qua đời mới quay về sống trong Tử Áo Thành, do đó suốt một thời gian dài chỉ thấy cảnh ái ân vui vẻ giữa phụ hoàng và mẫu phi mà thôi.”

    “Muội cũng rất ngưỡng mộ tình ý mà tiên đế dành cho Thư Quý thái phi.”

    Cặp mắt màu hổ phách của y dường như bị một làn sương mỏng manh bao phủ. “Phụ hoàng dù chung tình với mẫu phi tới mấy thì cũng không thể chỉ có một mình bà. Đáng tiếc, ta cũng chẳng hơn gì ông cả. Ta có lỗi với Tĩnh Nhàn, có lỗi với Ngọc Ẩn, lại càng có lỗi với nàng.”

    Nỗi đau xót trong lòng ép tôi phải buông bỏ sự dè dặt, vội vàng đưa mấy ngón tay lạnh băng tới đặt lên bờ môi y. “Huynh đừng nói những lời như thế. Muội hiểu cả mà.”

    Y ra sức lắc đầu. “Không phải thế. Tĩnh Nhàn kỳ thực rất thông minh, nàng ấy phát hiện ra sự khác thường giữa ta và Ngọc Ẩn, tuy rất muốn hỏi ta nhưng từ đầu chí cuối lại chẳng nói gì, chỉ âm thầm mô phỏng cách nói năng, ăn mặc của nàng. Nàng ấy vẫn luôn cố gắng lấy lòng ta, rồi cuối cùng liền cầu xin ta, cầu xin ta cho nàng ấy một đứa bé.”

    Tôi cố gắng nín thở, khẽ nói: “Nếu Ngọc Ẩn mô phỏng muội thì ắt là sẽ giống hơn nàng ta nhiều.”

    Y khẽ gật đầu, lộ vẻ vô cùng áy náy. “Ngọc Ẩn, nàng ấy vừa kiêu ngạo vừa mâu thuẫn. Nàng ấy rất hy vọng mình vì giống nàng mà nhận được sự thương yêu của ta, nhưng lại rất sợ phải giống nàng, trở thành cái bóng của nàng, vì như thế, thứ mà nàng ấy có sẽ chỉ là sự thương hại của ta mà thôi.”

    Tự nơi đáy lòng trào lên cảm giác lạnh toát không thể nào ngăn cản được, tôi cất tiếng thổn thức đầy vẻ thê lương: “Có lẽ nếu được trở về quá khứ, chúng ta đều sẽ lựa chọn khác đi, không bước lại trên con đường thuở xưa nữa, như thế thì giờ đây chúng ta đã chẳng rơi vào cảnh ngộ khốn đốn thế này.”

    Y hít sâu một hơi, vẻ dịu dàng trong cặp mắt màu hổ phách dần trở nên ảm đạm. “Chuyện làm ta hối hận nhất trong cuộc đời này là khi tới chùa Cam Lộ tuyên đọc thánh chỉ năm đó đã không mang nàng rời đi, đó thực là một lỗi lầm không thể nào tha thứ được.”

    Chén rượu trong veo phản chiếu lại khuôn mặt không hoàn chỉnh của tôi, vừa khéo giống hệt như cuộc đời không hoàn chỉnh của tôi vậy. Tôi cố kìm nén những giọt lệ bên khóe mắt, chậm rãi nói: “Thanh, cho dù ngọn gió trong lòng muội luôn thổi về phía huynh, nhưng muội lại không thể không đi ngược gió. Trên đời này có một số chuyện đã được vận mệnh ai bài trước rồi, muội không oán hận huynh chút nào đâu.”

    Y khẽ nở nụ cười, nhưng vẻ bi thương trong mắt thì lại càng thêm rõ ràng. “Người mà ta cả đời khao khát không thuộc về ta, đã thế ta còn phụ lòng hai nữ tử vô tội nữa, thực là tệ hại quá chừng.”

    Tôi gắp một miếng bánh ngó sen hoa quế bỏ vào trong đĩa của y, gượng cười nói: “Đây là nơi mà năm xưa tiên đế và Thư Quý thái phi ân ái mặn nồng, lại là nơi ở cũ của huynh, việc gì phải nói tới những chuyện thương tâm ấy làm gì.”

    Y mân mê chén rượu của mình trong tay, thế mà rượu trong chén lại chẳng hề sánh ra ngoài, mãi một lát sau y mới cất giọng vô cùng bình tĩnh: “Ta sợ nếu mình mà không nói thì sau này sẽ không còn cơ hội nữa.”

    Lòng tôi thầm kinh hãi, đôi đũa bạc trong tay bất giác rơi xuống bàn làm phát ra những tiếng đinh đang hết sức chói tai. Trái tim tựa như bị muôn vàn mũi kim sắc nhọn đâm vào, tôi buột miệng kêu lên: “Huynh nói bậy!”

    Sắc mặt y không hề thay đổi, khóe miệng chỉ hơi nhếch lên. “Không phải thế ư? Những lần gặp gỡ của chúng ta chủ yếu là trong các bữa tiệc toàn cung hội họp, ta ngay cả cơ hội tiếp cận nàng cũng không có, làm sao nói ra mấy lời này được! Cuộc đời này xét cho cùng cũng chỉ có mấy chục năm, nói qua là qua ngay, ta chỉ đành tranh thủ lúc này thôi.”

    Nghe y giải thích như vậy tôi mới yên tâm hơn một chút, rồi cất giọng dịu dàng: “Huynh giờ đã làm cha rồi, thế mà ăn nói vẫn chẳng biết kiêng dè gì cả!”

    “Ta chỉ sợ bỏ lỡ thêm cơ hội đấy thôi.” Sắc mặt y lúc này bình lặng như mặt nước hồ thu, không có lấy một tia xao động. “Hồi ta còn nhỏ, mỗi dịp xuân hè thường thấy phụ hoàng và mẫu phi dắt tay nhau cùng đi ngắm hoa, chuyện trò không ngớt. Khi đó hoa đường lê nở trắng như tuyết, hoa ngô đồng thì tím nhạt như sương, có điều năm nay hoa tàn sớm, ta đã lỡ mất mùa hoa, dù có muốn ngắm cũng chẳng được nữa rồi.” Bốn mắt nhìn nhau, bầu không khí chìm vào tĩnh lặng.

    Một lát sau, y đưa tay tới nắm lấy bàn tay tôi. “Ta xin lỗi.”

    Tôi khẽ lắc đầu. “Muội không muốn nghe thấy những lời này.”

    Y nhìn tôi rồi nở nụ cười tươi như ánh dương rạng rỡ. “Trọn đời ước hẹn, mãi mãi bên nhau.”

    Nỗi chua xót trong lòng gần như đã bị xua đi toàn bộ, chỉ còn lại sự dịu dàng, rồi tôi cũng nở nụ cười tươi rạng rỡ. “Cầm sắt chan hòa, trọn kiếp đẹp tươi.”

    Có lẽ vì quá vui mừng, y nâng chén rượu lên một hơi uống cạn, sau đó còn chĩa đáy chén về phía tôi, khẽ cười, nói: “Nàng xem này, ta uống cạn rồi đấy.”

    Tôi đưa mắt nhìn chén rượu đỏ tươi sóng sánh, dằn lòng lại, nở một nụ cười vui vẻ và hài lòng, không chút do dự ngẩng đầu uống cạn. Dòng rượu chảy vào cổ họng tôi linh hoạt như một con rắn độc, cứ thế trôi tuột xuống dạ dày. Tôi cười tươi rạng rỡ, cũng chĩa đáy chén rượu cho y xem, vui vẻ nói: “Đây chính là rượu giao bôi hợp cẩn, muội cũng chẳng để sót một giọt nào.”

    Y khẽ mỉm cười, một nụ cười xuất phát tự đáy lòng khiến tôi cảm thấy vô cùng ấm áp. “Tốt lắm!”

    Tôi buông thõng hai tay mà đứng lặng lẽ trước bàn, tựa như một bông tịch nhan trắng muốt đã gần héo úa. Dòng rượu lạnh băng kia lúc này đã ở trong cơ thể tôi, chắc chẳng bao lâu nữa sẽ lấy đi tính mạng tôi.

    Nhưng giờ đây tôi lại thấy thỏa mãn vô cùng, đời này không còn điều gì nuối tiếc.

    Màn đêm giá lạnh tựa như nước hồ Phiên Nguyệt, nhưng cũng hết sức dịu dàng. Thoạt nghe tiếng gió thổi qua cành cây xào xạc, tôi thầm cảm thấy Hắc Bạch Vô Thường chừng như đang lặng lẽ tiến đến gần, bèn nhìn y chăm chú, hy vọng có thể ghi nhớ kĩ nụ cười của y.

    Chỉ mong y đừng trách tôi.

    Thế nhưng một hồi lâu sau, trong lòng tôi chỉ có sự tuyệt vọng cùng một cơn lạnh giá tột cùng, hoàn toàn không có cảm giác đớn đau gì cả. Hơi thở của tôi vẫn đều đều như trước, chẳng thay đổi chút nào.

    Đôi hàng lông mày của tôi chợt run rẩy, tựa như một ngọn lửa không ngừng lay động giữa làn gió hiu hiu. Y đưa tay về phía tôi. “Hoàn Nhi, để ta ôm nàng thêm một lần nữa.”

    Đây có lẽ là chút ấm áp cuối cùng mà y mang tới cho tôi, cũng là thứ cuối cùng tôi có thể nhận được. Tôi không kìm được ghé sát tới gần y, còn có gì quan trọng nữa đây? Tôi sắp chết rồi, còn điều gì có thể làm tôi sợ nữa?

    Tôi nhoài người vào lòng y, làn da giá lạnh của y lại một lần nữa ở sát bên tôi, làm trái tim tôi dần trở nên bình lặng. Tôi khẽ cất tiếng lẩm bẩm: “Hàm Nhi hồi nhỏ rất nghịch ngợm, nhưng mười phần lanh lợi, không như Linh Tê từ nhỏ đã điềm đạm, chín chắn. Hai đứa nhỏ ấy một tĩnh một động, còn Tuyết Phách thì chưa biết tính cách sẽ như thế nào, nhưng trong ba huynh muội thì con bé là đứa xinh đẹp nhất...”

    Đôi môi run lên nhè nhẹ, tôi không thể nói tiếp được nữa, cũng không muốn nghĩ tới những đứa bé ấy của tôi, chỉ biết là hổ dữ cũng không ăn thịt con, Huyền Lăng ắt hẳn sẽ không làm gì bốn đứa nhỏ ấy. Tôi nhắm mắt lại, tựa như một bông tịch nhan yếu ớt mọc ra từ trong lòng y, những ký ức thuở xưa dần dần hiện lên trước mắt. “Thanh, muội muốn trở về đỉnh Lăng Vân.”

    Y dường như đã khẽ gật đầu, chợt có một thứ dịch thể ấm áp rơi từ cằm y xuống, hết giọt này tới giọt khác, chậm rãi chảy vào cổ tôi, rồi lại lăn xuống ngực, cuối cùng ngấm vào chiếc yếm trắng muốt thêu hình hoa sen.

    Tôi chậm rãi đưa tay lên lau, đồng thời dịu dàng hỏi: “Thanh, sao huynh lại khóc vậy?”

    Giữa làn nước mắt mơ hồ, tôi nhìn thấy đầu ngón tay mình thấp thoáng màu đỏ tươi, trái tim liền giống như bị người ta đâm vào một lưỡi dao sắc lẹm. Tôi vội vàng ngẩng lên nhìn, thấy một dòng máu đã chảy ra từ bên khóe môi y tự lúc nào, hệt như những bông hoa nở rộ đang không ngừng rơi xuống.

    Tôi không sao kìm nén được những giọt nước mắt của mình, để chúng tuôn rơi cuồn cuộn, chừng như chỉ sau nháy mắt đã xuyên thủng thân thể tôi. Tôi hoang mang ngoảnh đầu lại cầm chén rượu của mình lên xem, y cố hết sức kéo tay tôi lại, đôi hàng lông mày nhíu chặt vì quá đau đớn, thế nhưng vẫn gượng nở nụ cười. “Không cần đâu, ta đã đánh tráo chén rượu của nàng rồi.”

    Nơi đáy chén vẫn còn sót lại mấy giọt rượu đỏ tươi, tôi nhìn mà mắt như đau nhói, không kìm được cất giọng thê lương: “Sao lại như vậy chứ?”

    “Chúng ta lẽ nào mới ngày đầu tiên biết nhau hay sao? Vẻ trù trừ do dự của nàng khi động vào bình rượu đó, ta nhìn thấy rất rõ ràng, dù ngón tay nàng giấu trong tay áo thì bên phải và bên trái khác nhau thế nào ta vẫn có thể nhìn ra được, bởi thủ đoạn dùng bình rượu hai ngăn một có độc một không có độc thế này cũng chẳng phải là quá mới mẻ. Huống chi hoàng huynh là hạng người thế nào chứ, chỉ nhìn việc y bảo nàng một mình tới đây là ta đã biết rằng có vấn đề rồi.”

    Giọng nói của y nặng nề và ấm áp, tựa như một tấm chăn bông phủ lên tấm thân lạnh lẽo đang run lên lẩy bẩy của tôi. “Khi nàng đi đóng cửa sổ, ta đã tráo đổi chén rượu của hai chúng ta. Hoàn Nhi, ta không muốn nàng phải khó xử.”

    Cơn giá lạnh cùng nỗi đau đớn tột cùng trong xương tủy dần đông cứng lại thành một khối băng rất lớn, còn cứng rắn vô cùng, cứ thế lăn qua trái tim tôi, sau đó lại lăn ngược trở về, khiến trái tim vốn mang đầy thương tích của tôi nhanh chóng bị nghiền nát. Tôi cất giọng thê lương: “Không thể thế được! Người phải chết rõ ràng là muội cơ mà! Sau khi muội chết, huynh liều mình đánh giết ra ngoài, dù gì cũng sẽ có một con đường sống!”

    Y đưa tay nắm chặt lấy bàn tay tôi. “Sau khi ta đoạt nàng về từ trong tay Ma Cách, hoàng huynh đã nổi sát tâm, ta căn bản chẳng thể nào thoát được!” Máu tươi không ngừng chảy ra từ bên khóe miệng y, thế nhưng y vẫn khẽ mỉm cười. “Ta sớm biết sẽ có ngày này rồi. Chén rượu độc này dù nàng có thật sự đưa cho ta thì cũng chẳng sao, nàng làm thế chỉ vì muốn bảo vệ mình. Hoàn Nhi, sau này ta không thể bảo vệ nàng nữa, nàng nhất định phải tự biết bảo vệ bản thân đấy.”

    Tôi gắng gượng đứng dậy. “Để muội đi tìm Ôn Thực Sơ, Ôn Thực Sơ nhất định có thể cứu được huynh.”

    Đôi mắt y dần trở nên rời rạc, ánh trăng từ ngoài cửa sổ rọi vào dịu dàng vuốt ve đôi bờ má y, lại càng khiến khuôn mặt y lúc này thêm phần nhợt nhạt, hệt như một bông tịch nhan sắp úa tàn. Đôi bờ môi y giờ đã tím thẫm, giọng nói thì trở nên nặng nề vô hạn: “Rượu độc trong cung lợi hại đến cỡ nào chứ, một khi uống vào ắt sẽ phải mất mạng, không ai có thể cứu được.” Y đưa tay tới lau nước mắt cho tôi một cách khó khăn, dịu dàng nói tiếp: “Hoàn Nhi, nàng đừng khóc. Đợi lát nữa nàng ra ngoài, hoàng huynh mà nhìn thấy nàng khóc thì ắt sẽ trút giận lên người nàng đấy.”

    “Được, muội không khóc.” Tôi ra sức gật đầu, muốn ngưng khóc theo lời của y, thế nhưng nước mắt càng lúc càng nhiều, không cách nào kìm nén được.

    Y đưa tay tới, cố gắng ôm tôi vào lòng, khuôn mặt vốn nhăn nhó vì đau đớn chậm rãi dãn ra. “Hoàn Nhi, sau khi ta chết, nàng chớ nên đau thương. Nàng phải đáp ứng ta một việc, ấy là nhất định phải bảo vệ bản thân thật tốt, đừng để ai hãm hại.” Hơi thở của y dần trở nên dồn dập. “Đứa bé Tuyết Phách đó quả thực rất giống nàng. Nàng đã có những đứa con của nàng rồi, nhất định phải cố gắng sống tiếp cho tốt.” Rồi y khẽ thở dài một tiếng. “Xin lỗi, Hoàn Nhi, ta sau này không thể tiếp tục đứng sau lưng nàng để bảo vệ cho nàng được nữa.”

    Tôi ra sức lắc đầu. “Không! Không! Thanh, cuộc biệt ly trên đỉnh Lăng Vân đã trở thành sai lầm lớn nhất trong đời, muội cầu xin huynh, cầu xin huynh đừng rời xa muội nữa! Muội là thê tử của huynh, muội không muốn ở lại trong chốn hậu cung này, huynh hãy đưa muội rời khỏi đây, hãy đưa muội rời khỏi đây đi mà!”

    Bàn tay y vừa vuốt ve bờ má tôi vừa run lên lẩy bẩy, những đầu ngón tay thật lạnh lẽo làm sao, chẳng còn được ấm áp như ngày xưa nữa. Y cố gắng nở một nụ cười mờ mịt như sương mù. “Có câu nói này của nàng, đời này ta không còn điều gì nuối tiếc nữa!” Giọng nói của y nhỏ dần. “Trong lòng ta, nàng mãi mãi là thê tử duy nhất của ta...”

    Hai hàng lệ chảy dài trên bờ má, ánh trăng trắng lóa chiếu vào giống như cái miệng dữ dằn của một con quái thú đang ngoạm chặt lấy cổ họng tôi, mang tới nỗi đau đớn tột cùng. Tôi bất chấp tất cả ghé vào bên tai y, khẽ nói: “Dư Hàm, Linh Tê, còn cả Tuyết Phách nữa, đều là con của huynh...”

    Gần như trong cùng một khoảnh khắc, đầu y ngoẹo xuống bờ vai tôi, lại từ từ trượt xuống đến khuỷu tay. Và rồi y cứ thế nằm lặng lẽ trong lòng tôi, chẳng hề động đậy, cũng chẳng còn lại một hơi thở nào.
    Gió đêm nhẹ nhàng mở rộng cửa sổ ra từng chút một, dưới ánh trăng lạnh lẽo có thể nhìn thấy nơi bệ cửa sổ có những bông hoa trắng muốt đang nở rộ, chẳng hề tỏa hương, trên cánh hoa mỏng manh hãy còn lưu lại đôi giọt sương đêm thuần khiết, thực là yêu kiều, non nớt vô cùng.

    Giọng nói sang sảng của y dường như lại vang lên sau lưng tôi: “Nàng có biết đây là hoa gì không?” Y sẽ không bao giờ hỏi tôi như vậy nữa.

    Y chết rồi.

    Trước ngực tôi vẫn còn những vệt máu ấm nóng do y nôn ra, nhưng dần dần cũng đã trở nên lạnh lẽo. Giống như trái tim này của tôi, đã vĩnh viễn chẳng thể nào ấm áp được nữa rồi.

    Y chết rồi, nam tử mà tôi cả đời thương yêu và nhớ nhung da diết ấy đã chết rồi, chết vì tôi, chết ngay trong lòng tôi. Tôi áp sát mặt mình vào mặt y, đã lâu lắm rồi khuôn mặt của chúng tôi mới lại được ở gần nhau như thế.

    Nhưng y nay đã chết rồi, y sẽ không bao giờ nói chuyện với tôi nữa, không bao giờ nhìn tôi bằng ánh mắt dịu dàng như thế nữa, cũng không bao giờ cùng tôi viết thơ hay gảy đàn, thổi sáo nữa.

    Trường tương tư và Trường tương thủ, rốt cuộc đã phải vĩnh viễn xa lìa. Sau này, trong những đêm dài đằng đẵng, chỉ còn lại một mình Trường tương tư đau khổ giằng xé tâm can. Lúc này đây, trái tim tôi như đã trở nên mục ruỗng, thân thể cũng chỉ còn lại cái vỏ bên ngoài, cả cuộc đời này chẳng thể nào được giải thoát.

    Đó là một tấm thiếp hợp hôn màu đỏ, chính giữa có hình một cặp uyên ương ân ái, phần rìa thì vẽ hình phượng hoàng đầu nối đuôi nhau, lấy ý từ câu phượng hoàng cùng bay, chỉ vợ chồng hòa hợp, nền của tấm thiếp còn có hoa văn sen mọc cùng gốc, ngụ ý nhiều con nhiều phúc, ân ái triền miên.

    Mấy hàng chữ bên trên, tới lúc này vẫn còn in sâu trong đầu tôi:

    Huyền Thanh - Chân Hoàn

    Trọn đời ước hẹn, mãi mãi bên nhau.

    Nguyện cầm sắt chan hòa, trọn kiếp đẹp tươi.

    Đối với tôi mà nói, kiếp sống này đã trở nên tàn nhẫn vô cùng, chẳng còn chút gì gọi là đẹp tươi nữa, thế nhưng tôi lại chẳng thể nào chết theo y được.

    Một hồi lâu sau, cũng chẳng biết là đã qua bao lâu rồi nữa, thân thể của y đã hoàn toàn trở nên nguội lạnh. Đôi môi lạnh băng của tôi hôn nhẹ lên bờ trán cũng lạnh băng của y, lòng thầm đau đớn đến nỗi chẳng còn lại chút cảm giác nào. Tôi giống như một người mất hồn, cứ thế chậm rãi đứng dậy, chậm rãi mở cửa điện ra, lẳng lặng đón lấy ánh trăng từ trên cao chiếu xuống, trong lòng chẳng có lấy một tia cảm xúc.

    Cách đó ngoài trăm bước chân, ánh sáng tỏa ra từ những lưỡi đao sắc bén khiến tôi cơ hồ không mở mắt ra nổi, ngoảnh đầu ngó khắp thì thấy đâu đâu cũng là giáp trụ lạnh tanh. Chợt Lý Trường chạy tới đỡ lấy tôi, cất giọng nửa vui nửa buồn: “Nương nương rốt cuộc đã ra ngoài rồi!”

    Tôi chỉ tay về phía đám người lăm lăm vũ khí trong tay kia, hỏi: “Đó là gì vậy?”

    Lý Trường lúng túng cúi đầu. Thống lĩnh Vũ lâm quân Hạ Ngải - kẻ cầm đầu đám người kia - ôm quyền hành lễ với tôi, cung kính nói: “Hoàng thượng có chỉ, nếu chỉ có một mình nương nương ra ngoài thì tuyên đọc thánh chỉ; nếu ngoài nương nương ra còn có người nào khác, vậy thì tất thảy giết hết bất luận tội!”

    Hạ Ngải đưa tay lên ra dấu cứa cổ. Mắt tôi bỗng như tối sầm, Huyền Lăng, y quả nhiên đã mưu tính kĩ càng, không để Huyền Thanh có con đường thoát.

    Giọng tôi vang lên vẻ đầy bình tĩnh, như thể chẳng phải là của mình: “Bản cung vẫn bình yên vô sự, giờ đã ra ngoài rồi.” Hạ Ngải ngó nhìn về phía sau lưng tôi, truy hỏi: “Vậy...”

    Tôi cắn chặt bờ môi, một hồi lâu sau mới cất giọng lạnh lùng: “Thanh Hà Vương đã qua đời.”

    Hạ Ngải mỉm cười hài lòng, quay sang nói với Lý Trường: “Mời công công tuyên đọc thánh chỉ.”

    Lý Trường nhìn thấy bộ dạng hung thần ác sát ấy của hắn thì không kìm được rùng mình một cái, lấy ra cuộn thánh chỉ đã được chuẩn bị sẵn, nói: “Thục phi Chân thị nghe chỉ...”

    Tôi ngẩn ngơ quỳ xuống, bên tai văng vẳng giọng nói the thé của Lý Trường: “Trung cung thất đức, hậu cung thiếu người cầm trịch, nay trẫm đặt thêm ngôi vị hoàng quý phi ở trên tứ phi, địa vị ngang với phó hậu, chưởng quản lục cung. Thục phi Chân thị thông minh hiền đức, đoan trang tao nhã, là tấm gương sáng cho lục cung, nay trẫm ra ân ban phong làm hoàng quý phi. Khâm thử.”

    Lý Trường đi tới đỡ tôi dậy, lén đưa tay lau đi mấy giọt lệ nơi khóe mắt, gượng cười nói: “Chúc mừng nương nương, đây là chuyện mừng lớn chưa từng có đấy ạ...”

    “Quạ... Quạ...” Chợt có một con quạ vỗ cánh bay ngang qua giữa bầu trời tịch mịch, lòng tôi thầm chua xót, biết rõ rằng có một thứ mà giờ mình đã vĩnh viễn mất đi.

    Lý Trường đỡ tôi đi xuống dưới Đồng Hoa đài, khẽ nói: “Hoàng thượng biết là nương nương phen này mệt nhọc, vậy nên đã đặc biệt bày tiệc ở Thủy Lục Nam Huân điện để chờ nương nương.”

    Gió đêm rất lớn khiến ống tay áo rộng của tôi giống như những cánh bướm không ngừng tung bay, thế nhưng đó lại là những cánh bướm chết chóc, chẳng hề có chút sinh khí. Một bông hoa ngô đồng màu tím chợt rơi vào vạt áo trước ngực tôi, nơi cuống hoa vẫn còn lưu lại chút nhựa nhầy nhầy. Tôi tiện tay cầm lên, bất giác cảm thấy mình cũng giống như bông hoa này, từ giờ trở đi chẳng còn nơi nương tựa.

    Chân tôi bỗng trượt một cái, thân thể lăn lông lốc xuống dưới Đồng Hoa đài. Lý Trường không kìm được kinh hãi kêu lên: “Nương nương...”

    Từ nơi đầu gối chân phải truyền tới một cơn đau thấu tâm can, trong khoảnh khắc sắp ngất đi, tôi chợt nhớ lại một câu nói của mẫu thân ngày trước, Kinh Hồng vũ là điệu múa chỉ dành cho nam tử mình yêu.

    Tôi biết, tôi sau này chẳng thể múa được nữa rồi.

    Ngày Mười bảy tháng Năm năm Càn Nguyên thứ hai mươi bảy, Thanh Hà Vương qua đời vì bạo bệnh ở Đồng Hoa đài. Ngày Hai mươi bảy tháng Năm năm Càn Nguyên thứ hai mươi bảy, trong ngày liệm Thanh Hà Vương, Trắc phi Chân thị sau một hồi khóc lóc đã đập đầu vào quan tài tự vẫn.

    Hôm ấy, Lý Trường sau khi trở về từ phủ Thanh Hà Vương, trên mặt vẫn còn vương đầy dấu lệ. “Ẩn phi đã khóc đến ngất đi mấy lần, tới khi mọi người sắp đậy nắp quan tài cho Vương gia thì đột ngột lao đầu vào đó, máu bắn ra xa ngoài ba thước. Khi đó Ẩn phi chưa tắt thở, còn cố gắng bò vào trong quan tài của Vương gia mà ôm chặt lấy Vương gia, sau đó cắn lưỡi tự vẫn. Bọn nô tài tới lúc ấy mới hiểu ý của Ẩn phi, đó là mong được sống cùng giường, chết cùng mộ với Vương gia, sinh tử chẳng rời.”

    Lúc ấy tôi đang ngồi trước tượng Quan Âm niệm Vãng sinh chú, vừa hay tin liền thấy lòng đau như cắt, tràng hạt trong tay bất chợt đứt lìa, những hạt châu rơi đầy trên mặt đất. Tôi đưa tay che mặt, những giọt nước mắt đã kìm nén suốt mấy ngày rốt cuộc đã lại một lần nữa tuôn rơi.

    Mười ngày sau lễ khâm liệm, Huyền Lăng hạ chỉ sai hậu táng phu thê Thanh Hà Vương, thế tử của Thanh Hà Vương thì giao cho thê tử Bình Dương Vương nuôi nấng. Trong thời gian này, Huyền Lăng còn từng mấy lần khóc lóc sầu thảm vì cái chết của Thanh Hà Vương, thậm chí bỏ ăn bỏ uống, chỉ sau mấy ngày đã gầy đi rất nhiều. Ngoài ra y lại sinh lòng thương cảm vì Huyền Thanh phải chịu khổ ở biên quan, lâu ngày thành bệnh, bèn hạ chỉ tăng thêm một trăm vạn lạng bạc quân hưởng, ba quân ở biên quan đều phải mặc đồ tang truy điệu Thanh Hà Vương.

    Khi nghe được tin này thì vết thương ở chân tôi đã đỡ hơn nhiều, có thể xuống giường đi lại chậm rãi. Thái y nói tôi đi lại thì không có vấn đề gì, nhưng không thể múa được nữa, cũng không thể chạy. Lúc này tôi chỉ đứng lặng lẽ trong thư phòng ở Thủy Lục Nam Huân điện, trong tay cầm chặt một sấp thư nhà mà mình vô ý nhìn thấy giữa chồng thư tịch của Huyền Lăng.

    Đó là một sấp thư nhà rất dày, từng câu từng chữ bên trên đều do Huyền Thanh tự tay viết, chủ yếu là hỏi thăm tình hình trong vương phủ và trong cung, lại dặn dò Ngọc Ẩn và Triệt Nhi phải chú ý giữ gìn sức khỏe, lời lẽ hết sức ôn tồn, ấm áp. Có điều mỗi bức thư luôn kết thúc bằng bốn chữ nhỏ viết bằng thể chữ Khải hết sức ngay ngắn: Thục phi khỏe chăng?

    Thư trả lời của Ngọc Ẩn thì rất dài, nét chữ cực kỳ nắn nót, từ trong từng chữ từng hàng đều có thể nhìn ra nỗi tương tư nồng đậm, mà ở cuối mỗi bức thư đều là ba chữ Khải nhỏ viết theo lối Trâm hoa: Thục phi khỏe.

    Lạc khoản là đủ các mùa xuân, hạ, thu, đông trong hai năm dài đằng đẵng, chẳng thiếu đêm ngày.

    Giữa cơn nghẹn ngào trong tĩnh lặng, tự nơi đáy lòng tôi không ngớt trào dâng một nỗi bi thương khó tả bằng lời, nước mắt không ngừng tuôn rơi, từng giọt từng giọt chảy xuống và ngấm vào chiếc áo hoàng quý phi màu vàng tươi thêu hình phượng hoàng, lưu lại những vệt nước mắt loang lổ.

    Lý Trường đứng lặng lẽ sau lưng tôi, khẽ cất tiếng bẩm báo: “Nô tài đã điều tra ra rồi, chỗ thư nhà này đều là do Hiền phi nương nương mang về dâng lên cho Hoàng thượng, Hoàng thượng sau khi xem xong liền lưu lại và sai người sao một bản theo nét chữ của Vương gia mà gửi tới vương phủ cho Ẩn phi, thư của Ẩn phi cũng bị làm hệt như thế.”

    Tôi đột nhiên nhớ ra, chiếc quạt tròn để bên giường của Huyền Lăng hôm đó chính là của Hiền phi Hồ Uẩn Dung.

    Lý Trường cất giọng lo lắng: “Hiền phi nương nương một lòng muốn ngồi lên ngôi hậu, coi nương nương như cái gai trong mắt, liên tục ám hại, nương nương không thể không đề phòng được.”

    Móng tay đã cắm ngập vào lòng bàn tay, nhưng tôi vẫn không đổi sắc mặt, hờ hững nói: “Ta biết rồi.”
     
  3. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 18: Người cũ đi rồi trơ lầu ngọc[36]
    [36] Trích Cô nhạn nhi - Thế nhân tác mai thi của Lý Thanh Chiếu. Nguyên văn Hán Việt: Xuy tiêu nhân khứ ngọc lâu không - ND.

    Sau khi được sắc phong làm Hoàng quý phi, quyền thế của tôi cố nhiên là khuynh đảo hậu cung, lại vì vết thương ở chân mà rất được Huyền Lăng thương xót, thế nhưng sự sủng ái mà y dành cho tôi thì lại ngày càng suy giảm.

    Khi soi gương tôi mới giật mình phát giác, hóa ra chỉ sau một tháng mà mình đã già đi nhiều như thế rồi, nơi tóc mai lốm đốm điểm bạc, khuôn mặt trở nên tiều tụy hom hem, khóe mắt thì đã có những nếp nhăn rất nhỏ. Tôi biết mình xưa nay chỉ có thể dùng nhan sắc của tấm thân này để giành lấy tình cảm của y, thế nhưng giờ đây, chỉ sau hơn một tháng mà chừng như mấy chục năm đã trôi qua trên khuôn mặt tôi vậy.

    Phải rồi, tôi đã già, nhan sắc đã nhạt phai, lại có vết thương ở chân nữa, tất nhiên là không thể được sủng ái như trước rồi. Huống chi việc tôi đột ngột già đi cũng khiến y nghi ngờ, dù Vệ Lâm từng mấy lần bẩm lên rằng tôi chỉ vì sợ hãi quá độ, lại thêm bị thương ở chân nên mới tiều tụy như thế, nhưng rất nhiều lần sau khi xoay người đi, tôi đều cảm nhận được y đang ném về phía tôi những ánh mắt sắc lẹm đầy vẻ nghi ngờ.

    Chưa lạt má hồng ơn đã dứt. Tôi nở một nụ cười thấu hiểu, đây chính là vận mệnh của các nữ tử trong cung.

    Những bữa tiệc ca múa tưng bừng hiện giờ đa phần đều diễn ra trong cung của Hồ Uẩn Dung, mọi sự sủng ái cũng đổ dồn về đó cả, bởi lúc này chính là thời điểm mà Hồ Uẩn Dung đẹp nhất, ngoài ra cô ta còn đang được Huyền Lăng rất tin tưởng.

    Vậy nên dù tôi có là hoàng quý phi tôn quý thì người có quyền thế hiển hách nhất trong cung hiện nay vẫn là Hiền phi Hồ thị.

    Tôi lặng lẽ cúi đầu, ánh mắt dừng lại trên người Hàm Nhi và Nhuận Nhi lúc này đang ngồi dưới cửa sổ lắc lư cái đầu liên tục. Hai đứa bé giọng vẫn còn non nớt, thế nhưng lại tràn đầy sức sống, tựa như hai cọng cỏ vừa mọc, không ai có thể ngăn cản chúng trưởng thành.

    Tôi nở một nụ cười hiền từ, may mà tôi vẫn còn có lũ nhỏ.

    Tháng Chín năm Càn Nguyên thứ hai mươi bảy, trời đổ mưa rào suốt mấy chục ngày liền, kinh sư gần như bị ngâm trong nước, trăm họ khổ sở vô cùng.

    Lúc này đã vào thu, thế mà trời vẫn có sấm chớp mưa bão, chỉ trong một ngày mà những tia chớp đã lóe qua giữa bầu trời sáng rực vô số lần, tiếng sấm thì vang lên ì ùng không ngớt. Biến cố của thời tiết làm lòng người hết sức hoang mang, các thầy tướng nơi dân gian đều nói rằng thiên tượng sinh biến, ấy là điềm rằng tai họa sắp xảy ra, thế rồi tin đồn cứ lan truyền đi khắp, cuối cùng mũi dùi chĩa thẳng về phía Tử Áo Thành: Phương đông nhiều mưa, Câu Dặc nữ họa.

    Lúc này Quý Duy Sinh với thân phận tư nghi Khâm thiên giám đang cung tay đứng trong Nghi Nguyên điện, không chút nghĩ ngợi đã nói bằng giọng chắc nịch: “Thầy tướng nơi dân gian nói không hề sai, đế đô nằm tại phương Đông, thời gian qua liên tiếp có mưa rào, chủ về điềm nữ âm chi họa, còn về Câu Dặc nữ họa thì theo như vi thần được biết, Câu Dặc phu nhân là sủng phi của Hán Vũ Đế, xin thứ cho vi thần lớn gan, nhưng câu đó có lẽ chỉ rằng một vị sủng phi thân phận cực kỳ tôn quý bên cạnh Hoàng thượng, lại có liên quan tới ngọc, đã dối gạt trời cao chuyện gì đó, do đó trời cao mới làm thiên tượng biến đổi để trách phạt.”

    Huyền Lăng vốn đang phiền não vì thiên tai nhân họa liên miên, nghe vậy liền xua tay, nói: “Dối gạt trời cao? Trẫm là thiên tử, dối gạt trời cao tức là dối gạt trẫm, thử hỏi trong hậu cung của trẫm có ai dám dối gạt trẫm chuyện gì đây? Đúng là nói bừa!”

    Hồ Uẩn Dung cất giọng yêu kiều: “Vậy thì chưa chắc.”

    Mấy tháng qua, Quý Duy Sinh thường xuyên đi lại với Hồ Uẩn Dung, còn từng nhiều lần nói rằng Hồ Uẩn Dung có tướng lăng vân, Hồ Uẩn Dung cất lời nói giúp cho y cũng là lẽ thường tình.

    Giữa đêm khuya giá lạnh, tôi dắt tay Nhuận Nhi đứng chờ bên ngoài Nghi Nguyên điện, trời đang mưa như trút nước, nước mưa không ngừng chảy xuống từ mái hiên, hệt như một bức rèm châu che khuất tầm nhìn của người ta. Dõi mắt nhìn đi, chỉ thấy các bức tường vốn đỏ tươi nay đều trở nên đỏ sẫm, nhưng những tòa cung điện xa hoa lại vì thế mà trở nên bóng bẩy, rực rỡ thêm mấy phần. Lý Trường tỏ ra hết sức khó xử, vừa xoa tay vừa nói: “Hoàng thượng đã dặn dò rồi, người đang có chuyện quan trọng cần thương lượng với Quý Tư nghi, không gặp ai cả.”

    “Không gặp ai cả?” Tôi cười nhạt một tiếng, trong mắt lóe lên những tia âm u sắc sảo. “Vậy Hiền phi thì sao?”

    Lý Trường ra hiệu cho tôi nói khẽ, kế đó cười gượng. “Hiền phi nương nương hiện giờ đang được Hoàng thượng chuyên sủng, tất nhiên khác với người thường rồi.”

    Phải rồi, hiện giờ tôi đã được sắc phong làm hoàng quý phi, vinh hiển tột cùng, mọi việc trong hậu cung đều do tôi quản lý, thế nhưng người thường xuyên ra vào Nghi Nguyên điện thì lại biến thành Hồ Uẩn Dung. Nghi Nguyên điện giờ đang ở ngay trước mắt, có thể loáng thoáng nghe thấy cuộc đối thoại bên trong, có điều tôi thì lại bị chặn ở ngoài, không thể tùy ý ra vào nữa.

    Tôi khẽ nở nụ cười. “Vậy bản cung sẽ đợi thêm lát nữa.” Dứt lời bèn đưa tay lên chỉnh lại búi tóc đã bị nước mưa làm ướt, thế rồi thình lình phát hiện đầu ngón tay của mình không ngờ đã biến thành màu đen thui. Tôi bất giác gượng cười một tiếng, phát hiện mái tóc vừa được Cận Tịch bỏ ra hai canh giờ để nhuộm đen không chịu nổi nước mưa, thuốc nhuộm lúc này đã bị tan ra không ít.

    Những hạt mưa to như hạt đậu không ngừng rơi xuống bậc thềm đá cẩm thạch phát ra những tiếng lộp bộp, bọt nước trắng xóa bắn lên tung tóe. Nhuận Nhi đưa mắt nhìn tôi, khẽ nói: “Mẫu phi, con lạnh quá.”

    Tôi đưa tay nắm lấy bàn tay lạnh băng của thằng bé, lại khom người ôm chặt thằng bé vào lòng, dịu dàng cười nói: “Là mẫu phi không tốt, khi ra ngoài đã không mặc thêm áo cho con, đợi lát nữa về mẫu phi sẽ tự tay mặc áo cho con được không?”

    Tôi bất giác thầm chua xót trong lòng, chẳng rõ sau ngày hôm nay Nhuận Nhi có còn được ở bên tôi nữa hay không. Nghe nói Hồ Uẩn Dung đã từng mấy lần nói với Huyền Lăng rằng: “Hòa Mục ít tuổi không có bạn chơi, mà Hoàng quý phi thì lại bận rộn nhiều việc, thần thiếp muốn đón Dư Nhuận về nuôi bên cạnh.” Huyền Lăng không tỏ thái độ gì, thế nhưng Hồ Uẩn Dung hiện đang được y tin tưởng nhất, nếu cứ cầu xin thêm mấy lần nữa chưa chắc y đã không đồng ý.

    Hồ Uẩn Dung kỳ thực nào có muốn nuôi Dư Nhuận, gần đây thường xuyên nhắc đến chẳng qua là vì muốn ngồi lên ngôi hậu mà thôi. Cô ta vốn không có con trai, một khi dưới gối có hoàng tử thì cơ hội trở thành hoàng hậu ắt sẽ lớn hơn nhiều.

    Tôi khẽ thở dài một tiếng, đưa tay xoa đầu Nhuận Nhi. Cuộc tranh đấu ở hậu cung hà tất phải để dính dáng tới một đứa bé vô tội, huống chi Nhuận Nhi còn là do My Trang phó thác cho tôi lúc lâm chung, tôi sao có thể tùy tiện để nó bị người khác mang đi, thậm chí còn trở thành một quân cờ được?

    Nhuận Nhi còn ít tuổi, vẫn chưa hiểu được những việc rắc rối ấy, chỉ ngoan ngoãn gật đầu đáp “vâng” một tiếng, sau đó lại cười tươi rạng rỡ. “Mẫu phi ngày ngày đều mặc quần áo cho Nhuận Nhi, nhưng lại rất ít khi mặc quần áo cho Hàm ca ca.”

    Tôi cúi đầu khẽ hôn lên trán thằng bé một cái, mỉm cười nói: “Đó là vì mẫu phi thương Nhuận Nhi nhất, đúng vậy không nào?”

    Thằng bé mừng rỡ vô cùng, lập tức đáp “dạ” một tiếng rất to.

    Gần như cùng lúc ấy cửa điện đột ngột mở ra, Hồ Uẩn Dung trong bộ đồ màu đỏ tươi tha thướt cất bước ra ngoài, dung nhan mười phần trẻ trung, xinh đẹp. Ngay trong khoảnh khắc nhìn thấy Nhuận Nhi, cặp mắt cô ta chợt sáng lên, bên trong tràn ngập nét cười, rồi cô ta khom người nắm lấy bàn tay Nhuận Nhi, cất giọng dịu dàng vô hạn: “Nhuận Nhi sao lại ở đây thế? Đã đợi lâu lắm rồi phải không?”

    Nhuận Nhi dựa theo lễ nghi cung kính gọi khẽ một tiếng: “Hiền phi nương nương.”

    Nụ cười của Hồ Uẩn Dung giống như ánh dương bị mây đen che phủ, tức thì tắt lịm, nhưng ngay sau đó cô ta lại cười tươi. “Cứ gọi ta là mẫu phi là được rồi. Nhuận Nhi có muốn tới cung của mẫu phi chơi không, trong cung của mẫu phi có nhiều thứ hay lắm, con thích chơi gì nào? Xếp hình, kỳ lân gỗ, đá cầu hay là tháp chuông gió? Mà tới đó rồi con còn có thể chơi cùng với Hòa Mục tỷ tỷ nữa đấy.”

    Nhuận Nhi cúi xuống, nép sát vào bên cạnh tôi, rồi lại ngẩng lên nhìn tôi, nói: “Mẫu phi, chúng ta mà còn không về là Linh Tê tỷ tỷ sẽ sốt ruột đấy.”

    Tôi ôn tồn nói: “Được, chúng ta gặp phụ hoàng xong rồi sẽ về ngay.”Hồ Uẩn Dung làm ra vẻ tới lúc này mới phát hiện thấy tôi, khẽ cười, nói: “Hóa ra Hoàng quý phi cũng ở đây, vừa rồi ta không nhìn thấy đúng là thất lễ.” Rồi cô ta để lộ vẻ kiêu ngạo. “Tứ điện hạ đúng là càng ngày càng đáng yêu, chẳng trách lại được Hoàng quý phi thương yêu như thế, lúc nào hãy đưa tới cung của ta ở tạm một thời gian đi.”

    Tôi chẳng hề giận dữ, chỉ mỉm cười ôn tồn. “Nhuận Nhi từ nhỏ đã sống ở Nhu Nghi điện, chỉ e sẽ không quen.”

    Cô ta hơi nhếch khóe môi, cất giọng cao vang: “Dăm ba năm sau sẽ quen hết thôi.” Thoáng đảo mắt một cái, cô ta lại che miệng cười, nói: “Vừa rồi Hoàng quý phi nói là muốn gặp Hoàng thượng, nhưng chỉ e bây giờ Hoàng thượng không có thời gian rảnh đâu, người còn có chuyện phải bàn bạc với Quý Tư nghi nữa.”

    Dưới màn mưa như trút, vô số bong bóng không ngừng nổi lên giữa những vũng nước mưa, nhưng cơ hồ vừa nổi lên đã bị những hạt mưa rơi xuống ngay sau đó làm vỡ vụn. Tôi bình tĩnh nói: “Muội muội đã nói như vậy rồi thì ta không vào trong nữa vậy.”

    Tôi dắt tay Dư Nhuận xoay người chuẩn bị rời đi, chợt Hồ Uẩn Dung cười tủm tỉm nhìn tôi, trong mắt ánh lên những tia âm u tột độ, giọng nói thì mang đầy vẻ bí ẩn: “Khuê danh của tỷ tỷ khi xưa có phải là Chân Ngọc Hoàn không thế?”

    Tôi cất giọng hờ hững: “Muội muội quả là tai mắt lanh lẹ quá.”

    Hồ Uẩn Dung nở một nụ cười thần bí tiến lại gần tôi, trên người hãy còn mang mùi long diên hương thoang thoảng. “Ba vị muội muội của tỷ tỷ lần lượt là Ngọc Ẩn, Ngọc Diêu, Ngọc Nhiêu, vậy nên muội muội đây mới dám cả gan đoán mò như thế.”

    “Từ rất lâu trước đây ta đã không thích chữ ngọc này, do đó đã bỏ nó đi không dùng tới nữa rồi.”

    Dưới màn mưa mịt mờ, giọng nói của cô ta toát ra một vẻ hững hờ và âm u vô hạn: “Nhưng nói gì thì nói, tỷ tỷ cũng là con gái thuộc hàng chữ ngọc của nhà họ Chân, đúng vậy không?” Ngày Mười bốn tháng Chín, tôi rốt cuộc đã bị cấm túc ở Vị Ương cung, mà trước đó mấy ngày, các tin đồn về lời sấm “phương Đông mưa nhiều, Câu Dặc nữ họa” đã lan truyền trong cung không ngớt, khuê danh cũ của tôi là Ngọc Hoàn cũng bị lôi ra đàm tiếu, còn về cái gọi là dối gạt trời cao thì dần dần, ngay cả việc Huyền Thanh đưa tôi về từ trong tay Ma Cách cũng bị đồn thổi bằng những lời vô cùng khó nghe.

    Khi Lý Trường mặt mày rầu rĩ tới tuyên chỉ thì tôi đang ngồi dưới cửa sổ thêu một bức hình “Liễu nhứ xuân hoa”, những bông liễu mỏng manh được tôi thêu bằng chỉ bạc trên nền vải gấm trắng ngần thuần khiết, nhìn lâu rồi sẽ rất dễ khiến người ta hoa mắt nhức đầu.

    Chờ Lý Trường tuyên chỉ xong tôi liền thản nhiên tiếp chỉ, chẳng buồn để ý đến vẻ xót thương trong mắt y. Y ôn tồn nói: “Nương nương xin hãy bảo trọng.”

    Tôi lại cúi đầu thêu tiếp, đồng thời cất giọng hờ hững: “Không sao, năm xưa Trinh Nhất Phu nhân cũng từng vì thiên tượng biến đổi mà bị cấm túc, về sau đã bĩ cực thái lai đó thôi.”

    Lý Trường nói: “Trinh Nhất Phu nhân cũng từng khuyên nhủ Hoàng thượng rồi, có điều cơn mưa này...” Y ngẩng đầu lên, đưa mắt nhìn những hạt mưa ngoài cửa sổ, lo lắng nói: “Hiền phi nương nương...”

    Tôi vỗ “bộp” một cái xuống bàn, chiếc kéo bạc nhỏ để trên bàn tức thì nảy bật lên, mũi kéo sắc bén thiếu chút nữa đã đâm vào người tôi. Tôi bất chấp việc gã tùy tùng đi theo Lý Trường tới đây còn đang đứng chờ bên ngoài điện, giận dữ quát bảo: “Tất thảy đều tại gã Quý Duy Sinh đó ăn nói bừa bãi khiến Hoàng thượng hiểu lầm bản cung! Bản cung bây giờ không thể rời khỏi Vị Ương cung, vậy thì sẽ ngày ngày nguyền rủa hắn, khiến hắn không được chết một cách yên bình!”

    Lý Trường vội vàng nói: “Nương nương bớt giận, nương nương bớt giận!”

    Tôi còn chưa hết căm hận. “Gã họ Quý đó đúng là có mắt không tròng, ăn nói bừa bãi, sau này nhất định sẽ có ngày bản cung băm thây hắn ra thành vạn mảnh!”

    Từ sau khi về cung, tôi vốn luôn cư xử khoan dung độ lượng với người dưới, rất ít khi ăn nói dữ dằn như vậy, các cung nhân hầu hạ bên ngoài không có ai là không tặc lưỡi kinh sợ.

    Mưa lớn vẫn cứ rơi ào ào không ngớt, Vị Ương cung như bị nhấn chìm trong một mảng lạnh lẽo âm u. Linh Tê từ bé tới giờ chưa từng thấy Nhu Nghi điện rơi vào tình cảnh như vậy, không khỏi có chút sợ hãi, khóe mắt rưng rưng ánh lệ, cố gắng nép sát vào bên cạnh tôi.

    Tôi ôm chặt con bé vào lòng, đưa mắt nhìn ra phía ngoài mà trầm giọng nói: “Đừng sợ! Có mẫu phi ở đây, con không cần sợ điều gì cả!”

    Sau khi tôi bị cấm túc, các phi tần trong cung đều không được tới thăm, chỉ duy có Lung Nguyệt vốn là công chúa tôn quý, lại bạo gan, do đó thường xuyên bất chấp lệnh cấm mà ghé vào Nhu Nghi điện thăm tôi cùng mấy đứa nhỏ. Huyền Lăng thấy thế thì không đành lòng trách cứ, cũng không ngăn cấm con bé.

    Lung Nguyệt mỗi lần đều mang theo một ít hoa quả, bánh trái tới chia cho mấy đứa em, thỉnh thoảng còn đi tới đứng bên cạnh tôi trò chuyện. Thấy tôi cứ thêu mãi bức hình “Liễu nhứ xuân hoa”, nó rốt cuộc đã không kìm được mà cất tiếng hỏi: “Mẫu phi, người bị cấm túc thế này mà không nôn nóng chút nào ư?”

    Tôi khẽ mỉm cười. “Nếu ta nôn nóng, phụ hoàng của con sẽ bỏ lệnh cấm túc rồi thả ta ra ngoài ư?”

    Lung Nguyệt suy nghĩ một chút rồi khẽ lắc đầu, sau đó lại nói: “Nhưng mẫu phi mỗi ngày đều chỉ ngồi đây thêu thùa để giết thời gian, chẳng lẽ không thấy phiền muộn?”

    “Tất nhiên là không rồi.” Tôi nhìn Lung Nguyệt chăm chú, ánh mắt ấm áp như ánh dương tháng Tư. “Con nhìn những bông liễu này xem, dưới ánh mặt trời rạng rỡ thì bay lượn như hoa lê giản dị, đẹp đẽ vô cùng, rất hay được người ta dùng làm đề tài ngâm vịnh. Nhưng vật này có lúc cũng có thể lấy đi tính mạng người ta đấy. Mẫu phi thêu nó chính là để nhắc nhở bản thân rằng mọi việc trên đời đều có hai mặt, cho dù đang ở trong nghịch cảnh cũng đừng nên nguội lòng, nếu thuận buồm xuôi gió thì cũng chớ quên họa sát thân chưa biết chừng lại đang cận kề ngay bên cạnh.”

    Lung Nguyệt thoáng lộ vẻ suy tư, sau đó rụt rè hỏi tôi: “Mẫu phi, con sau này cũng sẽ như vậy đúng không?”

    Tôi mỉm cười nắm lấy bàn tay con bé. “Có lẽ là không, bởi vì con là công chúa, con may mắn hơn ta và Đức mẫu phi của con chính là ở điểm này. Có điều con cũng phải cẩn thận, phải biết lo trước nghĩ sau thì mới tránh được chuyện nguy nan.”

    Lung Nguyệt ngoan ngoãn gật đầu, từ sau lần tôi sẩy thai, tính tình con bé đã điềm đạm hơn nhiều, không còn hoạt bát, nghịch ngợm như hồi nhỏ nữa, hệt như đã biến thành một con người khác vậy. Con bé đưa mắt nhìn xung quanh Nhu Nghi điện, cuối cùng chăm chú dõi nhìn màn mưa mênh mang không dứt bên ngoài cửa sổ, chợt nhẹ nhàng cất tiếng: “Mẫu phi tuy bị cấm túc nhưng ăn mặc không thiếu thốn gì. Kỳ thực ngày đó, khi Lý Trường tới tuyên chỉ, mẫu phi không nên mắng Quý Duy Sinh như thế, bây giờ ai ai cũng biết là mẫu phi không thích y, nhưng Hiền phi thì lại càng xem trọng y hơn, mẫu phi làm như thế quả thực là được chẳng bằng mất.”

    “Vậy sao?” Tôi khẽ nở nụ cười mỉm, lại cầm kim lên thêu thêm vài đường nữa, kế đó ngoảnh đầu ra nhìn mấy gốc chuối xanh biếc dưới cơn mưa, không kìm được cất tiếng lẩm bẩm: “Mưa đến bây giờ còn chưa dừng nữa, chẳng biết sẽ rơi tới lúc nào đây.” Rồi tôi hỏi: “Tính đến giờ, ta đã bị cấm túc mấy ngày rồi?”

    “Bảy ngày.” Trên khuôn mặt thanh tú của Lung Nguyệt lộ rõ vẻ ưu lo. “Vì mẫu phi bị cấm túc mà mưa lớn vẫn chưa dừng, do đó hôm qua Hiền phi đã dâng lời lên cho phụ hoàng rằng sự trừng phạt dành cho mẫu phi vẫn chưa đủ nên trời cao mới chưa hết giận.”

    “Vậy cô ta cho rằng nên làm thế nào đây?”

    “Hiền phi đề nghị phụ hoàng phế bỏ ngôi vị của mẫu phi hoặc chỉ lưu lại cho mẫu phi danh phận canh y hoặc thái nữ.” Lung Nguyệt đưa mắt liếc nhìn Nhuận Nhi đang chơi đùa ngay gần đó, bất giác lộ vẻ căm phẫn. “Cô ta còn nói bây giờ mẫu phi bị cấm túc, không tiện nuôi dưỡng Nhuận Nhi, cô ta muốn mang Nhuận Nhi về cung của mình.”

    “Vậy phụ hoàng của con có đồng ý không?”

    Lung Nguyệt khẽ lắc đầu, thần sắc thoáng nhẹ nhõm hơn một chút. “Còn may là phụ hoàng chưa đồng ý, nhưng giờ Hiền phi cứ đeo bám không buông, chỉ e phụ hoàng rồi sẽ có ngày đồng ý thôi. Đức mẫu phi vì việc này mà vô cùng lo lắng, đêm không ngủ nổi, đã bàn với Quý mẫu phi chuyện đi cầu xin phụ hoàng giúp mẫu phi rồi đấy.”

    Tôi nói bằng giọng không nhanh không chậm: “Lung Nguyệt, con vừa khuyên mẫu phi không nên để lộ sự tức giận ra ngoài mặt, vậy con phải biết là nữ tử trong cung làm người cần giấu kín cảm xúc, làm việc cần từ tốn đúng mực, bằng không sẽ là tự mình hại mình. Lần này quay về con hãy khuyên nhủ Đức phi rằng đừng nên vì chuyện của ta mà bận lòng quá.” Rồi tôi vẫy tay ra hiệu cho con bé lại gần, ghé đến bên tai nó khẽ nói: “Chuyện này ngoài con ra thì không ai có thể giúp ta cả.”

    Sáng sớm mấy ngày sau, cơn mưa rào kéo dài suốt thời gian qua đã ngừng rơi hẳn, chỉ còn lại những tiếng tí tách thỉnh thoảng vang lên do nước đọng rơi từ trên cây xuống.

    Giữa ánh bình minh thoáng màu tím nhạt chợt bừng lên một thứ màu vàng tươi cao quý tựa ánh thái dương, tôi ngẩng đầu lên khẽ nở một nụ cười điềm đạm. “Hoàng thượng rốt cuộc đã tới rồi.”

    Y mỉm cười nhìn tôi. “Trẫm tới mà nàng không bất ngờ chút nào ư?”

    “Sao có thể chứ?” Tôi ngừng công việc thêu thùa, cười nói. “Nơi này là nhà của Hoàng thượng, Hoàng thượng muốn tới lúc nào cũng được, thần thiếp việc gì phải bất ngờ.”

    Huyền Lăng đã một thời gian dài không đặt chân tới Nhu Nghi điện, mấy đứa nhỏ vừa nhìn thấy y liền không kìm được chạy nhào tới, đứa cầm tay đứa níu áo y. Hàm Nhi vốn nghịch ngợm nhất còn nhảy lên quàng tay qua cổ y, gọi vang một tiếng “phụ hoàng” vẻ đầy thân thiết, thế nhưng lời còn chưa dứt thì nước mắt đã rơi xuống trước rồi.

    Tôi đưa tay xoa lưng Hàm Nhi, dịu dàng cười nói: “Nam tử hán ai lại khóc bao giờ, phụ hoàng gần đây chỉ vì bận rộn công việc nên mới không tới thăm các con đó thôi, hôm nay chẳng phải đã tới rồi đấy sao.” Dứt lời bèn nháy mắt ra hiệu cho Huyền Lăng.

    Vì sự thân mật và nhớ nhung của lũ nhỏ, vẻ lúng túng của Huyền Lăng nhanh chóng tan biến hoàn toàn, lòng yêu con lại càng thêm tha thiết, bèn một tay bế Nhuận Nhi, một tay bế Linh Tê, để mặc cho Hàm Nhi treo lủng lẳng trên cổ mình làm nũng, cứ nhìn mấy đứa nhỏ mãi vẫn không thấy đủ, rồi y chợt cất giọng nghi hoặc hỏi tôi: “Tuyết Phách đâu rồi?”

    Tôi dịu dàng đáp: “Mấy hôm trước trời mưa suốt nên Tuyết Phách ngủ không ngon, lúc này đang được nhũ mẫu bế đi ru ngủ.”

    Y dỗ dành mấy đứa nhỏ đi ăn đồ điểm tâm, sau đó mới ngồi xuống cạnh tôi.

    Trong thời gian gần mười ngày bị cấm túc, tôi đã nhuộm cho mái tóc của mình trở nên đen nhánh, nếp nhăn nơi khóe mắt thì nhờ ngày ngày đắp lòng trắng trứng nên đã nhạt đi nhiều, sau khi được Cận Tịch trang điểm giúp cho thì khó ai có thể nhìn ra được. Mà vì hôm nay không có việc gì nên tôi chỉ mặc một bộ cung trang đơn giản, không hề đeo đồ trang sức châu ngọc. Huyền Lăng sau khi ngắm kĩ dung nhan của tôi bèn không kìm được khẽ gật đầu. “Mới mấy ngày không gặp mà trông nàng trẻ ra nhiều quá.”

    Tôi đưa tay lên xoa má, làm bộ nửa buồn nửa vui. “Hoàng thượng có ý nói rằng thần thiếp đã từng già đi rất nhiều ư?”

    Y biết đã lỡ lời, bèn cười, nói: “Đâu có, nàng vẫn như xưa đấy thôi.”

    Tôi thêu thêm vài đường nữa, sau đó ngẩng lên mỉm cười nhìn y. “Trong lòng thần thiếp, tứ lang cũng vẫn như xưa.” Vừa nói tôi vừa đưa tay lên day trán. “Hôm nay không có chuyện đau đầu gì xảy ra, thần thiếp cảm thấy tinh thần của mình quả thực đã tốt lên rất nhiều.”

    Y gật đầu, đưa tay kéo tôi vào lòng. “Trẫm biết, lần này nàng đã phải chịu ấm ức rồi.”

    Tôi cười tươi rạng rỡ. “Hoàng thượng đã tới đây, chắc hẳn là không định để thần thiếp phải chịu ấm ức thêm nữa rồi.”

    “Đúng vậy.” Y khẽ gật đầu, đôi hàng lông mày hơi máy động, vẻ tức giận bất giác lộ rõ. “Không ngờ Uẩn Dung lại lừa gạt trẫm nhiều năm như thế.”

    Tôi không kìm được cất giọng ngạc nhiên: “Lời này của Hoàng thượng là ý làm sao?”

    Huyền Lăng đặt mạnh tay xuống bàn. “Miếng ngọc bích đó của nàng ta...”

    Trong lời kể thoáng mang vẻ tức giận của Huyền Lăng, tôi đã dần dần hiểu rõ nguồn cơn mọi việc. Ngày đó vì chuyện tôi bị cấm túc mà Lung Nguyệt đã nảy sinh tranh chấp với Hồ Uẩn Dung ở Nghi Nguyên điện, nhất thời lỡ tay làm vỡ miếng ngọc bích của Hồ Uẩn Dung. Hồ Uẩn Dung bấy lâu nay vẫn luôn coi vật đó như bảo bối, ngày ngày treo trước ngực, chẳng dễ gì cho ai nhìn thấy bao giờ, lần này bị Lung Nguyệt làm vỡ thì tất nhiên vô cùng tức giận, mà ngay cả Huyền Lăng cũng nổi nóng, sau khi trách mắng liền yêu cầu Lung Nguyệt phải sửa chữa sao cho miếng ngọc đó trở lại hoàn chỉnh, bằng không nhất định sẽ phạt nặng.

    Lung Nguyệt bấy lâu nay vốn được Huyền Lăng nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa, làm sao chịu được sự ấm ức như thế, trong cơn giận dữ liền đi tìm những người thợ khéo trong cung, nhưng tất cả bọn họ đều nói là chỉ có thể dùng vàng vá ngọc, ngoài ra không có cách nào khác. Lung Nguyệt đành nhờ Ôn Thực Sơ ra ngoài cung tìm thợ khéo giúp cho, Ôn Thực Sơ sau một hồi vất vả rốt cuộc đã tìm được một vị sư phụ có tay nghề hạng nhất ngoài cung, nhưng sau khi đưa ngọc bích cho xem thì vị sư phụ đó lại lộ vẻ trù trừ do dự, Ôn Thực Sơ bèn nổi lòng nghi ngờ rồi hỏi han kĩ càng một phen, cuối cùng được biết mười mấy năm trước, ông ta đã từng làm một miếng ngọc giống hệt như thế. Ôn Thực Sơ biết chuyện này nhất định là có vấn đề, bèn lập tức dẫn ông ta vào cung diện thánh.

    Sau khi nghe Huyền Lăng kể xong, tôi bèn thở dài, than: “Hiền phi vốn xuất thân cao quý, việc gì phải giở trò như vậy nữa?”

    Từ nơi đáy mắt Huyền Lăng bừng lên những tia giận dữ tột bậc. “Hoàn Hoàn, nàng ta ôm lòng hiểm ác, từ mười mấy năm trước đã tự rêu rao rằng mình tay cầm ngọc bích sinh ra, vậy nên trẫm mới đón nàng ta vào cung. Đã thế để tranh đoạt ngôi hậu, nàng ta còn không tiếc dùng tà thuật trù ếm nàng, khiến nàng bị bệnh tật bám vào người, dung nhan trở nên tiều tụy.”

    Tôi nghe thế thì không kìm được cả kinh thất sắc. “Hóa ra thần thiếp đã bị trù ếm ư?”

    Huyền Lăng lộ vẻ chán ghét. “Trẫm vì việc nàng ta ngụy tạo ngọc bích mà đã hạ lệnh lục soát Yến Hy điện, ai ngờ lại phát hiện ra mấy bức tượng gỗ được chôn dưới đất trong cung của nàng ta. Những bức tượng đó hiển nhiên đã được chôn dưới đất một thời gian dài rồi, đều đã mọc rêu, bên trên có khắc tên của nàng và Chu Nghi Tu, còn bị cắm vào mấy cây kim bạc. Trong cung vốn kỵ nhất là tà thuật, nàng ta vì muốn tranh ngôi hậu mà tàn độc tới mức này.” Hơi dừng một chút y mới lạnh lùng nói tiếp: “Hóa ra lời của Quý Duy Sinh là nhằm vào nàng ta, cái gì mà thần điểu Phát Minh ở phương Đông với cả phượng hoàng, thực là quá nhảm nhí, chẳng trách lại khiến trời cao nổi giận, đã thế nàng ta còn dám xúi bẩy trẫm phế truất nàng nữa chứ.” Sắc mặt y lúc này trở nên âm u vô hạn. “Trẫm giờ đã phế bỏ ngôi vị hiền phi của nàng ta, giáng nàng ta xuống làm tài nhân, cho ra ở cung khác, không tuyên triệu thì không được ra ngoài.”

    Tôi lặng im một lát rồi mới do dự nói: “Hòa Mục Công chúa hãy còn nhỏ, Hoàng thượng đừng nên trút giận lên người Công chúa.”

    Huyền Lăng thu vẻ tức giận lại, gật đầu nói: “Trẫm đã giao Hòa Mục cho Yến Nghi nuôi nấng rồi. Yến Nghi tính tình điềm đạm, thích hợp nuôi dưỡng trẻ nhỏ hơn nàng ta nhiều.”

    “Sau chuyện này, mong Hoàng thượng đừng nên nghĩ đến việc phế bỏ Chu thị để lập tân hậu nữa.” Tôi chậm rãi đứng dậy, nghiêm túc quỳ xuống hành lễ. “Hoàng thượng ngày nào còn có suy nghĩ này thì ngày đó còn có người ôm lòng nhòm ngó ngôi hậu. Hoàng thượng đã đáp ứng với Chiêu Thành Thái hậu là “nhà họ Chu không thể xuất hiện phế hậu”, vậy xin người hãy chiêu cáo thiên hạ rằng sẽ không bao giờ lập thêm tân hậu, cũng không phế hậu, vậy thì lòng người trong hậu cung mới an định được.”

    Huyền Lăng nhìn tôi chăm chú, sau một hồi lâu suy nghĩ mới trầm giọng hỏi tôi: “Hoàn Hoàn, nàng thật sự suy nghĩ như vậy sao?”

    Tôi ngẩng lên, thản nhiên nhìn lại y. “Dạ.”

    Y thoáng nở một nụ cười như có như không. “Nhưng sau việc này trẫm lại muốn lập nàng làm hoàng hậu.”

    Tôi khấu đầu bái lạy lần nữa. “Thần thiếp đã được phong làm hoàng quý phi rồi, thực là không tiện ban phong thêm nữa, huống chi chuyện mà Hoàng thượng đã đáp ứng với Thái hậu không nên vì thần thiếp mà thay đổi, thần thiếp không thể so sánh với Thuần Nguyên Hoàng hậu được đâu.” Sau một thoáng ngập ngừng, tôi hé môi nói ra điều mà bản thân lo lắng: “Hoàng thượng phá lệ phong thần thiếp làm hoàng quý phi đã khiến các vị đại thần trong triều dị nghị xôn xao rồi, thần thiếp không muốn mình phải ngồi trên đống lửa, lại càng không muốn Hoàng thượng phải khó xử vì thần thiếp.”

    Y đưa tay đỡ tôi dậy, mỉm cười, nói: “Nếu vậy thì trẫm không miễn cưỡng nàng nữa.” Hơi dừng một chút, y lại nói tiếp: “Có điều, nếu nàng thật sự có lòng tranh đoạt ngôi hậu, vậy thì cũng chẳng khác Hồ Uẩn Dung chút nào.”

    Tôi mỉm cười nhìn y chăm chú. “Nhưng thần thiếp còn có một yêu cầu nho nhỏ này nữa.”

    Y ôn tồn nói: “Nàng nói đi.”
    “Thần thiếp không muốn Quý Duy Sinh còn ở lại trong cung.” Tôi cất giọng trầm ngâm. “Y dù sao cũng từng đi lại quá gần gũi với Hồ thị.”

    Huyền Lăng suy nghĩ một chút rồi nói: “Y đã từng thi đỗ khoa cử, tuy có đi lại gần gũi với Hồ thị nhưng cũng chưa từng thiên vị cho nàng ta. Nếu nàng không thích y xuất hiện trước mặt, vậy trẫm cho y ra làm quan ở bên ngoài vậy.”

    Tôi bật cười khúc khích, nói: “Kỳ thực y cũng không tính là quá tệ, còn có chút bản lĩnh nữa, nếu Hoàng thượng có lòng xem trọng nhân tài thì cứ an bài như thế là được rồi. Thần thiếp chỉ mong không phải nhìn thấy y nữa mà thôi.”

    Mấy ngày sau trời trong xanh thoáng đãng, tôi đang ngồi kiệu từ cung của Đức phi quay về thì vừa khéo bắt gặp Quý Duy Sinh vừa tạ ơn trở ra từ trong Nghi Nguyên điện. Y dừng chân hành lễ với tôi, tôi đưa mắt nhìn qua rồi cất giọng hờ hững: “Chúc mừng Quý đại chân. Có điều chẳng hay Hoàng thượng đã ban cho đại nhân chức quan gì thế?”

    “Dạ bẩm nương nương, là huyện thừa tòng thất phẩm.”

    Tôi nở một nụ cười đầy ý vị. “So với chức tư nghi ngũ phẩm ở Khâm thiên giám thì thua kém nhiều quá, đại nhân coi như đã phải chịu ấm ức rồi.”

    Y lặng lẽ gật đầu, nhưng ngay sau đó đã nở nụ cười tươi: “Ở Khâm thiên giám, tư nghi đã là chức quan cao nhất, còn huyện thừa chỉ cần chăm chỉ làm việc thì sau này vẫn có thể thăng tiến được. Có điều vi thần vốn chỉ có chút bản lĩnh về mặt xem thiên tượng, thế mà bây giờ lại phải ra ngoài làm một viên tiểu lại ở địa phương, Hoàng thượng quả thực đã làm khó vi thần rồi.”

    “Giỏi xem thiên tượng, biết được nắng mưa, lại hiểu lòng người, ấy đã là bản lĩnh rất ghê gớm rồi, nếu lại biết tiến biết lui nữa thì tiền đồ ắt sẽ càng thêm rộng mở. Có điều nói thực lòng, bản cung cảm thấy cái chức huyện thừa này quả thực chẳng xứng với đại nhân chút nào.”

    Y mỉm cười, cung kính nói: “Vi thần sẽ lấy nương nương làm gương, không tính toán cái sự được mất nhất thời. Đa tạ nương nương quan tâm!”

    Tôi nghiêng đầu nhìn y, nở một nụ cười dịu nhẹ như ánh nắng thu. “Bản cung phải đa tạ mới đúng chứ, đại nhân xin hãy bảo trọng.”

    Y cung tay tiễn tôi rời đi, sau đó liền rảo bước ra khỏi Tử Áo Thành.

    Gió thu lướt nhẹ trong vĩnh hạng làm những chiếc lá vàng rơi trên nền đá xanh xào xạc tung bay, tôi tựa người vào thành kiệu nhắm mắt nghỉ ngơi, lẳng lặng cảm nhận cái lạnh do những cơn gió mang tới.

    Lá vàng lúc này đã rơi đầy khắp mặt đất, cây cối chỉ còn trơ lại cành, dõi mắt nhìn đi đâu cũng là một mảng màu vàng nâu chết chóc, vĩnh hạng vốn đã vắng vẻ nay lại càng thêm hiu quạnh, tiêu điều.

    Chẳng biết đã đi được bao lâu, chợt có một giọng nói lạnh tựa băng sương vang lên bên tai tôi: “Hoàng quý phi vạn phúc kim an!”

    Tôi mở mắt ra, một mảng màu xanh biếc tức thì lọt vào trong mắt, giữa nơi vĩnh hạng phủ đầy lá cây khô thế này, thứ màu sắc ấy thực khiến người ta cảm thấy thư thái, dễ chịu vô cùng.

    Là Diệp Lan Y.

    Sau khi Huyền Thanh qua đời, Diệp Lan Y lại càng thích màu xanh, lúc nào cũng chỉ mặc đồ màu xanh ra ngoài, các món đồ trang sức trên đầu thì tất thảy đều làm bằng bạc, trong sự lạnh lẽo lại toát ra mấy tia dịu dàng. Thân vương qua đời, phi tần không cần mặc đồ tang, Diệp Lan Y chỉ dùng cách của cô ta để hoài niệm Thanh mà thôi. Hơn nữa, sau khi Huyền Thanh qua đời, cô ta thường xuyên lấy cớ để không phải thị tẩm, sự si tình như thế tôi quả thực không thể nào so sánh được.

    Tôi bất giác thầm chua xót trong lòng, ôn tồn nói: “Diễm Tần xin hãy đứng dậy đi!”

    Cô ta chỉ lặng lẽ nhìn tôi, không nói một lời. Tôi hiểu ý, bèn xuống kiệu đi tới bên cạnh cô ta, cất giọng nhẹ nhàng: “Sắc thu đang đẹp, Diễm Tần có muốn cùng bản cung đi dạo một lát không?”

    Cô ta khẽ lắc đầu, thần thái cung kính ngoài mặt thực là khác hẳn với vẻ lạnh lùng tới thấu xương lộ ra trong mắt, rồi cô ta cất giọng hờ hững: “Đa tạ nương nương thương yêu, tần thiếp còn có việc phải đi trước một bước.”

    Tôi thấy thần sắc cô ta vẫn như thường, ngỡ rằng cô ta đã đỡ thương tâm vì cái chết của Huyền Thanh, lòng thầm được an ủi phần nào, bèn nói: “Người chết thì đã chết rồi, Diễm Tần nhớ phải giữ gìn sức khỏe đấy.”

    Nghe thấy lời này, cô ta lập tức nở một nụ cười rạng rỡ để lộ ra hàm răng trắng ngần, vẻ diễm lệ tỏa ra tứ phía. “Điều này là đương nhiên. Tần thiếp là người của Hoàng thượng, tính mạng này quý giá vô cùng, tất nhiên phải giữ gìn để sau này còn dùng tới.” Cô ta uể oải ngáp dài một cái, nói tiếp: “Tần thiếp lâu lắm không qua Sư Hổ uyển, chẳng rõ con báo mà tần thiếp nuôi ngày trước bây giờ đã lớn đến chừng nào rồi.”

    Tôi gật đầu, nói: “Diễm Tần đã có việc, vậy cứ đi trước đi.”

    Cô ta còn chưa đi ngay. “Tần thiếp vừa mới từ Nghi Nguyên điện qua đây, Hoàng thượng nói bây giờ thu muộn, hoa hợp hoan đã rụng hết khiến người ta nhìn mà chán ghét, bèn hạ lệnh chặt sạch những gốc hoa hợp hoan bên ngoài Lũ Nguyệt Khai Vân quán.”

    Tôi bất giác thầm chấn động trong lòng, nỗi bi thương và lo lắng cùng trào dâng, thân thể thì như bị ngâm trong nước băng giữa mùa đông tháng Chạp, đến cuối cùng chỉ có thể nở một nụ cười chua xót. “Không ngờ ngay đến những gốc hợp hoan ấy mà Hoàng thượng cũng chẳng chịu giữ lại.”

    Cô ta khẽ thở dài một tiếng, giữa đôi bờ mi như ngợp đầy những nét ngơ ngẩn ưu sầu. “Những gốc hợp hoan đó là do tiên đế ban tặng, vốn có ý rằng hy vọng Vương gia năm nào cũng được như ý hợp hoan.”

    Đó là những tháng năm tươi đẹp nhất của Huyền Thanh, nhưng cũng là thời điểm mà Huyền Lăng buồn bã kém vui vì chẳng được phụ thân coi trọng, có lẽ cả cuộc đời này, y đều chẳng muốn nhớ lại quãng hồi ức đó.

    “Hoàng thượng hạ chỉ như vậy cũng đúng thôi, người đã chẳng còn thì lấy đâu ra cái gọi là như ý hợp hoan nữa, chặt đi cũng tốt.” Cô ta chẳng để tâm tới vẻ ngẩn ngơ trên mặt tôi, trong mắt thấp thoáng một tia cười khinh miệt. “Tần thiếp biết có một số lời nương nương không tiện nói ra ngoài miệng, cũng không thể nói, do đó đã nói thay nương nương rồi.”

    Lòng tôi thầm buông lỏng, ngoài mặt vẫn giữ nguyên vẻ nền nã đoan trang. “Nói gì cơ?”

    Cô ta bước lại gần tôi, nhẹ nhàng cất tiếng: “Những gốc hợp hoan đó là món quà y tặng cho nương nương trong ngày nương nương được phong làm thục phi, đúng vậy không? Để tránh cho nương nương ngày ngày đau xót, tần thiếp đã nói rằng mình đêm chẳng thể ngủ ngon, muốn giữ những gốc hợp hoan đó lại để dùng làm thuốc.” Cô ta vừa nói vừa đưa tay lên xoa ngực. “May mà Hoàng thượng đã đồng ý, còn sai người đào những gốc hợp hoan đó lên mang tới trồng trong cung của tần thiếp nữa.”

    Tôi nhìn sâu vào mắt cô ta, nơi đáy lòng sinh ra mấy tia ấm áp. “Đa tạ!”

    Cô ta khẽ “hừ” một tiếng, ngoảnh đầu qua một bên, dải tua trên cây trâm bạc cài trên búi tóc ánh lên những tia sáng lạnh lùng. “Tần thiếp chỉ không nỡ để những gốc hợp hoan ấy bị chặt đi mà thôi.” Trong cặp mắt cô ta bỗng ánh lên mấy tia oán độc sắc lẹm như dao, từ trong miệng chậm rãi bật ra một giọng nói hờ hững: “Đừng tùy tiện buông tha cho cô ta.”

    Tôi hỏi: “Ai?”

    Cô ta nở một nụ cười hờ hững, vẻ dịu dàng lập tức ngập tràn trên khuôn mặt. “Ý tần thiếp là Hồ Uẩn Dung bây giờ mới chỉ bị giáng xuống làm tài nhân thôi, như thế vẫn còn hời cho cô ta quá.”

    Tôi mỉm cười dịu dàng, lẳng lặng gật đầu, kế đó liền dõi mắt nhìn cô ta chậm rãi rời đi, mãi tới khi bóng dáng cô ta đã hoàn toàn biến mất nơi ngã rẽ của vĩnh hạng mới thu ánh mắt về. Trong chốn Tử Áo Thành phồn hoa rộng lớn này, Diệp Lan Y mới thực cô độc biết bao, chỉ nhìn bóng lưng cô ta thôi cũng có thể cảm nhận được một sự thê lương khó diễn tả bằng lời.
     
  4. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 19: Ngói vụn minh châu vứt chung hàng[37]
    [37] Trích Vịnh Lục Châu của Tào Tuyết Cần. Nguyên văn Hán Việt: Ngõa lịch minh châu nhất lệ phao - ND.

    Mùng Chín tháng Ba năm Càn Nguyên thứ hai mươi tám là Thiên Trường tiết của Huyền Lăng trong dịp y bốn mươi mốt tuổi. Ở triều Đại Chu, ngày sinh của hoàng đế được gọi là Thiên Trường tiết, ngày sinh của Thái hậu được gọi là Thánh Thọ tiết, sau khi Hoàng hậu bị cấm túc và tôi được lập làm hoàng quý phi thì ngày sinh của tôi cũng được gọi là Thiên Thu tiết. Năm nay Huyền Lăng bốn mươi mốt tuổi, tuy có thân vương qua đời nhưng do sự tấu thỉnh của quần thần, Thiên Trường tiết vẫn được tổ chức cực kỳ xa hoa.

    Đúng mùng Chín tháng Ba, Huyền Lăng mở tiệc tại Tử Thần cung mời bá quan văn võ tới tề tụ, vô cùng náo nhiệt. Yến tiệc của hậu cung thì được tổ chức tại Minh uyển. Khắp trong ngoài kinh thành, đâu đâu cũng là đèn hoa rực rỡ, ngợp ánh vàng son. Tiếng nhạc ở Tử Áo Thành và Minh uyển được tấu lên đồng thời, âm thanh như vang vọng lên tận chín tầng mây, không khí mang đầy vẻ vui tươi náo nức.

    Khi bữa tiệc diễn ra đến hoàng hôn, mọi người ban đầu vốn vui vẻ đã dần trở nên uể oải, mỏi mệt, ngay đến Huyền Lăng cũng không ngừng ngáp ngắn ngáp dài. Diệp Lan Y đưa chiếc quạt tròn thêu hình hoa hợp hoan lên che mặt, khẽ cười, nói: “Hoàng thượng nếu đã mệt, vậy chi bằng hãy tìm một trò vui nào đó mới mẻ đi!”

    Huyền Lăng đưa mắt nhìn qua, cười hỏi: “Diễm Tần có ý gì hay ư?”

    Diệp Lan Y cất giọng yêu kiều: “Thần thiếp được Hoàng thượng thương yêu, tuy thân phận thấp kém nhưng được hưởng trọn vinh hoa phú quý. Hôm nay tới Minh uyển, thần thiếp bỗng nhớ lại việc huấn luyện thú ở Sư Hổ uyển khi xưa, lại đúng dịp Thiên Trường vạn thọ của Hoàng thượng, thần thiếp muốn dùng chút kỹ nghệ cũ để làm Hoàng thượng vui lòng.”

    Huyền Lăng suy nghĩ một chút rồi nói: “Không ổn, những loài mãnh thú đều vô cùng hung dữ, lỡ làm nàng bị thương thì sao?”

    Diệp Lan Y khẽ lắc đầu, cười tủm tỉm nhìn Huyền Lăng. “Hoàng thượng quên là thần thiếp từ nhỏ đã lớn lên cùng hổ báo ư, người cho là thần thiếp sống trong sung sướng lâu ngày nên không còn được như xưa nữa sao?” Rồi cô ta chợt bật cười thành tiếng. “Những thứ mà thần thiếp có đều do Hoàng thượng ban cho, hôm nay thần thiếp chỉ muốn tỏ chút lòng thành với Hoàng thượng mà Hoàng thượng cũng không chịu ư?”

    Khương Tiểu viện đưa mắt nhìn Huyền Lăng, cười nói: “Nghe nói Diễm Tần tỷ tỷ khi huấn luyện thú xinh đẹp vô song, vậy nên mới khiến Hoàng thượng xiêu lòng. Thần thiếp vô phúc, mãi tới bây giờ vẫn chưa được thấy cảnh ấy lần nào, hôm nay Diễm Tần đã chịu như vậy, xem ra bọn thần thiếp sắp được no mắt rồi.”

    Huyền Lăng trầm ngâm một lát rồi cũng nảy lòng hứng thú, bèn tươi cười nói với Diệp Lan Y: “Được rồi, vậy nàng hãy đi đi!”

    Diệp Lan Y thướt tha cất bước đi thay y phục, ánh mắt sâu lắng như một đầm nước lặng.

    Khi quay trở lại, cô ta đã thay một bộ đồ thêu hoa xanh biếc, hơn nữa còn hơi trong suốt, loáng thoáng có thể nhìn thấy lớp hoa văn thêu hình hoa hợp hoan bằng chỉ bạc bên trong. Mái tóc dài đen nhánh của cô ta được buông xõa như dòng suối, trên đầu chỉ đội một vòng hoa được bện thành từ những bông hoa tươi màu hồng phấn cùng một số bông hoa ngọc trắng ngần như tuyết. Chân cô ta để trần, nơi cổ chân đeo vòng vàng gắn chuông, mỗi khi đi lại làm phát ra những tiếng tinh tang nhè nhẹ, hơn nữa cả mười móng chân của cô ta đều được sơn thành màu đỏ tươi, nhìn từ xa giống hệt như mười bông hoa tường vi nhỏ nhắn nở rộ trên hai bàn chân trắng ngần như tuyết.

    Kinh thành đang dịp tháng Ba vẫn còn giá lạnh, các phi tần thấy cô ta ăn mặc phong phanh như thế thì đều hết sức tò mò, hơn nữa đi theo bên cạnh cô ta còn có một con báo gấm đầu tròn, tai ngắn trông dũng mãnh mười phần, lông lá toàn thân thì đều có màu vàng nâu bóng bẩy, đặc biệt nhất phải kể đến cặp mắt tròn xoe trông hệt như hai viên ngọc màu đen, bên trong tràn đầy vẻ hung tợn khiến người ta chỉ nhìn thôi đã sinh lòng kinh sợ. Trong khoảnh khắc nhìn thấy con báo, tất cả mọi người đang có mặt ở Quan Cảnh điện đều trở nên tĩnh lặng, tuy ở cách rất xa nhưng có không ít phi tần đã sợ đến nỗi mặt mày tái mét, vội vàng lùi người về phía sau.

    Diệp Lan Y mày đượm nét cô đơn, mi chứa chan tình cảm, hai mắt tựa thu ba đưa nhẹ, thực là quyến rũ tới tột cùng. Thấy mọi người lộ ra vẻ sợ hãi, cô ta bất giác nở nụ cười khinh miệt. Trong lúc này lại có hai gã thái giám mang thịt tới, đều là loại thịt bò thượng hạng được đặt trong khay đồng. Diệp Lan Y đưa tay cầm lấy hai miếng thịt bò vứt xuống trước mặt con báo, lại vừa dịu dàng xoa đầu nó vừa lẩm bẩm nói khẽ điều gì. Con báo đó dường như biết rõ là không có ai tranh giành với mình nên ăn rất chậm rãi, nhưng hai miếng thịt chẳng bao lâu sau vẫn bị ăn hết sạch. Thấy Diệp Lan Y không cho mình ăn thêm nữa, con báo liền uể oải nằm luôn xuống đất mà ngủ, chẳng hề động đậy, bộ dạng vô cùng ngoan ngoãn, thực chẳng khác gì một con mèo lớn.

    Thấy con mãnh thú trở nên ngoan ngoãn dưới bàn tay của Diệp Lan Y, Huyền Lăng không kìm được lớn tiếng khen ngợi. Tức thì tiếng vỗ tay vang lên ầm ĩ trong Quan Cảnh điện, ai cũng lộ vẻ tán thán. Đức phi vừa cười vừa quay sang nói với tôi: “Trước đây ta cũng từng gặp không ít mỹ nhân, nhưng mỹ nhân thế này thì đúng là chưa gặp bao giờ. Vốn cứ ngỡ Diễm Tần lạnh lùng cao ngạo, chẳng ngờ còn có chỗ động lòng người thế này, nếu ta mà là Hoàng thượng thì ngày đó cũng sẽ đưa nàng ta vào cung.” Diệp Lan Y lúc này giống như đang làm một việc vô cùng quen thuộc, ung dung lấy từ trong chiếc khay đồng ra một miếng thịt bò đưa tới trước mặt con báo, vừa mỉm cười vừa lắc qua lắc lại. Con báo đó đột ngột chồm hai chân trước lên, chỉ đứng bằng hai chân sau, hoàn toàn mô phỏng theo động tác của con người, lại thè lưỡi ra liếm miếng thịt.

    Diệp Lan Y cười tủm tỉm gật đầu không ngớt, kế đó lùi bước về phía sau, con báo tức thì bước từng bước đi theo.

    Mọi người kêu lên kinh hãi liên hồi. Diệp Lan Y vỗ về con báo một lát rồi kêu nó nằm xuống, đột nhiên xoay người bước ra ngoài hàng rào sắt, vẫy tay gọi một ả thị nữ lại, đón lấy chiếc áo làm bằng da báo gấm mà ả đưa tới, sau đó đi tới quỳ bên ngoài điện, vừa khéo chặn tầm mắt của con báo kia, cất giọng dịu dàng uyển chuyển: “Chiếc áo này được làm bằng nguyên một bộ da báo gấm, là do thần thiếp tự tay may thành, ngày đông mặc vào có tác dụng chống lạnh rất tốt, mong Hoàng thượng nhận lấy.” Cô ta mắt biếc đong đưa, Huyền Lăng nhìn mà càng thêm yêu thích, lập tức nhận lấy mặc vào người, quả nhiên tỏa ra khí thế không giận mà uy, hết sức bất phàm. Diệp Lan Y hơi ngẩng lên, bên môi thấp thoáng một nụ cười điềm đạm, thần sắc bình lặng tựa như mặt nước hồ thu. Trong khoảnh khắc, cô ta xoay người lại, tôi nhanh chóng nắm bắt được một tia thần sắc quyết liệt lộ ra trên mặt cô ta, bất giác thầm chấn động, ánh mắt dõi theo từng bước chân của cô ta, thấy cô ta tiện tay đóng hờ cửa sắt lại, rảo bước đi tới trèo lên lưng con báo gấm. Huyền Lăng thấy cô ta điều khiển con báo gấm bước đi xa dần mà lại chẳng có chút động tĩnh nào cả, bất giác có chút nôn nóng, bèn cất bước đi ra ngoài điện.

    Trinh Nhất Phu nhân ôn tồn cất tiếng khuyên: “Hoàng thượng chớ nên ra ngoài, lại gần mãnh thú quá thì nguy hiểm lắm.” Huyền Lăng gật đầu qua loa một cái, sau đó liền ngoảnh đầu lại, cười nói: “Không sao đâu, con súc sinh đó làm sao chạy ra khỏi hàng rào sắt được, hơn nữa còn có Diễm Tần điều khiển nữa mà.” Mọi người đều đầy lòng hứng thú, lại thấy Huyền Lăng đã ra ngoài rồi thì liền đánh bạo đi theo, trong lòng thầm mong Diệp Lan Y sẽ mang tới những màn biểu diễn đặc sắc khác. Hân Phi đứng dậy định đi theo, tôi bèn giữ tay nàng ta lại, cười tủm tỉm, nói: “Tỷ tỷ thân phận tôn quý, đừng nên đi theo đám cung tần địa vị thấp kém ấy ra ngoài xem náo nhiệt làm gì. Muội thấy con báo đó hung dữ lắm, cứ nên cẩn thận một chút thì hơn.”

    Hân Phi vốn muốn đi xem nhưng nghe tôi nói vậy thì đành ngồi xuống. Chợt một tiếng quát lớn vang lên, chỉ sau nháy mắt con báo kia đã đột ngột quay đầu, nhìn chằm chằm vào Huyền Lăng lúc này đang mặc chiếc áo da báo. Hai mắt nó lúc này trợn trừng, hai hàm răng sắc nhọn nhe ra, dáng vẻ thực là hung tợn vô cùng, sau khi gầm vang một tiếng liền đẩy tung cửa sắt lao thẳng về phía Quan Cảnh điện.

    Chẳng ai phát hiện Diệp Lan Y khi đi vào chỉ đóng hờ cửa sắt, không hề khóa lại. Con báo gấm đó vốn là loài mãnh thú cực kỳ lợi hại, chẳng tốn bao nhiêu sức lực đã đẩy được cửa sắt mà lao ra ngoài, tức thì một thứ mùi tanh hôi ập tới, tiếng gầm giận dữ của con báo sau nháy mắt đã tới gần.

    Trinh Nhất Phu nhân hô lớn một tiếng, nhưng đang định chạy ra ngoài thì chợt phát hiện tà váy đã bị vướng vào góc bàn tự lúc nào chẳng hay, sau một phen giãy giụa liền ngã nhào ra đất.

    Mọi người không ngờ biến cố lại đột ngột xảy ra như thế, lập tức sợ đến nỗi hồn phiêu phách tán, tay chân mềm nhũn. Lúc này Diệp Lan Y nằm phủ phục người trên lưng con báo, các thị vệ đứng phía trước không thể ngăn cản, sau khi giơ cung lên cũng chẳng biết phải bắn về đâu.Trong khoảnh khắc mùi tanh của con báo đó ập vào mũi Huyền Lăng, y tức thì tỉnh táo trở lại, đưa tay kéo Điềm Tần vốn đứng bên cạnh tới chắn trước người mình. Điềm Tần kinh hãi kêu lên một tiếng, lập tức sợ đến ngất đi. Con báo đó không chút do dự, đưa vuốt sắc tới xé Điềm Tần ra làm hai nửa chỉ trong nháy mắt.

    Mùi máu tanh sau nháy mắt đã lan ra khắp Quan Cảnh điện, một số phi tần nhát gan sợ hãi kêu lên liên hồi, rất nhiều người còn bất tỉnh nhân sự. Quan Cảnh điện vốn không lớn, vì phải bày biện rất nhiều đồ đạc dùng cho ngày lễ nên lại càng chật hẹp, gần như không có chỗ nào để trốn chạy. Các loài thú được nuôi trong Ngự uyển vốn rất ít khi tấn công người, con báo đó đột nhiên ngửi thấy mùi máu người thì bất giác ngây ra, cúi đầu xuống liếm máu tươi trên người Điềm Tần vừa bỏ mạng. Diệp Lan Y thấy con báo đó như vậy thì giận dữ quát lớn một tiếng, đưa tay chụp lấy một nhúm lông trên đầu nó. Con báo bị đau thì lại càng thêm hung dữ, lập tức gầm lớn một tiếng, nhe nanh múa vuốt lao thẳng về phía trước, nhưng trong thời gian này, Huyền Lăng đã kịp kéo Nguyệt Quý nhân tới chắn trước mặt mình. Nguyệt Quý nhân vừa bất ngờ vừa sợ, tức thì hô vang ầm ĩ, tay chân không ngừng múa may loạn xạ. Con báo thấy thế thì có chút bối rối, không hiểu đối phương có ý gì, sau khi nhìn chằm chằm vào Nguyệt Quý nhân trong chốc lát liền đưa vuốt tới cào vào vai cô ta, kéo nguyên cả một cánh tay của cô ta xuống. Kế đó nó vẫn chưa chịu thôi, một cái chân khác đã đưa tới gần ngay trước mặt Huyền Lăng rồi. Có điều trong khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, các thị vệ đã chẳng để tâm tới sự an nguy của Diễm Tần trên lưng báo nữa, nhất tề bắn tên vun vút, một trận mưa tên lập tức trúng vào người con báo khiến sức lực của nó suy giảm đi nhiều, nhưng vuốt sắc của nó vẫn kịp cào từ cổ xuống ngực Huyền Lăng làm rách toạc cả áo da báo lẫn long bào, máu tươi lập tức tuôn ra xối xả.

    Con báo lúc này đã bị bắn thành con nhím, sau khi gầm lên mấy tiếng thì dần tắt thở, không còn động đậy được nữa. Diệp Lan Y cũng bị mấy mũi tên xuyên qua thân thể, gần như chỉ còn thoi thóp một hơi thở. Tuy sắp chết nhưng cô ta vẫn tỏ ra vô cùng bình tĩnh, còn cau mày cất giọng ngắc ngứ: “Thật đáng tiếc, không giết được ngươi.”

    Huyền Lăng đưa tay giữ ngực, trong cơn đau đớn lại càng thêm giận dữ, bèn xua tay đuổi tôi với Đức phi đang định đỡ y qua một bên mà gằn giọng quát: “Trẫm đối xử với nàng không bạc, cớ gì nàng lại muốn hại trẫm như thế?”

    “Lục Vương gia là người tốt như thế mà ngươi vẫn đuổi tận giết tuyệt, rồi lại còn giả bộ huynh đệ tình thâm nữa, thực là chẳng bằng cầm thú!” Cô ta vừa hộc máu tươi vừa gằn giọng nói. “Sau khi Vương gia qua đời, ta sớm đã ôm lòng muốn giết ngươi rồi, một kẻ mà ngay cả tình thân thủ túc cũng không để ý tới như ngươi chỉ xứng để ta sai loài súc sinh tới giết thôi!”

    “Càn rỡ, không ngờ nàng lại dám có tư tình với y, còn vì y mà hành thích trẫm!”

    Diệp Lan Y cười khẩy, nói: “Ta không ngại nói cho ngươi biết, mỗi lúc ở bên ngươi, mỗi lần tiếp xúc với ngươi, ta đều cảm thấy rất buồn nôn!” Một tia cười dịu dàng chợt hiện lên trên khuôn mặt diễm lệ của cô ta, hệt như một bông hoa hợp hoan đã sắp đến hồi tàn úa. “Trên đời này chỉ có mình y là thật lòng đối tốt với ta, sau khi y chết, ta vốn không còn lưu luyến gì cuộc đời này nữa.”

    Huyền Lăng sau khi bị thương còn tức giận điên cuồng, máu tươi cứ thế chảy ra qua kẽ ngón tay, sắc mặt thì càng thêm trắng bệch, sau khi ho lên mấy tiếng liền ngã ngửa về phía sau, bất tỉnh nhân sự.

    Các phi tần lập tức trở nên hỗn loạn, người thì chạy đi gọi thái y, người thì vội vàng đỡ Huyền Lăng đi vào nội điện. Tôi mặt không đổi sắc, bình tĩnh ra lệnh cho các cung nhân vào trong nội điện hầu hạ Huyền Lăng, lại sai người khiêng xác Điềm Tần đi và chăm sóc cho Nguyệt Quý nhân đã bị cụt mất một cánh tay và đang ngất xỉu, sau đó liền rảo bước đi vào nội điện xem tình hình Huyền Lăng thế nào.

    Trong khoảnh khắc bước chân vào nội điện, tôi không kìm được cơn đau xót nơi đáy lòng, liền ngoảnh đầu lại nhìn Diệp Lan Y đang hấp hối sắp chết.

    Cô ta nằm gục trên sàn đá cẩm thạch, hệt như một bông tuyết mùa xuân có thể tan chảy bất cứ lúc nào, bên khóe miệng vẫn thấp thoáng một nụ cười mỉm dịu dàng cuối cùng. Tôi không ngoảnh đầu lại nhìn thêm lần nào nữa, sự tự do là thứ mà tôi và cô ta cả cuộc đời này đều không thể nào có được, do đó cô ta đã rời đi, bỏ lại tôi một mình trên cõi đời này.

    Thiên Trường tiết của Huyền Lăng vì việc này mà phải dừng lại, y thì vẫn hôn mê chưa tỉnh vì bị trọng thương, do đó mọi người trong cung đều vô cùng lo lắng, ai cũng rầu rĩ mặt mày nhưng lại chỉ có thể khóc lóc mà thôi, bầu không khí ảm đạm cứ thế kéo dài suốt mấy chục ngày liền.

    Rốt cuộc vào sáng sớm ngày thứ mười sáu sau khi về cung, cung nữ hầu hạ bên cạnh Huyền Lăng đã tới báo rằng miệng vết thương của Huyền Lăng đã ngưng chảy máu, thương thế cũng có thể cứu chữa được, tính mạng không còn nguy hiểm nữa.

    Diệp Lan Y sau khi chết thảm đã được chôn cất, thân thể cũng bắt đầu thối rữa nhưng Huyền Lăng sau khi tỉnh táo trở lại vẫn điên cuồng hạ lệnh băm xác cô ta ra làm vạn mảnh rồi đem vứt bỏ nơi đồng hoang. Còn Điềm Tần bị Huyền Lăng kéo ra làm lá chắn thì vì “hộ giá có công” mà được truy phong làm Điềm Phi. Nguyệt Quý nhân cũng được cứu sống, có điều đã cụt mất một tay, trở thành phế nhân, để bù đắp, Huyền Lăng đã phong cô ta làm tiệp dư chính tam phẩm, cho ở riêng một cung, đồng thời còn phong thưởng rất hậu cho người nhà của cô ta.

    Dưới ánh bình minh từ ngoài cửa sổ chiếu vào, chiếc gương đồng phản chiếu ra những tia sáng màu vàng sậm âm u, mọi cảnh vật trong gương đều toát ra một vẻ hư ảo mờ mịt tựa như trong giấc mộng, khiến người ta chừng như quên mất sự tồn tại của bản thân ở ngoài hiện thực.

    Tôi tiện tay cầm một chiếc lược bí lên nắm chặt trong lòng bàn tay, răng lược nhọn hoắt cắm vào tay làm tôi đau nhói, mới dần dần tỉnh táo trở lại.

    Đang dịp đầu xuân, sắc trời buổi sớm trong veo, lóng lánh như một khối ngọc lưu ly rực rỡ, bị những cành cây nhú đầy lộc xanh chia cắt thành vô số mảnh. Đôi làn gió nhẹ thổi tới làm những bông liễu trắng muốt như tuyết trên cành nhè nhẹ tung bay, sau đó bay ra lất phất đầy trời. Cửa sổ lúc này đang mở rộng, một vài bông liễu bay vào đậu lại trên bàn trang điểm, tôi tiện tay cầm một bông lên, đưa lên trước ánh sáng rồi nheo mắt lại nhìn kĩ. “Lan Y làm đã đủ nhiều rồi, Cận Tịch, chúng ta không thể tiếp tục khoanh tay đứng nhìn thêm nữa.” Tôi hơi nhếch khóe môi nở một nụ cười mong manh như sương khói, cất giọng lạnh lùng. “Hoàng thượng đang bị trọng thương, các phi tần đều phải đi thăm, ngay đến Hồ Tài nhân đang bị cấm túc cũng không ngoại lệ.”

    Cận Tịch hiểu ý, bèn cung kính nói: “Nô tỳ giờ sẽ đi làm ngay đây.”

    Thượng Lâm uyển vừa chuyển sang xuân, khắp nơi đều là những sắc hồng sắc đỏ, lại vừa được tưới tắm bằng một trận mưa xuân nên còn có thêm một tầng hơi nước mờ mờ bao phủ, vẻ đẹp lại càng tăng thêm mấy phần.

    Tài nhân Hồ Uẩn Dung vừa mới từ trong tòa cung điện cũ kĩ, u ám ở vĩnh hạng rảo bước đi ra, sắc mặt đầy vẻ hoang mang bi thảm, có lẽ sau khi hay tin đã vội vã chạy đi ngay. Cô ta hôm nay chỉ vận một chiếc áo gấm màu đỏ đã khá cũ, mái tóc dài cũng không được búi lại gọn gàng, chỉ quấn sơ qua và cố định lại bằng một cây trâm vàng chạm rỗng hình hoa.

    Tôi cười lạnh, nhìn cô ta chạy lại gần, sau đó mới ung dung bước ra từ phía sau một bụi hoa. Sự xuất hiện đột ngột của tôi khiến cô ta phải vội vàng dừng lại, sau một thoáng ngẩn ngơ mới nhìn rõ là tôi, không kìm được giận dữ quát lớn: “Tiện nhân, ngươi còn dám xuất hiện trước mặt ta nữa ư?”

    Tôi đưa mắt liếc nhìn bầu trời xanh biếc, thản nhiên nói: “Tại sao lại không dám? Tính ra thì Hồ Tài nhân còn chưa cảm tạ bản cung vì đã bỏ lệnh cấm túc cho ngươi đâu đấy.”

    Khuôn mặt cô ta đỏ bừng lên vì tức giận, hai mắt hằn học nhìn tôi. “Ta chưa từng dùng tà thuật để trù ếm ngươi, cũng chưa từng chôn những bức tượng gỗ đó trong cung của mình, tại sao ngươi lại vu cáo ta?”

    Tôi hững hờ đưa mắt nhìn lại cô ta, không kìm được bật cười. “Khi đó vì sự xúi bẩy của Tài nhân mà ta đã bị Hoàng thượng cấm túc, thiếu chút nữa còn bị phế truất, làm gì có thời gian để gài bẫy ai. Tài nhân cả nghĩ quá rồi!”

    Cô ta giận dữ nhìn tôi, không ngừng cười lạnh. “Ngươi vì muốn tranh đoạt ngôi hậu với ta, có việc gì mà không làm ra được? Chỗ tượng gỗ đó nhất định là do ngươi sai người chôn vào trong cung của ta từ lâu rồi, chờ thời cơ tới liền nhảy ra vu cáo ta, tâm tư của ngươi thực là tàn độc quá!”

    Tôi chậm rãi mân mê chiếc vòng san hô lấp lánh nơi cổ tay, cười tủm tỉm, nói: “Việc này thì Tài nhân phải tự trách mình rồi, Yến Hy điện bị ta bỏ tượng gỗ vào suốt một thời gian dài như thế mà ngươi vẫn chẳng hề hay biết.”

    Cô ta giận dữ điên cuồng, hai mắt chiếu ra những tia lạnh ngắt như muốn giết người. “Ngươi rốt cuộc đã chịu thừa nhận rồi!” Cô ta đưa tay túm lấy cổ tay tôi, kéo về phía trước. “Ngươi mau theo ta đi gặp biểu ca, ta phải cho biểu ca biết là ta bị oan!”

    Hồ Uẩn Dung dùng sức rất mạnh, móng tay cắm vào cổ tay tôi làm những vệt máu rỉ ra lấm tấm. Tôi gạt bàn tay cô ta ra, quát bảo: “Ngươi bị oan ư? Nếu ngươi bị oan, vậy thì ai đã rắp tâm ngụy tạo ngọc bích từ nhiều năm trước? Ai đã cố tình lôi kéo Quý Duy Sinh, bắt hắn dựa vào thiên tượng để vu oan giá họa cho ta? Ai đã hãm hại Thanh, để y phải chết một cách oan uổng? Thanh cũng là biểu ca của ngươi, sao ngươi có thể vì tranh đoạt ngôi hậu mà bày mưu hãm hại huynh ấy như thế chứ?”

    Cô ta thoáng ngẩn ra, ngay sau đó liền không kìm được cười lên điên cuồng, ngón tay chỉ vào tôi mà chẳng nói nổi lời nào cả. Tiếng cười của cô ta quá thê thiết, nghe hệt như tiếng quỷ khóc ma gào trong đêm, khiến những bông hoa trên cành rơi xuống tạo thành một trận mưa hoa lả tả.

    Mãi một hồi lâu sau, cô ta mới ngưng được tiếng cười, chỉ tay vào tôi mà gằn giọng nói: “Ngươi rốt cuộc đã chịu thừa nhận rồi, chuyện ngọc bích là do ngươi bày kế, Quý Duy Sinh cũng là do ngươi cố tình an bài tới bên cạnh ta, ngươi dốc hết tâm cơ hãm hại ta như thế không chỉ là vì ngôi hậu mà còn là vì Huyền Thanh nữa!” Cô ta cười lạnh không ngừng, cất giọng ngạo nghễ. “Quả nhiên... ngươi có tư tình với y! Ta đã mang chỗ thư nhà đó đến khuyên Hoàng thượng, nếu ngươi không có tư tình với y, tại sao trong hai năm ở biên ải, y lại thường xuyên hỏi thăm về sức khỏe của ngươi qua mỗi bức thư nhà chứ? Hừ! Y là con trai của nữ tử Bãi Di, trên người có một nửa dòng máu của giống người Bãi Di đê tiện, sao xứng là biểu ca của ta. Ta đường đường là cháu gái của Đại trưởng công chúa, con gái của Tấn Khang Quận chúa, há lại chấp nhận có họ với một kẻ như thế được!” Cô ta đột nhiên vỗ tay. “Ngươi rốt cuộc đã chịu thừa nhận rồi, đồ gian phu dâm phụ! Ta nhất định phải đi nói việc này cho biểu ca biết để huynh ấy giết chết ngươi!”

    Tôi ung dung chỉnh lại xiêm y, cất giọng hờ hững: “Ngươi cho rằng Hoàng thượng chịu gặp một nữ tử đã lừa dối y nhiều năm ư?”

    Cô ta vừa kinh hãi vừa tức giận, trên mặt lộ rõ vẻ khó tin. “Không phải biểu ca triệu ta tới hầu hạ ư?”

    Tôi cười khẩy, nói: “Là đám cung nhân đồn bậy đồn bạ đó thôi, chính bản cung đã mời Tài nhân tới đây ngắm bông liễu đấy. Tài nhân đã mấy tháng không tới Thượng Lâm uyển rồi, lẽ nào không muốn ngắm cảnh xuân tươi đẹp ở đây một chút ư?”

    Cô ta nhìn chằm chằm vào tôi, trên khuôn mặt xinh đẹp và cao ngạo dần dần lộ ra một tia thần sắc sợ hãi. “Ngươi nói cái gì?”

    Một làn gió xuân thổi tới khiến đôi tay áo rộng tung bay lất phất tựa như cánh bướm, tôi cất giọng hờ hững: “Nghe nói bệnh suyễn kỵ nhất là việc chạy nhanh, giận dữ và tâm trạng không ổn định, bây giờ cả ba điều ấy Tài nhân đều đã phạm phải, cần chú ý giữ gìn sức khỏe mới được.” Tôi đưa đôi bàn tay trắng ngần ra đón lấy một bông liễu, mỉm cười nói: “Tài nhân nhìn bông liễu này mà xem, thật là giống tuyết đầu đông quá.”

    Sắc mặt cô ta nhanh chóng trở nên trắng bệch, trong cơn kinh hãi vội vàng mò mẫm lấy một chiếc túi thơm có mùi hương bạc hà từ trong người ra. Vì lồng ngực phập phồng dữ dội, đôi tay cô ta run lên lẩy bẩy, chiếc túi trong tay theo đó rơi xuống đất.

    Cô ta vội vàng khom lưng xuống định nhặt nhưng tôi đã nhẹ nhàng đưa chân đá chiếc túi thơm đó xuống hồ Thái Dịch ở ngay bên cạnh. Chỉ nghe “tõm” một tiếng, chiếc túi chìm dần xuống nước. Những gợn sóng quanh chỗ chiếc túi rơi xuống không ngớt lan ra xa, chừng như đang bao phủ lên khuôn mặt xinh đẹp đầy vẻ tuyệt vọng của Hồ Uẩn Dung.

    Tôi xoay người lại, chẳng thèm nhìn cô ta nữa.

    Tôi phất nhẹ hai ống tay áo một cái, vô số bông liễu được giấu bên trong tức thì bay ra tới tấp, chẳng bao lâu sau đã phủ kín khuôn mặt đầy vẻ sợ hãi của Hồ Uẩn Dung. Tôi tiện tay cầm lấy một bông liễu, khẽ thở dài, than: “Người ta thường nói bông liễu không có rễ, sau khi gả cho gió đông, nếu may mắn thì được lên tận mây xanh, còn nếu xui xẻo thì phải vùi thân trong đất bụi. Kỳ thực làm người nếu được như bông liễu thì cũng rất tốt, ít nhất còn có thể tự do tự tại, không bị bó buộc bởi danh lợi và vinh hoa phú quý, tiếc rằng con người ta sống trên đời lại chẳng có mấy ai được như thế cả.”

    Tôi quay lưng về phía Hồ Uẩn Dung mà cất tiếng lẩm bẩm, cố tình không để ý tới những tiếng thở dốc dồn dập của cô ta. Cô ta lúc này không ngừng rên rỉ và giãy giụa trong đau khổ, miệng thì vẫn còn chửi mắng và nguyền rủa tôi không ngừng.

    Mọi thứ xung quanh dần trở lại bình lặng như xưa, hoa lá cỏ cây vẫn xinh tươi rạng rỡ, khung cảnh mùa xuân thực là tươi đẹp vô cùng.

    Tôi chậm rãi xoay người lại, chỉ thấy hai mắt Hồ Uẩn Dung vằn đầy tia máu, đồng tử dãn to, đôi môi trở nên tím tái, ngón tay co quắp chỉ lên trời, tựa như đang phát tiết nỗi bất mãn và căm phẫn chất chứa đầy trong lòng, mà lúc này bên khóe miệng và đầu mũi của cô ta vẫn còn vương mấy bông liễu trắng muốt, gió thổi tới cũng chẳng bay đi.

    Tôi gọi Vệ Lâm vốn đang đứng chờ ở gần đó lại, hờ hững nói: “Đi nói với phủ Nội vụ là Hồ Tài nhân không cẩn thận hít phải bông liễu, bệnh suyễn phát tác, đã qua đời.”

    Vệ Lâm gật đầu đáp “vâng”. Tôi thoáng đảo mắt một cái rồi lại nhìn y, nói tiếp: “Hoàng thượng sau phen trọng thương lần này long thể lại càng thêm suy nhược, sau này chỉ e không thể có thêm hoàng tử nữa rồi.”

    Vệ Lâm cả kinh, ngay sau đó lập tức hiểu ý tôi, bèn cung kính nói: “Nương nương đã nói vậy thì ắt là như vậy rồi.”

    Tôi khẽ gật đầu, tới lúc này mới để lộ ra một nét cười. “Điềm Phi, Diễm Tần và Hồ Tài nhân lần lượt qua đời, Lý Tiệp dư thì đã cụt mất một tay không tiện hầu hạ Hoàng thượng nữa, việc tuyển tú không thể chậm trễ thêm được. Hoàng thượng nay đã quá bốn mươi, ngươi thì đang là người đứng đầu Thái y viện, cần phải lấy ra bản lĩnh thật sự của mình, đừng để Hoàng thượng có lúc nào cảm thấy lực bất tòng tâm trong khi sủng hạnh các phi tần cũ mới.”

    Vệ Lâm cung kính thưa: “Nương nương yên tâm, vi thần sẽ dốc hết sức mình.”

    Cận Tịch gọi mấy gã thái giám lại khiêng thi thể vẫn còn ấm nóng của Hồ Uẩn Dung đi, kế đó ôn tồn nói với tôi: “Nương nương cũng nên đi thăm Hoàng thượng một chút rồi. Hoàng thượng giờ vẫn đang bệnh, quả thực không tiện biết tin dữ này.”

    Tôi gật đầu, nói: “Đương nhiên là vậy rồi.”
    Bên khóe miệng thấp thoáng một nụ cười ung dung, điềm đạm, tôi nhìn thẳng về phía trước, để mặc cho những làn gió xuân ấm áp thổi bay đi những nỗi đau xót và sướng khoái đang trào dâng trong lòng. Ngẫm kĩ lại mới thấy thời gian quả thực có thể làm bất cứ thứ gì thay đổi, tôi bây giờ đã là hoàng quý phi tôn quý tột cùng, không còn là Chân Hoàn chỉ vì cái chết của Diệu Âm Nương tử mà phải giật mình kinh sợ hằng đêm nữa.

    Hồ Thái Dịch mênh mang bát ngát, tôi vừa bước đi vừa chìm trong một nỗi ngẩn ngơ, chừng như quên bẵng mình đang ở nơi nào.

    Thời gian tựa như một tấm vải lụa thượng hạng chậm rãi tỏa ra nơi Tử Áo Thành, khoe đủ vẻ xa hoa bắt mắt. Nửa năm sau, vết thương của Huyền Lăng rốt cuộc đã dần dần hồi phục, có điều sức khỏe thì đã suy giảm rất nhiều so với lúc trước khi bị thương, nên khó tránh khỏi sinh ra lười nhác. Thêm nữa thời gian trước liên tiếp có mấy vị phi tần bỏ mạng, việc tuyển tú lại được tổ chức hết sức quy mô, các cung tần được chọn vào cung đều cực kỳ trẻ trung, xinh đẹp, tựa như những bông hoa tươi cùng nở rộ trước mặt y, trong lòng y, làm tinh lực của y dần dần suy kiệt, thế là tất cả tấu sớ trong triều tôi đều phải xem trước, sau đó mới chọn ra các việc quan trọng để đọc lại cho y nghe. Việc triều chính tôi vốn có thể xử lý cực kỳ thuần thục, thế nhưng mọi việc từ lớn đến bé đều hỏi han y thật kĩ, đến cuối cùng y cảm thấy phiền phức quá, bèn bảo tôi cứ tự xử trí mọi việc là được. Về sau, trong những ngày không được khỏe, y thậm chí còn kêu tôi đứng sau bức rèm ngay sau ngự tọa để thay y lắng nghe lời tấu của triều thần, sau đó chờ lúc thích hợp thì nói lại cho y nghe.

    Thời gian thấm thoắt trôi đi, mới đó đã tới năm Càn Nguyên thứ ba mươi, vì thân thể Huyền Lăng đã suy nhược đi nhiều nên trong triều có rất nhiều vị đại thần đề nghị lập thái tử.

    Hiện giờ trong Tử Áo Thành, thân phận của tôi là tôn quý nhất, mà vốn dĩ “con quý nhờ mẹ”, do đó số người đề nghị lập Triệu Vương Dư Hàm làm thái tử cũng là đông đảo nhất. Có điều không ít vị đại thần lại cho rằng “chủ nhỏ thì nước nguy”, nên lập Hoàng trưởng tử làm thái tử. Triều đình theo đó chia ra làm hai phe, tranh chấp không ngừng, người chủ trương lập Dư Hàm thì nói “Tề Vương tư chất tầm thường, Tề Vương phi xuất thân lại không cao, không thể trở thành mẫu nghi thiên hạ”; người chủ trương lập Dư Ly thì nói “Triệu Vương nay vẫn còn nhỏ, Hoàng quý phi một khi trở thành thái hậu ắt sẽ nắm hết quyền bính trong tay, mưu đồ soán vị, hơn nữa Hoàng quý phi năm xưa từng bị đuổi khỏi cung, không thể nói là con quý nhờ mẹ được”.

    Sự tranh chấp trong việc lập thái tử đã kéo dài hơn một năm, làm Huyền Lăng vô cùng phiền muộn. Thế nhưng sức khỏe của y ngày càng suy nhược, chuyện này nhất định phải xử lý sớm thì mới có thể làm yên lòng người.

    Hôm ấy y lại kêu tôi đứng sau bức rèm phía sau ngự tọa để lắng nghe lời tấu của quần thần.

    Giữa chốn triều đường hoa lệ, bá quan văn võ đều đứng trơ trơ như tượng gỗ, duy có quan Tư không Tô Toại Tín là lông tóc dựng ngược, đỏ mặt tía tai nói: “Thần cho rằng một khi chủ nhỏ mà có mẹ còn tráng niên, triều đình ắt sẽ gặp cơn nguy khốn, hạng người như Lữ thị, Võ thị chưa từng thiếu bao giờ. Hơn nữa Hoàng quý phi Chân thị cũng chẳng phải hạng người tốt đẹp gì, bằng không năm xưa tại sao lại bị phế truất và đuổi ra khỏi cung?”

    Huyền Lăng xua tay, nói: “Trẫm đã nói rồi, Hoàng quý phi năm xưa chỉ xuất cung để cầu cho vận nước xương thịnh thôi, chưa từng bị phế truất.”

    Tư không không chịu nhượng bộ. “Từ xưa đã có quy định sẵn rồi, phi tần rời cung cầu phúc thì phải được phong thưởng, trong khi đó Chân thị lại bị phế truất, hiển nhiên là đức hạnh có vấn đề!”

    Huyền Lăng nhất thời nghẹn họng, nhưng Tư không vẫn không chịu bỏ qua, lớn tiếng nói: “Triệu Vương giờ hãy còn ít tuổi, nếu Hoàng thượng nhất quyết muốn lập Triệu Vương làm thái tử thì xin hãy học theo Hán Vũ Đế năm xưa!”

    Huyền Lăng bất giác lộ vẻ nghi hoặc. “Học theo thế nào?”

    Tư không nói: “Hán Vũ Đế đến khi cao tuổi mới lập ấu tử Lưu Phất Lăng làm thái tử, lại sợ mẹ ruột của Phất Lăng là Câu Dặc phu nhân còn đang tuổi tráng niên, rất có thể sẽ học theo Lữ Hậu năm xưa mà tiếm đoạt quyền bính, gây họa cho triều đình, do đó đã tìm cớ ban cái chết cho Câu Dặc phu nhân, sau đó mới lập Phất Lăng làm thái tử.” Lão bước lên phía trước một bước rồi nói tiếp: “Thần cho rằng Hán Vũ Đế làm như vậy là vô cùng anh minh sáng suốt!”

    Huyền Lăng cả kinh, trong giọng nói lộ ra mấy tia tức giận: “Ngươi muốn ta ban cái chết cho Hoàng quý phi?”

    Tư không chẳng hề sợ hãi, lớn tiếng nói: “Dạ phải!”

    Đứng sau ngự tọa, tôi không thể nào nhịn thêm được nữa, đột ngột vén rèm chậm rãi đi ra, trầm giọng nói: “Tư không ở trước mặt thánh giá mà nói năng chẳng biết lựa lời, muốn sát hại phi tử nơi hậu cung, Hoàng thượng cớ sao không hạ chỉ tru diệt hạng người chẳng biết trên dưới này để chấn chỉnh triều cương?”

    Quần thần nhìn thấy tôi thì không kìm được kinh hãi kêu lên thành tiếng, Huyền Lăng cũng hơi cau mày lại. “Không phải trẫm đã dặn nàng cứ đứng sau rèm nghe là được rồi sao, trên chốn triều đường cớ gì nàng lại tùy tiện bước ra ngoài như thế?”

    Tư không giận đến ngây ra, sau đó liền vội vàng nói: “Hoàng thượng, Hoàng quý phi làm loạn triều cương, tuyệt đối không thể dung thứ được.”

    Tôi nở một nụ cười điềm đạm, kế đó cất giọng ung dung: “Thần thiếp nếu còn không ra ngoài, chỉ e tấm thân này sẽ khó mà toàn mạng. Thần thiếp cũng mong vận nước được vững vàng, mong Hoàng thượng thứ tội để thần thiếp nói ra một lời này thôi.”

    Huyền Lăng nghiêng người qua, thấp giọng nói: “Nàng muốn nói gì thì cứ chờ khi về đến hậu cung rồi nói với trẫm là được rồi.”

    “Hoàng thượng xin hãy nghe thần thiếp nói một lời thôi.” Tôi không chịu thỏa hiệp, vẫn nhất quyết kiên trì.

    Huyền Lăng không nói gì, cũng không né tránh ánh mắt của quần thần, một lát sau mới nói: “Hoàng quý phi, nàng nói đi!”

    Tôi cung kính quỳ xuống bái lạy, nghiêm túc nói: “Hoàng thượng, Dư Hàm tư chất quá tầm thường, thần thiếp vô tài vô đức không thể dạy dỗ được, do đó không nên lập Dư Hàm làm thái tử.”

    Lời này vừa vang lên, tất thảy mọi người đều kinh hãi, ngay đến Tư không cũng ngẩn ngơ. Tôi lại bái lạy lần nữa rồi mới nói tiếp: “Hoàng tứ tử Dư Nhuận thiên tư thông minh, thân mẫu là Huệ Nghi Quý phi cũng xuất thân danh môn, hiền lương thục đức, lúc sinh tiền rất được Chiêu Thành Thái hậu thương yêu xem trọng, do đó Hoàng tứ tử là người thích hợp nhất để nối dòng đại thống.”

    Sự tranh cãi trong khi lập thái tử chẳng qua là nên lập trưởng hay nên lập quý. Dư Ly tư chất quá tầm thường, Dư Bái quá trầm lặng, còn Dư Hàm thì vì tôi mà bị dị nghị rất nhiều, nhưng ngay tới Huyền Lăng cũng chưa từng để ý rằng mình còn có một người con út nữa. Bất kể là xét về xuất thân, đức hạnh của mẹ ruột hay là xét về tư chất của bản thân, Dư Nhuận đều là một lựa chọn vô cùng thích hợp để trở thành thái tử, mà ngoài ra, tôi chỉ là dưỡng mẫu của Dư Nhuận, sau này không thể buông rèm chấp chính, do đó giang sơn Đại Chu ắt sẽ vững bền.

    Mọi sự mâu thuẫn coi như đã được giải quyết, quần thần đều không thể tranh cãi gì thêm, tất cả đều gật đầu tán đồng ý kiến này, mà Huyền Lăng cũng không có dị nghị gì cả. Ngay trong ngày hôm đó, Hoàng tứ tử Dư Nhuận được lập làm thái tử, tiếp tục giao cho Hoàng quý phi nuôi dưỡng.

    Những dải tua bạc đính trân châu buông xuống từ chiếc mũ phượng trên đầu tôi, vừa khéo che đi tấm dung nhan được trang điểm kĩ lưỡng, bên khóe miệng tôi dần dần lộ ra một nụ cười khoái trá.
     
  5. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 20: Nằm đếm Nam Cung giọt điểm thầu[38]
    [38] Trích Trường Tín thu từ kỳ 1 của Vương Xương Linh. Dịch thơ: Lê Nguyễn Lưu. Nguyên văn Hán Việt: Ngọa thính Nam Cung thanh lậu trường - ND.

    Mùa xuân năm Càn Nguyên thứ ba mươi đến rất muộn, sau khi Huyền Lăng tuyên bố lập Dư Nhuận làm thái tử, thân thể y ngày một suy nhược, rốt cuộc tới một ngày giữa xuân, y đổ bệnh phải nằm bẹp trên giường. Để tiện cho Huyền Lăng yên tâm tĩnh dưỡng, tẩm điện được dời đến Hiển Dương điện vốn là nơi thanh tịnh nhất trong cung, ngoài mấy phi tử đức cao vọng trọng ra thì không người nào khác được phép tùy tiện đi vào.

    Hôm ấy sau khi phê duyệt xong tấu sớ, tôi vẫn còn cảm thấy tinh thần sảng khoái, bèn tới chỗ Đức phi chơi, sau đó lại qua Hiển Dương điện thăm Huyền Lăng. Chiếc kiệu mới ở cách ngoài trăm bước chân thì đã có một gã thái giám hay tin trước chạy ra mở cửa điện để nghênh đón tôi. Hiển Dương điện vừa rộng lớn lại vừa cổ kính, còn nằm ở nơi thanh tịnh, thực là một chỗ thích hợp nhất để dưỡng bệnh.

    Sau khi đi vào trong điện, tôi vòng qua bức bình phong lớn được đóng bằng gỗ tử đàn tới trước giường bệnh của Huyền Lăng, thấy y đang ngủ rất say, đây là chuyện hiếm khi nào xuất hiện trong thời gian qua. Bên chiếc lò hương đặt ngay cạnh giường có một nữ tử vận cung trang màu trắng hình như đang khóc rấm rứt, nhưng tiếng khóc nghe rất nhỏ, có lẽ là vì sợ làm kinh động tới Huyền Lăng.

    Tôi dừng chân lại từ xa, khẽ thở dài một tiếng. Nghe thấy tiếng động, nữ tử vận cung trang kia liền xoay người lại, hóa ra là Trinh Nhất Phu nhân. Nàng ta nhìn thấy tôi liền lập tức đứng dậy đưa tay lau nước mắt, khẽ nói: “Hoàng quý phi kim an!”

    Tôi vội vàng đi tới đỡ nàng ta đứng dậy. “Muội muội không cần đa lễ.”

    Trinh Nhất Phu nhân vào cung đã được hơn mười năm, tình cảm với Huyền Lăng có thể nói là sâu đậm nhất, tính tình lại hết sức dịu dàng, thường ngày chỉ một lòng chăm sóc cho nhị Hoàng tử, khi rảnh rỗi thì ngâm nga thơ từ. Lần này Huyền Lăng đổ bệnh, ngoài thời gian nghỉ ngơi và cầu phúc ở Thông Minh điện ra, nàng ta không có lúc nào không ở bên chăm sóc cho Huyền Lăng.

    Trinh Nhất Phu nhân sau khi sinh nở, sức khỏe vẫn luôn rất tệ, vốn không cần phải vất vả thế này, thế nhưng những ngày qua lại luôn đích thân hầu hạ Huyền Lăng, thân thể sớm đã gầy rộc đi, hai vành mắt thì đỏ hoe, khuôn mặt vàng vọt mười phần tiều tụy.

    Tuy trước đây Huyền Lăng từng khiến nàng ta phải chịu rất nhiều nỗi ấm ức, cũng không quá sủng ái nàng ta nhưng trong những tháng năm đằng đẵng giữa chốn hậu cung thâm sâu tựa bể này, tình cảm của nàng ta với Huyền Lăng lại chưa từng suy giảm.

    Tôi thầm bất nhẫn trong lòng, bèn nói: “Muội muội đã phải vất vả rồi.” Sau đó lại hỏi: “Hoàng thượng đã đỡ hơn chút nào chưa?”

    Nàng ta rơm rớm nước mắt, thế nhưng lại thực sự không muốn rơi lệ trước mặt người khác, đành cười gượng, nói: “Làm sao mà đỡ hơn được, không tệ đi đã là tốt lắm rồi. Thái y cũng vừa tới khám và cho Hoàng thượng uống thuốc.” Rồi nàng ta lại khẽ lắc đầu. “Tỷ tỷ quá lời rồi, tỷ tỷ phải phê duyệt tấu chương, lo liệu việc triều chính, lại còn phải chăm sóc cho tam điện hạ và Thái tử điện hạ, đã mười phần mỏi mệt, tiểu muội thân ở ngôi phu nhân, tất nhiên phải thường xuyên ở bên hầu hạ Hoàng thượng rồi. Mấy ngày nay thời tiết không được tốt lắm, chợt nắng chợt mưa, vết thương trên chân tỷ tỷ e là sẽ lại tái phát, nghe Hoa Nghi nói đêm qua tỷ tỷ đã đau đến không ngủ nổi, tỷ tỷ nhất định phải chú ý giữ gìn sức khỏe đấy, bây giờ mọi việc không có tỷ tỷ thì đều không xong được.”

    Tôi khẽ gật đầu, cầm tay nàng ta, nói: “Đó là bệnh cũ rồi, không có gì ghê gớm cả. Muội muội quan tâm đến Hoàng thượng là điều tốt, nhưng thân thể của mình cũng cần chú ý mới được, hơn nữa muội muội còn phải chăm sóc cho nhị điện hạ nữa cơ mà. Ta phải chuyên tâm lo liệu việc triều chính, muội muội thì đích thân chăm lo cho Hoàng thượng, những việc vụn vặt trong cung đều phải nhờ vào Đức phi tỷ tỷ và Quý phi tỷ tỷ cả, bọn họ cũng vất vả vô cùng. Có điều bây giờ Hoàng thượng đang bệnh, tỷ muội chúng ta đương nhiên phải chung tay góp sức để lo liệu mọi việc rồi.”

    Trinh Nhất Phu nhân đưa mắt nhìn Huyền Lăng lúc này vẫn ngủ say trên giường bệnh, khẽ nói: “Tỷ tỷ nói rất phải, có gì mà vất vả với không vất vả đâu, chúng ta làm mọi việc đều vì Hoàng thượng thôi mà.”

    Nàng ta thấy tôi cứ đứng mãi, vội vàng nói: “Tỷ tỷ mau ngồi đi, chúng ta cùng đợi Hoàng thượng tỉnh dậy. Muội đã dặn nhà bếp hầm canh sâm cho Hoàng thượng rồi, chờ sau khi ngài thức dậy là có thể uống ngay.” Trên mặt mang đầy vẻ âu lo, nàng ta thở dài, than: “Thân thể Hoàng thượng bây giờ yếu quá rồi, muội cứ nghĩ không còn Xích Thược nữa thì Hoàng thượng sẽ đỡ hơn một chút, ai ngờ...” Nàng ta muốn nói mà lại thôi, cuối cùng chỉ buồn bã im lặng.

    Lời của nàng ta không hề khó đoán, hơn một năm nay Huyền Lăng thường xuyên sủng hạnh các cung tần mới tới tận khi trời sáng, còn rất nhiều lần đòi Thái y viện đưa đan dược cường dương. Tôi với Đức phi và Quý phi vẫn thường khuyên y phải chú ý giữ gìn sức khỏe, nhưng y mỗi lần chỉ mỉm cười mà bỏ ngoài tai, Trinh Nhất Phu nhân vì việc này mà từng rơi nước mắt không ít lần.

    Tôi mới từ chỗ Đức phi qua đây, trong lòng có điều muốn nói riêng với Huyền Lăng, bèn cười tủm tỉm, nói: “Muội muội những ngày qua chăm sóc cho Hoàng thượng cũng vất vả rồi, chi bằng hãy đi nghỉ ngơi một lát đi, nhị điện hạ vừa tan học, bây giờ nhất định là đang trông ngóng muội muội về đấy.”

    Trinh Nhất Phu nhân đưa mắt nhìn qua giường bệnh, vừa lưu luyến không nỡ rời Huyền Lăng lại vừa nhớ Dư Bái, sau một thoáng trầm ngâm bèn nhún gối cáo từ. “Vậy đợi lát nữa Hoàng thượng tỉnh dậy, xin tỷ tỷ hãy sai người đi thông báo với muội một tiếng.”

    Tôi mỉm cười nhìn nàng ta. “Được rồi, muội muội cứ yên tâm.”

    Trinh Nhất Phu nhân mới đứng dậy đi được vài bước, chợt lại dừng chân, ngoảnh đầu nhìn tôi. “Đợi lát nữa nhà bếp nấu canh sâm xong, lũ nô tài sẽ đưa tới đây, tỷ tỷ nhớ nhắc Hoàng thượng uống sớm cho nóng nhé!” Nàng ta vừa định xoay người thì lại chợt nhớ tới điều gì, bèn nói tiếp: “Hoàng thượng sau khi tỉnh dậy nếu thấy đắng miệng thì đầu giường có bánh táo đỏ mới làm, đó là thứ Hoàng thượng thường ngày thích ăn nhất đấy.”

    Thấy nàng ta như vậy, tôi không kìm được bật cười, nói: “Muội muội cứ yên tâm, nếu còn điều gì lo lắng nữa thì chờ sau khi Hoàng thượng tỉnh lại rồi mời ngài qua Không Thúy điện của muội muội để tĩnh dưỡng thôi.”

    Trinh Nhất Phu nhân phát hiện ra sự thất thố của mình, không khỏi mười phần xấu hổ, đỏ mặt nói: “Tỷ tỷ nói đùa rồi, có tỷ tỷ ở đây, muội tất nhiên là yên tâm.”

    Thế nhưng nàng ta vẫn có chút do dự, đôi hàng lông mày hơi cau lại, mãi một lát sau mới hỏi: “Chuyện của Tôn Tài nhân, tỷ tỷ định xử trí thế nào?”

    Thấy nàng ta hỏi tới chuyện này, tôi không khỏi thoáng lộ vẻ trầm ngâm, rồi nghiêm túc nói: “Ta đã thương lượng với Đức phi rồi, chuyện như thế này chúng ta không thể tự mình làm chủ được, dù gì cũng phải xin ý kiến của Hoàng thượng mới xong.”

    Nàng ta do dự. “Chuyện đó... tạm thời đừng nên nói với Hoàng thượng thì hơn. Với sức khỏe của Hoàng thượng bây giờ, chỉ e khó mà chịu nổi một cơn giận dữ như vậy...”

    Tôi nhíu chặt đôi mày, cất giọng âu lo: “Ta làm gì mà chẳng biết điều ấy, nhưng chuyện của Tôn Tài nhân thực sự quá hoang đường, trong cung đã xuất hiện rất nhiều lời đồn thổi, nếu còn không xin Hoàng thượng ra ý chỉ thì e là những lời đồn ấy rồi cũng sẽ truyền tới tai Hoàng thượng, tới lúc ấy Hoàng thượng ắt sẽ càng tức giận hơn.”

    Nàng ta suy nghĩ một chút rồi cuối cùng chẳng tìm được cách nào, đành nói: “Đã như vậy thì xin tỷ tỷ hãy sớm nói chuyện này cho Hoàng thượng hay.” Rồi nàng ta lại cất giọng khẩn thiết: “Nhưng mong tỷ tỷ hãy lựa lời mà nói, chớ nên để Hoàng thượng tức giận quá.”

    Tôi khẽ gật đầu, lại nhìn nàng ta rồi nở một nụ cười vô cùng ấm áp. “Tâm tư của muội muội cũng chính là tâm tư của ta, nhưng có một số việc chúng ta không thể làm chủ, cần phải xin ý kiến của Hoàng thượng mới được. Có điều muội muội cứ yên tâm, ta nhất định sẽ tìm thời cơ thích hợp để nói với Hoàng thượng việc này.”

    Nàng ta đầy bụng ưu lo, khẽ thở dài, nói: “Vậy chuyện này Hoàng quý phi cứ làm chủ là được rồi.”

    Tôi gọi hai ả thị nữ hầu cận của nàng ta lại: “Kết Ngạnh, Trúc Như, mau đỡ nương nương nhà các ngươi về nghỉ ngơi đi, nếu lần sau bản cung mà còn thấy nương nương nhà các ngươi tiều tụy thế này thì ắt sẽ hỏi tội các ngươi đấy.”

    Tôi đích thân tiễn Trinh Nhất Phu nhân tới bên ngoài Hiển Dương điện. Thấy nàng ta đã đi rồi, Hoa Nghi khẽ nói: “Trinh Nhất Phu nhân đúng là đáng thương quá, thời gian qua ở bên Hoàng thượng đã phải chịu đựng không ít nỗi thương tâm và đau khổ, mà sức khỏe thì vốn đã kém sẵn rồi.”

    Tôi lúc này cảm thấy có chút ngột ngạt, bèn dặn dò Hoa Nghi: “Mau kêu người bỏ những bức rèm gấm kia đi, đổi sang dùng rèm mỏng là được rồi. Trời đang nóng nực thế này mà còn treo rèm dày như vậy, thực là ngột ngạt quá.”

    Hoa Nghi đáp “vâng” một tiếng, kế đó bèn sai người đi làm theo lời tôi nói. Lý Trường dè dặt nói: “Thái y bảo, Hoàng thượng bây giờ cần tránh bị gió lùa, vậy nên Hiển Dương điện mới cần dùng loại rèm gấm dày như thế.”

    Tôi đưa mắt liếc nhìn y, chậm rãi nói: “Bản cung tất nhiên biết điều này, có điều thái y yêu cầu tránh gió cố nhiên là có lý, nhưng người bệnh vốn tỏa ra đầy bệnh khí, thay đổi không khí một chút cũng là điều nên làm. Hơn nữa, một người bình thường mà phải ở nơi ngột ngạt thế này thì chỉ e cũng sẽ thành bệnh, huống chi Hoàng thượng vốn đã không khỏe rồi.”

    Lý Trường vội vàng vâng dạ, không dám hỏi nhiều thêm. Tôi mỉm cười, nói: “Mấy năm nay bản cung để ý quan sát, thấy Lý công công hình như chẳng dám thoải mái nói chuyện với bản cung nữa thì phải.”

    Lý Trường vội vàng nói: “Dạ, nào phải thế! Nương nương bây giờ ung dung cao quý, ngày bận ngàn việc, nô tài kính trọng nương nương mười phần, do đó mới không mấy khi có cơ hội mở lời trước mặt nương nương đó thôi.”

    Ung dung cao quý? Tôi không kìm được cười phì một tiếng, nhớ khi xưa đó từng là lời dùng để hình dung Hoa Phi Mộ Dung Thế Lan, vậy mà giờ đây người khác cũng nghĩ tôi như thế, lẽ nào trong thân phận hoàng quý phi, tôi cũng chẳng khác gì Hoa Phi khi xưa ư?

    Lý Trường không biết tôi đang cười chuyện gì, lại càng thêm thấp thỏm lo âu. Tôi đưa tay chỉnh lại xiêm y một chút, cất giọng hờ hững: “Kính trọng là tốt, nhưng kính sợ thì không cần đâu, bản cung tin là trong chuyện này ngươi tự có chừng mực. Hơn nữa những năm nay, ngươi vẫn luôn trung thành với bản cung, điều này bản cung sẽ ghi nhớ kĩ trong lòng.”

    Trên trán Lý Trường rỉ đầy mồ hôi lấm tấm, sau khi ngó thấy bốn phía xung quanh không có ai, y mới bước lại gần tôi thêm một bước, hạ thấp giọng, nói: “Nô tài có chuyện này muốn bẩm riêng với nương nương, vừa rồi khi Thiệu thái y tới thăm mạch cho Hoàng thượng, hai người đã trò chuyện riêng với nhau rất lâu, ngay đến Trinh Nhất Phu nhân cũng bị mời ra ngoài, đây là chuyện chưa từng xảy ra.” Y thấy tôi chỉ mím môi lắng nghe, không dám dừng lại quá lâu, nói tiếp: “Nô tài không yên tâm về Hoàng thượng, bèn để ý nghe lỏm, thấy họ hình như có nhắc đến nương nương và tam điện hạ. Sau khi Thiệu thái y rời đi, sắc mặt Hoàng thượng không được tốt lắm, chỉ dặn là sau này không cần gọi Vệ thái y tới thăm mạch nữa, mọi việc cứ để Thiệu thái y lo liệu là được, rồi kế đó người mới uống thuốc và đi ngủ.”

    Tôi khẽ “ừm” một tiếng, mỉm cười nhìn y. “Tốt lắm, ngươi quả nhiên rất trung thành với bản cung, có điều tại sao đến bây giờ mới nói việc này cho bản cung biết?”
    Lý Trường đưa tay áo lên lau mồ hôi trên mặt, vội vàng nói: “Nô tài vốn đã định sai người đi báo rồi, nhưng khi đó nương nương lại đang ở chỗ Đức phi nên không tiện lắm, thêm nữa nô tài đoán chừng hôm nay nương nương ắt sẽ tới thăm Hoàng thượng, vậy nên mới chờ sẵn ở chỗ này.”

    Tôi mỉm cười, nói: “Được rồi, ngươi mau dẫn người lui xuống đi, cứ để bản cung ở riêng với Hoàng thượng là được.” Thoáng suy nghĩ một lát, tôi lại dặn dò thêm: “Truyền lệnh xuống dưới là hôm nay bản cung ở đây, dù là ai cũng không được tới quấy rầy.”

    Lý Trường khom người đáp “vâng” một tiếng, vội vàng dẫn người rời đi. Trong điện không còn ai nữa, lại càng trở nên trống trải, tịch mịch. Tôi chậm rãi đi vào, tà váy dài thêu hình hoa phù dung lướt nhẹ đi trên tấm thảm nhung màu đỏ, chẳng phát ra một tiếng động nào.

    Trái tim tôi lúc này vô cùng trống trải, còn tràn đầy một thứ cảm giác giá lạnh.

    Sau khi Ôn Thực Sơ đi thủ mộ cho Huệ Nghi Quý phi, Vệ Lâm rất được Huyền Lăng tin tưởng, dần dần trở thành viện chính, người đứng đầu Thái y viện. Y thuật của Vệ Lâm vốn rất cao minh, xưa nay luôn được Huyền Lăng xem trọng, hơn nữa y còn là tâm phúc của tôi, Huyền Lăng cũng biết việc này, do đó lại càng thêm tín nhiệm. Bây giờ Huyền Lăng đột nhiên bỏ không dùng Vệ Lâm nữa chưa chắc đã là vì không tin tưởng y, chỉ e là đã bắt đầu nảy lòng nghi ngờ tôi rồi.

    Trái tim tôi bất giác lạnh dần đi, tựa như bị những khối băng ngàn năm bao phủ, vừa giá lạnh lại vừa ngột ngạt. Thứ cảm giác như vậy đã lâu lắm rồi không xuất hiện trong tôi khiến tôi không khỏi có chút bối rối.

    Tôi chậm rãi bước đến trước giường của Huyền Lăng, từ trong chiếc đỉnh lớn làm bằng đồng đen cạnh giường không ngừng tỏa ra những làn khói trắng mờ mờ thấp thoáng mùi long diên hương trân quý. Tôi mở nắp đỉnh ra, chậm rãi bỏ một nhúm long diên hương vào, rồi lại bỏ thêm nhúm nữa, mùi hương trong điện tức thì trở nên nồng đậm hơn hẳn, những làn khói trắng như ngấm qua lỗ chân lông mà chui vào cơ thể người ta, mang tới cảm giác vô cùng thư thái.

    Nhưng lúc này đây tôi lại không thể thả lỏng bản thân được, bởi vì chỉ cần sơ sảy một chút thôi là tất cả mọi thứ mà tôi đang có sẽ lập tức tan thành mây khói. Tới khi đó, không chỉ mình tôi phải chết, sẽ có rất nhiều người mà tôi quan tâm và muốn bảo vệ cũng khó lòng toàn mạng.

    Không! Tôi không thể mạo hiểm thêm được! Những năm qua phải trải bao phen vất vả tôi mới có được ngày hôm nay, tôi không thể ngã xuống vào lúc này được.

    Tôi nhanh chóng đóng nắp đỉnh lại, chậm rãi đi tới trước cửa sổ và mở cửa sổ ra. Từng cơn gió mát rượi lập tức thổi lên khuôn mặt được trang điểm tinh tế của tôi, xộc vào trong đầu tôi, khiến tôi bất giác có chút lâng lâng mơ màng. Tôi bỗng nhớ lại hồi mình còn ở trên chùa Cam Lộ, khi đó mái tóc dài đen nhánh của tôi thường được buông xõa tựa như một đám mây bồng bềnh tự do tự tại, không bị bất cứ thứ gì gò bó.

    Rất nhanh sau đó tôi đã kịp xua đi tâm trạng ưu thương không hợp lúc, trong lòng không ngừng vang vọng những lời mà Vệ Lâm đã nói với tôi thời gian trước: “Hai năm nay trong cung xuất hiện thêm rất nhiều người mới, Hoàng thượng gần như đã đắm mình vào trong, lưu luyến vô cùng, lại uống thêm khá nhiều thuốc cường dương, thân thể đã trở nên rất tệ rồi. Có điều ngài dù sao cũng là bậc cửu ngũ chí tôn, từ nhỏ đã có căn cơ rất vững, lại thường xuyên uống thuốc bổ do Thái y viện đưa tới, do đó cũng chưa hẳn là không thể cứu được. Mọi việc bây giờ đều phải trông vào dự tính của nương nương thôi.”

    Sắc trời lúc này rất âm u, chừng như có một cơn mưa rào rất lớn đang kéo tới. Vết thương cũ trên đầu gối tôi lại bắt đầu rấm rứt đau, tựa như có một lưỡi dao nhỏ đang không ngừng cào đi cào lại trên xương cốt, khó chịu vô cùng.

    Tôi có thể dự tính như thế nào đây? Có thể làm gì trong hoàn cảnh này đây?

    Tôi cúi xuống nhìn những ngón tay của mình, nơi đầu ngón tay trắng nõn, mười chiếc móng tay dài hơn một tấc đều được nước hoa phượng tiên nhuộm thành màu đỏ tươi, tất cả cùng bấu chặt vào chấn song cửa sổ. Bỗng “cạch” một tiếng, một chiếc móng tay của tôi bất ngờ gãy lìa, thế mà tôi vẫn chẳng hề phát giác. Một lát sau, tôi thản nhiên vứt chiếc móng tay gãy đó ra ngoài cửa sổ, trên mặt đầy vẻ hờ hững, lạnh lùng.

    Năm đó y đã chết trong lòng tôi, máu tươi từ trong miệng y tuôn ra không ngớt, nhuộm đỏ cả vạt áo trắng muốt của tôi. Trái tim tôi theo những ngụm máu y nôn ra mà trở nên nát vụn, biến thành những hạt bụi nhỏ bay khắp trời, không thể nào trở về nguyên trạng được nữa.

    Tôi vô thức đặt tay lên ngực mình, vết thương cũ nơi chân càng truyền tới cảm giác đau đớn dữ dội. Mỗi khi thời tiết thế này, chân tôi lại bắt đầu đau, dường như muốn nhắc nhở tôi rằng, tôi vĩnh viễn không thể múa điệu Kinh Hồng nữa. Cũng tốt, y giờ đã chết rồi, tôi còn múa điệu Kinh Hồng làm gì nữa, chẳng thà không múa còn hơn.

    Tôi bất giác nở nụ cười lạnh, nụ cười dường như toát ra những tia sắc bén vô cùng, dần dần lan tỏa lên khóe mắt. Tôi chậm rãi thở ra một hơi hết sức nhẹ nhàng.

    Lặng lẽ ngồi xuống cạnh giường của Huyền Lăng, trong lòng tôi thầm suy tính xem nên nói chuyện của Tôn Tài nhân như thế nào thì tốt nhất. Từ trong chiếc đỉnh đồng vẫn không ngừng tỏa ra những làn khói trắng mông lung, ánh sáng bên ngoài điện rọi qua đó chiếu lên khuôn mặt của Huyền Lăng đang trong giấc ngủ. Dường như lúc này y ngủ không được ngon lắm, đôi hàng lông mày nhíu chặt, hai bờ má vàng vọt và hõm xuống rất sâu, trông hệt như hai bông hoa cúc đã đến hồi tàn lụi.

    Tôi khẽ nở nụ cười, lấy từ trong hộc tủ trước giường ra một chiếc kéo bạc nhỏ mà chậm rãi cắt tỉa móng tay vừa gãy, lẳng lặng chờ Huyền Lăng tỉnh dậy.

    Một hồi lâu sau, chẳng biết là đã qua bao lâu, sắc trời bên ngoài vẫn âm u vô hạn. Huyền Lăng hơi trở mình rồi thức giấc, hai mắt nheo lại thành một đường thẳng dài, hình như bị ánh sáng rọi vào làm chói mắt, mất một lúc mới nhận ra được là tôi.

    Y hình như đang cười, giọng nói cũng đã có chút khí lực: “Hoàng quý phi.”

    Sau khi tôi được sắc phong làm hoàng quý phi, y rất ít khi gọi tôi là “Hoàn Hoàn”, giờ đây, kể cả lúc chỉ có hai người ở riêng bên nhau, y cũng chỉ gọi tôi là “Hoàng quý phi” mà thôi.

    Hoàng quý phi, đó là một cách xưng hô thoạt nghe thì tôn quý tột cùng.

    Tôi vẫn giữ nguyên vẻ bình thản, bên khóe miệng thấp thoáng một nụ cười dịu dàng, đi tới đỡ y ngồi dậy tựa người vào gối. Y khẽ gật đầu. “Nàng tới đây bao lâu rồi?”

    “Khi thần thiếp tới thì Hoàng thượng vừa mới ngủ.”

    Y khẽ “ồ” một tiếng, lại ho lên mấy tiếng rồi hỏi: “Yến Nghi đâu rồi?”

    Tôi giúp y xắn tay áo lên, đích thân hầu hạ y rửa tay, lại lấy khăn lụa tới lau khô tay cho y, sau đó mới mỉm cười, nói: “Thần thiếp thấy Trinh muội muội ngày đêm ở bên Hoàng thượng quá vất vả, nên đã bảo muội ấy về cung nghỉ ngơi một chút rồi.”

    Y trầm ngâm nói: “Cứ để Yến Nghi về cũng tốt, thời gian qua nàng ấy hết sức thương tâm nhưng lại không dám khóc trước mặt trẫm, làm trẫm nhìn mà thầm khó chịu, vốn định kêu mấy người khác tới nhưng vì nàng ấy hầu hạ ân cần quá thành ra không tiện mở miệng nói gì.”

    Tôi khẽ nở nụ cười mỉm. “Hoàng thượng lại nhớ tới mấy muội muội rồi ư?”

    Y đưa mắt nhìn tôi, khẽ nói: “Nàng là Hoàng quý phi của Đại Chu, đâu cần phải đích thân hầu hạ ta như thế, những việc này cứ kêu đám nô tài tới là được rồi.”

    Tôi cười, nói: “Lẽ nào Hoàng thượng bây giờ chê thần thiếp vụng về, hầu hạ không chu đáo hay sao?” Hơi dừng một chút tôi lại nói tiếp: “Tất thảy mọi người trong hậu cung đều có chức trách hầu hạ Hoàng thượng, thần thiếp tuy là hoàng quý phi nắm quyền quản lý hậu cung nhưng mọi vinh sủng đều do Hoàng thượng ban cho, thần thiếp bấy lâu nay chưa từng dám quên điều này, do đó chỉ biết dốc lòng dốc sức hầu hạ Hoàng thượng để báo đền ơn ấy mà thôi.”

    Y hơi nhếch khóe môi, dường như muốn cười, một lát sau mới trầm ngâm nói: “Chưa từng dám quên ư?”

    Tôi nhìn y chăm chú, cung kính đáp: “Dạ.”

    Y tựa người trên gối, bên khóe môi thấp thoáng một tia như cười mà chẳng phải cười, sau đó bỗng đưa tay ra hiệu cho tôi lại gần. Tôi thầm kinh ngạc nhưng vẫn không đổi sắc mặt mà lẳng lặng tiến lại gần y thêm một chút. Bàn tay y lúc này vô cùng gầy guộc, trên người thì tỏa ra mùi thuốc rất nồng cùng với một thứ mùi tàn tạ chỉ có ở người bệnh, ngoài ra còn thấp thoáng mùi son phấn nữa.

    Tự nơi đáy lòng tôi bất giác thầm cười lạnh, thời gian qua, tuy Trinh Nhất Phu nhân vẫn luôn ở bên hầu hạ Huyền Lăng nhưng nàng ta bấy lâu nay chưa từng dùng loại son phấn có mùi nồng như thế này, cho nên nó nhất định là do một sủng phi khác lưu lại. Tôi giữ nguyên vẻ bình thản nhưng lại âm thầm nín thở, không muốn hít phải những thứ mùi buồn nôn tỏa ra từ trên người y.

    Y đưa tay tới chậm rãi vuốt ve búi tóc của tôi, động tác hết sức nhẹ nhàng, thế nhưng lòng tôi thì lại như nổi sóng, cảm giác buồn nôn không ngớt trào dâng, phải cố hết sức mới nín nhịn được. Y ghé đến bên tai tôi, khẽ nói: “Hoàng quý phi, trước đây nàng chưa bao giờ nói ra những lời khách sáo như thế với trẫm.”

    Tôi hơi nghiêng đầu, lẳng lặng rời xa thân thể của y, khẽ cười, nói: “Trước đây Hoàng thượng cũng chẳng bao giờ gọi thần thiếp là Hoàng quý phi.”

    Y chậm rãi nở nụ cười, bàn tay dừng lại trên búi tóc của tôi, trầm ngâm nói: “Đúng thế, trước đây trẫm chưa từng gọi nàng như vậy, trước đây...”

    Hoàng quý phi, tôi vĩnh viễn chẳng thể nào quên tôi vì đâu mà có được thứ tôn hiệu cao quý tột cùng này, mỗi lần nghe người khác gọi mình như thế, tôi đều thấy lòng đau như cắt, phải cố hết sức mới không để những giọt lệ tuôn rơi.

    Hoàng quý phi, trong mắt người khác, đó là thứ đại diện cho quyền lực vô thượng, nhưng với tôi mà nói thì lại là nỗi đau lớn nhất trong đời.

    Một hồi lâu sau, mãi tới khi tôi sắp nghẹt thở, y mới chậm rãi buông tay xuống, chăm chú nhìn tôi, nói: “Trẫm vốn muốn sờ mái tóc của nàng, thế mà lại sờ phải những thứ đồ trang sức châu ngọc tột cùng băng giá.”

    Tôi cố kìm nén không để tim mình đập loạn, nói giọng vui đùa: “Dạ phải, Hoàng thượng vốn muốn sờ mặt của thần thiếp, thế nhưng lại sờ phải một lớp son phấn rất dày, thực là quá chán ngán.”

    Ánh mắt Huyền Lăng có chút thâm trầm bất định, đồng thời lại có chút ngẩn ngơ mơ màng, giọng nói thì đầy vẻ phiêu hốt: “Đúng thế, nàng bây giờ đã là nữ nhân tôn quý nhất trong chốn hậu cung này rồi, tất nhiên phải trang điểm lộng lẫy thì mới áp chế được những người khác.” Y lặng lẽ suy nghĩ một lát, nơi đáy mắt toát ra một tia dịu dàng khó tả. “Trẫm chợt nhớ lại những ngày tháng trước đây, khi đó trẫm và nàng đang tránh nóng ở Thái Bình hành cung, chiều tối đến rảnh rỗi không có việc gì liền cùng nhau hóng mát, mái tóc của nàng buông xõa, chẳng có thứ đồ trang sức nào, nàng cứ thế gối đầu trên đùi trẫm, mái tóc dài bồng bềnh tựa mây, thực là đẹp biết nhường nào.”

    Y đột nhiên nhắc lại chuyện từ thời xưa cũ, giọng nói thì dịu dàng như một áng mây màu đẹp đẽ trên đỉnh núi, như thể muốn dựa vào đó để nhấn chìm người ta.

    Tôi có chút ngẩn ngơ, hồn phách như đã bay ra khỏi Tử Áo Thành, tiếng chuông ngân vang ở chùa Cam Lộ từ rất nhiều năm trước vang vọng mãi bên tai, tôi và y đang cùng nhau ngồi trên con thuyền nhỏ giữa dòng sông mênh mang phía dưới chùa Cam Lộ. Những vì sao lấp lánh đầy trời cùng in bóng xuống dòng sông, những cây bèo giữa sông đung đưa lay động, chèo nghỉ thuyền dừng, con thuyền của chúng tôi tựa như đang ở giữa dòng sông Ngân lấp lánh. Y nắm chặt lấy bàn tay tôi, tôi tựa đầu lên gối y, vì đang để tóc tu hành nên mái tóc dài của tôi được buông xõa, chẳng hề có thứ đồ trang sức nào. Chiếc áo dài màu xanh của y vừa mềm mại vừa mang đầy cảm giác thân thiết, giọng nói thì hệt như tiếng chuông gió dịp tháng Ba: “Đêm xưa chẳng chải đầu, tóc xõa buông hai vai.” Tôi cất giọng uyển chuyển tiếp lời: “Gối tình lang tựa khẽ, nhìn sao thật đáng yêu.” Y mỉm cười đưa tay kéo tôi vào lòng, ngón tay luồn vào mái tóc tôi. Ở trong lòng y lúc nào cũng có một thứ mùi thơm thanh nhã, ấy chính là mùi hoa đỗ nhược.

    Những tháng ngày đó mới là quãng thời gian vui vẻ nhất trong cuộc đời này của tôi, tiếc là nó thật ngắn ngủi biết bao. Sống mũi tôi bỗng cay cay, chừng như sắp rơi nước mắt, liền vội vàng ngoảnh đầu đi hướng khác. Thoáng chỉnh lại xiêm y, tôi quay đầu lại nhìn thẳng vào mắt Huyền Lăng, chậm rãi gỡ bỏ những thứ đồ trang sức trên đầu xuống, lại gỡ búi tóc ra để mái tóc dài buông xõa như dòng thác, sau đó mới khẽ cất tiếng hỏi y và cũng là tự hỏi chính mình: “Là thế này đúng không?”

    Trong mắt Huyền Lăng lập tức thoáng qua một nét mừng vui vô hạn. “Hoàng quý phi, dung nhan của nàng chẳng khác gì trước kia.”

    Vậy ư? Dung nhan vẫn như xưa, nhưng người xưa thì sớm đã rời khỏi cõi đời này rồi.

    Mặc cho dung nhan không đổi khác, nếu người thương đã chẳng còn, vậy thì tấm dung nhan ấy là dành cho ai xem đây? Còn có ý nghĩa gì nữa đây? Chẳng qua chỉ như một bông hoa giữa nơi vắng vẻ, tự nở tự tàn.

    Nghĩ tới đây, lòng tôi bỗng như thắt lại, ôn tồn nói: “Đa tạ Hoàng thượng ngợi khen.”

    Thế rồi hai chúng tôi đều im lặng, tưởng chừng như sự tĩnh lặng sẽ kéo dài mãi. Chợt bên ngoài điện vang lên vài tiếng sấm, bầu không khí lại càng ẩm thấp hơn. Cuối cùng vẫn là Huyền Lăng lên tiếng trước, giọng nói nghe rất hờ hững: “Mới mùa xuân mà thời tiết thật là oi bức quá.”

    Tôi nghe thấy thế bèn mỉm cười, đứng dậy nói: “Dạ phải. Vừa rồi Yến Nghi muội muội có bảo nhà bếp hầm sẵn canh sâm mang tới đây, để thần thiếp hầu hạ Hoàng thượng ăn tạm một chút, vừa hay có thể đề thần bổ khí.”

    Tôi bèn xúc một thìa canh sâm lên nếm thử xem nhiệt độ đã vừa chưa, sau đó mới đưa tới bên miệng y.

    Huyền Lăng uống được mấy ngụm canh, tinh thần đã tốt lên một chút, bèn tựa người vào gối tán gẫu với tôi. Tôi chọn lấy mấy việc triều chính quan trọng nói lại với y, y gật đầu, nói: “Nàng xử lý tốt lắm.”

    Tôi vẫn cúi đầu kính cẩn, dịu dàng nói: “Thần thiếp vốn ngu muội, nhờ đi theo Hoàng thượng xem tấu sớ mấy năm, lại thường xuyên được nghe lời dạy bảo, vậy nên mới học được một chút vỏ bề ngoài, tất thảy đều do Hoàng thượng thánh minh đó thôi.”

    Y cất giọng ngợi khen: “Nàng cực kỳ thông minh, đây là điều mà ai cũng rõ, bằng không, dù trẫm có nâng đỡ thế nào thì nàng cũng chẳng thể có được ngày hôm nay.”

    Tôi nói: “Thần thiếp khi xử lý sự vụ có nhiều lúc lực bất tòng tâm, những việc lớn rốt cuộc vẫn phải nhờ Hoàng thượng làm chủ. Do đó mong Hoàng thượng hãy chú ý giữ gìn long thể, sớm ngày khang phục.”

    Y mỉm cười nhìn tôi chăm chú. “Tất nhiên là vậy rồi, hơn nữa trẫm sớm ngày khang phục không chỉ là vì nàng, còn là vì Hàm Nhi của chúng ta nữa.” Y chợt ngoảnh đầu ngó nghiêng khắp xung quanh, khẽ cất tiếng hỏi: “Hàm Nhi không theo nàng tới thỉnh an ư? Trẫm đã mấy ngày chưa gặp nó rồi.”

    Tôi bất giác thầm chấn động, lại chậm rãi múc một thìa canh sâm nữa bón cho y. “Hồi sáng thằng bé có tới thỉnh an rồi, có điều khi đó Hoàng thượng còn đang ngủ nên nó không dám quấy rầy. Bây giờ có lẽ nó đang theo sư phụ luyện viết chữ, lũ trẻ con hiếm có khi nào chịu tĩnh tâm mà hạ bút như vậy. Hàm Nhi dạo này cũng thường xuyên đòi tới gặp phụ hoàng đấy, đợi lát nữa thần thiếp sẽ kêu người gọi nó tới đây.”

    Huyền Lăng gật đầu, nói: “Nó có tấm lòng hiếu thảo như thế thật là hiếm có, nhưng việc luyện chữ cũng không thể bỏ bê được, nàng phải để ý đốc thúc đấy. Còn chuyện thỉnh an thì trẫm với nó vốn là cha con ruột thịt, gặp nhau lúc nào chẳng được, đâu cần để ý tới cái sự nhất thời.”

    Huyền Lăng cố ý nói nhấn bốn chữ “cha con ruột thịt”, ánh mắt như vô tình như hữu ý lướt qua khuôn mặt tôi.

    Tôi hé môi cười, nói: “Dạ phải! Tính tình của cha con thường giống nhau nhất đấy. Nghe sư phụ của Hàm Nhi nói thằng bé rất thích đọc Sở từ, thật chẳng khác gì Hoàng thượng.”

    Sau khi lấp liếm qua quýt, tôi lại nhớ tới một việc cực kỳ khó mở miệng, bèn trù trừ nói tiếp: “Có việc này làm thần thiếp hết sức khó xử, tuy đã bàn bạc với Quý phi và Đức phi mấy lần rồi nhưng vẫn chẳng có cách giải quyết, xin Hoàng thượng đưa ra chủ ý giúp cho.”

    Y khẽ “ồ” lên một tiếng, uể oải nói: “Lại có việc mà nàng không thể quyết định được ư? Hãy nói ra trẫm nghe xem nào.”

    Tôi cau mày thở dài, than: “Quý phi và Đức phi vào cung đã lâu, biết nhiều hiểu rộng, vốn cũng không khó đưa ra quyết định, có điều việc này có liên quan đến thể diện của hoàng gia, thần thiếp không thể không xin Hoàng thượng đưa ra chủ ý. Vốn Hoàng thượng đang bệnh, thần thiếp kỳ thực không nên nói ra mấy lời này.”

    Tôi làm bộ muốn nói mà lại thôi, Huyền Lăng tất nhiên đã nảy lòng nghi ngờ, bèn cau mày nói: “Nàng mau nói đi.”
    “Tôn Tài nhân ở Cảnh Xương cung tư thông với thị vệ, hiện giờ đã bị Đức phi cấm túc trong cung của mình, chỉ còn đợi Hoàng thượng hạ chỉ xem nên xử trí như thế nào thôi.”

    Lời của tôi không hề mềm mỏng, còn gọn ghẽ chẳng mang theo một tia tình cảm nào, tựa như đao búa bổ thẳng vào tai y.

    Huyền Lăng biến hẳn sắc mặt, cất giọng khàn khàn vẻ không dám tin: “Nàng nói cái gì?”

    Trong số các phi tần mới vào cung gần đây, Tôn Tài nhân thông minh, xinh đẹp, được Huyền Lăng ân sủng. Có điều mấy tháng nay Huyền Lăng đổ bệnh, tất nhiên chẳng thể sủng hạnh cô ta rồi.

    Hoàng thượng vừa mới đổ bệnh, sủng phi đã vội vã chạy đi tư thông với người ta, như vậy rõ ràng là coi y như người sắp chết, chẳng thèm để vào trong mắt. Huyền Lăng thân là cửu ngũ chí tôn, có lý nào mà lại chẳng bừng bừng nổi giận.

    Tôi cất giọng hờ hững: “Tôn Tài nhân tư thông với người ta, xin Hoàng thượng đưa ra ý chỉ xem nên xử trí thế nào.”

    Huyền Lăng giận dữ điên cuồng, mặt mũi tái xanh. Y đột ngột vung tay hất tung bát canh mà tôi đang cầm, làm nước canh bắn ra đầy đất. Tôi chẳng có tâm tư để ý tới việc gì khác, vội vàng quỳ xuống, nói: “Hoàng thượng bớt giận.”

    Y cố hết sức kìm nén cơn giận trong lòng, trầm giọng nói: “Chuyện không liên quan tới nàng.”

    Tôi rơm rớm nước mắt, nói: “Đều tại thần thiếp không tốt, lẽ ra không nên nói việc này với Hoàng thượng mới phải.”

    Y dùng sức vỗ mạnh xuống giường, nhưng vì người đang yếu quá nên tiếng vỗ không hề vang, giọng nói thì đầy vẻ tức giận: “Cái gì mà không nên nói với trẫm chứ, chuyện xảy ra từ bao giờ? Nàng mau nói rõ ràng mọi việc cho trẫm biết đi!”

    Tôi cố hết sức xoa lưng cho Huyền Lăng và khuyên y bớt giận, kế đó liền chậm rãi kể: “Tôn Tài nhân đã quen người đó từ khi còn ở trong khuê các, chắc hẳn là hai bên tâm đầu ý hợp, à không, là sớm đã gian díu với nhau. Sau khi Tôn Tài nhân vào cung, người đó vẫn chẳng chịu nguội lòng, mới tìm cách trở thành thị vệ để có thể trà trộn vào cung gặp lại Tôn Tài nhân. Thường ngày bọn họ qua lại với nhau thế nào thì thần thiếp không rõ, nhưng đêm hôm trước, sau khi Đức phi và Hân Phi tới thỉnh an Hoàng thượng xong thì đã rất muộn, bèn quay về cung của mình luôn, chẳng ngờ khi đi qua Cảnh Xương cung thì lại nghe thấy có tiếng động lạ vang lên giữa khóm hoa sau tường... Cảnh Xương cung của Tôn Tài nhân vốn nằm ở nơi vắng vẻ, vào giờ đó sẽ chẳng có ai đi qua, chỉ vì Hân Phi muốn đưa Đức phi về nên mới tình cờ chọn con đường đó, sự việc cũng vì vậy mà bại lộ. Đức phi vốn nắm quyền hiệp trợ quản lý lục cung, nghe thấy tiếng động ấy thì cho rằng có cặp cung nữ, thái giám nào đó đang làm chuyện bậy bạ, tất nhiên là không thể cho qua, bèn dẫn hai ả cung nữ đi vào, chẳng ngờ lại nhìn thấy Tôn Tài nhân và gã cuồng đồ kia đang ra sức điên loan đảo phượng với nhau ngay dưới bụi hoa, chẳng biết trời đất gì nữa cả... Đức phi lập tức cho người bắt giữ hai kẻ đó lại, kêu Hân Phi tới cung của thần thiếp để bẩm báo lại việc này.” Tôi đưa mắt liếc qua thấy Huyền Lăng có vẻ càng lúc càng tức giận, mới dè dặt nói tiếp: “Thần thiếp từ khi chưởng quản lục cung tới giờ chưa từng gặp phải chuyện như vậy, thậm chí chưa từng nghe nói đến, khi vội vã chạy tới nơi thì thấy hai người đó vẫn mồ hôi đầm đìa, mà chiếc áo yếm màu đỏ thêu hình uyên ương của Tôn Tài nhân thì đang treo trên dây lưng của gã cuồng đồ kia, chứng cứ hết sức rõ ràng, căn bản không thể chối cãi. Thần thiếp đành sai người nhốt Tôn Tài nhân lại, đồng thời đày gã cuồng đồ kia vào Bạo thất.”

    Chiếc áo yếm màu đỏ thêu hình uyên ương của Tôn Tài nhân treo trên dây lưng của gã cuồng đồ kia, đó là một cảnh tượng ướt át đến cỡ nào cơ chứ? Huyền Lăng khi nghe thấy câu đó, sắc mặt quả nhiên trở nên vô cùng khó coi, cơ hồ sắp nứt toạc ra tới nơi.

    Tôi càng miêu tả kĩ càng tường tận thì Huyền Lăng lại càng có cảm giác như được tận mắt nhìn thấy, dù có nhắm mắt lại thì trong đầu vẫn hiện lên cảnh tượng kia, không thể nào bình tĩnh lại được.

    Mấy cơn gió thổi vào khiến những bức rèm mỏng trong điện quấn rít vào nhau, tựa như muốn bay đi mất, tiếng sấm phía ngoài thì càng lúc càng lớn, chậu trúc cảnh để trên bệ cửa sổ bị gió thổi làm cho lung lay liên tục. Tôi đứng dậy đi đóng cửa sổ lại, tiếng sấm đã bị chặn ở bên ngoài, thế nhưng bầu không khí vẫn vô cùng ngột ngạt.

    Một hồi lâu Huyền Lăng không nói năng gì, lồng ngực phập phồng dữ dội, cuối cùng y mới gằn giọng hỏi: “Gã cuồng đó... là người như thế nào?”

    Tôi ung dung đáp: “Một gã cuồng đồ như thế vốn chẳng đáng nhắc đến, kẻo lại làm bẩn tai Hoàng thượng.”

    Huyền Lăng chỉ nói ra một chữ ngắn gọn: “Nói.”

    Tôi làm ra vẻ rất khó mở lời, sau khi lén nhìn thần sắc y mới nói tiếp: “Là một gã thị vệ tướng mạo chẳng ra gì, thậm chí còn rất xấu, gia cảnh thì hết sức tầm thường, trong nhà không có ai có quan tước gì cả.”

    Nếu đó là một thiếu niên phong lưu tuấn tú hoặc là một bậc anh hùng hay tài tử có chỗ nào đó hơn người, có lẽ Huyền Lăng sẽ dễ chịu hơn một chút, nhưng lúc này biết người khiến mình bị cắm sừng chỉ là một kẻ tầm thường như vậy, chẳng biết Huyền Lăng sẽ tức giận đến mức độ nào nữa.

    Tôi quan sát một chút, biết y đã tức giận đến cực điểm, bèn khẽ nói: “Chuyện này bây giờ đã bị làm ầm lên đến độ mọi người đều hay biết, thần thiếp và Quý phi, Đức phi đều không dám tự tiện làm chủ, đành đến xin ý chỉ của Hoàng thượng. Hoàng thượng có muốn ban thủ dụ không ạ?”

    “Mọi người đều hay biết?” Huyền Lăng giận dữ điên cuồng, trên trán nổi rõ gân xanh. “Hai đứa tiện nhân vô liêm sỉ đó lại dám làm một việc bẩn thỉu như vậy, ban thủ dụ thì chỉ làm bẩn thủ dụ của trẫm thôi! Nàng mau thay trẫm đi truyền khẩu dụ...” Trong mắt y lóe lên một tia hung tợn tột cùng. “Giết! Ngũ mã phanh thây!”

    Y là một người rất trọng thể diện, làm sao lại chịu ban thủ dụ để lưu lại chứng cứ cho sự ô nhục của mình. Tôi chỉ cung kính nói: “Thần thiếp lĩnh chỉ, ắt sẽ xử lý thỏa đáng việc này. Hoàng thượng xin hãy nghỉ ngơi!” Tôi lại để lộ vẻ tự trách, nói tiếp: “Tất cả đều tại thần thiếp, thần thiếp không thể thay Hoàng thượng trông coi hậu cung cẩn thận, vậy nên mới xảy ra việc hôm nay khiến Hoàng thượng phiền lòng. Thần thiếp thật vô dụng quá!”

    Huyền Lăng xua tay, nói: “Ái phi mau đứng dậy đi! Nàng phải thay trẫm phê duyệt tấu chương, lại phải chăm sóc mấy đứa nhỏ, tự lo cho mình đã vất vả lắm rồi.” Sau đó y lại cất giọng hậm hực: “Quý phi, Đức phi và Trinh Nhất Phu nhân đúng là vô dụng, có tới ba người mà chẳng thể trông coi hậu cung, thật phí công trẫm ban cho họ ngôi vị cao như thế.”

    Tôi không khỏi cảm thấy ấm ức thay cho bọn họ, bèn nói: “Hoàng thượng nói vậy là trách nhầm ba vị nương nương rồi. Đoan Quý phi xưa nay vốn yếu đuối nhiều bệnh, chỉ một lòng ở Thông Minh điện chủ trì việc cầu phúc cho Hoàng thượng. Trinh Nhất Phu nhân không phải người ưa quản việc, sau khi Hoàng thượng đổ bệnh thì thường xuyên ở lại Hiển Dương điện chăm sóc long thể, vô cùng vất vả. Đức phi thì vừa phải chăm sóc cho các vị Hoàng tử, Công chúa lại vừa phải lo liệu mọi việc trong cung, cũng rất khó khăn… Dù sao chốn hậu cung cũng có rất nhiều việc vặt, làm sao mà lo được tất cả. Nhưng lần này quay về, thần thiếp nhất định sẽ bảo bọn họ cẩn thận, không để xảy ra chuyện như vậy nữa.”

    Huyền Lăng nghe thấy thế thì không kìm được lộ vẻ xót thương, chậm rãi nói: “Thực là khó cho các nàng quá, trẫm vừa đổ bệnh là mọi việc đều đổ lên đầu mấy nữ tử yếu ớt các nàng, các Hoàng tử thì hãy còn nhỏ.”

    Tôi ôn tồn nói: “Vì Hoàng thượng, bọn thần thiếp có thể làm bất cứ chuyện gì, chỉ mong Hoàng thượng sớm ngày khang phục, như thế bọn thần thiếp mới có thể yên tâm được.”

    Sau khi trò chuyện thêm một lát, tôi liền rót trà cho Huyền Lăng uống, đang định khuyên y nằm xuống thì chợt nghe ngoài điện có tiếng huyên náo. Tôi không kìm được hơi cau mày, nhưng vẫn dịu giọng nói: “Chẳng rõ bên ngoài xảy ra chuyện gì, thần thiếp xin phép ra ngoài xem thử.”

    Y khẽ gật đầu, nói: “Nàng đi đi.”

    Hóa ra ở bên ngoài, Khang Tần đang nôn nóng muốn vào thỉnh an, nhưng vì có lời dặn dò của tôi nên Lý Trường không cho cô ta vào. Cô ta thấy tôi đi ra thì vội vàng nhún gối hành lễ, đồng thời cung kính nói: “Hoàng quý phi nương nương như ý kim an!”

    Hồi tôi mới vào cung thì Khang Tần Sử thị hãy còn là một mỹ nhân, nhưng sớm đã thất sủng. Về sau, nhờ có mấy tháng ở chung với tôi nên khi Huyền Lăng đại phong cho hậu cung, cô ta cũng được tấn phong làm Khang Quý nhân, rồi dần dần tuy không còn được Hoàng thượng ân sủng nữa nhưng cô ta dù sao cũng là một người đã vào cung từ sớm, do vậy bây giờ đã ngồi lên được ngôi tần.

    Tôi xưa nay vốn không ưa tính khí của cô ta lắm, trong lòng lại đang có điều phiền muộn, bèn hờ hững nói: “Sao ngươi lại tới đây?”

    Cô ta có chút nôn nóng nhưng khuôn mặt lại lộ rõ nét mừng vui, hình như đang có tin tốt lành muốn bẩm báo. Thấy tôi hỏi han, cô ta liền vui vẻ nói: “Khởi bẩm Hoàng quý phi, thần thiếp thứ nhất là tới đây thỉnh an Hoàng thượng, thứ hai là muốn chúc mừng Hoàng thượng và nương nương. Uông Quý nhân ở cùng cung với thần thiếp có tin mừng rồi.”

    Mí mắt bất giác nảy lên một cái, tôi kinh ngạc thốt lên: “Cái gì?”

    Uông Quý nhân cũng là một người được Huyền Lăng sủng ái trong hai năm vừa rồi.

    Mấy năm nay liên tiếp có những đợt tuyển tú được tổ chức, số lượng sủng phi bên cạnh Huyền Lăng càng lúc càng nhiều. Hơn nữa mỗi người bọn họ đều trẻ trung, xinh đẹp, trên người có mang một chút bóng dáng của Thuần Nguyên Hoàng hậu ngày xưa, đương nhiên, chỉ là một chút mà thôi.

    Huyền Lăng có bao nhiêu nữ nhân trẻ trung, xinh đẹp như thế ở bên cạnh, tất nhiên là dễ dàng bị cuốn vào những cuộc ân ái triền miên.

    Tôi thân là Hoàng quý phi chưởng quản hậu cung, không chỉ cần chủ trì tuyển tú cho Huyền Lăng, còn phải thay y quản lý các phi tần, bèn ban phượng dụ: “Nếu không có thai thì ngôi vị không thể vượt quá quý nhân, cũng không được ban cho phong hiệu.”

    Do đó ngay cả các quý nhân, thường tại hay nương tử đắc sủng cũng đều phải lấy họ làm hiệu.

    Có điều, ngoài tôi và Vệ Lâm ra thì không ai hay biết rằng Huyền Lăng kỳ thực đã không thể có con được nữa. Dưới sự dẫn dắt khéo léo của tôi, các phi tử vào cung đã lâu, địa vị tôn quý đều ra sức đàn áp những người mới vào, nên những người đó vốn không thể có con và không có ngôi vị cao, giờ lại bị cuốn vào những cuộc tranh đấu không ngừng, tất nhiên là không thể gây nguy hại cho địa vị của tôi.

    Vẻ vui mừng trên mặt Khang Tần càng lúc càng rõ ràng. “Dạ, là Uông Quý nhân, nàng ta có thai đã được ba tháng rồi.” Với tính cách cố hữu, Khang Tần tất nhiên cho rằng đến báo tin mừng thế này bản thân sẽ được thơm lây, bởi đó dù sao cũng là phi tần ở cùng một cung với cô ta. Hơn nữa, nếu sau này Hoàng đế tới thăm thì cô ta cũng có cơ hội được diện thánh.

    “Ba tháng?” Tôi lẩm nhẩm lặp lại hai chữ ấy một lần, nơi đáy lòng bất giác thầm cười lạnh. Huyền Lăng đổ bệnh đã được bốn tháng rồi, có điều chẳng rõ trong thời gian này có từng sủng hạnh Uông Quý nhân lần nào hay không. Song bất kể là mấy tháng đi chăng nữa, đứa bé đó cũng không thể là của Huyền Lăng được.

    Tôi hãy còn chưa thể nắm chắc, sau khi suy nghĩ bèn gọi Lý Trường qua một bên, hỏi: “Bốn tháng nay Uông Quý nhân có từng thị tẩm lần nào không?”

    Lý Trường suy nghĩ một lát rồi đáp: “Hình như là không, vì sau khi Hoàng thượng đổ bệnh thì phi tần thị tẩm chủ yếu là Nhậm Nương tử, Lý Tuyển thị và hai vị đại tiểu Lưu Mỹ nhân.”

    Tôi khẽ gật đầu, đó không phải con của Huyền Lăng thì sao chứ? Tôi đã cho phép Hoài Thục Công chúa được sinh ra, mà tôi cũng chưa từng bạc đãi thân mẫu của con bé là Giang Thấm Thủy, còn đối xử rất tốt nữa là đằng khác.

    Tôi đang trả thù.

    Tôi ngoảnh đầu nhìn về phía Huyền Lăng ở sâu trong đại điện, rất nhanh đã nảy ra chủ ý, một nụ cười tươi tắn tức thì hiện lên bên khóe miệng. “Đây thực đúng là việc mừng! Hoàng thượng vừa mới thức dậy, Khang Tần mau theo ta vào thỉnh an đi, nhân tiện chúc mừng Hoàng thượng luôn.”

    Khang Tần cẩn thận chỉnh lại xiêm y, sau đó khẽ cất tiếng hỏi tôi: “Nương nương, thần thiếp ăn vận thế này không tính là thất lễ chứ?”

    Tôi cười tủm tỉm, nói: “Ổn lắm rồi, ngươi nhìn ta đây này.” Lúc này mái tóc của tôi chỉ vừa được búi lại một cách qua loa, bên trên không có món đồ trang sức nào. Cô ta lập tức cười bợ đỡ. “Nương nương dù có ăn mặc thế nào thì cũng là một trang quốc sắc thiên hương.”

    Tôi dẫn Khang Tần tới trước mặt Huyền Lăng. Đã lâu rồi cô ta chưa diện thánh nên lúc này không khỏi có chút hồi hộp và căng thẳng. Huyền Lăng đưa mắt nhìn cô ta một lát rồi cất giọng nghi hoặc hỏi tôi: “Nàng ta là ai vậy?”

    Lời này vừa nói ra, Khang Tần lập tức đờ người, không nói nổi một câu nào. Tôi vội vàng cười giả lả, nói: “Hoàng thượng bận rộn việc nước, gần đây lại không được khỏe, khó tránh khỏi có chút đãng trí. Vị này là Khang Tần ở Vạn Xuân cung, hôm nay tới đây để thỉnh an Hoàng thượng.”

    Huyền Lăng khẽ “ồ” lên mấy tiếng, lại nói: “Trước đây từng có một vị Sử Mỹ nhân...”

    Khang Tần để lộ vẻ mừng rỡ tột cùng. “Chính là thần thiếp, không ngờ Hoàng thượng vẫn còn nhớ. Trước đây Hoàng thượng thích nhất là cái mũi của thần thiếp đấy.”

    Huyền Lăng suy nghĩ một chút rồi nói: “Vậy ư? Hình như không được giống lắm nữa rồi. Nàng tới thỉnh an đó ư? Trẫm hơi mệt rồi, nếu không có việc gì thì nàng lui sớm đi.”
    Tôi thấy Huyền Lăng đã rất mỏi mệt, lại không muốn gặp Khang Tần lắm, bèn vội vàng nói: “Khang Tần đã lâu rồi chưa diện kiến thánh thượng, mau khấu đầu thỉnh an đi!”

    Khang Tần hiểu ý, lập tức quỳ xuống khấu đầu. “Thần thiếp cung chúc Hoàng thượng thánh thể an khang, chúc mừng Hoàng thượng!”

    Huyền Lăng vừa mới nổi nóng, bây giờ hãy còn chưa hết giận, chợt nghe Khang Tần chúc mừng thì khó tránh khỏi có chút không vui, bèn nói: “Trẫm thì có việc mừng gì?”

    Khang Tần nghe thấy thế liền vội vàng mỉm cười, đáp: “Chúc mừng Hoàng thượng! Uông Quý nhân ở cung của thần thiếp đã mang thai rồng được ba tháng rồi. Mấy ngày nay nàng ta nôn ọe rất nhiều, thái y qua khám và khẳng định đúng là nàng ta đã mang thai.”

    Nghe thấy tin này, Huyền Lăng vô cùng mừng rỡ, thần sắc tức thì tốt hẳn lên, không ngớt cười vang, nói: “Thưởng! Thưởng! Mau đi truyền chỉ cho trẫm, phong Uông Quý nhân làm lương đệ tòng ngũ phẩm, Khang Tần làm thuận nghi tòng tứ phẩm, lại thưởng thêm cho tất cả cung nhân ở Vạn Xuân cung ba tháng bổng lộc.” Huyền Lăng vô cùng mừng rỡ, quay sang nói tiếp với tôi: “Trong cung đã mấy năm không có tin vui như vậy rồi, chẳng ngờ vẫn còn có hôm nay!”

    Tôi mỉm cười, nói: “Chúc mừng Hoàng thượng, có tin mừng như vậy chứng tỏ thân thể Hoàng thượng sắp bình phục rồi. Đã mấy năm nay trong cung không có tiếng trẻ sơ sinh khóc, đợi sau này tiểu Hoàng tử ra đời, Hoàng thượng nhất định phải tấn phong cho Uông Lương đệ thêm lần nữa và ban thưởng cho toàn thể lục cung đấy.”

    Huyền Lăng trong cơn mừng rỡ định đứng dậy khoác áo tới Vạn Xuân cung thăm Uông Lương đệ, tôi vội vàng ngăn lại: “Hoàng thượng muốn đi thăm Uông Lương đệ thì chọn ngày nào mà chẳng được, cớ gì cứ phải là hôm nay? Người hãy tĩnh dưỡng thêm đã, chờ lúc nào khỏe hẳn rồi hãy đi.” Sau đó tôi chỉ tay ra ngoài cửa sổ. “Trời có lẽ sắp mưa rồi.”

    Huyền Lăng vỗ tay, nói: “Đã khiến ái phi chê cười rồi, đều tại trẫm mừng quá đấy mà.”

    Tôi mỉm cười nhắc nhở: “Hoàng thượng chớ nên mừng quá mà quên mất, phi tần có thai thì cần ghi chú mấy dòng vào Đồng sử, đây mới là việc quan trọng nhất hiện giờ.”

    Huyền Lăng cầm tay tôi, cười nói: “May mà có nàng nhắc nhở, bằng không trẫm đã quên mất việc này rồi. Mau kêu Lý Trường mang Đồng sử tới đây đi, trẫm phải xem xem mình đã sủng hạnh Uông Lương đệ vào ngày nào.”

    Chỉ một tuần hương sau Lý Trường đã mang Đồng sử tới. Huyền Lăng vui vẻ nói: “Lần này trẫm phải đích thân viết mới được.”

    Tôi lẳng lặng nhìn thần sắc vui vẻ của y, cũng khẽ nở nụ cười.

    Chỉ thấy Huyền Lăng vội vã lật mở Đồng sử được mấy trang, nhưng rồi động tác càng lúc càng chậm lại, cuối cùng bàn tay như cứng đờ ra đó. Tôi lập tức hiểu ra là có chuyện gì, quả nhiên nhìn thấy thần sắc y dần trở nên lạnh lẽo, cuối cùng thì quay qua hỏi Sử Thuận nghi vừa mới được tấn phong: “Nàng nói... nàng ta có thai được bao lâu rồi?”

    Sử Thuận nghi thấy Huyền Lăng đột nhiên biến sắc mặt thì không biết là có chuyện gì xảy ra, nụ cười trở nên cứng đờ bên khóe miệng, nhưng vẫn chỉ biết trả lời bằng giọng vui vẻ: “Hồi bẩm Hoàng thượng, Uông Lương đệ có thai được ba tháng rồi.”

    “Ba tháng?” Trong giọng nói của Huyền Lăng dường như ẩn chứa một cơn giận dữ điên cuồng, một tiếng “xoạt” vang lên, y đột nhiên ném thẳng Đồng sử vào mặt Sử Thuận nghi, quát bảo: “Nàng ta mới có thai được ba tháng, nhưng trẫm đã bốn tháng nay không sủng hạnh nàng ta. Nàng nói đi! Cái thai này của nàng ta là từ đâu ra?”

    Phía chân trời bỗng vang lên một tiếng sấm đì đùng rất lớn, rồi những hạt mưa lạnh băng chợt đổ xuống rào rào, tựa như muôn vàn lưỡi dao sắc bén cắm thẳng xuống mặt đất để phát tiết nỗi oán hận vô cùng vô tận của kẻ đế vương.

    Nụ cười bên khóe miệng càng lúc càng rõ ràng, thế nhưng tôi vẫn làm bộ kinh hãi mà thốt lên: “Hoàng thượng...”

    Khuôn mặt Huyền Lăng vốn tái xanh giờ bỗng xuất hiện những tia màu đỏ tươi, tuy thê lương nhưng cũng diễm lệ, hệt như một vầng tà dương màu đỏ máu, đỏ đến đáng sợ.

    Tôi chưa từng nhìn thấy vẻ mặt đáng sợ như thế ở Huyền Lăng. Lý Trường sợ đến nỗi vội vàng quỳ sụp xuống đất khấu đầu. Huyền Lăng nhanh chóng khoác áo đứng dậy, rảo bước đi tới tát mạnh một cái vào khuôn mặt trắng nõn của Sử Thuận nghi. Sử Thuận nghi không ngừng run rẩy, hệt như một phiến lá khô giữa làn gió dữ, ngay đến khóc cũng không dám.

    Huyền Lăng đột nhiên chạy đến trước cửa sổ, dùng sức đẩy bung cửa sổ ra, trong mắt bừng lên những tia dữ tợn như muốn giết người.

    Tôi vội vàng lao đến trước mặt y, đưa tay nắm lấy góc áo của y rồi quỳ xuống khóc lóc, nói: “Hoàng thượng nhất định phải bảo trọng long thể, ngàn vạn lần không được dầm mưa!”

    Những hạt mưa lạnh lẽo không ngớt bay vào từ ngoài cửa sổ khiến đầu óc tôi càng tỉnh táo thêm mấy phần. Tôi vừa khóc lóc vừa khuyên nhủ, Sử Thuận nghi thì sớm đã bị biến cố đột ngột này làm cho sợ đến nỗi đờ người ra đó. Lý Trường sau một thoáng sững sờ cũng lê gối lên phía trước, nói: “Hoàng thượng đừng vì một nữ nhân mà làm hại đến long thể. Ả Uông thị đó, Hoàng thượng muốn chém muốn giết thế nào thì chỉ cần nói một câu là được rồi, Hoàng thượng... Hoàng thượng... người không thể dầm mưa như thế được!”

    Quá nửa người Huyền Lăng lúc này đã ướt đẫm nước mưa, chiếc áo ngủ màu vàng tươi bị ngấm nước biến thành màu nâu sậm như màu đất, còn dính sát vào tấm thân gầy yếu của y. Trên đỉnh Hiển Dương điện lúc này chợt vang lên mấy tiếng sấm dữ dội làm tai người ta cứ ong ong không ngớt, đầu óc thì choáng váng quay cuồng vô cùng khó chịu.

    Huyền Lăng đột nhiên dùng sức rất mạnh kéo tôi dậy từ trên mặt đất, lại lột bỏ áo ngoài của tôi làm chiếc áo yếm màu trắng thêu hình hoa sen màu đỏ tôi mặc bên trong bị lộ ra ngoài. Tôi không kìm được kêu lên kinh hãi: “Hoàng thượng, người sao vậy?”

    Ánh mắt Huyền Lăng lúc này như cuồng như si, trong cơn ngẩn ngơ, y khẽ cất tiếng lẩm bẩm: “Cũng trong một ngày trời mưa sấm chớp thế này, trẫm nấp phía sau màn, nhìn thấy mẫu phi bị vương thúc ôm chặt trong lòng, tay của vương thúc còn để trong vạt áo trước ngực mẫu phi. Phụ hoàng... Người là thiên tử cơ mà!” Y đột nhiên kêu lên điên cuồng, tiếng kêu ấy sau nháy mắt đã át hẳn tiếng sấm bên ngoài điện. “Trẫm cũng là thiên tử! Tại sao các nàng đều phản bội trẫm? Tại sao đều phản bội trẫm như vậy?”

    Gần như cùng lúc ấy, một dòng máu đỏ tươi đột ngột phun ra từ trong cổ họng y và bắn đầy lên chiếc áo yếm của tôi, màu đỏ của bông sen bên trên đó nhanh chóng bị nhấn chìm.

    Là máu, lại là máu... Ngày đó máu tươi của y cũng ngấm vào vạt áo trước ngực tôi như thế, tôi không kìm được kêu lên thất thanh: “Thái y... Thái y đâu rồi?”
     
  6. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 21: Bóng chiếc đơn côi xiết thê lương
    Khi tôi từ trong Hiển Dương điện trở ra thì đã là nửa đêm rồi.

    Mưa lớn đã ngừng rơi, nhưng trong không khí vẫn còn lưu lại sự thanh tân mát mẻ cùng với những làn hương hoa nồng đậm khiến người ta cảm thấy thư thái vô cùng.

    Bước chân của tôi nặng nề như thể dính vào mặt đất, trong lòng tuy mang những mối tâm sự trùng trùng nhưng mọi sự tính toán gần như đều đã xong xuôi.

    Ngoài điện, các cung nhân, phi tần chen chúc quỳ đầy khiến người ta nhìn mà sinh lòng bức bối, có mấy phi tần trẻ tuổi đắc sủng còn đang khóc lóc nghẹn ngào. Tôi nhìn mà thầm phiền muộn, bèn lạnh lùng đưa mắt lướt qua, thấy người cầm đầu đám phi tần đang khóc chính là Vận Quý tần, tự đáy lòng lập tức sinh lòng chán ghét, bèn hất hàm ra hiệu cho Tiểu Doãn Tử đi lên phía trước, ánh mắt nhìn chằm chằm vào Vận Quý tần, trong giọng nói toát ra những tia băng giá: “Vả miệng Vận Quý tần cho ta!”

    Vận Quý tần đột ngột ngẩng lên, trừng mắt nhìn tôi, nói: “Hoàng thượng đang đổ bệnh, thần thiếp tốt xấu gì cũng từng hầu hạ Hoàng thượng, chẳng lẽ ngay đến khóc một tiếng mà cũng không được?”

    Tôi không thèm để ý tới cô ta, Tiểu Doãn Tử khẽ cất tiếng hỏi: “Xin hỏi Hoàng quý phi, cần vả bao nhiêu cái đây ạ?”

    Tôi chỉnh lại xiêm y, nói: “Vả đến khi nào cô ta ngừng khóc thì thôi.”

    Giọng của tôi không hề lớn, cũng không có vẻ gì là tàn độc, thế nhưng cái sự lạnh lùng ẩn chứa bên trong thì đã hết sức rõ ràng. Vận Quý tần còn muốn tranh luận tiếp nhưng Tiểu Doãn Tử làm sao chịu cho cô ta cơ hội mở lời thêm, lập tức vung tay tát cho cô ta một cái thật mạnh. Trước Hiển Dương điện lúc này có treo vô số ngọn đèn lồng đỏ rực to như cái đấu, phía dưới thì gắn những dải tua màu vàng rực rỡ, ánh sáng tỏa ra làm sáng tỏ cả một khoảng không gian rộng rãi, thế nhưng thấp thoáng bên trong đó lại là một nỗi thê lương khó mà diễn tả bằng lời.

    Giữa màn đêm tĩnh lặng, bốn phía hiu hiu gió thổi, nhưng lại không hề mang tới cảm giác lạnh giá. Đoan Quý phi lúc này đang dẫn đầu các phi tần quỳ ở một bên, thỉnh thoảng lại có vài tiếng khóc thút thít vọng lại, hệt như tiếng sủi bọt trong hồ nước, chỉ vụt nổi lên rồi rất nhanh sau đó đã biến mất hoàn toàn.

    Bàn tay Tiểu Doãn Tử không ngừng đánh lên khuôn mặt tuy mịn màng nhưng đã trở nên tái nhợt của Vận Quý tần, những tiếng “bốp bốp” giòn tan vang lên nghe hệt như tiếng pháo nổ ngày tết, giữa bầu không khí tĩnh lặng thế này lại càng dễ khiến lòng người chấn động.

    Tôi giữ nguyên vẻ bình tĩnh, nói bằng giọng không nhanh không chậm: “Hoàng thượng hãy còn chưa băng hà, các ngươi đã vội khóc lóc cái gì? Tất cả nghe kĩ cho bản cung, không ai được khóc ở đây cả, mau về cung của mình hết đi!”

    Rốt cuộc vẫn là mấy người Quý phi, Đức phi lớn gan, lẳng lặng bước lên phía trước, nôn nóng hỏi: “Hoàng thượng rốt cuộc thế nào rồi? Có chuyện gì xảy ra mà bệnh tình của ngài lại phát tác ghê gớm như vậy? Trinh Nhất Phu nhân sau khi hay tin còn chưa ra khỏi Không Thúy điện thì đã ngất lịm rồi, đến bây giờ hãy còn chưa tỉnh, chúng ta biết phải làm sao đây?” Đoan Quý phi lúc này đang được Cát Tường dìu đỡ, tuy thần sắc vẫn còn bình tĩnh nhưng cũng đã có mấy nét nôn nóng lộ ra rồi. Tôi đưa mắt liếc nhìn nàng ta, thở dài than: “Hoàng thượng vẫn chưa có dấu hiệu sẽ tỉnh, còn rốt cuộc là vì sao thì trong thời gian ngắn khó mà nói ra cho rõ được. Ngày tháng sau này hãy còn dài, nếu bây giờ Hoàng thượng không cầm cự được, sau này tha hồ có thời gian cho chúng ta khóc. Mọi người mau về hết đi, nơi này đã có thái y rồi, cứ ở lại đây khóc lóc thì cũng có giúp được gì đâu.”

    Đức phi ân cần hỏi: “Vậy nên để ai ở lại hầu hạ Hoàng thượng đây? Hay là cứ cho các phi tử có địa vị cao luân phiên nhau túc trực?”

    Tôi suy nghĩ một lát rồi lập tức nảy ra chủ ý: “Ai ở lại cũng không được. Nữ nhân chúng ta cứ mỗi khi gặp chuyện là tâm chí lại mềm yếu, còn hay khóc nữa, nếu để Hoàng thượng nghe thấy ngài ắt sẽ phiền lòng, hơn nữa nếu chúng ta ở bên thì các vị thái y khi chữa trị cho Hoàng thượng sẽ bị vướng chân vướng tay, còn chẳng bằng mọi người đều trở về cung của mình chờ tin. Sau khi Hoàng thượng tỉnh dậy, ngài muốn gặp ai thì tự nhiên sẽ tuyên triệu người đó thôi.”

    Trong mắt Đoan Quý phi lộ rõ những nét âu lo, nhưng thấy tôi cũng có vẻ tâm sự trùng trùng thì nàng ta rốt cuộc không nói gì thêm nữa.

    Tôi xoay người lại nhìn về phía các phi tần khác, cất giọng uy nghiêm: “Hoàng thượng lâm bệnh hôn mê, thái y dặn dò là phải tĩnh tâm an dưỡng, kể từ ngày hôm nay, bất kể là ai cũng không được tới Hiển Dương điện làm ồn, dù là tới để thỉnh an thì trước tiên cũng phải diện kiến bản cung, chờ sau khi thái y đồng ý thì mới được vào tấn kiến. Phi tần các cung cũng nhớ phải trông nom công chúa và hoàng tử của mình cho tốt, nếu ai để cho lũ nhỏ đến quấy rầy Hoàng thượng thì bản cung sẽ trừng phạt thật nặng, quyết không dung tha!”

    Tôi thấy Lý Trường đang đứng hầu ngay bên cạnh, chợt nhớ tới một việc, bèn cất tiếng dặn dò: “Thiệu thái y chủ trì việc chữa bệnh cho Hoàng thượng không chỉ không hết lòng hết sức, đã thế còn làm Hoàng thượng phiền lòng, bệnh tình đến bây giờ vẫn chưa thuyên giảm. Lý Trường, lập tức sai thị vệ chém đầu hắn cho bản cung!”

    Lý Trường chấn động toàn thân, không dám chậm trễ, lập tức sai người đi làm ngay. Chỉ một tuần trà sau y đã quay lại bẩm báo: “Đã xử trí xong rồi.”

    Khi Vận Quý tần bị đánh thì còn có mấy phi tần dám thút thít vài tiếng, nhưng chờ khi hay tin về cái chết của Thiệu thái y thì không còn ai dám ho he thêm tiếng nào. Tôi thấy các phi tần vốn xinh đẹp như hoa như ngọc lúc này đều lộ ra bộ dạng như chim sợ cành cong, bèn ôn tồn nói: “Bây giờ mọi việc đều phải lấy long thể của Hoàng thượng làm trọng, ai mà dám gây tổn hại đến sức khỏe của Hoàng thượng thì đừng trách bản cung không nể cái tình tỷ muội bấy lâu nay! Gã thái y họ Thiệu kia chính là bài học nhãn tiền đấy!”

    Mọi người đều phiền muộn, thế nhưng ở lại thì cũng chẳng ích gì, thế là tất cả đành vâng vâng dạ dạ rồi rời đi.

    Giải quyết Thiệu thái y xong, tôi bất giác thầm thở phào một hơi tự đáy lòng. Trước mắt dù có bao nhiêu mưa dông bão tố thì tôi cũng chỉ có thể bình tâm mà ứng phó với từng chuyện mà thôi, không thể nôn nóng được, hơn nữa tôi đã đi tới bước này rồi thì chỉ có thể tiếp tục đi về phía trước, chẳng thể nào quay đầu được nữa.

    Tôi dằn lòng lại, ngồi lên kiệu loan, lạnh lùng nói: “Về cung.”

    Khi tôi về đến cung của mình thì đã gần tới canh ba rồi. Tôi trước tiên qua chái điện thăm Linh Tê, Dư Hàm và Tuyết Phách, bọn chúng dù sao cũng vẫn còn nhỏ, trong lòng không có tâm sự gì, lúc này sớm đã chìm vào giấc ngủ say. Nhìn khuôn mặt ngây thơ của lũ nhỏ, trái tim vốn vẫn luôn thấp thỏm lo âu của tôi bất giác dần bình yên trở lại.

    Tôi suy nghĩ một chút rồi ngoảnh đầu qua dặn dò Tiểu Doãn Tử: “Đi gọi Vệ thái y tới đây.”

    Vì tôi triệu gấp, Vệ Lâm lập tức tới ngay. Tôi cũng không hàn huyên gì với y, chỉ để yên cho Cận Tịch hầu hạ tôi ngâm tay. Các phi tần trong cung khi ngâm tay thường thích đem cánh hoa tươi thượng hạng ra rửa sạch, sau đó ép thành nước, mục đích chính là để cho đôi tay được mịn màng, trắng nõn. Vệ Lâm còn nghĩ ra một cách mới, đó là đun nóng nước hoa hồng mà tôi dùng để ngâm tay hằng ngày, sau đó trộn thêm bột ngọc trai đã được nghiền mịn vào trong, khi ngâm tay phải lựa lúc ấm nóng để ngâm, chờ khi nguội thì thay nước, cứ như vậy liên tục ba lần là cả mu bàn tay, ngón tay và các đốt ngón tay đều trở nên hết sức mềm mại, nõn nà, hiệu quả so với ngâm bằng nước hoa thông thường thì tốt hơn hẳn.

    Sau khi đã thay hai lần nước, tôi vẫn không để ý gì tới y, cũng không nói năng một câu nào cả. Y cứ thế đứng im một chỗ chờ đợi, một hồi lâu sau, hai tai đã bắt đầu rỉ đầy mồ hôi.

    Tôi chẳng hề ngẩng lên, chỉ bình tĩnh nói: “Vệ Lâm, bản cung rất thích cái bản lĩnh hầu hạ người khác của ngươi, xét kĩ ra tâm tư của ngươi đúng là vô cùng tinh tế. Nhưng bản cung xưa nay dùng người chưa từng đặt nặng mấy thứ ấy, điều bản cung muốn là kẻ được dùng phải biết ghé mắt nhìn vào những chỗ quan trọng.”

    Vệ Lâm bất giác đỏ mặt tía tai, lập tức cung kính nói: “Dạ.”

    Tôi bất giác mỉm cười. “Vệ Lâm, người biết hứa hẹn thì rất nhiều, nhưng bản cung chỉ thích những người được việc thôi. Có một số việc nếu ngươi làm không tốt, bản cung hoàn toàn có thể không giao cho ngươi làm nữa.”

    Y cúi gằm mặt xuống, trên trán cũng rỉ đầy mồ hôi. “Vi thần nhất định sẽ dốc hết sức mình, núi đao biển lửa quyết chẳng từ nan.”

    Tôi cất giọng ôn tồn: “Chắc ngươi cũng biết giữa Ôn Thực Sơ và ngươi, bản cung kỳ thực xem trọng ngươi hơn rất nhiều.” Thoáng trầm ngâm một chút, tôi lại nói tiếp: “Bây giờ ngươi đã là người đứng đầu Thái y viện rồi...”

    Vệ Lâm vội vàng quỳ xuống, nói: “Vi thần cũng biết là mình được Hoàng quý phi xem trọng, chuyện Thiệu thái y quả thực là sơ suất của vi thần.”

    Tôi khẽ mỉm cười, ra hiệu cho Cận Tịch đi tới đỡ y dậy, đoạn chậm rãi nói: “Ngồi đi. Hoa Nghi, mau đi pha một ấm trà Long Tỉnh mới tiến cống năm nay cho Vệ thái y.”

    Vệ Lâm vừa ngồi xuống, nghe thấy câu ấy liền vội vàng đứng lên. “Vi thần không dám!”

    Tôi cười, nói: “Chỉ dựa vào sự trung thành của ngươi với bản cung bấy lâu nay là cũng xứng với ấm trà Long Tỉnh ấy rồi. Bản cung xem trọng ngươi không chỉ vì ngươi y thuật cao minh, mà còn bởi so với Ôn Thực Sơ thì ngươi hiểu quyền mưu hơn, cũng biết cách làm sao để khiến toàn bộ Thái y viện đều im miệng.” Tôi bỗng đổi giọng, lạnh lùng nói tiếp: “Có điều bản cung cảm thấy mình thật sự thua kém Hoàng hậu nhiều quá, năm xưa nàng ta chỉ là quý phi mà có thể khiến tất cả thái y phải nghe lời, không hề để lộ chuyện nàng ta hãm hại Thuần Nguyên Hoàng hậu, thế mà bây giờ lại có một gã họ Thiệu nhảy ra làm mưa làm gió, không để bản cung vào trong mắt. Chẳng lẽ bản lĩnh dùng người của bản cung lại thua kém Hoàng hậu nhiều đến thế ư?”

    Hơi thở của Vệ Lâm vốn đã bình ổn lập tức lại trở nên dồn dập, chén trà trong tay thiếu chút nữa thì rơi xuống đất. Y trầm ngâm một lát rồi mới lộ vẻ nghiêm túc, nói: “Không phải nương nương không bằng Hoàng hậu, chẳng qua là năm xưa Hoàng thượng vì chuyện của Nhiếp chính vương mà không tin tưởng mọi người ở Thái y viện, chỉ tin vào tình tỷ muội của Hoàng hậu với Thuần Nguyên Hoàng hậu, do đó Hoàng hậu mới có thể khống chế Thái y viện trong tay. Bây giờ Hoàng thượng có lòng bồi dưỡng thân tín của mình, Thiệu thái y vừa ngửi thấy mùi cơ hội liền lập tức hành động. Đều tại vi thần không kịp thời để ý, vi thần đảm bảo sau này sẽ không bao giờ có chuyện như vậy xảy ra nữa.”

    Tôi khẽ gật đầu, nói: “Mong là lời đảm bảo của ngươi hữu dụng, bằng không, không chỉ bản cung phải chết mà ngươi cũng khó lòng sống được.”

    Vệ Lâm khom người, nói: “Vi thần tuy bất tài nhưng cũng biết rằng phải hết lòng với chức trách. Nương nương yên tâm, vi thần đã xem xét kĩ rồi, Hoàng thượng mới chỉ bảo Thiệu thái y điều tra về tam điện hạ, chưa hề phát hiện ra chuyện gì khác.”

    Tôi cười nhạt một tiếng, cúi đầu nhìn đôi bàn tay trắng nõn chẳng khác gì đang ngâm trong chậu máu tươi của mình. “Nếu y đã phát hiện ra chuyện gì khác, ngươi cho rằng bản cung và ngươi còn có thể sống được đến bây giờ sao? Có điều Hoàng thượng dù gì cũng đã sinh lòng nghi ngờ rồi, vậy thuốc của Hoàng thượng chắc đã là mấy thang thuốc cuối cùng rồi chứ?”

    Vệ Lâm bất giác lộ ra mấy tia kinh sợ, nhưng rất nhanh sau đó đã cung kính nói: “Mọi việc bây giờ đều phụ thuộc vào nương nương, nương nương muốn Hoàng thượng điều dưỡng thêm một thời gian nữa cũng được, muốn thang thuốc tới là thang thuốc cuối cùng của Hoàng thượng cũng không có gì là khó.”

    Tôi đưa mắt nhìn bầu trời nặng nề, u ám bên ngoài cửa sổ, bất giác cảm thấy mỏi mệt vô cùng, bèn khẽ thở dài một tiếng. “Đêm dài thường lắm mộng, bản cung đi nghỉ trước đây.”

    Vệ Lâm khẽ nở nụ cười, cúi đầu thưa: “Vi thần xin phép cáo lui.”

    Tôi dõi nhìn theo bóng lưng y, sau đó liền đi tới ngồi trước bàn trang điểm để Hoa Nghi và các thị nữ hầu hạ mình tẩy trang đi nghỉ, trong lòng trào dâng muôn vàn mối tâm sự.

    Nhìn Hoa Nghi giúp mình gỡ búi tóc ra, tôi quay sang nói với Cận Tịch: “Hôm nay có một chuyện kỳ quặc quá, bây giờ nghĩ lại ta vẫn còn thấy tức cười.”

    Cận Tịch mỉm cười, hỏi: “Chuyện gì vậy ạ?”

    Hoa Nghi nhúng lược vào nước hoa đào rồi giúp tôi chải tóc, tôi nhìn mái tóc dài bóng mượt của mình qua chiếc gương đồng, nhẹ nhàng cất tiếng: “Hôm nay Hoàng thượng chợt nhắc lại chuyện cũ từ hồi ta còn thích xõa tóc, còn cảm khái rằng ta bây giờ trang điểm hoa lệ quá, đầu đầy châu ngọc, ta nghe thấy thế, lại lần lượt gỡ bỏ những món đồ trang sức trên đầu mình xuống và buông xõa mái tóc ra ngay trước mặt Hoàng thượng. Khi gặp Khang Tần, ta cũng chỉ búi tóc qua loa một chút mà thôi. Càng nực cười hơn là khi Hoàng thượng nói tới chuyện xưa, trong lòng ta lại đang nghĩ về chuyện khác. Cả hai người bọn ta đều mang nỗi cảm khái trong lòng, thế nhưng lại là vì những chuyện khác nhau.”

    Cận Tịch im lặng một lát rồi nói: “Cứ để mặc y thôi.”

    Lòng tôi bất giác thầm chua xót, bèn thấp giọng nói: “Ta cũng biết dù có nghĩ thì cũng chẳng ích gì, nhưng lại không cầm lòng được, đành coi đó như một giấc mộng đẹp thôi.”

    Cận Tịch thấy tôi lộ vẻ thương cảm liền nói: “Chuyện về Uông Quý nhân mà nương nương sai nô tỳ điều tra, nô tỳ đã điều tra rõ ràng rồi.”

    Tôi không hề ngạc nhiên, Cận Tịch đã sống trong chốn hậu cung này lâu đến độ sắp thành tinh rồi, muốn điều tra việc gì tất nhiên không phải là chuyện khó, do đó chỉ cất giọng hờ hững: “Nhanh vậy ư?”

    Cận Tịch ung dung đáp “vâng” một tiếng, sau đó liền nhất nhất kể rõ ngọn ngành sự việc: “Quý nhân Uông thị là đích nữ của Tri phủ Dương Thành, vào cung từ tháng Tư năm Càn Nguyên thứ hai mươi chín, ban đầu được phong làm tuyển thị, sau trở thành nương tử, mỹ nhân, mãi tới gần đây mới được tấn phong làm quý nhân. Trong số những người mới vào cung, cô ta có thể coi là khá đắc sủng, nhưng sau khi trở thành quý nhân được chừng một tháng thì Hoàng thượng dần dần chuyển tâm tư qua chỗ mấy người đại tiểu Lưu Nương tử, thành ra đã mấy tháng nay cô ta chưa được sủng hạnh.”

    “Vậy cái thai của cô ta...”

    “Trước đây khi còn đắc sủng, Uông Quý nhân từng ngày ngày uống những loại thuốc giúp dễ có thai, hy vọng có thể sinh được một vị hoàng tử làm chỗ dựa sau này. Về sau bản thân thất sủng, Hoàng thượng lại đổ bệnh, cô ta tất nhiên mười phần lo lắng, bèn nảy ra một kế sách hòng mong leo lên được ngôi vị cao hơn. Hiện giờ, việc canh phòng trong cung không còn nghiêm ngặt như trước, mà nhà cô ta thì lắm tiền nhiều của, lại không ngại tốn kém, cô ta bèn nhờ người nhà kiếm một gã nam nhân đem giấu trong xe vận chuyển nước để đưa vào cung, cái thai của cô ta chính là từ đó mà ra.”

    Tôi cười lạnh. “Khang Tần cũng thật hồ đồ, cùng ở trong một cung mà lại chẳng hay biết gì cả, đúng là trò cười.” Sau đó lại hỏi: “Chủ vị của Vạn Xuân cung là ai thế?”

    “Là Vận Quý tần.”

    Tôi nhớ tới việc xưa, lại nghĩ đến chuyện cô ta hôm nay dám cãi lại mình trước Hiển Dương điện, bèn nói: “Quả nhiên là hạng người ngoài mạnh trong yếu, ở trước mặt ta thì dám phô trương ra vẻ, nhưng quay về cung của mình rồi thì lại trở thành một kẻ vô dụng chẳng được việc gì.”

    Cận Tịch nói: “Quả đúng là như vậy. Chuyện của Uông Quý nhân, cả nhân chứng vật chứng đều có đủ, nương nương định xử trí thế nào đây?”

    “Thương thay cho cô ta một lòng muốn leo lên ngôi cao.” Tôi trầm giọng nói. “Nhưng bây giờ việc đã bại lộ thì không thể trách ta được. Nếu cô ta có nỗi khổ riêng như Tôn Tài nhân thì ta còn có thể giúp đỡ giống như giúp Anh Quý tần, nhưng chỉ vì tranh sủng mà làm ra chuyện như vậy thì ta quyết không dung tha.”

    “Uông Quý nhân, Khang Tần, Vận Quý tần...” Tôi đưa tay vuốt cằm, trầm ngâm nói. “Xử trí từng người một hiển nhiên là không tiện, bây giờ lại đang nhiều việc, làm vậy thực là gai mắt quá, hơn nữa chuyện của Uông Quý nhân cũng không tiện làm ầm lên.” Trong mắt chợt lóe ánh tinh quang, tôi mỉm cười, nói: “Hãy phong cung đi!”

    Cận Tịch suy nghĩ một lát, đôi hàng lông mày bất giác dãn dần ra. “Biện pháp phong cung mới chỉ được dùng một lần trong thời tiên đế Long Khánh Đế. Khi đó, vì chuyện đón Thư Quý phi vào cung mà Chúc Tu nghi ở Thừa Quang cung đã dẫn theo các cung tần trong cung của mình tới trước Nghi Nguyên điện mà than khóc, tiên đế bừng bừng nổi giận, bèn hạ chỉ phong cung, mãi tới sau này, khi Thanh Hà Vương của Thư Quý phi đã tròn năm tuổi mới thả cho họ ra ngoài. Trong mấy năm đó, Thừa Quang cung thê lương chẳng khác gì lãnh cung, chẳng qua là ngôi vị của những người bên trong vẫn còn mà thôi. Hiện giờ bệnh tình của Hoàng thượng trở nặng là do Khang Tần mà ra, Vận Quý tần thân là chủ vị của Vạn Xuân cung hiển nhiên cũng khó tránh khỏi can hệ.”

    Tôi mỉm cười, nói: “Mấy năm nay, người mới vào cung không ngớt, ta đã cố tình không quá lưu tâm tới việc canh phòng trong cung, mục đích chính là chừa chỗ cho những chuyện thị phi, qua đó làm y phiền lòng. Chẳng ngờ các cung tần mới vào ấy chẳng có ai là hạng đơn giản cả, người nào cũng giỏi gây chuyện, ta mới chỉ hớ hênh một chút thôi mà bọn họ đã thi nhau giở phép thần thông ra rồi.”

    Cận Tịch lặng im một lát rồi mới nói: “Bấy lâu nay Hoàng thượng vốn ham mê chuyện chăn gối, thân thể chẳng hề cường kiện, thời gian qua còn dùng thuốc cường dương để ứng phó với các sủng phi mới vây quanh, tất nhiên là khó lòng cầm cự được trước một phen biến cố đột ngột xảy ra.”

    Tôi cất giọng lạnh lùng: “Y làm sao ngờ nổi ta lại đối xử với y như thế chứ, ai ai cũng nghĩ ta là một phi tử hiền đức tột cùng...”

    Cận Tịch cắt ngang lời tôi, đưa khăn bông nóng tới giúp tôi lau mặt. “Nương nương quả thực là một vị phi tử hiền lương thục đức, vì mong Hoàng thượng rộng bề con cái mà mấy năm nay đã liên tục tổ chức tuyển tú để chọn thêm người vào hậu cung.”

    Tôi không kìm được cất tiếng cười khẩy giễu cợt, nụ cười dần lan tỏa tới tận nơi khóe mắt. “Chỉ đáng tiếc, Hoàng thượng hiện giờ sớm đã chẳng thể có con được nữa rồi. Ta cho nới lỏng việc canh phòng vốn là để Tôn Tài nhân tiện bề hành sự, không ngờ Uông Quý nhân lại thừa cơ làm ra một chuyện như thế.”

    Cận Tịch nói: “Hạng người như Uông Quý nhân vốn cứ thấy chỗ nào sơ hở là đâm đầu vào, chỉ mong có thể leo lên đầu người khác, chúng ta lần này quả thực đã sơ suất rồi.”

    Tôi lấy chiếc khăn bông từ trên mặt xuống, tiện tay để vào trong chiếc chậu bạc bên cạnh, sau đó lại cầm một chiếc khăn sạch khác đắp lên mặt, trầm giọng nói: “Những ngày qua, tinh thần của ta quả thực kém đi nhiều quá, vừa phải trông coi việc ở tiền triều lại vừa phải chăm sóc cho mấy đứa nhỏ, thực khó có lúc nào rảnh rỗi để nghỉ ngơi. Đoan Quý phi vốn sức yếu hay bệnh, không thể thường xuyên quản việc được, Đức phi tuy rằng không tệ nhưng trước đây chỉ có cái tiếng hiệp trợ quản lý lục cung thôi, Hoàng hậu chưa từng để cho nàng ta quản việc lớn bao giờ, do đó cơ hội rèn luyện không nhiều, bây giờ phải trông coi toàn bộ hậu cung hiển nhiên là có chút lực bất tòng tâm, khó tránh khỏi sơ suất.”

    Cận Tịch nói: “Nô tỳ thấy nương nương thường ngày vẫn hay để tâm quan sát, chắc hẳn sớm đã nhìn ra Hân Phi và Trinh Nhất Phu nhân đều là người đáng tin cậy.”

    Tôi thở dài, than: “Hân Phi vào cung đã lâu, kinh nghiệm cũng nhiều, Trinh Nhất Phu nhân thì sinh được nhị Hoàng tử, ấy là một công lao rất lớn. Chỉ đáng tiếc Hân Phi bụng dạ thẳng tuột, nói năng chẳng biết kiêng dè gì, Trinh Nhất Phu nhân thì là người cực kỳ sợ chuyện, xưa nay dù chuyện có tìm tới tận cửa cũng vẫn cố gắng mà tránh đi, bảo ta làm sao mà yên tâm giao công giao việc vào tay bọn họ được đây!”

    Cận Tịch bất ác hơi cau mày lại. “Nương nương nói rất phải, nhưng ngoài mấy vị ấy ra thì chúng ta chẳng có ai khác đáng tin cậy để ao trọng trách cả, thực đã vất vả cho nương nương rồi.”

    Tôi bỏ chiếc khăn bông trên mặt xuống, khẽ cất tiếng hỏi: “Lung Nguyệt năm nay đã mười tuổi rồi đúng không?”

    Hai mắt Cận Tịch bất giác sáng rực lên, nơi khóe miệng thoáng lộ nét cười. “Dạ phải, nếu là một cô nương con nhà bình thường thì vào tuổi này đã phải theo mẫu thân học quản gia rồi, có điều nếu là ở gia đình hào môn quyền quý thì mười tuổi e rằng vẫn chỉ là trẻ con thôi.”

    Tôi trầm tư suy nghĩ một lát rồi nói: “Công chúa nơi cung đình không giống với các thiên kim hào môn chẳng phải lo nghĩ việc gì. Lung Nguyệt từ nhỏ đã nhanh nhẹn, quyết đoán, đã đến lúc để nó rèn luyện một chút rồi. Hơn nữa bây giờ nó đang ở trong cung của Đức phi, rất tiện cho việc này. Trong số các vị công chúa thì Thục Hòa đã gả chồng, Ôn Nghi thì tính tình yếu đuối, Lung Nguyệt chính là lựa chọn thích hợp nhất rồi.”

    Cận Tịch cười tươi rạng rỡ, nói: “Dạ phải, nhớ lại tình cảnh Lung Nguyệt Công chúa giúp nương nương đối phó với Chu Nghi Tu trước đây, khó ai có thể ngờ được đó lại là chủ ý của một đứa bé mới bảy, tám tuổi. Công chúa của chúng ta từ nhỏ đã tâm tư tinh tế, lại là do nương nương rứt ruột đẻ ra, quả thực rất đáng để dốc lòng bồi dưỡng.”

    Tôi đứng bật dậy, đuổi tất cả những người khác đi, nắm chặt lấy bàn tay Cận Tịch, trịnh trọng nói: “Cận Tịch, sau khi ta vào cung, dù đã phải trải qua mấy phen chìm nổi nhưng ngươi trước sau chưa từng rời bỏ ta, thời an ở bên ta thậm chí còn nhiều hơn cả Hoàng thượng và Thanh. Nói một câu thực lòng, có lẽ ngươi còn hiểu rõ hơn bọn họ rằng ta đang nghĩ cái gì và muốn làm gì.”

    Cận Tịch cũng nắm lại tay tôi, xúc động nói: “Nương nương quá lời rồi, kỳ thực tình nghĩa giữa nương nương và nô tỳ đâu phải chỉ là tình chủ bộc mà thôi.”

    Tôi nói: “Bây giờ ta xin giao phó Lung Nguyệt cho ngươi, kể từ ngày mai, mỗi khi Đức phi xử lý sự vụ trong hậu cung, ngươi đều phải cùng Lung Nguyệt ở bên lắng nghe quan sát, sau đó thì kêu nó quay về kể lại kĩ càng từng việc với ta. Ngươi nhất định phải đối xử với nó giống như đối xử với ta vậy, đừng coi nó là Lung Nguyệt Công chúa mà hãy coi nó là vãn bối của ngươi, dốc lòng dạy dỗ nó.” Tôi vừa nói vừa nhìn nàng ta chăm chú. “Cận Tịch, ngươi có hiểu không?”

    Cận Tịch chậm rãi quỳ xuống, nói: “Nô tỳ nhất định sẽ dốc hết sức mình phò tá Công chúa... Không, nô tỳ sẽ không coi Công chúa như một vị công chúa bình thường mà coi như một vị trấn quốc công chúa hoặc là một vị quốc mẫu để phò tá.”

    Tôi bất giác tuôn trào lệ nóng, trầm giọng nói: “Tốt, ngươi hiểu được vậy thì tốt rồi.”

    Cận Tịch không kìm được cất giọng nghẹn ngào: “Nương nương yên tâm, chúng ta đã mong chờ, đã phải chịu khổ suốt bao nhiêu năm qua rồi, những nỗi khổ mà nương nương không nói ra nô tỳ kỳ thực đều hiểu rõ. Nương nương xin cứ yên tâm.”

    Trong lòng tôi thầm cảm kích không thôi, nhất thời chẳng nói nổi một lời nào cả. Kỳ thực muôn vàn lời nói, đủ sự khổ sở chua cay, tất cả đều đã hiển hiện sờ sờ ra trước mắt, chẳng cần nói gì thì hai bên cũng hiểu rõ rồi.

    Trong lòng mang mối tâm sự nặng nề, thêm vào đó cứ cách một canh giờ là đám thái giám ở Hiển Dương điện lại đến báo tin về bệnh tình của Huyền Lăng một lần khiến tôi không thể ngủ sâu được.

    Đang lúc tôi nằm đó, chợt có người tới gõ cửa. Hoa Nghi tò mò nói: “Bây giờ hãy còn sớm, liệu là ai đây nhỉ?”

    Sau khi mở cửa mới biết người tới hóa ra là cung nữ Hàm Châu, tâm phúc bên cạnh Đức phi. Thị khom người hành lễ cực kỳ cung kính. “Nô tỳ bái kiến Hoàng quý phi. Nương nương nhà nô tỳ lo rằng nương nương hôm qua vất vả, lại không yên tâm về Hoàng thượng, lúc này có lẽ hãy còn chưa ngủ được, do đó mới sai nô tỳ tới đây vấn an.”

    Tôi trở dậy xua tay ra hiệu cho Phẩm Nhi lui xuống, chỉ giữ Cận Tịch và Hoa Nghi ở lại bên cạnh, sau đó mới cười, nói: “Đức phi nương nương đúng là chu đáo quá, lúc này rồi vẫn còn nhớ tới bản cung, ngươi hãy quay về báo lại là bản cung vẫn khỏe.”

    Hàm Châu ngó nhìn xung quanh một chút rồi mới khẽ cất tiếng hỏi: “Nương nương nhà nô tỳ lòng dạ không yên, không thể ngủ ngon, vậy nên mới sai nô tỳ tới đây hỏi một câu, chẳng hay bệnh tình của Hoàng thượng đột nhiên trở nặng có phải vì chuyện của Tôn Tài nhân không?”

    Tôi vừa vuốt ve chiếc vòng ngọc bích trên cổ tay vừa chậm rãi nói: “Hãy về nói với nương nương nhà ngươi là không phải vì chuyện này, bảo nàng ta cứ yên tâm.” Tôi nhắm mắt suy nghĩ một lát rồi lại nói tiếp: “Mà về chuyện này, Hoàng thượng cũng đã đưa ra quyết định rồi.”

    Hàm Châu không đổi sắc mặt, quỳ xuống nói: “Nô tỳ xin lĩnh chỉ.”

    Tôi trầm tư một lát rồi mới nói: “Tước đoạt ngôi vị của Tôn thị, phế làm thứ nhân, đày vào lãnh cung. Gã thị vệ kia thì cứ giam vào bạo thất, chưa cần dùng hình... Ý của Hoàng thượng là tạm thời cứ như thế đã, chờ sau này thánh thể khang kiện thì sẽ tính tiếp.”

    Hàm Châu thấp giọng nói: “Hoàng thượng nhân từ.” Sau khi suy nghĩ một lát thị lại nói: “Đức phi nương nương còn có một việc muốn xin ý kiến của nương nương.”

    “Ngươi cứ nói đi.”

    “Hoàng thượng trước khi hôn mê từng ban khẩu dụ tấn phong cho Khang Tần và Uông Quý nhân ở Vạn Xuân cung, chủ tử nhà nô tỳ muốn xin ý kiến nương nương xem có cần làm theo khẩu dụ ấy không.”

    Tôi nhớ lại lời bẩm báo của Cận Tịch lúc vừa rồi, bèn nói: “Theo lệ thì việc tấn phong cần phải có thánh chỉ mới được, chỉ là khẩu dụ thì tất nhiên không có hiệu lực.”

    Hàm Châu đáp “vâng” một tiếng, lộ vẻ muốn nói gì đó mà lại thôi, mắt cúi nhìn mũi bàn chân mình. Tôi biết thị là tâm phúc của Đức phi, tỏ ra như vậy ắt là có điều muốn nói, bèn bảo: “Ngươi có việc gì muốn nói thì hãy nói cả ra đi.”

    “Nương nương nhà nô tỳ vô tình nghe được mấy lời đồn đại vu vơ, rằng Uông Quý nhân thời gian vừa rồi chưa từng được sủng hạnh mà lại có thai, đã thế Khang Tần còn tùy tiện đi báo tin mừng, vậy nên mới khiến bệnh tình của Hoàng thượng đột nhiên trở nặng...”

    Tôi lạnh lùng đưa mắt liếc qua phía thị, chợt lại khẽ nở nụ cười. “Tin tức của Đức phi đúng là nhanh nhạy thực. Có điều tin đồn khó nghe trong chốn hoàng cung này quả thực là nhiều lắm, mà ngươi cũng đã nói đó chỉ là lời đồn đại vu vơ rồi, vậy thì hãy coi đó như gió thoảng qua tai đi, đừng để tâm tới làm gì cho nhọc sức.”

    Hàm Châu hiểu ý, bèn nói: “Chuyện này ngay cả Đoan Quý phi cũng không biết, càng đừng nói gì tới người ngoài.” Tôi mỉm cười vui vẻ. “Vậy thì tốt. Ngươi hãy nghe cho rõ đây, Khang Tần cất lời vô lễ, cãi lại Hoàng thượng, thực là quá bất kính, mà đó cũng một phần là tại chủ vị của Vạn Xuân cung là Vận Quý tần không biết cách dạy dỗ. Kể từ ngày hôm nay, hãy phong tỏa Vạn Xuân cung, không cho bất cứ ai ra vào. Còn về việc Uông Quý nhân có thai thì chẳng qua chỉ là tin đồn nhảm mà thôi.”

    Hàm Châu thông minh tột bậc, lập tức cung kính nói: “Ý của Hoàng quý phi nô tỳ đã hiểu, tin rằng chủ tử của nô tỳ sẽ càng hiểu hơn. Mọi việc nương nương nhà nô tỳ sẽ xử lý cẩn thận, nếu có chỗ nào không ổn còn mong được nương nương chỉ dạy giúp cho.”

    Tôi cười, nói: “Tốt lắm, ngươi rất thông minh, giống như Đức phi vậy, có thể nhìn việc rõ ràng, quả là chủ nào tớ nấy.” Hơi dừng một chút, tôi mới lại ung dung nói tiếp: “Do đó năm xưa, khi bản cung rời cung mới quyết định giao Lung Nguyệt Công chúa cho nương nương nhà các ngươi nuôi dưỡng.”

    Hàm Châu cung kính cáo lui. Cận Tịch tiễn thị rời đi, sau khi quay về bèn khẽ nói: “Với tính tình của Hoàng thượng mà lại xử lý Tôn Tài nhân như vậy thì quả thực là quá nhân từ.”

    Tôi biết Cận Tịch đã sinh lòng nghi ngờ nên cũng không giấu nàng ta thêm nữa. “Lời của Hoàng thượng là... ngũ mã phanh thây.”

    Cận Tịch bất giác cả kinh bật thốt: “Vậy nương nương...”

    Tôi ngoảnh đầu qua nhìn chằm chằm vào đôi mắt nàng ta, nỗi căm hận không ngớt trào dâng tự đáy lòng. “Hoàng thượng sắp không cầm cự được nữa rồi. Dù Hoàng thượng vẫn còn khang kiện thì ta cũng sẽ nghĩ cách bảo vệ tính mạng của hai người đó. Trong cung đã có quá nhiều đôi uyên ương xấu số rồi, cứ nên bớt gây nghiệt một chút thì hơn.”

    Cận Tịch đưa tay tới nắm chặt lấy đôi bờ vai tôi. Tôi biết, thân thể mình lúc này nhất định là đang run lên lẩy bẩy. Tình phu của Tôn Tài nhân dù có xấu xí, hèn mọn đến mấy thì cũng là người mà cô ta thật lòng yêu. Người hữu tình không thể thành quyến thuộc đã đủ khổ đau rồi, hà tất phải làm hại đến tính mạng người ta, huống chi cô ta không chê gã xấu, gã cũng chẳng ngại thân phận của cô ta, chắc hẳn hai người họ yêu nhau thật lòng.

    Cận Tịch thở dài, than: “Nương nương đã từng phải trải qua chuyện này, vậy nên mới không đành lòng đó thôi.”

    Tôi đan hai bàn tay vào nhau, không kìm được lòng thầm xúc động, sau một hồi trầm lặng mới khẽ nói: “Hôm qua, tâm trạng của Hoàng thượng thay đổi không ngừng, phải chịu mấy phen kích thích, kế đó còn dầm mưa, chắc hẳn khó mà khỏe lại được. Ta cố tình đầy Tôn Tài nhân và gã thị vệ kia vào lãnh cung và bạo thất chính là để tranh thủ dịp hỗn loạn trong hai ngày tới mà đưa họ ra ngoài, coi như là giúp người thì giúp cho chót.”

    “Nô tỳ biết phải làm thế nào rồi.” Cận Tịch nói. “Nương nương đã nói là Uông Quý nhân không có thai, ý tứ bên trong chắc hẳn Đức phi cũng rõ, nhất định sẽ ép Uông Quý nhân phá thai để trừ hậu họa. Còn về Vạn Xuân cung thì sau khi bị phong tỏa nhất định sẽ chẳng khác gì lãnh cung.”

    Tôi cười, nói: “Vậy thì tốt, trong thời khắc mấu chốt này thực không nên để nảy sinh lắm chuyện thị phi.”

    Nửa đêm hai ngày sau đó, Huyền Lăng rốt cuộc đã từ từ tỉnh lại.

    Tôi hay tin liền lập tức tới Hiển Dương điện. Huyền Lăng chỉ vừa mới tỉnh, sắc mặt vàng vọt, tiều tụy vô cùng, trông hệt như một phiến lá khô trơ trọi nơi đầu cành, lúc này đang được một gã tiểu thái giám bón cho uống canh nhân sâm gà ác.

    Thấy tôi đi vào, y liền xua tay đuổi gã tiểu thái giám đang hầu hạ mình uống canh ra ngoài, cất giọng khàn khàn nói: “Nàng tới rồi đó ư?”

    Tôi nhún gối thỉnh an, đoạn mỉm cười, nói: “Khí sắc của Hoàng thượng đã tốt hơn trước nhiều rồi.”

    Y nhìn tôi chăm chú, hỏi: “Thiệu thái y đâu rồi?”Tôi không nói gì, chỉ đón lấy bát thuốc mà Lý Trường bưng tới, ôn tồn nói: “Hoàng thượng, để thần thiếp bón thuốc cho người uống nhé!”

    Y làm như không nghe thấy, sau khi ho lên sù sụ mấy tiếng liền hỏi lại lần nữa: “Thiệu thái y đâu rồi?”

    Tôi vẫn không đổi sắc mặt, còn khẽ nở một nụ cười ung dung, điềm đạm. “Thiệu thái y thân là thái y mà lại không thể chữa khỏi bệnh cho Hoàng thượng, còn làm Hoàng thượng phải phiền lòng, thần thiếp đã thay Hoàng thượng trừng trị y rồi.”

    Trên mặt y dần hiện lên một nụ cười thê lương và thấu hiểu, thấp thoáng bên trong đó còn có mấy tia giận dữ. “Nàng giết y rồi ư?”

    Tôi bình thản gật đầu. “Hoàng thượng từng dạy thần thiếp là những kẻ vô dụng thì không cần phải giữ lại làm gì.”

    “Nàng bây ờ đúng là rất biết dùng quyền thuật rồi đấy.” Vẻ giận dữ trên khuôn mặt y càng lúc càng trở nên rõ ràng. “Cũng giống như khi nàng giết Uẩn Dung, đến sắc mặt cũng chẳng hề thay đổi.”

    “Hoàng thượng đang mang bệnh thành ra đa nghi quá, Hiền phi quả thực chết vì bệnh suyễn, Hoàng thượng từng đích thân sai người điều tra rồi mà.”

    Y hơi nhếch khóe môi nở một nụ cười lạnh lẽo. “Hoàng quý phi vốn thông minh tột bậc, tất nhiên có cách để khiến bệnh suyễn của Uẩn Dung phát tác rồi.”

    Tôi vẫn giữ nguyên nụ cười bình lặng như mặt nước hồ thu bên khóe miệng. “Bệnh có sẵn từ trong thai cũng giống như bản thân tạo nghiệt, thần thiếp đâu thể làm gì được chứ!”

    Y khẽ thở dài một tiếng, cất ọng u buồn: “Nàng quả nhiên đã biết chuyện này.”

    Mùi thuốc hơi chua bỗng xộc vào mũi tôi, nhưng tôi vẫn chỉ cười điềm đạm. “Hoàng thượng anh minh thần võ, thần thiếp chỉ cần tuân theo sự chỉ dạy của Hoàng thượng là được rồi, chẳng cần biết việc gì khác cả.” Tôi cầm thìa bạc khuấy nhẹ bát thuốc đen nhánh rồi xúc một thìa đưa tới bên miệng y. “Hoàng thượng mau uống thuốc đi thôi.”

    Y bất giác né tránh theo bản năng, còn để lộ ra mấy tia nghi ngờ. Tôi cười nhạt, nói: “Chắc Hoàng thượng sợ nóng, vậy để thần thiếp nếm thử trước vậy.”

    Y nhìn tôi không chớp mắt. Tôi thì vẫn giữ nguyên vẻ bình tĩnh mà chậm rãi uống hai ngụm thuốc, không kìm được hơi cau mày lại. “Đắng quá!” Kế đó lại nở một nụ cười vui vẻ. “Có điều thuốc đắng dã tật, Hoàng thượng có thể yên tâm uống thuốc được rồi.”

    Y thoáng để lộ thần sắc thư thái, thế nhưng vẫn ngoảnh đầu qua một bên. “Nếu đã đắng đến thế thì cứ tạm thời để đó đi.”

    Tôi cúi đầu xuống, ra vẻ rất mực dịu dàng. “Dạ.”

    Phía đằng xa dường như có những tiếng khóc nghẹn ngào vọng lại, giữa màn đêm tĩnh lặng lúc này, nghe thật giống như tiếng mưa dầm dịp tiết Thanh Minh, chứa chan một nỗi bi thương đau xót khó diễn tả bằng lời. Huyền Lăng nghiêng tai lắng nghe một lát rồi chậm rãi nói: “Là các phi tần của trẫm đang khóc đấy ư? Chắc bọn họ đã biết việc trẫm chẳng còn sống trên đời này được bao lâu nữa rồi.”

    “Hoàng thượng thật chẳng biết kiêng dè gì cả.” Tôi vừa khuấy nhẹ bát thuốc trong tay vừa cất giọng dịu dàng. “Mọi người trong cung đều biết Hoàng thượng sắp băng hà, nhưng khóc sớm như vậy kỳ thực không phải là khóc cho Hoàng thượng mà là khóc cho chính bản thân mình đấy.”

    “Vậy ư? Trẫm xưa nay vẫn luôn thích cái sự thành thực này của nàng.” Nụ cười trên mặt Huyền Lăng dần trở nên ảm đạm, cặp mắt thì nhìn chằm chặp vào đôi mắt tôi, bên trong chất chứa đầy vẻ không cam tâm. Mãi một hồi lâu sau y mới nói: “Trẫm có một việc này muốn hỏi nàng.”

    Tôi cất giọng dịu dàng vô hạn: “Thần thiếp nhất định sẽ biết gì nói nấy.”

    Y thoáng do dự rồi cuối cùng vẫn hỏi: “Nó... rốt cuộc có phải là con của trẫm không?”

    Tôi ngẩng lên nhìn thẳng vào đôi mắt vì căng thẳng mà chiếu ra những tia sáng rực rỡ của y, bình thản nói: “Sao Hoàng thượng lại hỏi vậy chứ, vạn dân trong thiên hạ đều là con dân của Hoàng thượng mà.”

    Huyền Lăng không ngờ tôi lại trả lời như thế, nhất thời ngây ra, một hồi lâu sau mới cười dài đau xót. “Đúng vậy! Đúng vậy!” Rồi y nhìn tôi bằng ánh mắt sắc lẹm như dao. “Thiên hạ này chính là của trẫm, nhưng chẳng bao lâu nữa sẽ biến thành của nàng.”

    “Dạ phải, thiên hạ này chẳng bao lâu nữa sẽ là của thần thiếp, có điều...” Tôi vừa nói vừa nở một nụ cười rất mực thê lương. “Thần thiếp cần thiên hạ này để làm gì chứ, thứ mà thần thiếp muốn đã vĩnh viễn rời xa thần thiếp rồi.”

    Huyền Lăng trầm tư suy nghĩ một lát, kế đó liền cười gượng, nói: “Trẫm có lẽ đã từng có được thứ mà mình cả đời truy cầu, thế nhưng nó lại chẳng khác gì một nắm cát khô, rất nhanh đã trôi tuột mất khỏi lòng bàn tay, đến cuối cùng thì chẳng còn lại gì.” Lồng ngực y phập phồng không ngớt, hệt như sóng biển cuộn trào. “Hoàn Hoàn, đã lâu lắm rồi nàng không gọi trẫm là tứ lang. Nàng… hãy gọi như vậy thêm một lần nữa đi, được không?”

    Tôi khẽ lắc đầu, cất giọng uyển chuyển nói: “Hoàng thượng mệt rồi, nên nghỉ ngơi sớm đi. Thần thiếp xin phép cáo lui trước.”

    Trong mắt y xuất hiện những tia van cầu yếu đuối. “Hoàn Hoàn, nàng hãy gọi ta là tứ lang thêm lần nữa đi, giống như hồi nàng mới vào cung vậy.”

    Tôi khẽ nở nụ cười mỉm, thế nhưng ẩn bên trong nụ cười ấy lại là một khoảng cách vô cùng xa xôi. “Hoàng thượng, thần thiếp giờ đã ngoài ba mươi, không còn là người của năm xưa nữa rồi.” Tôi bất giác để lộ ra mấy tia buồn đau và căm hận. “Hoàn Hoàn thời mới vào cung sớm đã chết rồi, Hoàng thượng chẳng lẽ quên rồi ư? Chính người đã giết chết nàng ấy. Thần thiếp là Hoàng quý phi Chân Hoàn.”

    Ánh mắt y dần trở nên nguội lạnh giống như tro tàn, chẳng còn lấy một chút sinh cơ nào cả, giọng nói thì ngợp đầy một vẻ buồn bã tang thương: “Đúng thế! Chúng ta không thể trở lại ngày xưa được nữa rồi... Khi đó trẫm cùng Hoàn Hoàn... cùng Oản Oản... Khi đó chúng ta hãy còn trẻ trung biết bao nhiêu... Không thể nào trở lại được nữa rồi...” Y lẩm bẩm một lát rồi nhìn tôi chăm chú. “Vì lão lục mà nàng đã căm hận trẫm tới tột cùng, có đúng vậy không?”

    Tôi mỉm cười điềm đạm, nụ cười hệt như một bông tường vi đỏ tươi rạng rỡ lặng lẽ nở ra giữa vô vàn cành lá xanh mướt dịp tháng Năm. “Hoàng thượng thánh minh. Có điều chắc Hoàng thượng cũng rõ Diễm Tần mới là người căm hận Hoàng thượng nhất, bằng không tại sao nàng ta lại muốn giết Hoàng thượng như thế chứ?” Tôi gõ chiếc hộ giáp nạm ngọc vào miệng chén thuốc làm phát ra những tiếng đinh đang vui tai. “Có điều Hoàng thượng yên tâm, thần thiếp dù hận người đến mấy thì cũng sẽ dốc lòng nuôi dạy Thái tử. My Trang tỷ tỷ mà biết con của tỷ ấy và Ôn Thực Sơ sắp được ngồi lên ngôi báu, ở dưới suối vàng chắc tỷ ấy sẽ mừng rỡ vô cùng!”

    Huyền Lăng vùng đứng dậy, lộ vẻ không thể nào tin nổi, cặp mắt như lồi lên giữa khuôn mặt vàng vọt, hốc hác, từ bên trong chiếu ra những tia hung tợn tột cùng. Y mắc bệnh đã lâu, làm sao chịu nổi một sự đả kích như vậy, thân thể tức thì đổ gục xuống, vừa thở dốc vừa nói: “Con đàn bà tàn độc này, trẫm phải giết ngươi...”

    “So với sự tàn độc của Hoàng thượng khi giết chết huynh đệ thủ túc, thần thiếp cam bái hạ phong. Lấy đạo của người để trả lại cho người, thần thiếp cảm thấy như thế hãy còn chưa đủ!” Tôi cười tươi rạng rỡ, đôi bông tai bạc đính đá mắt hổ không ngớt đung đưa.

    Y vẫn không cam tâm, ra sức đập tay vào thành giường mà quát lớn: “Người đâu...”

    “Người đâu?” Tôi khẽ cười một tiếng, trông ngây thơ như hồi vừa mới vào cung. “Thần thiếp đang ở đây mà!”

    Bức màn gấm màu đỏ sậm vì những động tác dữ dội của y mà lung lay không ngớt. Tôi lùi ra xa mấy trượng, lạnh lùng nhìn cơn giận điên cuồng của y, cất giọng ôn tồn. “Hoàng thượng vừa uống canh sâm xong, tức giận như thế không có lợi cho long thể đâu.”

    Y thấy tôi chậm rãi lùi ra xa thì lại càng thêm tức giận, đưa tay tới muốn kéo tôi lại.

    Ngoài cửa sổ chỉ có tiếng gió thổi vù vù, như than như khóc. Giữa gian đại điện rộng lớn giăng vô số những bức màn, giọng nói yếu ớt của y dù là người ở ngay ngoài điện cũng khó lòng nghe thấy được, càng đừng nói gì tới đám thị vệ và cung nhân đã bị tôi đuổi ra xa.

    Y không ngừng vùng vẫy, giãy giụa, rồi dần dần không còn động đậy nữa, mọi thứ lại một lần nữa trở về với tĩnh lặng.

    Tôi chậm rãi bước tới gần y, muốn nhìn mặt y lần cuối. Chỉ thấy hai mắt y lúc này trợn trừng lên rất to, bên trong chất chứa đầy nỗi căm phẫn, cứ thế lìa đời.

    Giữa cơn mơ màng, khung cảnh như trở lại mùa xuân năm đó, những bông hoa hạnh bay lất phất đầy trời tựa như một cơn mưa bụi, y đi xuyên qua rặng liễu tới chỗ tôi, hai mắt nhìn tôi chăm chú, bên trong bừng lên những tia sáng rực. “Ta là... Thanh Hà Vương.”

    Hóa ra ngay từ đầu chúng tôi đều đã sai lầm.

    Tôi đưa tay lau những ọt lệ đang chậm rãi chảy ra bên khóe mắt, lại nhẹ nhàng vuốt mắt cho y, cuối cùng mới thướt tha đứng dậy.

    Mọi ân oán tình thù đều có thể buông xuống được rồi ư?

    Tôi chậm rãi đi tới trước cửa điện, đột ngột mở ra. Phía bên ngoài, ánh trăng lạnh lẽo chiếu rọi khắp hoàng cung, thật chẳng khác gì đêm ngày Mười bảy tháng Năm năm Càn Nguyên thứ hai mươi bảy.

    Trong lòng ngợp đầy cảm ác trống trải, tôi cất giọng bi thương vang lên tới tận chín tầng trời: “Hoàng thượng băng hà...”
     
  7. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 22: Kiếp người tựa giấc chiêm bao[39]
    [39] Trích Ô dạ đề - Tạc dạ phong kiêm vũ của Lý Dục. Dịch thơ: Nguyễn Chí Viễn. Nguyên văn Hán Việt: Toán lai phù sinh nhất mộng - ND.

    Ngày Mười một tháng Bảy năm Càn Nguyên thứ ba mươi, Huyền Lăng băng hà ở Hiển Dương điện, hưởng dương bốn mươi ba tuổi, thụy hiệu Thánh Thần Chương Vũ Hiếu Hoàng đế, miếu hiệu Hiến Tông.

    Hoàng thái tử kế vị ngay tại linh tiền, đại lễ đăng cơ được cử hành ở Thái Cực điện, chiếu chỉ sắc phong thái hậu cũng được ban ra ngay sau đó. Để tránh việc kỵ húy giữa các huynh đệ, Nhuận Nhi đổi tên thành Thư Nhuận. My Trang là mẹ ruột của Thư Nhuận nên được truy phong làm Chiêu Huệ Ý An Thái hậu, tôi là mẹ nuôi của Thư Nhuận nên đương nhiên cũng trở thành thái hậu, được vào làm chủ Di Ninh cung. Nhuận Nhi là đứa con có hiếu, lễ tôn phong thái hậu được tổ chức long trọng vô cùng, quy cách thậm chí còn vượt trên cả lễ đại hôn của hoàng đế. Vạn dân trong khắp thiên hạ không có ai là không vui mừng, các nước chư hầu và các nước lân bang của Đại Chu đều phái sứ thần tới chúc mừng Thư Nhuận đăng cơ lên làm hoàng đế, chúc mừng tôi trở thành thái hậu, đồng thời còn dâng cho tôi tôn hiệu “Minh Ý”, kể từ đó, tôi thường được gọi là Minh Ý Hoàng thái hậu. Tân đế còn ít tuổi, vốn cần Thái hậu buông rèm nhiếp chính, nhưng tôi lấy cớ nhiều bệnh để từ chối, sai Huyền Phần đảm nhận trọng trách này, còn bản thân thì chỉ thỉnh thoảng mới nói ra đôi lời từ trong chốn thâm cung.

    Ghế phượng ở trên cao như thể vượt tầng mây, thế nhưng sự ấm lạnh thì chỉ có người trong cuộc mới biết được.

    Lũ Nguyệt Khai Vân quán nay đã trở thành nơi ở của Dư Hàm, những gốc hợp hoan được mang trở lại từ Lục Nghê cư của Diệp Lan Y đều rất tươi tốt, cành lá dày đặc xanh um, khung cảnh xung quanh đã lại giống như thuở năm nào.

    Đang dịp cuối xuân, đã lác đác có những bông hợp hoan màu hồng yêu kiều khoe sắc. Hàm Nhi lúc này đang đứng dưới cửa sổ, cầm một cây bút vừa nhúng đẫm mực, nghiêm túc viết: “Khách từ phương xa tới, nửa tấm lụa tặng ta. Biệt ly ngàn vạn dặm, lòng người chẳng phôi pha. Thêu uyên ương một cặp, cắt làm chăn hợp hoan. Dùng tơ dài tô điểm, kết may viền chung quanh. Lấy keo sơn gắn chặt, chẳng thể nào cách ngăn[40].”

    [40] Trích Khách tòng viễn phương lai, không rõ tác giả. Dịch thơ: Điệp Luyến Hoa. Nguyên văn Hán Việt: Khách tòng viễn phương lai, di ngã nhất đoan ỷ. Tương khứ vạn dư lý, cố nhân tâm thượng nhĩ. Văn thái song uyên ương, tài vi hợp hoan bị. Trước dĩ trường tương ty, duyên dĩ kết bất giải. Dĩ giao đầu tất trung, thuỳ năng biệt ly thử - ND.

    Ánh dương mỏng manh từ trên cao chiếu xuống, bóng cây mờ mờ như in lên khuôn mặt non nớt, trắng trẻo của Hàm Nhi. Thằng bé dường như không hiểu ý nghĩa của mấy câu thơ ấy lắm, vừa đọc vừa ngâm nga. Chợt một làn gió mát thổi lại khiến cánh cửa sổ đang mở rộng không ngớt đung đưa làm phát ra những tiếng kẽo kẹt rất dài, vô tình có mấy cánh hoa hợp hoan bị gió thổi rụng bay tới đậu lại trên chiếc bàn đóng bằng gỗ tử đàn, tuy không phát ra chút âm thanh nào nhưng lại như đánh vào lòng người.

    Có lẽ rất nhiều năm trước đây, Huyền Thanh cũng từng như thế, ung dung đứng dưới cửa sổ mà viết về cuộc đời vốn dĩ phải phong lưu tiêu sái, không gặp chút trở ngại nào của y.

    Lòng tôi bất giác thầm đau nhói, những giọt lệ rốt cuộc cũng lã chã tuôn rơi.

    Vừa khéo lúc này Hàm Nhi ngẩng lên, nhìn thấy tôi đang rơi nước mắt, vội vàng đi tới nắm chặt lấy bàn tay tôi, lo lắng hỏi: “Tại sao mẫu hậu lại khóc thế?”

    Tôi mỉm cười, nói: “Mẫu hậu bị gió thổi vào mắt đấy thôi, không sao cả.”

    Tôi cầm khăn tay, giúp thằng bé lau đi những giọt mồ hôi trên trán, dịu dàng cất tiếng dặn dò: “Nếu mệt rồi thì hãy nghỉ ngơi một lát đi.”

    Hàm Nhi khẽ lắc đầu, nói: “Lấy keo sơn gắn chặt, chẳng thể nào cách ngăn. Nhi thần vẫn chưa hiểu lắm, sau khi lấy keo sơn gắn chặt rồi, chẳng lẽ thật sự không thể cách ngăn ư?” Nó ngẩng đầu lên, trong cặp mắt ngây thơ chứa chan những tia tò mò. “Chân tướng là như thế nào, mẫu hậu có biết chăng?”

    Tôi đưa tay khẽ xoa đầu thằng bé. “Mẫu hậu cũng không biết. Trong các vị hoàng thúc của con thì lục thúc là người có học thức uyên bác nhất, đáng tiếc y đã chẳng còn tại thế nữa rồi. Con nên chịu khó học theo lục thúc của con nhiều một chút, nhất định phải bác học, đa tài mới được.” Hơi dừng lại, tôi khẽ vuốt ve bờ má thằng bé vẻ cưng nựng. “Mẫu hậu để con ở lại chỗ này chính là có ý như vậy.”

    Hàm Nhi trả lời vẻ cực kỳ nghiêm túc: “Nhi thần nhất định sẽ không phụ sự kỳ vọng của mẫu hậu.”

    Tôi gật đầu một cái thật mạnh, Cận Tịch đứng bên khẽ nói: “Thái hậu, cửu Vương phi đang chờ người ở Di Ninh cung đấy.”

    Tôi đưa tay xoa đầu Hàm Nhi. “Mẫu hậu về cung trước đây.”

    Thằng bé đáp “vâng” một tiếng. Tôi đã đi xa nhưng vẫn không kìm được ngoảnh đầu nhìn lại, thấy giữa cơn mưa hoa lất phất, thần thái cùng khí độ của Hàm Nhi trông càng lúc càng giống với y năm xưa. Tự nơi đáy lòng tôi bất giác trào dâng mấy tia chua xót, một chút dịu dàng, đôi nét thê lương, ngoài ra còn có mấy phần thư thái.

    Ngọc Nhiêu và Huyền Phần lấy nhau đã nhiều năm, nhưng lại chỉ có một người con gái, vương vị chẳng có ai kế thừa, khó tránh khỏi có chút không vui.

    Tôi muốn cất lời an ủi nhưng rồi suy nghĩ một chút bèn nói: “Dù sao Dư Triệt cũng được gửi nuôi ở phủ Bình Dương Vương nhiều năm rồi, từ nhỏ đã coi bọn muội như cha mẹ, chi bằng hãy để Bình Dương Vương nhận nó làm con thừa tự đi.”

    Ngọc Nhiêu vốn rất thương yêu Dư Triệt, bất giác mỉm cười, nhưng rồi lại lo lắng nói: “Như vậy thì lục Vương gia chẳng phải sẽ tuyệt tự ư?”

    Tôi mỉm cười điềm đạm. “Không sao, ta đã quyết định để Hàm Nhi kế thừa hương hỏa của Thanh Hà Vương rồi.” Ngọc Nhiêu cả kinh, không kìm được bật thốt: “Triệu Vương là độc tử của Thái hậu, sao có thể gia nhập vào bàng chi của hoàng thất được, việc này ngàn vạn lần không thể.”

    Ngoài cửa sổ gió thổi vi vu, sắc xuân ngợp khắp, khung cảnh thực là tươi đẹp vô cùng. Ánh mắt tôi lúc này trong veo tựa như mặt nước hồ thu, vô cùng tĩnh lặng: “Cha mẹ thương con thì phải vì con mà suy tính lâu dài. Nhuận Nhi không phải con ruột của ta, ta bây giờ lại là thái hậu, có lẽ có rất nhiều người nghi ngờ ta sau này sẽ nảy lòng riêng mà phế truất Nhuận Nhi. Ta đã từ chối buông rèm nhiếp chính rồi, bây giờ còn phải sắp xếp cẩn thận cho Hàm Nhi nữa, bằng không sau này giữa hai cung mà nảy sinh hiềm khích thì không chỉ làm tổn hại tới tình mẹ con, còn khiến Hàm Nhi bị cuốn vào cuộc tranh đoạt ngôi đế, cả đời không được yên ổn. Chỉ khi gia nhập bàng chi rồi, không còn khả năng kế vị nữa, vậy thì nó mới có thể vĩnh viễn bình an.”

    Ngọc Nhiêu lộ vẻ thấu hiểu, gật đầu tán đồng.

    Buổi chiều hôm ấy, tôi cảm thấy buồn ngủ, liền nằm chợp mắt trên chiếc sạp gỗ tử đàn ngay dưới cửa sổ ở Di Ninh cung. Tôi nằm mơ thấy Huyền Thanh, y mỉm cười rất mực dịu dàng, vừa xoa trán tôi vừa khẽ nói: “Hoàn Nhi, bây giờ đã không còn chuyện gì có thể làm nàng sợ nữa rồi.”

    Giữa cơn mơ, tôi không kìm được buồn bã nói: “Nếu năm đó ở chùa Cam Lộ chúng ta có thể cùng nhau cao chạy xa bay thì tốt biết bao, muội chẳng tiếc gì ngôi thái hậu này.” Hơi dừng một chút tôi rơm rớm lệ nói tiếp: “Huynh biết không, muội vừa hạ chỉ để Hàm Nhi kế thừa huyết mạch của huynh rồi đấy.”

    Y khẽ gật đầu. “Ta vẫn luôn coi nó như con ruột của mình.”Y mỉm cười rời đi, xung quanh hoa bay lượn ngợp trời.

    Tôi bàng hoàng thức giấc, trước mắt là một khung cảnh tuy hoa lệ nhưng cực kỳ xa lạ, bên ngoài bức rèm châu chợt có một cặp én nhẹ nhàng bay qua, khẽ hót lên một tiếng. Từ trong lò hương, những làn khói màu trắng sữa lững lờ bay ra. Ngoài sân, ánh tà dương phủ khắp, thế nhưng chung quanh lại trống trải không có lấy một bóng người, tới lúc này tôi mới giật mình phát giác mình hiện giờ đã là đương kim thái hậu của Đại Chu.

    Tôi chẳng qua mới ngoài ba mươi tuổi, vậy mà đã là thái hậu rồi. Thái hậu? Tôi khẽ cười một tiếng thê lương, dù thân phận tôn quý biết bao nhiêu, dù vinh hoa phú quý có nhiều đến nhường nào thì tôi cũng chỉ có cái vẻ ngoài hoa lệ mà thôi, kỳ thực chẳng khác gì cô hồn dã quỷ sống vất vưởng giữa cuộc đời này.

    Sau một hồi lâu ngơ ngẩn, tôi liền gọi cung nữ vào trang điểm giúp mình. Tiểu Doãn Tử thấy tôi đã thức giấc thì mới đi vào, ghé đến bên tai tôi khẽ nói: “Thái hậu, cung nữ ở Phượng Nghi cung vừa đến bẩm, hôm nay Chu thị nghe thấy tiếng pháo mừng thì liền hỏi có phải tân đế đã đăng cơ rồi không.”

    Tôi đưa mắt nhìn tấm dung nhan đoan chính trong gương, bất giác cười lạnh, nói: “Nàng ta vẫn còn nhớ tới việc này ư?” Sau đó liền chậm rãi đứng dậy. “Ai gia đã lâu lắm không gặp Chu thị rồi đúng không?”

    Tiểu Doãn Tử cúi đầu, cung kính đáp: “Dạ, đã sáu năm rồi.”

    Tôi cười tươi, nói: “Hôm nay Hoàng thượng đăng cơ, thiên hạ cùng vui, ai gia cũng nên đi thăm hỏi cố nhân một chút.”

    Tiểu Doãn Tử khuyên nhủ: “Phượng Nghi cung trống vắng đã lâu, Chu thị danh phận còn chưa định...”

    Tôi chỉnh lại dải tua trên áo. “Cớ gì mà danh phận của nàng ta còn chưa định chứ?” Sau đó lại bật cười. “Phải rồi, chỉ e bây giờ nàng ta vẫn còn trông đợi vào cái gọi là danh phận chưa định ấy, do đó mới mong tân đế đăng cơ. Nàng ta lẽ nào chưa thôi hy vọng vào việc Tề Vương có thể ngồi lên ngôi đế? Hay là nàng ta nghĩ sau khi Tấn Vương nối dòng đại thống thì nàng ta sẽ được thả ra khỏi Phượng Nghi cung và trở thành thái hậu?”

    Tiểu Doãn Tử vội cười trừ, nói: “Thị mà nghĩ thế thì đúng là si tâm vọng tưởng! Thái hậu để cho thị sống đến bây giờ đã là nhân từ lắm rồi!”

    Tôi bình tĩnh nói: “Đi thôi!”

    Xe phượng đi vừa nhanh vừa vững, phía ngoài sắc xuân phủ khắp nơi nơi, khiến người ta mê đắm. Bên ngoài Phượng Nghi cung muôn hoa đua nở, nguyên một tòa cung điện tráng lệ như lặng lẽ ẩn mình giữa một vùng bát ngát cỏ hoa, chẳng thể nhìn ra nơi đây đã sáu năm rồi chẳng được mấy ai ngó ngàng tới.

    Thời gian thấm thoắt thoi đưa, sau bao năm không gặp, chẳng rõ Chu Nghi Tu bây giờ đã biến thành bộ dạng như thế nào?

    Tôi đang suy tư, cung nữ bên trong biết là tôi đã đến, liền chậm rãi mở cửa ra, rồi kế đó tất cả cung nữ, thái giám cùng quỳ xuống nghênh đón. Tôi dựa theo trí nhớ từ nhiều năm trước, bám vào tay Tiểu Doãn Tử chậm rãi đi vào Phượng Nghi cung. Đi qua vườn hoa, đi qua dãy hành lang dài, tôi thấy Hàm Quang điện ở mé tây cùng Lương Phong điện ở mé đông đều chẳng có gì thay đổi, khung cảnh vẫn hệt như xưa.

    Tôi bất giác mỉm cười, Chu Nghi Tu bây giờ quả thực vẫn là hoàng hậu.

    Chậm rãi cất bước tới gần Chiêu Dương điện năm nào, mấy con bồ câu vụt bay từ dưới đất lên, đập cánh bay đi xa tít, dần dần biến mất giữa bầu trời. Tôi hỏi ả cung nữ quản sự: “Hoàng hậu vẫn thường chăm chú nhìn đám chim bồ câu này như ngày trước chứ?”

    Ả cung nữ đó thấp thỏm, bất an đáp: “Mấy năm trước thì là như vậy, nhưng bây giờ mắt bà ta đã không được tốt lắm, do đó không còn cả ngày ngắm chim bồ câu nữa rồi.” Thị vừa nói vừa run rẩy đưa mắt liếc nhìn tôi, lại nói tiếp: “Tuân theo lời dặn dò của Thái hậu, lũ chim bồ câu này già rồi thì lại được nuôi lứa mới, bất cứ lúc nào cũng đều hoạt bát và thích bay.”

    Tôi nhìn thị bằng ánh mắt khen ngợi. “Tốt lắm.”

    Thị dẫn tôi đi về phía trước. “Bà ta đang ở bên trong.” Dứt lời bèn mở cửa điện giúp tôi, rồi lùi về phía sau mấy bước. Chiêu Dương điện lúc này có hơi u ám, tôi nhất thời bị hoa mắt nên chẳng thể nhìn thấy được gì, mãi một lúc sau mới quen dần và nhìn thấy bóng dáng Chu Nghi Tu trong điện.

    Nàng ta đang ngồi quay lưng về phía tôi ngay dưới cửa sổ. Cửa sổ sớm đã bị bịt chặt lại bằng ván gỗ, chỉ để lại một cái lỗ nhỏ để thông hơi mà thôi. Nàng ta vẫn chải tóc theo kiểu Lăng Vân cực kỳ đoan chính, đó là kiểu tóc mà chỉ hoàng hậu mới được dùng, cũng là kiểu tóc khi xưa nàng ta thích nhất. Chiếc áo phượng chỉ dành cho hoàng hậu vẫn được nàng ta mặc trên người, có điều sớm đã bạc màu, nếu nhìn kĩ còn có thể thấy được những nếp nhăn cũ kĩ, giống hệt như nàng ta lúc này vậy, từ trong mỗi lỗ chân lông đều toát ra sự ẩm mốc và lụn bại.

    Nàng ta bình tĩnh nói: “Là ngươi tới đó ư?”

    Tôi cười, nói: “Xem ra cô vẫn còn tai thính mắt tinh lắm.”

    Nàng ta cất giọng hờ hững: “Hôm nay là ngày tân đế đăng cơ, ngoài ngươi ra thì còn có ai có thời gian rảnh mà tới đây thăm bản cung chứ?” Chắc hẳn đã lâu rồi không nói chuyện với người ta, trong giọng nói của nàng ta có một tia khàn khàn không sao giấu được. “Hơn nữa, nếu ngươi chưa trở thành thái hậu, ắt hẳn sẽ chẳng tới nơi này đâu.” Nàng ta xoay người lại, sự già nua trên khuôn mặt ấy khiến tôi không kìm được lộ ra một tia chấn động khó diễn tả bằng lời. Hóa ra nàng ta đã già đến vậy rồi, mái tóc trên đầu bạc trắng, sớm đã chẳng còn thích hợp để cài những chiếc bộ dao lung linh, hoa lệ.

    Nàng ta đưa tay sờ mặt, cất giọng tự giễu: “Bản cung đã già đến mức khiến ngươi phải sợ rồi ư? Đám người bên ngoài kia đều giống như tượng gỗ vậy, bất kể bản cung biến thành như thế nào thì bọn chúng cũng chẳng chịu nhìn bản cung nhiều thêm dù chỉ một lần.”

    Tôi khẽ mỉm cười. “Có gì đâu mà sợ, ai rồi cũng sẽ già thôi.”

    Nàng ta bước lại gần tôi, nheo mắt lại nhìn tôi thật kĩ. “Ngươi vẫn chưa già, nhìn chỉ như người mới ngoài hai mươi, chẳng khác cái bộ dạng mà bản cung bấy lâu nay vẫn luôn căm ghét chút nào.”

    Tôi mỉm cười điềm đạm. “Được cô vương vấn nhiều năm như thế, ai gia lấy làm vinh hạnh vô cùng. Vì sợ cô quên mất bộ dạng của mình, do đó ai gia mới không dám già đi đấy.”

    Ánh mắt nàng ta đột nhiên trở nên dữ dằn, sau khi chăm chú nhìn búi tóc của tôi một lát liền bất ngờ đưa tay tới vạch nó ra một chút, sau đó cả kinh bật thốt: “Hóa ra ngươi đã có nhiều tóc trắng như thế rồi!” Vừa nói nàng ta vừa lộ vẻ trầm tư. “Bản cung nhớ là ngươi hãy còn chưa đầy bốn mươi tuổi.”

    Tôi chỉnh lại búi tóc của mình, bình tĩnh đưa mắt nhìn nàng ta. “Cũng còn may, chỉ cần búi tóc cao lên, lại nhờ đôi bàn tay khéo léo của Hoa Nghi nhuộm đen giúp, nên nếu không nhìn kĩ sẽ khó mà nhìn ra được chỗ nào khác lạ.”

    Nàng ta chậm rãi nở nụ cười, ban đầu chỉ là một tia cười mỉm, thế nhưng ý cười càng lúc càng rõ ràng, cuối cùng thì không kìm nén được mà bật cười thành tiếng. “Chân Hoàn, xem ra cuộc sống của ngươi trong những năm nay cũng chẳng dễ chịu gì!”

    “Cũng còn may, dù không dễ chịu đến mấy thì bây giờ cũng dễ chịu rồi.”

    Tôi sớm đã ra lệnh cho những người khác không được đi vào, nhưng Tiểu Doãn Tử đứng phía ngoài nghe thấy động tĩnh thì rốt cuộc đã không kìm nén được, bèn rảo bước tiến vào, thấy Chu Nghi Tu đang cười vang không ngớt thì giận dữ quát: “To gan! Không ngờ lại dám càn rỡ như thế trước mặt Thái hậu, còn không mau quỳ xuống!”

    Chu Nghi Tu lạnh lùng đưa mắt nhìn y, chỉ bằng một ánh mắt đã thể hiện rõ được cái phong thái cao quý của một hoàng hậu. “Hoàng đế kế vị, nàng ta là mẹ ruột của tân đế nên trở thành Thánh mẫu Hoàng thái hậu. Chiêu Thành Thái hậu từng ban chỉ “nhà họ Chu không được xuất hiện phế hậu”, Hoàng thượng chưa từng phế truất bản cung, bản cung vẫn là chính cung của tiên đế, bây giờ đúng lẽ thì phải trở thành Mẫu hậu Hoàng thái hậu. Mẫu hậu Hoàng thái hậu làm chủ Đông cung, Thánh mẫu Hoàng thái hậu làm chủ Tây cung, đích thứ khác biệt, sau bao năm rồi vẫn là Chân Hoàn phải tới bái kiến ai gia mới đúng.”

    Sau một hồi lâu trầm lặng, khí thế của nàng ta lại khôi phục giống như năm nào, dường như nàng ta vẫn là hoàng hậu cao cao tại thượng đang chờ tôi quỳ xuống hành lễ.

    Tôi cười nhạt một tiếng. Tiểu Doãn Tử tức thì hiểu ý, bèn nói: “Nương nương thật hồ đồ quá! Lúc tiên đế còn tại thế thì Thái hậu đã là hoàng quý phi nắm quyền quản lý lục cung, địa vị ngang với phó hậu rồi. Bây giờ tứ điện hạ vừa mới đăng cơ không phải là do Thái hậu sinh ra, làm sao mà đồng thời có cả thánh mẫu hoàng thái hậu và mẫu hậu hoàng thái hậu được? Đương kim Hoàng thượng chỉ tôn phong duy nhất một vị thái hậu mà thôi.”

    Cặp mắt vốn mờ đục của Hoàng hậu đột ngột sáng bừng lên, từ bên trong chiếu ra những tia sắc bén. “Ngươi nói cái gì? Người đăng cơ không phải là Hoàng tam tử?” Nàng ta lộ vẻ không sao tin nổi. “Ngươi không để con của mình lên làm hoàng đế ư? Không ngờ trong thiên hạ lại có người mẹ như ngươi!”

    Tôi khẽ đẩy ngón tay của nàng ta ra, cất giọng hờ hững: “Làm hoàng đế chưa chắc đã là chuyện gì hay ho. Tiên đế lúc sinh tiền đã bị hậu cung bày mưu tính kế biết bao nhiêu lần, đến bản thân y chắc cũng chẳng thể tính rõ. Ai gia rất sợ con của mình sau này sẽ lấy phải một vị hoàng hậu như cô, để rồi thiếu chút nữa thì đoạn tử tuyệt tôn giống như tiên đế.” Tôi nhìn nàng ta, cười nhạt, nói: “Hoàng hậu xin hãy bớt giận!”

    Nàng ta chậm rãi hít sâu một hơi, rất nhanh sau đó đã khôi phục lại vẻ bình tĩnh thường ngày, bình thản nói: “Bất kể là vị hoàng tử nào đăng cơ xưng đế thì ai gia cũng phải là thái hậu. Cho dù bị Chân Hoàn ngươi nhốt ở Chiêu Dương điện này cả đời thì ai gia cũng vẫn là thái hậu. Điều này thuộc về lễ số, không phải thứ mà Chân Hoàn ngươi có thể sửa đổi được.”

    “Cô yên tâm, Hoàng thượng hiếu nghĩa nhân từ, ắt sẽ không bỏ quên không nghĩ tới danh phận của cô đâu.” Tôi cười tủm tỉm, đưa mắt liếc nàng ta. “Hôm qua ai gia đã thương lượng xong xuôi với tân đế rồi, sẽ vẫn để cô làm hoàng hậu. Ngay đến tôn hiệu bộ Lễ cũng đã đặt xong, chính là hai chữ “Ôn Dụ”, quả thực rất hợp với tính cách của cô đấy.”

    Vẻ bình tĩnh, điềm đạm thường ngày của Chu Nghi Tu tức thì tan biến hoàn toàn, cô ta gằn giọng quát: “Lòng dạ ngươi thực là độc địa! Chỉ khi nào huynh đệ của tiên đế kế thừa ngai vàng thì mới có thể tôn chính cung của tiên đế làm hoàng hậu, ai gia là đích mẫu của tân đế, không ngờ ngươi lại để ai gia đứng bằng vai với y, như thế há chẳng phải sẽ khiến thế gian chê cười hoàng gia không có tôn ty pháp độ gì cả ư?”

    “Còn có một điều cô quên chưa nói đấy, đó là nếu chính cung của tiên đế là vãn bối của đương kim thánh thượng, vậy thì cũng chỉ có thể tôn làm hoàng hậu rồi đưa ra ở tại biệt cung mà thôi. Do đó, nếu cô cho rằng ai gia cố ý chèn ép cô thì cũng không sao cả.” Tôi nở một nụ cười rất mực dịu dàng. “Hơn nữa, thế gian cũng sẽ chẳng chê cười gì đâu. Bao năm nay, người trong thiên hạ chỉ biết tới ai gia chứ không biết tới Hoàng hậu, Hoàng hậu ắt hẳn sẽ không bị người ta chê cười, về điều này thì ta có thể đảm bảo, Hoàng hậu cứ yên tâm.”

    Cô ta vừa kinh hãi vừa tức giận, cả người không ngừng run rẩy, khuôn mặt thì trở nên dữ dằn vô hạn. “Chiêu Thành Thái hậu từng yêu cầu tiên đế chính miệng đồng ý rằng “nhà họ Chu không thể xuất hiện phế hậu”, tiên đế xương cốt còn chưa lạnh, thế mà ngươi đã dám chèn ép bản cung như thế, sau này xuống dưới suối vàng, ngươi còn mặt mũi nào mà đi gặp tiên đế và Chiêu Thành Thái hậu? Bá quan văn võ lẽ nào lại chịu để cho ngươi tác oai tác quái như vậy hay sao?”

    Tôi ngồi ngay ngắn trên chiếc ghế phượng mà nàng ta khi xưa hay ngồi, nhìn nàng ta bằng ánh mắt của kẻ bề trên, chậm rãi nói: “Ai gia làm như thế chính là vâng theo ý chỉ của tiên đế, không để tiên đế phải mất mặt. Tiên đế quả thực từng đồng ý với Chiêu Thành Thái hậu rằng “nhà họ Chu không thể xuất hiện phế hậu”, do đó cô mới vẫn là hoàng hậu, sẽ mãi mãi là hoàng hậu, không bao giờ thay đổi. Tiên đế từng nói sẽ vĩnh viễn không bao giờ gặp lại cô, nếu cô trở thành thái hậu, vậy thì sau này ắt sẽ được vào chung một lăng với tiên đế, vậy há chẳng phải sẽ làm hồn phách của tiên đế không được yên ư. Hơn nữa, ngày sau cô xuống dưới suối vàng rồi, chắc hẳn tiên đế sẽ không chịu gặp lại cô đâu, do đó cô cũng không cần lo rằng mình còn mặt mũi nào để gặp lại tiên đế hay không, bởi vì trong mắt tiên đế, cô đã chẳng còn cái gọi là mặt mũi nữa rồi. Tóm lại, ai gia sẽ làm theo lời của tiên đế lúc sinh tiền, ấy là an táng tiên đế và Thuần Nguyên Hoàng hậu chung ở Cảnh lăng, còn cô sau khi chết sẽ được vào Thái lăng theo nghi lễ của quý phi, để làm bạn với Hiền phi và Đức phi đã qua đời từ sớm.” Tôi đưa tay chống cằm, cất giọng dửng dưng. “Cô ta là người mà tiên đế lúc sinh tiền ghét nhất, do đó bá quan văn võ sẽ không có dị nghị gì đâu. Huống chi bấy lâu nay cô vốn chỉ là hoàng hậu hữu danh vô thực, sau này lấy danh hoàng hậu mà táng theo lễ quý phi cũng là một điều hợp lý.”

    Nàng ta sững người ra đó, đôi bờ môi mấp máy không ngừng. “Vĩnh viễn không bao giờ gặp lại? Hoàng thượng thật sự đã từng nói như thế ư?”

    Ngoài điện sắc xuân ngợp khắp, khung cảnh đẹp như tranh vẽ, tôi cất giọng rất mực ôn tồn, thế nhưng ẩn bên trong đó lại là một sự lạnh lẽo khó mà dùng lời miêu tả: “Tiên đế căm hận cô tới tột cùng. Chính cô đã hại chết Thuần Nguyên Hoàng hậu mà y cả đời này yêu thương nhất, lại hại chết biết bao nhiêu đứa con của y, y chịu giữ cho cô ngôi hậu đã là miễn cưỡng lắm rồi, làm sao còn muốn gặp lại một kẻ lòng dạ tàn độc như cô nữa.”

    Ánh mắt nàng ta sắc lạnh như một mũi dùi băng, chừng như muốn đâm thủng thân thể tôi. “Rốt cuộc là tiên đế căm hận ta tới tột cùng hay là ngươi căm hận ta tới tột cùng đây?”

    “Nếu không có Ôn Dụ Hoàng hậu thì làm gì có Chân Hoàn của ngày hôm nay. Ai gia được như bây giờ hoàn toàn là nhờ Hoàng hậu một tay dạy dỗ, vậy nên tất nhiên là phải cảm kích Hoàng hậu tột cùng, một lòng giúp Hoàng hậu giữ được sự vinh hoa phú quý.” Tôi thấp giọng nói. “Có điều ai gia nay đã là thái hậu, cần phải vâng theo ý chỉ của tiên đế mà thành toàn cho cô, sau này sử sách sẽ chép lại rằng, triều Càn Nguyên có bốn vị hoàng hậu, nhưng chỉ có ba vị hoàng hậu được hưởng sự tế bái trong Thái miếu. Tiên đế sẽ để cho cô đời đời kiếp kiếp làm hoàng hậu, vĩnh viễn không được siêu sinh.”

    Nàng ta không nói gì, cả thân thể nhanh chóng bị nhấn chìm bởi sự tuyệt vọng. Chừng như chỉ sau nháy mắt, tất thảy sức lực trong cơ thể nàng ta đã bị hút cạn, nàng ta chậm rãi đi tới trước ô cửa sổ vừa rồi, đột nhiên ngồi sụp xuống đất, không còn chút động tĩnh gì nữa.

    Tôi đưa mắt ngó quanh Chiêu Dương điện, thấy khung cảnh tuy hoa lệ nhưng lại toát ra một vẻ vô cùng trống trải và tịch mịch, bèn chậm rãi nói: “Chiêu Dương điện ân ái cũng tan tành, chốn Bồng Lai tháng ngày dài nhớ tiếc[41]. Chiêu Dương điện, đúng là một nơi rất tuyệt.” Dứt lời, tôi bám vào tay Tiểu Doãn Tử cất bước rời đi, không ngoảnh đầu lại thêm lần nào nữa.

    [41] Trích Trường hận ca của Bạch Cư Dị. Dịch thơ: Tản Đà. Nguyên văn Hán Việt: Chiêu Dương điện lý ân ái tuyệt, Bồng Lai cung lý nhật nguyệt trường - ND.

    Trong buổi đại điển ngày hôm sau, Hoàng đế hạ chỉ sắc phong Đoan Quý phi làm Đoan Khang Quý thái phi, Đức phi làm Kính Đức thái phi, Trinh Nhất Phu nhân làm Trinh Di thái phi, Hân Phi làm Hân Cung thái phi. Tôi ở Di Ninh cung mỉm cười nhận lễ, kế đó an bài cho bọn họ tới ở tại các cung như Thọ Kỳ, Ngưng Thọ, Trường Thọ. Sau khi nghi lễ xong xuôi, tôi chợt thấy Tiểu Liên Tử vội vàng đi tới, còn ngỡ rằng Trinh Di thái phi không được khỏe, bèn hỏi: “Có phải là Trinh Di thái phi lại khóc đến ngất đi rồi không?”

    Kính Đức thái phi lộ ra mấy tia xót thương, đưa khăn tay lên lau khóe mắt, thở dài than: “Yến Nghi vì chuyện Hoàng thượng quy thiên mà thương tâm đến nỗi suốt một thời gian dài không ăn không uống, lỡ như thân thể có bề gì thì biết phải làm sao đây?”

    Hân Cung thái phi vội vàng cười, nói: “Nhị điện hạ đã đi khuyên giải rồi, Trinh muội muội vốn thương con, chắc sẽ chú ý giữ gìn sức khỏe.”

    Đương khi hai người trò chuyện thì Tiểu Liên Tử ghé đến bên tai tôi nói khẽ mấy câu. Tôi hơi cau mày, chỉ nói: “Ai gia biết rồi.”
    Kính Đức thái phi hỏi tôi: “Sao vậy?”

    Tôi đưa tay chỉnh lại cây trâm bạc cài đầu, cất giọng hờ hững: “Ôn Dụ Hoàng hậu qua đời rồi.”

    Chén trà trong tay Kính Đức thái phi bất giác hơi lay động, nước trà thiếu chút nữa thì sánh ra ngoài. “Chuyện xảy ra từ bao giờ vậy?”

    Tiểu Liên Tử đáp: “Dạ, từ đêm qua, chết vì kinh sợ. Cung nữ phát hiện đồ ăn sáng đưa vào không hề được động tới, nên mới biết đã xảy ra chuyện.” Rồi y chợt hạ thấp giọng, nói tiếp: “Ả cung nữ tới bẩm báo nói thân thể Ôn Dụ Hoàng hậu đã cứng lại rồi, thế nhưng cặp mắt vẫn mở rất to, chết không nhắm mắt.”

    Hân Cung thái phi không hề giấu giếm vẻ chán ghét. “Đang trong ngày vui mà lại như vậy, thật là xui xẻo!”

    Đoan Khang Quý thái phi chẳng buồn ngước mắt, chỉ cất giọng hờ hững: “Nên làm thế nào thì cứ làm thế đó, không cần phải tốn công tốn sức làm gì.”

    Kính Đức thái phi mỉm cười, nói: “Hoàng thượng tuy còn ít tuổi nhưng cũng cần nghĩ tới việc đón mấy vị phi tần vào cung rồi. Năm xưa Quý thái phi không phải cũng từng được Chiêu Thành Thái hậu nuôi sẵn trong cung từ sớm đó ư.”

    Tôi mỉm cười điềm đạm, uể oải tựa người vào ghế. “Phải rồi, chờ một thời gian nữa chúng ta chắc cũng phải tính tới việc này thôi. Nghe nói con gái nhà Ân đại nhân là Nguyệt Kính tuổi tác tương đương với Hoàng thượng, lại rất hiểu chuyện...”

    Từ ngoài cửa sổ, một làn gió nhẹ thổi vào mang theo tiếng đàn ca ở Thượng Lâm uyển, một ca nữ trẻ tuổi cất tiếng hát du dương:

    Núi cao cao, trăng nho nhỏ. Trăng nho nhỏ, sáng vằng vặc! Ta có người thương trên đường xa. Một ngày không gặp, lòng ta nao nao.

    Tay hái cỏ đắng, ở nơi núi nam. Xiết bao lo lắng, biết chịu ra sao?

    Lòng chàng như vàng đá, lòng thiếp như băng tuyết. Ta ước hẹn trăm năm, chợt gặp hồi ly biệt. Mây sớm mưa chiều bao nhớ nhung, ngàn dặm tương tư cùng trăng sáng.

    Tôi nghiêng tai lắng nghe, lại cầm lấy cây đàn Trường tương tư vốn để một bên mà khẽ gảy, tiếng đàn dịu nhẹ tức thì vang lên tựa như một dòng suối róc rách chảy dài.

    Giữa làn ký ức hiện về, tôi đột nhiên cảm thấy bài Sơn chi cao này thật giống với cuộc đời mình biết bao, giống đến vô cùng.

    Bốn phía xung quanh tĩnh lặng tột cùng, dường như tất thảy mọi người đều đang đắm mình trong tiếng nhạc, im lặng lắng nghe. Một hồi lâu sau, Kính Đức thái phi mới nhẹ nhàng cất tiếng: “Tiên đế vừa mới băng hà, trong cung lẽ ra không nên có tiếng nhạc mới phải.”

    Tôi mỉm cười điềm đạm. “Không sao, hôm nay tân đế đăng cơ, cũng có thể tính là ngày vui được rồi.”

    Giữa bầu không khí dìu dịu yên bình, tôi mỉm cười thoáng mang vẻ mỏi mệt, giờ đã là năm Chính Chương đầu tiên rồi.

    Kiếp người tựa giấc chiêm bao, chuyện của những năm Càn Nguyên mới đó mà đã trở thành xưa cũ cả rồi, chẳng bao lâu sau sẽ phủ đầy bụi bặm.

    Đường cũ Hoành Phần mình dạo bước, lẻ bóng hồng nhan dưới tà dương.

    Tôi ngoảnh đầu nhìn đi, Di Ninh cung xa hoa lộng lẫy, trống vắng cô đơn, vầng dương dần ngả về chiều, ngợp một màu ảm đạm.

    Về sau, Dư Hàm trở thành người kế thừa hương hỏa của phủ Thanh Hà Vương. Về sau nữa, Nhuận Nhi và Hàm Nhi đều có những đứa con của mình.

    Mấy chục năm sau, con của Nhuận Nhi không có con nữa, cháu nội của Hàm Nhi, tức là chắt nội của tôi, được đón vào cung trở thành tân đế.

    Có điều việc khi đó tôi căn bản chẳng thể nào biết được.

    Lũ nhỏ tự có cuộc đời của lũ nhỏ, còn câu chuyện của tôi thì đã kết thúc rồi.

    Kiếp mộng phù du, chẳng qua chỉ vậy mà thôi.

    ---------- Hoàn chính văn ----------
     
  8. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 23: Lời cuối
    Chẳng qua là “Tình”

    Viết sau “Hậu cung Chân Hoàn truyện”

    Khi tôi gõ những con chữ này trên bàn phím, bầu không khí bên ngoài cửa sổ đượm vẻ thanh tân sau một cơn mưa rào. Đứng trước ô cửa sổ thủy tinh sát đất ở tầng mười hai nhìn ra phía ngoài, những mảng màu xanh biếc chừng như phủ khắp.

    Tôi thích một thành phố nhỏ có non có nước như thế này, do đó, giữa một buổi chiều nóng nực, tôi bất chấp tất cả, mang theo một tâm trạng bức bối mà trốn khỏi thành phố đang ở tạm thời để tới nơi đây, khi ấy tôi đã viết xong câu chuyện mà mình đã viết trong hơn ba năm trời.

    Rốt cuộc cũng đã viết xong tập cuối cùng của Hậu cung Chân Hoàn truyện, tập thứ bảy. Bảy, đó là con số mà tôi thích. Những chữ cuối cùng trong câu chuyện về Chân Hoàn đã được tôi viết ra trong một căn phòng nào đó của khách sạn trong Trường đại học Sư Phạm vào một ngày đầu hạ. Câu chuyện này đã bắt đầu khi tôi ở trường xưa, và lại kết thúc ở trường xưa, tựa như một vòng tròn thủy chung vậy, cuối cùng đã kết thúc.

    Đây là bộ truyện dài đầu tiên mà tôi viết, lúc này cũng không kìm được mà thở phào một hơi, không ngờ mình lại có thể viết dài như vậy, lâu như vậy.

    Nhưng trong khoảnh khắc kết truyện, lòng tôi lại chẳng vui vẻ chút nào. Bởi vì chính tôi đã đem Thanh mà tôi thích, đem nam tử ấm áp như ngọc mà tôi cho là hoàn hảo ấy, viết đến nỗi tan nát vỡ vụn.

    Sau khi viết xong tập thứ năm, tôi bỗng cảm thấy mệt, cảm giác mỏi mệt ấy bắt nguồn từ tôi, cũng bắt nguồn từ sự thấu tỏ trên con đường tương lai của Chân Hoàn và Huyền Thanh. Ở chương “Vinh hoa tột độ”, Chân Hoàn đã đứng ở đỉnh cao nhất của vinh quang và quyền lực, phong quang vô hạn, không ai có thể so sánh. Nhưng tôi biết rõ, một khi đã lên tới đỉnh cao, vậy thì sẽ không còn đường lùi nữa, chỉ có thể trơ mắt nhìn thịnh cực rồi suy, mọi thứ từ từ mất đi từng chút một.

    Chẳng còn đường lùi nữa rồi.

    Có lẽ nếu thời gian dừng lại ở khoảnh khắc đó thì cũng tốt, dù rằng Huyền Thanh chỉ có thể đứng giữa ngàn vạn người mà đưa mắt ngước nhìn, nhưng ít nhất thì y vẫn được tự do yêu nữ tử đó, vẫn còn có thân thể cùng trái tim tự do để bầu bạn với nàng ta, chờ đợi nàng ta; dù rằng Chân Hoàn đau xót, dù rằng Chân Hoàn không thể khuây khỏa được, nhưng ít nhất cũng không cần trơ mắt nhìn muội muội của mình được gả cho nam tử mà mình yêu nhất, từ đó hình thành nên bi kịch của ba con người. Còn có Lăng Dung và My Trang nữa, dù bọn họ bất hạnh đến mấy, đau khổ đến mấy thì ít nhất vẫn còn sống.

    Có thể đợi, đó là vì trong lòng còn hy vọng, như vậy dù gì cũng hơn là phải ngẫm lại sự đời giữa tiếng đoạn trường, trái tim sớm đã nguội lạnh thành tro.

    Do đó, nếu tạm thời dừng bút với một “kết cục” như vậy, có lẽ cũng là chuyện tốt.

    Thế nhưng câu chuyện mà tôi muốn viết chưa bao giờ là một câu chuyện cổ tích tươi đẹp, cũng không phải là một sự mỹ mãn do đột ngột tạm dừng. Trong cuộc đời của chúng ta vốn có rất nhiều sự lỡ làng và bất đắc dĩ, ép chúng ta hết lần này tới lần khác phải buông bỏ, dù rằng trong lòng thì như nhỏ máu. Vậy nên, tập thứ sáu và tập thứ bảy đã ra đời, vậy nên, mỗi khi tôi viết thêm một chữ, cái chết của Huyền Thanh và sự tuyệt vọng của Chân Hoàn lại tới gần thêm một bước.

    Tập thứ bảy tôi đã phải viết rất lâu, rất lâu, dù về sau có vô vàn con chữ đã thành hình, vậy nhưng đoạn ly biệt giữa Huyền Thanh và Chân Hoàn thì tôi lại do dự khó lòng hạ bút. Khi ấy tôi không dám nghĩ, thậm chí là không thể nghĩ được gì. Đến thời khắc cuối cùng, khi đã gắng gượng viết xong, lòng tôi như vừa đổ một cơn mưa rào lớn, vừa ẩm ướt vừa giá lạnh, ngay đến đầu ngón tay cũng trở nên cứng đờ.

    Khi đó tôi hãy còn chưa phát giác ra rằng, hóa ra mình không thể để mất y.

    Với Chân Hoàn mà nói, quãng đời còn lại dù có bao nhiêu vinh hoa phú quý thì cũng chỉ có thể sống trong sự thương tâm mà thôi.

    Tính ra, chiêm bao phủ trọn kiếp người.

    Giữa những đêm lạnh lùng thanh vắng, chỉ có nghĩ về con người đó thì lòng nàng mới ấm áp hơn được phần nào mà thôi.

    Dường như vẫn là thuở trước, y dùng hai ngón tay kẹp lấy chóp mũi nàng, cười trêu một câu “nha đầu ngốc”. Với y mà nói, nàng chưa từng là một vị sủng phi có tâm tư tinh tế, bụng dạ thâm sâu giữa chốn thâm cung, chỉ là một nữ tử dịu dàng, mỗi thời khắc được ở bên nhau đều có thể làm y hạnh phúc. Còn nàng kỳ thực cũng chỉ muốn cả đời làm nha đầu ngốc của y thôi, đối với nàng mà nói, bất kể là vinh quang hay quyền lực thì cũng làm sao so sánh với một tấm chân tình của y được.

    Hóa ra, câu chuyện mà tôi đã viết trong suốt một thời gian dài ấy chẳng qua chỉ viết về một chữ “Tình”, mọi điều đều nằm ở bên trong.Hóa ra, hỏi hết lòng nữ nhi trong thiên hạ, đến cuối cùng cũng chỉ có một câu:

    Mong người lòng chỉ một, bạc đầu chẳng xa nhau.

    Nguyện vọng ấy thật tốt đẹp biết bao, với Chân Hoàn là vậy, với My Trang là vậy, với Lăng Dung là vậy, với chúng ta cũng là như vậy.

    Một nữ tử cả đời chẳng có chí lớn gì, điều duy nhất mong cầu chẳng qua là con người mà nàng ta chờ đợi kia thật sự có thể làm nàng ta hạnh phúc.

    Chỉ có vậy mà thôi, nhưng nguyện vọng ấy lại thường khó mà đạt được.

    Có một người bạn nào đó đã từng nói với tôi, muốn tìm được một người mà mình thích và cũng thích mình để rồi sống bên nhau, sau đó lại có một kết cục tốt đẹp, quả thực là quá khó, khiến người ta chẳng dám trông chờ.

    Tôi thì từ đầu chí cuối luôn muốn nói, lòng tôi vẫn còn hy vọng và nguyện dốc hết sức mình.

    Tuy biết rõ Chân Hoàn có rất nhiều sự bất đắc dĩ, nhưng sau khi gấp cuốn sách lại, tôi vẫn rất hận sự không dũng cảm của nàng ta. Do đó, người mà tôi yêu nhất trước sau vẫn luôn là My Trang dám yêu dám hận, do đó, khi vẫn có thể yêu, vậy thì nhất định, nhất định phải dốc hết sức mình mà chạy về phía người đó.

    Cũng giống như một câu nói của Kiều Phong[43] mà tôi vô cùng yêu thích: Tuy thiên vạn nhân ngô vãng hĩ[44].

    [43] Tức Tiêu Phong, một nhân vật trong tiểu thuyết võ hiệp Thiên long bát bộ của nhà văn Kim Dung - ND.

    [44] Xem chú thích chương 15 - ND.

    Chiều nay, trời đổ mưa rả rích, xua đi tâm trạng bức bối của tôi. Cảm ơn Tiểu Lai đã cùng tôi tiến thoái, cảm ơn bạn đã quan tâm tới sự phiền não của tôi, cảm ơn các bạn đã cho tôi một buổi đêm như thế này, có thể ngồi trong phòng lạnh, cầm chén trà xanh, bàn về chuyện cũ, vui vẻ nói cười.

    Tôi chợt nhớ tới một câu nói đã vô cùng cũ kĩ: Nguyện, người hữu tình trong thiên hạ được thành cặp thành đôi.

    Đừng như Hoàn Hoàn và Thanh, đừng như My Trang và Thực Sơ, đừng như Uyển Uyển và Huyền Lăng.

    Muôn vạn lần xin nhớ, hãy có được sự viên mãn.

    Cuộc đời ngắn ngủi xiết bao, nhất định phải ở bên người thương thì mới không coi như là uổng phí.

    Chút ước nguyện nhỏ nhoi, mong chúng ta cùng nhau nỗ lực.

    Chư Tê, khuya ngày 20 tháng 6 năm 2009

    Rả rích mưa ngừng, trời nổi gió hiu
     
  9. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Ngoại truyện
    Văng vẳng tiếng oanh, chẳng đặng quay về

    Lý Trường sớm đã đi trước an bài sẵn tất thảy, Chân Hành lặng lẽ bước theo sau một gã tiểu thái giám trên con đường nhỏ vắng vẻ vô cùng.

    Xuyên qua mấy rặng liễu bụi hoa, có thể nhìn thấy mấy ả cung nữ đang đi theo Lý Trường càng lúc càng xa dần. Lý Trường nói: “Ngói ở Cảnh Xuân điện lỏng ra rồi kìa, lỡ như rơi xuống thì thật là không hay chút nào. Các ngươi mau đi mang một ít ngói lưu ly tới đây, chờ sáng ngày mai thì thay ngói cho cẩn thận.”

    Một ả cung nữ lanh lợi chợt cất giọng: “Còn không mau làm theo lời công công đi, tay chân nhớ nhanh nhẹn một chút đấy.”

    Ả cung nữ đó chắc vẫn còn trẻ tuổi, giọng nói nghe trong trẻo như tiếng chuông bạc, nơi góc áo của bộ đồ cung nữ màu hồng lấp lánh ánh lên những tia sáng màu xanh, trông cũng khá thú vị. Y ngẩn ngơ thầm nghĩ, nếu năm đó nàng ta không bị chọn làm tú nữ mà trở thành cung nữ, cho dù có vất vả một chút thì đến năm hai mươi lăm tuổi cũng sẽ được cho rời khỏi cung. Tới khi đó rồi thì tha hồ trời xanh nước biếc, chẳng cần phải sống trong một bầu không khí vất vả và nặng nề như thế này nữa.

    Nếu không ở trong cung, lúc này nàng ta có lẽ đã con cái thành đàn. Dưới ánh dương thu dìu dịu như lúc này đây, nàng ta sẽ ngồi thêu một bức hình uyên ương hồ điệp, thỉnh thoảng lại ngoảnh đầu qua nói cười với phu quân của mình vài câu, lúc thì quay qua dỗ dành mấy đứa con ngoan ngoãn.

    Vậy nhưng lúc này đây, ngay đến một cung nữ nhỏ bé cũng vui vẻ và hạnh phúc hơn nàng ta rất nhiều.

    Những người kia đã dần đi xa khuất bóng, thế nhưng y vẫn đứng đó ngẩn ngơ. Ánh dương buổi chiều vốn cực kỳ ấm áp, thế nhưng trên lưng y lại rỉ đầy mồ hôi làm ướt đẫm chiếc áo lót đang mặc trên người. Thấy y cứ thẫn thờ như thế, gã tiểu thái giám kia liền khẽ gọi một tiếng: “Công tử.”

    Y lập tức tươi cười đáp lại: “Hoàng cung lớn quá, ta đi lâu rồi nên có hơi mệt.”

    Gã tiểu thái giám cười trừ, nói: “Dạ phải, trước đây Hoàng thượng sủng ái Ly Phi, cố ý chọn một tòa cung điện có phong cảnh đẹp, do đó đường đi mới hơi xa một chút.” Đi thêm chừng một tuần hương nữa, dõi mắt nhìn về phía xa đã có thể nhìn thấy bức tường màu đỏ sẫm của Trường Dương cung. Đó là một nơi vô cùng tịch mịch, hồ Thái Dịch nhẹ đưa gợn sóng ở ngay sát kề bên, những gốc liễu phất phơ khẽ rủ, mấy con chim màu vàng kim đang nghỉ chân trên cành thỉnh thoảng lại hót lên một tiếng, rồi lại thêm tiếng nữa, có điều những tiếng chim hót ấy lại càng khiến cho khung cảnh nơi đây thêm phần tịch mịch, đi tới gần rồi ai cũng cảm nhận được một sự nặng nề vô hạn.

    Trước cửa cung có mấy gã thị vệ đang đứng tựa lưng vào tường mà gật gù chợp mắt, bộ dạng hết sức uể oải. Gã tiểu thái giám kia khẽ xua tay ra hiệu với bọn hắn, ngầm bảo bọn hắn chớ lên tiếng, sau đó thì đi vòng tới một ô cửa ngách nhỏ ở mãi phía sau, lấy chìa khóa ra mở cửa.

    Y không khỏi có chút thấp thỏm bất an, đây mới là lần đầu tiên y đặt chân vào cung điện của một phi tần khác ngoài muội muội của mình trong chốn hoàng cung này. Đây là cung điện của nàng ta, có lẽ lúc này y đi vào như thế, đối với Thiến Đào là một sự phản bội.

    Thế nhưng y thật sự có rất nhiều điều nghi vấn muốn hỏi nàng ta, nhiều vô kể. Suốt bao ngày đêm, những điều nghi vấn ấy như siết chặt trái tim y, khiến y không sao thở nổi. Bóng dáng ngây thơ, e thẹn của nàng ta trong ký ức cùng với bóng dáng tàn độc, dữ dằn như rắn rết trong tưởng tượng của y không ngừng đan xen vào nhau, không ngừng cào xé y và Thiến Đào, ngay cả trong lúc thần trí mơ hồ y cũng chưa từng cảm thấy bối rối như vậy.

    Vừa bước chân qua cửa, một mảng màu hồng lập tức đập vào mắt y, rạng rỡ vô cùng, khiến y thiếu chút nữa đã cho rằng đó là những bông hoa đào thắm đượm sắc xuân. Chợt gã tiểu thái giám kia cất tiếng nhắc nhở: “Công tử cẩn thận, phấn hoa trúc đào có độc đấy.”

    Y giật mình tỉnh táo trở lại, hóa ra loài hoa giống với hoa đào này là trúc đào, diễm lệ nhưng có độc.

    Gốc chuối trong sân sớm đã lụi tàn, trở nên đen thui và mềm oặt đổ qua một bên, từ chỗ bị gãy gập còn rỉ ra một thứ chất dịch màu vàng ảm đạm. Giữa nơi cung điện hoa lệ đột nhiên xuất hiện một cảnh tượng như thế khiến y không khỏi giật mình thảng thốt, tự nơi đáy lòng bất giác sinh ra một tia xót thương khó nói bằng lời, không biết lát nữa gặp lại, bộ dạng của nàng ta sẽ thê lương tới mức nào đây.

    Y do dự trong chốc lát, cuối cùng vẫn bước chân qua cửa điện mà đi vào phía trong. Cảnh Xuân điện lúc này rất tối tăm, nhưng sự tối tăm đó lại không hề ảm đạm, thỉnh thoảng vẫn có một vài tia sáng lóe lên từ nơi tăm tối, trông hệt như ánh sao lấp lánh giữa trời đêm. Y tỉ mỉ nhìn kĩ, phát hiện những tia sáng đó hóa ra có nguồn gốc từ mấy sợi chỉ bạc được dùng để thêu bức hình Hòa Hợp nhị tiên bên trên tấm rèm buông lững lờ giữa điện. Nghĩ tới việc đó vốn là bức hình được dùng để chúc mừng khi người ta có con, y bất giác thầm chua xót trong lòng, nhớ lại một chuyện mà Hoàn Nhi đã nói với mình: An Lăng Dung vĩnh viễn không thể nào sinh nở được nữa.

    Khó khăn lắm mới thích ứng được với sự tối tăm trong điện, y chợt nhìn thấy những món đồ xung quanh đều là trân phẩm thượng hạng, trong đó còn không thiếu những loại kỳ trân dị bảo, tất thảy đều được đặt tùy tiện trên bàn hoặc trên giá, không có vẻ gì là trịnh trọng. Nơi chính giữa điện có đặt một bức bình phong làm bằng ngọc phỉ thúy, bên trên có hình thêu Lạc thần phú đồ, thực là một vật giá trị liên thành. Y là nam tử, vốn không hiểu lắm về mấy thứ này, có điều khi xưa từng một lần nghe muội muội kể rằng sau khi Ngụy Văn Đế chết thì sủng phi Tiết Dạ Lai bị đuổi về cố hương, có một lần vô tình đọc được bài Lạc thần phú của Tào Thực, nhớ lại quãng thời gian ở trong cung, thầm cảm kích ơn đức của cố hậu Chân Mật, bèn lấy tướng mạo của Chân Mật mà thêu ra bức tranh Lạc thần đồ này, lại thêu vào bên cạnh bài Lạc thần phú nữa. Tiết Dạ Lai vốn được xưng tụng là Trâm Thần[42], do đó bàiLạc thần phú được thêu bằng chỉ đen theo lối chữ Thảo thực là tinh diệu vô cùng, nét chữ có đậm có nhạt, uốn lượn bay bổng, hoàn toàn không khác gì viết bằng bút mực. Có thể nói trên đời này, bức bình phong kia chỉ có một cái duy nhất, chính là một món bảo vật vô giá.

    [42] Trâm là cây kim, đặt biệt hiệu như vậy là chỉ người này giỏi về nghề thêu thùa, may má - ND.

    Thấy y để lộ thần sắc nghi hoặc, gã tiểu thái giám kia vội cười trừ, nói: “An thị tuy thất sủng nhưng Thái hậu đã dặn dò rồi, mọi đồ đạc trong Cảnh Xuân điện cứ để nguyên đó, coi như là đồ tùy táng của thị ở nơi này.” Gã khẽ lắc đầu rồi nói tiếp bằng giọng thương hại: “An thị thật đáng thương, bây giờ đã chẳng còn ai hầu hạ nữa, ngày ngày phải ở bên một đống đồ vật chết, sống như thế thì còn có ý nghĩa gì cơ chứ!”

    Y nghe thấy vậy thì không kìm được thầm chấn động trong lòng, nhưng lại chẳng thể nói gì, chỉ ngẩn ngơ dõi nhìn bức bình phong đó. Y không giỏi đánh giá về tài thêu thùa, không biết hình thêu như thế là đẹp hay xấu, chỉ cảm thấy dáng đi của vị nữ thần sông Lạc bên trên đó thật là tha thướt vô cùng, chừng như sắp bước ra khỏi bức bình phong mà đi về phía mình.

    Hồi đó khi nghe muội muội kể về chuyện này, y đã thầm để tâm, nghĩ Lăng Dung rất giỏi thêu thùa, nếu được nhìn thấy bức hình thêu đó thì ắt sẽ rất thích. Có điều y cũng chỉ thầm nghĩ vậy mà thôi, một thứ báu vật giá trị liên thành như thế thì y làm sao mà có nổi, cũng giống như nàng ta sau khi đã vào cung và trở thành nữ nhân của Hoàng đế vậy, chỉ thỉnh thoảng mới lóe hiện lên trong những giấc mơ giữa đêm khuya thanh vắng của y.

    Chẳng ngờ thứ đó bây giờ lại thật sự đã thuộc về nàng ta, đủ thấy những năm qua nàng ta được sủng ái tới mức nào. Tuy y không được tận mắt nhìn thấy nhưng các nữ tử nơi hậu cung đa phần đều xuất thân thế gia, còn nàng ta thì chỉ là con gái của một Huyện thừa, thân phận thực là vô cùng thấp kém, thế mà lại có thể khởi đầu từ ngôi vị tuyển thị mà từng bước đứng vào hàng tam phi như vậy, quả là chẳng dễ dàng gì.

    Có điều giờ đây nàng ta bị giam cầm giữa một nơi chẳng khác gì lãnh cung, mọi sự phồn hoa xưa đều hóa thành giấc mộng, ngẫm kĩ ra mới thấy nực cười biết bao nhiêu.

    Y khẽ thở dài một hơi.

    Âm cuối của tiếng thở dài giống như một làn gió mát, còn chưa tan đi thì phía sau bức bình phong đã có bóng người lay động rồi. Y chờ một hồi lâu mà không thấy có ai đi ra, sau một hồi do dự đành cất bước đi vào. Phía sau bức bình phong là một gian phòng rất rộng rãi, chính là nơi đãi khách. Nàng ta ngồi ngay dưới ô cửa sổ trổ hoa, đôi tay thon đưa đi thoăn thoắt, vô số sợi chỉ màu ngũ sắc liền giống như những cánh bướm bay lượn nhẹ nhàng trên tấm vải trắng. Nàng ta hôm nay mặc một chiếc váy dài màu nâu vàng, mái tóc không hề búi lại mà buông xõa ra như một nữ tử còn chưa xuất giá, gió vừa thổi đến là lất phất tung bay, bên chỗ tóc mai có cài một chiếc trâm bạc đơn giản, tư thế thực là dịu dàng điềm đạm vô cùng, hệt như hồi mà y mới gặp. Cây trâm ấy y từng nhìn thấy từ xưa, hồi còn ở nhờ trong Chân phủ, nàng ta ngày nào cũng chỉ cài duy nhất một chiếc trâm đó, ngay đến y phục cũng thường mặc loại có màu sắc như hiện giờ, có điều về mặt chất liệu và kiểu dáng thì đương nhiên không thể nào so sánh được.Nàng ta của năm xưa đẹp tựa hoa đào, chính là một bông hoa đào vừa hé nở dưới sương đêm gió nhẹ.

    Khi y còn đang ngẩn ngơ giữa dòng hồi ức, nàng ta chợt ngẩng đầu lên, khẽ cất tiếng gọi y với một nụ cười thấp thoáng bên khóe miệng: “Chân công tử.”

    Chân Hành hơi sững người, trái tim đập thình thịch, không ngờ nàng ta lại dùng lối xưng hô giống hệt năm xưa. Thế nhưng giờ đã chẳng còn là năm xưa nữa rồi, chỉ sau một thoáng y đã tỉnh táo trở lại, lập tức chào hỏi theo đúng lễ nghi: “Ly Phi nương nương kim an!”

    Nàng ta dừng động tác trên tay, chợt mỉm cười, nói: “Ta vẫn coi công tử như trước kia, sao công tử lại gọi ta là “nương nương” như thế?” Giọng nàng ta nghe mềm mại tựa như làn gió tháng Ba. “Có phải công tử thấy ta đã già rồi, không còn giống trước kia nữa không?”

    Chân Hành cúi đầu, nói: “Lễ chế là vậy, thần không thể không tuân, quyết chẳng dám mạo phạm nương nương.”

    Nàng ta mỉm cười nhìn y, cất giọng dịu dàng: “Huynh dám một mình tới đây chứng tỏ đã chẳng ngại gì mạo phạm, sao còn phải dè dặt như thế làm gì.”

    Trước đây nàng ta đâu có thản nhiên như thế, nếu phát hiện ra ánh mắt của y thì ắt sẽ thẹn thùng cúi đầu, hai má ửng đỏ. Y ngẩng lên, một lát sau mới có thể nhìn rõ dung mạo của nàng ta, thấy nàng ta đã gầy đi rất nhiều, phải bôi rất nhiều phấn mới có thể che đi những vệt đỏ sưng vù trên má. Nghe nói đó là do Thái hậu ngày ngày phái người tới đây vả miệng nên nàng ta mới trở nên như vậy. Còn trong đôi mắt nàng ta thì chất chứa một nỗi tang thương vô hạn không thể nào giấu được. Y cất giọng bình tĩnh: “Dung nhan của nương nương vẫn như xưa, phục sức cũng không đổi, có điều trái tim sớm đã chẳng còn đơn thuần giống thuở nào nữa rồi.”

    Nàng ta cúi đầu thêu thêm mấy đường kim nữa, y thấy nàng ta đang thêu hình một cặp uyên ương nô đùa với nhau dưới gốc trúc đào nở hoa rực rỡ, khung cảnh hết sức thanh bình. Nàng ta khẽ nói: “Nếu trái tim vẫn còn đơn thuần như xưa, chắc ta sớm đã chết không biết bao nhiêu lần trong chốn cung cấm này rồi.” Dứt lời chợt cười khì một tiếng, nói tiếp: “Vừa rồi huynh nói tới lễ chế, vậy huynh lén lút đi vào cung điện của phi tần thế này có tính là vi phạm lễ chế không đây?”

    Chân Hành lùi về phía sau một bước, nói: “Đúng là thần đã thất lễ, có điều thần tới đây là theo lời mời của nương nương, và cũng đang có điều muốn hỏi nương nương.”

    Bên tay nàng ta có đặt một đĩa hạnh nhân, nàng ta cầm một hạt lên chậm rãi ăn, sau đó ngoảnh mặt đi, nửa bên mặt nhìn giống như một bông sen trắng vừa hé nở dưới ánh dương ấm áp. Rồi nàng ta cất giọng như đang nói mơ: “Huynh có biết ai đã dạy muội thêu thùa không? Chính là mẹ muội đấy. Bà từng là một người thợ thêu ở Tô Châu, tay nghề khéo léo vô cùng, thêu con chim thì như có thể bay được, thêu bông hoa thì như có thể tỏa hương. Bà thông minh khéo léo, trẻ trung xinh đẹp, vậy nên cha muội rất thích bà. Năm xưa cha muội chỉ là một người làm ăn chuyên bán hương liệu, khó khăn lắm mới tích cóp đủ tiền để cưới mẹ muội về, về sau lại phải dựa vào số tiền mà mẹ muội bán đồ thêu mới mua được một chức quan nhỏ. Mẹ muội đã vì cha muội mà làm việc cật lực đến nỗi hỏng cả đôi mắt, dung mạo cũng chẳng còn được xinh đẹp như hồi trẻ, cha muội liền cưới về mấy vị di nương, dần dần không còn thích mẹ muội nữa. Mẹ muội tuy là chính phòng nhưng mắt không được tốt, lại tuổi già sắc kém chẳng có tâm cơ gì, do đó liên tục phải chịu thiệt thòi, để rồi cuối cùng cha muội thậm chí còn chẳng muốn nhìn mặt bà lấy một lần. Muội ngày ngày phải nhìn mấy vị di nương kia tranh sủng, trong lòng liền biết rằng nữ nhân mà mềm lòng thì sớm muộn gì cũng phải chịu thiệt. Về sau ngũ di nương bỏ trốn theo một gã thợ may từ bên ngoài tới, còn mang theo tất cả tiền bạc, của cải trong nhà, mấy vị di nương thấy nhà muội đã suy bại, thế là dần dần cũng bỏ đi. Cha muội tuy là huyện thừa nhưng khi đó lại không được lòng huyện lệnh đương nhiệm, tình cảnh thực là tồi tệ vô cùng, căn bản không có cách nào tìm được ngũ di nương về, mãi tới khi đó ông mới nhớ tới những chỗ tốt của mẹ muội. Sau khi muội vào cung, thấy Hoa Phi thì hung hãn, Hoàng hậu thì bụng dạ thâm sâu, còn bản thân thì ngay đến một đứa cung nữ cũng dám ức hiếp. Khi đó muội rất sợ, mỗi đêm đều nằm mơ thấy muội biến thành bộ dạng như mẹ muội, hai mắt mù lòa, suốt ngày bị người ta ức hiếp, sống không bằng chết, khổ sở vô cùng.”

    Chân Hành tuy vô cùng căm hận sự tàn độc của nàng ta nhưng lúc này vẫn không kìm được sinh lòng thương xót. “Ta biết cuộc sống trong cung chẳng dễ chịu gì, nhưng dù ngày tháng có khó khăn đến mấy thì cũng chỉ cần tiến dần từng bước là được, đâu cần phải hãm hại những người ở bên cạnh mình chứ? Hoàn Nhi vẫn luôn coi nương nương như tỷ muội cơ mà.”

    “Đâu có ai trời sinh ra đã muốn làm hại người khác, làm hại những người ở bên cạnh mình.” Nàng ta ngoảnh đầu nhìn qua, nơi đáy mắt bừng lên một tia căm phẫn. “Sau khi vào cung, mỗi ngày muội đều rất sợ hãi, nhưng dù có sợ hãi đến mấy thì chỉ cần nghĩ tới một người là lòng muội lại dễ chịu hơn một chút. Muội vào cung được mấy tháng mà vẫn không chịu nhận sự sủng hạnh, huynh có biết là vì sao không? Đó là vì muội không muốn. Muội biết sau khi vào cung, mình đến chết vẫn chẳng thể ra ngoài. Cung tần không giống với cung nữ, cung nữ chỉ cần tới hai mươi lăm tuổi là có thể xuất cung hoàn hương, nhưng muội thì lại không thể, muội chỉ có thể chết già trong chốn hoàng cung này thôi. Nhưng...” Nàng ta cắn chặt môi, cặp mắt liếc nhẹ qua khuôn mặt y, tựa hờn tựa oán. “Muội thà rằng cả cuộc đời này chỉ nghĩ tới một người, không màng tới sự ân sủng của kẻ đế vương.”

    Y lờ mờ biết được người mà nàng ta nói tới là ai, bèn hơi ngước mắt lên, bắt gặp ánh mắt nóng bỏng của nàng ta, trái tim tức thì nhảy dựng, không kìm được buột miệng hỏi: “Người đó là ai vậy?”

    Trong mắt nàng ta ánh lên một tia lóng lánh thấp thoáng hình bóng của y, rồi cả hai đều lặng im không nói gì, hệt như ánh dương thu ấm áp ngoài sân lúc này. Đôi mắt nàng ta dường như không thể chịu nổi thứ ánh sáng rạng rỡ như thế nên vô cùng ngứa ngáy, trái tim thì đập thình thình không ngừng, chừng như sắp nhảy ra khỏi lồng ngực, bao nhiêu năm rồi, rốt cuộc cũng phải nói ra câu ấy rồi ư? Nàng ta âm thầm do dự, âm thầm giằng xé, dường như không thể tin vào những việc đang xảy ra trước mắt, bao nhiêu năm rồi, rốt cuộc đã có thể chính miệng nói với y rồi ư? Cổ họng nàng ta có chút nghẹn ngào, ánh mắt thì dịu dàng vô hạn, mãi một hồi lâu sau mới nhẹ nhàng cất tiếng: “Muội không tin là huynh không biết.”

    Nụ cười e thẹn ấy thật giống hồi nàng ta mới vào Chân phủ biết bao nhiêu. Lòng y bất giác thầm mềm lại, y biết là An Lăng Dung thích mình, y không chỉ một lần phát hiện nàng ta lén đưa mắt nhìn về phía y, y biết rất rõ. Nhưng khi vừa định mở lời thì trong lòng y đột nhiên xuất hiện hình bóng của một người, đó chính là Thiến Đào lúc vừa được gả cho y. Khi đó y đối xử với Thiến Đào kỳ thực không được tốt cho lắm, lúc nào cũng lạnh nhạt hững hờ, không có chút gì có thể gọi là thương yêu trìu mến. Buổi sáng hôm đó, khung cảnh ngoài trời đẹp như tranh vẽ, Thiến Đào ngồi trước gương nhẹ nhàng chải tóc. Mái tóc của nàng vừa đen vừa dày, hệt như một xấp lụa đen bóng thượng hạng. Y khẽ cất tiếng hỏi nàng: “Nàng bao nhiêu tuổi rồi?” Lời vừa ra khỏi miệng y đã cảm thấy hối hận, hóa ra sau khi Thiến Đào được gả vào nhà họ Chân, y chưa từng để ý tới những thứ thuộc về nàng, thậm chí cả việc nàng năm nay mười tám hay mười chín tuổi y cũng không biết, mà nữ nhân thì vốn bụng dạ hẹp hòi, dù tính tình nàng có ôn hòa đến mấy thì lần này, một phen phong ba chỉ e khó mà tránh nổi.

    Nào ngờ Thiến Đào lại không hề tức giận, chỉ ngoảnh đầu nhìn qua, cười tươi rạng rỡ. “Thiếp không tin là chàng lại không biết. Mới sáng sớm mà chàng đã định đùa cho thiếp vui đấy phải không?”

    Chân Hành thoáng sững ra, kế đó liền cười gượng. “Ta thật sự không biết.”

    Thiến Đào nhoẻn miệng cười, nói: “Mười tám. Nếu lần sau chàng còn không nhớ nổi thì thiếp sẽ nói lại với chàng.” Thế là y cũng nở nụ cười tươi.

    Kể từ khi ấy, y biết rằng Thiến Đào là một nữ tử cực kỳ khoan dung, hiền hậu, do đó, y đã dần dần yêu nàng.

    Nơi khóe mắt y đã vương dấu lệ từ lúc nào chẳng hay. An Lăng Dung thầm máy động trong lòng, hóa ra y vẫn còn nghĩ tới mình như thế, vẫn còn để tâm tới mình như thế, và rồi nàng ta có thêm một chút dũng khí, bèn khẽ nói: “Người đó chính là...”

    “Thần thực đã mạo muội quá rồi!” Chân Hành cắt ngang lời nàng ta. “Thần không nên thăm dò chuyện riêng tư của nương nương. Nương nương có nghĩ tới ai cũng không quan trọng, bởi thần chỉ là người ngoài, nương nương không cần phải nói cho thần biết làm gì.”

    An Lăng Dung thầm giá lạnh trong lòng, chiếc kim bạc trên tay hơi run lên, thiếu chút nữa thì tự đâm vào tay mình. Bên khóe môi nàng ta dần hiện lên một nụ cười buồn thương tột độ. “Công tử cho rằng trong lòng ta, công tử chỉ là người ngoài ư?”

    Y hít sâu một hơi, nói: “Đúng thế. Nương nương từng cùng với muội muội của thần là Thục phi tình như tỷ muội, nhưng xét cho cùng thần chỉ là huynh trưởng của Thục phi thôi, không có quan hệ gì với nương nương, do đó đương nhiên là người ngoài rồi.”

    Đầu ngón tay sao lại ra nhiều mồ hôi như thế chứ, làm nàng ta ngay đến một cây kim cũng không cầm chắc được. Nghe y cự tuyệt một cách dứt khoát như thế, cảm giác thật chẳng khác gì ngày đó tận mắt nhìn thấy y và Tiết thị ân ái bên nhau. Nàng ta chưa từng quên cảm giác lúc đó, giống như bị một mũi dùi băng sắc bén đâm thẳng vào trái tim vậy, toàn thân không có chỗ nào là không đau đớn. Tiết thị là thê tử kết tóc của y, còn bản thân nàng ta rốt cuộc chỉ là một người ngoài, dù chỉ đứng nhìn từ xa thôi cũng không kìm được thầm đau xót.

    Nhưng, nàng ta lại không cách nào hận y được.

    Nỗi bi thương nơi đáy lòng tựa như tuyết trắng bay đầy trời, lạnh đến thấu xương. “Đã từng có lúc muội cho rằng Chân Hoàn thật lòng đối tốt với muội. Khi tuyển tú, cô ta ra tay giúp đỡ muội, khi muội khốn cùng, cô ta đón muội về Chân phủ ở, rất mực quan tâm tới muội. Sau khi vào cung, muội với cô ta và My Trang nương tựa vào nhau. Khi đó, muội thật sự cho rằng cô ta tốt với muội. Cô ta có biết bao nhiêu thứ, chẳng hạn như xuất thân cao quý, dung mạo xinh đẹp, sự sủng ái của Hoàng thượng… cô ta cái gì cũng có. Còn muội thì bởi vì xuất thân hàn vi mà thường xuyên bị người ta coi khinh, còn vì sự đắc sủng của cô ta mà bị Hân Phi bức hại. Những việc ấy đều không quan trọng, cô ta là muội muội của huynh, lại đối xử với muội tốt như thế, vì cô ta mà phải chịu chút ấm ức cũng không có gì là ghê gớm cả. Nhưng tại sao cô ta phải nói với muội là huynh sắp thành thân chứ? Hơn nữa đối tượng thành thân còn là một tiểu thư thiên kim xuất thân thế gia. Kể từ khoảnh khắc cô ta nói với muội chuyện này, tất cả mọi sự hy vọng của muội đều hoàn toàn tan biến, muội không biết mình nên trông chờ vào chuyện gì, nên nằm mơ một giấc mơ như thế nào thì mới có thể ngăn cản được sự giá lạnh có ở khắp nơi trong cung. Muội không biết, muội thật sự không biết.” Trong giọng nói của An Lăng Dung chất chứa một cơn nghẹn ngào và bức bối không thể nào che giấu được. “Nhưng cũng chính từ khoảnh khắc đó, muội đột nhiên hiểu rõ, Chân Hoàn nhất định sớm đã biết được tâm ý của muội với huynh rồi, chỉ là cô ta không chịu nói ra mà thôi. Bởi vì biết nên chỉ cần dựa vào một câu nói, cô ta đã đập tan được mọi giấc mộng đẹp của muội, kể từ đó, ngay cả quyền lợi nằm mơ muội cũng chẳng còn.”

    Nàng ta thổ lộ những nỗi ấm ức chất chứa trong lòng đã lâu, thật nhiều biết mấy, biết bao nhiêu đêm nàng ta đã phải nghiến răng nín nhịn. Buổi đêm ở Minh Sắt cư quá tĩnh lặng, tĩnh lặng đến mức ngay cả những cơn gió cũng chỉ thoáng dừng chân, để lại những tiếng nói cười vui vẻ từ phía xa vọng lại, sau đó liền vội vã rời đi. Những tiếng nói cười vui vẻ ấy rốt cuộc là của ai? Là của My Trang ôn hòa điềm đạm, của Hoa Phi diễm lệ kiêu căng, hay là của Chân Hoàn thiên kiều bách mỵ?

    Là của ai đều không quan trọng, những tiếng nói cười ấy xưa nay chưa từng liên quan tới nàng ta. Nàng ta chỉ có thể rúc người vào một góc của Minh Sắt cư mà thầm đoán nguồn gốc của những tiếng nói cười ấy, trong lòng thì nghĩ về khuôn mặt tuấn tú kia, lại lạnh lùng nhìn ánh trăng chiếu lên làn da của mình từng chút, từng chút một, cho đến tận khi trời sáng.

    Chân Hành không kìm được thầm chấn động trong lòng, vội ngoảnh đầu qua một bên, chậm rãi nói: “Ta là thần tử của Hoàng thượng, nương nương thì là phi tần của Hoàng thượng, chúng ta vốn không thể có cơ hội đến với nhau. Hơn nữa trên vai ta và Hoàn Nhi không chỉ là tương lai của bản thân, còn là sự vinh hiển của toàn gia tộc. Nương nương nguội lòng rồi, vỡ mộng rồi, với nương nương, với ta và với gia tộc của bọn ta đều là chuyện tốt.”

    Nàng ta hơi nhếch khóe môi nở một nụ cười lạnh lẽo. “Đúng vậy. Khi đó muội còn chưa nghĩ tới điều này, cô ta làm muội vỡ mộng chẳng qua vì muốn muội thay Thẩm My Trang đi tranh sủng, qua đó củng cố địa vị của cô ta trong cung. Thục phi không phải là không thích Hoàng thượng, thế mà còn có thể tiến cử muội, thủ đoạn thực là ghê gớm. Hơn nữa khi Thẩm My Trang còn chưa bị cấm túc, khi địa vị của cô ta còn chưa nguy ngập, cô ta đâu có từng nghĩ đến việc chia sẻ một ít ân sủng nào cho muội, lúc nào cũng chỉ muốn một mình hưởng trọn ơn mưa móc của kẻ đế vương. Suốt bấy lâu cô ta đối tốt với muội, ra tay giúp đỡ muội, chiếu cố cho muội, chẳng qua chỉ là một sự bố thí mà thôi.”

    Trong những ngày tháng không được ân sủng, nàng ta sớm đã quen với sự khinh miệt và coi thường của Hoa Phi, dần dần, ngay đến những ả thị nữ cũng dám công nhiên cười giễu nàng ta. Ai cao quý hơn ai chứ? Nàng ta nghĩ thầm. Vốn muốn giành lấy một chút thể diện cho cha mẹ, ai ngờ việc lại chẳng được như ý nguyện, nàng ta dần trở thành cát bụi mà ai ai cũng có thể giẫm đạp lên. Những nỗi không cam tâm thuở thiếu thời kết hợp với cảnh ngộ trước mắt rốt cuộc đã làm nàng ta bừng lên lòng hiếu thắng, thế nhưng chỉ cần nghĩ tới từng lời nói, từng nụ cười của y, thế là hùng tâm vạn trượng của nàng ta lập tức biến thành một nỗi dịu dàng khó nói bằng lời, nếu một ngày nào đó thật sự nhận sự ân sủng của kẻ đế vương, vậy là mối duyên phận với y coi như đã kết thúc rồi.

    Trong những tháng ngày ấy, đứng bên Chân Hoàn được sủng ái tột cùng, nàng ta vô cớ bị ví với một nhành liễu dưới ánh tịch dương, u buồn khôn xiết.

    Nữ tử nếu như mệnh bạc, quả thực chẳng khác gì son phấn trong hộp, không được ai ngó ngàng tới.

    Vận mệnh bạc bẽo, thê lương ấy ngay đến Hoàng hậu thân là mẫu nghi thiên hạ mà còn không tránh nổi, huống chi là bản thân nàng ta. Trong những ngày tháng đó, ngoài Chân Hoàn vẫn hậu đãi nàng ta theo thói quen ra, người duy nhất còn dành cho nàng ta một chút quan tâm chính là Hoàng hậu.

    Sau chút cảm xúc được yêu quá hóa sợ, nàng ta dần dần cũng nhìn ra được phía sau thân phận tôn quý tột cùng của Hoàng hậu cũng ẩn chứa một mảng tối tăm và tàn khuyết, đó là bí mật mà gần như tất thảy mọi người trong cung đều đã biết, Hoàng hậu không hề đắc sủng.

    Hoàng hậu không phải trang tuyệt sắc, tạm chưa xét tới việc Thuần Nguyên Hoàng hậu trong lời đồn xinh đẹp đến cỡ nào, nhưng về mặt dung nhan thì Hoàng hậu trong bộ đồ hoa lệ trước mắt kia còn không so được với Chân Hoàn và Hoa Phi, thậm chí so với Lệ Quý tần dung tục, tầm thường và Phùng Thục nghi dịu dàng, điềm đạm, cô ta cũng kém hơn mấy phần về sự kiều diễm.

    Hơn nữa, dung nhan của nàng ta cũng giống như ráng chiều nơi chân trời vậy, ngày càng trở nên ảm đạm.

    Thực khó có cách nào để không than thở, nữ tử khi trẻ tuổi có ai mà không xinh đẹp rạng ngời, tựa như một bông hoa e ấp dưới sương sớm long lanh; nhưng sau khi già rồi thì hương sắc phai tài, chẳng khác nào bông hoa héo úa, khiến người ta vừa nhìn đã thấy khó chịu, chỉ hận không thể loại bỏ nó ra khỏi tầm mắt.

    Chẳng trách Hoa Phi vốn trẻ trung, xinh đẹp lại dám thể hiện sự khinh miệt như thế trước mặt Hoàng hậu, rõ ràng là chẳng coi Hoàng hậu ra gì.

    Thế nhưng chẳng rõ vì sao nàng ta lại vô cớ sinh ra hảo cảm và muốn gần gũi với Hoàng hậu, tựa như trăng sáng rọi gương lạnh, để rồi cả hai cùng nhìn thấy được sự thê lương giá buốt của nhau. Trên người Hoàng hậu có một vẻ gì đó làm nàng ta cảm thấy quen thuộc, nàng ta cũng không biết đó là thứ gì, chỉ cảm thấy vô cùng thân thiết. Có lẽ sự quen thuộc ấy, bản thân nàng ta cũng có, chỉ là chưa từng phát hiện ra mà thôi.

    Thế rồi nàng ta bắt đầu thân cận với Hoàng hậu hơn một chút, bản lĩnh nhẫn nại, sự trống vắng cùng với khí độ ung dung, cao quý của Hoàng hậu khiến nàng ta không kìm được thầm sinh lòng ngưỡng mộ. Cho đến một ngày, sau khi thỉnh an, nàng ta đã ở lại một mình, dâng lên chiếc túi thơm mà mình tự tay thêu. Hương liệu trong chiếc túi thơm đó, nàng ta đã phải cân nhắc rất lâu mới chế thành, có mùi hương cực kỳ tao nhã, lấy hoa mẫu đơn và hoa lan làm nguyên liệu chính, lại kết hợp với Trầm thủy hương và lá thông, thoạt ngửi thì chỉ thấy một thứ mùi thanh đạm, lâu dần, mùi hương của hoa mẫu đơn mới tỏa ra khiến lòng người thư thái. Ngay đến hình thêu trên chiếc túi thơm đó cũng được nàng ta lựa chọn cẩn thận, ấy là hình phượng hoàng bay giữa vườn mẫu đơn, vừa hoa lệ mà lại vừa hợp với thân phận của Hoàng hậu.

    Hoàng hậu tất nhiên rất vui mừng, sau khi ngắm nghía một chút liền khen nàng ta thêu rất khéo, mùi hương thì trang nhã, thanh tao. Khi mặt nàng ta hơi ửng đỏ thì Hoàng hậu đột nhiên đổi giọng: “Chiếc túi thơm này đúng là rất tốt, nhưng tiếc quá, bản cung xưa nay không quen dùng hương liệu.”

    Nữ tử trong cung không có ai là không thích dùng hương liệu, nhưng mãi tới lúc này nàng ta mới để ý thấy mỗi lần mình tới thỉnh an, trong cung của Hoàng hậu chỉ có những thứ mùi tự nhiên của hoa tươi quả ngọt chứ không hề có mùi hương liệu. Nàng ta bất giác đỏ mặt tía tai, còn cảm thấy lúng túng, khó xử hơn khi được Hoàng hậu khen vừa rồi. Nàng ta chỉ hận không thể tát cho mình một cái, sao lại có thể không cẩn thận như thế chứ? Nhưng mấy lời ôn tồn sau đó của Hoàng hậu đã giúp nàng ta thoát khỏi cảnh bối rối chân tay: “Bản cung không phải là không thích hương liệu, nhưng có mấy lời này muốn dặn dò ngươi, có một số loại hương liệu nếu dùng không cẩn thận sẽ tự mình hại mình, chẳng hạn như xạ hương vậy, nữ tử ngàn vạn lần không thể đụng đến. Nếu đụng đến rồi, người có thai sẽ bị sẩy thai, người chưa mang thai thì sẽ không dễ gì mang thai được.”

    Việc này nàng ta tất nhiên biết rõ, trong rất nhiều đêm được sủng hạnh về sau, nàng ta đều đeo một chiếc túi thơm có chứa chút ít xạ hương bên trong, qua đó ngăn được việc phải mang thai cho nam nhân mà nàng ta không yêu. Hơn nữa, khi nhìn thấy Quản Văn Uyên vui mừng phấn khích đeo “chuỗi mã não đỏ” mà Hoàng hậu ban tặng, nàng ta liền hiểu rằng Hoàng hậu cũng không hy vọng nàng ta có con với Hoàng đế.

    Đương nhiên đó đều là chuyện về sau, còn khi đó nàng ta vẫn vô cùng cảm kích sự ôn tồn và chu đáo của Hoàng hậu.

    Hoàng hậu khẽ nở nụ cười, nhìn nàng ta, nói: “Ngươi đã biết cách phối chế hương liệu thì chắc hẳn cũng hiểu được những điều mấu chốt bên trong, bản cung dặn dò như vậy xem ra là có hơi nhiều lời rồi.”

    Đây chính là chỗ thông minh của Hoàng hậu, chỉ từ một chiếc túi thơm nho nhỏ mà biết được nàng ta rất hiểu về hương liệu, còn Chân Hoàn thì chỉ thích cùng nàng ta nghiên cứu các phương thuốc cổ để từ đó phối chế ra Bách Hòa hương hiếm có mà thôi.

    Nàng ta còn nhớ rất rõ, hôm đó là đêm ngày Mười lăm, Hoàng đế theo lệ thường phải tới qua đêm ở cung của Hoàng hậu, và đó thường cũng là ngày duy nhất Hoàng đế qua đêm ở chỗ Hoàng hậu hằng tháng.

    Có lẽ chính bởi vì nguyên nhân này nên khi đó Hoàng hậu mới chịu ôn tồn, hòa nhã nói chuyện với nàng ta như vậy.

    Quả nhiên không bao lâu sau, thái giám Tiểu Hạ Tử bên cạnh Hoàng đế đã tới truyền chỉ, mà Hoàng hậu cũng chuẩn bị tiếp chỉ bằng vẻ mừng vui và mong chờ. Thế nhưng thứ mà nàng ta nhận được lại là lời khẩu dụ: “Hoàng thượng đêm nay nghỉ lại Đường Lê cung, mời Hoàng hậu hãy đi nghỉ sớm.” Đó là việc rất ít khi xảy ra, trừ phi Hoa Phi làm nũng thái quá, bằng không hiếm có khi nào lại xuất hiện tình huống như vậy. Huống chi lúc đó Chân Hoàn đã liên tiếp được sủng hạnh mấy ngày, hoàn toàn phá vỡ quy củ Hoàng đế sủng hạnh bất quá tam. Nàng ta thấp thỏm bất an, cho rằng Hoàng hậu sẽ giận, ai ngờ Hoàng hậu lại nở một nụ cười càng thêm phần điềm đạm, ung dung. “Chân thị thông minh, dịu dàng, rất hiểu thánh ý, Hoàng thượng ở bên nàng ta nhiều một chút cũng là lẽ thường thôi.”

    Nàng ta không kìm được hít một hơi khí lạnh, đột ngột hiểu ra chỗ tương đồng giữa Hoàng hậu và mình, đó là hai người bọn họ đều rất giỏi nhẫn nhịn, mừng giận không để lộ ra ngoài mặt.Và rồi sau này, nàng ta còn hiểu được rằng nhẫn nhịn như thế không có nghĩa là không làm gì, mà là ẩn mình chờ thời cơ chín muồi rồi mới hành động.

    Trong khoảnh khắc ấy, nàng ta bỗng cảm thấy cho dù đó không phải là ý nguyện của bản thân Chân Hoàn, nhưng cứ thế đoạt mất thứ mà người khác trân trọng nhất, chờ mong nhất thực là một điều rất không hay.

    Hoàng hậu lại một lần nữa cầm chiếc túi thơm kia lên mà ngắm nghía kĩ càng, cười nói: “Có mùi thơm của hoa mẫu đơn, lại có hình của hoa mẫu đơn nữa, muội muội đúng là rất hiểu lòng bản cung.”

    Nàng ta chẳng biết đã lấy dũng khí từ đâu ra, chợt đánh bạo nói: “Phượng hoàng là chúa của muôn loài chim, mẫu đơn là vua của muôn loài hoa, quả thực rất hợp với Hoàng hậu.”

    Hoàng hậu khẽ nở nụ cười, nhẹ nhàng nắm chiếc túi thơm đó trong lòng bàn tay.

    Đó là một kiểu thể hiện thiện chí bằng hành động, nàng ta hiểu rõ.

    Ban đầu nàng ta chỉ có chút xót thương trước việc Hoàng hậu bị đoạt mất sự sủng ái mà thôi, có điều, nỗi đau xót khi bị người ta đoạt mất thứ mà mình trân trọng nhất, chờ mong nhất ấy nàng ta rất nhanh cũng đã được trải nghiệm, rồi kế đó còn hiểu được rằng, trong chốn cung cấm này, sự sủng ái của kẻ đế vương chưa chắc đã có liên quan gì tới dung mạo. Hoàng hậu không phải trang tuyệt mỹ, thế nhưng lại có thể đứng vững ở ngôi hoàng hậu bao năm, bản thân thì có giọng hát rất hay, đó chính là một ưu thế rất lớn. Nàng ta nhờ vào giọng hát mà đã dần dần leo cao, thế nhưng thỉnh thoảng trong những đêm giật mình thức giấc sau cơn say túy lúy, nhìn vào nam tử cao quý đang ôm mình ngủ kia, trong lòng nàng ta bỗng nhiên xuất hiện một khuôn mặt mà mình khó lòng quên được. Giữa sự lạnh lẽo của màn đêm, dưới những ánh sao mờ mờ chiếu xuống, nàng ta bỗng nhiên cảm thấy mỏi mệt, tự nơi đáy lòng nảy sinh cảm giác muốn lùi bước.

    Sau một trận phong hàn, nàng ta phát hiện thứ thuốc mà thái y dùng đã khiến giọng hát của mình chỉ sau một đêm hỏng hẳn, trở nên khàn khàn khó nghe. Nàng ta đột nhiên tự nhủ, cứ thế này mà lùi bước có lẽ cũng là chuyện tốt, có điều sự ân sủng biến mất còn nhanh hơn so với trong tưởng tượng của nàng ta, chừng như chỉ sau nháy mắt nàng ta đã thất sủng. Dõi mắt nhìn những thứ đồ vàng ngọc lấp lánh bắt mắt trên bàn, nàng ta không khỏi có chút ngẩn ngơ khi đột nhiên phải quay về cuộc sống lạnh lẽo như trước.

    Nàng ta bèn thử khôi phục lại giọng hát của mình, nhưng phát hiện lực bất tòng tâm, thế là dần bỏ cuộc. Khi ấy Chân Hoàn vừa mang thai đứa bé đầu tiên, đắc sủng tột cùng, không có thời gian để ý tới nàng ta. Hoàng hậu thấy nàng ta mất giọng, bèn tận tâm chế thuốc, lại mời ca nữ năm xưa từng hầu hạ Thuần Nguyên Hoàng hậu tới dạy cho nàng ta cách phát âm, để rồi giúp nàng ta lại một lần nữa cất lên được tiếng hát tuyệt vời. Nàng ta nghĩ tới việc phụ thân của mình vô cớ bị liên lụy đến nỗi sắp mất mạng, trong cơn hoang mang thảng thốt mới hiểu ra được tầm quan trọng của sự ân sủng và địa vị trong cung, có điều ngay cả một người được sủng ái như Chân Hoàn cũng phải vì việc của mình mà đi cầu xin Hoàng hậu, chứng tỏ Hoàng hậu mới là một người thật sự có thể cậy nhờ. Do đó, khi nàng ta phát hiện trong thứ thuốc Thư ngân giao mà Hoàng hậu yêu cầu mình đưa tặng cho Chân Hoàn thấp thoáng có mùi xạ hương thì vẫn mặt không đổi sắc, mỉm cười nhận lấy.

    Đó có thể coi là một sự hiểu ngầm, cũng giống như khi nhìn thấy Hoàng hậu bóc hạt thông, nàng ta liền mỉm cười nhắc nhở rằng thứ mùi này có tác dụng kích thích rất mạnh đối với chó mèo.

    Chẳng bởi điều gì khác, chỉ vì trong cuộc đời này, nàng ta nhất định phải nương nhờ Hoàng hậu, sau đó giúp mình đạt thành ý nguyện.

    Đã không còn tình yêu nữa, vậy thì nàng ta sẽ phóng đại sự thù hận lên vô số lần, để từ đó lấp đầy sự cô đơn và trống vắng phía sau vẻ ngoài hoa lệ của bản thân.

    Chân Hành thấy nàng ta nói năng bạc bẽo như vậy thì lắc đầu, nói: “Hoàn Nhi nếu sớm biết nương nương vì vương vấn ta mà tránh sự ân sủng, vậy thì ắt sẽ chẳng miễn cưỡng nương nương, huống chi nếu đúng là ba người nương tựa vào nhau như nương nương nói, vậy thì khi My Trang bị cấm túc, địa vị của Hoàn Nhi nguy ngập, nương nương đương nhiên phải chung tay chung sức rồi, chứ không chẳng lẽ lại chờ người ta hãm hại từng người một ư?”

    An Lăng Dung chỉ cười không nói gì, lại cúi đầu thêu thêm mấy đường kim nữa cho bộ lông sặc sỡ của cặp uyên ương, sau đó thì nhón vài hạt hạnh nhân lên ăn, thấp giọng thở dài. “Huynh là huynh trưởng của nàng ta, tất nhiên chuyện gì cũng đứng về phía nàng ta, nói giúp cho nàng ta rồi. Muội không gặp may như vậy, không có huynh trưởng làm chỗ dựa, cũng không có ai để mà tin tưởng, bấy lâu nay muội chỉ có một mình mà thôi.”

    Không phải là không hâm mộ tình tỷ muội sâu đậm giữa Chân Hoàn và My Trang, có điều nàng ta tự thấy rằng mình không thể so sánh với My Trang được, thậm chí có lúc còn cảm thấy Chân Hoàn chưa từng đối xử thật lòng với mình, chẳng qua chỉ mang lòng lợi dụng mà thôi.

    Trong khoảnh khắc chuyện cũ hiện về trước mắt, chợt liếc thấy vẻ mặt muốn nói gì đó của Chân Hành, An Lăng Dung biết rõ là y muốn nói gì, thế nhưng lại không muốn nghe, bèn chăm chú nhìn y, nói: “Bệnh đau răng của huynh khi xưa đã đỡ hơn chút nào chưa?”

    Chân Hành chỉ đành đáp: “Đa tạ nương nương quan tâm, đã đỡ hơn nhiều rồi.”

    “Huynh cắn búp hoa đinh hương hay là dùng cách gì khác?”

    “Cách của nương nương rất hữu dụng.” Vừa đáp xong, ngón tay y vô thức sờ vào chiếc túi gấm nhỏ đeo bên hông, bên trong đó trước giờ vẫn luôn có mấy búp hoa đinh hương, mỗi khi đau răng là y lại lấy ra ngậm vào miệng, vừa có thể giảm đau lại vừa có thể làm thơm miệng. Rất lâu trước đây, y từng vô cùng trân trọng những điểm tốt của nàng ta, và bây giờ... y vẫn chưa thể nào hoàn toàn buông bỏ được.

    “Vậy thì muội yên tâm rồi.” Nàng ta ngẩng đầu lên, khẽ thở ra một hơi. “Huynh đến gặp muội ắt là có lời muốn nói, bây giờ huynh muốn hỏi gì thì cứ việc hỏi đi.”

    Chân Hành trầm giọng nói: “Ân oán giữa nương nương và Hoàn Nhi ta không rõ lắm, nhưng muội muội ruột thịt của mình tính cách thế nào thì ta biết rất rõ ràng, muội ấy không bao giờ vô duyên vô cớ đi hãm hại người khác. Ta chỉ hận mình phải ở bên ngoài cung, không thể giúp đỡ muội ấy vào những lúc muội ấy cần. Khi muội ấy bị sẩy thai, khi muội ấy phải chịu đủ nỗi ấm ức, khi muội ấy bị phế truất và đuổi ra khỏi cung, ta đều chỉ có thể trơ mắt nhìn chứ chẳng giúp đỡ gì được.”

    An Lăng Dung mân mê lọn tóc mai buông lơi, lại cầm bốn, năm hạt hạnh nhân lên ăn, cất giọng u buồn: “Huynh lúc nào cũng tự trách mình như thế. Có lúc muội rất ngưỡng mộ Thục phi, trong cung có biết bao nữ nhân giống hệt xác chết biết đi như thế, chỉ duy mình cô ta được xuất cung. Tuy khi đó cô ta chỉ là phế phi bị phế truất, nhưng như thế cũng đâu có sao. Bên ngoài cung cấm là một nơi hoàn toàn khác, con người tràn đầy sức sống, trái tim cũng tràn đầy sức sống. Nhưng cô ta thật ngốc nghếch, cứ nhất quyết muốn về cung, để rồi giam mình giữa một nơi sống không ra sống, chết không ra chết thế này.” Nàng ta vừa nói vừa nhìn Chân Hành bằng ánh mắt ai oán. “Vừa rồi huynh nói thế chẳng qua là muốn trách muội tàn độc mà thôi, nhưng muội vốn không hề muốn đứa bé đó chết. Trong chốn hậu cung này, ai ai cũng có những chỗ bất đắc dĩ của mình, muội cũng thế mà thôi. Nếu không vì cha muội bị Hoa Phi giở trò hãm hại, muội làm sao biết được nhất định phải có sự ân sủng của Hoàng thượng thì mới có thể đứng vững trong cung. Không phải muội muốn hại con của Chân Hoàn, là Hoàng hậu muốn thế.” Nàng ta hơi cau mày lại, lộ vẻ không được thoải mái cho lắm. “Từ sau chuyện đó muội vẫn luôn cảm thấy áy náy vô cùng, cho dù về sau Hoàng hậu và Quản thị muốn dồn cả nhà họ Chân vào chỗ chết thì muội cũng không hãm hại Thục phi thêm nữa. Nhưng muội rất hận, suốt quãng thời gian ở trong cung muội chẳng có ngày nào được vui vẻ, thế nhưng lại không thể không cười, không thể không tranh sủng. Nếu không vì Chân Hoàn đẩy muội lên con đường này, muội đâu cần cả đời phải sống trong u uất như thế chứ? Sau khi Phó Như Kim vào cung, muội sợ hãi vô cùng, vì cô ta trông giống muội muội của huynh quá, muội không kìm được sinh lòng sợ hãi, còn căm hận nữa, những việc gì không thể làm với muội muội của huynh thì muội đều phát tiết lên người cô ta. Với Thục phi, muội không thể xuống tay đuổi tận giết tuyệt. Nếu muội muốn cô ta chết, khi cô ta ở bên ngoài cung, muội chỉ cần tùy tiện sai người đẩy cô ta xuống dưới vách núi là được rồi, nhưng cô ta dù sao cũng là muội muội của huynh. Muội hận muội muội của huynh, hận Hoàng hậu, hận Hoàng thượng. Muội hận, nhưng muội cũng sợ nữa. Muội đương nhiên biết Hoàng hậu không phải thật lòng muốn giúp muội, cô ta bảo muội đi tranh sủng, dạy muội cách mô phỏng giọng hát của Thuần Nguyên Hoàng hậu, chẳng qua là muốn muội trở thành một cái bóng mà thôi.”

    “Nương nương hận tất cả những người bên cạnh mình, đặt bản thân mình vào giữa thù hận để đến nỗi không thể tự thoát ra được. Nhưng Hoàng thượng sủng ái nương nương nhiều năm như thế, dù không thật lòng thích thì cũng không tính là bạc đãi nương nương, nương nương muốn hãm hại Phó Như Kim cũng được, nhưng việc gì phải dùng ngũ thạch tán để làm hại tới long thể như vậy?”

    An Lăng Dung không sao kìm nén được nữa, cắm mạnh chiếc kim trong tay vào miếng vải thêu. “Y sủng ái muội ư?

    Vậy thì huynh quên mất rồi, phong hiệu mà y ban cho muội là Ly Phi, huynh đã từng nghe nói có vị phi tần nào tự cổ chí kim phải dùng tên một loài chim làm phong hiệu chưa? Muội muội của huynh đã tìm đủ mọi cách để làm nhục muội, khiến muội phải nhận phong hiệu Ly Phi này, có điều cô ta vốn căm hận muội tới tột cùng, làm như thế cũng không có gì là ghê gớm, nhưng còn Hoàng thượng, không ngờ y lại vui vẻ đồng ý, qua đó đủ thấy suốt bao năm nay, trong lòng y, muội chẳng qua chỉ là một con chim hoàng oanh biết hát mà thôi. Nếu hát hay y sẽ thích, khi nào không hát được nữa thì sẽ thất sủng. Nếu không vì muội có giọng hát giống Thuần Nguyên Hoàng hậu, nếu không vì muội thường xuyên nhún nhường, nếu không vì muội từng bao lần sử dụng hương liệu để giữ chân y lại, e rằng kết cục của muội sẽ còn thê thảm hơn bây giờ gấp cả trăm lần. Hoàng hậu lợi dụng muội, đề phòng muội, vì Quản thị mà không tiếc chèn ép muội, hạ thấp muội, Hoàng thượng thì chẳng qua chỉ xem muội như một món đồ chơi mà thôi. Khi đó, ngay cả quyền lợi nằm mơ muội cũng chẳng có, vì chỉ cần nghĩ tới huynh là lập tức lại nghĩ tới cảnh huynh đã thành cặp thành đôi với người khác rồi, muội làm sao có thể không hận được chứ? Muội thường nghĩ, nếu không có Hoàng thượng, vậy thì sẽ không có những cuộc tuyển tú, và muội sẽ không phải rời xa huynh; nếu không có Hoàng thượng, muội sẽ không phải ngày ngày bày mưu tính kế; nếu không có Hoàng thượng, muội sẽ không phải trở thành con cờ trong tay Hoàng hậu. Thứ mà Hoàng hậu yêu nhất trong cuộc đời này chính là ngôi hậu và Hoàng thượng, thấy Phó Như Kim chuyên sủng như thế, cô ta còn căm hận hơn muội. Tuy chính cô ta đã dặn muội trừ bỏ Phó Như Kim, nhưng muội lại làm theo cách của muội để có thể một mũi tên trúng hai con chim. Muội khuyên Phó Như Kim sử dụng ngũ thạch tán để tranh sủng, khiến Hoàng thượng mê đắm cô ta; Hoàng thượng dùng ngũ thạch tán tự làm hại đến thân thể, Hoàng hậu còn đau xót hơn so với việc bản thân bị đâm vài đao vào người gấp nhiều lần. Chỉ khi đó muội mới thật sự vui sướng.”

    Ngay đến bản thân nàng ta cũng cảm thấy Hoàng đế không thật sự sủng ái mình ư? Kể từ khoảnh khắc nhận được phong hiệu Ly Phi, nàng ta liền biết rõ rằng trong lòng vị cửu ngũ chí tôn mà mình đã bầu bạn nhiều năm ấy, nàng ta chẳng qua chỉ là một con chim hoàng oanh biết hát mà thôi. Nàng ta từ lâu đã biết mình không phải trang tuyệt sắc, thân thể thì yếu đuối, thứ hiếm hoi đáng để kiêu ngạo chỉ là tính cách ngoan ngoãn, biết nghe lời, nghe lời đến mức khiến người ta quên mất rằng nàng ta vẫn là một con người, vẫn có suy nghĩ của riêng mình, và đương nhiên thứ đáng kể nhất của nàng ta vẫn là giọng hát giống với Thuần Nguyên Hoàng hậu. Có điều nàng ta cảm thấy chỉ có giọng hát ấy thôi thì còn chưa đủ. Thỉnh thoảng lật xem sách cổ, nàng ta biết rõ hơn bất cứ ai rằng muốn phối chế ra một ít mỵ dược đối với bản thân mà nói là việc dễ như trở bàn tay. Khi ấy, sự ân sủng giống như một chiếc áo hoa lệ đã được khoác trên người nàng ta, một khi cởi ra là sẽ phát hiện bản thân kỳ thực vẫn chẳng có gì cả. Do đó, sau khi không còn giọng hát tuyệt diệu ấy nữa, cho dù biết rằng trong Tức Cơ hoàn có xạ hương nhưng nàng ta vẫn bất chấp tất cả để uống nó vào bụng.

    Không ai biết rằng nàng ta kỳ thực căm hận Huyền Lăng vô cùng. Nếu không có đạo thánh chỉ ấy của y, cuộc đời của nàng ta có lẽ sẽ diễn ra theo một chiều hướng hoàn toàn khác, viên mãn tột cùng.

    Đương nhiên nàng ta cũng căm hận Hoàng hậu, dù rằng nàng ta vẫn luôn đứng trước mặt Hoàng hậu để giúp nàng ta trừ bỏ rất nhiều nữ tử mà nàng ta kiêng dè, nhưng sau rất nhiều lần nhìn thấy thủ đoạn ghê gớm của Hoàng hậu đằng sau vẻ ngoài ôn tồn, điềm đạm, nàng ta sợ hãi vô cùng, bởi tính cách của nàng ta và Hoàng hậu kỳ thực rất giống nhau, Hoàng hậu làm sao có thể không kiêng dè nàng ta được chứ?

    Trong cơn phong ba về chiếc áo mà Hồ Uẩn Dung mặc trên người, khi Hoàng hậu ung dung nói ra nàng ta chính là người tố cáo, trái tim nàng ta như thắt lại. Đó không phải là vì bị bán đứng, nàng ta sớm đã quen với việc bán đứng người khác và bị bán đứng rồi, cũng giống như ăn cơm, uống nước vậy, hết sức bình thường. Nàng ta chỉ giật mình phát hiện, hóa ra bản thân cũng bị Hoàng hậu kiêng dè như thế, bất cứ lúc nào cũng có thể bị đẩy ra ngoài.

    Trong ngày Quản Văn Uyên lìa đời, trời mưa rất to, khắp nơi đều ngợp đầy hơi nước trắng xóa, vừa lạnh lẽo vừa thê lương. Khi đó nàng ta đứng sau lưng Hoàng hậu, cả hai cùng nhìn cái xác bị nước mưa xối vào của Quản Văn Uyên bị người ta kéo lê đi trên nền đá mọc đầy rêu xanh ở vĩnh hạng. Trong lòng nàng ta dâng lên một nỗi sướng khoái khó tả bằng lời, khi đưa mắt liếc qua thì thấy trên khuôn mặt Hoàng hậu là một vẻ hững hờ như thể chỉ có một con kiến vừa bị bóp chết mà thôi.

    Hoàng hậu chưa từng quá để tâm tới mấy việc này, một quân cờ cũ bị vứt bỏ thì chỉ cần tiện tay chọn lấy một quân cờ mới là xong. Nàng ta trước sau đều ung dung như vậy cả, bởi nàng ta chính là người đánh cờ.

    Rất nhiều lần nàng ta đã từng giật mình thức giấc giữa đêm khuya, dõi mắt nhìn về phía Chiêu Dương điện mà không kìm được đổ mồ hôi lạnh. Có lẽ đến một ngày nào đó, bản thân nàng ta cũng sẽ trở thành một trong những vong hồn vất vưởng giữa chốn hoàng cung. Đứa bé của nàng ta lẽ ra không nên xuất hiện, vì nàng ta đã đeo túi thơm chứa xạ hương rất nhiều lần rồi, còn từng uống Tức Cơ hoàn nữa, nhưng Hoàng hậu lại nói thẳng với nàng ta rằng: “Ngươi nhất định phải có thai, bằng không sẽ không thể cứu được An Tỷ Hòe, càng không thể cứu được chính bản thân ngươi.”

    Bấy lâu nay nàng ta đều không muốn mang trong mình đứa con của Hoàng đế, nhìn Chân Hoàn vì mất con mà khóc lóc sầu thảm, nhìn các phi tần vì những đứa con mà khi khóc khi cười, khi mừng vui khi thất vọng, nàng ta cảm thấy vô cùng nhạt nhẽo. Quả đúng là như vậy, tấm thân này đã nằm ngoài tầm khống chế của bản thân rồi, tựa như một chiếc lá trôi lềnh bềnh trên dòng nước, hà tất phải có thêm một đứa bé nữa làm gì, huống chi đứa bé đó còn là của nam nhân mà mình không hề yêu thương. Ngoài ra, một khi nàng ta có con, có vốn liếng để củng cố sự sủng ái, Hoàng hậu sẽ là người đầu tiên không chịu buông tha cho nàng ta, do đó đâu cần phải tăng thêm gánh nặng cho bản thân làm gì nữa chứ?

    Nàng ta đã hiểu quá rõ cách thức để khiến mình không có thai. Nhưng thật nực cười biết mấy, đã kiên trì suốt bao nhiêu năm như thế, vậy mà đến cuối cùng nàng ta lại không thể không nghĩ đủ mọi biện pháp để có thể thụ thai, dù rằng thân thể mỏng manh của nàng ta hồi đó đã không thể nào mang lại cho đứa nhỏ một sinh mệnh hoàn chỉnh. Nàng ta vẫn nhớ rõ khi ấy, Hoàng hậu mỉm cười nói với nàng ta rằng: “Sau này, dù ngươi không sinh được đứa bé ra thì đó cũng không phải là lỗi của ngươi.”

    Thỉnh thoảng nàng ta lại phải đeo túi thơm chứa xạ hương để tiếp cận các phi tần đang mang thai, có lần còn phải thay Hoàng hậu điều chế những thứ dược vật có xạ hương bên trong... Hoàng hậu quyết không bao giờ chịu đụng tay vào những thứ bẩn thỉu như thế, dù rằng nàng ta sớm đã biết rõ rằng mình không còn khả năng sinh nở nữa.

    Nàng ta ngay từ khi sinh ra đã hèn mọn rồi, chẳng phải thế ư?

    Nàng ta khẽ cười lạnh lẽo, thản nhiên vâng lời. Nàng ta sớm đã biết rồi, tính mạng của đứa bé trong bụng mình ắt sẽ được bù đắp bằng tính mạng của kẻ khác, còn về việc có phải là oan uổng hay không thì nàng ta chẳng buồn quan tâm. Do đó về sau, tuy biết rằng bản thân bị trúng kế của Chân Hoàn, biết rằng bản thân không thể sinh nở được nữa, nhưng nàng ta chẳng hề đau buồn, chỉ cảm thấy sự thất vọng vô biên đang từ từ ngưng tụ lại và biến thành tuyệt vọng.

    Nàng ta rất hận bản thân mình, hận sự thân bất do kỷ của bản thân, Chân Hoàn cũng được, Hoàng hậu cũng được, bản thân trước nay đều chỉ là một quân cờ trong tay bọn họ mà thôi.

    Nàng ta chưa bao giờ được là chính mình.

    Nàng ta căm hận vô cùng, liền không kìm được cắn chặt môi dưới, phải vậy mới có thể kìm nén được nỗi đau xót đang không ngừng trào dâng tự đáy lòng. Chân Hành chưa từng nhìn thấy nàng ta có bộ dạng thê lương như thế, không khỏi vừa kinh hãi vừa đau xót, bèn nói: “Dù thế nào đi nữa thì người phá vỡ giấc mơ của nương nương cũng không phải ai khác, mà là ta. Do đó nương nương không cần phải trút giận lên người khác, càng không cần trút giận lên vợ con của ta. Thiến Đào và Trí Ninh rốt cuộc đã làm sai điều gì chứ?”

    Khuôn mặt An Lăng Dung lúc này tựa như bị băng tuyết bao phủ, tràn ngập một sự lạnh lẽo tới tột cùng. “Huynh cho rằng muội không muốn ư? Muội vẫn luôn muốn hận huynh vô cùng. Muội hận huynh chọn một người có tướng mạo giống muội là Cố Giai Nghi để khiến muội ngỡ rằng huynh vẫn còn tình cảm với muội, hận huynh tạo ra cho muội một giấc mộng để rồi lại tự tay đập nát nó. Muội muốn hận huynh biết bao, thế nhưng lại không thể hận được. Muội chỉ có thể hận nữ tử gần gũi nhất bên cạnh huynh thôi. Ngày nào Tiết thị còn tồn tại, ngày đó muội liền cảm thấy mình hết sức nực cười. Người gặp huynh trước rõ ràng là muội! Là muội! Tại sao đến cuối cùng cô ta lại được chung sống bên huynh chứ? Muội vì huynh mà không muốn có con với Hoàng thượng, bao năm nay vẫn luôn dùng hương liệu để tránh thai, tại sao cô ta lại có thể sinh con cho huynh, có được cốt nhục của huynh chứ? Tại sao ai ai cũng muốn muội nguội lòng với huynh, còn huynh thì không thể đoạn tình với Tiết thị và đứa bé của bọn huynh chứ? Sau khi huynh bị lưu đày, Hoàng hậu liền cho rằng nhà họ Chân không còn cơ hội Đông Sơn tái khởi nữa, nàng ta tỏ ra tự tin vô cùng. Nhưng muội thì lại muốn biết sau bốn năm lưu đày, huynh rốt cuộc đã quên Tiết thị và Trí Ninh chưa, vì thế nên cố tình sai người đi nói cho huynh biết về cái chết của bọn họ. Khi đó chỉ cần huynh có thể nín nhịn được, muội ắt sẽ lập tức nghĩ cách để huynh không còn phải chịu khổ nữa.

    Nhưng không ngờ huynh lại vì nữ nhân đó mà phát điên! Nàng ta đã chết lâu như vậy rồi mà huynh vẫn còn nhớ mãi không quên. Muội hận! Muội hận! Tại sao Tiết Thiến Đào thứ gì cũng có, Chân Hoàn thứ gì cũng có, còn muội thì lại chẳng có gì hết? Muội hận vô cùng!” Khuôn mặt An Lăng Dung lúc này tựa như đang bùng cháy, hai hàng lệ nóng cuồn cuộn tuôn trào. Thân thể nàng ta run lên dữ dội, bàn tay đưa tới cầm một cây kéo lên, đột nhiên đâm mạnh xuống làm miếng vải trắng kia rách toạc. Tiếng vải rách vang lên nghe chói tai vô cùng, một bức hình thêu uyên ương vốn sắp hoàn thành cứ như thế bị hủy đi.

    Cũng không phải là chưa từng hối hận, khi nàng ta nhìn thấy bộ dạng thương tâm tột độ của Chân Hoàn lúc mất đi đứa con đầu tiên, trong lòng nàng ta ngoài sướng khoái ra còn có một tia thương xót, phong quang như cô ta mà không ngờ cũng có lúc phải thương tâm thế này. Chỉ có điều khi đó bản thân đã bắt đầu được hưởng vinh hoa ân sủng nên nàng ta bất chấp tất cả, cũng biết là bản thân không thể quay đầu được nữa.

    Mà khi nghe nói y vì một nữ tử tên gọi Cố Giai Nghi có dung mạo giống mình mà phải ly tán vợ con, nàng ta đột nhiên cảm thấy mềm lòng và hối hận. Chân Hoàn là muội muội của y, thứ mà nàng ta hại Chân Hoàn mất đi không chỉ là con của Chân Hoàn, còn là cháu tương lai gọi y bằng cậu nữa. Nàng ta làm sao có thể hại muội muội ruột thịt của y như thế được! Đêm đó, không ai biết rằng nàng ta đã lặng lẽ than khóc như thế nào, những giọt lệ làm ướt đẫm cả vạt áo.

    Chỉ là sau khi nước mắt đã cạn khô, sau khi đứng một mình giữa trời tuyết trắng mênh mang, nàng ta mới hiểu rằng mình chẳng qua chỉ là một kẻ dối mình dối người trong cạm bẫy, là một câu chuyện cười nực cười nhất trên thế gian này, bởi ngày xuân ấm áp én quay về vĩnh viễn là của người khác, còn nàng ta thì chỉ có thể đứng cô độc một mình như thế này thôi.

    Nụ cười hạnh phúc cùng với gia thế hiển hách của Tiết Thiến Đào và Chân Hoàn thực là bắt mắt biết bao, khiến nàng ta vừa tự ti lại vừa trống trải, không có chỗ nào để trốn tránh.

    Trái tim không còn nước mắt hóa ra lại trống trải và cứng cỏi đến mức này, nàng ta đột nhiên hiểu hơn về Hoàng hậu, cũng hiểu hơn về bản thân mình. Thế là khi sai người bỏ con chuột mắc bệnh sốt rét vào trong nhà lao cho cắn Tiết Thiến Đào và con trai của y, trong lòng nàng ta chỉ còn lại sự sướng khoái và thỏa mãn khi được trả thù.

    Nhưng y lại không hiểu được rằng, sự sướng khoái ấy kỳ thực là do nàng ta quá quan tâm đến y.

    Khuôn mặt của vợ đẹp con thơ như lại hiện về trước mắt, Chân Hành đau xót tột cùng, trong lòng như bùng lên vô vàn ngọn lửa dữ dội. “Nương nương cho rằng Giai Nghi là do ta cố ý tìm đến để dối gạt nương nương ư? Ngay đến bản thân ta cũng chỉ vừa mới biết thôi, Giai Nghi là do Hoàng hậu và Quản thị cố ý tìm tới để bày cạm bẫy, nguyên nhân là vì nàng ta có dung mạo giống nương nương, như thế thì bọn họ sẽ có thể ly gián nương nương, khiến nương nương một lòng hận ta và Hoàn Nhi, sau đó bọn họ sẽ rình rập chờ thời hãm hại nhà họ Chân. Nương nương cứ luôn nói “muội cho rằng”, nương nương lúc nào cũng dùng cảm giác của mình để đâm đầu vào chỗ bế tắc, nào có từng bình tâm để suy nghĩ một vấn đề bao giờ, do đó vĩnh viễn chỉ có thể sống trong đau khổ và thù hận mà thôi.” An Lăng Dung vốn đang nước mắt giàn giụa, tự thương cho thân thế mình, nghe đến đây thì bất giác sững người. Chân Hành cố kìm nén cơn giận, nói tiếp: “Ta làm gì mà chẳng biết tâm ý của nương nương với ta, ngay từ hồi còn ở Chân phủ ta đã biết rồi, nhưng khi đó vì kiêng dè thân phận của hai bên nên ta chỉ đành giả bộ như không biết, về sau nương nương đã vào cung nhiều năm như thế rồi, ta làm sao có thể cố ý đi tìm một nữ tử giống nương nương để trêu chọc đến nương nương chứ? Nếu nương nương chịu suy nghĩ kĩ một chút thì làm sao lại phạm phải sai lầm lớn như ngày hôm nay được.”

    Nước mắt An Lăng Dung chậm rãi tuôn rơi, vô số ánh dương thu chiếu lên khuôn mặt nàng ta, nhưng chừng như không thể nào hong khô những giọt lệ thành đôi của nàng ta được. “Tại muội không muốn nghĩ như vậy, cũng không dám nghĩ như vậy. Muội thà cho rằng huynh vẫn còn tình cảm với muội, muội thà hiểu lầm để rồi đi hận người khác. Buổi đêm trong chốn cung cấm này dài và lạnh lẽo vô cùng, mỗi giờ mỗi khắc trôi qua rồi, muội đều không dám ngoảnh đầu nghĩ lại. Nếu không cho rằng như vậy, muội thật sự sẽ giá lạnh đến phát điên lên mất.”

    Chân Hành ngoảnh mặt đi, lạnh lùng nói: “Nương nương dù có lạnh đến mấy thì cũng đừng nên dùng máu của người khác để sưởi ấm cho mình.” Giữa ký ức mơ hồ chợt lại hiện về một khoảnh khắc ấy, khi ruổi ngựa chém giết trên sa trường, những làn gió mang mùi máu tanh không ngừng xộc thẳng vào mặt, mỗi lưỡi đao chém vào xương cốt của kẻ địch đều sẽ bị cản lại một chút, rồi kế đó máu tươi sẽ phun ra che mờ đôi mắt của bản thân, còn lưỡi đao thì dù cứng rắn đến mấy cũng phải hơi oằn lại. Màn đêm nơi biên ải sâu thẳm mông lung, những vì sao thì đều trắng nhợt, gió mang theo cát bụi thổi vù vù, ngựa dừng bước cúi đầu uống nước bên bờ hồ, nhìn lâu rồi, trên mặt hồ nước trong veo ấy sẽ dần dần xuất hiện khuôn mặt của Lăng Dung.

    Y kỳ thực sớm đã phát hiện ra rồi, mỗi khi mình múa kiếm trong Chân phủ, đều có một cái bóng màu hồng nấp phía sau ô cửa sổ trổ hoa. Mà chỉ hơi chú ý lưu tâm một chút, mũi kiếm vốn đâm ra thẳng tắp của y liền bị chệch đi mất phần nào.

    Nếu không có sự ấm áp và cởi mở của Thiến Đào, cuộc đời này của y có lẽ sớm đã đi vào ngõ cụt, không thể nào trở ra được.

    An Lăng Dung đưa tay lên lau mấy giọt lệ còn vương trên bờ má, bình tĩnh nói: “Thật thất lễ quá! Chắc huynh chưa từng nhìn thấy một An Lăng Dung như vậy bao giờ. Có lẽ trong lòng huynh, muội sớm đã là một người đàn bà tàn độc như rắn rết rồi.”Chân Hành khẽ nói: “Trong ký ức của ta, nương nương mãi mãi là nữ tử áo hồng thướt tha đứng dưới gốc trúc đào trong Chân phủ.”

    An Lăng Dung không sao giấu được vẻ bất ngờ và mừng vui trong mắt. “Huynh vẫn còn nhớ ư?”

    Chân Hành khẽ gật đầu. “Trước giờ chưa từng quên.”

    An Lăng Dung cúi đầu mỉm cười, lại đưa tay cầm mấy hạt hạnh nhân nữa lên ăn. “Mong là huynh có thể nhớ mãi không quên, còn muội của ngày hôm nay thì huynh nhất định đừng nhớ làm gì. Nếu sau này huynh còn chịu nhớ lại, vậy thì xin hãy nhớ về muội của năm xưa.”

    Có lẽ là vì vừa rồi quá kích động, cũng có thể nước mắt đã làm nhạt bớt phấn son, khuôn mặt An Lăng Dung lúc này trông có chút nhợt nhạt. Một làn gió từ ngoài cửa thổi vào, những bức rèm sa tức thì tung bay lất phất, hệt như cuộc đời vốn đã vỡ vụn của một người đang bị bàn tay của vận mệnh tùy ý bỡn cợt.

    An Lăng Dung nhìn y bằng ánh mắt vô cùng lưu luyến, nhưng hồi lâu sau rốt cuộc vẫn chỉ cất giọng nhẹ nhàng: “Huynh đi đi! Đợi lát nữa Thái hậu ngủ trưa thức dậy, lỡ để người ta phát hiện ra việc huynh tới đây thì thật là không hay chút nào.”

    Chân Hành gật đầu, nói: “Cuộc nói chuyện của chúng ta coi như chấm dứt ở đây.”

    An Lăng Dung hơi nhếch khóe môi để lộ một nụ cười ảm đạm. “Muội tội nghiệt nặng nề, huynh ngàn vạn lần đừng tha thứ cho muội.” Thấy Chân Hành sững ra, nụ cười bên khóe môi nàng ta lại càng thêm rõ ràng. “Nếu huynh tha thứ cho muội rồi, sau này ắt sẽ không chịu nhớ tới muội nữa.”

    Nơi đáy lòng y dâng lên một nỗi chua chát khó diễn tả bằng lời. Nàng ta hóa ra là một nữ tử thông minh như thế, ngay từ sớm đã nói ra những lời này. Nàng ta biết rõ rằng y sẽ không tha thứ cho nàng ta, biết rõ rằng trong quãng đời còn lại, y sẽ nhớ tới nàng ta, vậy nên mới cố tình làm y khó xử thế này. Y ngoảnh mặt đi không nhìn nàng ta thêm nữa. “Nương nương cứ tự bảo trọng là được rồi. Lỗi lầm của nương nương thần sẽ không tha thứ, và thần sẽ cố gắng hết sức để không bao giờ nhớ tới nương nương nữa.”

    “Cố gắng hết sức?” Nàng ta khẽ nở nụ cười tươi. “Việc mà cần cố gắng hết sức để làm thì chứng tỏ chẳng dễ gì làm được.” “Nhưng, chỉ cần chịu cố gắng là đã đủ rồi. Ta sẽ không tha thứ cho nương nương, cũng sẽ không hao tổn tâm sức để hận nương nương, bởi vì làm vậy hoàn toàn không đáng.”

    Nơi đáy mắt An Lăng Dung ánh lên một tia sợ hãi sâu sắc, đầu ngón tay đang để trên ngực thì run lên lẩy bẩy không ngừng. Nụ cười của nàng ta lúc này trở nên thê lương tột độ. “Đúng thế, ngay từ khi sinh ra muội đã thấp kém, hèn mọn rồi, thậm chí còn chẳng đáng để người ta hận.” Nàng ta ngoảnh đầu qua một bên, chăm chú nhìn những bông trúc đào đang nở rực rỡ bên ngoài cửa sổ, chậm rãi nói tiếp: “Huynh nhìn xem, những bông hoa kia nở đẹp chưa kìa, tiếc rằng sang năm sẽ không còn nữa.”

    Chân Hành nhất thời còn chưa hiểu được tại sao nàng ta lại nói ra những lời thê lương như thế, chỉ nghĩ là nàng ta cảm khái về tình cảnh hiện giờ của bản thân, nên cũng không nói nhiều, xoay người cất tiếng cáo từ. Cảnh Xuân điện đã lâu rồi chưa được ai quét dọn, mỗi bước đi của y đều làm bụi bặm bốc lên. An Lăng Dung dõi mắt nhìn theo bóng lưng y, cảm thấy ngay đến những hạt bụi bay lên theo bước chân y cũng khiến người ta lưu luyến tột cùng. Liệu y có... ngoảnh đầu lại nhìn mình thêm lần nào nữa không? Nàng ta thầm nghĩ. Thế nhưng mới thoắt đó mà y đã đi tới trước cửa điện rồi, cũng không chịu ngoảnh đầu lại một lần nào cả. Nếu y thật sự không nhớ tới mình nữa... Nàng ta đột nhiên cảm thấy có chút sợ hãi, dường như bóng đêm cùng với những nỗi sợ hãi vô cùng vô tận đang cùng nhau nuốt chửng nàng ta, ngay cả khi nhìn thấy dòng máu nóng chảy ra từ trong người Chân Hoàn mang đi sinh mệnh của đứa bé còn chưa ra đời đó, nàng ta cũng chưa từng sợ hãi như vậy. Có lẽ nàng ta đã nợ y quá nhiều, nợ muội muội của y quá nhiều, bây giờ cũng nên bù đắp lại một chút.

    Giữa cơn thảng thốt, nàng ta chợt nhớ lại chuyện xưa, đó là một chuyện mà nàng ta vĩnh viễn không bao giờ quên được. Hôm đó nàng ta đang luyện múa điệu Kinh Hồng ở chỗ Hoàng hậu, đến lúc mỏi mệt quá liền ra sau điện tựa người vào vách tường của một gian phòng nhỏ mà ngủ gật. Khi ấy vào lúc đầu chiều, mấy gốc chuối xanh mướt bên ngoài cửa sổ che kín thân thể nàng ta, không người nào có thể nhìn thấy được.

    Giữa cơn mơ màng, nàng ta nghe thấy Tú Hạ nói với Hội Xuân: “Mau đi hầm một bát canh tổ yến phục linh đi, để nương nương ngủ trưa thức dậy còn uống.”

    Hội Xuân cười hì hì, nói: “Biết rồi.” Dứt lời liền hơi dừng một chút, thấp giọng nói tiếp: “Kim Lương viện e là đã có thai rồi, bên ngoài vừa đưa vào một ít đào nhân, đợi lát nữa hãy nghiền ra rồi cho vào trong trà hạnh nhân của cô ta, chỉ cần để Ngự thiện phòng đưa qua là thần bất tri quỷ bất giác ngay, ai bảo con bé đó ỷ được Hoàng thượng sủng ái mà kiêu căng chứ!”

    Tú Hạ cười lạnh một tiếng, nói: “Đáng đời cô ta lắm! Cách này có thể nói là linh nghiệm nhất rồi, ngươi đã quên Thuần Nguyên Hoàng hậu năm xưa rồi ư? Quyết không thể xảy ra vấn đề gì được.”

    Hội Xuân rời đi giữa những tiếng cười vang không ngớt của Tú Hạ, nàng ta thì sợ đến nỗi mồ hôi lạnh tuôn ra đầy người, thân thể nép sát vào tường, dường như ngay đến linh hồn cũng không còn là của mình nữa. Lúc đó, ánh dương đang phủ khắp, nhưng nàng ta thì lại cảm thấy rét lạnh đến thấu xương.

    Lúc này đây, cơn rét lạnh ấy nhanh chóng bùng lên tự nơi đáy lòng, nàng ta đột ngột đứng dậy, lớn tiếng nói với theo bóng lưng y: “Hoàng hậu, giết chết Hoàng hậu.” Đó là một chút hơi thở cuối cùng còn sót lại, nàng ta thấy y đột nhiên ngoảnh đầu, để lộ vẻ chấn động, bèn khẽ nở một nụ cười thê lương ai oán. “Xin huynh hãy nói lại những lời ấy với Thục phi.”

    Y khẽ gật đầu, ngay sau đó liền ngoảnh đầu rời đi.

    Nàng ta nhìn theo bóng lưng y lần cuối, gượng nở nụ cười, kế đó liền dịu dàng cúi xuống. Người đã sắp chết, lời thường hay thật, có điều việc này liệu y có hiểu được không đây? Thục phi có hiểu được không đây?

    Nàng ta không muốn nghĩ thêm nữa, khoảnh khắc ngọt ngào duy nhất là y cuối cùng vẫn chịu ngoảnh đầu nhìn lại một lần.

    Cảm giác nghẹt thở như sóng biển cuộn trào vỗ lên ngực nàng ta, nàng ta đã chẳng thể nói gì được nữa rồi, thân thể đang tựa vào tường từ từ ngã gục. Nàng ta cười gượng, tính mạng này, hơi thở này, xưa nay chưa từng thật sự thuộc về nàng ta. Bây giờ, nàng ta rốt cuộc đã có thể tự mình làm chủ một lần rồi. Những giọt lệ lạnh băng lại một lần nữa chảy ra, giữa làn nước mắt nhạt nhòa, nàng ta như được trở lại ngày đầu gặp mặt, bàn tay ấm áp của y nhẹ nhàng xoa dịu con tim đang ngợp đầy nỗi hoảng loạn, bất an. “An tiểu thư đừng sợ, ta là Chân Hành, huynh trưởng của Chân Hoàn.”

    Đó là lần đầu gặp mặt giữa y và nàng ta. Nếu cuộc đời có thể vĩnh viễn dừng lại ở thời khắc đó, vậy thì sẽ không bao giờ có cảnh người ở người đi như thế này.

    Hồi đó, nụ cười của y thật trong trẻo và ngọt ngào biết bao nhiêu, chẳng hề ngợp nỗi tang thương như bây giờ. Hạnh phúc của y, cuộc đời yên ổn của y đều đã bị nàng ta một tay phá hủy, mà không chỉ thế, ngay cả cuộc đời của bản thân mình, của Chân Hoàn, của My Trang, cũng đều vì nàng ta mà trở nên tan nát.

    Nếu có kiếp sau, nàng ta nguyện dùng đời đời kiếp kiếp của mình để bù đắp cho y.

    Lúc này đây, nàng ta đã mỏi mệt vô cùng, buồn ngủ vô cùng, không còn muốn nghĩ thêm gì nữa. Một làn gió thổi đến, những bông trúc đào ngoài sân tức thì bay lất phất như mưa, khắp trời khắp đất đều bị phủ trong một mảng màu hồng tuy diễm lệ nhưng có độc. Và rồi chất độc như từ đó ngấm vào người nàng ta, khiến nàng ta dần dần không thể nào thở nổi.

    Ngày mùng Một tháng Mười năm Càn Nguyên thứ hai mươi ba, Ly Phi An thị tự vẫn ở Cảnh Xuân điện, tuổi mới vừa hai mươi sáu.
     
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này