1. Thông báo

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan (Vui lòng click vào ảnh để xem chi tiết)

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan
    Dismiss Notice

Ngôn tình Trinh thám Trâm - Tác giả: Châu Văn Văn - Tình trạng: Full

Thảo luận trong 'Truyện dịch' bắt đầu bởi Vân Yên, 17/8/17.

Những người đang xem bài viết này (Thành viên: 0, Khách: 0)

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 17 - Hương tan ngọc nát
    Sáng hôm sau khi họ tới, cả phủ công chúa đã chìm trong bầu không khí nghiêm trang và đau buồn.

    Đám người dưới đang gỡ hết trướng lụa xuống, treo màn trướng trắng lên; Vi Bảo Hoành cũng đổi từ áo gấm thêu sang áo xô trắng. Trong gác đặt thi thể công chúa bày đầy đá lạnh để giữ cho cái xác khỏi thối rữa, nhưng giờ đang mùa hạ, e rằng cũng không giữ được lâu.

    Vi Bảo Hoành ra tận cửa đón Quỳ vương, rân rấn nước mắt thưa: “Hàn quốc phu nhân nói, năm ngoái đã đặt sẵn một cỗ quách bằng gỗ nam mộc khảm tơ vàng, xin nhường để khâm liệm cho công chúa. Người trong phủ đang đi lấy về, bằng không thời tiết nóng nực thế này, chỉ e…”

    Hoàng Tử Hà chăm chú nhìn thi thể Đồng Xương công chúa nằm đó. Nàng đã thay sang áo gấm đỏ tía thêu chim trĩ, búi tóc cài cây trâm Cửu loan đã được gắn lại, phục sức chỉnh tề, má hồng môi đỏ, nét đẹp sắc sảo mong manh còn mặn mà hơn trước.

    Hoàng Tử Hà khẽ hỏi: “Đã ai kiểm nghiệm tử thi chưa?”

    “Chưa, hoàng thượng đau lòng như thế, ai dám nhắc đến chuyện đó nữa?” Vi Bảo Hoàng nhìn thi thể Đồng Xương công chúa, nước mắt lại lăn dài.

    Hoàng Tử Hà hỏi: “Có thể để nô tài kiểm tra sơ qua một lượt không?”

    “Công công được hoàng thượng chỉ định điều tra vụ này, nhất định phải xem rồi.” Vi Bảo Hoành gật đầu.

    Hoàng Tử Hà tạ tội với hắn rồi bước đến cạnh Đồng Xương công chúa, Lý Thư Bạch và Vi Bảo Hoành tạm lánh ra ngoài. Cô nhẹ nhàng cởi y phục công chúa ra, quan sát kỹ vết thương trước ngực.

    Vết thương đã được rửa sạch, cơ thịt co lại làm miệng vết thương càng thêm nhỏ. Chỉ thấy một lỗ máu sâu hoắm gọn ghẽ, hung thủ đâm một nhát trúng tim khiến công chúa chết ngay tức khắc.

    Lúc họ chạy đến nơi thì công chúa vừa bị đâm, hung thủ đang bỏ trốn. Nhưng trước đó công chúa đã bị bắt giữ đến nửa tuần hương, ở đó lại đông như thế, tại sao không kêu cứu? Trong khoảng thời gian ấy, công chúa và hung thủ đã làm gì?

    Cô kiểm tra kỹ một lượt, xác định không còn vết thương nào khác, mới mặc lại y phục cho công chúa rồi bước ra khỏi phòng.

    Vi Bảo Hoành hỏi ngay: “Thế nào rồi?”

    “Không có gì khác thường cả, quả là bị đâm trúng tim mà chết, vết thương khá nhỏ, trùng khớp với kích thước trâm Cửu loan.” Nói đoạn, cô đưa mắt nhìn Quỳ vương.

    Lý Thư Bạch hiểu ý, liền bảo: “A Vi, ta còn một việc muốn hỏi phò mã.”

    Vi Bảo Hoành gật đầu, dẫn bọn họ đến vườn Túc Vi.

    Ngang qua vườn Tri Cẩm, Hoàng Tử Hà chợt dừng bước: “Mạn phép hỏi phò mã, có thể cho chúng tôi vào trong xem xét được không?”

    Nhìn hai cánh cửa khép chặt, nét mặt Vi Bảo Hoành thoáng vẻ kinh ngạc cùng đau xót, hắn lắc đầu: “Công chúa đã cho người phong tỏa vườn này lại, nói là bên trong có ma quỷ tác quái, phải mất mười năm mới thanh trừ được…”

    “Nhưng giờ công chúa đã qua đời rồi mà?” Hoàng Tử Hà nhìn con dấu của Đồng Xương công chúa in trên giấy niêm phong dán ngoài cửa, phản bác.

    “… Chỉ là mảnh vườn bỏ hoang lâu ngày thôi mà, lại nghe đồn có ma, ta thấy…” Vi Bảo Hoành nhìn Lý Thư Bạch, nào ngờ y lại tán đồng với Hoàng Tử Hà: “Đứng ngoài này cũng thấy chuối cao vượt tường, nghe được tiếng nước chảy róc rách, ta nghĩ bên trong hẳn là đẹp lắm, muốn vào xem sao.”

    Vi Bảo Hoành không còn lời nào để nói, đành bảo người hầu đi lấy chìa khóa. Chẳng mấy chốc, cửa vườn đã được mở.

    Vườn Tri Cẩm quả là nơi để tránh nóng, vừa mở cửa ra đã thấy hơi mát phả vào mặt. Bên trong rợp những chuối, dòng nước uốn lượn bao lấy ngôi đình nhỏ giữa vườn, dưới nước trồng đầy xương bồ và hoa súng. Vì bỏ hoang đã lâu nên hai bên bờ cỏ mọc xanh um, mặt nước đầy bèo, không gian xanh ngắt mà yên tĩnh.

    “Khu vườn đẹp thế này, bỏ không thì tiếc quá.” Lý Thư Bạch tấm tắc rồi xăm xăm đi vào. Vi Bảo Hoành thoáng chần chừ, xong vẫn theo sau.

    Đi đến bên hồ, Lý Thư Bạch ngoái lại hỏi Vi Bảo Hoành: “Sao Đồng Xương lại phong tỏa khu vườn này?”

    “Mấy tháng trước… có người sẩy chân rơi xuống nước, chết đuối ở đây.”

    “Là thị nữ trong vườn ư?”

    “Vâng…” Hắn thẫn thờ nhìn ra mặt hồ.

    “Người trong cung à?”

    Thấy y cứ chăm chắm hỏi chuyện này, Vi Bảo Hoành biết không thể lảng tránh được, đành đáp: “Thưa không, là thị nữ ở nhà con đưa đến, hầu hạ con từ nhỏ, tên… Đậu Khấu.”

    “Nghe nói bức tranh đậu khấu của phò mã vẽ rất đẹp.”

    “Thưa vâng, Đậu Khấu cùng con lớn lên, tình cảm… như mẹ như chị vậy.”

    Lý Thư Bạch nhìn gió thổi dạt đám bèo trên hồ, lộ ra mặt nước nông, trông thấy đáy, trầm ngâm hỏi: “Ả luôn hầu hạ bên cạnh phò mã, sao tự dưng lại chết đuối ở đây?”

    Vi Bảo Hoành cắn môi, hồi lâu mới đáp: “Người trong phủ nói, Đậu Khấu bị ma quỷ trong vườn mê hoặc, dẫn dụ đến đây…”

    “Ngươi biết rõ là không phải vậy mà.” Lý Thư Bạch lắc đầu, “Công chúa đã qua đời, ngươi muốn tránh tị hiềm cho người đã khuất, ta rất hiểu. Xong chuyện đã đến nước này, hoàng thượng lại sai Dương Sùng Cổ tra xét, có một chuyện, chúng ta buộc phải hỏi rõ, mong phò mã bỏ quá cho.”

    Vi Bảo Hoành biến sắc: “Nhưng… đến giờ con vẫn không biết Đậu Khấu làm sao mà chết.”

    “Nhưng phò mã biết hung thủ là ai, đúng không nào?” Hoàng Tử Hà chen vào.

    Vi Bảo Hoành đột ngột bị vạch trần, loạng choạng lùi lại, sững sờ nhìn cô, không nói được nửa lời.

    “Vi phò mã, để báo thù cho Đậu Khấu, phò mã đã bày ra vở kịch này, khiến mọi người đều đổ dồn mắt vào phủ công chúa, đến giờ xem ra, phò mã thành công rồi đấy.” Nhìn vẻ mặt kinh ngạc của hắn, Hoàng Tử Hà thở dài: “Nô tài vốn dĩ cũng không ngờ, nhưng mọi chuyện quả là trùng hợp, đến giờ đã có ba nạn nhân, hơn nữa ba vụ án mạng này dường như đều là trời phạt, lại lần lượt được thực hiện theo bức tranh của tiên hoàng, ba hình vẽ, ba người chết, chẳng khác nào cục diện được định sẵn từ mười năm trước.”

    “Trời phạt ư…” Vi Bảo Hoành lẩm bẩm.

    “Đúng thế, ba vụ án này thoạt nhìn không thể đoán được thủ pháp gây án, cách giải thích hay nhất là trời phạt hoặc bị nguyền rủa theo bức tranh của tiên hoàng. Nhưng trong tranh không có việc phò mã bị ngã ngựa. Bởi vậy, tuy việc phò mã bị thương khiến công chúa lo lắng không yên, cũng khiến hoàng thượng phải hạ lệnh cho chúng tôi để mắt tới phủ công chúa, tập trung điều tra mấy vụ án liên quan tới quý phủ, nhưng sau khi tra xét và so sánh, nô tài cảm thấy vụ án của phò mã gia không liên quan gì đến chuỗi án mạng này.”

    Vi Bảo Hoành im lặng nhìn cô, không giải thích, cũng không thừa nhận.

    “Thứ nhất, vụ việc của phò mã gia không hề xuất hiện trong tranh, chứng tỏ ban đầu hung thủ không tính đến phò mã. Thứ hai, ngã ngựa tuy nguy hiểm, nhưng đa phần chỉ thương tích chứ ít người tử vong, huống hồ phò mã gia chỉ bị thương nhẹ, không giống với thủ pháp chuẩn xác ác độc của hung thủ, rõ ràng không phải do cùng một người ra tay. Còn thứ ba…”

    Hoàng Tử Hà nhìn thẳng vào Vi Bảo Hoành, thở dài: “Phò mã gia không trực tiếp can dự vào bi kịch của Lữ Tích Thúy, xét về điểm này thì phò mã gia là kẻ vô tội, không lý nào lại bị cuốn vào.”

    Vi Bảo Hoành nhếch môi nhìn cô, hồi lâu mới hỏi: “Sao ngươi lại cho rằng, vụ tai nạn ở sân kích cúc hôm đó là do ta bày ra?”

    “Nhìn bề ngoài thì vụ tai nạn đó rất khó có người nhúng vào được. Dẫu sao cũng là do phò mã gia đích thân chọn ngựa, có xảy ra bất trắc thì chỉ là trùng hợp, hoặc có người tiến hành phá rối không nhằm vào ai cả, phò mã xui xẻo gặp phải mà thôi. Nhưng có một người, bất luận phò mã chọn thớt ngựa nào, cũng có thể gây ra một vụ tại nạn không lớn không nhỏ, hơn nữa phò mã vẫn kịp thời phòng bị và khống chế được, có phải không?” Hoàng Tử Hà nhìn xoáy vào hắn, nói rành rọt từng tiếng một, “Người đó, chính là phò mã.”

    Vi Bảo Hoành cụp mắt xuống tránh ánh mắt cô, quay đầu nhìn ra những bông súng lác đác trên mặt hồ: “Chứng cứ đâu?”

    “Chứng cứ chính là chiếc móng sắt kia. Cây đinh trên đó mới bị nạy ra, vì nếu hung thủ ra tay trước trận đấu thì dấu vết chỗ cây đinh hẳn đã có gỉ sét hoặc bám bụi. Mà trong trận kích cúc, lúc ngựa của phò mã chạy đương nhiên người khác không thể ra tay, duy chỉ lúc nghỉ là có cơ hội, thì cả bầy ngựa lại bị Địch Ác của Quỳ vương uy hiếp, co cụm vào một góc, ngay đến người cho ngựa ăn uống còn không tiếp cận nổi, vô tình những người khác lại được tẩy sạch hiềm nghi.”

    Vi Bảo Hoành gắng gượng nhếch môi cười nhưng trông rất khó coi, vặn lại: “Nói vậy chẳng lẽ công công trông thấy Vi mỗ ra tay ư?”

    “Phò mã cần gì phải chính tay làm. Bấy giờ trong tay phò mã còn có cây gậy đánh cầu kia mà. Người trong kinh đều biết phò mã điều khiển gậy rất thành thục, cưỡi ngựa cũng cực giỏi, chỉ cần nhằm đúng lúc mọi người trong ngoài sân reo hò cổ vũ, đổ dồn mắt vào trái cầu, tiếng hoan hô át hết mọi âm thanh, phò mã thừa cơ ngựa cất vó hí dài thì dùng cây gậy đánh vào vó phải phía trước của ngựa, làm phần móng trước vênh lên, đinh sắt long ra, móng cũng hở ra, hễ ngựa chạy là sẽ ngã quỵ gãy chân, khiến người khác lầm tưởng rằng phò mã bị hãm hại.”

    Vi Bảo Hoành vẫn chăm chú ngắm mấy bông súng buồn rũ trên hồ, giọng mơ màng lơ đãng: “Dương công công nói xem, tại sao Vi Bảo Hoành mỗ phải cố ý làm mình bị thương?”

    “Vì Đậu Khấu, phải không nào?” Hoàng Tử Hà đứng phía sau hắn, giọng bình thản: “Sau khi nghe Xương Bồ kể về Đậu Khấu, nô tài đã lưu ý tới một điểm: một thị nữ ở vườn Túc Vi Bảo Hoành lại chết đuối tại vườn Tri Cẩm, cách đó khá xa, hơn nữa sau khi qua đời, người trong phủ chẳng ai phản ứng gì, chỉ riêng công chúa ngụ tại gác Thê Vân, nằm ở tuốt đầu kia phủ, nói là nửa đêm trong vườn có tiếng thở than khóc lóc, sai người phong tỏa vườn Tri Cẩm lại.”

    Cô hướng mắt ra hồ như Vi Bảo Hoành, giọng nhỏ hẳn: “Hơn nữa hồ nước nông đến nỗi không trồng sen nổi phải trồng súng, muốn chết đuối dưới hồ cũng khó lắm.”

    “Bởi vậy mọi người đều nói Đậu Khấu bị ma quỷ mê hoặc kéo xuống nước.” Rốt cuộc Vi Bảo Hoành cũng lên tiếng, giọng nói không giấu được vẻ mệt mỏi và đau xót, “Nhưng ta biết là không phải. Tiếc rằng ta chẳng có cách nào… Ta là đồ vô dụng, cả người mình thích cũng không bảo vệ nổi…”

    Hoàng Tử Hà cụp mắt xuống, lặng thinh không nói.

    “Từ nhỏ Vi mỗ đã chẳng có chí hướng, lớn lên cũng chẳng tài hoa xuất chúng, chỉ giỏi mỗi đánh mã cầu. Đậu Khấu lớn hơn ta mười tuổi thường khuyên rằng, ta viết chữ trông cũng tạm được, nên luyện viết chữ thêm. Thế là ta cố gắng luyện suốt ba tháng, chỉ viết hai chữ Đậu Khấu, đúng là viết đẹp hẳn ra…” Nét mặt Vi Bảo Hoành thoáng tươi lên, hắn trân trân nhìn vào hư không, vẻ nâng niu pha tiếc nuối, như đang thấy lại chính mình thời niên thiếu vô tri: “Năm ta tám tuổi, cha từng nhắc đến việc gả Đậu Khấu đi, ta bèn lăn ra đất giãy giụa khóc lóc, tuyệt thực suốt ba ngày, cuối cùng cha mẹ đành phải nhượng bộ. Ta cứ thế chiếm hữu hơn hai mươi năm thanh xuân của Đậu Khấu, giờ nghĩ lại thì, nếu năm đó Đậu Khấu được gả chồng, nhất định… sẽ hạnh phúc hơn ở bên ta…”

    Lý Thư Bạch nhíu mày cắt lời: “Vậy mà ngươi còn cưới Đồng Xương công chúa, chẳng phải làm lỡ dở người ta ư?”

    “Con biết làm sao được? Con chỉ chơi một trận kích cúc, thấy một nữ tử đứng ngoài sân nhìn mình chằm chằm, bèn vung gậy cười với cô ấy, nào ngờ mấy hôm sau trong cung hạ chỉ, nói hoàng thượng muốn gả Đồng Xương công chúa cho mình. Bấy giờ con còn không vào nổi Hàn Lâm Viện, vậy mà chỉ vẻn vẹn một năm đã thành Quang Lộc đại phu!” Vi Bảo Hoành hỏi ngược lại ngay, như đang phân trần: “Quỳ vương gia, có lẽ gia vừa ra đời đã có chức vị tiền đồ nên không để tâm, chứ với người bình thường, chỉ cần cưới một cô vợ mà có ngay tiền đồ gấm vóc, thậm chí vài ba năm là làm đến tể tướng, ai cự tuyệt nổi một chuyện như thế?”

    “Nhưng phò mã muốn nhiều thứ quá.” Lý Thư Bạch chậm rãi lắc đầu, “Ngươi đưa Đậu Khấu đến phủ công chúa, thì đặt công chúa vào đâu? Huống hồ người biết rõ công chúa không đời nào chịu cảnh chồng chung, vậy mà còn bắt Đậu Khấu mạo hiểm, thì để Đậu Khấu vào chỗ nào?”

    “Phải… cha mẹ con cũng nói vậy. Nhưng con… con không thể xa Đậu Khấu được. Lúc công chúa phát hiện ra, con đã quỳ sụp xuống đất nài nỉ, xin nàng tha cho Đậu Khấu, nàng cũng đã nhận lời, nhưng quay đi quay lại, Đậu Khấu lại chết ở đây… Hồ nước này nông như thế, dù Đậu Khấu có sẩy chân ngã xuống, cũng làm sao chết được? Chỉ có khả năng duy nhất là bị người ta dìm đầu xuống nước, ngạt thở mà chết thôi…”

    Nói đến đây, Vi Bảo Hoành thẫn thờ nhìn đám cỏ xanh um bên bờ nước, giọng nghẹn lại, hơi thở nặng nề, không kể tiếp được nữa.

    Hoàng Tử Hà cũng cảm thấy lòng ngổn ngang trăm mối, chẳng biết nên đồng cảm với tình cảm của hắn dành cho Đậu Khấu, hay nên căm ghét trước sự đê hèn của hắn đối với công chúa.

    Chợt cô nghe thấy tiếng Lý Thư Bạch, xưa nay y luôn bình thản, vậy mà lúc này giọng nói cũng đượm phần lạnh lẽo: “Vi phò mã, ngươi biết rõ công chúa bị bệnh tim từ nhỏ, sau khi Ngụy Hỷ Mẫn chết thảm, công chúa lại mơ thấy Phan thục phi đòi trâm Cửu loan nên đã phát bệnh, vậy mà còn đổ thêm dầu vào lửa, ngụy tạo ra nguy cơ trùng trùng hù dọa công chúa. Bản vương thật nghi ngờ, cái gọi là âm hồn Đậu Khấu quấy nhiễu, nửa đêm khóc lóc trong vườn Tri Cẩm, có phải là ngươi giả thần giả quỷ, khiến tinh thần công chúa suy sụp, hòng báo thù cho Đậu Khấu đúng không?”

    “Con chỉ muốn dọa công chúa, chứ không hề có ý giết nàng… Thực sự con chỉ định dọa nàng thôi mà…” Vi Bảo Hoành thẫn thờ lắc đầu, “Nhờ làm phò mã, con mới có tiền đồ rộng mở thế này, hại chết công chúa thì con được lợi lộc gì chứ? Các vị nói xem?”

    “Những việc phò mã làm, đâu chỉ để hù dọa công chúa.” Hoàng Tử Hà không nhịn được nói tiếp, “Phò mã gia gây ra chuyện trên sân kích cúc, khiến công chúa vốn ăn ngủ không yên càng thêm sợ hãi, phải xin hoàng thượng phái người tới phủ điều tra, rồi thừa lúc chúng tôi điều tra, phò mã lại khéo léo hướng tất cả manh mối vào cái chết của Đậu Khấu, phò mã muốn mượn tay chúng tôi phanh phui vụ án mạng Đậu Khấu chứ gì?”

    Nghe những lời vạch tội thẳng thừng của Hoàng Tử Hà, Vi Bảo Hoành lại phóng mắt nhìn bao quát những sắc xanh đậm nhạt trong vườn Tri Cẩm, hồi lâu mới hít sâu một hơi, nói: “Công chúa… là viên minh châu trên tay hoàng thượng, là con cưng nhà trời, cá tính rất quyết liệt. Lúc mới phát hiện quan hệ giữa Vi mỗ và Đậu Khấu, công chúa đã nổi giận đùng đùng, Vi mỗ phải vật nài mãi, công chúa niệm tình Đậu Khấu đã luống tuổi, lại chăm sóc Vi mỗ từ nhỏ, nên mới hậm hực bỏ qua. Sau khi Đậu Khấu qua đời, Vi Bảo Hoành mỗ xem sổ sách trong phủ, phát hiện công chúa đang sai người tìm cho Đậu Khấu một gian nhà bên ngoài, chỉ đợi sắp xếp xong sẽ đưa ngay đến đó.” Kể đến đây, Vi Bảo Hoành cũng rơi nước mắt, hạ giọng: “Công chúa… thực ra không phải kẻ xấu, tuy tính tình nóng nảy, bất chấp lý lẽ, nhưng nàng đã rắp tâm đẩy Đậu Khấu ra khỏi phủ, thì cần gì phải hại chết nữa?”

    Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà nhìn nhau. Lý Thư Bạch hỏi: “Bởi thế, người giết chết Đậu Khấu không phải công chúa ư?”

    “Con nghĩ là không phải… Nhưng có một người có thể khiến công chúa phải gánh tội thay.”

    Vi Bảo Hoành không nói thêm, nhưng Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà hiểu ra ngay hắn ám chỉ ai.

    Cả vườn Tri Cẩm lặng phắc như tờ, hơi nước từ phía hồ đưa lại, lá chuối và cỏ xương bồ xanh đến ngợp người.


    Ánh mắt Vi Bảo Hoành chầm chậm dừng ở Hoàng Tử Hà: “Dương công công phụng mệnh đến phủ điều tra, chẳng biết có phát hiện ra, tòa phủ đệ tinh xảo hoa lệ vô song này ẩn giấu rất nhiều bí mật đáng sợ, không thể hé lộ không?”

    Hoàng Tử Hà nhíu mày, thầm rà lại tất cả những điều mình thu thập được mấy ngày nay tại phủ công chúa.

    “Vốn dĩ Vi mỗ tự làm mình bị thương để xé to chuyện này ra, khiến quan phủ phải nhúng tay vào điều tra, từ đó hé lộ nguyên nhân cái chết của Đậu Khấu, đồng thời cũng lôi được kẻ sắp bước lên ngôi vị cao nhất ở cung Đại Minh kia xuống… Nào ngờ mọi chuyện lại thành ra thế này, công chúa… cũng bỏ ta mà đi.”

    Hoàng Tử Hà buột miệng hỏi: “Phò mã có biết quan hệ giữa Tích Thúy và Đậu Khấu không?”

    “Vốn là không biết, sau khi nghe tin công chúa khó ở vì trông thấy cô ta, dẫn tới vụ bê bối kia, ta phải đi dẹp yên sự việc, cũng gặp cô ta mấy lần. Về sau mới hay cô ta là cháu gọi Đậu Khấu bằng dì. Thực ra hai người cũng chỉ nhang nhác nhau thôi, nhưng hễ nhìn thấy cô ta, ta lại nhớ tới Đậu Khấu.” Vi Bảo Hoành cụp mắt xuống, khó nhọc kể, “Vi mỗ cũng biết cô ta muốn giết Tôn ghẻ, nên đã lén bám theo, định bụng nếu cần thì giúp một tay… Nào ngờ lại bị các vị phát hiện. Thực ra Vi mỗ từng nghĩ, nếu được thì Vi mỗ có thể giết Tôn ghẻ giùm cô ta, coi như nể mặt cô ta là cháu ruột Đậu Khấu, coi như cũng vì… cô ta nhang nhác Đậu Khấu…”

    Hoàng Tử Hà thầm thở dài, chẳng hỏi gì thêm nữa.

    Vi Bảo Hoành thẫn thờ hành lễ cáo từ Lý Thư Bạch: “Cả công chúa lẫn Đậu Khấu đều qua đời rồi, biết được chân tướng hay không cũng chẳng quan trọng nữa… Nếu vương gia và Dương công công có gì nghi vấn, xin cứ việc tra xét trong phủ. Giờ con phải tới trông linh cữu công chúa, bằng không để hoàng thượng biết con không dốc lòng dốc sức, nhất định sẽ nổi trận lôi đình.”

    Lý Thư Bạch gật đầu, cho phép hắn lui ra.

    Khi hắn đứng thẳng người dậy, còn nói một câu rất khẽ, khẽ đến mức gần như không thể nghe thấy: “Lúc công chúa sắp khóa cửa vườn lại, Vi mỗ… vô ý đá một thứ vào cây cột ở hành lang trong đình.”

    Hoàng Tử Hà và Lý Thư Bạch đều nghe thấy câu này, xong Vi Bảo Hoành lại thản nhiên quay đi, như thể chỉ lẩm bẩm một mình.

    Bí mật phủ công chúa.

    Một bí mật rất đáng sợ, không thể hé lộ.

    Đợi Vi Bảo Hoành đi khỏi, Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà men theo hành lang bắc trên mặt nước, thong thả đi đến ngôi đình chính giữa hồ.

    Khung cửa sổ âm u thấp thoáng mấy tàu chuối biếc. Mọi đồ vật trong đình bị công chúa gấp gáp phong tỏa đã phủ một lớp bụi mỏng.

    Lý Thư Bạch khoanh tay nhìn ra cỏ xanh bên hồ nước. Hoàng Tử Hà thì quỳ xuống kiểm tra kỹ từng cây cột. Cuối cùng, khi lần đến cây cột nằm trong góc tối giữa hành lang và cửa chính, cô mới thấy một viên tròn màu xám lẫn trong đám bụi, nếu không tìm kỹ chỉ e khó mà nhận ra.

    Hoàng Tử Hà vội cầm lên thì thấy vật trong tay khá mềm, ra là một viên giấy. Cô thong thả giở ra, thấy trên mẩu giấy hoa tiên nhỏ viết hai câu thơ dang dở:

    Người sinh mãi, kiếp nào cho hết,

    Nhìn trăng sông năm hệt không sai… (*)

    (*) Trích trong bài Xuân giang hoa nguyệt dạ của Trương Nhược Hư, bản dịch Tản Đà.

    Nét cuối cùng của chữ “sai” còn chưa viết xong, người viết đã dừng bút. Mảnh giấy hoa tiên trắng muốt bị vò nát, bám đầy bụi bặm, khiến nét chữ cũng mờ đi, nhìn khá mơ hồ.

    Đột nhiên, mấy con chữ trên mảnh tro nhặt từ lò hương vụt hiện ra trước mắt cô.

    Có lẽ vì những chữ kia cũng chỉ hiện lên trong thoáng chốc rồi tan biến, tạo cảm giác mơ hồ hư ảo, nên cô bỗng thấy nét chữ trên mảnh giấy bị đốt thật giống hai dòng thơ này.

    “Không phải chữ Đồng Xương.” Lý Thư Bạch nhìn rồi quả quyết: “Mỗi năm vào ngày sinh hoàng thượng, Đồng Xương chuẩn bị quà mừng đều tự tay viết lời chúc, ta từng đọc rồi.”

    Hoàng Tử Hà nhẹ nhàng giơ mẩu giấy lên thổi cho sạch bụi.

    Nét bút rất thanh tú, rõ ràng là của phụ nữ, hơi có vẻ gượng gạo vì lâu ngày không cầm bút, rõ ràng bấy giờ người viết đang bồi hồi do dự.

    Lý Thư Bạch quay lưng đi thẳng ra ngoài: “Đứng dậy đi, ngươi có gì muốn biết thì đi mà hỏi người trong phủ.”

    Là một trong những thị nữ thân cận bên cạnh công chúa, từ sau khi xảy ra chuyện, Thùy Châu luôn quỳ trước linh cữu công chúa, mấy lần còn khóc đến ngất lịm, tỉnh lại lại khóc tiếp. Lúc Hoàng Tử Hà đến, hai mắt ả đã sưng húp, không khóc nổi nữa, chỉ đờ đẫn quỳ ở đó.

    Hoàng Tử Hà cũng quỳ xuống cạnh Thùy Châu thắp hương vái lạy công chúa, rồi liếc nhìn cổ tay ả.

    Thùy Châu vận áo xô gai, để lộ cổ tay trái, có một vết sẹo bỏng lồi lõm chạy dài từ cổ tay đến tận khuỷu, rõ ràng từng bị bỏng rất nặng.

    Hoàng Tử Hà hỏi nhỏ: “Thùy Châu cô nương, vết sẹo trên tay cô là thế nào?”

    Thùy Châu không đáp, chỉ lẳng lẽ kéo tay áo xuống, che vết sẹo đi.

    Lạc Bội quỳ bên cạnh nghẹn ngào đáp thay: “Mấy năm trước, công chúa tò mò nghịch lửa, suýt nữa bị lửa bén vào người, Thùy Châu cứu công chúa nên mới bị thương.”

    Bọn Lạc Bội, Khuynh Bích, Trụy Ngọc tuy cũng ròng ròng nước mắt, xong trông vẫn đỡ hơn Thùy Châu nhiều. Mấy ả thị nữ cạnh đó hùa theo: “Đúng thế, Thùy Châu một lòng trung thành với công chúa, cả hoàng thượng cũng phải ngợi khen.”

    Hoàng Tử Hà vờ thuận miệng hỏi: “Nói ra mới nhớ, hôm trước có một nam nhân họ Tiền cứ khăng khăng nói con gái mình là thị nữ trong phủ công chúa, bảo trên cổ tay con gái có một vết bớt, chẳng hay các cô có trông thấy ai như thế không?”

    Thùy Châu lặng lẽ lắc đầu. Mấy người kia cũng đáp: “Tôi có nghe nói, nhưng hình như chẳng thấy ai có vết bớt trên tay cả?”

    Khuynh Bích bĩu môi: “Chắc lại thấy người sang bắt quàng làm họ đấy thôi, người trong kinh ai chẳng muốn bắt quen bắt thân với phủ công chúa? Hễ có người nhà làm việc ở đây là thừa đủ để họ ra ngoài huênh hoang rồi.”

    “Khuynh Bích.” Thùy Châu nhắc khẽ. Khuynh Bích hậm hực ngậm miệng lại, không quên vớt vát thêm một câu: “Nô tỳ có nói gì đâu. À phải… làm trong phủ Quỳ vương rõ ràng là hiển hách rồi.”

    Xem ra Thùy Châu là kẻ đứng đầu trong các thị nữ bên cạnh công chúa, thảo nào công chúa khen ả hầu hạ chu đáo nhất.

    Thùy Châu kéo tay áo che vết sẹo, lẳng lặng quỳ ở đó, đầu cúi thật thấp, tỏ ý không muốn nói chuyện.

    Nhưng Hoàng Tử Hà vẫn hỏi riết: “Thùy Châu cô nương, hàng ngày quan hệ giữa cô và Ngụy Hỷ Mẫn thế nào?”

    Thùy Châu đáp khẽ: “Chúng tôi cùng hầu hạ bên cạnh công chúa nên chẳng lạ gì nhau, nhưng cũng chẳng lấy gì làm thân. Thị nữ và hoạn quan qua lại thân thiết quá… sẽ làm người ta dị nghị.”

    Ả nói vậy làm Hoàng Tử Hà nhớ ra một chuyện, bèn hỏi: “Nghe nói công chúa đã hứa gả cô nương đi, không lâu sau sẽ xuất phủ?”

    Thùy Châu gật đầu, rồi lại lắc đầu: “Vốn định là cuối năm nay, người ta tuy không phải danh gia vọng tộc gì, nhưng cũng giữ chức quan ở Hồng Lư Tự(*). Nếu không nhờ công chúa, nô tỳ đâu thể gả được vào nhà danh giá như thế. Có điều giờ xem ra… ít hy vọng lắm.”

    (*) Cơ quan chuyên cai quản nghi thức lễ tiết trong các dịp lễ hội.

    Hoàng Tử Hà hiểu, người kia chẳng qua nhìn vào quyền thế của công chúa nên mới chịu cưới một thị nữ. Dù sao, với một viên quan thất phẩm nhỏ nhoi dưới trướng tể tướng thì một thị nữ thân cận bên công chúa, sau khi xé giấy bán thân, lại có chủ cũ nâng đỡ, rõ ràng là một cái gấu váy tốt. Xong giờ công chúa đã qua đời, còn mong gì y chịu giữ lời mà cưới Thùy Châu nữa. Tương lai sau này thế nào, e rằng chính ả cũng không biết được.

    Hoàng Tử Hà đành lựa lời an ủi: “Ta nghĩ người làm quan chắc sẽ giữ lời, không thể vì chuyện này mà hủy hôn được.”

    “Đa tạ công công an ủi.” Thùy Châu đáp, xong vẫn mặt ủ mày chau.

    Khuynh Bích quỳ bên cạnh thở dài: “Nếu không nhờ công công nói đỡ, e rằng giờ bọn nô tỳ đi theo công chúa cả rồi, sống được đã là trời thương, còn những chuyện khác, ai mà biết có phúc phận ấy không…"

    Khuynh Bích còn trẻ, nói năng không biết chừng mực, lời vừa thốt ra, Hoàng Tử Hà thấy Trụy Ngọc và Thùy Châu sắc mặt càng thêm u ám, chắc hẳn gánh nặng trong lòng lại nặng thêm.

    Lạc Bội nhìn làn khói xanh từ lò hương lững lờ bay lên, thẫn thờ: “Nhưng… chúng nô tỳ còn cách nào khác đâu? Sau khi công chúa mơ thấy ác mộng, luôn miệng nói Phan thục phi sắp đến đòi trâm Cửu loan, mà cây trâm lại… không cánh mà bay ngay giữa nhà kho được canh giữu nghiêm mật như thế, các vị bảo có lạ hay không? Rõ ràng công chúa đích thân khóa chặt, lại chứng kiến mấy người bọn nô tỳ chính tay đặt chiếc hộp vào rương, rồi chính tay lấy ra, sao bỗng dưng biến mất được… Cuối cùng còn xuất hiện ở phường Bình Khang, đâm chết công chúa nữa chứ.”

    Khuynh Bích vừa buồn vừa sợ, khóc òa lên: “Chị Lạc Bội đừng nói nữa… Đừng nói nữa mà…”

    Giọng họ chìm trong tiếng tụng kinh và khóc lóc xung quanh, chẳng khác nào cây trâm Cửu loan biến mất giữa vòng vây canh gác nghiêm mật.


    Hoàng Tử Hà chỉ biết than thầm, hành lễ từ biệt họ rồi đứng dậy đi ra.

    Công chúa vừa qua đời, phủ công chúa đã náo loạn.

    So ra thì người hầu từ nhà phò mã đưa sang vẫn bình tĩnh hơn. Dù sao họ cũng có nơi để về.

    Bởi thế, khi Hoàng Tử Hà đến nhà bếp, Xương Bồ vẫn ngồi nguyên chỗ cũ, đang chọn món ngày mai, chỉ là nét mặt đượm phần rầu rĩ.

    “Dương công công,” thấy Hoàng Tử Hà đến, Xương Bồ đập đập cuốn sổ trong tay, tự trào, “Bất luận thế nào thì bấy nhiêu người trong phủ cũng phải ăn, đúng không nào?”

    Hoàng Tử Hà ra ý bảo Xương Bồ cứ tiếp tục, rồi ngồi xuống phía đối diện: “Chỉ muốn hỏi cô cô mấy câu thôi.”

    “Công công cứ hỏi.” Xương Bồ gảy bàn tính tanh tách, cúi đầu mím môi đối chiếu từng khoản mục trong sổ.

    “Cô cô có biết Tiền Quan Sách bị Đại Lý Tự bắt giam rồi không?”

    Xương Bồ khựng lại, đáp khẽ: “Tôi biết. Tối qua ông chủ Tiền tới tìm tôi nghe ngóng tin con gái, không may bị người của Đại Lý Tự phát hiện, chính mắt tôi chứng kiến họ giải ông ấy đi.”

    “Nghe nói ông ta khăng khăng nói con gái mình ở trong phủ, thậm chí còn đưa cả con cóc vàng ra làm bằng, nhưng người của Đại Lý Tự tìm khắp phủ cũng không thấy cô con gái.” Hoàng Tử Hà nhìn chằm chằm Xương Bồ, không bỏ qua một biểu cảm nào dù là nhỏ nhất, “Tôi nhớ cô cô từng nói, con gái ông chủ Tiền là Thùy Châu phải không?”

    Xong Xương Bồ vẫn thản nhiên, không hề chớp mắt, thong dong gảy bàn tính: “Đúng thế, tối qua tôi biết chuyện cũng giật nảy mình. Thì ra Thùy Châu không phải con gái ông ấy, trên cổ tay con gái ông ấy có vết bớt chứ không phải vết sẹo, lâu nay tôi lầm.”

    Hoàng Tử Hà nhíu mày nhìn Xương Bồ, hỏi: “Ra là cô cô lầm ư?”

    “Phải, ban đầu ông chủ Tiền chỉ nói con gái mình có dấu trên cổ tay. Tôi phát hiện cổ tay Thùy Châu có vết, ngỡ là cô ấy, bèn mách lại với ông chủ Tiền, còn về sau họ có hẹn gặp nhau hay không thì tôi không rõ. Công công biết đấy, tôi cả ngày ở trong nhà bếp, bận túi bụi, làm gì có thời gian hỏi đến chuyện ấy. Về sau ông chủ Tiền đưa linh lăng hương đến cảm tạ, tôi còn nghĩ, quả nhiên là Thùy Châu.” Kể đến đây, Xương Bồ cũng thở dài, đặt tay lên bàn tính thẫn thờ: “Nhưng lúc ông ấy bị người của Đại Lý Tự bắt được rồi thẩm vấn, lại nói trên cổ tay con gái có một vết bớt màu hồng ngả xanh, cuối cùng tra khắp phủ công chúa không thấy. Lúc sau tôi hỏi nhỏ Thùy Châu, Thùy Châu cũng thề sống thề chết là không phải mình, mấy thị nữ hầu cận công chúa đều nói Thùy Châu không hề hẹn gặp riêng ông ấy… Công công bảo có lạ không? Rốt cuộc ông chủ Tiền đã tìm thấy con gái hay chưa? Người ông ta lén hẹn gặp là ai? Lẽ nào đúng như người Đại Lý Tự nói, ông ta chỉ mượn cớ tìm con gái để câu kết với Ngụy Hỷ Mẫn ăn trộm báu vật trong phủ công chúa thôi ư?”

    Hoàng Tử Hà quan sát kỹ nét mặt Xương Bồ, lại hỏi: “Thế nên cô cô không biết gì, cũng không liên quan gì đến chuyện này, phải không nào?"

    “Đương nhiên rồi! Bằng không… Lẽ nào Dương công công hoài nghi tôi ư?” Xương Bồ ôm ngực kinh ngạc nhìn cô, vẻ hoảng hốt, “Dương công công! Tôi chưa từng đến chỗ ở của công chúa! Cũng chưa thấy trâm Cửu loan và cóc vàng bao giờ cả! Tuy tôi sống trong vương phủ, nhưng là người hầu dưới bếp, đến công chúa cũng hiếm khi trông thấy nữa là…”

    “Được rồi, tôi tin cô cô không dính dáng đến vụ này mà, tôi tuyệt đối tin vào sự trong sạch của cô cô.” Hoàng Tử Hà chăm chú nhìn Xương Bồ, ánh mắt sáng rực lên như muốn soi thấu ruột gan: “Nhưng tôi không tin cô cô không biết cô gái Tiền Quan Sách hẹn gặp là ai.”

    “Tôi không biết! Tôi không biết thực mà!” Xương Bồ cuống cuồng la lên.

    Hoàng Tử Hà lặng thinh quan sát phản ứng của Xương Bồ.

    Thấy thái độ của cô, Xương Bồ đành chịu phép, ngã ngồi xuống ghế, lấy tay chống trán lẩm bẩm: “Tôi không nói được… Tôi không thể tiết lộ được…”

    Vẻ mặt Xương Bồ không chỉ kinh hoàng lo sợ, mà còn kiên định quả quyết, như thể dù có bỏ mạng, dù có tan xương nát thịt, cũng phải nuốt bí mật này vào bụng.

    Hoàng Tử Hà biết không cạy nổi miệng người này, đành thở dài: “Cũng chẳng sao, tôi đã biết là ai rồi,” đoạn đứng dậy xăm xăm đi ra cửa. Thấy vậy, Xương Bồ không nhịn nổi, vội đứng dậy liêu xiêu đuổi theo, vịn vào khung cửa hỏi: “Công công… biết là ai ư?”

    “Cô cô nói xem?” Hoàng Tử Hà ngoảnh lại cuời với Xương Bồ, duới ánh mặt trời mùa hạ chói chang, gương mặt cô mờ hẳn đi vì lóa.

    Giọng cô bình thản mà kiên định, mang một vẻ quả quyết khiến người ta không thể nghi ngờ.

    “Trong phủ công chúa này, còn có thể là ai nữa chứ?”

    Hoàng Tử Hà rời phủ công chúa, đi thẳng về phía cỗ xe ngựa phủ Quỳ.

    Chợt cô trông thấy hai người đứng trước xe, một là Quỳ vương Lý Thư Bạch tao nhã như cây ngọc đón gió, còn người kia, chính là Kỳ Lạc quận chúa lộng lẫy như minh châu.

    Hoàng Tử Hà không khỏi chậm bước, thầm tính xem có nên đi đến hay không.

    Đi đến chẳng phải là quấy nhiễu họ ư?

    Kỳ Lạc quận chúa mỉm cười nhìn Lý Thư Bạch, hai má ửng hồng, gió lồng lộng dưới tàng cây làm mấy sợi tóc nàng bay tung, vấn vít quanh đôi mắt đắm đuối như sương như khói, đẹp say lòng người.

    Cô quận chúa yểu mệnh này, dù có xinh đẹp nhường nào, cũng chẳng còn được bao lâu nữa. Bởi thế Lý Thư Bạch luôn nhìn nàng bằng ánh mắt xót xa, gương mặt xưa nay lạnh nhạt cũng lộ ra mấy phần dịu dàng.

    Hoàng Tử Hà lẳng lặng lùi bước, ngồi xuống bóng râm đằng sau bức chiếu bích của phủ công chúa. Cây lựu trên đầu đã kết quả lúc lỉu trĩu trịt, to bằng nắm tay đứa bé sơ sinh. Thấy một cành sà xuống trước mặt, cô bèn giơ tay níu lấy một quả, ngơ ngẩn ngắm nhìn.

    Những người con gái xuất thân cao quý như Kỳ Lạc quận chúa và Đồng Xương công chúa, sinh ra giữa cẩm tú phồn hoa bậc nhất thế gian, xong lại như những bông hoa rực rỡ đầy cành, bừng nở rồi rơi rụng, mà không cách nào đơm quả.

    Ba cô gái, mỗi người một phận, nhưng đều bất hạnh. Đồng Xương công chúa chết yểu, Hạnh nhi bị cha bán đi từ nhỏ, và Tích Thúy phải chịu sự lăng nhục khủng khiếp nhất trên đời.

    Ba người con gái, với ba người cha khác nhau.

    Hoàng đế nuông chiều Đồng Xương công chúa đến nỗi không tiếc đem mọi thứ tốt đẹp nhất đời ban cho nàng, nhưng giờ đây, dù trút giận sang thái y, liên lụy đến cả mấy trăm người, cũng không cứu nổi đứa con gái đã chết dưới trâm Cửu loan.

    Tiền Quan Sách trong lúc khó khăn nhất đã đem con gái bán đi, lấy tiền bán con dựng nghiệp rồi phát đạt, sau nhiều năm cũng tìm lại được đứa con, nhưng chưa kịp nghe con gọi một tiếng cha đã bị hạ ngục.

    Lữ Chí Nguyên nằm mơ cũng muốn có con trai, hơn nữa khi con gái Tích Thúy rơi vào cảnh ngộ bi thảm nhất, vẫn nhẫn tâm đuổi ra khỏi nhà, nhất quyết ôm chặt món tiền bán con gái sống cô độc suốt tuổi già.

    Ba người chết thân phận cũng khác nhau. Sợi dây liên hệ duy nhất là, họ đều can dự vào bi kịch của Tích Thúy.

    Khiến người ta thắc mắc nhất là Đồng Xương công chúa. Tuy nàng hạ lệnh trách phạt Tích Thúy, nhưng không cố ý khiến Tích Thúy gặp chuyện, càng không trực tiếp hãm hại. Hung thủ cũng không bố trí cẩn mật như hai lần trước mà thẳng tay giết công chúa ngay giữa phố đông, dường như công chúa mới là người y hận nhất…

    Nghĩ vậy, cô bất giác rút cây trâm ngọc ra, vạch lên phiến đá xanh đang ngồi.

    Ba người cha, ba cô con gái, phò mã, Trương Hàng Anh, Tôn ghẻ, Ngụy Hỷ Mẫn, Đậu Khấu…

    Chợt có tiếng hỏi từ đằng sau: “Vẽ gì thế?”

    Cô ngẩng lên, trông thấy Lý Thư Bạch đang ở trước mặt, hơi khom người xuống nhìn mình. Dưới ánh nắng chói chang, bóng cây xanh mát phủ trùm lên họ, mặt y chỉ cách mặt cô gang tấc, cặp mắt đen thăm thẳm như mặt hồ nhìn xoáy vào Hoàng Tử Hà khiến cô bỗng thấy chới với như sắp chìm trong đó.

    Cô đành cắm cây trâm ngọc lại chỗ cũ, gắng gượng né tránh ánh mắt y, đáp khẽ: “Vừa rồi thấy gia và Kỳ Lạc quận chúa đang trò chuyện, nô tài không dám đến quấy rầy, đành ngồi lại đây sắp xếp lại các manh mối.”

    Y liếc cô rồi ngồi xuống bên cạnh: “Kỳ Lạc tới bái tế Đồng Xương, tình cờ gặp nhau.”

    “Quận chúa… khí sắc rất khá, chắc gần đây có khỏe lên?”

    “Không biết nữa, có khi cái chết của Đồng Xương sẽ khiến cô ấy chạnh lòng nghĩ đến mình, càng buồn bã thêm.” Nói rồi y hờ hững giơ tay nhón một quả lựu nhỏ giơ lên trước mặt quan sát, hỏi sang chuyện khác, “Vừa rồi ngươi để ý thấy manh mối nào chưa?”

    Hoàng Tử Hà ngây ra một thoáng mới đáp: “Tôi còn nhớ, khi cây trâm Cửu loan của công chúa bị đánh cắp, gia dắt tôi đến thăm hỏi, bấy giờ, gia có vẻ khá thích con chó sứ trên nóc tủ ở đầu giường công chúa.”

    “Đúng thế.” Lý Thư Bạch buông tay, để mặc quả lựu bé kia cứ rung rinh trước mặt hai người, “Bởi vì ta nhớ lúc Đồng Xương chừng sáu bảy tuổi, từng bị mảnh vỡ của chiếc đĩa sứ cứa đứt tay. Từ đó hoàng thượng hạ lệnh, trong cung của Đồng Xương không được dùng bất cứ thứ đồ gốm sứ gì nữa. Mãi đến khi Đồng Xương hạ giá lấy Vi Bảo Hoành, dọn vào phủ công chúa, đồ dùng bên cạnh đa phần cũng bằng vàng bạc, vậy mà tự dưng lại có một con chó sứ bên cạnh, hơn nữa nhìn rất giống những món bán đầy ngoài chợ, ngươi không thấy lạ ư?”

    Hoàng Tử Hà gật đầu, lại hỏi: “Chúng ta đi lấy về xem được không?”

    Lý Thư Bạch đứng ngay dậy không chút chần chừ: “Đi thôi.”
     
  2. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 18 - Sống động như thật
    Gác Thê Vân trống không, mọi thứ của công chúa đều đã bị niêm phong cất đi, chỉ để lại chiếc giường và hộc tủ khóa chặt.

    Đặng Xuân Mẫn, hoạn quan thân cận bên cạnh công chúa dẫn họ vào. Lý Thư Bạch đi đến trước chiếc tủ đầu giường công chúa, bảo họ Đặng mở ra.

    Bên trong đầy những món đồ chơi nho nhỏ, nào là nước tường vi, cầu xông hương, hộp gỗ đàn v.v… hằng ngày nhờ đám thị nữ vẫn dọn dẹp luôn luôn, nên tuy nhiều thứ xong không hề lộn xộn, món nào món nấy được đặt ngay ngắn, chỉ là góc phải bỏ trống một chỗ bằng nắm tay.

    Vừa đủ cho một con chó sứ.

    Thấy họ không tìm thấy thứ muốn tìm, Đặng Xuân Mẫn gợi ý: “Một số đồ dùng đã được gói đưa đến nhà kho rồi, để nô tài dẫn vương gia đi xem.”

    Nhà kho nơi trâm Cửu loan biến mất vẫn đóng chặt cửa, toát lên vẻ lạnh lẽo, cách biệt với bên ngoài.

    Từng hàng giá và kệ để đồ xếp đầy những hộp và rương, có thứ còn bọc vải kín mít, nhìn từ xa thấp thoáng như một bóng đen kỳ quái ngồi vắt vẻo trên giá.

    “Hai chiếc rương này là những đồ dùng thường dùng của công chúa, đều đặt ở đây.” Đặng Xuân Mẫn lại rút chìa khóa mở hai rương ra.

    Hoàng Tử Hà đang nhấc nắp rương lên, chợt trầm ngâm dừng lại.

    Lý Thư Bạch hỏi: “Sao thế?”

    Cô vỗ nhẹ vào nắp rương, ngước nhìn y: “Vương gia nghĩ tới việc gì?”

    Lý Thư Bạch nhìn cánh tay cô gác lên nắp rương, nhíu mày đáp: “Ý ngươi muốn nói đến chuyện trâm Cửu loan đột nhiên biến mất ư?”

    Hoàng Tử Hà gật đầu, rồi lập tức bắt tay vào tra xét những chiếc rương xung quanh, phát hiện rương ở ngăn dưới cùng đều đặt trực tiếp trên nền gạch xanh, duy có chiếc rương từng cất trâm Cửu loan, hiện đang bỏ trống cạnh đó là được lót mấy tấm vải dưới đáy, để tránh bị chấn động.

    Lý Thư Bạch nhìn qua một lượt rồi gật đầu: “Mở ra xem đi, nếu không thấy chó sứ thì có thể khẳng định đấy.”

    Ở bên nhau lâu ngày, hai người cũng có một sự ăn ý ngầm, không cần phải nhiều lời. Hoàng Tử Hà liền mở hai chiếc rương ra lục tìm, quả nhiên không có chó sứ.

    Cả hai bèn đứng dậy rời khỏi nhà kho, quay về gác Thê Vân, trầm ngâm nhìn chỗ trống trong ngăn tủ đầu giường công chúa.

    “Vừa đủ chỗ cho một con chó sứ, phải không?” Hoàng Tử Hà ước lượng.

    Lý Thư Bạch gật đầu nhìn quanh: “Muốn làm nó biến mất cũng dễ thôi…”

    Hai người không hẹn mà cùng bước đến bên xong nhìn xuống dưới.

    Hợp hoan vẫn nở rộ bên dưới, từng đóa hoa mượt mà như lông tơ, phủ đầy mặt đất.

    “Đi thôi.”

    Cả hai men theo thềm đá mà xuống, rồi đi lòng vòng tìm kiếm quanh khu vực thẳng dưới cửa sổ gác Thê Vân, quả nhiên phát hiện một đám hoa tàn lá rụng vun đầy dưới gốc hợp hoan, nếu không để ý còn ngỡ là tình cờ bị gió thổi gom lại một chỗ.

    Hoàng Tử Hà nhặt một cành cây gạt lớp hoa lá bên trên, thấy phía dưới là một đống mảnh sứ.

    Quỳ vương mắc bệnh sạch sẽ chỉ khoanh tay đứng bên nhìn.

    Hoàng Tử Hà thận trọng nhặt những mảnh sứ ra, đếm được cả thảy hai mươi tám mảnh lớn nhỏ. Cô bỏ vào khăn tay gói lại, đút trong tay áo.

    Ngồi xe quay về, trông sắc trời đã sắp đến giờ Ngọ, Lý Thư Bạch đột nhiên bảo: “Qua rủ cả Tử Tần tới Chuế Cẩm Lâu ăn cơm đi.”

    Hoàng Tử Hà vội bảo bác đánh xe A Viễn: “Đến phủ Chu thị lang nhé.”

    Lý Thư Bạch lại trỏ hộc tủ bên dưới: “Cái đầu lâu vẫn ở đó à?”

    Hoàng Tử Hà gật đầu đáp: “Không trả cho Tử Tần được, nếu để cậu ấy khôi phục lại nó hoàn toàn, sẽ phát hiện ra người chết rất giống Vương hoàng hậu. Nhưng nếu không trả hoàng hậu, thì phải để đâu đây…”

    Lý Thư Bạch lạnh lùng lườm cô: “Mua dây buộc mình.”

    Cô cúi gắm mặt không dám nhìn y, nem nép gật đầu nhận lỗi: “Nô tài biết sai rồi, là tại nô tài lo bò trắng răng, mua dây buộc mình, gia bảo nên giải quyết thế nào đây?”

    “Ra ngoại ô tìm một khoảnh đất trống mà chôn đi.”

    “…” Hoàng Tử Hà câm nín ngoảnh đầu nhìn ra cửa sổ, vờ như không nghe thấy y nói.

    Rèm cửa lắc lư theo nhịp bánh xe, thấy đã đến nhà Chu Tử Tần, cô bèn nhảy phắt xuống, chạy tới gọi cửa: “Du thúc, tiểu thiếu gia hôm nay có nhà không?”

    “Dương công công đấy à! Trùng hợp quá, hôm nay tiểu thiếu gia vừa ra đến cửa thì dừng lại nghĩ ngợi rồi quay trở về phòng, nói rằng sợ công công đến không gặp được mình!”

    “Ồ, vậy phiền Du thúc báo một tiếng với tiểu thiếu gia, bảo rằng vương gia đợi cậu ấy đi ăn cùng.”

    “Hả? Được rồi, đi ngay đây!” Người gác cổng chạy vội vào nhà như một làn khói.

    Hoàng Tử Hà đứng đợi dưới gốc thủy lạp ngoài cửa, muôn ngàn đóa hoa nhỏ xinh nở rợp trên đầu, tỏa hương ngây ngất, đè trĩu cả cành. Cô vươn tay toan vít một cành xuống thì nhận ra ngay cả đóa hoa ở thấp nhất mình cũng không với tới, chỉ có thể đứng bên dưới lặng lẽ ngắm nhìn.

    Chợt phía sau có người vươn tay ra, bẻ cành hoa Hoàng Tử Hà vừa cố với tới, đưa cho cô.

    Ngỡ ngàng ngoảnh lại, Hoàng Tử Hà trông thấy Vương Uẩn đang cầm cành hoa nở rộ, mỉm cười đứng sau lưng mình tự lúc nào. Y đăm đăm nhìn cô nói khẽ: “Vừa rồi đi trên phố trông thấy xe ngựa phủ Quỳ chạy qua, lại thấy cô nhảy xuống bèn tới chào một tiếng.”

    Thấy cành hoa vẫn chìa ra trước mặt mình, tỏa hương ngan ngát khiến người ta say đắm, Hoàng Tử Hà bất giác nhận lấy: “Đô úy đã chính thức nhậm chức ở Tả Kim Ngô Vệ rồi ư?”

    “Ừm, hôm nay là ngày đầu tiên. Kinh thành lớn như thế, hôm nay lần đầu tiên đi tuần lại gặp ngay cô, đúng là duyên phận.” Y ung dung mỉm cười: “Ta cứ tưởng buổi tối cô hay ra ngoài tra án hơn.”

    “Thì đúng mà, buổi tối tôi vẫn hay ra ngoài, giờ đô úy đi rồi, hy vọng các huynh đệ ở Kinh thành phòng vệ ty cũng nương tay cho tôi được nhờ.”

    “Chuyện đó đương nhiên.” Y cười nói, đoạn quay sang chào Lý Thư Bạch qua cửa sổ xe: “Tham kiến vương gia.”

    Lý Thư Bạch gật đầu chào, lại hỏi: “Ở Tả Kim Ngô Vệ có ổn không?”

    “Cũng ổn, như phòng vệ ty thôi.” Y thản nhiên cười đáp.

    Hoàng Tử Hà nắm chặt cành hoa thủy lạp trong tay, chợt thấy hổ thẹn trong lòng. Vương Uẩn ở Kinh thành phòng vệ ty đang như mặt trời chính Ngọ, giờ bị điều đến Tả Kim Ngô Vệ, bó chân bó cẳng, chính là vì cô vạch trần thân phận Vương hoàng hậu, hoàng đế mới chớp lấy thời cơ kiềm chế nhà họ Vương.

    Nghĩ vậy, cô bèn nhét cành hoa vào tay áo, bảo Vương Uẩn: “Đô úy đợi cho một lát,” rồi lên xe xách một chiếc túi ra, đặt vào tay Vương Uẩn: “Cái này… nếu có cơ hội, đô úy xem có thể giao lại cho Tiểu Thi không.”

    Vương Uẩn vừa cầm lấy đã đoán được ngay thứ bên trong, liếc qua chiếc đầu thật nhanh rồi vắt túi lên lưng ngựa, hỏi: “Tìm được ở đâu thế?”

    “Đừng hỏi, dù sao… tôi nghĩ tốt xấu gì cũng nên được toàn thây.” Cô nói nhỏ.

    “Ừm, thực ra ta hết sức hối hận. Cái chết của cô ấy, ta không khỏi liên quan.” Vương Uẩn chăm chú nhìn gương mặt cúi gằm của cô, lâu sau mới hạ giọng: “Cảm ơn.”

    “Cảm ơn gì thế?” Thình lình một người từ đằng sau nhảy ra hỏi.

    Kẻ xuất quỷ nhập thần thế này, đương nhiên là Chu Tử Tần. Hôm nay gã vận một bộ đồ màu hồng tím phối với vàng ươm, trông vẫn xốn mắt như thường.

    Một tay đặt lên tay Vương Uẩn, tay kia khoác vai Hoàng Tử Hà, Chu Tử Tần tươi cười: “Nào nào, kể cho tôi nghe chuyện ân oán giữa hai vị đi.”

    Hoàng Tử Hà tức thì gạt tay gã, cùng lúc ấy Vương Uẩn cũng kéo cánh tay Chu Tử Tần đang khoác vai Hoàng Tử Hà ra, hai người phối hợp hết sức ăn ý, khiến Lý Thư Bạch từ cửa sổ xe nhìn ra cũng phải nhướng mày, ánh mắt đầy phức tạp.

    “Vương đô úy tặng tôi một cành hoa, tôi cũng tặng lại chút quà.”

    Lý Thư Bạch thì nói: “Uẩn Chi cũng đừng về nha môn nữa, cùng đến Chuế Cẩm Lâu đi.” Uẩn Chi là tên tự của Vương Uẩn.

    Thế là Chu Tử Tần lên xe, còn Vương Uẩn cưỡi ngựa theo sau, mấy người cùng kéo đến Chuế Cẩm Lâu.

    “Sùng Cổ, công công vừa tặng lại cái gì đấy? Có qua có lại mới toại lòng nhau, Vương huynh tặng hoa, chắc công công cũng phải tặng lại thứ gì đó phong nhã chứ?” Dọc đường Chu Tử Tần cứ luôn miệng căn vặn.

    Hoàng Tử Hà không muốn nói, quà đáp lễ phong nhã của mình chính là chiếc đầu lâu lấy từ chỗ gã.

    Gặng hỏi mãi không được, Chu Tử Tần rầu rĩ bĩu môi ngồi dựa vào vách xe, nhìn chằm chằm cành hoa trên tay cô: “Đúng là, hoa này bẻ ngay ngoài cửa nhà ta chứ gì? Thế đâu tính là quà, rõ là mượn hoa dâng Phật!”

    Lý Thư Bạch dõi mắt nhìn ra phố phường bên ngoài, vặn lại: “Ngươi có nghĩ Dương Sùng Cổ cũng mượn hoa dâng Phật không?”

    Chu Tử Tần vẫn hồn nhiên không hề biết mình bị “mượn hoa” đến hai lần, nghe thấy câu này thì háo hức hỏi: “Lẽ nào quà đáp lễ của Sùng Cổ lấy từ chỗ vương gia? Hai người này đúng là keo kiệt, tặng qua tặng lại, toàn bòn của từ người khác.”

    Tiếc rằng kế khích tướng này vô dụng, Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà đã quá rõ tính tình gã, đều quay đầu nhìn ra cửa sổ, vờ như không nghe.

    Chu công tử phải chịu ấm ức suốt dọc đường đi, tới Chuế Cẩm Lâu chọn một loạt món ăn vẫn không vui lên được, trong lúc đợi món bèn nằm bò ra bàn, trông tội nghiệp như một chú chó con bị bỏ rơi.

    Hoàng Tử Hà chẳng buồn dỗ dành gã, mà gọi tiểu nhị múc cho một chậu nước, lại xin ít keo bong bóng cá và bột gạo, trộn lẫn vào nhau thành một hỗn hợp sền sệt dinh dính.

    Chu Tử Tần nằm bò ra bàn nhìn cô, uể oải hỏi: “Sùng Cổ làm gì thế?”

    Hoàng Tử Hà lấy gói mảnh sứ trong tay áo ra, đổ vào chậu nước rửa từng mảnh một. Vương Uẩn liền đứng dậy phụ giúp: “Cẩn thận kẻo bị cứa vào tay.”

    Lý Thư Bạch chỉ ở bên cạnh thờ ơ quan sát, không giúp, cũng chẳng nói năng gì.

    Chu Tử Tần thấy vậy thì hào hứng hẳn, nhặt ngay một mảnh cọ sạch rồi giơ lên ngắm nghía: “Cái gì đây?”

    “Mảnh sứ vỡ tìm được trong phủ công chúa, công tử đoán xem là gì?” Hoàng Tử Hà rửa sạch từng mảnh đặt lên bàn.

    Mảnh Chu Tử Tần đang cầm là pần tai chó, gã ngắm nghía hồi lâu rồi nói: “Hình như là một món đồ chơi bằng sứ… Mèo hay chó gì đó.”

    “Hẳn là một con chó.” Cô đáp.

    Thấy Hoàng Tử Hà lầm lượt ghép những mảnh sứ vỡ lại, Chu Tử Tần cũng quên cả giận dỗi, thoăn thoắt giúp cô tìm từng mảnh.

    Vừa ghép lại hoàn chỉnh thì tiểu nhị cũng bắt đầu bưng thức ăn lên.

    Đợi ba người ăn xong, keo dán cũng khô lại, con chó được dính chắc. Chu Tử Tần cầm trong tay săm soi rồi quả quyết: “Muốn mua được thứ này hẵng còn khó đấy.”

    Vương Uẩn cầm lên xem rồi hỏi: “Chẳng phải một con chó sứ bình thường thôi sao? Hồi nhỏ hình như ta cũng từng chơi, có gì mà khó mua?”

    “Vương gia lớn lên trong cung thì thôi, còn Sùng Cổ, hồi nhỏ có chơi thứ này không?” Chu Tử Tần hỏi.

    Hoàng Tử Hà gật đầu: “Tôi cũng có ấn tượng láng máng, chắc hồi nhỏ từng thấy rồi.”

    “Đúng thế, mười năm trước, khi chúng ta còn nhỏ thì loại chó sứ này rất phổ biến, nhưng mấy năm nay lại ít thấy, con mấy ông anh ta đều không có. Hơn nữa loại đồ sứ này động một cái là bị bọn trẻ làm vỡ, ta dám đảm bảo, thứ này đã thành hàng hiếm rồi.”

    “Con chó sứ này á?” Có đầy! Muốn bao nhiêu có bấy nhiêu!”

    Ông chủ tiệm đồ chơi ở chợ Tây vừa mở miệng đã giáng cho Chu công tử một đòn như búa bổ.

    Có điều da mặt gã cũng không phải dày vừa, chỉ một chốc đã gạt phăng chuyện này đi, hăm hở theo ông chủ vào kho, khiêng ra một rương chó sứ.

    Ông chủ mở rương ra, bên trong là hàng dãy chó sứ xếp ngay ngắn thành ba lớp, phải đến bảy tám chục con. Lớp trên cùng thiếu mất mấy con, thành ra bị khuyết.

    Hoàng Tử Hà ngồi xuống ngắm nghía, phát hiện đám chó trong hộp bám đầy bụi, chỉ riêng một con ở lớp thứ hai là sạch sẽ. Cô bèn nhặt lấy đặt lên lòng bàn tay săm soi rồi hỏi: “Ông chủ, rương hàng cũ này cũng mười năm rồi, sao ông không bỏ đi, lẽ nào vẫn còn người mua?”

    “Đúng thế, rương chó sứ này nhập từ Giang Nam mười năm trước, bấy giờ rất phổ biến trong kinh. Tiếc rằng về sau dần dần lỗi thời, lò gốm chế ra chúng cũng đóng cửa, chẳng ai mua nữa. Có điều cũng thật tình cờ, tháng trước lại có người hỏi đến, tôi tìm mãi mới phát hiện còn một rương hàng tồn, bèn đem ra bán. Chắc cả kinh thành này chỉ còn chỗ tôi bán thứ này thôi. Trừ vị khách hôm đó ra, cũng chỉ có các vị hỏi tới.”

    Hoàng Tử Hà ước chừng trọng lượng con chó sứ trong tay rồi hỏi: “Người khách lần trước trông thế nào? Chắc cũng tầm tuổi chúng tôi, đi mua lại món đồ chơi hồi bé chứ gì?”

    Ông chủ cười hì hì nhận tiền Chu Tử Tần đưa rồi đáp: “Không phải không phải, chính là ông chủ Tiền của tiệm ngựa Tiền Ký ấy, ông ấy bốn năm chục tuổi rồi còn đi mua thứ này, có tức cười hay không?”

    Chu Tử Tần quay sang nhìn Hoàng Tử Hà, nói bằng khẩu hình: “Lại là ông ta.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu, cũng dùng khẩu hình trả lời: “Quả nhiên.”

    Chu Tử Tần rầu rĩ hỏi: “Công công biết trước rồi à? Lại không nói với ta!”

    “Chẳng phải tôi nói với công tử đầu tiên đấy ư?” Lúc ra khỏi tiệm đồ chơi, Hoàng Tử Hà dỗ gã.

    Nghe vậy, Chu Tử Tần tức thì bò ra khỏi vực sâu tuyệt vọng, vui vẻ cầm chó sứ về Chuế Cẩm Lâu, đặt trước mặt hai người kia: “Đoán xem ai đã mua con chó sứ kia nào?”

    Lý Thư Bạch chẳng buồn ngước lên, đáp ngay: “Tiền Quan Sách.”


    Ba từ này đã đánh bật Chu công tử về đáy vực, gã rưng rưng quay lại nhìn Hoàng Tử Hà: “Công công bảo là nói với ta đầu tiên mà?”

    “Là gia tự đoán được đấy chứ.” Hoàng Tử Hà xòe hai tay, vẻ bất lực.

    “Nhưng, nhưng dù gần đây Tiền Quan Sách có mua một con chó sứ, thì cũng không thể nói con chó bị vỡ trong phủ công chúa có liên quan đến con của ông ta! Huống hồ chó sứ thì liên quan gì đến vụ án của công chúa?”

    “Đương nhiên liên quan rất nhiều. Có thể nói, cái chết của công chúa, đều do con chó sứ này.” Nói đoạn, Hoàng Tử Hà thận trọng bọc cả hai con lại.

    Vương Uẩn thấy cô tất bật thì mỉm cười hỏi: “Sùng Cổ, vụ án Tôn ghẻ lần trước hai vị đi suốt đêm điều tra, giờ thế nào rồi?”

    “Vẫn… chưa có tiến triển gì.” Chu Tử Tần nằm bò ra bàn, chán nản đáp: “Đại Lý Tự đã kết án là Tiền Quan Sách mượn cớ sửa sang đường nước, rồi theo đường nước lẻn vào giết người, nhưng vụ này vẫn còn cả đống nghi vấn chưa giải thích được.”

    Vương Uẩn hỏi: “Ví như mùi linh lăng hương ta ngửi thấy ở đó ư?”

    “Ừm, dĩ nhiên.” Chu Tử Tần thành thật gật đầu.

    Lý Thư Bạch hỏi chen vào: “Linh lăng hương gì cơ?”

    Vương Uẩn liền giải thích: “Tối hôm ấy Tích Thúy chức đi tuần thì gặp họ đi tra án, bèn theo xem thử. Những chuyện khác thì ty chức không biết, nhưng ở hiện trường lại ngửi thấy mùi linh lăng hương. Về mặt này ty chức cũng hiểu biết qua loa.”

    “Ngươi là kẻ bình phẩm hương giỏi nhất kinh thành, nếu nói là chỉ biết qua loa, thì ai dám nhận mình sảnh sỏi nữa? Trong nhà Tôn ghẻ quả có mùi linh lăng hương ư?”

    “Đúng thế, ngửi thấy mùi linh lăng hương trong căn nhà nát đó, ty chức cũng hết sức ngạc nhiên. Nhưng ty chức nhớ nhất là mùi linh lăng hương ở đó bị lẫn với đủ thứ mùi, rất khó nhận ra. Nhớ đến thứ mùi nồng nặc khiến người ta lợm giọng trong nhà Tôn ghẻ, Vương Uẩn nhăn mặt.

    Chu Tử Tần quay sang hỏi Hoàng Tử Hà: “Công công xem có nên tới nhà Tôn ghẻ lần nữa không?”

    “Ừm, trong ba vụ, tôi chỉ còn khúc mắc mỗi vụ này thôi, nếu tìm ra được cách hung thủ sát hại Tôn ghẻ trong phòng kín thì có thể kết án rồi.”

    Lý Thư Bạch sực nhớ ra một chuyện, liền bảo: “Dương Sùng Cổ, ngươi cầm lệnh tín phủ Quỳ đi bảo lãnh cho Tích Thúy ra đi.”

    Hoàng Tử Hà ngạc nhiên nhìn y, rồi gật đầu đầy cảm động: “Thưa vâng.”

    Giờ Tiền Quan Sách là nghi phạm lớn nhất, Tích Thúy tuy có liên quan tới hai vụ đầu, nhưng Đại Lý Tự từ lâu đã không còn hoài nghi nàng. Nay có Quỳ vương ra mặt bảo lãnh cho, huống hồ Lý Thư Bạch còn kiêm nhiệm Đại Lý Tự khanh, Tích Thúy hoàn toàn có thể về nhà đợi khi nào xử án sẽ cho truyền gọi.

    Chu Tử Tần thở dài: “Tích Thúy cũng thật là, kết án xong, chắc chắn cô ấy sẽ bị khép tội khai man rồi phạt trượng cho coi.”

    Vương Uẩn cười nói: “Lo gì, tới lúc đó vương gia chỉ cần nói một câu với Thôi thiếu khanh, để thiếu khanh nhắc nhở người phạt trượng là xong mà.”

    “Tôi là người chính trực, làm sao hiểu nổi mấy thủ đoạn đó của các người.” Chu Tử Tần vỗ trán than vãn.

    Thấy Hoàng Tử Hà đã ra đến cửa, Vương Uẩn bèn đứng dậy theo: “Ta cũng phải về Tả Ngô Kim Vệ, cùng đường với Dương công công, để ta đi cùng công công!”

    “Đi với đi với!” Chu Tử Tần bật dậy, “Tôi cũng phải đi lấy lòng Tích Thúy, bằng không lấy đâu đồ ngon mà ăn!”

    Ba người cùng xuống lầu, chỉ còn mình Lý Thư Bạch đứng bên song cửa sổ nhìn xuống dưới.

    Chu Tử Tần đi bên trái Hoàng Tử Hà, vừa đi vừa nhảy chân sáo, hoa chân múa tay ba hoa gì đó.

    Vương Uẩn đi bên phải Hoàng Tử Hà, thỉnh thoảng lại nghiêng đầu nhìn cô, nở nụ cười ôn hòa quen thuộc.

    Lý Thư Bạch đứng trên lầu nhìn theo cho tới khi cả ba ra khỏi chợ Tây. Ánh nắng gay gắt khiến cả thành Trường An sang rực lên, xói vào mắt y chói lóa.

    Cảnh Dục và Cảnh Hữu đứng phía sau chẳng hiểu sao y đột nhiên quay ngoắt đi, không nhìn ra bên ngoài nữa.

    Sau khi dừng ở cửa chợ Tây bàn bạc, ba người quyết định chia làm hai ngả, Chu Tử Tần đến phường Phổ Ninh báo tin cho Trương Hàng Anh, còn Vương Uẩn và Hoàng Tử Hà tới Đại Lý Tự trước.

    Hoàng Tử Hà bảo Vương Uẩn: “Tôi chạy ù sang bên này một lát,” đoạn rẽ vào tiệm nhang đèn nhà họ Lữ.

    Lão Lữ vẫn ở sau tiệm, lại đang hì hục làm một cây nến lớn, giống hệt cây bị nổ lần trước, chỉ thiếu chưa vẽ hoa văn và quết màu lên.

    Hoàng Tử Hà lặng lẽ đứng ngoài quan sát, không bước vào, cũng không lên tiếng. Lão Lữ đã gần sáu mươi tuổi, nheo nheo cặp mắt mờ đục, còng lưng ngồi tỉ mẫn vẽ hình rồng phượng và hoa lá lên nến. Giữa ngày hè nóng hầm hập, lão cầm bảng màu trên tay, thỉnh thoảng còn phải lại gần lò lửa khuấy sáp lỏng.

    Hơi nóng bốc lên nghi ngút, cả người lão Lữ đầm đìa mồ hôi, bộ áo chẽn nâu ướt sũng, xong lão vẫn chăm chú vẽ nến, vô cùng thành kính, không chút cẩu thả.

    Vương Uẩn nhìn lão rồi nhìn sang Hoàng Tử Hà hỏi khẽ: “Sao thế?”

    Hoàng Tử Hà thở dài đáp: “Không có gì. Tôi nghĩ hôm nay Tích Thúy được thả, không biết có nên báo cho cha cô ấy một tiếng không.”

    “Cha con đoàn tụ là chuyện đương nhiên, phải không nào?”

    Nghe Vương Uẩn nói vậy, Hoàng Tử Hà bèn cùng y bước vào tiệm, chào Lữ Chí Nguyên: “Lão Lữ.”

    Lữ Chí Nguyên nheo mắt ngước lên, chẳng biết có nhận ra cô hay không, chỉ lạnh nhạt ậm ừ: “Ồ, là quý khách.”

    “Ta đến báo tin mừng cho ông, Lữ Tích Thúy con gái ông hôm nay sẽ được thả, ông có muốn tới gặp cô ấy không?”

    Bàn tay Lữ Chí Nguyên thoáng khựng lại, nhưng rồi vẫn thoăn thoắt vẽ tiếp: “Được thả à? Được thả thì tốt rồi, cứ sợ nó làm liên lụy đến lão.”

    Hoàng Tử Hà biết tính lão già này nên cũng chẳng nhiều lời nữa, chỉ đứng ngắm nghía cây nến một hồi, chợt buột miệng: “Sắp xong rồi đấy nhỉ?”

    Lữ Chí Nguyên chẳng buồn đáp, lão vốn sẵn ghét hoạn quan.

    Vương Uẩn đang ngắm một đôi nến hoa trong tiệm, chợt gọi cô: “Sùng Cổ lại mà xem.”

    Đôi nến hoa nọ cao chừng một thước, hình thù rất đặc biệt, một cây hình rồng, cây kia hình phượng, mỗi chiếc vảy sợi lông một màu khác nhau, chỉ riêng màu đỏ đã có đỏ nhạt đỏ thẫm đỏ son đỏ thắm đỏ phớt, vô vàn sắc độ màu đều do một tay lão Lữ chế ra, thực khiến người ta phải trầm trồ. Tài điêu khắc của lão lại càng tuyệt diệu, đôi rồng phượng trông sống động như thật, bừng bừng khí thế, trên đầu mỗi con đính một sợi bấc, dọc thân trang trí vô số hoa lá, lục lạc bằng những mảnh đồng, quả là muôn màu muôn vẻ, lấp lánh rạng ngời, khiến người ta không ngăn được ý nghĩ, chẳng biết khi đốt lên còn đẹp đến đâu.

    Thấy đôi nến tinh xảo nhường ấy, Vương Uẩn ngoái lại hỏi: “Ông chủ có bán đôi nến này không?”

    “Không bán.” Lão từ chối thẳng thừng.

    Vương Uẩn cũng chẳng lấy thế làm điều, chỉ cười cười nói: “Thứ này bày trong tiệm, đúng là bảng hiệu đẹp nhất rồi.”

    Lúc hai người bước ra cửa, chợt có cơn gió thổi qua khiến mấy chiếc lục lạc trên thân nến rung lên khe khẽ, những cánh hoa phiến lá bằng đồng cũng lay động tạo thành tiếng leng keng ngân nga như tiên nhạc.

    Hoàng Tử Hà bất giác ngoái lại nhìn đôi nến.

    Vương Uẩn đi bên cạnh, chợt nói khẽ: “Nếu cô thích, sau này cũng có thể đặt ông ta làm một đôi như vậy dùng khi hai ta thành hôn.”

    Hoàng Tử Hà bỗng thấy lòng ngập đầy bối rối xen lẫn kinh ngạc, hai má đỏ bừng, nhưng đồng thời, cô lại có cảm giác nhói lạnh như bị kim châm đâm thẳng vào tứ chi, khiến thân hình không sao cử động.

    Thấy cô cứng đờ người, Vương Uẩn chỉ liếc nhìn rồi mỉm cười, nụ cười gượng gạo mà bao dung, giọng nói vẫn dịu dàng như thế: “Ta đùa thôi, chuyện đó chờ đến khi phá được vụ án của gia đình cô rồi tính, được không nào?”

    Cô chẳng biết mình nên gật hay lắc đầu nữa.

    Người trước mặt biết rõ cô đã ô danh đến nhường này, còn biết cô luôn bị đàm tiếu về chuyện Vũ Tuyên, nhưng vẫn bỏ qua tất cả.

    Lâu thật lâu, cô mới nghèn nghẹn đáp: “Được, đợi khi nào phá xong vụ án của gia đình tôi…”

    Rồi như bị chính những lời mình vừa thốt ra đánh thức, cô sực tỉnh.

    Hoàng Tử Hà, từ khi cha mẹ người thân qua đời ngươi đã thề rằng vĩnh viễn không để bất cứ việc gì ảnh hưởng đến mình nữa, quyết tâm vứt bỏ tất cả dịu dàng quyến luyến, cắt đứt vương vấn nhớ nhung, chỉ dốc lòng báo thù cho cả nhà, chẳng phải thế ư?

    Vũ Tuyên, Vương Uẩn, đều không phải vấn đề cần xét đến bây giờ.

    Nghĩ vậy, cô ngẩng lên cười với Vương Uẩn, giọng hơi khàn, nhưng ngữ điệu hết sức bình thản: “Vương đô úy khéo đùa, tôi là hoạn quan trong vương phủ, đời này còn thành hôn với ai được nữa?”

    Vương Uẩn sững người, rồi bật cười tự giễu: “Đúng thế… Ta đùa vô ý rồi.”

    Họ rời tiệm nhang đèn, lại ghé qua tiệm ngựa Tiền ký gần đó. Chưởng quầy vừa thấy Vương Uẩn vội vỗn vã chạy ra đón: “Ôi chao, Vương đô úy! Hôm nay đô úy đại giá quang lâm mà bổn tiệm thất lễ, không kịp ra ngoài nghênh tiếp rồi.”

    Tiệm ngựa Tiền ký đã mấy lần bán ngựa cho Tả Kim Ngô Vệ nên chẳng lạ gì nhau, mấy người làm bên trong tức thì chạy ra đón họ vào, lăng xăng bày quả pha trà.

    Vương Uẩn thấy vậy liền ngăn lại: “Ta chỉ đi ngang qua thôi, không cần bày vẽ.”

    “Ôi, thực xin lỗi Vương đô úy, đô úy xem đấy, Tiền lão gia bị bắt giam rồi, chúng tôi thật không biết phải làm thế nào nữa…” Chưởng quầy đang than vãn thì Tiền phu nhân và ba đứa con từ nhà sau chạy đến, khóc lóc thảm thiết vật nài Vương Uẩn giúp đỡ.

    Vương Uẩn xưa nay ôn hòa lễ độ, thấy họ kêu khóc như thế đành gượng cười phân trần: “Chuyện này ta không can thiệp được, các vị thử đến Đại Lý Tự kêu oan đi.”

    “Vị…Vị quan sai này lần trước từng đến tìm lão gia, nghe nói là người của Đại Lý Tự!” Người hầu trỏ ngay Hoàng Tử Hà, bảo với chưởng quầy và phu nhân.

    Lập tức cả nhà họ Tiền từ trên xuống dưới liền xúm lấy cô, Tiền phu nhân còn khóc nức lên: “Lão gia nhà chúng tôi là người tốt, hàng ngày làm gì cũng cẩn trọng, sao có thể giết người chứ…”

    Hoàng Tử Hà vội đỡ Tiền phu nhân dậy: “Thực ra ta tới đây cũng có chuyện muốn hỏi, chẳng rõ các vị có biết viên cai thầu đã sửa sang nhà cửa cho Tôn ghẻ không?”

    Chưởng quầy vội đáp: “Sổ sách về sửa sang phòng ốc đều để ở ngay nhà bên cạnh đây, tiểu nhân sẽ đi tìm ngay, xem hôm đó ai đến nhà họ Tôn.”

    “Nếu tiện thì ông mời người đó đến ngay nhà họ Tôn ở phường Đại Ninh cho, ta còn bận chút việc, làm xong sẽ tới đó đợi ông ta.”

    “Vâng vâng, tiểu nhân sẽ bảo ông ta đến ngay.”

    Lòng vòng mãi, khi Hoàng Tử Hà và Vương Uẩn đến Đại Lý Tự đã thấy Chu Tử Tần và Trương Hàng Anh đợi ở đó, Trương Hàng Anh đang ẵm một đứa bé, sau lưng còn hai người lạ mặt, một nam một nữ.

    “Anh trai chị dâu tôi dẫn thằng bé sang chơi, nghe nói là đi đón A Địch, bèn cùng đi luôn.” Trương Hàng Anh giới thiệu.

    Anh trai Trương Hàng Anh tên Trương Hàng Vĩ, dáng người cao to không kém em trai. Hai vợ chồng y rụt rè cười: “A Địch là người nhà chúng tôi, đương nhiên phải đi đón cô ấy về.”

    Chu Tử Tần xen vào: “Trương lão gia cứ khăng khăng đòi đi, nhưng ông ấy vừa khỏi bệnh, chúng tôi phải khuyên ngăn mãi, nếu không lão gia cũng đến rồi.”

    Thấy nhà họ Trương thật lòng yêu thương Tích Thúy như thế, Hoàng Tử Hà cũng nhẹ lòng, bèn mỉm cười gật đầu: “Mọi người đợi cho một lát, tôi vào đón A Địch ra.”

    Thực không ngờ Thôi Thuần Trạm vẫn ở nha môn chưa về nhà, hơn nữa trông còn rất vui vẻ, vừa thấy cô đã tươi cười hỏi: “Dương công công lại phụng lệnh vương gia ư?”

    Hoàng Tử Hà hành lễ rồi đưa lệnh tín của Quỳ vương phủ ra: “Vương gia nói vụ này đã tìm được kẻ bị tình nghi nhiều hơn, huống hồ khi công chúa qua đời, Lữ Tích Thúy đang bị giam, không có khả năng gây án, nên sai tôi đến thương lượng với Thôi thiếu khanh xem có nên cho Lữ cô nương về nhà chờ thẩm vấn không, chứ cứ giữ cô ta mãi như vậy có phần không ổn lắm.”

    “Ồ, chuyện này đơn giản mà.” Thôi Thuần Trạm quay sang bảo viên tri sự bên cạnh mang một tờ đơn đến để Hoàng Tử Hà điền vào, rồi đích thân cùng cô đi thả Lữ Tích Thúy.

    Dọc đường đi qua mấy gian phòng bỏ không, Hoàng Tử Hà thuận miệng hỏi: “Không biết Tiền Quan Sách bị giam ở đâu?”

    “Hắn ta ấy à? Chuyển đến đại lao bộ hình rồi.” Thôi Thuần Trạm thản nhiên đáp: “Nhân chứng vật chứng đầy đủ, sáng nay hắn đã cung khai rồi.”

    Hoàng Tử Hà sững sờ: “Khai rồi ư?”

    “Đúng thế.” Bị đôi mắt trong veo như soi thấu tất cả của cô nhìn chằm chặp, Thôi Thuần Trạm chột dạ ngoảnh đi, né tránh ánh mắt cô, hạ giọng nói: “Dương công công, vụ này… kết thúc rồi. Phá án nhanh như thế, chứng cứ lại rõ ràng, thánh thượng và Quách thục phi đều hài long, Đại Lý Tự lập được công lớn, bộ Hình cũng có cái mà ăn nói, không phải kết cục tốt nhất hay sao?”

    Hoàng Tử Hà đứng lặng dưới mái hiên mờ tối, hồi lâu mới cất tiếng: “Tiền Quan Sách… Làm thế nào mà khai?”

    “Làm thế nào, công công còn không biết ư?” Thôi Thuần Trạm dán mắt nhìn xuống nền gạch xanh dưới mái hiên, thở dài bất lực: “Bộ Hình phái một tay lệnh sử(*) lợi hại nhất đến, đem theo cả bộ đồ nghề. Nghe nói hắn đã tra tấn hơn một trăm hai mươi người, không kẻ nào không khai nhận, Tiền Quan Sách cũng… chẳng phải ngoại lệ.”

    (*) Chức vụ phụ tá cho huyện lệnh. Lệnh sử có thể làm nhiều công việc, viên lệnh sử được nói tới ở đây là đến tra khảo.

    Hoàng Tử Hà nhíu mày: “Hắn nhận cả việc giết công chúa ư?”

    “Nhận rồi. Chiều qua nhận giết Tôn ghẻ, đến tối nhận Ngụy Hỷ Mẫn, sáng sớm nay thì khai nhận sát hại công chúa.”

    Hoàng Tử Hà thấy lòng lạnh buốt, thẫn thờ thốt lên: “Quả là thủ đoạn ghê gớm.”

    “Bản án đã được cấp tốc sao chép lại, trình lên hoàng thượng, hẳn lát nữa trong cung sẽ có ý chỉ truyền ra.”

    Thì ra hôm nay Thôi thiếu khanh ăn trưa xong còn chưa về nhà, là vì phải đợi ý chỉ.

    Hoàng Tử Hà trầm ngâm, chợt nghe sau lưng có tiếng xích sắt xủng xoảng, rồi Tích Thúy được dẫn ra. Bị giam mấy ngày, nàng có phần tiều tụy ngơ ngác, trông thấy Hoàng Tử Hà mới gượng gạo mỉm cười.

    “Lữ Tích Thúy, hôm nay ngươi được phủ Quỳ vương bảo lãnh, tạm thời cho về phường Phổ Ninh. Trước khhi bản án kết thúc, nếu bộ Hình và Đại Lý Tự cần thẩm vấn, sẽ cho triệu đến, rõ chưa?”

    “Thưa, rõ.”

    Hoàng Tử Hà giúp nàng gấp hết chăn màn Trương Hàng Anh đem đến, ôm theo ra khỏi Đại Lý Tự.

    Vừa rời Đại Lý Tự, Tích Thúy đã trông thấy Trương Hàng Anh đứng đợi bên ngoài, tức thì lộ vẻ mừng rỡ xen lẫn buồn thương, nức nở gọi: “Trương nhị ca!”

    Trương Hàng Anh vội đặt đứa bé xuống, chạy như bay lên thềm, ấp chặt hai tay Tích Thúy trong lòng bàn tay mình áp lên ngực, đăm đăm nhìn nàng hồi lâu mới nghẹn ngào bảo: “A Địch, chúng ta… về nhà thôi.”

    Những người đứng đó thấy hai người như vậy đều mỉm cười đầy thấu hiểu. Ngay cả đứa bé được chị dâu Trương Hàng Anh dắt cũng giơ tay vẫy vẫy Tích Thúy: “Tỷ tỷ… Tỷ tỷ…”

    Rồi, nó đột ngột quay đi, gập người xuống gọi với ra ngoài cửa nha môn: “Ca ca, ca ca!”

    Thấy đứa nhỏ sắp vùng ra, anh trai Trương Hàng Anh vội chạy đến bế xốc nó lên, quay đầu nhìn ra đường.

    Chỉ thấy một nam tử dáng người dong dỏng vừa đi ngang qua gốc du bên đường, nghe đứa bé gọi, liền quay đầu nhìn sang bên này.

    Con phố hết sức bình thường, chỉ vì một cái ngoái đầu này mà sang bừng lên.

    Ánh mắt Hoàng Tử Hà sững lại trên mặt hắn, hơi thở cũng ngưng một nhịp. Nắng hè chói chang, nóng như lửa đốt, còn lòng cô đau đớn như nghẹt thở.

    Giữa ngày hè nóng bức, người kia lại toát ra khí chất thanh tĩnh mát lạnh, không vướng bụi trần, dáng dấp cao gầy như một cây trúc non, tỏa hào quang nhàn nhạt.

    Hắn mỉm cười tiến lại, giơ tay ôm lấy đứa nhỏ cứ nhoài người về phía mình, đùa với nó: “Ra là A Bảo, còn nhớ ca ca ư?”

    Hoàng Tử Hà lặng lẽ lùi lại một bước, nấp sau gốc đại thụ ở cửa Đại Lý Tự, tránh phá vỡ bầu không khí.

    Người nhà họ Trương nhận ra hắn là ân nhân đã đưa đứa bé về nhà, vội chạy lại cảm tạ.

    Vũ Tuyên giơ tay che nắng cho đứa bé, rồi ẵm nó đến dưới bóng cây. Chu Tử Tần vội sán đến, ngưỡng mộ hỏi: “Không biết huynh đài tên họ là gì? Lần trước nghe Trương nhị ca tả huynh là một nhân vật như thần tiên, ta còn không tin, hôm nay tận mắt chứng kiến mới thấy quả không sai!”

    Vũ Tuyên nghe nói chỉ cười đáp: “Chuyện vặt ấy mà, đâu đáng nhắc đến.”

    Rõ ràng là hắn không định tiết lộ tên họ, xong Chu Tử Tần vẫn bám nhằng nhẵng: “Ta tên Chu Tử Tần, nhà ở phường Sùng Nhân, cạnh mộ Đổng Trọng Thư, chẳng hay huynh đài tên họ là gì, sống ở đâu? Ta có khá nhiều bạn bè trong kinh, chắc chắn họ sẽ rất mến huynh, sau này chúng ta có thể hẹn nhau ngâm thơ làm văn, nghe nhạc uống rượu, du sơn ngoạn thủy, đi chơi xuân, đánh mã cầu… Phải rồi, tôn tính đại danh huynh đài là gì vậy, ta phải xưng hô thế nào đây?”

    Gặp phải hạng người dai dẳng thế này thực chẳng có cách nào thoát nổi, hắn đành đặt đứa bé xuống, chắp tay hành lễ: “Tại hạ Vũ Tuyên, là học chính Quốc Tử Giám.”

    “Gì cơ? Huynh là học chính Quốc Tử Giám?” Chu Tử Tần giật nảy mình, “Bất công hết chỗ nói! Sao năm xưa ta ở Quốc Tử Giám, toàn gặp phải mấy lão đầu râu tóc bạc! Nếu bấy giờ có một học chính như huynh, thì ta đâu đến nỗi phải trốn học đi chọc tổ chim chứ?”

    Vũ Tuyên giải thích: “Tại hạ mới được tiến cử vào kinh chừng một tháng thôi. May mắn lọt mắt xanh của tế tửu Quốc Tử Giám nên tạm thời được phân giảng dạy phần Chu Lễ.”

    “Huynh giỏi thật đấy! Trẻ thế này mà đã làm học chính Quốc Tử Giám rồi! Ta đến giờ còn chưa thuộc hết Chu Lễ nữa!” Nói đến đây. Chu Tử Tần chợt sững ra, hỏi lại: “Vũ Tuyên… học chính Quốc Tử Giám ư?”

    Hắn gật đầu, không nói gì thêm.

    Nhìn vẻ tò mò pha lẫn kinh ngạc của Chu Tử Tần, Hoàng Tử Hà biết gã đang nghĩ đến lời đồn đại về quan hệ khác thường giữa Đồng Xương công chúa và Vũ Tuyên lâu nay vẫn xôn xao kinh thành.

    Nỗi buồn âm thầm len vào lòng, cô mệt mỏi tựa vào thân cây, lặng lẽ lắng nghe hơi thở của mình.

    Vũ Tuyên không để ý tới ánh mắt lạ lùng của Chu Tử Tần, chỉ cười cúi xuống xoa đầu A Bảo rồi cáo từ hai anh em họ Trương: “Tôi còn có việc ở Quốc Tử Giám, phải đi trước đây.”

    Trương Hàng Anh vội kéo Tích Thúy lại giới thiệu: “Đây là… vợ chưa cưới của tôi, chúng tôi sắp thành hôn, tới khi ấy mời huynh đến uống ly rượu mừng, huynh không được từ chối nhé.”

    Vũ Tuyên nhìn Tích Thúy rồi gật đầu cười, không nói gì.

    A Bảo cứ nắm chặt lấy tay hắn, ríu rít gọi: “Ca ca, ca ca…”

    Vũ Tuyên bèn quay lại, ngồi xuống nhìn vào mắt A Bảo mỉm cười dỗ dành: “Ngoan nào, A Bảo thích ăn gương sen đúng không? Để ca ca đi tìm xem, nếu thấy sẽ mua về cho A Bảo, được không nào?”

    A Bảo nghiêng đầu nghĩ ngợi, rồi buông tay ra, gật đầu lia lịa: “Được, A Bảo muốn hai cái cơ.”

    “Ba cái cũng được.” Vũ Tuyên cười, xoa đầu A Bảo, đứng dậy hành lễ cáo từ rồi quay người đi thẳng, sau khi ngoặt vào một con hẻm thì khuất bóng.

    Chu Tử Tần ngưỡng mộ bình phẩm: “Đúng là khéo dỗ trẻ con.”

    Hoàng Tử Hà dựa vào gốc cây, nói khẽ như tự lẩm bẩm: “Đúng thế… rất giỏi gạt trẻ con, từ xưa đến giờ vẫn vậy.”

    Trong nháy mắt, cô chợt thấy thoáng qua quang cảnh một buổi chiều hè, hoàng hôn rực rực rỡ, gió sen lồng lộng. Vũ Tuyên cúi xuống còn cô ngước lên, thấy rõ hình bóng mình in trong đáy mắt sâu thẳm mênh mang của hắn, có điều, ảo ảnh ấy chỉ vụt qua rồi biến mất.

    Cô hít một hơi thật sâu, xác nhận mình đã bình tĩnh lại, mới từ sau gốc cây đi ra.

    Chu Tử Tần vừa thấy cô đã liến thoắng khoe: “Sùng Cổ! Vừa nãy công công đi đâu thế? Có thấy người vừa rồi không? Ta sống sở Trường An hai mươi năm nay, chưa từng gặp ai phong tư trác tuyệt, khí độ thanh cao như thế, nếu công công không thấy thì thực đáng tiếc!”

    Hoàng Tử Hà đang không biết trả lời thế nào thì một thót ngựa từ phía cung Đại Minh chạy tới, người trên ngựa nhảy xuống lao thẳng vào trong: “Thánh thượng có khẩu dụ, Đại Lý Tự thiếu khanh Thôi Thuần Trạm ở đâu?”

    Thôi Thuần Trạm lật đật chạy ra tham kiến: “Công công, không biết thánh thượng hạ ý chỉ thế nào?”

    Vị công công nọ tên Phùng Nghĩa Toàn, hầu hạ bên ngài ngự, giọng sang sảng như chuông đồng, vừa cất tiếng đã vang khắp trong ngoài nha môn: “Thánh thượng có chỉ, tội phạm giết hại Đồng Xương công chúa bị lăng trì tùng xẻo, tịch thu gia sản, cả nhà bất luận già trẻ lớn bé đều xử trảm.”

    Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần nhìn nhau, không giấu được vẻ ngạc nhiên.

    Trương Hàng Anh và Lữ Tích Thúy nắm chặt tay nhau, đều cảm thấy tay người kia dấp dính mồ hôi lạnh.

    Chu Tử Tần ghé tai Hoàng Tử Hà hỏi nhỏ: “Chúng ta còn điều tra nữa hay thôi?”

    Hoàng Tử Hà hỏi lại: “Công tử nói xem?”

    “Chân tướng vụ án còn chưa rõ, sao có thể bỏ qua?” Chu Tử Tần bừng bừng nhiệt huyết, siết chặt hai tay đặt lên ngực.

    Hoàng Tử Hà gật đầu: “Đi thôi.”

    “Đi đâu?”

    “Tới phường Đại Ninh, nhà Tôn ghẻ.”
     
  3. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 19 - Than thở trăm năm
    Lúc Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần đến nhà họ Tôn, đã thấy một người đàn ông trung niên cao to thuần hậu bồn chồn đứng đó đợi. Nhác thấy bóng họ, ông ta vội bước lên đón: “Dương công công phải không? Tiểu nhân là Chử Cường, người làm ở tiệm ngựa Tiền Ký, lần trước chính tôi cùng các anh em dưới quyền sửa nhà cho Tôn ghẻ.”

    “A, là cai thầu Chử.” Trong lúc Hoàng Tử Hà chào hỏi ông ta, Chu Tử Tần đã nhanh nhẹn gỡ giấy niêm phong trên cửa ra.

    Đồ đạc bên trong vẫn y nguyên như lần trước, chỉ là mấy hôm đóng kín cửa, không khí trong nhà càng hầm hập như nung, mùi hôi xộc nên nồng nặc.

    Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần lại rà soát cửa sổ và nền đất một lượt, rồi bảo Chử Cường: “Các vị làm khá thật, cửa sổ rất chắc chắn.”

    “Thưa vâng, thế nên tiệm Tiền Ký mới lấn sang lĩnh vực sửa sang nhà cửa chưa lâu, nhưng đã có tiếng trong kinh, mọi người đều tín nhiệm!” Chử Cường tự đắc vỗ vào ván cửa sổ bằng gỗ bản: “Công công xem, nếu cài chốt vào thì gậy sắt cũng không đánh bật ra được! Cái then này chấp cả bốn năm trai tráng cũng đừng hòng xô gãy!”

    Hoàng Tử Hà gật đầu tán đồng, rồi đứng dậy đi một vòng quanh nhà.

    Phòng ốc vẫn lộn xộn ngổn ngang, tường treo đầy bùa chú, tượng Phật, tượng gỗ. Chử Cường chỉ những thứ này nói: “Lúc chúng tôi tới đã thất mấy thứ này rồi. Tôn ghẻ có tật giật mình nên đem treo khắp nơi trong nhà, nói là sợ trời phạt!”

    Hoàng Tử Hà hỏi: “Ông biết hắn ta không có tiền, lại chẳng phải hạng tử tế gì, sao còn nhận lới sửa nhà giúp?”

    “Ôi chao, chẳng vẫn nghe đồn tên Tôn ghẻ này rủng rỉnh tiền của ư, lão Lữ ở tiệm nhang đèn kể rằng đã được hắn bồi thương rất nhiều tiền, nên mới tha cho đấy. Ai ngờ tên khốn này đền tiền xong thì chẳng còn xu nào nữa, hại tôi bị ông chủ Tiền mắng như tát nước vào mặt, giờ người chết rồi, nợ biết đòi ai!” Chử Cường hối hận ra mặt, hậm hực nhận xét: “Lão Lữ cũng chẳng tử tế gì, vốn đã đi theo để đặt đế đèn, vừa thấy là nhà Tôn ghẻm lão liền biến sắc, trỏ mặt họ Tôn chửi cho một chặp rồi đi thẳng, chẳng thèm đặt đế đèn nữa, thế mà không hề hé răng bảo cho tôi biết Tôn ghẻ đã hết tiền!”

    Chu Tử Tần không hứng thú với việc tranh chấp tiền nong, nhân lúc hai người trò chuyện, gã lần lượt gỡ hết những tấm bảng phổ độ chúng sinh trên tường, tranh Quán Âm ban con treo trên đầu giường và mấy lá bùa nhăng cuội xuống xem, nhưng chẳng thấy lỗ hổng nào trên bức tường phía sau cả, liền hậm hực ra mặt.

    Hoàng Tử Hà phân tích: “Mặt tường bằng phẳng như thế, làm sao có lỗ hổng bên trong được?”

    “Biết đâu đấy.” Chu Tử Tần miệng nói, chân đã giẫm nên bậu cửa, định gỡ tấm bảng sắt Mục Liên cứu mẹ trên đỉnh khung cửa xuống, nào ngờ gỡ mãi không được,gã tiện tay gõ gõ mấy cái, phát hiện ra đó là một chiếc hộp dài rỗng không, gắn vào tường.

    Chử Cường vội ngăn lại: “Ồ, cái đó không gỡ xuống được đâu, hộp sắt đặt trong tường đó là cái giá đỡ khung cửa đấy.”

    “Để làm gì vậy?” Chu Tử Tần hỏi.

    Chử Cường giải thích: “Ban đầu là ông chủ Tiền nhà chúng tôi học được cái này ở chỗ mấy thương nhân Tây Vực, nghe nói bên đó họ thích đặt một chiếc hộp sắt rỗng, chạm trổ hoa văn rất đẹp, dài bằng chiều rộng cửa lên đỉnh khung cửa, coi như đặt một miếng giảm xóc giữa khung cửa và bức tường, như vậy khung cửa sẽ không bị biến dạng. Về sau trong kinh dẫn dần thịnh hành, chúng tôi đến xưởng rèn đặt làm hơn một trăm chiếc, chưa đầy năm đã sắp hết tới nơi. Cái này là tôi chọn bừa, hình khắc bên trên hình như là… Mục Liên cứu mẹ phải không?”

    “Hình như thế.” Chu Tử Tần kê ghế đứng lên cao ngang tầm chiếc hộp quan sát rồi nhận xét: “Đúng là chạm rỗng, tiếc rằng cứ đen sì, nếu thêm ít sơn vào có phải đẹp không.”

    Hộp sắt dài bằng chiều rộng khung cửa, cao chừng hai tấc. Mặt hướng vào trong chạm rỗng hình Mục Liên cứu mẹ, mặt hướng ra ngoài thì đặc ruột, vẽ hoa văn cát tường, xong đã nứt rạn đen sì, nhìn rất xấu xi.

    “Đương nhiên là phải sơn rồi… Ô, rõ ràng lúc gắn lên, tôi gắn cái mới cho hắn kia mà, kẻ nào lại đổi thành thứ đen kịt như đã dùng mấy năm vậy?” Chử Cường ngẩng lên nhìn chiếc hộp đèn sì, nhíu mày: “Sao thế nhỉ, mới mấy hôm mà đã ám khối đen sì thế này rồi? Lúc trước có hoa văn sặc sỡ mà.”

    Chu Tử Tần nhìn qua lớp hoa văn chạm rỗng vào bên trong hộp, cũng cau mày: “Bẩn quá… Toàn là tro than.”

    Hoàng Tử Hà lật đật bê ngay một chiếc ghế kê cạnh ghế của Chu Tử Tần rồi trèo lên nhìn vào trong hộp. Chỉ thấy lớp sơn bên ngoài cháy đen như bị lửa thiêu, bên trong hộp toàn tro, ở góc còn có mất vết ngón tay quẹt qua.

    “Có người thò ngón tay qua lỗ hổng, lấy thứ bên trong ra.” Hoàng Tử Hà nhận xét, rồi ngoái lại hỏi Chử Cường: “Cái hộp này mở ra được không?”

    “Hộp bằng sắt mỏng ấy mà, muốn mở thì lấy kéo cắt ra là xong.”

    Chu Tử Tần tìm được một cây kéo gỉ ngoèn, bèn cắt rời hoa văn Mục Liên cứu mẹ ra, trong hộp chỉ có một cái khung sắt và lớp tro dày, trên lớp tro còn in hằn một vài vết tích.

    Chu Tử Tần trỏ một vết khá lớn nhận xét: “Nhìn cái này này, có vẻ vật bị lấy ra là hình tròn.”

    Lại trỏ một vết dài mảnh: “Nhìn cái này, thì có vẻ là thứ gì đó làm bằng sợi sắt mảnh.”

    Hoàng Tử Hà nhíu mày, săm soi dấu vết hình tròn khá lớn kia: “Nhìn độ lớn này, công tử có thấy là không thể móc một vật hình tròn to như thế qua lỗ hổng bé thế này không?”

    Chu Tử Tần dùng ngón tay ước lượng độ lớn của vật tròn, rồi lại gí ngón tay đo chiều rộng lỗ hổng trên mặt hộp sắt mà mình vừa cắt rời ra, ngỡ ngàng nhận xét: “Đúng thật… Chỗ lỗ hổng lớn nhất cũng vẫn nhỏ hơn kích thước vật kia! Công công xem, dài mất là mấy đám mây này, phải đến hai ba tấc ấy, nhưng lại hẹp bề ngang…”

    “Bởi vậy thứ đó nhất định không phải hình tròn, chỉ là cong cong thôi.” Vừa nói cô vừa quệt ít tro trong hộp ngửi thử, không giấu được nụ cười: “Linh lăng hương.”

    Giữa gian phòng tranh tối tranh sáng, không khí lởn vởn bụi bặm, nụ cười vui sướng của cô vì vạch trần được âm mưu chợt bừng lên rạng rỡ, khiến Chu Tử Tần nhìn mà ngẩn ngơ.

    Hoàng Tử Hà rút khăn tay ra, quệt ít tro đen trong hộp gói lại. Ngẩng lên thấy Chu Tử Tần vẫn đờ đẫn nhìn mình, cô buột miệng hỏi: “Sao thế?”

    “Ờ…” Chu Tử Tần vội nhìn lảng đi nơi khác, luống cuống quệt vội ít tro, chống chế: “Ta cũng lấy một ít về kiểm nghiệm xem có phải linh lăng hương không.”

    Rời phường Đại Ninh, Chu Tử Tần đi về hướng Tây Nam, còn Hoàng Tử Hà đi về hướng Đông Nam, mỗi người một ngả.

    Đi đến phường Hưng Ninh, Hoàng Tử Hà chợt thấy rất nhiều người chậy rầm rập trên đường, có kẻ còn la lớn: “Mau tới Thập Lục trạch đi! Chậm là hết đó!”

    Hoàng Tử Hà không hiểu chuyện gì, đương ngỡ ngàng chợt thấy một bà lão đang chạy thì bị đám đông xô ngã nhào, miệng kêu ôi chao. Cô vội chạy tới đỡ bà ta lên, hỏi: “Các vị chạy đi đâu vậy?”

    “Ối chao, nghe nói thánh thượng và Quách thục phi đang rải tiền khắp phố ở khu Thập Lục trạch, gần phủ công chúa ấy. Chúng tôi đi nhặt tiền chứ đi đâu nữa!”

    Hoàng Tử Hà chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, đành chạy theo dòng người.

    Đến nơi, thấy cả đám đông đang vây chặt cửa phủ,ai nấy đều lom khom nhặt gì đó dưới đất, cô đành níu một người đang nắm chặt vật vừa nhặt được trong tay hỏi: “Đại ca, nghe nói thánh thượng và Quách thục phi đang rải tiền, đúng không?”

    “Rải tiền cái gì? Đúng là phàm tục!” Người trông như ăn sĩ nọ xòe tay ra cho cô xem. Trong lòng bàn tay ông ta là một đóa hoa cài đầu bằng bạc khảm trân châu, tinh xảo hoa mỹ, hẳn là đồ trang sức trong cung.

    “Vừa rồi thánh thượng và Quách thục phi giá lâm phủ công chúa để xem điệu Than thở trăm năm mà Lý Khả Cập mới dựng, gấm đoạn trải dài suốt dọc đường thánh giá đi từ trong cung Đại Minh tới đây, mấy trăm người vừa ca vừa múa, hoa cài đầu rơi lả tả, những kẻ này đều kéo đến để nhặt đó.”

    Hoàng Tử Hà sực hiểu ra, bèn lắng tai nghe, quả nhiên lẫn trong tiếng lao nhao của đám đông, vẫn loáng thoáng nghe thấy tiếng ca múa tờ bên trong vẳng lại.

    Cô tránh cửa lớn, lánh đến nơi vắng người, quả nhiên nghe rõ mồn một tiếng mấy trăm người đồng ca. Âm điệu bi ai uyển chuyển khiến cô đứng xa xa nghe mà cũng thấy nao nao trong dạ, chạnh lòng buồn thương vô cớ.

    Hoàng Tử Hà dựa vào tường, lặng lẽ ngẩng đầu nhìn trời. Chiều hạ lặng gió, tiếng ca sầu thảm từ xa đưa lại như cứa vào lòng, khiến nước mắt cô cứ thế lăn dài.

    Tự thấy mặt mình nhạt nhòa nước mắt sẽ rất khó coi, cô lần tìm khăn tay để lau, nhưng lại sực nhớ ra khăn tay đã dùng gói mấy dúm tro tàn khi nãy. Cầm trong tay gói tro linh lăng hương, còn đang bần thần, Hoàng Tử Hà chợt thấy một chiếc khăn tay trắng muốt chìa ra từ phía sau.

    Cô ngoái lại, mở to mắt, nhìn qua màn lệ nhạt nhòa.

    Là Vũ Tuyên.

    Hắn vận chiếc áo thiên thanh, đứng giữa con hẻm xám nhờ, màu sắc rất thanh nhã, dung mạo rất thuần tịnh.

    Cô chầm chậm đưa tay nhận lấy chiếc khăn, ấp lên mặt.

    Nước mắt nóng bỏng thấm vào lần vải mềm mịn, chẳng còn dấu vết.

    Rồi như vừa bị rút cạn sức lực, Hoàng Tử Hà bất giác dựa người vào tường, vùi mặt trong chiếc khăn tay hắn đưa, thật lâu chẳng chịu ngẩng lên.

    Trong chiếc khăn là mùi hương của hắn, nhẹ nhàng mà hư ảo, là đóa sen chớm nở ngày hạ, là nhụy mai rơi rụng mùa đông, là lửa nóng, cũng là băng giá trong giấc mơ của cô.

    “Ta trông thấy muội, từ lúc ở Đại Lý Tự.” Giọng hắn nhẹ nhàng cất lên, tuy còn hơi mơ màng, nhưng vẫn rành rọt lọt vào tai cô: “Muội nấp sau gốc cây, tránh mặt ta. Cũng phải, dù gặp mặt, thì có thể nói gì đây?”

    Qua giọng nói chậm rãi ấy, cô nghe được rất rõ nỗi bi ai và lưỡng lự trong lòng hắn.

    Hắn cũng như cô, hắn đang hồi tưởng lại những ngày đầm ấm bên nhau, những điều không thể quên, cũng không thể chết.

    “Ta đã gặp cô nương ấy, muội cứu cô ấy từ Đại Lý Tự ra đúng không?” Vũ Tuyên ngẩng lên nhìn những đóa mây trắng đến lóa mắt trên đầu, giọng chậm rãi mà xa xăm, “Dọc đường về, ta cứ nghĩ mãi. Nhớ lại năm xưa, chỉ vì một câu cần cân nhắc trên hồ sơ, muội cũng lặn lội ngàn dặm, đi suốt ngày đêm lật lại bản án giúp người dưng. Dù giờ đây phải gánh đủ thứ tiếng xấu, bị dồn vào chân tường, muội vẫn dốc sức giúp đỡ người khác. Vậy mà kẻ thân thiết với muội nhất trên đời là ta lại khăng khăng cho rằng muội là hung thủ, thực… uổng phí tình cảm bấy nhiêu năm nay.”

    Hoàng Tử Hà cắn môi nín lặng, nhưng bờ vai run bần bật đã bán đứng cô.

    Vũ Tuyên thở dài, dịu dàng giữ lấy vai cô.

    Trước đây, họ từng thân mật hơn thế này nhiều. Nhưng lâu ngày không gặp, lần đầu tiên chạm lại vào nhau, Hoàng Tử Hà bất giác nghiêng người né tránh, khiến bàn tay Vũ Tuyên đang vươn ra bị hẫng.

    Hồi lâu, hắn mới lặng lẽ rút tay lại, nói khẽ: “Muội không nên nói với ta nhưng lời ấy, cũng không nên làm những việc đó, nếu không ta đời nào tin muội gây ra chuyện tày đình như vậy, bất luận thế nào cũng không tin.”

    Hoàng Tử Hà gập chiếc khăn lại, vẻ mặt bình thản, trừ khóe mắt hơi đỏ thì chẳng còn gì khác thường.

    Cô hỏi ngược lại: “Muội đã… nói gì với huynh? Muội đã làm gì?”

    Hắn nhìn cô chăm chú, giọng rất khẽ, xong lại hết sức rành rọt: “Đêm trước khi cả nhà muội qua đời, lúc muội từ Long Châu trở về, ta đến tìm, thấy… muội đang nhìn chằm chằm gói tỳ sương trong tay, vẻ mặt rất lạ.”

    Hoàng Tử Hà tròn mắt ngạc nhiên nhìn Vũ Tuyên: “Gì cơ?”

    “Đêm hôm đó, chính hôm muội vừa từ Long Châu trở về ấy. Ta còn nhớ muội gửi cho ta một bức thư, viết rằng vụ án ở Long Châu là vì cô con gái bị người nhà chia uyên rẽ thúy, bèn bỏ cỏ đoạn trường vào thức ăn, đầu độc chết cả nhà. Muội còn bảo, nếu đôi ta lâm vào cảnh ngộ ấy, chẳng rõ muội có vứt bỏ người nhà, bước lên con đường không thể quay đầu hay không.” Ánh mắt Vũ Tuyên nhìn cô đầy đau đớn, “Đọc được câu đấy, ta rất lo lắng, thấy muội vừa về lại lấy tỳ sương ra xem, liền khuyên muội vứt đi, nhưng muội chỉ cất vào tủ khóa lại rồi nói, biết đâu thứ này có thể giúp đôi ta được ở bên nhau.”

    Hoàng Tử Hà ngỡ ngàng nhìn Vũ Tuyên, như nhìn một người xa lạ: “Muội nhớ chuyện ở Long Châu, cũng nhớ nội dung bức thư ấy, nhưng muội không nhớ mình từng lấy tỳ sương ra… càng không nhớ mình đã nói câu đó!”

    Vũ Tuyên nhìn xoáy vào cô, ánh mắt sắc như dao, nhưng chỉ thấy mặt cô đầy vẻ ngạc nhiên và đau xót, chẳng có gì sơ hở.

    Mặt Vũ Tuyên hơi tái đi, hắn day day thái dương, hơi thở cũng nặng nề vì kích động, khó nhọc nói: “A Hà, xem ra, đúng là ta hiểu lầm hành động khi đó của muội rồi… Có điều lúc đó muội cầm gói tỳ sương, nét nặt rất đáng sợ, mà ngay tối hôm ấy, cả nhà muội lại chết vì tỳ sương… Muội bảo ta làm sao tin muội đây?”

    “Không thể nào!” Hoàng Tử Hà run rẩy cắt lời, “Sau khi mua tỳ sương về, muội lập tức khởi hành đi Long Châu, tới tận lúc về cũng chưa động vào nó! Sao huynh lại thấy muội cầm gói tỳ sương được?”

    Vũ Tuyên nhìn cô chằm chằm, con người tiêu sái thanh tinh như hắn, lúc này cũng lộ vẻ kinh hoàng, cứ lẩm bẩm mãi mấy chữ: “Không thể nào? Không thể nào…”

    Nóng và lạnh, máu me và quạnh hiu, mệnh vận không thể đoán trước cùng ý trời khôn lường đều đổ sụp lên người họ.

    “Dương Sùng Cổ.”

    Phía sau chợt vang lên một giọng nói lạnh lùng đến gần như vô tình, phá vỡ bầu không khí im phắc như chết giữa hai người.

    Hoàng Tử Hà ngoái lại, thấy Lý Thư Bạch đang đứng đầu ngõ bất động nhìn cả hai. Ánh sáng từ sau lưng y hắt lại, không trông rõ nét mặt y, chỉ thấy đường nét gương mặt toát lên áp lực vô hình, không thể trốn thoát.

    Cuối cùng, cô nhìn thấy đôi mắt trong veo sâu thẳm của y, bỗng sực tỉnh khỏi trạng thái mơ màng ngơ ngẩn, nhận ra mình đang đứng giữa một con ngõ vắng tanh. Khúc Than thở trăm năm sâu thẳm vẫn vọng lại từ đằng xa, giục người rơi lệ, tiếng nhạc văng vẳng giữa bầu không, tựa hồ lấn át cả mây trời, khiến mấy ngừng trôi.

    Vũ Tuyên phía đối diện dường như cũng đã định thần lại, tuy trán còn xâm xấp mồ hôi lạnh, nhưng vẻ mặt đã bình thản như thường.

    Hắn cúi đầu hành lễ với Lý Thư Bạch rồi quay người bỏ đi, trước khi đi còn ngước nhìn cô.

    Hoàng Tử Hà cũng lặng lẽ nhìn hắn, trên gương mặt tái nhợt là vô vàn ưu tư phức tạp, khiến cô ngập ngừng, muốn nói lại thôi.

    Vũ Tuyên khẽ hỏi: “Lần trước muội nói muốn về Thục tra rõ chân tướng ư?”

    Hoàng Tử Hà gật đầu: “Muội nhất định sẽ về.”

    “Vậy ta ở Thành Đô đợi muội.”

    Ánh mắt Vũ Tuyên đăm đăm nhìn vào mắt cô, hệt như lần đầu gặp gỡ, hồi ấy cô còn chưa hiểu tình yêu là gì, nhưng khi nhìn vào đôi mắt đắm đuối của hắn, cô đã thấy bóng mình in trong đó.

    Chẳng ai biết được, trong khoảnh khắc ấy, cô đã từ một cô bé trở thanh thiếu nữ.

    Lúc Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà bước vào phủ Đồng Xương, đội múa Than thở trăm năm đã giải tán.

    Trên nền đá sáng lóa dưới nắng, châu ngọc vương vãi khắp nơi càng lấp lánh chói mắt. Thi thể Đồng Xương công chúa đã nhập quan, nhưng trong phòng vẫn đặt đầy nhưng khối những khối băng lớn có nhỏ có.

    Bên cạnh còn một cỗ áo quan nhỏ hơn, đặt thi thể Vân nương, bà vú của công chúa, vết hằn vẫn rành rành trên cổ, vẻ mặt nhăn nhó đến tuyệt vọng, cùng công chúa đi vào giấc ngủ vĩnh hằng.

    Hoàng đế và Quách thục phi ngồi giữa đại sảnh, các cung nữ và hoạn quan phía sau đều đang lau nước mắt. Ngài ngự trông hết sức giận dữ, cơn giận của nỗi tuyệt vọng không thể phát tiết, tích tụ lại mà thành.

    Vừa nhác thấy Lý Thư Bạch dẫn theo Hoàng Tử Hà bước vào, mấy hoạn quan và cung nữ bên cạnh hoàng đế liền thở phào nhẹ nhõm. Thấy Lý Thư Bạch đưa mắt nhìn Vân nương, hoàng đế nói: “Công chúa một mình dưới đó thì lạnh lẽo quá, nên trẫm cho Vân nương xuống tiếp tục hầu hạ công chúa.”

    Dù sao người cũng đã chết, nên Lý Thư Bạch chỉ lặng thinh, ngồi xuống bên cạnh hoàng đế.

    Quách thục phi bưng mặt nức nở: “Còn mấy thị nữ và hoạn quan nữa, những người khác thì thôi, nhưng mấy kẻ đó chuyên hầu hạ bên cạnh công chúa, công chúa xảy ra chuyện, chúng cũng phải chịu trách nhiệm!”

    Hoàng đế nghĩ ngợi hồi lâu rồi chậm rãi nói: “Lần trước Dương công công đã xin tha cho chúng, trẫm nghĩ cũng có lý, cứ tạm gác chuyện đó lại đi.”


    “Hoàng thượng thương hại chúng, nhưng thiếp lại lo Linh Huy ở dưới đó cô đơn!” Quách thục phi khóc nấc lên, càng thương tâm khôn xiết: “Linh Huy từ bé sợ nhất là cô đơn, lúc nào cũng cần có người bên cạnh, vậy mà giờ phải xuống dưới đó một thân một mình, không có người hầu hạ, kẻ làm mẹ như thần thiếp làm sao yên lòng đây…”

    Nghe tiếng khóc thảm thiết của bà ta, Hoàng Tử Hà chỉ thấy một luồng khí lạnh từ gan bàn chân theo cột sống chạy thẳng lên đầu. Lý Thư Bạch cũng đang đưa mắt nhìn cô, cả hai đều thấy dụng ý của Quách thục phi trong mắt nhau.

    “Thục phi đừng nói nữa, trẫm đau lòng lắm.” Hoàng đế thở dài, nhưng không phản đối, chỉ quay sang nói với Lý Thư Bạch: “Vừa rồi, trẫm đã truyền gọi tên Vũ Tuyên, học chính Quốc Tử Giám mà công chúa yêu quý lúc sinh thời đến.”

    Quách thục phi ngồi bên vẻ mặt phức tạp, khẽ khàng đặt tay lên mu bàn tay hoàng đế. Xong ngài ngự dường như không hề nhận thấy, vẫn tiếp tục nói: “Trẫm cũng nghe được lời đồn đại trong kinh, Linh Huy từng đề nghị Vũ Tuyên dạy học cho mình, nhưng hắn nhiều lần cự tuyệt, về sau công chúa phải đích thân có lời với tế tửu Quốc Tử Giám, hắn mới chịu đến phủ công chúa giảng Chu Lễ. Bấy giờ trẫm chỉ cười cho qua, nhưng giờ nghĩ lại thì thương Linh Huy đang trẻ trung mơn mởn, lại phải thui thủi một mình dưới đó, nó thích nghe Vũ Tuyên giảng Chu Lễ, lẽ nào trẫm không thể chiều theo nó?”

    Tim Hoàng Tử Hà giật thót, nhưng rồi cô sực nghĩ mình vừa gặp Vũ Tuyên đi ra, xem chừng hoàng thượng đã tha cho hắn rồi.

    “Trẫm quả thật định giết hắn.” Hoàng đế thẫn thờ giây lát mới ngẩng lên thở hắt ra, “Nhưng sau khi gặp mặt, chẳng hiểu sao lại từ bỏ ý định đó.”

    Lý Thư Bạch không đáp, chỉ hơi nghiêng đầu nhìn sang cỗ áo quan của công chúa.

    “Có lẽ trẫm già rồi, không đành lòng bẻ gãy cây ngọc.” Đoạn hoàng đế quay sang hỏi Lý Thư Bạch: “Tứ đệ đã gặp Vũ Tuyên bao giờ chưa?”

    “Thưa, thần đệ gặp rồi. Quả là thanh tú thuần tịnh, tuyệt thế vô song.” Lý Thư Bạch hờ hững đáp.

    Quách thục phi ngẩn người ra hồi lâu, rồi đột ngột đứng phắt dậy, chạy đến cạnh quan tài Đồng Xương công chúa, vịn vào mép áo quan khóc lóc.

    Trái lại, Lý Thư Bạch vẫn thản nhiên như thường: “Hoàng thượng không giết hắn là phải. Nếu không, để hắn bầu bạn cùng công chúa ở dưới đó, thì phò mã phải làm sao?”

    Hoàng đế gật đầu, nhắm nghiền mắt lại vẻ mết mỏi.

    Hoàng Tử Hà đứng hầu phía sau, im lặng lắng nghe. Chiều mùa hạ râm ran tiếng ve. Cô nghe thấy giọng hoàng đế yếu ớt lẫn trong tiếng ve inh ỏi: “Sáng mai, Đại Lý Tự sẽ xét xử công khai vụ này. Trẫm đã hạ lệnh, sau khi thẩm vẫn, lập tức đưa phạm nhân tới pháp trường, lăng trì tùng xẻo.”

    Lý Thư Bạch trầm tư hỏi: “Vụ này đã có kết luận rồi ư?”

    “Nhân chứng vật chứng đủ cả rồi.”

    “Nếu bắt được hung thủ, cũng an ủi được vong linh công chúa trên trời.” Lý Thư Bạch ngoái lại liếc Hoàng Tử Hà rồi nói: “Thần đệ giữ chức trong Đại Lý Tự, sáng mai cũng sẽ có mặt.”

    “Trời nóng quá, Linh Huy cũng không thể để lâu, trẫm quyết rồi, sau khi hung thủ chịu hình phạt, sẽ tạm thời quàn linh cữu công chúa vào Trinh lăng của phụ hoàng, đợi khi nào lăng công chúa xây xong, sẽ cho an táng.”

    “Thế là ổn nhất.” Lý Thư Bạch tán đồng, xong chỉ thấy hoàng đế ngả người dựa vào lưng ghế, ngửa mặt nhìn trời bất động, thậm chí mắt cũng không hề chớp, hơi thở mỗi lúc một nặng nề.

    Y làm thinh hồi lâu rồi cáo từ hoàng đế, cũng Hoàng Tử Hà rời khỏi phủ công chúa.

    Chiều mùa hạ, cả kinh thành chìm trong nóng nực, đường phố cũng vắng ngắt.

    Trong thùng đá lạnh trên xe đặt một khối đá lớn đẽo hình núi tiên, trời nóng quá nên những hình thần tiên và cây cỏ đều tan chảy cả, chỉ còn thấy dáng dấp ngọn núi mà thôi.

    Nước đá tan chảy tí tách nhỏ xuống lòng thùng.

    Dù ngồi ngay cạnh khối đá, Hoàng Tử Hà vẫn thấy nóng bức, mồ hôi rịn ra ướt cả lưng. Cảm giác được cái nhìn chăm chú của Lý Thư Bạch, cô càng căng thẳng tột độ.

    Rơi vào cảnh này, quả là biết mình không biết người, đáng mất khả năng khống chế cục diện. Cuối cùng, để tránh kết cục bi thảm, cô đành nghiến răng lên tiếng trước: “Nô tài muốn thỉnh giáo vương gia một chuyện.”

    Ánh mắt chăm chú của y toát lên vẻ ngạc nhiên: “Gì cơ?”

    “Có cách nào khiến người ta sinh ra ảo giác, trông thấy một việc không hề xảy ra không?” Lý Thư Bạch lắc đầu: “Không có.”

    “Nhưng vừa rồi gặp Vũ Tuyên, huynh ấy có nói, vào hôm cha mẹ tôi qua đời, từng thấy tôi cầm gói tỳ sương, vẻ mặt hết sức quái dị.”

    Khi thốt ra hai tiếng Vũ Tuyên, lòng cô như dậy sóng, nhưng rồi, cơn sóng lại loang ra thành từng gợn lăn tăn, dần dần tan biến.

    Lý Thư Bạch thoáng trầm tư: “Có lẽ chuyện đó có thể giải thích vì sao hắn cứ khăng khăng cho rằng ngươi là hung thủ. Bởi hắn đã chính mắt chứng kiến ngươi có cử chỉ khác thường ngay trong ngày hôm đó.”

    “Nhưng tôi thực sự không làm gì cả!”

    “Là hắn nhớ lầm, hay là ngươi quên mất?” Lý Thư Bạch vặn lại.

    “Huynh ấy nhớ lầm rồi.” Hoàng Tử Hà đáp ngay không hề do dự.

    “Cũng có thể còn một khả năng nữa, là hắn nói dối.”

    “Nhưng… huynh ấy nói dối người trong cuộc để làm gì?” Hoàng Tử Hà ngỡ ngàng hỏi.

    “Ngươi là người trong cuộc còn không hiểu, làm sao ta hiểu được?” Lý Thư Bạch lạnh lùng, “Huống hồ, chẳng phải các người đã hẹn gặp ở Thành Đô ư? Đến lúc đó đối chất lại là rõ.”

    Nghe giọng điệu lạnh băng của y, Hoàng Tử Hà đành nín lặng ngồi nghe nước đá nhỏ xuống tí tách, xe ngựa cũng từ từ dừng lại, đã đến phủ Quỳ.

    Vừa bước xuống xe, hơi nóng bên ngoài đã tạt thẳng vào mặt Hoàng Tử Hà như một con sóng hữu hình, khiến cô lảo đảo.

    Lý Thư Bạch phía sau vội giơ tay ra đỡ cô.

    Hoàng Tử Hà vừa đứng vững, đang định cảm tạ thì y đã buông tay, xăm xăm băng qua cô đi thẳng vào trong.

    Cô đứng nhìn theo bóng y giây lát rồi quay người đi về phía tàu ngựa.

    Lý Thư Bạch không hề quay đầu, nhưng như có mắt sau gáy, lạnh lùng hỏi: “Đi đâu?”

    “Cung Thái Cực.” Cô ngoái lại đáp, “Tôi muốn xem thử có thể cứu mấy hoạn quan và thị nữ bên cạnh công chúa hay không.”

    “Dương công công vẫn khỏe chứ?”

    Vương hoàng hậu vừa ngủ trưa dậy, vẫn còn uể oải. Hoàng hậu da băng xương ngọc, áo lụa như mây quấn quanh mình, ngồi giữa đại điện thâm u, hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi cái nóng hầm hập ngày hè.

    Trái lại, Hoàng Tử Hà cưỡi ngựa dãi nắng chạy đến nên trông rất lôi thôi, tóc mái bết vào trán, mồ hôi lấm tấm hai cánh mũi, quần áo vừa sửa sang vội vàng bên ngoài điện, vẫn còn xộc xệch.

    Vương hoàng hậu giơ tay cho tất cả người hầu lui xuống, rồi cầm khăn gấm trên bàn đưa cho cô: “ Công công vội đến tìm ta như vậy, có chuyện gì chăng?”

    Hoàng Tử Hà cung kính nhận lấy, thấm mồ hôi trên mũi, sẽ giọng thưa: “Chúc mừng hoàng hậu nương nương sắp quay về cung Đại Minh.”

    Vương hoàng hậu nhìn xoáy vào cô, thấy không có vẻ giả trá mới mỉm cười nói: “Gác Bồng Lai gần hồ, mát hơn ở đây nhiều, nếu chóng về được thì tốt quá.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu: “Nô tài biết nương nương nhất định đã chuẩn bị về cung, nhưng có thể giúp nương nương về sớm dăm ngày, cũng là chức trách của nô tài.”

    “Ngươi nói xem, sao phải vội vã đến đây thông báo chuyện này?” Vương hoàng hậu ngả người trên sập, phe phẩy cây quạt tròn họa hình thiên nữ rải hoa.

    “Quách thục phi có một bí mật, có thể đã bị mấy hoạn quan và thị nữ hầu hạ bên cạnh Đồng Xương công chúa biết được, nên giờ chỉ muốn bọn chúng phải chôn theo công chúa.”

    Vương hoàng hậu dùng quạt che miệng, nhưng không che được đôi mắt cong cong: “Xem ra, hẳn là một bí mật quan trọng.”

    “Thực ra… chỉ là một câu nói thôi.” Cô thì thào, “Nô tài còn một chuyện, xin hoàng hậu đồng ý.”

    “Chuyện gì?”

    “Việc này liên quan đến một người nữa, là học chính Quốc Tử Giám Vũ Tuyên… người quen cũ của nô tài. Nô tài tin rằng bí mật này chỉ cần bẩm báo với hoàng hậu là đủ để dạy bảo Quách thục phi, không cần thiết làm toáng lên cho mọi người đều biết.”

    Vương hoàng hậu cười: “Đương nhiên rồi, bản cung đã dung dưỡng được Quách thục phi trong cung bấy nhiêu năm, về sau cũng muốn ả ta tiếp tục làm trợ thủ cho ta.”

    Hoàng Tử Hà cúi đầu khẽ đáp: “Thưa, đúng vậy.”

    “Vậy thì, bí mật của Quách thục phi là câu nói gì?”

    Khung cảnh lần đầu gặp gỡ Vũ Tuyên chợt hiện ra như ảo ảnh, những đóa sen trong lòng cô lả tả rơi xuống, trôi bồng bềnh trên mặt hồ loang đầy những gợn nước lăn tăn.

    Hôm đầu tiên dọn ra ở riêng, Vũ Tuyên không ngủ được, đành chạy đến đứng trước cửa nhà cô cả đêm, mặc cho tuyết phủ khắp người, những bông tuyết trên mi tan ra, chảy dài như nước mắt.

    Vào ngày xảy ra thảm án, hắn ôm một ôm hoa mai giùm cô, những đóa mai đỏ rực như lửa đặt cạnh nụ cười của hắn, còn tươi thắm hơn máu đào.

    Cả những mảnh vụn lá thư bị hắn xé nát bỏ vào lò hương chùa Hưng Đường, từ từ tan biến trong lửa, chỉ còn lại tàn tro.

    Cô nhắm nghiền mắt, nói thật khẽ, như mê sảng: “Muốn theo trăng trôi chảy đến chàng.”

    Ráng chiều như gầm phủ lên toàn bộ Trường An. Hoàng Tử Hà quay đầu về Tây, thấy bầu không thấp đến nỗi tưởng chừng chỉ giơ tay ra là chạm đến.

    Sau ráng chiều lộng lẫy, là một ngày sắp trôi qua.

    Hoàng Tử Hà quay về phủ Quỳ, vào phòng ngồi xuống, rút cây trâm trên đầu ra, vô thức vạch vạch lên giường, sắp xếp lại toàn bộ manh mối.


    Xác định không còn gì lầm lẫn, cô mới cắm trâm lại chỗ cũ, ngồi trên giường ngẫm nghĩ một lúc, cuối cùng cũng phát hiện được cảm giác bất ổn này từ đâu đến…

    Lý Thư Bạch không cho gọi cô.

    Bình thường, khi cô về đến phủ, nhất định sẽ có người chạy ra báo, vương gia truyền ngươi đến.

    Vậy mà hiện giờ, cô vừa nắm được một bước tiến quan trọng của vụ án, lại không biết phải bẩm báo tình hình với ai.

    Hoàng Tử Hà thở dài, nằm vật ra giường, ngơ ngẩn ngẫm lại tình cảnh xảy ra hôm nay trong con ngõ cạnh phủ công chúa.

    Vũ Tuyên nói đã trông thấy cô cầm gói tỳ sương, vẻ mặt quái dị.

    Không có khả năng đó. Như cô nhớ thì, sau khi mua tỳ sương về, cô còn chưa kịp tiến hành vụ cá cược đã nghe được ở Long Châu xảy ra vụ thảm án giết chết cả nhà, bèn chạy ngay đến Long Châu điều tra, cuối cùng phát hiện hung thủ chính là con gái nhà đó, vì bị cha mẹ ngăn cấm tình duyên nên mới hạ độc vào đồ ăn, để cả nhà, bao gồm cô ta, cùng xuống suối vàng. Thấy vậy cô rất xúc động, bèn viết thư cho hắn. Hai ngày sau, cô về đến phủ Thành Đô. Cả ngày bôn ba vất vả, về tới nhà cũng đã hoàng hôn, ăn cơm xong, cô lập tức lên giường, ngủ say như chết, chẳng mộng mị gì. Sáng sớm hôm sau, lúc Vũ Tuyên đến cô cũng vừa trở dậy, hắn hỏi han chuyện cô kể trong thư, thấy cô không có gì khác lạ, bèn cùng ra sân sau ngắm hoa mai, mãi đến khi bà và chú cô đến mới cáo từ ra về.

    Bấy giờ cô còn chưa hề mở ngăn tủ đựng tỳ sương ra, sao có thể cầm nó lên xem được chứ?

    Là hắn nhớ lầm, hay chính cô nhớ lầm đây?

    Hay là Vũ Tuyên bịa đặt? Nhưng nhìn vẻ mặt hắn không có gì giả trá, hơn nữa, hắn nói dối cô thì được tác dụng gì chứ?

    Hoàng Tử Hà thấy cả người rời rã, mệt mỏi đến cùng cực, bất giác năm ngửa ra giường, thẫn thờ nhìn lên trần nhà.

    “Nghĩ gì mà đờ người ra thế?” Một giọng nói vang lên ngay bên cạnh.

    Cô đang mơ màng, vô thức lẩm bẩm gọi: “Vũ Tuyên…”

    Vừa buột miệng, cô bỗng sởn da gà, mồ hôi lạnh túa ra, lập tức lật người ngồi phắt dậy, nhìn về phía Lý Thư Bạch đang đứng trước cửa.

    Trời đã nhá nhem, sắp sập tối đến nơi, ánh hoàng hôn nhạt nhòa phủ lên đường nét gương mặt y, càng khó trông rõ vẻ mặt.

    Cô cuống quýt leo xuống giường bước ra đón y: “Nô tài đang nhớ đến mấy câu huynh ấy nói.”

    Cũng chẳng hiểu sao cô phải vội vã giải thích như vậy, tiếc rằng Lý Thư Bạch vẫn thản nhiên như không, chỉ nhìn xoáy vào cô, hờ hững “ừm” một tiếng.

    Hoàng Tử Hà lấy làm ấm ức, tại sao cô đứng trong phòng, bị ráng chiều soi rõ mồn một nét mặt, còn y lại đứng ngược sáng, khiến cô cố thế nào cũng không trông rõ được y, càng không biết trong đôi mắt thăm thẳm kia ẩn giấu điều gì.

    Lý Thư Bạch chẳng buồn để ý tới cô, quay lưng đi thẳng ra ngoài.

    Hoàng Tử Hà thấp thỏm đi theo đến đài Chẩm Lưu. Dọc đường y cứ im lìm, khiến cô càng căng thẳng.

    Mãi tới khi bước vào bên trong, cô mới đánh bạo lên tiếng: “Nếu gia có chuyện cần truyền, cứ bảo bọn Cảnh Dục gọi tôi là được mà…”

    Nào ngờ y phớt lờ câu này, hỏi ngay sang chuyện khác: “Ngươi đến cung Thái Cực, hoàng hậu phản ứng thế nào?”

    “Chắc hẳn nương nương sẽ sai người triệu Quách thục phi đến, dù sao thời cơ cũng chín muồi rôi.”

    “Ừm, hoàng thượng lạm sát kẻ vô tội vì Đồng Xương công chúa, hôm nay trong triều cũng có mấy vị đại thần khuyên can, xong đều bị thánh thượng trách phạt. Các thái phi trong cung vì chuyện này mà lo lắng không yên. Nhưng ai dám trách móc hoàng thượng? Đánh đổ tất cả tội lỗi lên đầu Quách thục phi thôi.”

    Lúc này, cả triều đình và hậu cung đều đồng lòng nhất trí, mong Vương hoàng hậu trở về kiềm chế Quách thục phi, thậm chí dân chúng trong kinh thành cũng xôn xao bàn tán.

    “Có lẽ ông trời giúp Vương hoàng hậu, trong lúc quan trọng nhất thì Đồng Xương công chúa, chỗ dựa vững chắc nhất của Quách thục phi lại qua đời, khiến trong triều ngoài nột náo loạn cả lên.” Hoàng Tử Hà khẽ nhận xét.

    Lý Thư Bạch lắc đầu: “Vương hoàng hậu đi được đến ngày hôm nay, hoàn toàn không phải nhờ may mắn. Kẻ chống lưng cho bà ta quả không thể xem thường.”

    “Là nhà họ Vương ư?”

    “Phải, mà cũng không phải.” Lý Thư Bạch nhìn về phía con cá nhỏ đang lặng lẽ lặn xuống đáy bình lưu ly, giọng chậm rãi: “Một kẻ mạng họ Vương, xong lại ly khai nhà họ Vương, mới thực sự là bàn tay âm thầm thao túng cả triều đình này.”

    Trước mắt Hoàng Tử Hà chợt hiện ra nam nhân đứng trên lầu gác ở cung Thái Cực, nhìn cô chòng chọc từ xa.

    Áo tía đai ngọc, mắt như rắn độc.

    Y từng ấn tay cô vào chậu cá, để A Già Thập Niết mút mát máu dính trên tay.

    Cô sực hiểu ra, lẩm bẩm gọi cái tên đó: “Vương Tông Thực.”

    Lý Thư Bạch chỉ nhếch môi: “Nếu không nhờ Vương Tông Thực chống lưng, ta sao có thể đi đến ngày hôm nay, ngồi vào vị trí này?”

    Hoàng Tử Hà nín lặng.

    Mười năm trước, tiên hoàng qua đời, Vương Tông Thực là trung úy trong Tả thần sách hộ quân, đã giết chết bọn Vương Quy Trường, Mã Công Nho, Vương Cư Phương mưu đồ làm phản, đích thân dẫn đội nghi trượng tới nghênh đón hoàng đế vào cung, là công thần hàng đầu trong việc đăng cơ của đương kim thánh thượng.

    Sau khi bước lên ngôi cửu ngũ, hoàng đế mới hiểu ra, ngai vàng vốn không dễ ngồi.

    Gần trăm năm nay, triều đình phần nhiều do hoạn quan nắm giữ, những triều thần chết trong tay chúng nhiều không đếm xuể, thậm chí có cả hoàng đế. Tiên hoàng phải giả ngây giả dại, ẩn nhẫn nhiều năm, cuối cùng mới lật đổ được hoạn quan Mã Nguyên Chí từng phò trợ mình lên kế vị, nhưng đương kim thánh thượng chẳng cách nào lừa được Vương Tông Thực luôn luôn phòng bị, cũng chẳng có khả năng chống lại.

    May sao, ba năm trước Từ Châu đại loạn, nhờ Quỳ vương Lý Thư Bạch dẹp yên, uy hiếp thế lực của lục đại tiết độ sứ, kinh thành thập ty hầu như đều nghe theo lệnh y, cuối cùng hoàng thất mới vực dậy được thế lực. Mấy năm nay, nhờ Quỳ vương kiềm chế quân Thần sách, triều đình và hoàng đế mới được yên lòng.

    Nhìn gương mặt bình thản của y, Hoàng Tử Hà thầm nghĩ, lúc tiên hoàng băng hà, y mới mười ba tuổi, bị đuổi ra khỏi cung Đại Minh, là tình cảnh thế nào? Trong sáu năm làm Thông Vương mờ nhạt, y đã sống ra sao? Mười chín tuổi đại thắng, vang danh bốn biển, hiển lộ tài năng, từ bấy gánh trên vai toàn bộ sự tồn vong của hoàng thất Đại Đường, y đã nghĩ những gì?

    Y mang vô số trọng trách, lúc nào cũng phải tận tâm kiệt lực, chẳng được một ngày thảnh thơi. Có lúc, cô đã vắt óc nghĩ xem y thích gì, nhưng giờ ngẫm lại thì, ý thích đối với y là một thứ quá chừng xa xỉ, cả cuộc đời y có lẽ chỉ mang nặng trách nhiệm với hoàng thất Lý Đường, chẳng lúc nào được sống cho mình nữa.

    Bởi vì y họ Lý, y là Quỳ vương Lý Thư Bạch.

    Hoàng Tử Hà lặng lẽ nhìn y, đúng lúc y ngoái lại, ánh mắt đôi bên giao nhau thật lâu.

    Cuối cùng cô cụp mắt xuống trước, còn y vẫn nhìn cô chăm chú: “Bí mật của Quách thục phi bại lộ, ngươi thử nghĩ Vũ Tuyên sẽ có kết cục thế nào?”

    Cô cắn môi đáp khẽ: “Vương hoàng hậu sẽ không tiết lộ đâu, lộ ra thì hoàng hậu có lợi lộc gì chứ? Cách làm thông minh nhất là cảnh cáo Quách thục phi, biến phi thành một trong những người ra mặt đề nghị hoàng hậu hồi cung.”

    “So với Vương hoàng hậu, Quách thục phi quá khờ khạo. Chỉ có một đứa con gái mà dám vọng tưởng dựa vào lòng sủng ái của hoàng thượng với công chúa, lật đổ một Vương hoàng hậu đã sinh một trai một gái, còn đích thân nuôi nấng thái tử; huống hồ, sống giữa chốn cung đình phải cẩn trọng từng li từng tí, vậy mà dám ngang nhiên viết thơ tình gửi cho người, để rồi bị kẻ khác nắm thóp.” Lý Thư Bạch lạnh lùng nhận xét, nghĩ ngợi giây lát rồi hỏi: “Ngươi khẳng định người tư tình với Vũ Tuyên là Quách thục phi chứ không phải Đồng Xương công chúa từ bao giờ?”

    “Thưa gia, từ khi nhìn thấy hai câu thơ dang dở ở vườn Tri Cẩm.” Hoàng Tử Hà ngước lên nhìn ra cửa sổ, thấy sắc trời đang tối dần, từng ngọn đèn lồng lần lượt được thắp lên, “Đó không phải nét chữ Đồng Xương công chúa, như vậy kẻ ở vườn Tri Cẩm ngày hôm đó mới thực sự là hung thủ giết hại Đậu Khấu. Công chúa vốn đã định cho Đậu Khấu chuyển ra ngoài ở, vậy mà vì bảo vệ kẻ đó, đành để phò mã hiểu lầm rồi sinh ra oán hận mình… Người được công chúa dốc sức bao che như vậy, đương nhiên chỉ có… mẹ ruột mình, chính lá Quách thục phi. Nét chữ của phi, giống hệt nét chữ trên bức thư bị Vũ Tuyên thiêu hủy.”

    Trời tối dần, khiến ngọn đèn trong phòng càng rực lên, soi sáng hai người, chỗ sáng càng thêm sáng, chỗ tối càng thêm tối.

    “Hơn nữa, hai câu trong thư, ‘cùng nghe ngóng lúc nay chẳng thấy, muốn theo trăng trôi chảy đến chàng’ cũng không phải lời lẽ của công chúa. Công chúa muốn gì được nấy, đã đến thẳng Quốc Tử Giám tìm tế tửu đòi Vũ Tuyên đích thân tới giảng bài cho mình, sao có thể viết cho huynh ấy những câu thơ ai oán, cứ như gần trong gang tấc mà biển trời cách mặt như thế được?”

    Lý Thư Bạch mỉm cười, nhìn con cá nhỏ đang bất động như say ngủ: “Ngoài phố đồn đại Quách thục phi liên tục ra vào phủ công chúa là vì có tư tình với phò mã Vi Bảo Hoành; lại có lời đồn rằng, Đồng Xương công chúa ép học chính Vũ Tuyên của Quốc Tử Giám vào phủ giảng bài, làm mất mặt phò mã, nhưng có mấy ai rõ chân tướng sự thực đâu.”

    “Gia phát hiện ra chuyện này từ bao giờ?”

    “Sớm hơn ngươi.” Y ngồi xuống bàn, mắt vẫn không rời con cá, vẻ mặt bình thản, “Khi trâm Cửu loan biến mất, ngươi đến gác Thê Vân tra xét, ta đứng ở lan can bên ngoài, nhìn xuống dưới thấy Quách thục phi dúi cho Vũ Tuyên vật gì đó. Về sau, ngươi nói rằng đó là một phong thư, cũng kể cho ta biết câu thơ còn sót lại.”

    Hoàng Tử Hà ngập ngừng, nhưng cuối cùng vẫn hỏi: “Sao gia không nói với tôi?”

    “Ta cho rằng việc đó chẳng liên quan gì tới ngươi, cũng chẳng liên quan tới vụ án.”

    Hoàng Tử Hà nín lặng, hồi lâu mới lên tiếng: “Bất kể thế nào, Vũ Tuyên với tôi cũng là chỗ quen biết nhiều năm, tôi nên biết chuyện của huynh ấy…”

    “Vậy cần gì ta kể? Hắn đợi ngươi ở Thành Đô kia mà, ngươi cứ tự đi mà hỏi hắn.”

    Từ khi quen biết đến giờ, lần đầu tiên Lý Thư Bạch gay gắt cắt lời cô như thế. Hoàng Tử Hà ngạc nhiên ngước mắt nhìn y, khẽ khàng thưa: “Vương gia đã nói khi nào chuyện này kết thúc, sẽ lập tức đưa tôi đi mà.”

    “Nóng lòng quá không chờ nổi nữa chứ gì?” Y cười nhạt.

    Hoàng Tử Hà ngỡ ngàng: “Lẽ nào phải ở lại kinh thành ít lâu nữa ư?”

    “Nếu đã nóng lòng như thế, sao không theo Vũ Tuyên về Thục quách, còn đòi ta đưa đi làm gì?”

    Hoàng Tử Hà bối rối, chẳng hiểu sao y lại đột ngột trở mặt, chỉ biết phân trần: “Vụ án đó đã có phán quyết, nếu không có gia giúp đỡ, nô tài rất khó lật lại bản án. Trước đây chúng ta đã thống nhất rồi kia mà, lẽ nào bây giờ gia lại nuốt lời?”

    “Bản vương chưa bao giờ nuốt lời.” Mặt Lý Thư Bạch đã lạnh càng thêm lạnh, y quay đi không buồn nhìn cô, lạnh lùng nói: “Ngươi nói đúng, chúng ta vốn chỉ là quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau mà thôi. Đợi khi nào phá được vụ án gia đình ngươi, hai ta cũng đường ai nấy đi, không nợ nẫn gì nhau nữa.”

    Hoàng Tử Hà cảm thấy lời lẽ của y có gì đó rất khó chấp nhận, nhưng theo giao hẹn ban đầu giữa hai người thì đúng là như vậy.

    Ngẩng đầu lên, bắt gặp gương mặt lạnh băng của Lý Thư Bạch, lòng cô rối như tơ vò, bất giác nhích lại gần y một bước: “Bất luận ra sao, xin vương gia đừng quên giao hẹn, dẫn tôi về Thục điều tra huyết án của gia đình, rửa sạch oan khuất…”

    Vừa nói, Hoàng Tử Hà vừa với tay về phía y, khi cánh tay vươn qua mặt bàn, cô chợt thấy cổ tay lành lạnh, thì ra chiếc bình lưu ly đặt ở góc bàn đã vô tình bị kéo theo, rơi xuống nền gạch xanh vỡ tan tành, nước bắn tung tóe, con cá đỏ giãy đành đạch trên mặt đất.
     
  4. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 20 - Lấy lá đựng cá
    Hoàng Tử Hà thoáng sững ra, rồi lập tức ngồi thụp xuống, dùng tay vốc cá lên.

    Lý Thư Bạch nuôi con cá này đã lâu, nó chính là sắc màu tươi sáng duy nhất trong cuộc đời tất bật mà tẻ nhạt của y, để y ngắm nhìn những lúc được thảnh thơi hiếm hoi.

    Bởi vậy, khi nâng nó trong lòng bàn tay, Hoàng Tử Hà cũng hơi hối hận.

    Cô không thể để nó chết, không thể chính tay làm hỏng màu sắc tươi sáng duy nhất của y.

    Nước trong chậu rửa bút đã nhuốm màu mực, trà trong ấm lại nóng, cá không sống nổi. Hoàng Tử Hà quay phắt người chạy vụt ra ngoài, đài Chẩm Lưu xây bên bờ hồ, bốn bề rợp những hoa sen, xuống mấy bậc thềm là chạm vào mặt nước.

    Cô nhúng hai bàn tay đang khum khum giữ cá xuống nước, thấy nó lại quẫy đuôi lật mình lại, mới thở phào nhẹ nhõm ngước nhìn y.

    Lý Thư Bạch đứng trong phòng, cặp mắt sâu thăm thẳm dõi theo cô, chỉ thấy cô bưng cá trong tay, đang lặng lẽ nhìn y.

    Quỳ vương thoáng khựng lại, rồi với lấy một chiếc tước(*) bằng đồng điếu trên giá đồ cổ, bước đến cạnh cô.

    (*) Một loại chén cổ dùng để uống rượu, có ba chân, rất thịnh hành trong giới quý tộc trước thời Tần.

    Nhưng đúng vào lúc Hoàng Tử Hà bưng cá lên định thả vào tước, con cá bỗng hoảng hốt búng mình vọt ra khỏi tay cô, lao thẳng xuống nước.

    Một vòng sóng gợn loang ra, con cá vừa rơi xuống đã lẩn mất hút.

    Hoàng Tử Hà kinh hãi ngồi thụp xuống bên hồ, còn kịp trông thấy Lý Thư Bạch tái mặt.

    Hồ rộng mênh mông, lại trồng đầy sen, trong khi con cá chỉ bé bằng đốt ngón tay. Dù nhổ hết sen trong hồ rồi rút cạn nước đi, cũng không cách nào tìm được một con cá bé như thế.

    Hoàng Tử Hà thấy đôi mày Lý Thư Bạch cau rúm lại.

    Y luôn mang chiếc bình lưu ly có con cá nhỏ này theo bên mình. Lần đầu gặp gỡ, y đã nói, nó liên quan tới một bí mật mà ngay hoàng thượng cũng không thể hỏi tới. Vậy mà, chính tay cô lại làm mất nó.

    Hoàng Tử Hà đứng bên bờ, vốc nước trong tay đổ ướt cả vạt áo, cô nơm nớp ngẩng lên nhìn Lý Thư Bạch, xong y chẳng buồn nhìn cô, cũng chẳng nói năng gì, hồi lâu mới quay người đi vào.

    Còn lại một mình Hoàng Tử Hà đứng đó, gió lay sen động, tà dương rực rỡ, khiến mọi vật trước mắt cô nhòa hẳn đi.

    Hồi tưởng lại bốn năm trước, cũng vào một ngày hè thế này, cô chân trần lột xuống hồ hái sen, nghe thấy tiếng cha gọi bèn ngoái đầu lại, bắt gặp Vũ Tuyên đứng phía sau cha, giữa ráng chiều vàng rực, đang lặng lẽ nhìn mình.

    Nụ cười cùng ánh mắt đăm đăm của hắn trong khoảnh khắc ấy đã thay đổi cả cuộc đời cô.

    Cô bỗng thấy cả người bải hoải, bèn ngồi phịch xuống, thẫn thờ nhìn ra mặt hồ.

    Hôm ấy, cha dẫn Vũ Tuyên về nhà, nói rằng hắn là trẻ lang thang, mồ côi cha mẹ, nương náu trong ngôi chùa đổ. Một người bạn cũ của cha mở trường dạy học, thấy có đứa ăn mày thường mon men đến đứng ngoài cửa sổ nghe giảng, hỏi câu nào hắn cũng đối đáp trôi chảy, khiến người ta phải tấm tắc. Lại hỏi hắn học chữ từ đâu, hắn nói lúc trước nhặt được một cuốn sách, nghe người ta nói là Kinh Thi, gặp đúng lúc thầy giáo ở trường bắt đầu giảng Kinh Thi, hắn bèn chiếu theo những gì thầy giáo dạy, học thuộc các chữ trong bài, học hết chữ trong Kinh Thi, hắn lại xin những sách cũ người ta vứt đi, dựa vào vốn chữ học được từ Kinh Thi mà bập bõm đọc hết tứ thư ngũ kinh. Tiên sinh kia nghe nói cũng rung động trước thiên tài của hắn, bèn kể với cha cô, cha cô vừa gặp Vũ Tuyên đã động lòng tiếc tài, liền dẫn hắn về nhà.

    Đúng thế, một thiếu niên lưu lạc giữa đời như Vũ Tuyên, ai lại không rủ lòng thương xót?

    Hoàng Tử Hà ngồi trên thềm, gục mặt vào đầu gối, lặng lẽ nhìn phiến lá sen xoay trong gió.

    Gió đã se se, trời sắp sập tồi. Gió thổi đến đâu, cuốn theo lớp lớp lá sen lay động đến đó, nhìn như muôn ngàn đợt sóng.

    Lòng cô cũng xáo động như sóng, khó mà dẹp yên được.

    Vũ Tuyên nói, ta đợi muội ở Thành Đô.

    Nhưng người đã hứa sẽ dẫn cô tới Thành Đô, giờ lại đang nổi giận.

    Hơn nữa còn rất tức giận.

    Cô bất giác thở dài.

    Tuy cô biết Lý Thư Bạch sẽ không vì thế mà nuốt lời, nhưng cô không muốn y cáu giận vì mình.

    Bởi…

    Cô nhớ y từng nói, trí nhớ của cá chỉ bằng bảy cái búng tay, bất kể đối tốt hay xử tệ với nó nhường nào, thì sau bảy cái búng tay, nó cũng quên hết.

    Nhưng cô không phải giống cá dễ dàng lãng quên người khác chỉ sau bảy cái búng tay.

    Cô nghĩ, lẽ ra lúc đó nên thưa với y rằng mình không phải cá, dù bảy tháng, bảy năm, bảy mươi năm cũng không quên những người đã khắc cốt ghi tâm.

    Nghĩ đoạn, cô đưa ngón tay lên miệng cắn thật mạnh.

    “A Già Thập Niết thích nhất máu người. Nghe nói Quỳ vương cũng nuôi một con, Dương công công nhớ đem bí quyết này mách lại với vương.”

    Trong cung Thái Cực, Vương Tông Thực từng nói với cô như vậy.

    Cắn rách ngón tay, một giọt máu đỏ tươi tức thì ứa ra, nhỏ xuống mặt nước dưới chân.

    Trời đã nhá nhem, cuối chân trời ngả màu tím sẫm, cô đang vớt vát chút ánh sáng cuối ngày đề dụ con cá kia ra.

    Máu tươi nhỏ xuống nước, loang ra, tan biến.

    Cô đợi một lúc, thấy mặt nước không có động tĩnh gì, bèn nặn vết thương, nhỏ thêm hai giọt máu xuống.

    Máu đỏ tan vào làn nước trong vắt, sóng chỉ hơi gợn lên.

    “Ngươi làm gì vậy?” Sau lưng vang lên một giọng thanh thanh lạnh lùng.

    Cô không ngoái lại mà cúi đầu chăm chú quan sát mặt nước, đáp khẽ: “Nô tài đang thử xem nó còn ở quanh đây không.”

    “Dù còn, chẳng lẽ ngửi mùi máu ngươi nó lại bơi ra sao?”

    Hoàng Tử Hà không đáp, bởi dưới bóng chiều nhập nhoạng, cô đã trông thấy con cá nhỏ từ sau một gốc sen, chầm chậm bơi về phía mình.

    Quả nhiên nó vẫn nấp quanh đây.

    Cô chậm rãi nhúng tay xuống nước, lập tức máu từ vết thương loang ra thành một sợi dây mỏng manh, phất phơ trong nước, tan thành hư vô.

    Nhưng con cá nhỏ kia lại như bị sợi dây vô hình ấy lôi kéo, bơi về phía tay cô.

    Cô từ từ nâng dần tay lên, tới khi sắp nhấc khỏi mặt nước thì thình lình ụp hai bàn tay lại, giữ chặt con cá nhỏ bên trong, rồi vui vẻ quay lại gọi y: “Gia mau đem cái gì ra đựng cá đi.”

    Nụ cười của cô bừng lên rạng rỡ trong ánh sáng rơi rớt cuối ngày, khiến Lý Thư Bạch ngẩn ngơ.

    Y lặng lẽ chìa cái tước đồng khi nãy ra, để cô bỏ cá vào.

    Cô giơ đôi tay ướt sũng lên, cúi nhìn con cá nhỏ trong lòng chiếc tước đồng cổ kính. Thoạt tiên, nó còn hốt hoảng quẫy đuôi, nhưng chỉ lát sau liền bắt đầu bơi nhởn nhơ, xem chừng đã quen với hoàn cảnh lạ lẫm này.

    Cô thò ngón tay vào trêu nó, mắng yêu: “Nguy hiểm quá, suýt nữa để mày chuồn mất rồi.”

    “Sao ngươi biết nó thích mùi máu?” Lý Thư Bạch chăm chú nhìn gương mặt nghiêng tươi cười của cô, giọng trầm xuống.

    Hoàng Tử Hà ngẩng lên, thành thật đáp: “Vương công công, Vương Tông Thực bảo cho tôi biết.”

    Lý Thư Bạch bất giác nhíu mày: “Sao ngươi lại quen hắn ta?”

    “Tôi từng gặp ông ta trong cung Thái Cực hai lần. Hôm Đồng Xương công chúa qua đời, hai tay tôi dính đầy máu công chúa, Vương công công bèn nhúng tay tôi vào chậu cá của ông ấy, ngay lập tức, lũ cá lao đến liếm sạch máu tươi…” Kể đến đó, cô vẫn không nén nổi cảm giác ghê tởm, sởn cả gai ốc.

    Lý Thư Bạch làm thinh thật lâu rồi cầm lấy chiếc tước đồng, lặng lẽ nhìn con cá bên trong: “Ta nuôi con cá này mười năm rồi.”

    Hoàng Tử Hà ngạc nhiên hỏi lại: “Mười năm rồi ư?”

    Nuôi mười năm mới lớn bằng ấy, hơn nữa còn chưa chết.

    “Phải, mười năm rồi. Vào đúng hôm phụ hoàng băng hà. Ngươi đoán xem ta tìm thấy nó ở đâu?” Lý Thư Bạch ngước lên nhìn cô, ánh mắt đầy thâm ý: “Giữa vũng máu phụ hoàng khạc ra. Nó quẫy mình vùng vẫy trong máu. Bấy giờ ta đang bưng một bát nước, dùng khăn bông thấm nước lau miệng cho phụ hoàng. Nào ngờ Chiêu vương, bấy giờ còn bé, lại nhặt con cá lên, bỏ vào bát nước trên tay ta.”

    Ánh mắt y dần trở nên xa xăm, như đang nhìn xuyên qua mười năm thời gian, trông thấy một bản thân bơ vơ năm ấy.

    “Ta vội đặt bát nước lên bậu cửa sổ, mãi tới sau khi phụ hoàng qua đời, hoàng thượng đăng cơ, ta chuẩn bị rời khỏi cung Đại Minh, mới sực nhớ đến nó, bèn tới tẩm cung của phụ hoàng xem thử, thì thấy nó vẫn nhởn nhơ bơi lượn trong bát. Mọi chuyện xảy ra trên đời chẳng liên quan gì tới nó, dù trời có sập xuống, nó cũng chỉ cần một bát nước, là đủ sống thảnh thơi như thường.”

    Y hơi nghiêng tước đồng, lớp gỉ đồng làm làn nước bên trong nhốm màu xanh lục, khiến con cá đỏ rực càng thêm nổi bật.

    “Ta đem nó ra khỏi cung, về phủ đệ của mình. Mười năm, ta từ Quỳ vương trở thành Thông vương rồi lại thành Quỳ vương, từ một thiếu niên ngờ nghệch đến bây giờ, thật chẳng ngờ, kẻ bầu bạn bên mình lâu nhất, lại là con cá này.” Y lặng lẽ nhìn con cá đang bơi trong nước, loài sinh vật dễ dàng quên sạch mọi thứ chỉ trong bảy cái búng tay này, sống thực thảnh thơi thoải mái.

    Không có tri giác, nên chẳng có lo phiền.

    Hoàng Tử Hà cũng đang chăm chú nhìn nó, nói khẽ: “Tôi nghe nói… tiên hoàng uống lầm đan dược, không lâu thì qua đời.”

    “Phải.” Lý Thư Bạch xưa nay vốn hờ hững với mọi người xung quanh, cuối cùng cũng thở dài một tiếng, ngẩng lên nhìn cô, cặp mắt y thật sâu, thật tối, “Tại sao lúc hấp hối phụ hoàng lại khạc ra con cá này? Câu hỏi này đã đeo đẳng ta suốt mười năm nay. Giống như lá bùa không thể xuất hiện kia vậy, khiến ta nghĩ nát óc mà không sao hiểu nổi, cũng chẳng thể sống yên. Bây giờ… lại xuất hiện bức tuyệt bút của phụ hoàng, cùng ba mảng mực không thể lý giải ấy nữa.”

    Hoàng Tử Hà cúi đầu nhìn vết thương trên tay, nói khẽ: “Vương Tông Thực cũng có A Già Thập Niết.”

    “Hắn ta cứ ở riết trong nhà, hiếm khi giao du với người ngoài, nhưng lại rất thích nuôi cá, đặc biệt là những giống quý hiếm, có A Già Thập Niết cũng chẳng có gì lạ.”

    Lý Thư Bạch đứng dậy, đặt chiếc tước đồng lên giá, chậm rãi nói: “Lúc tiên hoàng băng hà, Vương Tông Thực cũng ở bên cạnh.”

    Hoàng Tử Hà biết y có cùng ý nghĩ với mình, nhưng không nói ra. Dù sao có những chuyện, dẫu bên cạnh không người, cũng không nên phỏng đoán.

    Lý Thư Bạch nhìn sắc trời ngoài cửa rồi đổi chủ đề: “Sáng mai ngươi định ăn nói thế nào với Đại Lý Tự?”

    Cô trịnh trọng nhìn y: “Nô tài muốn thỉnh giáo vương gia một chuyện.”

    Y không trả lời, chỉ nghiêng đầu liếc cô.

    “Nếu người được phủ Quỳ vương bảo lãnh lại bỏ trốn, sẽ gây ra phiền phức thế nào?”

    Nhìn vẻ mặt thận trọng pha lẫn lo âu của cô, Lý Thư Bạch khẽ cười: “Nếu không phải muốn cô ta trốn đi, thì ta bảo lãnh cô ta ra làm gì?”

    Vỏn vẹn một câu như vậy, xong Hoàng Tử Hà lại trợn tròn mắt nhìn y, vừa kinh ngạc vừa kích động.

    Gương mặt y thoáng qua một nụ cười hiếm hoi, tựa như gió đên xua hết mây mờ, để lộ vầng trăng tháng Năm vằng vặc giữa thinh không. Tuy chỉ thoáng qua, xong lại khiến cô bàng hoàng ngơ ngẩn, ngây người ra đó.

    “Có điều chút chuyện vặt này tùy tiện động tay chẳng phải có thể tránh được ư? Sao phải khiến mình bị rầy rà?” Y nói thêm.


    Hoàng Tử Hà chẳng buồn tìm hiểu cách làm của y, chỉ hỏi: “Vương gia… đã biết ai là hung thủ rồi ư?”

    “Đoán được rồi, nhưng vẫn còn vài tình tiết nhỏ chưa khớp, coi như phá giải được một nửa đi. Còn ngươi?”

    Cô nhoẻn cười tươi tắn: “Toàn bộ.”

    Lý Thư Bạch ngạc nhiên nhìn nụ cười tự tin của cô, bỗng ngẩn ngơ: “Ngươi đoán được toàn bộ… ba vụ án không manh mối, di bút của tiên hoàng, cách tạo ra hiện tượng trời phạt cùng động cơ của mỗi người rồi ư?”

    “Vâng.” Cô gật đầu đầy quả quyết, “Vụ án này kết thúc rồi.”

    Vầng dương vừa lên đến đầu ngọn cây đã ra oai, chiếu khắp cả Đại Lý Tự, xem ra hôm nay lại là một ngày nóng bức.

    Hôm nay, tam pháp ty hội thẩm. Ba vị trưởng quan của Ngự Sử Đài, bộ Hình và Đại Lý Tự dàn hàng ngang ngồi trên. Theo lệ, khi tam ty hội thẩm, Đại Lý Tự sẽ nêu chứng cứ, định án, bộ Hình phán quyết còn Ngự Sử Đài giám sát chung.

    Đại Lý Tự xưa nay đều do thiếu khanh chủ trì. Thấy Hoàng Tử Hà theo sau Lý Thư Bạch, Thôi Thuần Trạm nhìn cô đầy ai oán, thiếu điều la lên: Xin công công đấy, hôm nay công công đừng lên tiếng, cứ kết án thế này đi!

    Thượng thư bộ Hình Vương Lân, đương nhiên còn nhớ rõ Hoàng Tử Hà là kẻ đầu sỏ đẩy Vương hoàng hậu vào cung Thái Cực, nên chẳng buồn nhìn cô, chỉ khẽ gật đầu với Lý Thư Bạch.

    Thị ngự sử trung thừa của Ngự Sử Đài là Tưởng Quỳ, đương nhiên hết sức coi thường vụ án mạng mà mình xui xẻo phải giám thẩm, chẳng qua vì trong số nạn nhân có một vị công chúa nên mới miễn cưỡng ngồi vào vị trí này, khoanh tay nhắm mắt dưỡng thần.

    Mọi người có liên quan tới vụ này lần lượt tới đông đủ.

    Phò mã và Ngạc vương ngồi một bên. Phò mã cứ ngây ra nhìn hoa văn trên chiếc hộp Ngạc vương mang theo, vẻ mặt bàng hoàng, dáng người gầy võ.

    Bốn ả Thùy Châu, Lạc Bội, Trụy Ngọc, Khuynh Bích đứng phía sau, lộ vẻ lo âu ra mặt, chẳng biết kết cục bản thân sẽ ra sao.

    Trương Hàng Anh và Lữ Tích Thúy sóng vai đứng dưới công đường, Tích Thúy trông rất võ vàng, sắt mặt tái mét. Trương Hàng Anh lặng lẽ nắm tay nàng trấn án.

    Lữ Chí Nguyên đứng dưới bóng râm cách đó không xa, cúi đầu nhìn chằm chằm mảng rêu xanh dưới chân.

    Tiền Quan Sách bị giải từ đại lao sang, rũ rượi dựa vào cột nhà, cả người rệu rã, run lên bần bật, mặt xám ngoét.

    Bấy nhiêu người, chỉ có Chu Tử Tần vẫn phởn phơ như thường, vận một bộ đồ lòe loẹt, hớn hở vẫy Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà lia lịa: “Tôi theo vụ này lâu nay nên tuy không được gọi vẫn đến dự thẩm, vương gia không trách tội chứ?”

    “Tử Tần cứ tự nhiên, miễn là lát nữa nếu không được hỏi thì đừng lên tiếng.” Chỉ một câu của Lý Thư Bạch đã chặn đứng ý định gây rối của Chu Tử Tần, gã đành xị mặt gật đầu.

    Đại Lý Tự kê ghế cho Lý Thư Bạch ngồi cạnh Ngạc vương. Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần đứng phía sau y, người trầm tư, kẻ dáo dác ngó nghiêng.

    Lý Nhuận quay sang nhìn Hoàng Tử Hà, nở nụ cười ôn hòa quen thuộc: “Dương công công, chân tướng vụ án này đã rõ, hẳn công công cũng có thể thở phào nhẹ nhõm thảnh thơi đôi phần, sao trông vẫn trùng trùng tâm sự, muôn mối tơ vò thế kia?”

    Hoàng Tử Hà ngượng ngùng cúi đầu: “Thưa vâng, đa tạ Ngạc vương gia quan tâm.”

    Lý Nhuận lại quay sang khẽ hỏi Lý Thư Bạch: “Tứ ca dặn đệ mạng bức họa kia tới làm gì vậy?”

    Lý Thư Bạch gật đầu: “Ừm, các thủ pháp trong vụ án này, xem ra đều bắt nguồn từ di bút của phụ hoàng cả đấy.”

    Lý Nhuận nghi hoặc hỏi: “Nhưng… phụ hoàng qua đời mười năm nay rồi, sao giờ lại dính dáng đến một vụ án thế này?”

    Lý Thư Bạch chưa kịp đáp thì thấy một đám hoạn quan sắp hàng từ ngoài cửa tiến vào, ra là hoàng đế đến.

    Đi cùng ngài ngự còn có Quách thục phi. Người của Đại Lý Tự vội vã chạy ra sau bê ghế lên, để phi ngồi phía sau hoàng đế.

    Đợi mọi người ai vào chỗ nấy, Thôi Thuần Trạm vỗ bàn, cả công đường tức thì lặng phắc.

    Bản cung khai của Tiền Quan Sách đã được sao chép rõ ràng trình lên, chỉ đợi kí tên điểm chỉ.

    “Tiền Quan Sách, ngươi giết hại Đồng Xương công chúa, Ngụy Hỷ Mẫn, Tôn ghẻ, chứng cứ rành rành, còn không mau thuật lại quá trình gây án, nhận tội chịu hình?”

    Tiền Quan Sách béo tốt phương phi, sau mấy ngày bị hành hạ đã sọp hẳn đi, tuy vẫn còn mập mạp nhưng đã trở nên thất thần đờ đẫn, như một cái xác không hồn.

    Chỉ thấy hắn tóc tai rũ rượi, mặc áo tù, ngồi bệt dưới đất như một chiếc bong bóng lợn.Nghe Thôi Thuần Trạm hỏi, hắn run rấy toan chống tay thẳng người dậy trả lời, xong hai tay đã phồng dộp, lại bị ngâm nước đến trắng bợt ra, mười ngón tay không còn một cái móng, đau đớn không sao chịu nổi, đành ngồi bệt tại chỗ rên rỉ: “Tội nhân… nhận tội…”

    “Mau thành thật khai ra!”

    “Tội nhân… thèm thuồng kỳ trân dị bảo ở phủ công chúa, nên đã mua chuộc hoạn quan thân cận công chúa là Ngụy Hỷ Mẫn, cùng nhau đánh cắp cóc vàng. Người nhà tội nhân không hay biết gì cả, vì tội nhân luôn giấu kín…”

    Thôi Thuần Trạm chẳng thèm đếm xỉa tới lời họ Tiền phân trần, hỏi thẳng: “Ngụy Hỷ Mẫn làm sao mà chết?”

    “Là vì… chia chác không đều nên hắn trở mặt, tội nhân sợ lộ chuyện, bèn… nhân lúc cùng đến chùa Tiến Phúc dự pháp hội, thừa cơ cây nên bắt cháy, xô hắn vào đống lửa…”

    “Còn Tôn ghẻ?”

    “Là vì…” Tiền Quan Sách đờ đẫn mấp máy môi, sắc mặt xám ngoét, hai hốc mắt trũng sâu, tăm tối: “Lúc tội nhân sát hại Ngụy Hỷ Mẫn, xui xẻo bị hắn bắt gặp, rồi vin vào đó để uy hiếp, tội nhân đành thừa cơ nạo vét đường nước, cho người dưới lui ra hết, lẻn vào giết chết hắn…”

    Thôi Thuần Trạm liếc nhìn hoàng đế, thấy ngài ngự chăm chú lắng nghe mới hơi yên lòng, hỏi tiếp: “Vậy vì sao ngươi lại sát hại Đồng Xương công chúa?”

    “Tội nhân… Tội nhân…” Tiền Quan Sách mấp máy môi, lấm lét liếc hoàng đế cùng mấy người ngồi phía sau, hồi lâu không dám nói tiếp.

    Thôi Thuần Trạm đập bàn quát: “Nếu không muốn bản quan dùng hình, thì mau khai ra!”

    “Là… tội nhân chưa dứt lòng tham, nghe nói công chúa mơ thấy cây trâm Cửu loan biến mất, nên lại lẻn vào phủ công chúa trộm cây trâm đi… nào ngờ hôm đó lúc đi trên phố, tội nhân nổi hứng rút ra xem, bị công chúa trông thấy, đuổi theo đến chỗ vắng, tội nhân nhất thời lỡ tay…”

    Sắc mặt hoàng đế sa sầm, trừng trừng nhìn Tiền Quan Sách đầy căm hận và tuyệt vọng, lúc này đây, ngài ngự chỉ hận rằng mình không phải một người dân thường để xông tới đánh cho hung thủ giết hại con gái một trận nhừ tử, ít ra cũng trút được phần nào oán giận.

    Quách thục phi nghiến răng đứng phắt dậy gào lên: “Xin hoàng thượng xử quyết hắn ngay tại công đường, báo thù cho Linh Huy!”

    Hoàng đế nghiến răng, giơ tay ngăn phi lại: “Có tam pháp ty ở đây, cần gì chúng ta ra tay!”

    Hoàng Tử Hà đứng sau lưng Lý Thư Bạch, chăm chú lắng nghe Tiền Quan Sách cung khai.

    Tiền Quan Sách mình đầy thương tích, nửa như rên rỉ nửa như lẩm bẩm: “Tất cả… đều do một tay tội nhân gây ra, vợ con bạn bè không hề liên quan… tội nhân nhận tội…”

    “Đã vậy thì ký tên điểm chỉ đi.” Thôi Thuần Trạm cầm bản cung do Đại Lý Tự ghi lại xem qua một lượt, rồi sai người đem xuống cho Tiền Quan Sách điểm chỉ.

    Tiền Quan Sách nằm mọp dưới đất, gắng gượng nhỏm dậy đọc một lượt, rồi giơ bàn tay tưa tướp máu me cầm bút lên, nhắm nghiền mắt, chuẩn bị ký tên.

    Đúng lúc này, chợt nghe “bịch…” một tiếng, phá vỡ bầu không khí yên tĩnh trên công đường.

    Là Tích Thúy, có lẽ vì quá khiếp sợ, thân thể lại yếu sẵn, nên ngã lăn ra ngất xỉu.

    Tay Tiền Quan Sách bất giác run bắn lên, vạch thành một vệt dài trên bản cung.

    Hoàng Tử Hà đứng cạnh Tích Thúy vội giơ tay ra đỡ lấy nàng. Trương Hàng Anh lo lắng nhìn sang, chỉ thấy ánh mắt Tích Thúy đờ ra, cả người lạnh buốt, vội lên tiếng tâu trình: “Bẩm Thôi đại nhân, A Địch… Tích Thúy sau khi rời Đại Lý Tự thân thể suy yếu, e rằng không thể nghe thẩm vấn được nữa…”

    Thôi Thuần Trạm nhìn gương mặt xám ngoét của Tích Thúy, cũng thấy không ổn, bèn quay sang dò ý hoàng đế.

    Hoàng đế vẫn không rời mắt khỏi Tiền Quan Sách, hỏi: “Cô ta là ai?”

    “Là nghi phạm ban đầu, nhưng giờ đã chứng minh được cô ta không liên qua tới vụ này. Vì khi công chúa bị sát hại, cô ta đang bị giam trong Đại Lý Tự.”

    Ngài ngự liền xua tay: “Còn không mau cho những kẻ không liên quan ra ngoài đi.”

    Trương Hàng Anh cả mừng, vội đỡ lấy Tích Thúy, toan dìu nàng ra ngoài, nào ngờ Thôi Thuần Trạm lại nói: “Trương Hàng Anh, ngươi có liên quan tới vụ này, không được tự ý rời khỏi công đường.”

    Lý Thư Bạch liền ra hiệu cho Cảnh Hữu dìu Tích Thúy lui xuống.

    Tích Thúy ngỡ ngàng, vừa nãy đang yên đang lành, Hoàng Tử Hà bỗng chạm nhẹ vào vai nàng, tứ thì nàng ngửi thấy một mùi hương lạ, rồi ngã xuống ngất lịm. Nhưng nàng chỉ ngất đi trong chốc lát, đã tỉnh táo lại ngay.

    Tích Thúy nhìn sang Trương Hàng Anh, đang định lên tiếng bảo mình không sao, thì nghe Hoàng Tử Hà ghé tai nói khẽ: “Đi đi!”

    Nàng tròn mắt ngạc nhiên, định quay lại nhìn Hoàng Tử Hà, hỏi xem cô nói vậy là ý gì, nhưng Hoàng Tử Hà đã băng qua nàng, đi đến trước công đường.

    Tích Thúy được Cảnh Hữu dìu ra cổng. Nha sai canh cổng Đại Lý Tự trỏ Tích Thúy hỏi: “Công công, có chuyện gì thế?”

    “Hình như cô ta mắc bệnh, hoàng thượng khẩu dụ, lập tức đưa ra ngoài.” Đoạn Cảnh Hữu buông nàng ra, tỏ ý: “Còn không mau đi đi?”

    Tích Thúy đứng giữa trời nắng gắt, nhìn cổng lớn của Đại Lý Tự, chợt thấy choáng váng cả người.

    Giọng Hoàng Tử Hà lại văng vẳng bên tai: “Đi đi!”

    Nàng lưỡng lự, rồi quay ngoắt người rảo bước đi thẳng, hòa vào dòng người tấp nập qua lại trên đại lộ Chu Tước.

    Đại Lý Tự đã sao lại một bản cung mới, đưa tới trước mặt Tiền Quan Sách.

    Tiền Quan Sách nhìn bản cung, run rẩy cầm bút lên, giương cặp mắt khô khốc nhìn Thôi Thuần Trạm vẻ van nài.

    Thôi Thuần Trạm gật đầu giục: “Ngươi nhận tội cho mau, có lẽ còn giữ được tính mạng của người nhà.”

    Ánh mắt Tiền Quan Sách đầy tuyệt vọng, nghiến răng nhắm mắt lại, toan ký tên.

    “Đợi đã.”

    Chợt một giọng thâm trầm thong thả vang lên, phá tan bầu không khí yên tĩnh.

    Thôi Thuần Trạm chỉ mong mọi chuyện suôn sẻ, đầu xuôi đuôi lọt, giờ hiểu ra mình không tránh khỏi trở ngại này, đành nhăn mặt nhìn lên thượng cấp ngồi trên.

    Mọi người trên công đường cũng đổ dồn mắt về phía người vừa lên tiếng.

    Kẻ này, đương nhiên là Quỳ vương Lý Thư Bạch.

    Y ngồi thẳng người dậy, trầm ngâm hỏi: “Thôi thiếu khanh, vụ này do thiếu khanh điều tra, xong bản vương còn mấy điểm chưa rõ, mong thiếu khanh giải thích cho.”

    Thôi Thuần Trạm suýt rơi nước mắt. Quỳ vương gia ơi là Quỳ vương gia, gia có biết vụ này liên quan đến tính mạng gia đình dòng tộc của hết thảy người trên kẻ dưới Đại Lý Tự hay không? Gia cũng có biết mình là người cao nhất trong Đại Lý Tự hay không chứ?

    “Xin… vương gia cứ hỏi.”

    “Nếu thoạt đầu phải thông qua Ngụy Hỷ Mẫn để đánh cắp cóc vàng, thì tại sao về sau chỉ một mình Tiền Quan Sách lại có thể trộm trâm Cửu loan đi? Hơn nữa ta nghe nói sau khi Đồng Xương công chúa gặp ác mộng, lo rằng có người lấy trộm trâm Cửu loan, nên đã cho cất giữ thật kỹ. Nếu không có Ngụy Hỷ Mẫn phối hợp, làm sao phạm nhân đánh cắp được cây trâm?”

    Cả công đường lặng phắc như tờ, mọi người đều trầm ngâm nghĩ ngợi, không ai dám lên tiếng.

    Hoàng đế nhìn sang Thôi Thuần Trạm: “Thôi thiếu khanh.”

    Thôi Thuần Trạm không dám đáp lời, mồ hôi đã đầm đìa lưng áo: “Thần… Thần vẫn…”

    Thấy hắn lúng túng, hoàng đế lại trỏ Tiền Quan Sách đang nửa quỳ nửa bò rạp dưới đất: “Ngươi nói xem!”

    Tiền Quan Sách run cầm cập, quỳ mọp dưới đất, không thốt nổi lên lời.

    Hoàng đế nghiến răng quát: “Còn không mau khai ra, trẫm sẽ tru di chín họ nhà ngươi!”

    Tiền Quan Sách cuống lên, lập cập thưa: “Tội nhân… Tội nhân từng dẫn một đám thợ tới phủ công chúa sửa sang đường nước… Tội nhân theo đường nước lẻn vào…”

    “Phòng công chúa ở trên đài cao, đồ ăn thức uống và nước nôi đều do thị nữ hoạn quan bưng lên, lấy đâu ra đường nước?” Hoàng đế giận giữ phản bác: “Thôi thiếu khanh giải thích xem, phạm nhân làm thế nào lấy cắp được trâm Cửu loan?”

    Thôi Thuần Trạm chẳng biết đáp thế nào, đành đứng dậy nhận tội: “Là thần sơ ý! Thần chỉ mong sớm ngày bắt hung thủ đền tội để an ủi vong linh công chúa trên trời nên đã gấp rút tra án suốt đêm ngày, khiến tinh thần không minh mẫn, bỏ qua một đầu mối quan trọng như vậy! Khẩn xin hoàng thượng đợi cho một lát, để bọn chúng thần thẩm vấn lại.”

    Đại Lý Tự thừa lập tức gọi mấy vị chủ sự và tri sự lại trao đổi. Ngự sử trung thừa Tưởng Quỳ từ đầu vẫn khoanh tay nhìn, giờ mới thong dong hỏi: “Thôi thiếu khanh, những việc phạm nhân đã làm, sao còn cần các ngài trao đổi nữa?”

    Biết y thừa cơ đổ dầu vào lửa, xong Thôi Thuần Trạm cũng chẳng lấy làm điều, chỉ đáp: “Lúc trước là bộ Hình phái người đến cùng Đại Lý Tự thẩm vấn, nên chúng tôi e rằng có lẽ đôi bên chưa thật hiểu nhau, thành ra sơ suất chăng?”

    Thượng thư bộ Hình Vương Lân đã toan đứng ngoài cuộc, giờ thấy mình lại bị kéo vào, đành chắp tay nói: “Quả có chuyện đó, nhưng ta bận rộn, đành chọn ra mấy kẻ được việc nhất trong bộ, dốc hết sức hỗ trợ, còn về những việc khác, bản bộ thiên về định tội theo luật và xử phạt, không thể giúp đỡ quá nhiều được.”

    Nghe tam pháp ty đùn đẩy trách nhiệm cho nhau, kẻ nào kẻ nấy chỉ biết khuấy cho nước đục ngầu lên, hoàng đế ngán ngẩm quay lại, thấy Quách thục phi đang thẫn thờ ngồi đó, con gái qua đời mới mấy hôm mà phi dường như đã già thêm mấy tuổi, ngài ngự không khỏi chạnh lòng, cảm thấy chỉ có phi mới là người chung thuyền mưa gió với mình, bèn đứng phắt dậy quát lên: “Câm miệng hết cho trẫm!”

    Mọi người lập tức nín thít.

    Hoàng đế quét mắt nhìn khắp lượt, cuối cùng dừng ở Hoàng Tử Hà: “Dương Sùng Cổ!”

    Hoàng Tử Hà vội thưa: “Có nô tài.”

    “Ngươi là người được trẫm chỉ định hỗ trợ Đại Lý Tự, cảm thấy vụ này thế nào?”

    “Tâu hoàng thượng, vụ này can hệ rất nhiều, một vài lời không thể giải thích tận tường được. Cái chết của công chúa cũng do đủ thứ mắt xích lần lượt móc nối vào nhau gây ra, có cái là trùng hợp, cũng có thứ là con người cố tình tạo nên, không thể tách ra mà giải thích. Nếu bệ hạ cho phép, nô tài xin được thuật lại mọi chuyện từ đầu đến cuối, bắt đầu từ vụ Ngụy Hỷ Mẫn.”

    Hoàng đế gắng nén cơn giận, lạnh lùng nhìn cô: “Được, tam pháp ty đã không giải thích được thì ngươi thử nói xem sao!”

    “Thưa vâng.” Hoàng Tử Hà khom lưng đáp, “Nô tài cho rằng, căn nguyên của chuỗi án mạng này khởi đầu từ việc một người con gái bị lăng nhục, nhưng thứ liên kết lại tất cả đầu mối lại là một bức tranh. Chính là bức ngự bút của tiên hoàng được người nhà họ Trương cất giữ, cũng có thể nói là tuyệt bút của tiên hoàng.”

    Đoạn cô ra hiệu cho Trương Hàng Anh đưa bức họa ra, rồi tiếp tục giải thích: “Đến bây giờ, chúng nô tài vẫn không hiểu tại sao tiên hoàng lại vè ra bức tranh này, cũng như ý nghĩa thực sự của nó là gì. Nhưng có một điểm không thể nghi ngờ, là thủ pháp của hung thủ, hay có thể nói là cách chết của ba người trong vụ án này đều được mô phỏng theo hình vẽ trong tranh.”

    Hoàng đế nhìn bức tranh, vẻ mặt phức tạp: “Đây là thủ bút tiên hoàng thực ư?”

    “Tâu hoàng huynh, không còn nghi ngờ gì nữa.” Lý Thư Bạch đáp.

    Ngài ngự nghe nói liền cầm lấy bức họa xem xét hồi lâu, đoạn thở dài hỏi: “Chẳng biết tiên hoàng để lại bức tranh này là ý gì?”

    “Chuyện đó thì nô tài không rõ. Chỉ là, ba người chết trong vụ án này, Ngụy Hỷ Mẫn ứng với hình vẽ đầu tiên, bị sét đánh chết cháy. Hình vẽ thứ hai, là một người bị giam trong lồng sắt, báo hiệu cái chết của Tôn ghẻ. Hình thứ ba là loan phượng bổ xuống mổ người, ứng với…” Nói đến đây, cô ngước nhìn hoàng đế, ngừng lời. Ngài ngự cũng hiểu, cô đang muốn nhắc đến công chúa chết dưới trâm Cửu loan.

    Hoàng đế săm soi bức tranh thêm một lúc thật lâu, rồi nghèn nghẹn hỏi: “Bứa họa tiên hoàng để lại từ mười năm trước, sao lại trùng hợp với ba vụ án mạng này được?”

    “Tiên hoàng anh minh thần võ, nhưng nô tài trộm nghĩ, hẳn cũng không biết trước những vụ án của mười năm sau, càng không thể vẽ lại thành tranh để nhắc nhở hậu nhân được. Có lẽ bức tranh này có ý riêng của nó, nhưng trong vụ án này, lại được dùng vào một mục đích khác: để che đậy tội trạng của mình, đồng thời đổ tất cả nguyên nhân cho trời phạt, hung thủ sau khi xem bức họa này đã cố ý dựa vào nó mà gây án, hòng tạo ra một câu chuyện rùng rợn bưng bít tai mắt người đời, tránh khỏi bị pháp luật trừng phạt!”

    Hoàng đế chậm rãi gật đầu: “Vậy chỉ cần tra xem nhưng kẻ nào từng trông thấy bức tranh, là có thể khoanh vùng hung thủ rồi.”

    “Thưa phải, đây cũng là điểm hung thủ khéo quá hóa vụng. Một mặt, cách làm này khiến cho ba vụ án mạng trở nên mông lung mịt mờ, không biết phải bắt tay điều tra từ đâu; nhưng mặt khác, cũng xâu chuỗi cả ba vụ lại, khiến người ta hiểu ngay, hung thủ trong ba vụ chỉ là một người. Chúng nô tài chỉ cần tập hợp những điểm chung của ba nạn nhân lúc sinh thời là đoán được hung thủ ắt phải có liên quan mật thiết đến Lữ Tích Thúy, hơn nữa cũng từng xem qua bức tranh của nhà họ Trương.”

    Mọi người trên công đường đều đổ dồn mắt vào Trương Hàng Anh.

    Trước ánh mắt của mọi người, Trương Hàng Anh hết sức căng thẳng, luống cuống lùi lại một bước. Xong Hoàng Tử Hà chăm chú nhìn gã nói tiếp: “Đúng vậy, xét ra thì Trương Hàng Anh rất đáng nghi. Trong số những người có liên quan tới vụ việc của Lữ Tích Thúy, thì bản thân cô ta có thời gian gây án ở vụ Ngụy Hỷ Mẫn và Tôn ghẻ, nhưng khi công chúa qua đời, cô ta lại đang bị giam trong tịnh thất Đại Lý Tự, hoàn toàn không thể lẻn ra ngoài giết người rồi âm thầm trở về được.

    “Lữ Chí Nguyên, có thời gian gây án khi công chúa qua đời, xong lúc Ngụy Hỷ Mẫn chết, ông ta lao lực quá độ mà ngất xỉu, được khiêng về nhà, có đại phu và hàng xóm chăm sóc, không thể lẻn từ phường Phong Ấp đến tận chùa Tiến Phúc giết người được. Khi Tôn ghẻ chết, ông ta cũng đang vùi đầu vào trong tiệm làm cây nến khác để cúng tiến cho chùa Tiến Phúc, rất nhiều chủ tiệm và khách khứa ở chợ Tây đều có thể làm chứng

    “Chỉ có.. Trương Hàng Anh, trong cả ba vụ đều không có chứng cớ ngoại phạm. Hay nói cách khác, khi cả ba vụ án xảy ra, Trương Hàng Anh đều có mặt tại hiện trường.”

    Thấy mọi ánh mắt đều đổ dồn lên mình, Trương Hàng Anh kinh hoàng lùi lại, vô thức phân bua: “Không… tôi, tôi không giết người mà…”

    Chu Tử Tần cũng cuống quýt kéo tay Trương Hàng Anh phân trần: “Sùng Cổ, tuy Trương nhị ca có lý do ra tay, nhưng ta tin rằng huynh ấy không giết công chúa! Dù muốn giết người, huynh ấy cũng sẽ không dùng những cách ấy, con người ngay thẳng như huynh ấy, sao có thể bày ra nhiều kế sách thế được!”

    Hoàng Tử Hà gật đầu với gã, rồi quay ra nói với tất cả: “Theo trình tự thời gian thì vụ án đầu tiên là Ngụy Hỷ Mẫn chết tại chùa Tiến Phúc. Nghi vấn lớn nhất trong cái chết của y là bấy giờ chùa Tiến Phúc người đông như nêm, khi sấm sét giáng xuống làm cây nổ nến, mọi người bỏ chạy tứ tán, người khác chỉ dính vài đốm lửa, riêng Ngụy Hỷ Mẫn cả người bắt lửa cháy bùng lên mà chết. Ai nấy đều nói chuyện này do trời giáng sấm sét trừng phạt, nhưng trời cao có bao giờ động lòng trước một phận người nhỏ nhoi? Theo nô tài thấy cái chết của y là do hung thủ cố tình sắp xếp, bất kể trời có giáng sấm sét hay không thì hôm ấy Ngụy Hỷ Mẫn cũng sẽ chết cháy.”

    Lý Nhuận tròn mắt hỏi: “Nhưng… trừ thần Phật ra, lẽ nào trên đời thực sự có kẻ thao túng được được sấm sét đánh trúng người mình muốn giết ư?”

    “Tân vương gia, nhìn bề ngoài rõ ràng là báo ứng, không mảy may sơ hở, tiếc rằng hung thủ vẫn để lại dấu vết tại hiện trường, chúng nô tài truy ra từ đó, mới lần ra rất nhiều điểm nghi vấn.” Nói đến đây, Hoàng Tử Hà nhìn lướt qua tất cả mọi người đứng trên công đường. Ngay cả hoàng đế và Quách thục phi lần này đến đây chỉ vì cái chết của Đồng Xương công chúa, cũng phải sinh lòng nghi hoặc, chăm chú lắng nghe.

    Hoàng Tử Hà quay lại, gật đầu ra hiệu cho Chu Tử Tần.

    Gần đây Chu Tử Tần phối hợp với cô cực kì ăn ý, lập tức vào kho vật chứng Đại Lý Tự lấy ra một sợi dây sắt, đưa cho cô: “Sợi dây sắt này được phát hiện ở chùa Tiến Phúc, có liên quan gì tới vụ án không?”

    “Đa tạ công tử, đây chính là vật để hung thủ che đậy thủ pháp của mình, cũng là công cụ giết người.” Cô nhận lấy sợi dây, trò vào đầu đã cháy thành màu xanh đen, nói tiếp: “Cháy đến thế này, rõ ràng không thể do mấy đốm lửa vung vãi ở hiện trường được, mà phải bị thiêu đốt khá lâu. Bấy giờ tại chùa Tiến Phúc, nơi nào có lửa cháy thật lâu, khiến sợi dây thành ra thế này? Nô tài nghĩ, chỉ có hai cây nến lớn. Hơn nữa, người duy nhất có thể nhét thứ này vào trong nến, đương nhiên là…” Cô cầm sợi dây sắt, quay đầu nhìn về phía Lữ Chí Nguyên đang lặng thinh đứng ở cuối công đường.

    “Lão Lữ, ta có chuyện muốn hỏi, lão nhét sợi sắt này vào nến để làm gì vậy?”
     
  5. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 21 - Sinh trai sinh gái
    Mọi người nhìn sang Lữ Chí Nguyên, xôn xao bàn tán. Từ khi bước vào Đại Lý Tự, Lữ Chí Nguyên vẫn cúi đầu đứng trong góc. Ai nấy đều khinh bỉ Lữ Chí Nguyên, nên khi nhắc tới mấy người có quan hệ với Tích Thúy, mọi người chỉ nhìn lướt qua lão, chẳng ai để tâm.

    Vậy mà giờ đây, Hoàng Tử Hà lại giơ sợi sắt hỏi lão.

    Ánh mắt mọi người cũng theo đó mà đổ dồn đến.

    Lữ Chí Nguyên đứng trong góc tôi công đường, ra sức giấu mình đi. Dáng người lão vẫn còng gập, mặc bộ đồ cũ kỹ, bóng tối khiến cho những đường nét trên gương mặt cũng thành ra sâu hoắm.

    Rồi dường như vẫn chưa hiểu câu hỏi, lão chậm chạp ngước lên nhìn Hoàng Tử Hà, rề rà hỏi: “Công công bảo gì cơ?”

    Thôi Thuần Trạm hùa theo: “Vừa nãy chẳng phải Dương công công nói vụ án này có liên quan đến thủ bút tiên đế do nhà họ Trương cất giữ ư? Đã được họ cất giữ, sao Lữ Chí Nguyên lại xem được?”

    “Đương nhiên là xem được. Sau khi Ngụy Hỷ Mẫn chết, lão Lữ từng đến tìm Tích Thúy đòi tiền dưỡng dục, cô ấy bèn lấy bức họa này ra cho cha mình xem, đồng thời nói với lão nội dung của ba hình vẽ mà mấy người chúng tôi suy đoán được. Có điều bấy giờ lão Lữ không tin, nên cô ấy mới giận dữ đem tranh đi cầm lấy mười quan tiền đưa cho lão.”

    “Bởi vậy… lão Lữ thực sự đã từng xem bức tranh này.” Chu Tử Tần khẳng định, xong vẻ mặt vẫn đầy hoài nghi: “Có điều… công công cũng nói lão ta đến vòi tiền mà, lẽ nào kẻ như vậy… lại giết người ư?”

    “Hừ… đời nào. Lão đòi được tiền rồi, việc gì còn phải đi giết người báo thù cho con ranh ấy?” Lữ Chí Nguyên cười nhạt lắc đầu quả quyết, “Lão không hề bỏ thứ này vào nến, có lẽ là kẻ nào khác lén lút cho vào, hoặc nó vốn lẫn trong thẻ hương, cháy trong lư hương thành ra như thế, liên quan gì đến lão?”

    “Nhưng bấy giờ lư hương lớn ở chùa Tiến Phúc không hề bị đổ, giả sử sợi sắt này lẫn trong đó thì làm sao rơi ra ngoài được? Còn như lời lão, có kẻ khác lén lút bỏ nó vào trong cây nến, lại càng không có khả năng.” Đoạn cô giơ đầu cong ra trước mặt lão, “Nếu sợi dây này thẳng tắp thì may ra còn có thể cắm thẳng vào tim nến, nhưng đầu cong này lại ở phía dưới, trừ lão có thể bỏ vào trong khi chế tạo, còn ai cắm nổi đầu cong này vào sợi bấc nến thẳng tắp bện chặt chứ?”

    Lữ Chí Nguyên rề rà đáp: “Lão… già rồi, mắt mũi kèm nhèm, có lẽ lúc nào đó vô tình để lẫn một sợi sắt vào bấc đèn mà không biết. Dám hỏi công công, chút sai sót đó của lão phạm vào tội gì mới được chứ?”

    “Lão vô ý để lẫn một sợi sắt vào thực ư? Dù thế nào ta cũng không tin, bởi hành vi tưởng chừng như vô ý đó, lại là khởi đầu, cũng là trọng điểm của cả vụ án.” Hoàng Tử Hà lắc đầu nói tiếp: “Lão Lữ, lão quả đã dốc nhiều tâm sức sắp đặt vụ này. Mấy ngày trước khi xảy ra chuyện, tiết trời oi bức, chỉ chực đổ mưa, lão cũng để ý thấy cây nến cao đến một trượng như thế, hẳn là ngang với đại điện, hễ cắm thêm một sợi sắt vào thì rất dề dẫn sấm sét. Vậy là lão thêm một sợi sắt mảnh vào tâm nến. Rồi đề phòng người khác phát hiện, lão lại khăng khăng đòi đích thân dựng nến. Như vậy, sau khi dựng xong, lão có thể rút một đầu sợi sắt giấu trong nến ra, tiện dẫn sấm sét. Hơn nữa, sau khi cất thang đi, những người phía dưới ai mà để ý trong ngọn nến đang cháy lại giấu một sợi sắt mảnh cơ chứ?”

    “Thì ra… cái gọi là trời giáng sấm sét, lại do lão ta tạo ra ư?” Thôi Thuần Trạm trợn trừng cả mắt, “Vậy… chẳng phải lão quá may mắn ư, tự dưng sét lại đánh trúng ngay kẻ thù của lão!”

    “Đương nhiên phải có nguyên do chứ, bằng không giữa bấy nhiêu người, sao thiên lôi lại chọn đúng Ngụy Hỷ Mẫn?” Hoàng Tử Hà đưa sợi sắt cho mọi người xem, “Sợi dây này vốn là trên thẳng dưới cong, không rõ các vị đại nhân có để ý hay không. Đoạn thẳng phía trên, không chỉ có vết cháy, mà còn dính ít tro than. Nhưng phần cong bên dưới lại không hề thấy vết cháy, lạ không cứ? Có lần nô tài từng quan sát lão Lữ làm tâm cho loại nến lớn này, sau khi dùng vải thô bọc kín sợi bấc, ngâm vào sáp lỏng, lão bèn móc một cây kim sắt đã nung đỏ vào đầu sợi bấc, rồi cắm vào thân sáp đã bắt đầu đông. Bởi vậy dù cây nến nổ tung thì dây bấc ghim sợi sắt có lớp vải bọc ngoài, lại có sáp nến bao bọc, sẽ rất khó bị nổ tan tác. Mà dù cho nổ tan tành thì sợi sắt ngâm trong sáp lỏng đã cháy âm ỉ một thời gian chắc chắn bị ám đen, cọ rửa không sạch nổi. Vậy mà đầu dưới của sợi sắt này vẫn trắng, là vì sao?”

    Bọn Thôi Thuần Trạm, Vương Lân, Tưởng Quỳ chuyền tay nhau săm soi sợi sắt, trầm ngâm suy nghĩ.

    Hoàng đế tuy tò mò về cái chết của Ngụy Hỷ Mẫn, xong còn canh cánh vụ án của con gái mình, bèn giục: “Dương Sùng Cổ, ngươi mau nói ra đi.”

    “Thưa vâng. Theo nô tài đoán thì tâm cây nến lúc trước Lữ Chí Nguyên làm, chỉ dài bằng nửa sợi thép này thôi. Phần thẳng tắp ám đen phía trên là cắm vào tâm nến, còn nửa cây nến bên dưới thực ra không hề có ruột, chỉ có sợi sắt trần, nên không thể cháy được.”

    Mọi người nghe xong đều ngạc nhiên ra mặt, Chu Tử Tần vội hỏi: “Lão tạo ra một cây nến lớn, lại rỗng ruột phân nửa như vậy làm gì?”

    “Lão muốn dùng cây nến này giấu một vật. Đầu dưới sợi sắt bị bẻ cong, là để khỏi chọc vào vật đó.”

    Chu Tử Tần vỗ trán reo lên: “Nhất định lão giấu lưu huỳnh và thuốc nổ trong nến rồi! Thế nên khi sét đánh xuống, sợi sắt dẫn sét làm cây nến bùng cháy, Ngụy Hỷ Mẫn đứng cạnh đó mới bén lửa!”

    “Không đúng, ngay sau vụ cháy ta đã tới tra xét, đâu có ngửi thấy mùi lưu huỳnh và thuốc nổ ở hiện trường.” Thôi Thuần Trạm lập tức phản bác: “Huống hồ bấy giờ Lữ Chí Nguyên không có mặt, sao có thể đảm bảo khi cây nến phát nổ Ngụy Hỷ Mẫn đang ở gần đó, hơn nữa lửa lại bén ngay vào y chứ?”

    Chu Tử Tần lúng túng gãi đầu, bối rối nhìn sang Hoàng Tử Hà.

    “Trên đây là những chứng cứ mà chúng ta thấy được, nhưng vụ án này còn một chứng cứ vô hình nữa. Đó chính là: bấy giờ những người ở đó gồm có, Quỳ vương gia, Chu công tử, Trương nhị ca, Lữ Tích Thúy, và cả nô tài, năm người kẻ đứng gần, người đứng xa cây nến, nhưng trước khi nó phát nổ, không một ai trông thấy Ngụy Hỷ Mẫn cả.” Nói đến đây, Hoàng Tử Hà quay sang nhìn Lý Thư Bạch.

    Lý Thư Bạch gật đầu khẳng định: “Bản vương quả thực không hề trông thấy Ngụy Hỷ Mẫn. Y là người bên cạnh công chúa, nến bản vương nhác thấy trong chùa Tiến Phúc, nhất định sẽ có ấn tượng mới phải.”

    “Một người nhìn qua là nhớ kỹ như Quỳ vương gia mà không phát hiện ra Ngụy Hỷ Mẫn, còn có thể nói là y ở giữa đám đông chen lấn, đứng xa khó trông thấy được, nhưng Trương Hàng Anh và Lữ Tích Thúy bấy giờ ở ngay bên cạnh cây nến, hơn nữa họ Ngụy là kẻ góp phần tạo nên bi kịch của Tích Thúy, lại mặc y phục hoạn quan đỏ rực, sao hai người họ cũng không trông thấy?”

    Trước ánh mắt ngỡ ngàng xen lẫn nghi hoặc của mọi người, Hoàng Tử Hà chốt lại kết luận quan trọng nhất: “Vì cây nến cao hơn một trượng, to bằng nửa người ôm, trừ phần sáp đã chảy phía trên và phần dưới cùng hơi nhỏ hơn ra, cũng còn cao đến tám thước, thân hình Ngụy Hỷ Mẫn chỉ năm thước rưỡi, thừa sức nhét vào trong!”

    Trước phán đoán bất ngờ đến gần như điên rồ này, cả công đường lặng phắc, người kinh ngạc, kẻ thảng thốt, kẻ nghi ngờ.

    “Sáp vốn đã đục, lại bị sơn phết màu đủ thứ màu lòe loẹt, thừa sức che kín thân người nên trong; để có không gian, lão Lữ đã bỏ phần ruột bên dưới đi, còn thừa lúc vẽ hoa văn trên thân nến mà đục thủng mấy lỗ nhỏ, để người bên trong vẫn có không khí; đồng thời bẻ cong một đầu sợi sắt để khỏi chọc vào đầu Ngụy Hỷ Mẫn, hơn nữa cũng có thể dẫn lửa vào trong, khiến cây nến tạo thành từ hỗn hợp những thứ dế cháy như chu sa, lưu huỳnh, dầu đen chóng nổ tung,”

    Trương Hàng Anh, Chu Tử Tần, Lý Nhuận đều ngây ra nhìn Hoàng Tử Hà, rồi lại nhìn sang lão già còng gập, hèn hạ là Lữ Chí Nguyên, nghi ngờ ra mặt.

    Lữ Chí Nguyên cúi nhìn nền gạch xanh dưới chân, cười nhạt: “Lão chẳng hiểu công công nói gì cả, bảo lão giấu một người sống sờ sờ trong cả cây nên ư? Còn đưa cả cây nến lẫn người đó đến chùa Tiến Phúc nữa? Suy nghĩ của công công kỳ quặc thật đấy!”

    “Đúng là mới nghe thì hoang đường thật, nhưng trong tay ta lại có chứng cớ rành rành.” Hoàng Tử Hà quả quyết nói tiếp: “Thứ nhất, hôm giao nến cho nhà chùa, rõ ràng lão đã thức làm suốt đêm, mệt mỏi rã rời, tại sao không để người khác đi, mà lại khăng khăng phải đích thân đưa đến chùa Tiến Phúc, dựng nến xong xuôi mới chịu về?”

    “Lão thành tâm cúng phật, dốc hết tâm huyết mấy tháng mới làm được đôi nến, để người khác đưa đi, lão không yên tâm!”

    Hoàng Tử Hà chẳng buồn phản bác, mà tiếp tục nói: “Thứ hai, chùa Tiến Phúc phải mất nửa năm mới gom đủ sáp để tạo ra hai cây nến ấy, kết quả bị sét đánh nổ tung, cháy rụi trong nháy mắt. Nếu dùng sáp thường, lẽ nào có thể cháy sạch sành sanh, chỉ còn lại vẻn vẹn nửa vò mà lão cạo về thôi ư? Lão sợ số sáp còn lại quá ít, sẽ bị người khác phát hiện ra chuyện cây nên rỗng ruột, nên mới bỏ vào lượng lớn phẩm màu, hễ gặp lửa là cháy bùng lên, phi tang toàn bộ số sáp nến còn dư.”

    Lữ Chí Nguyên nói mà chẳng buồn nhìn cô: “Công công thì biết gì? Lúc làm nến, để nhuộm màu, tất nhiên phải bỏ phẩm vào rồi.”

    “Nhưng lão làm nến mấy chục năm nay, lẽ nào không biết nếu bỏ quá nhiều chu sa, lưu huỳnh, dầu đen vào, thì gặp lửa cả cây nến sẽ cháy bùng nên sao?” Đoạn Hoàng Tử Hà lắc đầu tiếp: “Huống hồ, lão còn phạm phải một sai lầm mà người thợ làm nến luôn phải tránh, chính là bỏ chu sa vào sáp nến.”

    Lữ Chí Nguyên cười nhạt: “Ai bảo lão bỏ chu sa vào? Rõ ràng lão chỉ dùng phẩm màu thông thường, công công không bằng không cớ, sao lại tùy tiện gán tội cho lão?”

    “Tuy mọi người ở đó không sao, nhưng ta có chứng cứ rành rành. Sau vụ cháy thì trời đổ mưa, nước mưa đã xối trôi số sáp nến còn lại xuống hồ cá, khiến tất cả cá trong hồ phóng sinh chết hết trong một đêm!” Hoàng Tử Hà nói, đoạn quay lại nhìn Chu Tử Tần đang há hốc miệng: “Bấy giờ Chu công tử từng nhặt một con về kiểm nghiệm, nguyên nhân chết là gì?”

    “Trúng độc thủy ngân.” Chu Tử Tần đáp ngay.

    “Đúng thế, đây chính là lý do tại sao khi làm nến không được dùng chu sa. Vì sau khi chu sa gặp lửa cháy bùng lên, sẽ tạo thành hơi thủy ngân, hơi thủy ngân tan vào không khí, ai hít phải sẽ trúng độc, sao có thể dùng được? Vậy mà để ngọn nến dễ bắt cháy, lão cả gan bỏ chu sa vào!” Hoàng Tử Hà nhìn xoáy vào Lữ Chí Nguyên, “Lúc trước khi ta đến tiệm của lão, từng thấy lão quết màu đỏ lên nến, cây nên đỏ ấy hẳn là không bỏ chu sa, cũng không tỏa ra khói độc. Thế thì tại sao lão lại nhất quyết phải bỏ chu sa, thứ vừa đắt đỏ vừa nguy hiểm vào cây nến ở chùa hôm ấy? Lão luôn miệng nói cái gì thành tâm cúng Phật, sao lại làm một cây nến độc hại như thế dâng lên pháp hội Phật môn? Lẽ nào không sợ nam phụ lão ấu ở chùa hôm ấy hít phải khói độc hay sao?”

    Lữ Chí Nguyên cứng họng. Lão đứng ngược sáng, những nếp nhăn trên mặt hằn lên làm cả gương mặt thoắt chốc già sọm đi.

    Lão há miệng, nhưng chẳng thốt nổi lời nào.

    “Thực ra cũng không sao cả, đúng không nào? Từ đầu lão đã biết cây nến cháy không được bao lâu sẽ phát nổ, tới lúc đó mọi người bỏ chạy tứ tán, chút thủy ngân ấy không hại được ai cả.” Hoàng Tử Hà lắc đầu, “Nhưng dẫu sắp xếp cẩn thận đến đâu, lão vẫn để lộ sơ hở. Chùa Tiến Phúc mất nửa năm trời mới gom được chừng ấy sáp, vậy mà chỉ vỏn vẹn mấy ngày, lão đã tìm đủ lượng sáp để chế tạo một cây nến tương tự, không rõ lão lấy sáp ở đâu ra? Lão nói là do mình tích trữ nhiều năm nay, nếu vậy thì chùa Tiến Phúc cần gì phải đi khắp nơi thu mua nữa? Thực ra ngay từ đầu lão đã chẳng dùng hết số sáp kia, vì cây nến của lão vốn rỗng ruột!”

    Thấy Lữ Chí Nguyên mặt mày tái ngắt, không còn lời nào để phân bua, Chu Tử Tần liền thắc mắc: “Sùng Cổ, ta vẫn có một điểm chưa hiểu! Tuy mấy hôm đó thời tiết oi bức chỉ chực mưa, nhưng nếu trời không đổ mưa thì lão ta định thế nào?

    “Dù sợi sắt kia không dẫn được sấm sét thì lớp sáp bên dưới chẳng phải vẫn được trộn dầu đen và lưu huỳnh đó ư? Cây nến cứ cháy như vậy thêm một lúc nữa cũng sẽ phát nổ, lửa bùng lên thiêu chết Ngụy Hỷ Mẫn bên trong. Đến lúc ấy lão chỉ cần nói rằng trong lúc làm nên có sơ suất, khiến cây nến phát nổ, vô tình làm bị thương người khác là xong.”

    Thôi Thuần Trạm cau mày: “Đúng là… Ngụy Hỷ Mẫn bị giấu trong cây nến, Liễu Chân pháp sư đúng lúc ấy đang giảng đến việc báo ứng thì sấm sét rền vang, sợi sắt dẫn sét làm nổ cây nến, nhìn bề ngoài cứ như trời giáng thiên lôi trừng phạt vậy. Trong lúc hoảng loạn chen lấn như thế, mọi người sẽ chỉ cho rằng kẻ bén lửa là người đứng gần cây nến mà thôi.”

    Chu Tử Tần vẫn chưa hết nghi hoặc: “Bấy giờ chẳng phải Ngụy Hỷ Mẫn đã lăn lộn kêu gào ư, sao một người sống sờ sờ lại chịu ngồi yên trong cây nến chừng ấy thời gian?”

    “Công tử quên linh lăng hương rồi ư? Tiền Quan Sách nghe Lữ Chí Nguyên nói mới nhập một lô linh lăng hương thượng hạng, bèn mua tặng cho Xương Bồ ở phủ công chúa để tạ ơn. Xương Bồ là người dưới, theo quy củ trong phủ, hễ có thứ gì quý phải dâng lên công chúa xem trước. Công chúa sau khi thành hôn vẫn chưa sinh con, đời nào lại dùng thứ không tốt cho việc hoài thai như thế. Trái lại, Ngụy Hỷ Mẫn một là tham lam, hai là mắc chứng đau đầu, đối với y, linh lăng hương chính là bảo bối, bèn điềm nhiên chiếm dụng. Mỗi ngày dùng một lạng, đến ngày thứ bảy thì hết sạch, y bèn đến chỗ Xương Bồ đòi thêm, sau khi làm rộn cả một trận lại chạy tới nhà Tiền Quan Sách uy hiếp, Tiền Quan Sách bèn dẫn y tới tiệm của Lữ Chí Nguyên. Ấy là đêm trước pháp hội ở chùa Tiến Phúc. Ngụy Hỷ Mẫn đi cả đêm không về, để rồi đến ngày hôm sau, kẻ xưa nay không tin thần Phật như y thình lình xuất hiện tại chùa, vừa xuất hiện đã bén lửa cháy bùng lên, chết trong tiếng kêu gào thảm thiết.” Hoàng Tử Hà nhìn xoáy vào Lữ Chí Nguyên, chậm rãi tiếp: “Lữ Chí Nguyên tính toán mọi chuyện rất kín kẽ; một là theo quy củ phủ công chúa, bất cứ kẻ nào có được vật gì quý giá đều phải dâng lên cho chủ nhân xem trước; hai là lợi dụng Tiền Quan Sách đưa linh lăng hương cho họ Ngụy; ba là ước lượng chính xác liều dùng cho bệnh nhân mắc chứng đau đầu, khiến mấy ngày sau y phải tới xin thêm. Mọi chuyện đều nằm trong dự kiến của lão, Ngụy Hỷ Mẫn tự đâm đầu vào lưới, hơn nữa còn mất tích trong tiệm nhang đèn của lão. Ta đoán hẳn đêm ấy lão đã dùng linh lăng hương trong tiệm, khiến Ngụy Hỷ Mẫn ngủ thiếp đi, mãi tới hôm sau khi cả người bén lửa mới tỉnh dậy.”

    Ánh mắt mọi người đều đổ dồn vào Lữ Chí Nguyên, thân hình già nua gầy gộc của lão bất động như gốc cây cằn cỗi nhiều năm, nhuốm đầy sương gió, nhưng cũng đầy cứng cỏi.

    Hoàng Tử Hà hùng hồn nói tiếp: “Cái chết của Tôn ghẻ, lão cũng không thoát khỏi liên quan đâu.”

    “Không, vụ Tôn ghẻ có lẽ Dương công công đoán sai rồi.” Trương Hàng Anh nhìn Lữ Chí Nguyên nãy giờ vẫn lặng thinh không nói, biện bạch, “Tôn ghẻ chết đúng vào giữa trưa… Bấy giờ tôi và A Địch đều đến nhà hắn định ra tay, nhưng không tìm được cơ hội, mà cũng không hề gặp… lão Lữ ở phường Đại Ninh, hơn nữa về sau có rất nhiều người làm chứng, cũng lúc ấy lão ta đang ở cửa tiệm chợ Tây làm nến, tôi không tin lão ta sát hại Tôn ghẻ.”

    “Đương nhiên lão ta không cần tới đó, bởi từ khoảnh khắc gọi người tới sửa nhà, Tôn ghẻ đã chết chắc rồi.” Đoạn Hoàng Tử Hà ngoái lại ra hiệu cho Chu Tử Tần lấy chiếc hộp sắt gỡ từ cửa nhà họ Tôn xuống cho mọi người xem, “Trên cửa chính nhà họ Tôn có gắn một chiếc hộp sắt, loại đang thịnh hành trong kinh như thế này, bấy giờ người thợ sửa nhà cho Tôn ghẻ đã gắn cho hắn một chiếc hộp mới, nước sơn còn tươi rói, nhưng sau khi xảy ra vụ án, sơn đã tróc hết ra.”

    “Chiếc hộp sắt này… là Tiền Quan Sách làm mà!” Thôi Thuần Trạm chỉ ngay vào Tiền Quan Sách đang quỳ mọp dưới đất.

    Ánh mắt mọi người một lần nữa dồn vào họ Tiền.


    Tiền Quan Sách đã tái ngắt mặt mày, rũ ra như một cái xác không hồn, lúc này chợt nhìn Hoàng Tử Hà, rồi lại nhìn sang Lữ Chí Nguyên, cặp mắt đờ đẫn cuối cùng cũng trợn trừng lên, chẳng biết lấy đâu ra sức lực, hắn lồm cồm bò dậy gào lên: “ Oan uổng… Oan uổng quá! Tiểu nhân không hề giết người! Cái hộp sắt đó… mua từ lò rèn Lưu Ký, sau khi lấy một lô hàng về, tiểu nhân cũng chỉ xem qua thôi!”

    Chu Tử Tần cuống lên, kéo tay Hoàng Tử Hà hỏi: “Theo công công thì cái hộp sắt này liên quan gì đến cái chết của Tôn ghẻ?”

    Hoàng Tử Hà hỏi lại: “Lý chính phường Đại Ninh từng nói, lúc ông chủ Tiền đạp cửa xông vào nhà họ Tôn thì một luồng khí đen từ trong nhà xộc ra, mọi người đều cho rằng đó là sát khí của oan hồn Tích Thúy, công tử có nhớ không?”

    “Ta nhớ, đúng là lý chính từng nói vậy.” Đoạn Chu Tử Tần nhìn sang Trương Hàng Anh, gãi đầu bối rối: “Nhưng Tích Thúy chưa chết, lấy đâu ra sát khí với chẳng oan hồn?”

    “Là thế này, có người đốt cháy thứ bên trong hộp sắt đặt trên cửa, khi cánh cửa bị đạp tung, tro bụi cũng lả tả rơi xuống, mà không khí trong nhà bị bịt kín mấy hôm, nên cửa vừa mở ra, tro than tức thì theo luồng khí xộc ra ngoài, tạo thành cái gọi là sát khí đen.” Hoàng Tử Hà lại trỏ lớp sơn đã cháy đen, bong tróc mà nói, “ Nhưng trong phòng không có dấu vết đồng lửa, chỉ có chút tro than còn sót lại bên trong chiếc hộp này mà thôi. Bởi thế, tôi cho rằng, hung thủ đã ra tay từ đây.

    “Sau khi phát hiện xác chết Tôn ghẻ, Đại Lý Tự lập tức niêm phong căn nhà, không một ai chạm vào cái hộp này được nữa, nên khả năng duy nhất là sau khi nhà cửa được sửa sang lại, vào khoảng thời gian từ đêm hôm trước đến trưa ngày hôm sau, có kẻ đã đốt thứ gì đó trong chiếc hộp này. Thứ đó, như tôi phán đoán, nhất định là linh lăng hương. Vì tối hôm chúng tôi tới tra xét, Vương đô úy, con trai Vương thượng thư cũng đi theo, vừa vào nhà, đô úy đã ngửi thấy mùi linh lăng hương. Vương đô úy vốn nổi dang kinh thành về phân biệt mùi hương, hẳn không thể ngửi lầm được. Hơn nữa tôi dám chắc loại linh lăng hương này giống hệt thứ đã khiến Ngụy Hỷ Mẫn hôn mê, nên Tôn ghẻ bị đâm hai nhát mà vẫn nằm yên không nhúc nhích, cứ thế chết đi.”

    Thôi Thuần Trạm vội gặng: “Nhưng Lữ Chí Nguyên làm sao lẻn vào căn phòng kín như thế để giết Tôn ghẻ được? Lẽ nào… lão cũng biết đường nước ngầm chạy qua đó?”

    “Vụ này chẳng liên quan gì tới đường nước cả, nếu hung thủ lẻn vào theo đường nước, nhất định nền đất sẽ có dấu vết đào xới, dù bị những người chạy theo Tiền Quan Sách tới xem náo nhiệt san phẳng, thì cũng không thể lèn chặt, phẳng phiu như thế được. Huống hồ Lữ Chí Nguyên lúc đó đang dở tay trong tiệm, làm gì có thời gian bò vào nhà người ta bằng đường nước?” Hoàng Tử Hà bảo Chu Tử Tần vạch lớp hoa văn chạm trổ trên hộp ra, nói tiếp: “Các vị thấy đấy. giữa đám tro tàn vẫn còn hai đầu ngón tay quẹt qua. Khi chúng tôi chứ xem xét đến, ai mà để tâm tới cái hộp chìm nghỉm trong lớp lớp bùa chú tranh vẽ chất chồng trên tường nhà họ Tôn chứ? Càng không ai ngờ trong hộp còn cất giấu đồ vật. Tôi nghĩ, kẻ duy nhất có khả năng thò ngón tay vào lấy thứ bên trong ra, ắt là hung thủ. Nhưng hung thủ muốn lấy cái gì?”

    Mọi người đều nhìn chằm chằm vào lỗ hổng nhỏ trên mặt hộp, vắt óc ngẫm nghĩ, nhất thời cả công đường lặng phắc, chỉ mình Trương Hàng Anh ngẩn ngơ nhìn cha của Tích Thúy như nhìn một người xa lạ, bản thân Lữ Chí Nguyên cũng thẫn thờ đứng đó, chẳng nói chẳng rằng, tựa hồ tất cả những gì Hoàng Tử Hà nói không liên quan gì đến lão.

    Sau một khắc im lặng ngắn ngủi, Lý Thư Bạch chậm rãi cất tiếng: “Là một cái lẫy đàn hồi.”

    “Đúng vậy, chính là loại lẫy đàn hồi thường gắn vào cung nỏ. Khi nó cọ vào lớp tro, sẽ để lại một đường cong khá lớn, nhưng dù lỗ hổng này có nhỏ hơn thế chăng nữa, chỉ cần xoay vài lần là lấy ra dễ dàng.” Hoàng Tử Hà nhìn sang Lữ Chí Nguyên, nói như than thở: “Lão Lữ năm xưa từng tòng quân, hơn nữa lại gia nhập đội cung nỏ.”

    “Lẽ nào Lữ Chí Nguyên… đặt một cây nỏ vào bên trong ư?” Chu Tử Tần sững người.

    “Không, chỉ cần hai cái lẫy là đủ.” Hoàng Tử Hà trỏ chiếc hộp giảng giải, “Phết lân tinh lên mặt hộp hướng ra ngoài, đặt linh lăng hương đằng sau, phía sau lớp linh lăng hương lại dùng sáp nến ghim chặt một cái lẫy, bên trên gài hai lá sắt mỏng tẩm độc.”

    “Ta nghĩ ra rồi! Tôn ghẻ lở loét khắp người, nên lúc ngủ phải nằm nghiêng, mà lão Lữ lại ở trong đội cung nỏ nhiều năm, thừa sức căn chỉnh lẫy theo độ lớn của góc giữa giường và cửa chính rồi dùng sáp nến cố định lại, ngắm chuẩn kẻ luôn nằm nghiêng trên chiếc giường ngổn ngang đủ thứ!” Chu Tử Tần sực hiểu ra: “Trưa hôm ấy… à có lẽ chẳng cần đến trưa, hễ ánh nắng mặt trời đủ nóng, rọi vào hộp, lân tinh bị hun sẽ đốt cháy linh lăng hương. Mùi hương an thần này ắt làm Tôn ghẻ thiếp đi, mà giường của hắn vừa khéo nằm đối diện với cửa chính. Đợi linh lăng hương cháy hết, ngọn lửa bắt đầu lan ra trong hộp, lớp sáp cố định lẫy nỏ tan chảy, hai lá sắt gài bên trên sẽ bắn ra, găm vào người Tôn ghẻ. Loại linh lăng hương này có thể khiến Ngụy Hỷ Mẫn ngủ mê mệt suốt đêm, bị đưa lên xe lắc lư tròng trành cũng không tỉnh, huống hồ Tôn ghẻ, có lẽ chẳng kịp cảm thấy gì đã ô hô ai tai rồi!”

    “Đúng thế, khi biết Tôn ghẻ đang tìm người gia cố nhà cửa, Lữ Chí Nguyên đã nghĩ ra kế hoạch này. Trước hết lão chọn lấy một chiếc hộp sắt từ cửa tiệm của ông chủ Tiền, dù sao thì hình vẽ trên mặt hộp cũng tương tự như nhau, sửa lại vài chỗ bên trong rồi đóng lại như cũ, sau đó xách rương đồ nghề đi đến, vờ như đến nơi mới phát hiện ra là đặt giá nến cho nhà Tôn ghẻ, làm ầm lên một trận rồi đi thẳng. Những người ở đó không hề phát hiện, thực ra lão đã đánh tráo chiếc hộp sắt mình vừa cải tạo vào, đám thợ thuyền lại nhanh nhảu, chỉ lo gắn hộp vào vị trí mà chẳng buồn nhìn lại.”

    “Nếu vậy thì tất cả thợ thuyền tại đó đều bị tình nghi tráo hộp, phải không nào?” Thôi Thuần Trạm xen vào, “Hơn nữa, chúng ta chỉ cần phát hiện hai lá sắt tây găm vào người hắn, là có thể chiếu theo góc độ bắn tới mà lần ra hung khí rồi. Nhưng Tử Tần và ngỗ tác của Đại Lý Tự chẳng tìm thấy lá sắt nào trên thi thể Tôn ghẻ cả!”

    “Thưa phải, lá sắt tẩm độc sẽ vạch trần bí mật cái chết trong phòng kín của Tôn ghẻ, nếu vậy thì chẳng ai cho đó là trời phạt nữa. Bởi thế chiều hôm ấy hung thủ nhất định phải đến phường Đại Ninh, sắp xếp một vở kịch, làm toáng cái chết của họ Tôn lên, hơn nữa còn phải khiến mình trở thành người đầu tiên tiếp cận thi thể. Vậy là chiều hôm ấy, trong quán rượu gần nhà họ Tôn, Tiền Quan Sách lăm le đi tính sổ lại gặp ngay Lữ Chí Nguyên hằm hè muốn đòi nợ, cả hai cùng phá cửa nhà Tôn ghẻ. Lữ Chí Nguyên đưa búa để Tiền Quan Sách phá cửa. Cả hai xông vào trước nhất, Tiền Quan Sách ngà ngà say, vô ý lôi tuột thi thể xuống đất, còn Lữ Chí Nguyên vớ như không biết nội tình, bèn thừa cơ lật cái xác lại. Nhưng không ai trông thấy, một trong hai kẻ ở gần cái xác nhất đã âm thầm rút hung khí găm vào thi thể ra, rồi giả bộ sợ hãi, cùng người kia loạng choạng lùi ra cửa. Nhân lúc mọi người nháo nhào cả lên, kẻ chạy đi báo quan, người mon men đến gần quan sát, hung thủ cũng thừa sức lấy hai cái lẫy giấu trong hộp ra.” Nói đến đây, Hoàng Tử Hà nhìn khắp công đường một lượt: “Bởi thế, trong vụ Tôn ghẻ, kẻ tiếp cận thi thể đầu tiên chính là hung thủ.”

    Cô ngoái lại, ánh mắt dừng ở Tiền Quan Sách vẫn quỳ mọp tại chỗ. Vẻ mặt họ Tiền chẳng biết là kinh ngạc hay mừng rỡ, chỉ thấy hắn nhìn Lữ Chí Nguyên, lớp mỡ trên mặt rung rung.

    Lý Nhuận hỏi: “ Tiền Quan Sách và Lữ Chí Nguyên đều tiếp cận thi thể đầu tiên, đúng như ngươi nói, chỉ bọn họ mới có cơ hội âm thầm rút hung khí ra. Nhưng tại sao ngươi dám quả quyết hung thủ là họ Lữ chứ không phải họ Tiền?”

    “Chẳng phải rất đơn giản ư? Thứ nhất, Tiền Quan Sách chưa có dịp nhìn thấy bức họa kia, nên không thể dựa theo hình vẽ mà giết người được. Thứ hai, chỉ có hai người họ tiếp cận thi thể trước nhất. Nhưng trong hai người, Lữ Chí Nguyên đang tỉnh táo, nếu Tiền Quan Sách lén đoạt lấy hung khí, nhất định lão sẽ phát hiện ra; còn Tiền Quan Sách lại ngà ngà say, Lữ Chí Nguyên có đoạt lấy hung khí, e rằng ông ta cũng chẳng biết.”

    Lữ Chí Nguyên đứng yên tại chỗ, khom lưng, cúi đầu bất động. Cặp mắt lão vẫn nhìn dán vào miếng gạch xanh dưới chân.

    Ánh nắng gay gắt từ ngoài cửa rọi vào, tuy mọi người trên công đường đều quay lưng ra cửa, nhưng hơi nóng vẫn hầm hập như thiêu đốt, khiến người ta nóng lòng sốt ruột.

    Cuối cùng Lữ Chí Nguyên cũng lên tiếng, phá vỡ bầu không khí im lặng, tuy gương mặt lão tái nhợt đầy mệt mỏi, xong khi ngẩng đầu lên lại để lộ ánh mắt sắc sảo khác thường.

    “Đúng thế. Lão đã giết Ngụy Hỷ Mẫn và Tôn ghẻ. Chẳng phải bọn chúng đều đáng chết ư?” Giọng lão khàn đặc, nhưng hết sức bình thản, “Có lúc lão cũng ngạc nhiên, không hiểu sao mọi chuyện mình bày ra lại suôn sẻ đến thế. Thực ra lúc làm xong phần vỏ nến bên ngoài, lão đã làm cả phần ruột bên trong, một khắc trước khi Ngụy Hỷ Mẫn đến, lão cũng đã nản lòng, quyết định từ bỏ kế hoạch, gắn phần ruột vào… Nào ngờ trời vừa sẩm tối thì y mò đến, ông trời rốt cuộc đã tác thành cho lão! Lão từng nghĩ, có phải trời cao cũng rủ lòng thương con bé, nên mới giúp lão thuận lợi giết chết bọn chúng hay không…”

    “Nhưng khi giết công chúa, dường như lão khá vội vã, ta đánh bạo đoán rằng việc này không nằm trong dự tính của lão phải không? Hoàng Tử Hà hỏi khẽ.

    Lời này thốt ra khiến cả công đường lặng phắc, mọi người thậm chí không dám thở mạnh.

    Hoàng đế tức thì biến sắc, đập bàn đứng phắt dậy, trừng trừng nhìn Lữ Chí Nguyên, mắt vằn tơ máu, gầm lên: “Đồng Xương… Đồng Xương cũng là ngươi… ra tay ư!”

    Lữ Chí Nguyên cúi đầu bất động, chỉ đáp lấp lửng: “Thảo dân chưa từng bước chân vào phủ công chúa, cũng chưa bao giờ thấy mặt công chúa.”

    Hình bộ thượng thư Vương Lân từ nãy lặng thinh, giờ mới lên tiếng: “Dương công công, bản quan thấy việc này còn nhiều nghi vấn. Ngươi chớ quên công chúa đã bỏ mình dưới trâm Cửu loan, mà trước khi công chúa qua đời, cây trâm này từng biến mất một cách bí ẩn. Ta nghĩ ông chủ một tiệm nhang đèn, hẳn khó mà lẻn vào phủ công chúa đánh cắp nó được?”

    Quách thục phi cũng gật đầu nghẹn ngào nói: “Đồng Xương hết mực nâng niu cây trâm ấy, lần này vì gặp giấc mộng lạ nên càng trân trọng giữ gìn, ai ngờ… ai ngờ vẫn có kẻ bày ra đủ mưu ma chước quỷ lấy cắp nó…”

    Hoàng Tử Hà lắc đầu: “Nô tài cho rằng, muốn lấy cắp cây trâm Cửu loan giữa trùng trùng vòng vây canh gác, chỉ cần một cách hết sức đơn giản.”

    Hoàng đế trỏ cô gằn giọng: “Nói mau!”

    “Miêu tả bằng lời thì hơi khó, xin Đại Lý Tự chuẩn bị cho nô tài một chiếc rương cùng hai ổ khóa một to một nhỏ, nô tài sẽ tái hiện lại cách làm cây trâm không cánh mà bay.”

    Thôi Thuần Trạm lập tức cho người khiêng đến một chiếc rương, Hoàng Tử Hà liền bảo họ kê sát vào tường, rồi mượn Ngạc vương chiếc hộp đựng mảnh giấy bông, rút cây trâm ngọc trên đầu ra, dùng khăn tay gói lại đặt vào hộp.

    Sau khi mời mọi người xem kỹ, cô bèn nhờ Lý Nhuận khóa hộp lại, rồi bỏ hộp vào rương, khóa lại bằng một ổ khóa khác, cất chìa đi.

    Xong xuôi, cô trỏ chiếc rương hỏi bọn Thùy Châu: “Lúc cất trâm Cửu loan vào kho, công chúa cũng làm như vậy đúng không?”

    Các ả đều rơi nước mắt thưa: “Chính là thế, không sai một bước.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu, quay sang nói với tất cả: “Các vị thấy đấy, nô tài chưa hề chạm một ngón tay vào vật trong rương, xong thực ra đã lấy được thứ bên trong rồi.”

    Lý Nhuận ngạc nhiên: “Không thể nào! Ngươi luôn đứng cách ta hai bước, làm sao ra tay được?”

    “Nếu không tin, xin Ngạc vương gia đưa chìa khóa, nô tài sẽ mở ra cho gia xem. Giống như lúc trước công chúa giao chìa khóa cho thị nữ, sai họ đi lấy trâm vậy.” Đoạn cô ngoái lại cười bảo đám thị nữ đang im thin thít: “Đương nhiên phải có vài người đi cùng, để giám sát lẫn nhau.”

    Cùng lúc, cô đi đến trước chiếc rương, ra hiệu cho bốn ả thị nữ đứng ra sau mình, hỏi: “Trong nhà kho kê hàng dãy giá, các cô lúc ấy đứng vào đâu?”

    Các ả nghĩ ngợi rồi lần lượt ai vào chỗ nấy, đứng sau lưng cô.

    “Vì bị những chiếc giá xung quanh choán chỗ nên các cô chỉ có thể đứng phía sau, nhìn thấy lưng ta, nhưng không thấy được tay ta làm gì, đúng không nào?” Vừa nói, cô vừa quay mặt vào tường, mở rương, lấy chiếc hộp bên trong ra, đóng nắp rương lại, đặt hộp lên nắp, rồi lại mở hộp, kêu lên: “Cây trâm biến mất rồi!”

    Nghe cô nói, không chỉ mấy thị nữ, mà tất cả mọi người trên công đường đều xúm lại. Chỉ thấy Hoàng Tử Hà đứng trước chiếc rương mở toang, tay bưng hộp không, ngoái đầu nhìn họ.

    Trụy Ngọc sợ đến tái mét mặt: “Đúng thế! Cây trâm Cửu loan chẳng phải cũng biến mất thế này ư! Thùy Châu, Thùy Châu, tỷ nói có phải không?”

    Thùy Châu đứng đờ ra bất động, không trả lời.

    Hoàng Tử Hà lạnh lùng nói tiếp: “Cách này chỉ có người mở rương mới thực hiện được thôi.”

    Chu Tử Tần sực hiểu ra, vội hỏi: “Nói vậy là khi công công mở hộp, đã tranh thủ giấu cây trâm vào tay áo hoặc ngực áo, rồi vờ như trong hộp không có gì ư?”

    “Không thể nào!” Lạc Bội nói ngay, “Vừa được tin cây trâm biến mất, công chúa đã lập tức cho soát người tất cả, đừng nói là mấy người nô tỳ đi lấy trâm, mà toàn bộ thị nữ ở gác Thê Vân đều bị soát người, soát phòng. Cây trâm Cửu loan lớn như thế, nếu Thùy Châu lén giấu đi, ắt đã bị phát hiện từ sớm rồi.”

    “Đương nhiên đâu thể giấu trong người.” Hoàng Tử Hà vén tay áo lên, để tất cả thấy bên trong không giấu vật gì cả, “Ta chỉ nhân lúc mở nắp rương ra lần thứ hai, nhét nó vào một chỗ mà người khác không chú ý đấy thôi.”

    Đoạn cô kéo chiếc rương lùi ra xa khỏi tường một chút, tức thì mọi người đều trông thấy, cây trâm được khăn tay gói lại, bỏ vào hộp do Ngạc vương chính tay bấm khóa, đang nằm sờ sờ trong khe hở giữa tường và rương.

    Giữa những tiếng ồ à kinh ngạc, Hoàng Tử Hà mở khăn tay ra, rút cây trâm gài lại lên đầu rồi đậy nắp hộp lại đưa trả Ngạc vương: “Trong khi tất cả đang bị soát người, soát phòng, chẳng ai nghĩ đến việc kéo rương ra khỏi tầng giá cuối cùng, nhìn xem có gì trong kẽ hở phía sau nó không. Mà trong kho ở gác Thê Vân, cũng chỉ riêng chiếc rương này được lót vải bên dưới, ắt hẳn do Thùy Châu sắp đặt từ trước, sợ khi thả cây trâm xuống sẽ phát ra tiếng, nên trải sẵn vải ở đó đề phòng, phải không nào?”

    Thùy Châu thẫn thờ lắng nghe, cuối cũng hai đầu gối mềm nhũn ra, cả người sụp xuống.

    Quách thục phi chồm lên quát: “Thùy Châu! Hóa ra là ngươi! Hừ… Hằng ngày công chúa đối với ngươi không bạc, vậy mà… ngươi lại dám mưu sát công chúa!”

    “Nô tỳ không dám! Nô tỳ chỉ… chỉ giấu trâm Cửu loan đi thôi, nô tỳ… nô tỳ cũng là bị người ta ép buộc…” Thùy Châu khóc nức lên, lắc đầu quầy quậy, “Nô tỳ sao dám ra tay với công chúa chứ? Dù có một vạn lá gan, nô tỳ cũng không dám!”

    Phò mã Vi Bảo Hoành vốn đã tiều tụy thất thần, lúc này sắc mặt càng thêm khó coi, gần như xám ngoét. Hắn lảo đảo đứng dậy, mấp máy môi, nhưng chẳng thốt nổi lời nào.

    “Ngươi mau khai thật cho trẫm!” Hoàng đế rảo bước đi tới, chỉ mặt Thùy Châu quát, “Ngươi là người hầu bên cạnh Linh Huy, thường ngày công chúa coi trọng nhất là ngươi, tại sao ngươi lại cố ý đánh cắp trâm Cửu loan, để công chúa lo âu thành bệnh hả?”

    “Là vì… là vì…” Thùy Châu run rẩy lắp bắp, xong chẳng cất nổi lên lời, chỉ biết nức nở quỳ sụp dưới đất, gần như ngất lịm đi.

    Hoàng Tử Hà ngoái lại nhìn Tiền Quan Sách đang quỳ dưới đất run như cầy sấy, chậm rãi nói: “Đương nhiên là vì Tiền Quan Sách, cha của cô.”

    Thùy Châu vẫn phủ phục dưới đất khóc lóc, không dám ngẩng lên.

    Tiền Quan Sách giật bắn mình, từ từ quay cái cổ béo xệ sang nhìn Thùy Châu đang co rúm người dưới đất khóc lóc thảm thiết, khóe môi run bần bật, nhưng mãi không nặn ra nổi một chữ.

    “Rốt cuộc là chuyện gì vậy? Nói rõ ra cho trẫm nghe.” Hoàng đế khoát tay trỏ Hoàng Tử Hà, cao giọng.

    “Thưa vâng. Nô tài nghĩ chuyện này phải kể từ mười năm trước.” Thấy Tiền Quan Sách ngỡ ngàng, Thùy Châu khóc đến lịm người đi còn hoàng đế đang đứng sừng sững trước mặt chờ đáp án, Hoàng Tử Hà đành thuật lại: “Bấy giờ ông chủ Tiền túng quẫn quá, đành đem bán con gái Hạnh nhi cho một hoạn quan. Sau khi vào cung, Hạnh nhi được đổi tên thành Thùy Châu, phái đến hầu hạ công chúa. Vì thông minh lại cần mẫn, sau mười năm rèn giũa, Thùy Châu trở thành người quan trọng nhất bên cạnh công chúa. Khi cô ấy, dưới sự nâng đỡ của công chúa, sắp được gả cho một quan viên quan trẻ tuổi tiền đồ xán lạn thì người cha đã vứt bỏ cô ấy lại xuất hiện. Mà triều ta xưa nay, tuy cũng có rất nhiều quan viên thông gia với thương nhân, nhưng trong con mắt nhà chồng cô ấy, một cô gái con nhà buôn bán và một thị nữ được công chúa xé giấy bán thân cho, lại đích thân ban hôn, ai danh giá hơn?”

    Tất cả mọi người nín lặng, chăm chú nhìn Thùy Châu run rẩy phủ phục dưới đất.

    Cuối cùng Thùy Châu cũng ngẩng lên, nước mắt ròng ròng. Ả gắng mở to mắt nhìn kỹ cha mình, tiếc rằng nước mắt cứ tuôn ra, không sao nhìn rõ được, đành thổn thức lẩm bẩm: “Đúng thế… Tôi chịu đựng suốt mười năm qua, cuối cùng cũng đến ngày mở mày mở mặt, nhưng ông… sao ông lại đột nhiên xuất hiện, sao lại muốn cắt đứt tiền đồ gấm vóc mà công chúa trải sẵn cho tôi? Ông có biết nếu tôi nhận ông thì mối duyên lành kia cũng đi tong không! Dù người ta không từ hôn, thì một đứa con gái nhà buôn ngày sau ở nhà chồng làm sao ngẩng đầu lên được?”

    Hoàng Tử Hà lặng lẽ nhìn ả, nói khẽ: “Nhưng mà, ông ấy luôn mong một ngày gặp lại được cô.”

    “Đúng thế, đứa con gái bị mình bán đi, chẳng những chưa chết mà còn sống vẻ vang trong phủ công chúa, lúc ông ta hí hửng ôm con cóc vàng về khoe khoang với mọi người, có biết đâu tôi lo lắng đến mất ngủ cả đêm. Tôi rất sợ… rất sợ người ta phát hiện ra mình chỉ là con gái một nhà buôn.” Thùy Châu rũ rượi ngã ngồi xuống đất, trong mắt người ngoài, vẻ mặt và tư thế tuyệt vọng này của ả giống hệt họ Tiền không sai một mảy.

    Bấy giờ Tiền Quan Sách mới ấp úng nỏi khẽ: “Nhưng… nhưng lúc gặp nhau, con vẫn vui vẻ cho ta xem cái bớt, ta còn nghe thấy tiếng con cười… còn nữa, cả con cóc vàng kia cũng là con tự biếu, ta đâu có đòi…”

    Thùy Châu sững sờ ngồi ngây ra không đáp.

    Hoàng Tử Hà liền hỏi: “Ông chủ Tiền không cảm thấy giọng cô ‘con gái’ trước đây và Thùy Châu hiện giờ khác nhau ư?”

    Tiền Quan Sách rầu rĩ gật đầu: “Đúng thế… đúng là không giống lắm.”

    “Người trò chuyện với cha, cho cha xem vết bớt, lại đem con cóc tặng cho cha, không phải con.” Thùy Châu vừa run rẩy nói, vừa lấm lét liếc hoàng đế và Quách thục phi: “Mà là… là…”

    “Là Đồng Xương công chúa, phải không nào?” Thấy ả lắp bắp mãi không dám nói ra, Hoàng Tử Hà bèn tranh nói giúp, “Tuy ta không hiểu vì sao công chúa phải mạo xưng là con gái Tiền Quan Sách, nhưng ta từng trông thấy bên cạnh công chúa có một con chó sứ. Đó là thứ đồ chơi phổ biến ngoài phố, nhưng đặt trong phủ công chúa lại hết sức lạc lõng. Bấy giờ ta đã thấy lạ, thuở nhỏ công chúa từng bị mảnh sứ vỡ cứa đứt cổ tay, nên thánh thượng hạ lệnh không được để bất cứ đồ gốm sứ nào quanh công chúa, vậy thì con chó sứ kia từ đâu mà ra? Sau khi công chúa qua đời, kẻ nào lại ném vỡ nó hòng phi tang vật chứng?”

    Thùy Châu thở gấp, nước mắt lã chã, xong cương quyết làm thinh không đáp.

    “Giờ nghĩ lại hẳn là do ông chủ Tiền tặng, coi như trao đổi với con cóc vàng. Sau khi công chúa qua đời, người bên cạnh, ắt là Thùy Châu, bèn hủy nó đi để giấu giếm. Cách đơn giản nhất là ném từ cửa sổ xuống, sau đó vờ vô ý đi đến dưới gốc hợp hoan, đá mấy mảnh sứ vỡ vào đống lá hoa, thế là thần không hay quỷ không biết.” Hoàng Tử Hà lắc đầu, “Hơn nữa, ta nghĩ chỉ công chúa mới có thể khiến cả cô lẫn Xương Bồ dù phải nói dối, thậm chí dẫn lửa đốt mình cũng nhất quyết che giấu, cũng chỉ công chúa mới dám tùy ý lấy đồ vật được hoàng thượng ban thưởng đem cho người khác mà thôi.”

    “Phải…” Thùy Châu cuối cùng cũng lên tiếng. Ả cúi gằm mặt cực thấp, không dám nhìn bất cứ ai, thấp đến nỗi gần như không nghe thấy ả nói gì. “Nô tỳ nghe Xương Bồ nói ông… ông chủ Tiền muốn tìm một đứa con gái có vết bớt trên tay, vì tay tôi sau khi bị bỏng đã không còn vết bớt nữa, bèn vờ như không biết. Nào ngờ lúc ấy công chúa tình cờ tỉnh giấc, nghe được chuyện này, bèn nói hằng ngày mình nhàn rỗi mãi cũng chán, sai nô tỳ dùng chỉ kẻ mày vẽ một cái bớt trên cổ tay, rồi bàn với nô tỳ làm thế nào để gạt ông ấy. Thấy công chúa hào hứng như thế, nô tỳ đành thuận theo, vẽ cho công chúa một cái bớt theo trí nhớ, rồi bày ra cách để công chúa đứng sau bình phong nói chuyện, chỉ nghĩ công chúa đùa giỡn ít lâu rồi thôi, nào ngờ trong lúc chuyện trò, họ ngẫu nhiên nhắc tới con chó sứ, ông… ông chủ Tiền lập tức đi tìm mua về, đôi bên thường xuyên qua lại, công chúa cũng đóng kịch mãi không biết chán…”

    Một vị công chúa được sủng ái nhất trong triều lại mạo xưng một cô gái mồ côi bị bán đi từ nhỏ, mà cô gái này, thực trùng hợp, lại là thị nữ hầu hạ bên nàng. Nghe câu chuyện hoang đường này, cả công đường đều im phăng phắc.

    Tiền Quan Sách sững sờ quỳ bên dưới, lúc này thân thể hắn không còn run lên nữa, tựa hồ đã trơ lì trước những vết thương chi chít khắp người. Hắn cứ đờ đẫn quỳ ở đó, nghĩ mãi mà không hiểu, vừa hoang mang, lại vừa bi ai.
     
  6. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 22 - Lòng này ai tỏ
    “Nô tỳ biết chuyện này không thể tiếp diễn mãi được. Công chúa và Tiền Quan Sách rất hợp chuyện, tuy chưa kêu một tiếng cha, nhưng thoạt đầu công chúa lén gọi ông ấy là gã Béo lùn, về sau biến thành lão Béo, rồi dần dần chuyển sang ông Béo… Nghe nói Tiền Quan Sách cũng nhiều lần khoe khoang về đứa con gái ở phủ công chúa và con cóc vàng. Ông ấy càng vui thì nô tỳ càng lo sợ… Sợ thân thế bại lộ, cuộc hôn nhân trong tầm tay sẽ bị ông ấy phá hỏng…” Thùy Châu cúi nhìn từng viên gạch xanh san sát nối nhau, không một khe hở, lẩm bẩm kể, “Cùng thời gian này, công chúa lại mơ thấy Phan Ngọc Nhi báo mộng đòi trâm. Sau đó thì Ngụy Hỷ Mẫn chết, phò mã xảy ra chuyện, công chúa lo nghĩ thành bệnh, nô tỳ cũng thức trắng đêm trong nom công chúa, chỉ sợ có điều gì sơ suất. Một hôm, nô tỳ tới Thái Y Viện lấy thuốc cho công chúa như thường lệ rồi quay về, lúc xuống xe, chợt có người nhìn chằm chằm vào cổ tay nô tỳ hỏi: “Cô là Thùy Châu ư?”

    Mọi người đều đổ dồn mắt vào cổ tay ả.

    Thùy Châu khoác áo xô gai trắng, vết sẹo thấp thoáng trong tay áo. Ả vén tay áo lên, để lộ cánh tay chằng chịt sẹo bỏng, cúi đầu kể: “Nô tỳ nghĩ chắc hắn trông thấy cổ tay, nên mới khẳng định được thân phận của nô tỳ, bèn ngoái lại nhìn, thì… Nô tỳ không biết kẻ đó là ai, chỉ thấy hắn đội một chiếc mũ lá rách, che khuất nửa gương mặt, nửa còn lại bịt khăn đen kín mít, dù trời nóng hầm hập. Nô tỳ định lờ hắn đi, nào ngờ hắn thình lình gọi giật giọng: ‘Hạnh nhi, cha cô sắp chết rồi.’”

    Ánh mắt ả lướt qua Lữ Chí Nguyên rồi dừng ở Tiền Quan Sách, giọng hoảng hốt: “Nô tỳ… Nô tỳ nghe vậy thì sợ đến giật bắn mình, chỉ e người khác phát hiện ra thân phận. Nhưng hắn bảo chỉ nói với nô tỳ mấy câu sẽ đi ngay, nên nô tỳ đành rời xe ngựa, theo hắn đến một góc vắng trong ngõ. Hắn nói: ‘Ta biết cô là Hạnh nhi con gái Tiền Quan Sách. Cha cô giết Ngụy Hỷ Mẫn vì Ngụy Hỷ Mẫn đến tìm ông ấy đòi linh lăng hương, đôi bên cãi vã, cha cô bèn dẫn lửa thiêu chết họ Ngụy tại chùa Tiến Phúc; ngay cả con ngựa của phò mã cũng là do cha cô trong lúc tới kiểm tra mấy con ngựa mình bán cho Tả Kim Ngô Vệ, sơ ý làm gãy móng ngựa, vô tình liên lụy đến phò mã; Tôn ghẻ cũng là do cha cô nhân lúc phá cửa xông vào ra tay hạ sát… Còn nữa, ta hỏi cô, cô có biết một khi quan phủ bắt giữ ông chủ Tiền thì thân phận cô cũng bại lộ hay không? Cuộc đời cô sau này phải làm sao đây?’”

    Tiền Quan Sách nhành miệng ra, lớp mỡ trên mặt rung rung, hắn run rẩy giơ tay lên như muốn vuốt ve cổ tay chằng chịt sẹo của con gái, xong Thùy Châu đã rụt phắt tay lại giấu sau lưng, như chạm phải lửa.

    Bàn tay Tiền Quan Sách khựng lại trước ngực, thật lâu không buông xuống. Nhìn vẻ đau đớn trên gương mặt phì nộn của họ Tiền, mọi người thực không biết nên cảm thông hay ghê tởm nữa.

    Giọng Thùy Châu lại nghẹn ngào cất lên, gần như khóc không ra tiếng: “Hắn… Hắn bảo nô tỳ rằng, cô tưởng cô giấu được chuyện ấy hay sao? Cha cô là bạn ta, ta phải giúp ông ấy, và cũng sẽ giúp cô. Nô tỳ, nô tỳ kinh hoàng tột độ, đành hỏi hắn, tôi phải làm sao đây?”

    “Hắn bèn sai cô đánh cắp trâm Cửu loan, đúng không?”

    “Phải… Hắn nói trong hai vụ án trước, và cả vụ việc của phò mã, ông chủ Tiền đều có thời gian gây án và chứng cứ có mặt tại hiện trường, nên hắn sai nô tỳ… giúp ông ấy tạo ra một chứng cứ không thể phản bác được.”

    Phò mã Vi Bảo Hoành nhìn Thùy Châu trừng trừng, nghi hoặc hỏi: “Thế nên… ngươi bèn giết công chúa?”

    “Không! Nô tỳ không hề!” Thùy Châu cắn môi, giọng run lên, “Nô tỳ sao, sao có thể hại công chúa được… Kẻ kia nói rằng, việc này rất đơn giản, chẳng phải công chúa mơ thấy cây trâm biến mất ư, chuyện này có thể liên quan tới vụ án, mà.. ai cũng biết, ông chủ Tiền không có cơ hội đánh cắp trâm Cửu loan… Nô tỳ vẫn chần chừ không chịu, nói rằng trâm Cửu loan đã được chính tay công chúa cất vào rương khóa lại, nô tỳ không lấy được. Nhưng hắn… hắn bèn dạy cho nô tỳ cách làm vừa rồi, khi đi lấy trâm thì khéo léo giấu đi. Nô tỳ… thực sự chẳng còn đường nào nữa…”

    Quách thục phi rít lên cắt lời ả: “Nói gì thì nói, trâm Cửu loan vẫn nằm trong tay ngươi đúng không? Ngươi lòng vòng phân bua nãy giờ, còn không mau khai ra rốt cuộc đã dùng nó sát hại công chúa thế nào?”

    “Thục phi nương nương, nô tài hiểu nỗi lòng nương nương, nhưng sự việc phải nói từ đầu mới được, bằng không làm sao vạch rõ chân tướng?” Hoàng Tử Hà xen vào rồi thở dài: “Công chúa bị đâm trúng tim chết ngay, rất ít có khả năng giãy giụa. Vậy mà một cây trâm ngọc như trâm Cửu loan, vừa đâm vào ngực đã gãy đôi, thực khiến người ta kinh ngạc. Bởi vậy nô tài đoán rằng nó đã gãy lìa ngay khi bị thả từ nắp rương xuống, dù Thùy Châu cẩn thận trải vải lót bên dưới, có phải không?”

    Thùy Châu khóc không ra tiếng, chỉ gật đầu, hồi lâu mới kể tiếp: “Nô tỳ thực không ngờ công chúa lại canh cánh bên lòng việc cây trâm biến mất, đến nỗi bệnh cũ tái phát, trị mãi không khỏi như vậy. Nhân lúc việc canh phòng và lục soát lơi lỏng đôi chút, nô tỳ lập tức chạy tới kho lấy trâm, định lén lút trả về cho công chúa. Nào ngờ… khi rút cây trâm từ sau cái rương ra, nó đã gãy đôi từ lúc nào!”

    Nói đoạn, ả đưa mắt nhìn lướt qua mọi người trên công đường, rồi dừng ở Tiền Quan Sách, vẻ hoang mang: “Nô tỳ… nô tỳ bấy giờ sợ đến đứng tim, nắm chặt lấy cây trâm gãy đôi chẳng khác gì nắm lấy sợi dây thừng tròng vào cổ mình… Theo lời hẹn, tối hôm đó nô tỳ đem cây trâm đến cửa ngách giao cho người nọ, nhưng khi đưa cây trâm vào tay hắn, nô tỳ chợt thấy kinh hoàng tột độ, cảm giác như sắp bị người ta kéo xuống vực sâu vậy. Chẳng hiểu vì sao… nô tỳ thình lình nắm chặt lấy đầu trâm hỏi, ông rốt cuộc là ai?”

    Kẻ bịt mặt kia không đáp mà giật phắt lấy cây trâm, nào ngờ trâm đã gãy đôi nên hắn chỉ giật được phần đuôi, còn đầu trâm vẫn nằm trong tay Thùy Châu. Ả nắm chặt đầu trâm, quay ngoắt người chạy vào trong, kẻ kia không dám đuổi theo, bèn vội vã lẩn vào một con ngõ nhỏ cạnh đó chuồn thẳng.

    Lạc Bội thất thanh chen vào: “Nhưng… nếu kẻ đó chỉ lấy được đuôi trâm thì vì sao giữa đám đông chen lấn, công chúa lại có thể nhận ra cây trâm Cửu loan từ khoảng cách xa như thế? Công chúa đâu thể nhận ra nửa cây trâm gãy từ xa thế được?”

    Thùy Châu lắc đầu quầy quậy, khóc òa lên: “Không biết… Không biết nữa! Lúc công chúa bảo vừa thấy trâm Cửu loan, nô tỳ sợ đến nỗi tim suýt vọt ra ngoài, cứ ngỡ… cứ ngỡ công chúa đã phát hiện ra việc mình làm. Nào ngờ công chúa lại chỉ vào đám đông mà nói. Bấy giờ nô tỳ thầm nhủ, không thể nào, phần đầu trâm vẫn đang giấu trong ngực áo nô tỳ mà… Bởi vậy nô tỳ ra sức ngăn cản công chúa đừng đuổi theo, nào ngờ, lúc ấy tình hình hỗn loạn, cuối cùng công chúa vẫn… vẫn…”

    Thùy Châu một lần nữa nghẹn lời, phủ phục dưới đất khóc rống lên.

    Mọi người đợi được nhưng hoàng đế đã hết kiên nhẫn, phải nghiến răng nén giận, quát lớn: “Ngẩng lên! Nói rõ đầu đuôi cho trẫm nghe!”

    Thùy Châu vừa đau đớn vừa sợ hãi, giơ tay ôm lấy ngực gắng nặn ra tiếng, giọng khản đặc, gần như không thể nói thành lời: “Thưa vâng, nô tỳ… nô tỳ và mọi người bổ đi tìm công chúa, chợt thoáng thấy bóng kẻ đó! Tuy không biết mặt hắn, nhưng nô tỳ vẫn nhớ rõ chiếc mũ lá… hơn nữa, còn thấy hắn kéo công chúa chạy đến bờ tường vắng vẻ… Nô tỳ liều mạng chen qua đám đông chạy đến, nhưng… nhưng đã muộn, lúc nô tỳ tới nơi, chỉ kịp trông thấy công chúa gục xuống…”

    Nhắc đến cảnh tượng hôm ấy, sắc mặt Thùy Châu tái xanh, như thể lúc đó cây trâm đã đâm vào chính ngực ả, lấy đi mạng sống của ả vậy: “Nô tỳ… bàng hoàng chạy đến thì thấy… thấy phần đuôi trâm găm trên ngực công chúa! Nô tỳ… kinh hãi tột độ, thầm nghĩ nếu mình bị tình nghi, ắt sẽ bị khám người, tới lúc đó đầu trâm sẽ là tội chứng nô tỳ mưu hại công chúa! Bởi thế nô tỳ liều mạng chạy tới, nhân lúc quỳ xuống ôm chầm lấy công chúa thì lén lút ném luôn phần đầu trâm giấu trong ngực áo vào bụi cỏ, hòng khiến người khác tưởng rằng… có kẻ cầm trâm Cửu loan đâm công chúa, trong lúc công chúa giãy giụa, cây trâm mới gãy đôi… Nô tỳ thực sự không giết công chúa mà! Chỉ là nô tỳ làm sai một chuyện, rồi sai càng thêm sai, cuối cùng dẫn đến kết cục thế này…”

    Mọi người trên công đường lặng thinh, chẳng biết nên kinh ngạc hay nên than tiếc.

    Hoàng đế cũng thở hắt ra, cả người bải hoải như bị rút cạn sức lực. Ngài ngự hướng mắt sang Hoàng Tử Hà: “Ả nói thật không?”

    Hoàng Tử Hà đáp khẽ: “Muôn tâu, Thùy Châu nói thật. Lúc công chúa gục xuống, Thùy Châu cũng vừa mới chạy tới, bấy giờ Thùy Châu vừa bò vừa lết đến bên cạnh công chúa, đúng là không có cơ hội ra tay giết hại.”

    Hoàng đế ngửa đầu ra sau, chẳng buồn nhìn Thùy Châu, chỉ xua tay ý bảo lôi ả xuống.

    Đám nha dịch Đại Lý Tự lập tức trói gô hai tay Thùy Châu lại kéo ra ngoài. Thùy Châu bị lôi xềnh xệch ra ngoài, nhưng mắt vẫn trừng trừng nhìn Tiền Quan Sách, gào lên bằng giọng khan khan khản đặc vì khóc quá nhiều: “Tiền Quan Sách, cả cuộc đời tôi… từ đầu đến cuối, đều bị ông hủy hoại! Tôi có chết… cũng không tha thứ cho ông đâu!”

    Nghe vậy, hoàng đế bỗng giơ tay ngăn đám nha dịch lại.

    Thùy Châu rũ rượi gục xuống đất, giơ hai tay gào lên: “Ông xem, vết bớt trên tay tôi mất rồi, vì sao hả? Vì bảo vệ công chúa, tôi đã bị bỏng từ cổ đến tận khuỷu tay, vết bỏng lở loét ra, sốt cao mấy ngày không hạ, suýt thì mất mạng, mới được công chúa rủ lòng thương, điều đến làm thị nữ hầu hạ bên cạnh! Thuở nhỏ công chúa có một con chó sứ từ ngoài cung đưa vào, không cẩn thận đánh vỡ, bị mảnh vỡ cứa đứt tay, hoàng thượng và thục phi nương nương cho là tôi hầu hạ không chu đáo, phạt tôi quỳ trên mảnh sứ vỡ suốt đêm, đến lúc hôn mê ngã lăn ra mới được tha … Lúc đầu gối tôi tơ tướp máu, ông ở đâu hả? Lúc tôi bị bỏng, ông ở đâu hả? Lúc tôi sốt cao suýt chết, ông ở đâu hả? Ông bán tôi đi, lấy tiền khởi nghiệp, về sau cắn rứt lương tâm nên mới vờ vịt đi tìm, lại hủy hoại nốt chút hạnh phúc cuối cùng của tôi!!!!”

    Lồng ngực ả phập phồng dữ dội, nước mắt lăn dài, nghẹn ngào thở gấp, không nói tiếp được nữa.

    “Là cha…” Tiền Quan Sách nhìn con gái, ngập ngừng hồi lâu mới lên tiếng, giọng khản đặc. Vừa buột ra hai tiếng, hắn bỗng ngưng lại nghĩ ngợi rồi khó nhọc đổi giọng: “Là ta… không phải với con, Hạnh nhi… là ta có lỗi với con…”

    Đến đây, Tiền Quan Sách cũng nghẹn lời, rồi bật khóc rống lên. Hắn vốn xấu xí, vừa béo vừa lùn, giờ lại khóc lóc thảm thiết khiến gương mặt nhăn nhúm lại, trông càng xấu xí tợn. Nhưng chẳng ai còn tâm tư mà chế nhạo, tất cả đều lặng thinh nhìn hai cha con họ.

    Cuối cùng hoàng đế lên tiếng, phá tan bầu không khí im lặng: “Linh Huy sinh thời, ngươi một lòng hầu hạ. Giờ tuy phạm phải lỗi lớn, xong trẫm vẫn niệm tình khai ân, cho ngươi xuống dưới đó tiếp tục hầu hạ công chúa.”

    Thùy Châu nghiến răng nhắm nghiền mắt lại, không nói gì thêm, cũng chẳng buồn nhìn mọi người trên công đường, mặc cho đám sai dịch lôi đi.

    Thấy ả như vậy, Quách thục phi căm uất phản bác: “Thùy Châu là một trong những kẻ đầu sỏ gây ra cái chết của Linh Huy, giờ sau khi chết còn có thể theo hầu công chúa, sao bệ hạ lại rộng lượng với nó thế!”

    Chẳng ai phụ họa, cũng chẳng ai đáp lời phi.

    Ngay cả Tiền Quan Sách cũng chỉ đờ đẫn quỳ ở đó, trên gương mặt tái ngắt là hai hàng nước mắt ròng ròng, cơ hồ không bao giờ dứt.

    Hoàng đế ra hiệu cho đám sai dịch đưa cả họ Tiền ra, rồi ngoái lại nhìn Hoàng Tử Hà, tay phải siết chặt thành nắm đấm, gân xanh nổi gồ lên, trông rất đáng sợ, hệt như những thớ thịt giần giật trên mặt ngài ngự hiện giờ: “Vậy, kẻ xui khiến Thùy Châu đánh cắp trâm Cửu loan rồi dùng nó sát hại công chúa, rốt cuộc là ai?

    Hoàng Tử Hà lặng lẽ khom người hành lễ với hoàng đế, nghiêm trang nói: “Chỉ dựa vào nửa đoạn trâm gãy, đương nhiên công chúa không thể nhận ra trâm Cửu loan. Nhưng có một kẻ rất giỏi làm những rồng phượng hoa lá sống động như thật, trong một đêm, thừa sức tạo ra phần đầu trâm giả để gắn vào.”

    Chu Tử Tần lắc đầu: “Sùng Cổ, không được đâu. Dù là thợ ngọc lành nghề nhất, làm quấy quá thật nhanh cũng phải mất mấy ngày mới xong một cây trâm, huống hồ lại là loại trâm cỡ lớn, nhiều chi tiết rườm rà như trâm Cửu loan. Hơn nữa, hắn tìm đâu ra khối ngọc chín màu như thế?”

    Hoàng Tử Hà phản bác: “Cứ gì phải dùng ngọc? Dù sao công chúa cũng chỉ nhìn thoáng qua, lại giữa đám đông chen lấn, dùng một khối sáp phối màu thật khéo là đủ, trong chốc lát công chúa đâu thể nhận ra? Nếu dùng sáp nến làm một cây trâm ngọc, thì một đêm là thừa đủ.”

    Cả công đường lặng ngắt như tờ, mọi ánh mắt đều dồn vào Lữ Chí Nguyên.

    Quách thục phi vừa chậm rãi lắc đầu vừa cụp mắt xuống, nước mắt đau đớn và bất lực lăn dài.

    Hoàng đế trừng trừng nhìn Lữ Chí Nguyên hồi lâu rồi loạng choạng lùi lại hai bước, ngồi phệt xuống ghế, không thốt lên lời, chỉ biết dùng ánh mắt căm hận găm vào người họ Lữ.

    Còn Lữ Chí Nguyên chỉ thẫn thờ nhìn ra bầu không bên ngoài, lặng im không nói.

    Từng nếp nhăn trên mặt lão chẳng khác những rãnh nứt chằng chịt vì xói mòn trên phiến đá. Lão dõi mắt nhìn ra ngoài, như đang nhìn theo đứa con gái càng chạy càng xa, xa khỏi lão, xa khỏi thành Trường An đáng sợ này mà không hề biết mọi chuyện lão đã làm cho nó.


    Có lẽ, Tích Thúy sẽ vĩnh viễn không biết được người cha mà nàng từng oán từng hận đã làm những gì cho nàng.

    Hoàng Tử Hà nhìn Lữ Chí Nguyên, lòng ngổn ngang trăm mối, xong cuối cùng vẫn lên tiếng: “Ta hiểu lão muốn báo thù cho con gái. Nhưng lão không nên kéo cả người vô tội vào, chỉ để che giấu cho mình.”

    Thôi Thuần Trạm nhân đó dè dặt hỏi ý hoàng đế: “Tâu thánh thượng, có cần dùng hình để Lữ Chí Nguyên mau khai ra không?”

    “Khỏi cần, thảo dân nhận tội… Chính thảo dân đã giết Ngụy Hỷ Mẫn, Tôn ghẻ và Đồng Xương công chúa.” Lữ Chí Nguyên cắt lời Thôi thiếu khanh.

    Không khí trên công đường vốn đã ngột ngạt, nay cũng chẳng hề nhẹ nhõm đi nhờ hành động này của lão, trái lại càng bức bối hơn.

    Hoàng Tử Hà thở dài: “Trong vụ này, tuy Đồng Xương công chúa cũng gián tiếp tạo nên bi kịch của con gái lão, nhưng công chúa chỉ vô ý, hơn nữa lại là người hiển quý, sao lão vẫn quyết ra tay?”

    “Thực ra… thảo dân không định giết Đồng Xương công chúa. Đúng như công công nói, công chúa không cố ý hại con bé. Nhưng chẳng hiểu sao, chẳng hiểu sao Tích Thúy lại đến Đại Lý Tự đầu thú, nhận mình giết người. Thảo dân không thể trơ mắt nhìn tính mạng con gái nguy ngập trong sớm tối, càng không thể đi đầu thú để liên lụy tới nó!” Lữ Chí Nguyên ngẩng đầu hít một hơi thật sâu, rồi gắng gượng nói tiếp, “Bấy giờ thảo dân mới nghĩ đến Đồng Xương công chúa, cho rằng mọi chuyện đều từ công chúa mà ra, có lẽ cũng chỉ công chúa mới cứu được Tích Thúy. Thảo dân bèn xui khiến Thùy Châu trộm lấy trâm Cửu loan, nào ngờ ả chỉ đưa cho thảo dân nửa đoạn trâm gãy. Nhưng thảo dân từng trông thấy trâm Cửu loan, lại đoán chắc Thùy Châu không dám đem nửa cây trâm gãy trả cho công chúa, liền dùng sáp nến làm thành nửa đoạn trâm giả gắn vào, nhìn từ xa cũng khó mà phân biệt.”

    Hoàng Tử Hà lại hỏi: “Dường như lão khá thông thuộc mọi chuyện trong phủ công chúa, là Đậu Khấu kể với lão phải không?”

    “Đúng vậy, Đậu Khấu rất ít qua lại với nhà thảo dân, nhưng mẹ Tích Thúy dẫu sao cũng là chị ruột dì ấy. Đầu năm nay, lúc thảo dân đến viếng mộ Xuân Nương thì gặp dì ấy. Thảo dân biếu Đậu Khấu ít hương liệu, nhưng dì ấy nói theo lệ trong phủ công chúa, hễ được người ngoài tặng cho thứ gì quý hiếm, đều phải trình lên công chúa, bên cạnh công chúa còn có tên Ngụy Hỷ Mẫn rất tham lam, lại mắc chứng đau đầu, thấy hương liệu ắt sẽ chiếm làm của riêng, nhất là loại có tác dụng an thần.”

    “Nhưng lão làm sao biết được chuyện công chúa nằm mơ đánh mất trâm Cửu loan?”

    “Hôm ấy Ngụy Hỷ Mẫn đến tiệm, bị thảo dân dùng mê hương làm ngất đi rồi trói gô lại. Trong lúc mơ màng, y tưởng mình đã rơi xuống âm tào địa phủ, sợ đến nỗi hỏi gì cũng cung cúc khai nhận. Thảo dân mới hỏi vài câu, y đã kể ra giấc mơ của công chúa, còn nói mình từng bắt gặp công chúa lén hẹn Tiền Quan Sách, khiến thảo dân liên tưởng tới việc gần đây Tiền Quan Sách đắc ý khoe khoang con cóc vàng ở khắp nơi, lại nghe nói thị nữ Thùy Châu trong phủ công chúa có vết sẹo trên tay, chính ả cũng dốc sức giúp công chúa giả trang đóng kịch cho thật đạt, bèn đoán rằng có lẽ Thùy Châu chính là con gái ruột Tiền Quan Sách.”

    Hoàng Tử Hà lặng lẽ gật đầu, nhưng hoàng đế đã giận giữ ngắt lời: “Đừng hỏi mấy chuyện vớ vẩn đó nữa! Trước hết mau khai ra ngươi giết hại công chúa thế nào!”

    Lữ Chí Nguyên cúi đầu đáp: “Thảo dân đem theo cây trâm giả, nấp bên ngoài phủ công chúa rồi bám theo xe ngựa đến tận phường Bình Khang. Sau đó đường tắc, công chúa phải xuống xe, rồi bị thảo dân dẫn dụ tới chỗ vắng. Thảo dân nhận rằng mình đã giết Ngụy Hỷ Mẫn và Tôn ghẻ, đồng thời kêu oan cho Tích Thúy, van nài công chúa rón tay cứu nó. Xong công chúa chẳng buồn để mắt đến thảo dân, chỉ nhìn bụi cỏ cười nhạt. Thảo dân bèn quỳ sụp xuống đất nài xin công chúa lệnh cho Đại Lý Tự thả Tích Thúy ra. Tiếc rằng công chúa đang bực bội, vừa mở miệng đã bảo cha con thảo dân liều liệu cọ cổ cho sạch mà đợi, còn nói… còn nói chẳng những ngươi phải chết, mà con gái ngươi cũng đừng hòng sống sót!”

    Nghe lão thuật lại phút cuối đời của Đồng Xương công chúa. Hoàng đế như thấy dáng vẻ kiêu ngạo ngang ngược của nàng hiển hiện ngay trước mắt. Đường nét sắc sảo mà mong manh, hệt như một tảng băng bất cứ lúc nào cũng có thể vỡ tan, xong vẫn hết sức cố chấp quật cường.

    Lồng ngực bỗng đâu thắt lại, cơ hồ ngạt thở, ngài ngự siết chặt lấy tay ghế, trừng trừng nhìn Lữ Chí Nguyên, xong không rặn ra nổi một chữ.

    “Bấy giờ thảo dân vô cũng hoảng hốt, nếu để công chúa đi thì cả thảo dân và Tích Thúy đều phải chết… Thảo dân đã giết hai kẻ thù, tuổi cũng cao, chẳng coi cái chết vào đâu nữa. Nhưng Tích Thúy… nó còn trẻ quá, như một nụ hoa mới nhú, sao có thể để nó chết chung với thảo dân?” Kể đến đây, Lữ Chí Nguyên kích động vung tay đấm ngực bồm bộp, như muốn nôn hết máu ứ bên trong ra, “Vào lúc ấy, vào lúc ấy, thảo dân chợt nghĩ… Những kẻ liên quan đến vụ này, đã chết mất hai… nếu công chúa cũng chết, trong khi Tích Thúy đang ở Đại Lý Tự, thì chẳng phải là bằng chứng chứng minh nó… vô tội sao?”

    Cả công đường im phắc, chỉ có giọng khan đặc của Lữ Chí Nguyên, nhưng lại khiến mọi người chẳng biết trả lời thế nào.

    “Nghĩ vậy, thảo dân bèn… đuổi theo, đâm nửa cây trâm vào ngực công chúa…”

    Quách thục phi gào lên điên dại, như muốn lao xuống vồ lấy Lữ Chí Nguyên. Đám hoạn quan và thị nữ đứng cạnh vội kéo phi lại, nhưng không ngăn được phi òa lên thất thanh: “Bệ hạ, Linh Huy… Linh Huy lại bỏ mình dưới tay hạng ti tiện này! Bệ hạ…”

    Hoàng đế dường như vẫn không nghe không thấy, chỉ ngây dại ngồi đó, mặc cho nỗi đau quá lớn nhấn chìm mình, đến mức không sao cử động được.

    Hoàng Tử Hà nói khẽ: “Lão Lữ, cả thành Trường An đều cho rằng lão khinh bỉ con gái, đuổi con ra khỏi nhà, lại còn tham tiền vô sỉ… Nhưng ta biết, lão làm tất cả những việc đó để bảo vệ Tích Thúy. Thực ra, ngay từ khi cô ấy bị Tôn ghẻ làm nhục, lão đã quyết tâm báo thù. Lão biết Ngụy Hỷ Mẫn là hoạn quan phủ công chúa, phủ công chúa nhất định sẽ che chở cho y, có báo quan cũng vô ích, chỉ còn một cách duy nhất là tự mình ra tay giết chết bọn chúng!”

    Cô dừng ánh mắt ở Trương Hàng Anh đang trợn trừng mắt ngạc nhiên, vẻ mặt bàng hoàng mà thê lương, thật lâu sau mới nói tiếp: “Nhưng lão hiểu, một khi chuyện này bại lộ, chẳng những lão phải chết mà con gái lão cũng bị liên lụy, không mất mạng thì lưu đày. Thế là từ ấy, lão bèn đuổi Tích Thúy đi. Lão ném cho cô ấy một sợi dây thừng, ép cô ấy đi tìm chết, thực ra là muốn mọi người thấy mình đã cắt đứt quan hệ với con gái, để cô ấy đi thật xa, khỏi dính dáng đến lão. Xong ta nghĩ nhất định lão đã lén bám theo cô ấy, bằng không sao có thể tìm đến đúng nhà họ Trương, để rồi bị Tích Thúy bắt gặp?”

    Lữ Chí Nguyên nghiến răng, ấp úng: “Thảo dân… từng lén lút đến nhà họ Trương nhìn nó mấy lần, tuy đã hết sức cẩn thận, nhưng vẫn bị Tích Thúy phát hiện… Thảo dân đành lấy cớ đến đòi tiền sính lễ, nghĩ bụng nhà họ Trương chắc không lấy đâu ra từng ấy tiền, mong rằng Tích Thúy có thể rời khỏi kinh thành, cao chạy xa bay là tốt nhất. Nào ngờ nó ngốc nghếch đến thế, một mực cho rằng thảo dân là hạng sài lang, còn trộm bức tranh gia bảo nhà họ Trương đưa cho thảo dân, thay mười quan sính lễ. Thảo dân bảo không đáng, nó mới giảng giải, bức tranh đó mô tả ba cái chết. Thấy hình vẽ đầu tiên là một người bị trời giáng sấm sét trừng phạt, thảo dân nhớ ngay đến Ngụy Hỷ Mẫn vừa bị sát hại. Thế nên đến vụ Tôn ghẻ, nghe nói hắn cả ngày đóng cửa ru rú trong nhà không ra ngoài, lại được hình vẽ thứ hai gợi ý, thảo dân trộm nghĩ, tường đồng vách sắt kiên cố đến đâu cũng phải có sơ hở, huống hồ năm xưa thảo dân ở trong đội cung nỏ, học được chút tài vặt, vừa hay có thể áp dụng. Còn hình vẽ thứ ba…”

    Nói tới đây, giọng lão đã khản đặc, không tiếp tục nổi nữa.

    “Tích Thúy gặp phải chuyện đó… chúng ta đều xót xa. Có điều công chúa chỉ vô ý phạm sai lầm, cả nhà họ Tiền cũng là người vô tội, lão thực không nên kéo họ vào.” Hoàng Tử Hà thở dài, “Lão che giấu khéo quá, không chỉ lừa chúng ta, mà còn gạt được cả con gái ruột, ta rất khâm phục.”

    “Có lẽ… vì thảo dân thường ngày cũng xử tệ với Tích Thúy.” Giọng Lữ Chí Nguyên khản đặc. Lão thẫn thờ nhìn dán vào một điểm hư không, như thấy con gái đứng ngay trước mặt, như những kẻ sắp lìa trần lưu luyến thứ duy nhất còn sót lại bên mình, dùng ánh mắt nâng niu ước lượng từng tấc trên gương mặt hư ảo của con gái. Hoàng Tử Hà nghe thấy lão lẩm bẩm như nói mớ: “Lúc nó chào đời đã chẳng được lão yêu thương… Tích Thúy sinh non, Xuân Nương sinh nó ra thì băng huyết qua đời, lão cứ ôm đứa con đỏ hỏn, ngồi bên giường đờ đẫn nhìn gương mặt Xuân Nương từ từ trắng bệch ra, rồi từ từ tím ngắt lại…”

    Bấy giờ, lão cúi đầu nhìn đứa bé khóc oe oe trong lòng, thầm nghĩ, chính vì con nhãi nhăn nheo này mà vợ lão phải chết. Lão chỉ muốn ném ngay nó xuống đất, đổi lấy mạng sống cho Xuân Nương.

    Nhưng đứa nhỏ sinh non nhỏ xíu, èo uột nằm trên cánh tay lão như một con mèo con lại không ngừng khóc oa oa, gương mặt bé tẹo hồng hồng nhăn nheo như con ếch, xấu xí vô cùng, cũng bấy bớt vô cùng, khiến lão đành ôm chặt lấy nó, vùi mặt vào bọc tã của nó mà khóc nức lên.

    Lão nghèo khổ từ bé, lớn lên lại tòng quân suốt mười năm, hơn ba mươi tuổi mới gặp được một người bằng lòng gả cho mình. Sau khi kết hôn, đôi bên rất thắm thiết nồng nàn, nhưng Xuân Nương mãi chẳng hoài thai. Họ lễ bái cầu khấn khắp nơi, cuối cùng cũng có một đứa con, nào ngờ đứa trẻ vừa ra đời đã cướp đi mạng sống của người mà lão ngỡ sẽ bầu bạn đến già.

    Đáng ghét nhất, nó lại là con gái.

    Con trai vứt vào bụi cỏ cũng lớn được, nhinh nhỉnh một chút là có thể dắt theo xuống suối bắt cá, lên núi bắn chim. Còn có thể uống rượu cùng lão, làm việc cùng lão, bừng bừng nhiệt huyết như lão, thế mới là đàn ông con trai. Rồi đến một ngày, nó sẽ cường tráng hơn, khỏe mạnh rắn rỏi hơn cả lão.

    Nhưng lão chỉ có đứa con gái mong manh như một nụ tường vi, sểnh ra là bị gió xuân vùi dập. Lão đành nhờ thím Ngô hàng xóm tắm rửa cho nó, hậm hực đi giặt cái quần nó đái dầm, vụng về tết cho nó một bím tóc xấu xí… Tích Thúy lớn lên từng ngày, từ đứa trẻ sinh non nhăn nheo xấu xí như con ếch bị lột da, dần dần trở thành thiếu nữ thanh tú xinh đẹp. Điều này càng khiến lão lo lắng, chẳng rõ cuối cùng kẻ nào sẽ bẻ mất nụ tường vi của lão, trồng vào chậu nhà người, rồi từ đó về sau, dẫu nó nở rộ hay héo tàn, lão cũng chẳng thể che chở nữa.

    Ai bảo Xuân Nương chỉ sinh được một đứa con gái? Xem ra số mệnh đã định, chờ đợi lão là tuổi già cô quạnh đìu hiu. Tính tình lão càng lúc càng khó chịu, càng ngày càng hay quát mắng con bé, càng ngày càng ngưỡng mộ những nhà sinh được con trai.

    Suốt mười bảy năm lão gà trống nuôi con, từ một hòn máu đỏ hỏn chưa đầy hai cân, nuôi đến thành một cô gái xinh đẹp ngoan ngoãn, vừa chăm chỉ lại biết quan tâm, nhọc nhằn vất vả biết là bao, người ngoài đâu thể tưởng tượng được. Lúc Tích Thúy sốt cao, lão từng trông nom nó suốt đêm này qua đêm khác chẳng hề chợp mắt, lúc Tích Thúy theo chúng bạn ra ngoài chơi, lão cũng từng đứng đầu đường đợi con bé về là lao vào mắng mỏ; khi đến viếng mộ Xuân Nương, thơ thẩn nhổ cỏ dại quanh mộ, lão thường rầm rì kể: con bé lớn lên giống bà như đúc…

    Lão cũng từng tìm vợ, hòng sinh một đứa con trai, nào ngờ bà ta lại ngược đãi Tích Thúy sau lưng lão, cuối cùng lão đành mượn rượu giả điên đuổi đi. Bấy giờ lão ngoài năm mươi, cũng đã nguội lòng. Lão thầm nghĩ, có lẽ sẽ ở vậy tới già, một mình một bóng, đến khi chết thì dặn Tích Thúy chôn cất mình bên cạnh Xuân Nương, thế là cũng qua một đời uất ức và khiếp nhược.

    Thời gian thấm thoắt, chỉ chớp mắt mà đứa bé gái nõn nà như cục bột, mới ngày nào ê a học nói, ngọng nghịu gọi cha, đã trở thành thiếu nữ biết cài lan trắng vào búi tóc, tha thướt yêu kiều, không ít gã trai trẻ phải mượn cớ mua nhang đèn lân la tới tiệm của lão để ngắm nó.

    Lão vừa lo lắng, vừa mừng rỡ, kiếm cớ soi mói bắt bẻ đuổi hết bà mai này đến bà mai khác đi, vì cảm thấy chẳng ai xứng được với con gái lão.

    Nào ngờ đứa con gái cả ngày ríu rít nói cười, chỉ tới phủ công chúa giao hương đèn một chuyến mà tan nát một đời.

    Tôn ghẻ đi khắp nơi rêu rao chuyện đó, cả thành Trường An cũng rôm rả thảo luận về nỗi bất hạnh của con gái lão. Lão phải để mắt đến Tích Thúy từng giờ từng khắc, phát hiện được nó lén giấu một cái giá nến, định đi tìm Tôn ghẻ liều mạng, bèn giật lấy giá nến, cho nó một bạt tai chảy máu.

    Đó là lần duy nhất lão đánh Tích Thúy, từ sau khi nó trưởng thành.

    Chẳng ai biết, lúc ấy lòng lão đã quyết.

    Lão phải bảo vệ con gái, phải lấy máu đền nợ máu, rửa sạch mối nhục cho Tích Thúy; lão phải xua tan cơn ác mộng của con bé, để nó được tái sinh.

    “Con gái của hoàng đế chỉ cần bực bội là có thể tùy ý an bài số mệnh của con gái lão, đẩy con bé vào địa ngục, dựa vào cái gì chứ?” Đôi dòng nước mắt đục ngầu lăn dài trên gò má nhăn nheo của Lữ Chí Nguyên, nhỏ xuống nền gạch xanh. Lão nói rất khẽ, gần như lẩm bẩm một mình, “Lão nuôi nó mười bảy năm, mười bảy năm, từ một đứa bé đỏ hỏn thành đứa con gái chăm chỉ ngoan ngoãn… Cả đời này lão chỉ có một mình nó, lão là một thợ thủ công hèn mọn, không thể cho nó nhà cao cửa rộng, quyền thế nghiêng trời, vinh hoa phú quý… Nhưng dù liều cái mạng già này, lão cũng phải bảo vệ con bé sống một đời yên ổn!”

    Hoàng Tử Hà chợt thấy máu nóng cuộn lên trong ngực, khóe mắt cay sè. Cô gắng kìm nước mắt, nhưng không ngăn được hình bóng cha mình hiện lên.

    Thuở còn ở Thành Đô, có lần cô bị cha mắng mỏ, bèn giận dỗi bỏ cơm. Mẹ bưng canh đến dỗ cô ăn, xong cô cứ nguây nguẩy ngoảnh mặt đi, nào ngờ lại bắt gặp cha đang đứng sau gốc cây ngoài sân, âm thầm quan sát mình.

    Bị cô trông thấy, cha tức thì quay đi, vờ như chỉ tình cờ ngang qua, rồi thong thả đi tiếp.

    Đến tận bây giờ cô vẫn nhớ hình ảnh cành cây đổ bóng xuống mình cha, tuy lúc ấy chẳng thèm để tâm, xong hồi tưởng lại thấy rành rành trước mắt, như thể cái bóng ấy không đổ xuống người cha, mà đã được vẽ vào tâm khảm cô bằng máu tươi.

    Chẳng biết cô đã thẫn thờ bao lâu, đến khi Lý Thư Bạch chạm nhẹ vào người, mới định thần lại được.

    Chỉ thấy Lữ Chí Nguyên quỳ dưới công đường, đã bị gông lại.

    Thôi Thuần Trạm đập bàn, ngừng lại một lát mới hỏi: “Kẻ quỳ dưới kia, ngươi giết hại Đồng Xương công chúa, hoạn quan Ngụy Hỷ Mẫn ở phủ công chúa cùng Tôn ghẻ, người ở phường Đại Ninh trong kinh, nhân chứng vật chứng đầy đủ, có chịu nhận tội hay không?”

    “Thảo dân nhận tội.” Giọng lão rành rõ, quả quyết.

    Thôi Thuần Trạm nhìn ra phía sau, thấy hoàng đế vẫn ngồi bất động trên ghế, lồng ngực phập phồng dữ dội, bèn quay lại hỏi Lữ Chí Nguyên: “Ngươi còn gì để nói nữa không?”

    Lữ Chí Nguyên lặng thinh.

    Trương Hàng Anh đứng chếch phía sau lão mở to mắt, đợi lão ngoái lại nói với mình vài lời gửi gắm con gái.

    Nhưng không hề, cuối cùng Lữ Chí Nguyên chỉ lặng lẽ lắc đầu.

    Thôi Thuần Trạm lại nhìn hoàng đế, ngài ngự sắc mặt tái nhợt, nhưng hơi thở đã bình ổn hơn, mấp máy môi buống ra ba chữ: “Xử lăng trì.”

    Thôi Thuần Trạm ngẩn người, còn chưa kịp cất giọng thì nghe “bịch” một tiếng, Lữ Chí Nguyên đã ngã lăn ra, mặt mày tím tái.

    Trong tiếng xôn xao nhốn nháo, Chu Tử Tần chạy đến trước tiên, nhanh nhảu đặt tay lên mũi họ Lữ thăm hơi thở rồi vạch miệng lão ra, sững sờ.

    Hoàng Tử Hà vội hỏi: “Sao thế?”

    “Có lẽ lão đã giấu sẵn viên sáp độc trong miệng, chẳng biết cắn vỡ nó từ lúc nào, giờ thì… không cứu được nữa rồi.”

    Hoàng Tử Hà thẫn thờ ngồi xuống, nhìn gương mặt tím ngắt của lão, nín lặng.

    Chu Tử Tần liếc cô nói khẽ: “Thế này cũng tốt.”

    Hoàng Tử Hà thở dài, đứng dậy hồi bẩm hoàng đế. Hoàng đế vừa nghe nói liền siết chặt tay ghế, gân xanh trên tay gồ lên, quát lớn: “Chết rồi ư? Chết như thế làm sao trẫm hả giận cho được!”

    Quách thục phi khóc lóc: “Bệ hạ, chẳng phải hắn còn một đứa con gái đấy sao? Hạng ác độc này… phải khiến hắn chết không nhắm mắt!”

    Hoàng đế nghe vậy thét to: “Con gái lão đâu? Lão ta trốn tội thì trẫm bắt con gái lão chịu thay!”

    Chu Tử Tần sợ đến giật bắn người, may sao Hoàng Tử Hà phản ứng nhanh đã kéo giật gã lại, ra hiệu bảo gã đừng cử động.

    “Bệ hạ…” Thôi Thuần Trạm run rẩy thưa, “Vừa rồi… cô gái ngất xỉu bị bệ hạ sai người đưa ra ngoài, chính là Lữ Tích Thúy con gái phạm nhân.”

    Bấy giờ hoàng đế mới sực nhớ ra, đùng đùng nổi trận lôi đình, hiềm nỗi ý chỉ là do chính mình ban, ngài ngự chẳng có chỗ nào trút giận, đành giũ áo thật mạnh, quát lên: “Mau bắt về đây! Dù lật tung cả kinh thành, cũng phải bắt được ả!”
     
  7. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 23 - Hoàng hôn Đại Đường
    Cổng Chu Tước, thành Trường An.

    Dòng người nườm nượp nối nhau ra vào cổng thành. Già trẻ trai gái, sĩ nông công thương qua lại như thoi đưa.

    Tích Thúy hòa vào dòng người, cúi đầu ủ rũ ra khỏi thành.

    Đúng lúc nàng bước qua cổng thành, phía sau chợt có người thúc ngựa chạy đến la lớn: “Vệ binh canh cổng Chu Tước chú ý! Hoàng thượng có chỉ, lập tức truy lùng một cô gái trẻ tên Tích Thúy, cao năm thước hai tấc, mặc váy lụa xanh nhạt, nếu phát hiện đưa ngay về Đại Lý Tự!

    Đám vệ binh nhất nhất vâng dạ, có người hỏi lại: “Cô ta phạm tội gì mà phải giao cho Đại Lý Tự vậy?”

    Tích Thúy xách gấu váy lên, cắm cúi đi thẳng, những mong mình lẫn vào đám đông, không bị phát hiện ra.

    Viên quan thông báo liền đáp: “Đại Lý Tự cái gì? Là khẩu dụ của thánh thượng đấy! Nghe nói cha ả liên quan tới cái chết của Đồng Xương công chúa nên thánh thượng muốn xử trảm cả nhà!”

    Có kẻ ngông nghênh hỏi vặn: “Thánh thượng mất con gái nên không cho con gái hung thủ sống chứ gì?”

    “Lời này mà cũng dám nói ra? Ngươi không cần mạng nữa à?” Bên cạnh có người quát khẽ.

    Kẻ kia tức thì rụt cổ lại, không dám nói nữa.

    Tích Thúy đứng giữa đám đông, nghe những lời xì xào bình luận xung quanh, lại ngỡ ngàng nhớ đến cha mình.

    Người cha luôn hắt hủi vì nàng là phận gái, từng nói lúc nàng còn nhỏ xíu, con bé này thì được tích sự gì, lớn lên lại cuốn gói theo trai, để cha mày lủi thủi một mình thôi.

    Khi nàng bị bọn trẻ khác bắt nạt, khóc lóc chạy về, cha lúc nào cũng hậm hực mắng: “Con gái con đứa chẳng được tích sự gì, chúng đánh cho cũng không dám đánh trả.” Nhưng mấy hôm sau gặp lại, đám trẻ đó không dám bắt nạt nàng nữa, đến tận bây giờ nàng vẫn không hiểu vì sao.

    Nàng mồ côi mẹ, từ nhỏ đã bắc ghế đứng lên nấu cơm cho cha. Cha ăn nhưng chẳng bao giờ khen nửa câu. Một hôm nàng theo mấy cô bạn gái đi dâng hương, lúc về phát hiện mấy chiếc bánh thím Ngô hàng xóm đưa sang cha chẳng buồn động đến. Cha bảo nuốt không trôi.

    Cha luôn muốn có con trai, coi nàng như tội nợ. Nhưng bấy nhiêu năm nay, đồ ăn thức mặc của nàng chẳng thua bè bạn nửa phân. Cha luôn nói con gái phải ăn mặc cho tươm tất, lúc gả đi mới đòi được thêm ít tiền sính lễ, xong có lúc nàng nghĩ, những đắng cay cơ cực cha chịu đựng mười mấy năm nay, có bao nhiêu sính lễ cũng chẳng bù lại được.

    Cha nàng tính tình cộc cằn cố chấp, cả đời không nói được câu nào mềm mỏng, làm được việc gì nhẹ nhàng, càng không biết phải xây đắp một gia đình đầm ấm thế nào.

    Nàng cứ thế lớn lên, có lúc cũng tủi thân vì mồ côi mẹ, có lúc cũng ao ước được như con nhà khác có cha chiều chuộng nâng niu, còn nàng, trừ cá tính quật cường cố chấp di truyền nguyên vẹn từ cha thì chẳng có gì.

    Sau khi gặp chuyện, cha lúc nào cũng nghĩ cách đuổi nàng đi, bất kể nàng vật nài năn nỉ ra sao. Cuối cùng nàng bị cha tống ra cửa.

    Nhưng khi Dương Sùng Cổ ghé tai nàng thốt ra chữ “đi” ấy, tựa như ảo giác, nàng chợt nghe thấy tiếng “cút” của cha khi ném cho nàng sợi dây thừng.

    Lúc ấy nàng đau đớn đến không thiết sống, chỉ hận không thể chết ngay trước mặt cha, vậy mà giờ nhớ lại, nước mắt lại cứ thế trào ra, không thể ghìm giữ.

    Tích Thúy chợt nghĩ, có lẽ từ lúc ấy, cha đã quyết thả nàng cao chạy xa bay, còn cha phải thay nàng rửa sạch tất cả thù hận, chính tay giết chết những kẻ làm hại nàng.

    Dưới ánh nắng gắt, Tích Thúy vừa khóc vừa ngơ ngác bước đi.

    Chẳng biết tương lai sẽ về đâu, cũng không rõ có thể đoàn tụ cùng người trong mộng nữa hay không, càng không biết cha mình rồi sẽ ra sao.

    Phía sau chợt nhốn nháo, rồi một toán lính thủ thành chạy về phía nàng. Kẻ cầm đầu gọi to: “Này cô kia, cô mặc váy xanh đó, đứng lại!”

    Tích Thúy biết mình đã bị phát hiện, trước mặt là đồng không mông quạnh, sau lưng là binh lính đuổi theo. Nàng có một thân một mình, còn có thể đi được đến đâu chứ?

    Trời đất mênh mông, lòng đà nguội ngắt.

    Tích Thúy dừng bước, chậm rãi quay đầu.

    “Tên gì?” Toán lính quát hỏi.

    Tích Thúy nhạt nhòa nước mắt, kinh hoàng nhìn họ, không dám lên tiếng.

    “Mặc kệ tên với họ, cô ta mặc váy xanh, tuổi chừng mười bảy mười tám, lại đi một mình, cứ bắt về rồi tính!”

    Toán lính xông đến toan bắt lấy nàng.

    Tích Thúy nhắm nghiền mắt, chỉ thấy nỗi thê lương và bi ai vô hạn trào dâng, trước mặt tối sầm lại.

    Đúng lúc toán lính tóm được cánh tay nàng thì một giọng nói ôn hòa mà trong trẻo vang lên: “Các vị bắt lầm người rồi.”

    Mọi người đổ dồn mắt về phía tiếng nói kia, chỉ thấy một thiếu niên thanh cao tuấn tú như trúc như lan, cưỡi trên con ngựa nâu vàng. Hắn vận áo tay hẹp màu thiên thanh, y phục rất đỗi bình thường, thớt ngựa cũng rất đỗi bình thường, nhưng vừa trông thấy gã, ai nấy đều thấy cả thế gian sáng bừng lên, như vầng dương ló rạng.

    Tích Thúy bất giác giật mình.

    Là hắn…

    Tuy mới gặp mặt một lần, nhưng ai mà quên được một kẻ xuất chúng nhường ấy? Huống hồ, hắn còn là ân nhân của nhà họ Trương. Chính là người tốt bụng đã ẵm A Bảo đi khắp các phường trong kinh tìm suốt hai ngày, cuối cùng mới đưa được nó về nhà.

    Người lính dẫn đầu cũng nhận ra hắn, vội chắp tay chào hỏi: “Chẳng phải Vũ học chính đấy ư? Học chính biết cô ta à?”

    Một tên lính bên cạnh hỏi nhỏ: “Vũ học chính này là ai thế?”

    “Lần trước ngươi không ở đó à? Chính là Vũ Tuyên Vũ học chính ở Quốc Tử Giám từng theo Quách thục phi và Đồng Xương công chúa ra ngoài đạp thanh(*) ấy! Lúc chúng ta ngăn xa giá lại kiểm tra, nếu không nhờ Vũ học chính nói đỡ thì thục phi nương nương và công chúa điện hạ đã nổi trận lôi đình, trừng trị cả đội lính canh rồi!”

    (*) Vào ngày tết Thanh minh tháng Ba, mọi người thường kéo nhau ra ngoài vừa là tảo mộ vừa là du xuân, gọi là hội Đạp thanh. Đạp thanh nghĩa là giẫm lên cỏ xanh.

    “À à! Vũ Tuyên thì ta từng nghe nói…”

    Chỉ huy lườm y, chặn đứng nửa câu sau rồi thản nhiên chắp tay hành lễ với Vũ Tuyên.

    Vũ Tuyên cũng xuống ngựa đáp lễ, đoạn giải thích: “Cô gái này tôi biết, là thị nữ trong phủ công chúa. Giờ công chúa đã qua đời, cô ta bị đưa ra ngoài.”

    Nói rồi hắn quay sang hỏi Tích Thúy: “Tuy nhà cô ở ngay ngoại ô, nhưng vẫn phải đi một quãng, sao chẳng thấy ai đưa?”

    Nhìn vào đôi mắt trong trẻo của hắn, Tích Thúy sực hiểu ra, hắn đang cứu mình.

    Chẳng biết nàng lấy đâu ra can đảm, ấp úng đáp: “Thì… thì đúng thế, hiện giờ công chúa… đã qua đời, trong phủ loạn cả lên, lấy đâu người đi đưa tôi nữa?”

    “Tôi cũng tiện đường, để tôi đưa cô một đoạn.” Hắn chắp tay từ biệt toán lính rồi ra hiệu cho cô lên ngựa.

    Viên thủ lĩnh vẫn ngập ngừng: “Vũ học chính, chuyện này…”

    “Sao vậy, đội trưởng Tra lo ngựa không chở nổi hai người, định cho tôi mượn ngựa hay sao?” Vũ Tuyên cười nói, “Có điều lần này tôi về Thành Đô, mượn ngựa thì không trả lại được đâu.”

    Nụ cười của y rạng rỡ như vầng dương, thanh khiết đến nỗi khiến người ta tự thẹn mình dơ bẩn. Viên chỉ huy bất giác nghi ngờ bản thân, vội cười khà đáp: “Vũ học chính qua lại… ừm… thân thiết với phủ công chúa, học chính đã nói đương nhiên là không sao rồi. Có điều mượn ngựa thì không được, ngựa của chúng tôi đều có dấu sắt nung của ty Quân mã, dù tôi dám cho mượn, Vũ học chính cũng chẳng dám cưỡi đâu, ha ha!”

    Vũ Tuyên mỉm cười vỗ nhẹ lên cổ ngựa: “Đã vậy thì tôi xin cáo từ.”

    Tích Thúy ngẩn ngơ lên ngựa, đi được chừng một dặm, không thấy bóng toán lính kia nữa, nàng mới phát hiện khắp người mình đầm đìa mồ hôi lạnh, lưng áo ướt sũng tự khi nào.

    Đi đến một bến sông, thấy mấy người đang vác hàng hóa lên thuyền, Vũ Tuyên ghìm cương ngựa hỏi: “Sau này cô định thế nào?”

    Tích Thúy sững sờ, rồi lặng lẽ lắc đầu.

    Hắn liền ra hiệu cho nàng xuống ngựa, rồi lấy trong tay nải hai quan tiền và một bộ quần áo, dặn dò: “Cô khoác lên đi đã, dù sao cũng đừng mặc bộ váy xanh này nữa. Tôi không đem theo nhiều tiền, chia đôi cho cô một nửa đấy. Nếu đi cùng tôi, cô rất dễ bị quan phủ lần ra, chi bằng lên thuyền này, đi được đến đâu thì đi đi.”

    Tích Thúy do dự, xong thấy hắn cứ chìa bộ đồ cùng xâu tiền trước mặt, nàng đành ngại ngùng nhận lấy, khẽ nói: “Đa tạ… ân nhân.”

    Vũ Tuyên chẳng nói thêm mà quay sang sắp lại tay nải rồi tung mình nhảy lên ngựa, “Đi đường cẩn thận, tôi xin từ biệt.”

    Tích Thúy ôm bọc áo đứng trước bến sông, nhìn theo bóng hắn đi xa dần, không nhịn được hỏi với theo: “Ân nhân, xin hỏi… vì sao lại cứu tôi?”

    Vũ Tuyên ghìm ngựa, ngoái lại nhìn nàng. Đôi mắt sáng trong thoáng vẻ ưu tư và thẫn thờ.

    Cuối cùng, hắn nén tất cả tâm tư lại, mỉm cười đáp: “Ở Đại Lý Tự, tôi từng thấy cô ẵm A Bảo, rất dịu dàng, cũng rất cẩn thận. Tôi nghĩ người thế này nhất định không phải kẻ xấu. Hy vọng về sau cô cũng có thể ẵm con mình như thế, sống một cuộc đời hạnh phúc.”

    Tích Thúy ngẩn ngơ ngẩng đầu nhìn hắn, nghẹn ngào lắp bắp: “Tôi, tôi chẳng biết liệu mình có ngày ấy hay không…”

    “Có chứ, trời cao không phụ người tốt đâu.”

    Nói đoạn hắn gật đầu với nàng rồi quay đầu ngựa đi thẳng.

    Tích Thúy nhìn theo bóng hắn, gắng kìm nước mắt. Nàng lẻn vào rừng trúc thay đồ rồi lên thuyền.

    Ông lái đang giục khách. Khách thương ai ôm hàng người nấy, ngồi ngổn ngang trên sàn, một bà lão vẻ mặt hiền từ vồn vã gọi nàng lại ngồi cạnh.

    Con thuyền đầy ắp rẽ sóng đi vào vùng nước sâu, lắc lư theo những nhành lau phơ phất mà tiến lên.

    Bộ đồ của Vũ Tuyên rất rộng, Tích Thúy phải xắn hết tay và vạt áo lên. Nàng ngồi trong khoang thuyền, tựa đầu vào khung cửa nan.

    Con thuyền lướt trên mặt nước lấp lánh như tơ lụa. Tích Thúy thẫn thờ nhìn ra mặt sông, từ từ hồi tưởng lại những người những việc quan trọng trong đời.

    Bất luận ra sao, những kẻ làm hại nàng đều đã bị trừng phạt, bóng tối bao phủ quanh nàng cũng dần dần tan đi. Nàng thầm nghĩ, nhất định phải sống, phải sống cho thật tốt.

    Vì Trương nhị ca, vì cả cha nàng.

    Giống như bao cô gái bình thường khác, rồi sẽ có một ngày nàng gặp lại người thương, bế đứa con của mình và người ấy, sống bình thản ung dung dưới ánh mặt trời, lãng quên hết thảy đớn đau.

    Phủ Quỳ vương, đài Chẩm Lưu.

    Cảnh Dục trở về bẩm báo: “Thưa gia, Lữ Tích Thúy kia… chẳng biết đi đâu mất rồi.”

    Lý Thư Bạch nhíu mày, đặt bút xuống hỏi: “Chẳng phải các người đã đi theo cô ta từ Đại Lý Tự hay sao?”

    “Vâng, nhưng ra đến ngoài thành, cô ấy lại bị chú ý. Nô tài đang nghĩ cách bảo vệ thì một người qua đường đã cứu cô ấy đi rồi.” Cảnh Dục phân trần, “Nô tài nhớ lời gia dặn phải hộ tống cô ấy rời khỏi kinh thành, nên khi thấy cô ấy lên thuyền, nô tài không đi theo nữa.”

    “Ừm, phủ Quỳ giúp được một lần nhưng chẳng thể lo cho suốt đời, để cô ta đi đi.” Nghe kể Tích Thúy đã thoát hiểm, Lý Thư Bạch liền nói.

    Cảnh Dục vâng dạ, nhưng vẫn chần chừ chưa lui ra. Lý Thư Bạch biết y vẫn còn lời muốn thưa, bèn lặng yên để y nói nốt.

    “Kẻ cứu Lữ Tích Thúy chính là Vũ Tuyên, học chính Quốc Tử Giám vừa từ chức.”

    Lý Thư Bạch trầm ngâm ừm một tiếng, chẳng phản ứng gì thêm.

    Cảnh Dục thông minh, lập tức hành lễ: “Nô tài cáo lui.”

    Lý Thư Bạch phẩy tay, cho Cảnh Dục lui ra, một mình ngồi ở đó. Dù bốn bề gió lộng, y vẫn thấy nóng hầm hập.

    Bất giác y đứng dậy, men theo chiếc cầu quanh co băng qua mặt hồ đầy sen nở, đi đến đại sảnh.

    Cảnh Thư trực nhật hôm nay đang ngồi trong sảnh bên, vừa hớn hở nói chuyện với Hoàng Tử Hà, vừa cùng cô bóc gương sen ăn.

    “Ái chà, Sùng Cổ này, nghe nói cậu sắp theo gia đến Thục hả? Đất Thục hay lắm, được xưng tụng là xứ sở thiên đàng đấy, nghe nói phong cảnh rất đẹp!”

    “Vâng, chắc không bao lâu nữa sẽ lên đường.” Cô chống cằm nhìn ra mặt hồ bên ngoài, đáp khẽ. Ánh mắt cô nhìn dán vào hư không, như đang ngắm kẻ xa tận chân trời mà gần ngay trước mắt kia.


    Lý Thư Bạch đứng ngoài cửa nhìn cô, lại nhớ Vũ Tuyên từng nói sẽ đợi cô ở Thành Đô.

    Vũ Tuyên.

    Người này hết sức phức tạp, chẳng biết phải hình dung thế nào nữa.

    Hắn bị tình nghi giết người, có lẽ cũng có liên quan tới cái chết của cha mẹ cô, xong tâm địa lại rất thiện lương, thường vô tư giúp đỡ những người hoạn nạn, chẳng cần báo đáp; hắn là trẻ mồ côi, luôn cố gắng vươn lên, nhưng đồng thời lại tự mình sa đọa, còn dây dưa với hạng người như Quách thục phi. Nếu nói hắn yêu Hoàng Tử Hà thì tại sao lại đem thư tình làm bằng chứng tố cáo cô, còn khăng khăng cho rằng cô là hung thủ; nếu bảo hắn hận cô, thì tại sao lại vứt bỏ tiền đồ bản thân, quay về Thành Đô đợi cô về rửa oan?

    Hai người trong phòng trông thấy y, vội đứng dậy bước ra đợi lệnh.

    Y bèn ra hiệu cho cô tháp tùng, men theo bóng liễu bên hồ mà đi.

    Gió sen lồng lộng thổi tung vạt áo hai người, tình cờ cuốn cả đôi vạt áo vào nhau, rồi lại thình lình tách ra.

    Lý Thư Bạch dừng chân dưới bóng liễu, ngắm nhìn một đóa sen nở rộ ngay gần đó, cuối cùng cũng gạt phăng ý nghĩ trong đầu đi, không nhắc tới chuyện Vũ Tuyên nữa.

    “Có vật này muốn cho ngươi xem.” Nói rồi, y dẫn cô đi về phía gác Ngữ Băng.

    Gác Ngữ Băng là phòng ấm, hiện giờ tiết trời nóng bức nên y không ở đó nữa. Vừa bước vào, không khí nóng bức bên trong đã khiến cho cả hai nhớ ngay đến nhà kho trong phủ công chúa.

    Lý Thư Bạch lấy từ ngăn kéo ra chiếc hộp có khóa cửu cung, mở ra rồi lại mở nốt chiếc hộp như đóa sen gỗ bên trong, lấy lá bùa đặt trước mặt cô.

    Hoàng Tử Hà chìa cả hai tay cầm lấy, không khỏi tròn mắt ngạc nhiên.

    Trên mảnh giấy dày dặn đã ố vàng, giữa những hoa văn quỷ dị làm nền, các chữ “côi góa tàn” vẫn tươi rói như mới. Xong trừ chữ “côi” được khoanh ngay từ đầu, quanh chữ “tàn” cũng đã lờ mờ một vòng đỏ.

    Suy yếu lụi tàn, gọi là tàn.

    Vòng tròn ấy vẫn nhạt màu, tựa hồ vừa nổi lên không lâu. Nhưng vệt đỏ khoanh lấy số mệnh ấy như hẵng còn ươn ướt, thoang thoảng mùi máu tanh, khiến người nhìn không rét mà run.

    Hoàng Tử Hà ngạc nhiên ngước nhìn y, giọng bất giác cũng run lên: “Vương gia… Cái này xuất hiện từ lúc nào?”

    “Không biết. Sau chuyện lập phi, khuyên đỏ quanh chữ ‘góa’ cũng mờ đi, ta lại bận bịu, chẳng còn tâm trí nghĩ đến nữa. Mấy hôm trước thấy bồn chồn không yên, sực nhớ tới nó, bèn lôi ra xem.” Y đặt tay lên lá bùa, vẻ kinh ngạc xong không hề sợ hãi, “Xem ra lại sắp có một trận phong ba khó tránh rồi.”

    “Gần đây có những ai ra vào gác Ngữ Băng?”

    “Nhiều đấy, từ Cảnh Dục, Cảnh Hữu đến đám người làm vườn, chạy vặt, huống hồ những ngày ta không ở đây, nếu có người đợi thị vệ tuần tra đi khỏi rồi lẻn vào, thì càng không kiểm soát nổi.” Lý Thư Bạch nhíu mày, “Phạm vi tình nghi rộng quá, không tra xét từng người được đâu.”

    “Thưa vâng, tốt nhất là tìm được một điểm đột phá khác.” Hoàng Tử Hà gật đầu.

    “Đợi đi Thành Đô về rồi tính.” Đoạn y đặt lại lá bùa vào hộp. Dù sao cũng chẳng đề phòng nổi, đành gạt sang một bên thôi.

    Hoàng Tử Hà nhíu mày nhìn chiếc hộp: “Thực ra ban đầu tôi còn tưởng thủ pháp đánh cắp cây trâm Cửu loan của hung thủ giống cách những khuyên tròn xuất hiện rồi biến mất trên lá bùa này cơ.”

    “Xưa nay ta luôn đích thân lấy và cất nó đi, chưa từng giao cho ai cả.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu: “Vâng, nên đến giờ… tôi vẫn chưa biết là kẻ nào gây ra và hắn làm thế nào.”

    “Hắn đã cảnh báo ta, thì ta cũng sẵn sàng đối mặt thôi.” Vẻ mặt Lý Thư Bạch đanh lại lạnh băng, vô cùng bình tĩnh, “Ta cũng muốn xem, rốt cuộc số mệnh là do tờ giấy này viết ra, hay do ta nắm giữ.”

    Hoàng Tử Hà nhìn y đầy kính phục. Lý Thư Bạch quay lưng về phía mặt trời, trước mặt là lá bùa khoanh chết số mệnh, xong y vẫn hiên ngang đứng thẳng, như một ngọn núi ngọc sừng sững ngàn năm, lấp lánh hào quang, không thể nhìn gần, cũng không bao giờ chao đảo.

    Sau cùng, cô nói khẽ: “Gia vẫn nên cẩn thận là hơn.”

    Y gật đầu, cất chiếc hộp vào tủ rồi tiện tay rút bức tranh của nhà họ Trương ra xem: “Còn nữa, ta nghĩ ý nghĩa thực sự của bức họa này không phải là hình vẽ ba cách chết đâu.”

    “Đúng thế, chẳng qua là chúng tôi gán ghép vào nói bừa đấy thôi.” Hoàng Tử Hà thở dài, “Nào ngờ lão Lữ lại nảy ra ý tưởng giết người từ đó, chằng vụ án này với bức di bút của tiên hoàng, hòng tung hỏa mù đánh lừa dư luận.”

    “Về mặt nào đó, lão ta cũng thực khiến người ta bội phục.” Lý Thư Bạch dẫn cô ra ngoài, rồi sực nhớ ra một chuyện, vội nói ngay: “Còn một kẻ nữa cũng rất đáng phục. Vương hoàng hậu về cung rồi.”

    Hoàng Tử Hà kinh ngạc ồ lên: “Hoàng hậu ra tay nhanh quá.”

    “Trong triều ngoài nội đều bất mãn với Quách thục phi, huống hồ giờ chỗ dựa duy nhất của thục phi là Đồng Xương công chúa đã mất, lấy gì mà ngăn bước hoàng hậu? Hơn nữa…”

    Y ngoái lại nhìn cô đầy ẩn ý: “Lần này là Quách thục phi xin với hoàng thượng, để hoàng hậu về cung.”

    Nguyên nhân đương nhiên là hoàng hậu uy hiếp thục phi.

    Người bên ngoài đồn rằng, Quách thục phi thường xuyên ra vào phủ công chúa, tư thông với phò mã Vi Bảo Hoành, xong phi chẳng để tâm.

    Một người phụ nữ đem lòng yêu một thiếu niên chỉ xấp xỉ tuổi con mình, chẳng khác nào lửa bén đồng hoang, cuồn cuộn rực trời, không gì ngăn nổi. Dù bức thư tình phi mạo hiểm viết ra bị đối phương thản nhiên đốt bỏ, phi vẫn mù quáng si mê.

    Xong giờ đây Đồng Xương công chúa vẫn bao che cho phi đã qua đời, cơ hội để gặp mặt Vũ Tuyên cũng trở nên hiếm hoi. Mối tình chưa kịp vỡ lở đã gấp rút hạ màn, từ đây sẽ được chôn sâu trong tâm khảm hai người, chỉ còn một câu thơ cuối cùng, trở thành chiếc thòng lọng tròng vào cổ phi, bất cứ lúc nào cũng có thể kéo phi xuống vực sâu muôn trượng.

    Phi vĩnh viễn không phải đối thủ của Vương hoàng hậu, về mọi mặt.

    “Hoàng hậu hồi cung cũng hay. Lăng mộ của Đồng Xương vượt quá quy củ khiến trong triều nhốn nháo mấy ngày nay, ta không rảnh mà hỏi đến, nhưng chẳng biết hoàng hậu vừa về cung liệu có át nổi chuyện này đi không?”

    Hoàng Tử Hà ngạc nhiên hỏi lại: “Gia không rảnh ư?”

    Trong ấn tượng của cô, y vốn có thuật phân thân, sao lại không có thời gian xử lý chuyện này?

    Lý Thư Bạch quay lại nhìn cô, ánh mắt sâu thăm thẳm: “Đương nhiên, ta cũng không muốn hỏi. Đôi lúc ta nghĩ, khi người mình trân quý nhất xảy ra chuyện thì bất kể hạng vô danh tiểu tốt hay là bậc khanh tướng đế vương đều không kiềm chế nổi, làm ra những chuyện không thể ngăn cản.”

    Thế nên, hoàng đế mới bất chấp lời can gián của triều thần, khăng khăng xây lăng mộ con gái hoành tráng nguy nga, tổ chức đại tang thật to để thể hiện lòng thương tiếc.

    Thế nên, kẻ cố chấp như Lữ Chí Nguyên mới vắt kiệt tâm sức nghĩ kế trừng phạt tất cả những người làm hại con gái mình, dẫu phải đối diện với hình phạt lăng trì tùng xẻo, cũng không hề do dự.

    Có điều, một nàng công chúa được nâng niu như châu báu, xong không thể có được thứ mình khao khát, và một cô gái thường dân không may gặp nạn, nhưng lại có người sẵn sàng đánh cược tất cả để bảo vệ, rốt cuộc ai hạnh phúc hơn ai?

    “Chẳng biết sau này ta có con gái hay không, nếu có thì nó sẽ thế nào.” Lý Thư Bạch nhìn những đóa sen dập dềnh trong gió, chợt nói bâng quơ.

    Hoàng Tử Hà đáp khẽ: “Thế gian rất nhiều người yêu thương con gái, nhất định thánh thượng cũng nghĩ, nếu đem tất cả những thứ tốt đẹp nhất bày ra trước mặt con gái, thì Đồng Xương công chúa sẽ có cuộc sống hạnh phúc nhất, đầy đủ nhất trên đời… tiếc rằng thánh thượng sai rồi.”

    Lý Thư Bạch gật đầu, vẻ trầm ngâm: “Ai cũng nói hoàng thượng nâng niu Đồng Xương công chúa như châu báu, cuộc đời công chúa chẳng thiếu thốn thứ gì, nhưng có kẻ nào nhìn thấu những khoảng trống hoác trong đời công chúa đâu?”

    Cha nàng hết mực cưng chiều, nhưng chẳng hề biết nàng muốn gì. Thuở nhỏ, nàng từng bị mảnh sứ vỡ cứa đứt tay, từ ấy vĩnh viễn không còn đồ chơi nữa. Cha ban cho nàng vô vàn châu báu, xong lại tước đi niềm vui thơ trẻ của nàng.

    Mẹ nàng lấy nàng ra làm quân cờ để tiến thân, thậm chí còn gây ra những chuyện hoang đường rồi dùng nàng làm bia đỡ đạn, che giấu bí mật động trời giữa mình và Vũ Tuyên. Nhưng sau khi nàng qua đời, mối quan tâm trước nhất của mẹ nàng lại là giết sạch những kẻ quanh nàng hòng bảo vệ bí mật.

    Chỉ vì nụ cười của gã nam tử hăng say trên sân cầu, nàng liền chọn hắn làm chồng, nào ngờ hắn vừa tham quyền vị nàng đem lại, vừa si mê một kẻ kém nàng về mọi mặt.

    “Công chúa hẹn gặp Tiền Quan Sách hết lần này qua lần khác là vì chưa bao giờ được nếm trải cuộc sống bình thường. Có lẽ chỉ từ ông ta, công chúa mới tìm thấy hạnh phúc giản đơn mà mình mãi mãi không bao giờ có được.”

    Con chó sứ đã bị người khác quên khuấy từ lâu, cuộc sống mà nàng chưa từng nếm trải cùng tình cảm cha con bình dị chưa bao giờ được hưởng, khiến công chúa lưu luyến không sao dứt nổi, hết lần này sang lần khác lén hẹn gặp Tiền Quan Sách. Bởi cả cuộc đời, nàng chưa bao giờ có được những thứ đó.

    Chẳng ai nhìn thấy cõi lòng hoang vu của một nàng công chúa bị vây hãm giữa cung vàng điện ngọc. Thấy nàng không vui, cha lại ban thêm vô vàn châu báu, mà nào có hay, nàng chỉ khao khát một con chó sứ bán ngoài đường.

    Lý Thư Bạch lặng thinh hồi lâu, chợt thở dài lẩm bẩm: “Chẳng biết, về sau ta sẽ là một người cha thế nào.”

    “Tốt nhất là… đừng giống như hoàng thượng, yêu thương con gái hết mực, nhưng lại chẳng biết nó thực sự muốn gì.

    “Cũng đừng cố chấp như Lữ Chí Nguyên, chẳng biết cách thể hiện tình cảm, cứ nghĩ đàn ông mà dịu dàng thì mất mặt nên lúc nào cũng tỏ ra cộc cằn thô bạo, làm tổn thương con gái.

    “Đừng giống như Tiền Quan Sách, lúc khó khăn nhất thì vứt bỏ con gái, đến khi khấm khá lên mới tìm về, ngỡ rằng vẫn còn có thể nối lại tình cảm như xưa, lại chẳng thấy giữa đôi bên đã rạn nứt đến mức khó bề hàn gắn.”

    Lý Thư Bạch quay sang hỏi: “Vậy ngươi thấy thế nào mới là một người cha tốt?”

    Hoàng Tử Hà im lặng, lại nhớ đến người lẳng lặng đứng dưới gốc cây nhìn mình thuở bé. Trước mặt cô, người ấy rất hay vô tình kể chuyện con gái nhà người ta biết khâu giày cho cha, nhưng sau lưng cô lại hãnh diện khoe, con gái nhà tôi còn hơn mười con trai nhà khác.

    Lúc nhỏ, cô từng nghĩ cha mình cũng bình thường thôi, chẳng khác cha nhà người ta.

    Vậy mà giờ đây, cô lại thấy khóe mắt ươn ướt: “Người cha tốt nhất trên đời mà tôi biết, chính là cha tôi.”

    Lý Thư Bạch cúi đầu nhìn cô, nín lặng.

    Trong lòng y cũng đang nhớ đến người đã ra đi mãi mãi năm y mười ba tuổi. Đó từng là ngọn núi sừng sững mà thuở nhỏ y cứ nghĩ có thể nép dưới sải cánh mênh mông, để được chở che mưa gió.


    Tiếc rằng giờ đây, cả hai người họ đều thành kẻ mồ côi.

    Trên thế giới này, họ chẳng còn ai để nương tựa nữa, bất luận phía trước là gió mưa hay nắng gắt, đều phải tự mình dấn bước mà đi.

    Một ngày trước khi họ khởi hành là tiệc đốt đuôi của cha Chu Tử Tần. Tay nghề đầu bếp nhà họ Chu rất khá, khách khứa đều hài lòng.

    Ăn uống xong xuôi thì trời đã ngả chiều, lúc tiễn khách ra cửa, Chu Tử Tần vẫn còn tiếc nuối: “Chỉ tiếc còn thiếu món bánh cổ lâu hoàn hảo.”

    Chiêu vương cũng gật đầu: “Đúng thế, e rằng về sau khó mà được ăn miếng bánh cổ lâu ngon như thế nữa.”

    Ngạc vương Lý Nhuận theo họ xuống thềm, tới trước xe ngựa lại sực nhớ ra chuyện gì đó, vội quay đầu đi đến bên cạnh Lý Thư Bạch: “Tứ ca.”

    Lý Thư Bạch ngoái lại.

    Y ngập ngừng giây lát, mới nói khẽ: “Bản án tuy đã khép lại, nhưng không biết… Tứ ca và Dương công công có rút ra kết luận gì từ bức hình mẫu phi đệ vẽ không?”

    “Bức hình ấy tuy có liên quan tới vụ án, nhưng chẳng qua hung thủ chỉ dùng nó để đánh lạc hướng, khiến mọi người tin vào chuyện trời phạt mà thôi.” Lý Thư Bạch trầm ngâm, “Gần đây ta cũng trăn trở suy tư rất nhiều. Ta nghĩ sau khi tiên hoàng qua đời, thái phi trong một lúc tỉnh táo hiếm hoi mới len lén vẽ ra bức hình ấy, dựa theo những gì nhớ được về bức thủ bút của tiên hoàng.”

    Hoàng Tử Hà tiếp lời: “Nhưng hiện giờ chúng tôi vẫn chưa hiểu được năm xưa vì sao tiên hoàng lại vẽ ra bức tranh đó? Bức tranh đó có ý nghĩa gì.”

    Lý Nhuận lộ vẻ bi ai. Y theo Phật nhiều năm nay, nét mặt vốn thanh thuần, ánh mắt xa xăm, lúc này, đôi mắt ấy trông càng mơ màng ngơ ngẩn, chẳng biết tâm trí đã trôi đi tận phương nào. Thật lâu, y mới nói khẽ: “Lúc tiên hoàng lâm chung, tuy thỉnh thoảng có tỉnh lại, nhưng không hề dặn dò việc triều chính đại sự, lại đi vẽ bức hình như vậy, chẳng lạ lắm ư? Sau khi tiên hoàng băng hà, mẫu phi vì đau xót quá độ mà thành ra lú lẫn, lần duy nhất tỉnh táo trở lại, bà đã vẽ phỏng theo di bút tiên hoàng giao cho đệ… Đệ nghĩ hẳn bức hình đó rất quan trọng, có lẽ bên trong ẩn chứa… bí mật quyết định tương lai của cả Đại Đường và hoàng tộc họ Lý.”

    Bởi khi giao phó bức hình này, mẫu phi từng nói, thiên hạ Đại Đường sắp mất! Giang sơn đổi chủ rồi!

    Bấy giờ, mẫu phi còn dặn y, Nhuận nhi phải nhớ kỹ, không được thân thiết với Quỳ vương…

    Lý Nhuận lại nhìn Quỳ vương Lý Thư Bạch trước mặt. Giờ đây, Lý Thư Bạch đã thành nhân vật xuất sắc nhất trong hoàng thất Đại Đường, là trụ cột triều đình, là kẻ duy nhất gánh vác cơ nghiệp nhà họ Lý. Tại sao mẹ ruột y lại ngăn y tiếp xúc nhiều với Quỳ vương.

    Là mẫu phi lú lẫn lẩn thẩn, hay vì bà biết được sự thật khủng khiếp nào đó, nên mới hé lộ với y?

    Ngay sau khi tiên hoàng băng hà, mẫu phi trong đêm đã hóa điên. Là vì bi thương quá độ, hay còn… nội tình kinh khủng nào mà y chưa đoán ra?

    Lý Nhuận chẳng dám nghĩ tiếp, thẫn thờ một hồi, đang định từ biệt Lý Thư Bạch thì Chu Tử Tần tiễn xong khách rảo bước đi đến: “Vương gia, Sùng Cổ, vừa rồi nhắc đến bánh cổ lâu, tôi lại nhớ ra một chuyện! Trương nhị ca nghỉ việc ở Tả Kim Ngô Vệ rồi, các vị biết chưa?”

    Hoàng Tử Hà ngạc nhiên hỏi: “Tại sao?”

    “À, theo tôi đến chợ Tây sẽ rõ.”

    Chu Tử Tần kéo họ đến chợ Tây. Tiệm nhang đèn nhà họ Lữ vẫn mở cửa, có điều người ngồi bên trong lại là Trương Hàng Anh và anh trai chị dâu gã.

    Thấy bọn họ, Trương Hàng Anh vội đứng dậy hành lễ với Lý Thư Bạch trước tiên.

    Lý Thư Bạch gật đầu ý bảo miễn lễ, rồi nhìn quanh hỏi: “Ngươi sắp tiếp quản tiệm này ư?”

    Trương Hàng Anh gật đầu, rồi lại lắc đầu: “Hôm qua địa bảo(*) đến nhà, tiểu nhân mới biết. Thì ra… tiệm này vốn là lão Lữ thuê, đầu tháng này mới dốc hết tiền bạc tích cóp mua lại.

    (*) Lực lượng làm nhiệm vụ bảo vệ ở địa phương.

    Hoàng Tử Hà ngước nhìn đôi nến long phượng trên giá, buột miệng: “Trương nhị ca, đôi nến này trước đây lão Lữ nói là không bán.”

    “Ừm, tôi nghĩ, ngày sau tôi và A Địch thành thân… có thể dùng.” Trương Hàng Anh đáp khẽ.

    Lý Thư Bạch nhíu mày: “Lữ Chí Nguyên phạm tội phải chém cả nhà, e rằng cửa tiệm này cũng sẽ bị sung công.”

    “Không, cửa tiệm này, lão Lữ… sau khi mua lại đã lập tức bán sang tay cho tiểu nhân.” Nói đoạn gã rụt rè rút giấy tờ ra cho họ xem, “Các vị nhìn này, đây là văn tự đất, văn tự nhà… Hôm A Địch được thả từ Đại Lý Tự về, lão Lữ đã đi theo sát gót, đến tận nhà tôi. Tôi cứ ngỡ là mười quan tiền cầm bức tranh làm sính lễ cho Tích Thúy, nên thật thà điểm chỉ vào biên lai ông ấy đưa ra, nào ngờ…”

    Thì ra Lữ Chí Nguyên đã sắp xếp tất cả mọi chuyện, đây cũng có thể hiểu là hành vi thừa nhận Trương Hàng Anh.

    Hoàng Tử Hà không nén được tiếng thở dài: “Vậy huynh định mở hàng ở đây hả?”

    Trương Hàng Anh lắc đầu: “Không, cửa hàng này là cha A Địch để lại cho cô ấy, tôi đã bàn bạc với cả nhà rồi, sẽ giữ nguyên tên hiệu, đặt dưới danh nghĩa của tôi và A Địch, nhờ anh trai chị dâu tôi trông nom hộ; còn tôi sẽ đi tìm A Địch… Như vậy dù tôi không tìm được thì nếu có ngày cô ấy quay về, cũng sẽ tìm đến nhà mình, cùng anh trai chị dâu đợi tôi trở về…”

    Hoàng Tử Hà đỏ hoe mắt hỏi: “Cha huynh thì sao? Ông cũng đồng ý ư?”

    “Trước đây lúc ông bệnh nặng, tôi phải ra ngoài làm việc, nhờ có A Địch ngày đêm chăm sóc, ông mới dần dần khỏe lại. Lần này ông bảo, nếu tôi không tìm thấy A Địch thì đừng về nữa.”

    Chu Tử Tần cũng nghẹn ngào: “Trương nhị ca, ta tin A Địch nhất định sẽ về mà.”

    “Tốt nhất là trong vòng mấy năm đừng về, đợi khi nào mọi chuyện im ắng đã.” Lý Thư Bạch nhìn vợ chồng Trương Hàng Vĩ đang lúi húi dọn dẹp cửa tiệm, lại ngắm đôi nến hoa tinh xảo tuyệt luân kia, nói thêm: “Có điều, không phải lo phía quan phủ rầy rà về tiệm này đâu, cứ để ta lo liệu.”

    Trương Hàng Anh vội cảm kích vái lạy. Hoàng Tử Hà chẳng ngờ Lý Thư Bạch lại chủ động đề nghị giúp đỡ Trương Hàng Anh, cứ ngẩn ra nhìn y kinh ngạc, không biết nói gì.

    Lý Thư Bạch đưa mắt sang cô, gương mặt vốn bình thản như mặt hồ lặng sóng, lúc này khóe môi lại hơi cong lên, để lộ nụ cười.

    Như vầng dương ló rạng, dịu dàng mà rạng rỡ, khiến tim cô bất giác đập rộn lên.

    Lúc quay về, ngang qua chùa Tiến Phúc, ba người liền rẽ vào thắp hương cầu khấn.

    “Lần này con về Thục, xin đức Phật phù hộ để dọc đường bình an, vạn sự như ý. Nguyện cho con sớm bắt được hung thủ, an ủi vong linh người nhà.”

    Hoàng Tử Hà chắp hai tay cầu khấn trước bệ Phật.

    Khói hương bảng lảng phủ mờ gương mặt cô, như sương mù vấn vít quanh đóa thược dược, mịt mờ hư ảo.

    Chu Tử Tần nghiêng đầu nhìn cô đến ngây người rồi lặng lẽ lùi lại mấy bước, đến cạnh Lý Thư Bạch, hỏi khẽ: “Vương gia có thấy…”

    Lý Thư Bạch đang nhìn Hoàng Tử Hà từ xa, hờ hững hỏi: “Gì cơ?”

    “Dương Sùng Cổ tuy là hoạn quan, nhưng trông còn đẹp hơn con gái nữa… Gia nói xem nếu y không tịnh thân thì hiện giờ sẽ thế nào?”

    Lý Thư Bạch thoáng ngẩn người, rồi thản nhiên nhìn đi chỗ khác: “Có lẽ sẽ cao hơn, đen hơn, vai rộng hơn, đường nét cứng cáp thô tháp hơn.”

    Chu Tử Tần tức tốc hình dung khung xương và vẻ ngoài của Dương Sùng Cổ theo lời Quỳ vương, rồi tiếc nuối nhận xét: “Thôi thôi, cứ như thế này thì hơn.”

    Lúc ra về, họ thấy một đám hòa thượng đang dùng dây thừng kéo hai cây nến lớn dựng trước Đại Hùng bảo điện xuống.

    Chu Tử Tần chạy lại hỏi: “Các vị sợ nắng thiêu mưa xối làm biến dạng, nên định hạ nến xuống cất vào kho ư?”

    Các hòa thượng ai nấy đầm đìa mồ hôi, vừa lo kéo thả dây vừa gắt gỏng đáp: “Ai rỗi mà cất vào kho? Nghe nói người thợ làm đôi nến này giết người như ngóe, cả Đồng Xương công chúa cũng chết dưới tay y, cửa Phật thanh tịnh sao có thể dùng thứ này được nữa?”

    Nói rồi họ hợp sức khiêng đôi nến vừa kéo đổ đến hồ phóng sinh đã rút cạn nước.

    Ở đó đã đốt sẵn một đống lửa. Các nhà sư quẳng đôi nến lớn vào, ngọn lửa lớn tức thì bùng lên, làm sáp nến chảy ra, cháy lách tách, lưỡi lửa cũng bốc cao đến cả trượng.

    Các nhà sư đứng quanh hồ phóng sinh đều cúi đầu lẩm nhẩm đọc kinh, thanh tẩy tà ma.

    Chiều hạ nóng hầm hập, khí nóng từ đống lửa không ngừng táp vào mặt như sóng, cơ hồ muốn nướng chín những người quanh đó.

    Chu Tử Tần lùi lại mấy bước, thấy Hoàng Tử Hà vẫn đứng yên thì nhắc nhở: “Sùng Cổ lùi lại đi, cẩn thận bị bỏng bây giờ!”

    Nhưng Hoàng Tử Hà gần như không nghe thấy gì cả. Cô đứng thẫn thờ bên đống lửa, nhìn chằm chằm tâm nến vừa lộ ra sau khi lớp sáp tan chảy. Trên lớp vải thô bọc lấy sợi bấc, có một hàng chữ nhỏ.

    Nguyện cho Lữ Tích Thúy con gái con được bình an vui vẻ, suôn sẻ suốt đời.

    Tín nam Lữ Chí Nguyên cúng dường.

    Lữ Chí Nguyên đã âm thầm viết ra hàng chữ này. Đáng lẽ nó sẽ là bí mật được thờ phụng trước Phật điện cho tới khi ngọn nến cháy tàn, không một ai hay biết.

    Xong lúc này đây, những con chữ bằng nhũ vàng ấy đang quăn queo rồi tróc ra trong lửa, hết thảy bí mật đều bị ngọn lửa nuốt chửng, nhả ra tro tàn, cuối cùng bị luồng khí nóng cuốn lên, tan tác trên không, chẳng còn dấu tích.

    Bốn bề chỉ có tiếng tụng niệm rì rầm.

    Hoàng hôn Trường An nhẹ nhàng phủ lên cả trăm ngàn người.

    Hoàng hôn của Đại Đường cũng từ từ buông xuống.
     
  8. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Quyển 3 - Tình lang hờ

    [​IMG]
    Mang trong lòng bao cảm xúc ngổn ngang, cùng Quỳ vương Lý Thư Bạch quay về Thục với quyết tâm phá giải vụ án oan của gia đình, được binh lính, quan binh phủ huyện hộ tống, nghênh đón suốt dọc lộ trình, Hoàng Tử Hà không thể nào ngờ, đường về Thục khó đi đến vậy!

    Chốn cũ người xưa. Những ký ức tưởng rằng chân thực nhất, đáng tin cậy nhất bỗng trở nên bất định. Cô đã cùng Lý Thư Bạch vượt mọi hiểm nguy, thoát khỏi tầng tầng lớp lớp cạm bẫy của kẻ giấu mặt. Nhưng tất cả đều không đáng sợ bằng giây phút đối diện hung thủ đã đẩy cả gia đình cô tới cái chết. Vào thời khắc giật bỏ tấm màn che phủ vụ án, Hoàng Tử Hà chợt ngộ ra những điều ý nghĩa trong cuộc đời mình.
     
    Chỉnh sửa cuối: 23/8/17
  9. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 1 - Như giả như thật
    Thế giới trước mắt dường như sáng bừng lên.

    Ngày xuân, lầu nhỏ, cửa khép hờ. Anh đào nở rộ ngoài song, tựa hồ chỉ cần một cơn gió nhẹ là lả tả rụng xuống, biến thành ráng hồng đỏ rực tan đi.

    Hoàng Tử Hà đẩy cửa sổ, nhìn về phía quận thú. Không khí ban sớm trong lành như lạnh lẽo phả vào mặt, song tâm trí cô lại trống rỗng, hoàn toàn chẳng biết mình đang nhìn gì.

    Phía trước cô là phủ quận thú, cha mẹ và anh trai ở nhà trước, còn cô, vì thích cây anh đào đang nở rộ nên đã rời đến căn gác nhỏ trong vườn.

    Nhà trước cách nơi này một mảnh vườn hoa, từ đây, cô vẫn có thể nhìn thấy những nóc nhà trùng điệp, mái cong đấu củng, người qua kẻ lại tấp nập ở giếng trời, thậm chí loáng thoáng nghe thấy tiếng nói chuyện lao xao.

    Hoàng Tử Hà thoáng kinh ngạc, không hiểu sao hôm nay nhà lại đông người như vây. Cô vội vã khoác áo, chọn một cây trâm bạc trong hộp nữ trang vấn tóc lên, rồi đeo chiếc vòng trên bàn trang điểm vào tay.

    Chiếc vòng tay Vũ Tuyên tặng cho cô năm ngoái. Sau khi thi đỗ cử nhân, hắn đã lấy tháng lương đầu tiên đi mua một miếng ngọc trắng, thuê thợ khéo làm thành vòng. Vũ Tuyên không có nhiều tiền nên miếng ngọc cũng không thật tốt, hắn và cô cân nhắc rất lâu, cuối cùng quyết định đẽo thành hai con cá uốn mình quấn quanh, con này ngậm đuôi con kia. Vì chất ngọc không thuần, đành phải chạm rỗng, vừa khéo loại bỏ được phần tạp chất, khiến chiếc vòng thành ra trong suốt long lanh.

    Mắt cá khảm ngọc trai trắng bé bằng hạt gạo, vừa độc đáo lại sống động, phối trên nền vàng ngọc trắng muốt, thoạt nhìn không có gì đặc sắc, song ngắm kỹ lại thấy mỗi thứ sáng đẹp theo một cách riêng, khiến các bạn khuê phòng của cô trầm trồ không ngớt, tiếc rằng trên đời chẳng còn miếng ngọc thứ hai nào phỏng chế được như thế nữa.

    Cô lồng chiếc vòng vào cổ tay, chưa kịp thả tay xuống, chợt quay đầu nhìn quanh, nhận ra màn sương đen đặc đang lan dần đến. Mọi thứ mờ mịt hẳn đi, Hoàng Tử Hà ngỡ ngàng không hiểu mình đang ở đâu, chỉ thấy làn sương đen ấy từ từ bao bọc lấy mình, không có cách nào giãy thoát.

    Cô hoảng hốt cắm đầu chạy, song chẳng biết mình từ đâu đến, cũng chẳng rõ định chạy đi đâu.

    Bên tai chợt nghe văng vẳng tiếng người gọi: “Hoàng Tử Hà… Hoàng Tử Hà…”

    Cô ngoái đầu, song chẳng thấy một ai, giữa đêm đen chỉ có một mình cô bơ vơ tìm kiếm.

    Hoàng Tử Hà nhìn bốn bề đen đặc, hoang mang hỏi: “Ai đấy… Ai gọi tôi đấy?”

    “Ngươi là một kẻ cô độc…”

    Hơi lạnh trên đỉnh đầu từ từ lan xuống, cả người cô cứng đờ, thẫn thở lặp lại: “Tôi là … một kẻ cô độc ư?”

    “Cha ngươi, mẹ ngươi, anh trai, chú và bà nội ngươi đều chết cả rồi…”

    Cô đứng ngây ra, chợt thấy đầu ong lên, tâm trí mụ mị, trống rỗng.

    Đến khi tiếng ong ong trong đầu tan đi, hai chân cô cũng không đỡ nổi thân thể nữa, cả người ngã xụi xuống đất. Mắt cô tối sầm, trong bóng tối lại thấy lênh láng sắc đỏ, như thể máu huyết toàn thân đều bị khuấy lên, lục phủ ngũ tạng vỡ nát.

    Giữa cơn đau tột cùng, cô ôm ngực, gập người, gắng sức hít thở. Đúng lúc này, cô sực nhớ ra, đây là mơ, là mơ, chỉ là ác mộng tái hiện thôi!

    Bởi cảm giác đau đớn đến cùng cực này, cô đã trải qua rất nhiều lần.

    Từ sau khi cha mẹ qua đời, hết lần này sang lần khác, cô luôn gặp phải cơn ác mộng đó, mơ thấy mình quay lại ngày hôm ấy, thấy hết cảnh xuân tươi đẹp vỡ tan tành, cuộc đời cô từ ấy cũng vạn kiếp bất phục.

    Nhận ra mình đang mơ, bóng tối trước mặt cũng tan biến trong nháy mắt.

    Thì ra cô đang ở nhà trước, xung quanh nhốn nháo, cô đứng giữa đám đông huyên náo, vừa đưa mắt đã thấy thi thể cha mẹ.

    Cha mẹ được phủ vải trắng, nằm im lìm trên bộ giát giường, đặt giữa sân, trên nền đá xanh.

    Từ năm mười hai tuổi, cô đã trông thấy vô số thi thể, lúc này, đứng trước thi thể người thân, có cảm giác không khác những lần trước, rồi chợt nghĩ, dù sao cả thế giới đã sụp đổ rồi, còn bận tâm khác hay không khác gì nữa chứ.

    Cô nghe thấy giọng Tưởng Tùng Lâm, ngỗ tác giàu kinh nghiệm nhất trong quận, xa xăm như cách cả vạn trượng, lại rành rọt như ở sát bên tai:

    “Nghiệm: Quận thú Hoàng sứ quân Mẫn, Hoàng phu nhân Dương thị, trưởng nam Hoàng Ngạn, thân mẫu quận thú Hoàng lão phu nhân, đệ đệ quận thú Hoàng Quân, đều bị hạ độc giết hại. Trong năm người chết, yết hầu Hoàng Ngạn và Hoàng Quân có dấu hiệu nôn mửa, trong ruột già cả năm đều có phân lỏng dạng như cháo loãng, trong đó Dương thị còn lẫn cả máu. Trước lúc chết, cả năm đều thấy bụng đau quặn, qua kiểm tra cho thấy, là trúng độc tỳ sương.”

    Cơn ác mộng thoắt vỡ tan thành ngàn vạn mảnh vụn sắc nhọn, găm thẳng vào mắt vào tim Hoàng Tử Hà, đau đớn kéo theo bóng tối ập đến nhấn chìm cô.

    Hòag Tử Hà bật dậy trên giường, thở dốc, trợn trừng mắt nhìn quanh.

    Trên nền trời đã pha lẫn sắc xanh, trong bóng đêm khi bình mình ló rạng, một mình cô kinh hoàng bật dậy, mặt đầm đìa nước mắt nóng hổi.

    Chẳng biết đang ở đâu, cũng chẳng biết phải đi về đâu.

    Lâu thật lâu, màn đen trong tâm trí cô mới dần tan đi. Hoàng Tử Hà nhớ ra mình đang ở trong một dịch trạm ở Hán Châu.

    Cô theo Lý Thư Bạch xuất phát từ Trường An đi xuống phía Nam, đến phủ Thành Đô. Hán Chân chỉ cách Thành Đô một ngày đường.

    Càng đến gần, lại càng sợ hãi.

    Hoàng Tử Hà ngồi thẫn thờ trong bóng tối hồi lâu, đợi cho nước mắt trên mặt khô đi mới lại ngả người nằm xuống, trơ mắt nhìn bầu trời bên ngoài sáng dần lên.

    Lênh đênh trôi dạt nửa năm nay, cuối cùng cô cũng giành được cơ hội trở về Thục. Lần này về Thành Đô phải bôn ba trăm sông ngàn núi, hơn nữa vụ án xảy ra đã nửa năm, cô không biết liệu mình còn có thể hoàn thành lời thề khi trước, để an ủi vong linh người nhà trên trời nữa hay không.

    Cái ngày kinh hoàng làm thay đổi cuộc đời cô cùng những đau đớn không cách nào chịu đựng được cứ trở đi trở lại trong giấc mộng, khiến cô hết lần này đến lần khác nếm trải nỗi đau đớn và bất lực ấy. Cô không ngừng suy đoán mọi khả năng có thể xảy ra, nhưng cuối cùng, tất cả đều không thể suy luận suông được, chỉ có một cách duy nhất là quay lại hiện trường, tra xét lại tất cả.

    Khi nào tất cả chân tướng lộ rõ, có lẽ, cô mới được giải thoát.

    Cô co người lại, áp má lên cánh tay, thẫn thờ nhìn ra ngoài cửa sổ.

    Bầu trời lam thẫm đã dần đổi sang lam nhạt, rồi rực lên chói lóa, hôm nay sẽ lại là một ngày nóng nực.

    Xoa nhẹ lên huyệt thái dương đang rần rật, Hoàng Tử Hà trở dậy rửa mặt rồi ra ngoài ăn sáng.

    Quan viên qua lại dịch trạm Hán Châu rất đông, hôm nay Quỳ vương Lý Thư Bạch nghỉ lại đây nên tất cả quan lại đều tỏ vẻ ân cần săn đón. Tiểu hoạn quan hầu cận Qùy vương là cô cũng được tiếp đãi như thượng khách.

    Hoàng Tử Hà đẩy cửa bước ra, thấy ngay trong sân, bên con đường mòn xuyên qua khóm trúc, một bụi thục quỳ đang nở rộ. Trên thân cây cao quá đầu người, từng cụm hoa rực rõ như gấm thêu, tươi đẹp vô ngần. Thục quỳ còn được gọi là nhất trượng hồng, sắc hoa tươi thắm, rất phổ biến ở Thục.

    Còn nhớ năm xưa trong phủ quận thú, cô cũng trồng một bụi thục quỳ lớn. Sáng mùa hạ, thờng khi cô còn chưa trở dậy, Vũ Tuyên đã gõ nhẹ song cửa, tặng cho cô một đóa thục quỳ.

    Hôm thì hồng phấn, hôm thì tím nhạt, có bông cánh thưa, có bông dày cánh. Cô cài đóa hoa hắn tặng lên tóc, rồi chọn đồ phối cho hợp. Mùa hè cứ thế qua đi. Chẳng nhớ xuể bao nhiêu chuyện vụn vặt, nhưng cô cứ nhớ mãi màu sắc của những ngày tháng ấy, nào vàng phớt, nào hồng tươi…

    Hoàng Tử Hà vô thức giơ tay ve vuốt một cánh thục quỳ, qua khóm hoa, cô nhìn sang phía bên kia con đường mòn, thấy Lý Thư Bạch đang đưa trường kiếm trong tay cho Cảnh Dục rồi ngoái đầu nhìn về phía mình. Sắc hồng của thục quỳ làm màu áo gấm thiên thanh của y tươi hẳn lên, giữa muôn vàn màu sắc đậm có nhạt có, chỉ mình y khoác một màu lành lạnh, khiến người ta nhìn mà xao xuyến.

    Cô bất giác sinh lòng bái phục kẻ này. Từ Trường An đến Thành Đô, phải băng qua muôn sông ngàn núi, vốn dĩ đường đi đã vất vả lắm thay, dọc đường tất cả các châu phủ còn lũ lượt kéo ra nghênh đón rồi bày tiệc thiết đãi. Lần nào cô cũng ỷ mình là một tiểu hoạn quan để tránh né, nhưng Quỳ vương Lý Thư Bạch đương nhiên không tránh được. Vậy mà kẻ này lúc nào cũng giữ vững nề nếp, bất kể hôm trước đi đường vất vả ra sao, thù tạc muộn đến thế nào, thì sáng nào như sáng nấy, mỗi khi thức dậy, cô đều trông thấy y đã dậy từ sớm luyện võ, chẳng nề mưa gió, không có ngoại lệ.

    Trán Lý Thư Bạch lấm tấm mồ hôi, y cầm chiếc khăn từ tay Cảnh Hữu vừa lau vừa đi về phía cô. Thấy y đến gần, cô vội hành lễ: “Vương gia… buổi sáng tốt lành.”

    Y ừ hử đi ngang qua cô, chẳng buồn liếc mắt.

    Cô vội vã theo sau, được hai bước chợt thấy y dừng lại, đưa chiếc khăn trên tay cho mình.

    Cô ngỡ ngàng không hiểu, theo phản xạ giơ tay ra đón lấy, mới phát hiện đầu ngón tay mình dính mấy hạt phấn thục quỳ vàng ruộm, vội cúi đầu nhận khăn, lau sạch ngón tay.

    Không còn sớm nữa, sau khi dùng xong bữa sáng dịch trạm chuẩn bị, nghỉ ngơi thêm chốc lát, cả đoàn lại rục rịch lên đường.

    Hoàng Tử Hà nhảy lên mình Na Phất Sa, theo sau Lý Thư Bạch. Địch Ác đến gần Na Phất Sa, cọ cọ vào cổ nó, khiến hai kẻ trên ngựa bỗng dưng cũng sượt vai qua nhau.

    Thấy dưới mắt cô có quầng xanh, Lý Thư Bạch nhíu mày, ghìm cương Địch Ác lại rồi hỏi: “Ngủ không ngon ư?”

    “Thưa vâng.” Cô lặng lẽ gật đầu.

    “Hôm nay nếu đi nhanh thì chúng ta có thể tới phủ Thành Đô. Ngươi đừng nghĩ ngợi nhiều nữa, tới nơi xem tình hình rồi tính.”

    Hoàng Tử Hà ngước lên nhìn Lý Thư Bạch, thấy y ở ngay trước mắt, đang cúi đầu nhìn mình, cơ hồ nghe được có tiếng thở của nhau, cô ngượng ngập không dám nhìn vào đôi mắt trong veo ấy, đành cúi đầu thưa: “Vâng.”

    Y không nhìn cô nữa, mà thúc ngựa đi tiếp.

    Hoàng Tử Hà vội giục ngựa đuổi theo, đôi bên kẻ trước người sau đi trên đường cái quan bằng phẳng.

    Từ Hán Châu đến Thành Đô, khách buôn và người đi đường qua lại tấp nập. Hoàng Tử Hà đang cúi đầu mà đi, đến đoạn vắng người, chợt nghe Lý Thư Bạch nói: “Thực ra hôm nay ta cũng thấy bất an.”

    Cô ngẩng lên nhìn y hỏi: “Gia là vì chuyện lá bùa kia ư?”

    “Ừm.” Y cưỡi ngựa đi trước, vẻ trầm tư: “Trên lá bùa tổng cộng có ba chữ: côi, tàn, góa. Vào ngày mẫu phi ta qua đời, chữ “côi” được khoanh tròn; ba năm trước, ta bị hành thích ở Từ Châu, suýt nữa mang tật ở tay, may mà về sau đỡ dần, khoanh đỏ quanh chữ “tàn” kia cũng từ từ mờ đi. Còn lần này…”

    Trước khi lên đường, trên lá bùa kia lại xuất hiện một khoanh tròn đỏ tươi màu máu, khuyên lấy chữ “tàn”.

    Suy yếu lụn tàn, cũng gọi là tàn.

    Đại Đường Quỳ vương Lý Thư Bạch, sáu tuổi được phong vương, mười ba tuổi xuất cung, sau bảy năm thu mình đã một đòn đánh tan mối uy hiếp lớn nhất đối với triều đình là Bàng Huân, đồng thời kiềm chế các tiết độ sứ lớn, quyền nghiêng thiên hạ, uy thế rợp trời.

    Có điều, con người vinh quang quá sớm, rốt cuộc có thể huy hoàng được bao lâu?

    Hai mươi ba tuổi, vận mệnh của y xoay chuyển, trên lá bùa định mệnh, lần lượt từng con chữ đầy điềm gở bị khoanh tròn.

    Hoàng Tử Hà thấy chuyện này hết sức kỳ quái, nhưng chẳng có manh mối nào, đành kiếm lời an ủi y: “Mọi chuyện trên đời đều có nguyên nhân cả. Tôi không biết vì sao lá bùa đó có thể biết trước việc của gia, nhưng xét đến cùng, tôi vẫn không tin trên đời này có quỷ thần, có lẽ… gia cũng không tin.”

    Lý Thư Bạch ngoái lại, mắt sáng lên đầy thấu suốt: “Đừng giả ngốc nữa, Hoàng Tử Hà. Thực ra trong lòng ta và ngươi đều đoán được chân tướng sự thật rồi, không phải sao?”

    Hoàng Tử Hà nín lặng cúi đầu, tránh ánh mắt y: “Nô tài không dám đoán bừa.”

    “Bất luận thế nào, cái gì phải đến ắt sẽ đến, ta đang rửa mắt chờ đây.” Y nói rồi, khóe miệng hơi cong lên thành một nụ cười ngạo nghễ, thúc ngựa đi thẳng.

    Đường Thục tuy khó đi, nhưng nơi đây là huyết mạch giao thông, qua nhiều năm được triều đình tu bổ, đã trở thành một con đường rộng rãi bằng phẳng. Địch Ác cùng Na Phất Sa đều là tuấn mã hiếm có, ngựa của bọn Cảnh Dục không sao đuổi kịp, bị rớt lại phía sau. Chỉ có hai bọn họ, kẻ trước người sau cùng thúc ngựa phi thật nhanh.

    Một bên đường là núi xanh trải dài ngút mắt, bên kia là con sông uốn lượn quanh co, xa xa lác đác mấy căn nhà dựa vào lưng núi, quay mặt ra sông. Giờ đã là cuối hạ, thục quỳ nở rộ ven đường, đỏ trắng tím vàng, từng chùm từng bụi, bọn họ phóng ngựa lướt qua chỉ thấy như trong sân nhà nhà đều chăng đầy những gấm tươi lụa đẹp.

    Những cành lá từ trong sân các nhà vươn ra lúc lỉu quả sai. Nào mận, nào lê, nào bưởi, có quả chín, có quả xanh. Suốt dọc đường hồ tiêu trong vườn và trên núi đều đã chín rục, như vô số hạt san hô đỏ thắm điểm xuyết tàng cây xanh mướt, đến cơn gió phả vào mặt cũng thấy the the.

    Địch Ác và Na Phất Sa cũng phi chậm lại. Trên con đường thắm sắc ngát hương, hai thớt ngựa sánh vai song hành, thỉnh thoảng còn cọ cọ cổ nhau, khiến hai kẻ ngồi trên lúc thì sát lại gần, lúc lại tách ra xa.

    Sợ bọn Cảnh Dục rớt lại quá xa, Lý Thư Bạch bèn ghìm cương ngựa, đứng bên sườn núi đợi. Cơn gió lồng lộng từ xa thổi tới, mây trắng dập dềnh như sóng cuốn qua vạn dặm giang sơn, phía chân trời, ánh dương không ngừng biến đổi, thoắt sáng thoắt tối, chảy dài trên mặt đất trước mặt.

    Y dõi mắt ngắm bầu trời cao vòi vọi hồi lâu rồi thở dài, quay đầu nhìn sang Hoàng Tử Hà.

    Sắc mặt cô hơi tái, hơi thở có phần dồn dập. Cưỡi ngựa theo y lặn lội đường xa, ngay bọn Cảnh Dục cũng mệt lử, vậy mà cô vẫn kiên trì được đến bay giờ, băng qua vạn dặm sông dài, muôn trượng núi cao.

    Trong khoảng khắc ngoái nhìn cô, y chợt mỉm cười. Khóe môi cong lên thật khẽ, thật nhanh như làn gió lùa qua mặt nước, thoắt chốc đã bình thường trở lại.

    Thấy Lý Thư Bạch mỉm cười nhìn mình, trong mắt thoáng qua vô vàn sắc màu tuyệt mỹ, Hoàng Tử Hà hơi sững ra. Chẳng biết có phải nãy giờ phi ngựa quá nhanh hay không mà cô thấy hai má hơi nong nóng.

    Song ngay lập tức, y đã rời mắt đi, còn tiện tay mở chiếc hòm đeo bên hông Địch Ác, móc ra một vật ném cho cô.

    Hoàng Tử Hà một tay ghìm cương, một tay đón lấy, ra là một gói kẹo tuyết đựng trong túi giấy bông.

    Chẳng rõ y có ý gì, cô ngạc nhiên ngẩng đầu lên nhìn.

    Song y chỉ ghìm cương đứng hóng gió, giữa một trời lộng gió, giọng y cũng phất phơ tung bay theo tà áo và mái tóc: “Lần trước sau khi ngươi ngất xỉu, ta đã đi hỏi thầy thuốc, ông ta nói nữ tử thường hay thiếu máu, mỗi khi mệt mỏi ăn nhiều đồ ngọt sẽ đỡ.”

    Cô quả thật cũng đã thấm mệt, chỉ sợ theo y chạy thêm lúc nữa sẽ ngất xỉu. Bèn lặng lẽ nhón lấy một viên kẹo nhấm nháp, rồi chìa túi giấy cho y.

    Lý Thư Bạch không thích ngọt, song cũng nhón lấy một viện nhỏ, ngậm trong miệng.

    Non xanh nước biếc trải dài vạn dặm, hoa dại cuối hạ nở rộ khắp xung quanh. Cả hai ngắm chung một cảnh, cảm nhận cùng một vị ngọt nơi đầu lưỡi, cùng đứng trước một ngọn gió, lặng thinh không nói.

    Hoàng Tử Hà cúi đầu, siết chặt túi kẹo trong tay, do dự hồi lâu, cuối cùng nhét nó vào ngực áo. Rồi sực nghĩ giờ tiết trời nóng nực, nhỡ kẹo bị chảy, bèn lấy ra đặt vào chiếc giỏ nhỏ bên hông Na Phất Sa.

    Quả nhiên, túi kẹo đã hơi chảy, dây ra túi giấy thành một vệt vàng, trái tim cô cũng như đang tan chảy thành một vệt dấp dính ngọt ngào, song lại khiến người ta bối rối.

    Địch Ác và Na Phất Sa giẫm trên thảm hoa dại, thong thả tiến lại gần nhau.

    Tiếng nước chảy róc trách không ngừng, dòng nước xiết băng qua ghềnh thác, cuối cùng chảy về phía Đông, đổ ra biển,

    Song dù sao Địch Ác và Na Phất Sa cũng chỉ lướt qua nhau, khiến hai kẻ ngồi trên lướt qua vai nhau mà đi, chỉ có mấy sợi tóc cùng vạt áo của hai người thực sự chạm vào nhau.

    Cả hai ghìm cương, thong thả men theo triền núi.

    Mãi gần trưa, bọn Cảnh Dục đằng sau mới đuổi kịp. Họ đã đi hơn sáu chục dặm, dưới triều Đại Đường, cứ ba mươi dặm lại đặt một dịch trạm, vừa khéo để ngựa nghỉ ngơi dưỡng sức. Đoàn người đã bỏ qua một dịch trạm, Địch Ác và Na Phất Sa còn đỡ, nhưng những thớt ngựa khác thì thở hồng hộc, đầm đìa mồ hôi, nhất định phải dừng lại nghỉ chân một lát.

    Quan viên cai quản dịch quán khúm núm đón họ vào, rót trà dâng bánh, Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà vừa ngồi xuống uống ly trà, chợt nghe bên ngoài vang lên tiếng chuông trong trẻo êm tai, rồi một người con gái men theo song hoa bước đến.

    Hoàng Tử Hà thoáng thấy bóng người nọ thì hấp tấp đứng lên, không dám ngồi cùng Lý Thư Bạch nữa.

    Chỉ thấy người ấy vận một tấm áo lụa vàng tơ, đi dọc hành lang tới trước mặt họ, mỉm cười tươi tắn nhìn Lý Thư Bạch.

    Giữa khoảng sân rợp bóng trúc, vạt váy nàng bay phấp phới như một nhành cỏ huyên nở rộ, đẹp đến nao lòng.

    Hoàng Tử Hà vội hành lễ: “Tham kiến quận chúa.”

    Nữ tử bất ngờ xuất hiện tại dịch trạm này, chính là Kỳ Lạc quận chúa.

    Lý Thư Bạch cũng ngạc nhiên đứng lên: “Kỳ Lạc?”

    “Nghe nói Quỳ vương gia xuôi Nam đến Thục, muội bèn đến trước đợi sẵn.” Nàng bước vào phòng, hơi nâng vạt áo trước lên hành lễ với Lý Thư Bạch rồi ngước đôi mắt hạnh long lanh nhìn y. Vẻ mặt nàng đầy ranh mãnh, như muốn nói “Ngạc nhiên chưa”, song miệng vẫn nhận lỗi: “Xin Vương gia đừng để bụng, Kỳ Lạc chỉ là… từ khi sinh ra đã ốm yếu, nên nhiều năm nay vẫn luôn muốn được nhìn ngắm cảnh đẹp nước non. Song trong kinh chẳng có ai tin cậy được, chỉ mình Quỳ vương đây… ắt hẳn sẽ không ghét bỏ Kỳ Lạc.”

    Hoàng Tử Hà liếc trộm Lý Thư Bạch, thấy y vẫn ôn hòa, còn ra hiệu mời Kỳ Lạc quận chúa ngồi. Cô vội hành lễ cáo từ hai người, song vừa dợm bước đã thấy Lý Thư Bạch đưa mắt nhìn mình, đành quỳ xuống bên cạnh, rót trà cho Kỳ Lạc quận chúa.

    Kỳ Lạc quận chúa bưng ly trà trong tay, cúi đầu thưởng thức mùi hương rồi nhoẻn cười với Lý Thư Bạch.

    Người trong kinh ai ai cũng biết chuyện Kỳ Lạc quận chúa ái mộ Quỳ vương. Nàng đường đường là con nhà vương hầu quyền quý, năm xưa Ích vương ngồi lên ngai vàng thì giờ nàng đã thành công chúa, vậy mà lại chẳng ngại đường xa, đến tận dịch trạm hẻo lánh này đợi sẵn, còn nói cười ríu rít đề nghị Quỳ vương dẫn mình đi theo, khiến y nhất thời khó mà cự tuyệt, đành than thở: “Quận chúa chủ quan quá.”

    “Xưa nay Kỳ Lạc vẫn cẩu thả chủ quan, ương ngạnh cố chấp, đâu phải vương gia không biết!” Nàng bĩu môi đáp, song đã nhận ra thái độ bất đắc dĩ trong giọng điệu của y, biết rằng y sẽ không cự tuyệt thẳng thừng, nên không kìm được hé môi cười: “Dù sao Kỳ Lạc cũng chỉ còn có một thân một mình. Kỳ Lạc muốn theo vương gia đi khắp trời cao đất rộng, ai quản được chứ?”

    Nghe ra Kỳ Lạc quận chúa có ý đi theo Lý Thư Bạch, Hoàng Tử Hà không khỏi cười khổ trong lòng, song cũng có vài phần hí hửng muốn xem kịch hay, đưa mắt nhìn Lý Thư Bạch.

    Ích vương vốn là tôn thất họ xa, với đương kim hoàng đế chỉ như máu loãng. Sau khi ông ta qua đời, chỉ để lại một mình Kỳ Lạc quận chúa. Hoàng thất từng cho một đứa trẻ làm con thừa tự để Ích vương không bị tuyệt đường hương hỏa, nhưng đứa bé ấy mấy năm sau cũng chết yểu, mọi người đều nói dòng dõi Ích vương đã định là tuyệt hậu, không thể cứu vãn, nên hoàng thất chẳng ngó ngàng gì đến nữa, chỉ mình Kỳ Lạc quận chúa trông coi vương phủ, đám gia sư và quan thừa trong vương phủ cũng chẳng rèn cặp nổi cô bé bướng bỉnh từ nhỏ này, đành mặc cho nàng muốn gì làm nấy.

    Còn Lý Thư Bạch, vì thương nàng chẳng còn sống được bao lâu, nên vẫn hết mực nuông chiều. Hoàng Tử Hà nhớ y từng nói, trong lúc y đau khổ nhất, chỉ có nàng giơ tay nắm lấy tay y.

    Nhìn Lý Thư Bạch bất lực nhíu mày, Hoàng Tử Hà thầm nhủ, để xem gia làm gì được quận chúa?

    Chỉ nghe y dịu giọng bảo nàng: “A Uyển đã có nhã hứng như thế, đáng lẽ ta phải dốc hết sức hoàn thành tâm nguyện cho muội. Tiếc rằng lần này ta đến Thục là có việc quan trọng, e rằng không rảnh dẫn muội đi du sơn ngoạn thủy, thưởng lãm phong cảnh được.”

    Kỳ Lạc quận chúa bĩu môi, vẻ ấm ức ầng ậng trong mắt: “Kỳ Lạc biết vương gia bận rộn, có điều muội không rành tập quán ở phủ Thành Đô, nên mới phiền vương gia dẫn vào thành mà thôi, lẽ nào khó đến vậy ư?”

    Lý Thư Bạch nhíu mày: “Ta có việc công, vốn dĩ không tiện dẫn theo người khác. Huống hồ giờ bên cạnh ta cũng chẳng an toàn, nếu liên lụy đến quận chúa thì ta biết ăn nói làm sao với người của quý phủ?”

    “Kỳ Lạc dẫn theo mấy chục hộ vệ, có thể tự lo thân. Không chừng khi vương gia gặp chuyện, người của Kỳ Lạc cũng có thể giúp một tay.”

    “Ta chẳng mấy thông thuộc vùng này, thực sự không thể dẫn quận chúa đi du ngoạn được. Chi bằng thế này, ta cùng quận chúa đến phủ Thành Đô, quan viên ở đó hẳn rất sẵn lòng giúp quận chúa lên kế hoạch ngao du.”

    Kỳ Lạc quận chúa còn định nói gì đó, song Lý Thư Bạch đã đưa mắt cho Hoàng Tử Hà. Cô đành phải chai mặt lên tiếng: “Vương gia, công văn mấy ngày nay dồn lại đến hơn trăm quyển chưa phê duyệt, hơn nữa Chu quận thú vừa chân ướt chân ráo đến Thục, chẳng rõ hiện giờ đã gặp Tây Xuyên tiết độ sứ Phạm Ứng Tích hay chưa, mọi việc lớn nhỏ ở Thục đang chồng chất lại như núi, e rằng phải phiền gia ngó đến…”

    Chưa nói dứt câu, Kỳ Lạc quận chúa đã trừng mắt với cô, giận dữ mắng: “Một hoạn quan nhãi nhép bên cạnh Quỳ vương mà cũng dám chen vào trong lúc ta nói chuyện với vương gia ư?”

    Hoàng Tử Hà vội cúi đầu nhận tội, lúc ngẩng lên mới ấm ức nhìn Lý Thư Bạch nghĩ thầm, nô tài đâu có quen đóng vai người xấu!

    Lý Thư Bạch nhìn cô, tỏ ý “ngươi cứ ngoan ngoãn chịu trận đi.”


    Nghỉ ngơi một chốc, thời gian nóng nực nhất buổi trưa cũng đi qua. Dẫn theo Kỳ Lạc quận chúa đương nhiên không thể cưỡi ngựa như trước, Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà đành lên xe ngựa đi trước, xe của Kỳ Lạc quận chúa theo sau.

    Tuy ai nấy trang bị gọn nhẹ, song đám thị vệ của Kỳ Lạc quận chúa cũng đến bảy tám chục người, lại thêm hơn hai trăm tùy tùng của Quỳ vương phủ, cả đoàn người rồng rắn đi trên đường cái quan, bụi tung mù mịt, thanh thế rợp trời, Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà ngồi trong xe cũng cảm giác được cỗ xe đang lắc lư lăn bánh, tốc độ giảm quá nửa, chỉ biết nhìn nhau câm nín.

    Chiếc bình lưu ly treo trong xe không ngừng chao đảo, con cá nhỏ cũng mệt bởi vì bôn ba đường dài, cứ bồn chồn bơi quanh quẩn.

    Hoàng Tử Hà giơ tay giữ lấy chiếc bình để nó bớt rung lắc rồi hạ giọng hỏi: “Lặn lội đường dài thế này, sao gia còn đem nó theo? Lỡ như cái bình bị va đập thì sao? Để lại vương phủ vẫn an toàn hơn chứ.”

    Lý Thư Bạch liếc con cá, hờ hững đáp: “Quen rồi.”

    Quen rồi, quen với cái gì chứ? Là con cá nhỏ quen theo y đi đây đi đó, hay y quen có một con cá nhỏ bên canh, thỉnh thoảng lại chăm chú ngắm nhìn?

    Nhìn con cá A Già Thập Niết, Hoàng Tử Hà lại miên man nghĩ tới chuyện mười năm trước, y đã phát hiện ra nó trong vũng máu tiên hoàng khạc ra. Bấy giờ y còn là một đứa bé chưa hiểu chuyện đời, vậy mà giờ đây đã thành Quỳ vương uy danh lừng lẫy.

    Song suốt mười năm nay, con cá này không hề lớn lên, cũng không hề thay đổi, cứ lặng lẽ ở bên cạnh y như thế. Tựa như, có những điều vĩnh viễn dừng lại trong cái đêm y mười ba tuổi ấy, ngưng kết mãi mãi, không bao giờ thay đổi.

    Nghĩ vậy, cô lại buông chiếc bình trong tay ra, thầm thở dài. Bất luận là gì, thì qua mười năm cũng đã hơn cả một thói quen, trở thành một thứ quan trọng không thể thiếu được.

    Vầng dương từ từ ngả về Tây, vẫn chưa đến phủ Thành Đô.

    Cảnh Dục giục ngựa đi đến, bẩm khẽ ngoài cửa sổ: “Thưa gia, quận chúa hơi mệt, đã xuống xe nghỉ ngơi rồi.”

    Xe ngựa của họ đành dừng lại. Lý Thư Bạch nhìn qua cửa sổ về phía Kỳ Lạc quận chúa, thấy nàng xuống xe đứng tựa vào gốc cây, nét mặt chẳng có gì mệt mỏi, trái lại còn vô tư nhìn ngó quanh quất, với tay ngắt một đóa thục quỳ cầm ngắm nghía.

    Y đưa mắt cho Hoàng Tử Hà, cô hiểu ý, vội lấy bình nước bạc hà xuống xe vấn an Kỳ Lạc quận chúa rồi dâng lên, sẽ sàng thưa: “Gia sai nô tài đưa vật này cho quận chúa. Quận chúa đi đường dài mệt mỏi, có thể ngửi thứ này, sẽ thấy dễ chịu hơn.”

    Kỳ Lạc quận chúa vui vẻ nhận lấy đưa lên mũi ngửi: “Vương gia chu đáo quá, ta chỉ hơi tức ngực thôi.”

    Hoàng Tử Hà ngẩng lên nhìn quanh, thấy mây chiều đã tụ lại, chim mỏi bay tan tác, gió lùa qua rặng thông rì rào thì không khỏi rúng động trong lòng, vội giục Kỳ Lạc quận chúa: “Quận chúa mau lên xe thôi, e rằng cả đoàn phải đi gấp để kịp đến phủ Thành Đô.”

    “Không sao, nghe nói chỉ còn hơn hai chục dặm thôi, trước canh một nhất định sẽ đến.” Kỳ Lạc quận chúa nhìn quanh, cười nói: “Ngươi xem phong cảnh nơi này đẹp mê hồn, hoa nở khắp núi rừng, lẽ nào không muốn dừng lại thưởng lãm ư?”

    Hoàng Tử Hà cũng hết cách. Đành nói: “Quận chúa cao hứng, song hôm nay đã muộn rồi, chi bằng để đến mai lại sai người đưa quận chúa tới đấy du ngoạn hẳn một ngày, không rõ ý quận chúa thế nào?”

    “Ai cũng tấm tắc khen Dương công công hầu hạ bên cạnh Quỳ vương phong thái hơn người, nào ngờ lại chẳng phong nhã tí nào cả.” Kỳ Lạc quận chúa vùng vằng ném bông hoa trong tay xuống đất, xăm xăm đi về phía xe mình.

    Hoàng Tử Hà thở phào nhẹ nhõm, đang định quay về chỗ Lý Thư Bạch thì nghe thấy Kỳ Lạc quận chúa gọi với theo: “Dương công công đợi đã.”

    Cô ngoái lại, Kỳ Lạc quận chúa cầm trong tay một chiếc hộp nhỏ: “Suýt nữa thì quên mất, cái này ta tặng Quỳ vương.”

    Hoàng Từ Hà cúi đầu giơ tay nhận lấy, song Kỳ Lạc quận chúa lại giơ cao hộp lên: “Vật này không thể đưa qua người khác được, ta phải đích thân trao tặng vương gia.”

    Đứng giữ một trời chim bay xao xác tìm chốn nghỉ, Hoàng Tử Hà ngán ngẩm thưa: “Vậy sau khi đến phủ Thành Đô, quận chúa trao tặng gia cũng không muộn. Giờ vẫn mau mau lên đường đến Thành Đô thôi.”

    “Thôi đi, ta biết tỏng rồi, các vị đến Thành Đô, Chu sứ quân nhất định sẽ bày tiệc thiết đãi, rồi lại ca lại múa, dùng dằng đến nửa đêm không thôi. Sáng sớm ngày mai, Quỳ vương bận bịu bao nhiêu việc, muốn tìm gặp càng khó hơn.” Nói rồi, nàng vén vạt váy, băng qua thảm cỏ xanh mượt dưới gốc cây đi đến trước xe Lý Thư Bạch, tươi cười nói vào trong: “Suýt nữa thì quên tặng quà cho vương gia.”

    Lý Thư Bạch đặt công văn trong tay xuống, mỉm cười giơ tay đón lấy: “Cám ơn quận chúa nhọc lòng.”

    “Ai da, sao vương gia không xem?” Nàng lại vén vạt váy, giẫm lên bục gỗ bước lên xe, ngồi xuống cạnh Lý Thư Bạch, rồi tươi cười đưa chiếc hộp tới trước mặt y: “Đoán xem bên trong là gì nào?”

    Lý Thư Bạch nhướng mắt nhìn, nhíu mày: “Sao ta biết được.”

    “Gia đúng là, chẳng thèm đoán một câu lấy lệ nữa.” Kỳ Lạc quận chúa vùng vằng mở khóa, nhấc nắp hộp lên, miệng nói: “Kỳ Lạc phải quỳ trước bệ Phật cầu xin mấy tháng mới được đấy. Bồ tát nói rằng, thứ này nhất định có thể thực hiện nguyện vọng của Kỳ Lạc, tác thành cho tâm tư vô vọng…”

    Đang nói dở câu, nàng đã mở nắp hộp ra.

    Chưa kịp trông rõ thứ bên trong là gì, đã thấy ánh bạc nhoáng lên.

    Lý Thư Bạch phản ứng nhanh nhạy, trong khoảnh khắc ấy đã tóm ngay lấy chiếc kỷ bên cạnh, đập vào cái hộp: “Đừng mở ra!” Mấy tiếng vù vù khẽ vang lên, Kỳ Lạc quận chúa vừa mở nắp, một luồng khí rất yếu từ trong hộp đã xông ra, tràn ngập khoang xe.

    Không, thực ra đó không phải luồng khí, mà là hơn một trăm cây kim mảnh hơn cả lông trâu, tản mác khắp thùng xe như gió lốc, khó mà né tránh trong một không gian hẹp như vậy.

    May sao chiếc kỷ đã đập xuống, làm chiếc hộp văng khỏi tay Kỳ Lạc quận chúa, rơi xuống sàn xe. Sàn xe trải thảm nhung dày, toàn bộ số kim còn lại đều cắm cả xuống thảm, êm như ru.

    Song bấy nhiêu cây kim, ắt cũng phải lọt lưới ít nhiều. Lý Thư Bạch chẳng nói nửa lời, giơ tay nhổ phắt một cây kim mảnh găm vào khuỷu tay trái mình. Nhưng Kỳ Lạc quận chúa chính tay mở nắp, là người ở gần chiếc hộp nhất, nên ngực và vai đều bị đâm, lập tức la hoảng lên.

    Lý Thư Bạch vội tóm lấy cánh tay Kỳ Lạc quận chúa, kéo nàng nhảy từ trên xe xuống.

    Kỳ Lạc quận chúa đã lịm đi, cặp mắt chỉ vô thức nhìn y một lần cuối cùng rồi đờ ra.

    Lý Thư Bạch ôm lấy nàng, trầm giọng ra lệnh: “Cảnh Dục, tập hợp cung thủ; Cảnh Hữu, bố trí yểm hộ.”

    Mây xám bốn bề, sắc trời dần tối, gió lùa qua khe núi, rít gào như sóng dồi.

    Tiếng la thảm vang lên khắp bốn bề, chen vào đó là tiếng bật dây cung, rồi tiếng tên bắn ra vun vút.

    Tên bay rào rào như mưa, nhắm về phía đội xe đang đỗ ở đó, chẳng buồn phân biệt là thị vệ của phủ Quỳ hay của Kỳ Lạc quận chúa, nhất loạt đều giết sạch.

    Đám thị vệ của Kỳ Lạc quận chúa tức thì luống cuống tay chân, kẻ thì trúng tên, người thì bỏ chạy, tán loạn như ong vỡ tổ.

    Trái lại, đám thị vệ phủ Quỳ đã được huấn luyện nghiêm ngặt, dưới sự chỉ huy của bọn Cảnh Dục, chỉ trong nháy mắt đã tập hợp lại, nấp sau thân cây, mình ngựa hoặc xe ngựa, lập thành trận thế đối kháng với kẻ địch bên ngoài. Có kẻ đã rút cung tên ra, bắt đầu phản kích.

    Tên bay ra xối xả, tiếng ngựa hí thê thảm cùng tiếng la của đám thị vệ trúng tên vang lên không ngớt. Càng lúc càng nhiều tên bắn về phía mấy người bọn họ nấp sau xe, một mũi tên suýt nữa thì găm vào chân Kỳ Lạc quận chúa lộ ra ngoài.

    Lý Thư Bạch để Kỳ Lạc quận chúa ngồi dựa vào dưới xe, giơ tay thăm dò hơi thở của nàng, rồi lại bỏ tay xuống.

    Đương lúc hoảng loạn, Hoàng Tử Hà cũng chẳng chú ý đến vẻ mặt y, chỉ mải quan sát động tĩnh bên ngoài.

    Đội thị vệ phủ Quỳ dù kiêu dũng đến đâu cũng khó mà địch nổi bấy nhiêu quân mai phục cứ lớp này nối gót lớp kia, bắt đầu rơi vào thế yếu.

    Hoàng Tử Hà không có binh khí phòng thân, đành quay lại nhìn Lý Thư Bạch. Y ném cho cô một thanh đoản kiếm tùy thân, khẽ dặn: “Lát nữa cưỡi Na Phất Sa chạy về hướng Đông Nam.”

    Hoàng Tử Hà nắm chặt đoản kiếm, nói nhanh: “Thế công của đối phương kín kẽ thế kia, chỉ e khó mà xông ra được.”

    “Kẻ địch dùng nỏ cửu liên, một phát bắn được ba mũi tên, sau khi bắn liên tục chín phát thì phải dừng lại lắp tiếng hai mươi bảy mũi tên vào. Ta thấy tuy chúng thay phiên nhau bắn, nhưng thứ tự không đồng đều, đặc biệt là góc Đông Nam phối hợp rời rạc, đến lúc đó nhất định sẽ lộ sơ hở, huống hồ mũi tên của nỏ cửu liên nặng đến nửa lạng, một người liệu mang được bao nhiêu? Chúng còn hành quân giữa núi hoang thế này, ta không tin chúng có thể duy trì thế công kia lâu được.”

    Quả như Lý Thư Bạch dự đoán, đợt tấn công đầu tiên vừa qua đi, mưa tên cũng ngớt hẳn. Bọn Cảnh Dục Cảnh Hữu tức thì tung mình lên ngựa, hòng phá vây bỏ chạy.


    Hoàng Tử Hà nhảy lên Na Phất Sa, quay đầu ngựa nhìn về phía Lý Thư Bạch.

    Địch Ác xem chừng đã sốt ruột lắm, hí dài một tiếng, tung vó chạy tới.

    Lý Thư Bạch nhìn Kỳ Lạc quận chúa còn chưa biết sống chết ra sao, cuối cùng cũng lên ngựa, lướt qua người nàng, bỏ lại sau lưng la liệt xác ngựa và tùy tòng hộ vệ, dẫn mọi người chạy thẳng về hướng Đông Nam.

    Đang lúc mưa tên vừa dứt, người bên kia không ngờ đối phương lại thình lình phá vây, tuy chúng cũng lập tức bày lại thế công, song trước khí thế tức nước vỡ bờ, sự chống cự luống cuống ấy hoàn toàn vô hiệu. Sau khi vài kẻ xông lên cản trở bị đám Cảnh Dục đi đầu đốn hạ, mấy thớt ngựa phía sau đuổi đến ngay, mấy tên vung đao chuẩn bị cản đường bị giày xéo dưới đất, kêu gào thảm thiết, khiến bọn người xung quanh nghe mà rợn gáy, tức thì bỏ chạy tứ tán.

    Lý Thư Bạch cưỡi ngựa dẫn đầu, mấy chục người phía sau theo y đột phá vòng vây, rồi chạy tản ra.

    Dọc đường từ Hán Châu đến Thành Đô toàn rừng rậm và đồng hoang, một khi tản ra thì chẳng khác nào về với nước, kẻ địch không thể diệt sạch bọn họ được.

    Giữa rừng hoang đang tối dần, Hoàng Tử Hà bám sát Lý Thư Bạch, hai thớt ngựa đều thần tuấn vô song, một trước một sau chạy thẳng vào rừng.

    Chợt nghe sau lưng có tiếng mũi tên rồi một ngọn lửa xé gió bay vút qua bên tai Hoàng Tử Hà, nhắm thẳng vào Lý Thư Bạch phía trước.

    Cô buột miệng la lên: “Cẩn thận!” Lời còn chưa ra khỏi miệng, Lý Thư Bạch nghe tiếng rít gió đã nhanh nhẹn cúi người, Địch Ác cũng nhảy sang phải né tránh, mũi tên nọ sượt qua mình nó, cắm phập vào gốc tùng bên cạnh.

    Vỏ cây tùng khô cong, lại rườm rà lắm cành, vừa gặp lửa đã bùng cháy lên, rọi sáng bừng ở giữa hai cánh rừng đang tối dần hẳn.

    “Đi thôi!” Lý Thư Bạch chẳng buồn nhìn cây tùng cháy rừng rực, chỉ khẽ gọi cô.

    Hoàng Tử Hà vội giục Na Phất Sa, chạy vụt qua cây tùng.

    Xa xa đằng sau có tiếng người quát lớn: “Phải giết cho được kẻ ngồi trên hai thớt ngựa một đen một trắng kia!” Nghe như giọng Từ Châu.

    Tên bay rào rào về phía hai người, song còn kém xa trận mưa tên vừa nãy. Giữa cách rừng tranh tối tranh sáng, họ chỉ biết dựa vào hai con tuấn mã mà phi như bay.

    Ra khỏi rừng tùng là vách đá, họ đành men theo vách đá, đi vòng vèo nhắm hướng sườn núi đằng trước. Nơi này không có cây cao, ngựa phải len lỏi giữa bụi rậm, vướng chân vướng cẳng, lại không có gì che chắn, sau lưng thì truy binh đuổi sát.

    Lý Thư Bạch chẳng nói chẳng rằng, cứ nhằm thẳng cánh rừng trước mặt. Hoàng Tử Hà đang giục ngựa chạy theo, chợt thấy Na Phất Sa hí lên đau đớn, vấp một cái rồi quỵ xuống.

    Thì ra nó đã trúng tên vào chân sau, ngã gục.


    Hoàng Tử Hà cũng ngã nhào theo nó, chỉ nháy mắt nữa thôi sẽ rơi vào bụi gai.

    Còn chưa kịp hét lên, cô đã thấy thắt lưng nhẹ bỗng, cả người được ôm lấy trên không, kéo ra khỏi bụi gai.

    Lý Thư Bạch ôm cô vào lòng, một tay cầm cương, tay kia bảo vệ cho cô. Địch Ác vẫn phi băng băng, nhằm thẳng cánh rừng tối đen trước mặt.

    Ngoái đầu nhìn Na Phất Sa đang hí lên thê thiết, lại nhớ đến những thị vệ vừa bỏ mạng, cô không khỏi kinh hãi. Ngẩng lên nhìn, Lý Thư Bạch đang ôm mình song ánh mắt vẫn chăm chú nhìn về phía trước, giữa ánh sáng lờ mờ của buổi chạng vạng, vẻ chăm chú và kiên nghị trên gương mặt y cùng cánh tay vững vàng ôm ngang người cô, khiến tất cả hoảng loạn và lo lắng của cô từ từ tan biến hết, lòng bình tĩnh hẳn.

    Cô biết, y nhất định sẽ đưa cô an toàn chạy thoát.

    Chẳng mấy chốc, họ đã vượt ra khỏi tầm bắn, đợt mưa tên phía sau không sao đuổi kịp. Tiếng hô hào chém giết cũng xa dần, bóng tối đã phủ kín núi rừng.

    Địch Ác dũng mãnh là vậy mà cuối cùng cũng kiệt sức, phi chậm lại.

    Vầng trăng sáng nhô lên khỏi khoảnh rừng, rắc ánh bạc khắp xung quanh. Cả thế giới yên ắng hẳn, như đang chìm trong giấc ngủ.

    Ngỡ như trận chém giết đẫm máu vừa rồi chỉ là một cơn ác mộng.

    Hoàng Tử Hà chỉ thấy cánh tay Lý Thư Bạch vòng quanh người mình từ từ lỏng ra, song sức nặng đè lên cô lại càng lúc càng tăng.

    Cô hết sức căng thẳng, nhưng vẫn gắng giữ bình tĩnh, mặc cho Địch Ác chở họ thong thả đi thêm một đoạn đường nữa, mới gọi khẽ: “Vương gia…”

    Y không đáp, chỉ tựa đầu vào vai cô. Hơi thở nặng nề của y phả vào cổ cô rất bất thường.

    Cô giơ tay đỡ lấy Lý Thư Bạch, ngẩng đầu nhìn y.

    Lòng bàn tay dâm dấp mồ hôi, lại nóng khác thường. Cô biết đó là gì.

    Song Lý Thư Bạch chỉ nhắm nghiền mắt, giọng như gió thoảng: “Hoàng Tử Hà, tiếp theo đây phải trông cậy vào ngươi rồi.”

    Cô đỡ lấy thân hình y đổ xuống, nhìn cánh rừng tối đen trước mặt, chẳng biết mình đang ở đâu, cũng chẳng biết phải đi đâu. Trước không có đường, sau là kẻ địch, chỗ dựa duy nhất của cô hiện giờ cũng đã ngã xuống.

    Hoàng Tử Hà nghiến răng đáp khẽ: “Vâng.”
     
  10. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 2 - Rừng thẳm người xưa
    Trước mắt là một khe suối, xung quanh là rừng rậm. Có suối, có thể ẩn nấp cũng có thể trốn thoát.

    Hoàng Tử Hà nhảy xuống ngựa, rồi vỗ về vào đầu Địch Ác. Địch Ác xưa nay luôn hung hăng, vậy mà lúc này lại rất hiểu chuyện, bèn quỳ một gối xuống.

    Hoàng Tử Hà đỡ Lý Thư Bạch đã hôn mê xuống ngựa, trông thấy mũi tên găm vào bả vai y, cô không dám rút mà đi ra bờ suối vạch bụi cỏ tìm kiếm, ngắt lấy mấy búi cỏ nhọ nồi và cỏ xuyến, rồi mới dùng đoản kiếm rạch áo y để mũi tên lộ ra.

    Ánh trăng nhàn nhạt rọi lên mình hai người. Dưới trăng, da dẻ Lý Thư Bạch càng tái nhợt, vết máu đỏ tươi như xoáy vào mắt người ta.

    Cô lặng lẽ cắn môi, cánh tay nắm cổ áo y run run. Đây là lần đầu tiên cô đặt tay lên bờ vai trần của nam nhân. Hoàng Tử Hà thấy hai má nóng bừng, thầm nghĩ, nếu ánh trăng sáng thêm một chút, nếu lúc này có ai bắt gặp, ắt sẽ thấy mặt cô đỏ như hoa anh đào.

    Đang do dự, cô bỗng kinh hoàng nhận ra, kẻ lúc ban sáng vừa ném cho cô túi kẹo, giờ đã bị trọng thương bất tỉnh nằm đây. Biết đâu từ giờ trở đi, sẽ chẳng còn thấy người ấy dịu dàng ngoái đầu nhìn cô như hôm nay nữa…

    Hoàng Tử Hà hít một hơi thật sâu rồi cúi xuống xem xét vết thương của y. Thấy miệng vết thương không bị đen bầm, mũi tên cũng không có ngạnh ngược, cô mới thở phào nhẹ nhõm.

    Cô rửa sạch nắm thảo nhược, nhai nát rồi dùng đoản kiếm rạch miệng vết thương, rút mũi tên ra, lại đắp thảo dược lên.

    Vết thương không nhỏ, máu tuôn như suối, cô sợ thuốc đắp trôi hết, đành xé áo ngoài ra sức băng bó lại thật chặt.

    Xong xuôi tất cả thì trăng đã lên đến giữa trời. Hoàng Tử Hà thở phào nhẹ nhõm, bấy giờ mới nhận ra cả người đã đầm đìa mồ hôi. Cô vừa quệt mồ hôi vừa nhìn Lý Thư Bạch nằm sấp trên thảm cỏ, y bị thương rất nặng, dưới ánh trăng, bờ môi lại càng tái nhợt, cắt không ra giọt máu.

    Cô ngẩn người, lần đầu tiên nhận ra, Quỳ vương Lý Thư Bạch, kẻ không gì không làm được, chỗ dựa vững vàng như núi của cô, cũng có lúc yếu ớt thế này.

    Hoàng Tử Hà lẵng lẽ nhìn Lý Thư Bạch hồi lâu, rồi khép lại vạt áo cho y, che đi dải băng buộc vụng.

    Cô khó nhọc đứng dậy, đi xuống khe suối rửa tay, chợt thấy lòng bàn tay lốm đốm vết đen, không khỏi giật nảy mình, lẽ nào mũi tên có tẩm độc?

    Nhưng rồi sực nhớ, đây hẳn là nước cỏ nhọ nồi dây ra tay mà thôi.

    Có điều cô vẫn không yên tâm, lại lật đật chạy đến cạnh Lý Thư Bạch, quỳ xuống xem tình hình.

    Y bị thương ở lưng, nằm sấp trong bụi cỏ, hơi thở đều đặn. Hoàng Tử Hà ghé sát lại săm soi gương mặt y, quả nhiên thấy lờ mờ sắc đen, lòng cô tức thì nặng trĩu, lại nghĩ có thể do ánh trăng mờ nhạt nên không nhìn rõ được, song xem đến hai tay y thì thấy tay trái cũng bắt đầu thâm tím đi. Cô vội vén tay áo y lên, trông thấy một vết bầm đen nơi khuỷu tay, chính giữa có một lỗ đen rất nhỏ.

    Y trúng độc châm lúc nào nhỉ? Không thể là trong lúc chạy trốn được, vậy chỉ có khả năng là… Cô nhớ ra ngay cảnh Lý Thư Bạch kéo Kỳ Lạc quận chúa từ trên xe ngựa xuống. Bấy giờ ngực và cổ quận chúa đều trúng độc châm, nhất định là từ trong chiếc hộp kia bắn ra.

    Chẳng biết Kỳ Lạc quận chúa còn sống hay đã chết? Hoàng Tử Hà dựa vào gốc cây, nhớ lại lúc ấy Lý Thư Bạch đã nhảy lên ngựa, bỏ mặc Kỳ Lạc quận chúa. Nếu quận chúa còn sống, liệu y có tuyệt tình bỏ nàng lại như thế không?

    Nghĩ thì nghĩ vậy, song cô vẫn ảo tưởng, biết đâu Lý Thư Bạch biết kẻ địch có quan hệ với Kỳ Lạc quận chúa, sẽ không ra tay với nàng, nên mới bỏ nàng lại. Có lẽ lúc ấy quận chúa vẫn còn sống, có lẽ loại độc này không nguy hiểm đến tính mạng.


    Có điều cô không dám khẳng định. Lý Thư Bạch xông xáo phá vây, lại bôn ba đường dài bảo vệ cô, chẳng biết chất độc đã ngấm đến đâu nữa.

    Việc không thể chậm trễ, Hoàng Tử Hà đành ôm cánh tay y vào lòng, ra sức bóp vết thương, hòng nặn máu độc. Song cô nặn thế nào cũng không ra máu, đành dùng thanh đoản kiếm y đưa rạch một hình chữ thập lên khuỷu tay, cúi xuống hút máu độc ra.

    Hết ngụm này tới ngụm khác bị cô hút ra, nhổ xuống bụi cỏ. Dưới ánh trăng, nhìn chẳng tươi như máu bình thường. Cô thấy hình như thân thể Lý Thư Bạch hơi lạnh, không dám hút tiếp nữa, mà mệt mỏi nằm xuống cạnh y, bối rối nhìn vầng trăng trên trời.

    Vầng trăng hạ thuyền treo giữa nền trời trong vắt.

    Gió đêm lướt qua ngọn cây xào xạc, khi gần khi xa, càng tăng thêm vẻ quạnh quẽ.

    Nghe tiếng gió rít, Hoàng Tử Hà bỗng dưng lại đâm lo sợ, bất giác ghé đầu lại gần Lý Thư Bạch, áp mặt vào vai y, lắng nghe tiếng y thở.

    Mảnh như tơ, lại không đều, ngưng trệ mà chậm chạp, nhưng vẫn còn thở.

    Cô thở phào quay đi thẫn thờ hồi lâu, rồi đột ngột ngồi phắt dậy, lê tấm thân mệt nhừ lại gần khe suối tìm tòi thứ gì đó.

    Song bờ suối quanh đó chỉ có lơ phơ vài cọng cỏ, tìm mãi mới được mấy nhánh bán biên liên * và hai cây cỏ long đảm**. Có bệnh thì vái tứ phương, cô đập dập đám thảo dược vắt lấy nước, nhỏ vào miệng Lý Thư Bạch, cũng chẳng rõ y có nuốt được hay không, cô đành giữ miệng y ngậm, đợi một lúc lâu, chỗ bã thuốc còn lại, cô đắp lên vết thương ở khuỷu tay y.

    *bán biên liên: một loại cây thuộc họ hoa chuông, có tác dụng sát trùng, tiêu sưng.

    ** long đảm: một loài cây, rễ dùng làm thuốc, có tác dụng sát trùng, hạ sốt.


    Chẳng biết làm gì thêm nữa, cô ngồi xuống bên cạnh, hai tay ôm lấy đầu gối, nhìn Lý Thư Bạch không rời mắt.

    Lý Thư Bạch đang mê man. Ánh trăng chảy tràn trên gương mặt y, làm nổi bật đường nét đẹp đẽ như được thợ khéo tạc nên, song cũng giống như ngọc chuốt, không có mảy may sinh khí, không còn chút sắc hồng nào.


    Cô chợt thấy một nỗi kinh hoàng khủng khiếp dâng lên, run run lần tay vào ngực áo y, toan sờ xem tim y đập thế nào, thì chạm phải một tờ giấy mỏng.

    Hoàng Tử Hà sững sờ móc tờ giấy ấy ra xem dưới ánh trăng mờ. Chỉ thấy hàng bát tự ghi bằng thể chữ triện ngoằn ngoèo như rắn đầy quỷ dị, trên bát tự lại viết chồng ba chữ lớn: Côi, Tàn, Góa.

    Ánh trăng lạnh lẽo rọi lên ba chữ ấy, càng làm nổi bật vòng tròn màu máu khoanh quanh chữ “Tàn”.

    Tàn, tức là suy yếu lụi tàn, sức sống tắt lịm, từ nay không thể vực dậy nữa.

    Cô đờ đẫn nhét lá bùa về chỗ cũ, thấy đầu ong ong, lòng đau như có ngàn vạn lưỡi dao đâm, khiến cô bất giác run bần bật, mồ hôi túa ra đầm đìa.

    Sự đời quả là đáng sợ, trưa nay họ vừa nhắc đến điềm gở của lá bùa, ai ngờ đến tối đã linh nghiệm!

    Lẽ nào thực sự có cái gọi là định mệnh, không thể tránh thoát hay sao?

    Nỗi khiếp sợ trước những thứ mình chưa biết khiến cô cảm thấy cánh rừng tối om này càng thêm âm u rùng rợn. Hơn nữa, chỗ dựa duy nhất của cô giữa cánh rừng âm u, trước tương lai mờ mịt ấy đã ngã xuống.

    Y nói, Hoàng Tử Hà, tiếp theo đây phải trông cậy vào ngươi.

    Vâng, bấy giờ cô đã nói, gia cứ yên tâm.

    Hoàng Tử Hà nhẩm lại lời này trong lòng một lần. Cô ngồi trông cho y ngủ, thỉnh thoảng lại giơ tay thăm dò hơi thở của y. Phải cảm nhận được hơi thở của y phả vào đầu ngón tay, phải chạm vào thấy da y còn ấm, cô mới tạm an lòng.

    Chẳng biết đã ngồi đó bao lâu, đến khi lưng mỏi nhừ, cô từ từ ngả người nằm xuống, cuộn tròn cạnh y, song vẫn không quên nắm cổ tay y để luôn cảm nhận được mạch đập yếu ớt dưới da, rồi mới chịu nhắm mắt lại.

    Đã gần sáng, Hoàng Tử Hà mệt lử, song không cách nào ngủ được, cứ mơ màng một lúc lại sực tỉnh. Gió đêm lạnh buốt, thỉnh thoảng cảm thấy da y lành lạnh, tim cô lại đập rộn lên vì căng thẳng. Cô biết y mất máu quá nhiều, nhất định cơ thể sẽ lạnh đi, nhưng không dám đốt lửa, sợ làm kẻ địch chú ý.

    Nghĩ đi nghĩ lại cũng chẳng có cách nào, cô đành nhích lại gần, dè dặt ôm lấy eo Lý Thư Bạch, áp người vào lưng y, hy vọng có thể dùng hơi ấm của mình xua tan bớt cái lạnh.

    Ôm ấp thân mật ở nơi hoang dã thế này, nếu bị người ta bắt gặp, e rằng cả đời cũng không rửa sạch được tai tiếng. Nghĩ vậy, song cô vẫn ôm chặt lấy y, không hề lơi tay.

    Cô lần mò sờ cổ tay Lý Thư Bạch, thấy mạch tượng tuy yếu ớt song không hề đứt đoạn, đang ngơ ngẩn nghĩ ngợi, chợt cảm thấy xung quanh có vẻ bất thường, vội áp tai xuống đất thì nghe thấy tiếng vó ngựa từ đằng xa đưa lại.

    Tiếng vó ngựa rối loạn đứt quãng, lộ rõ vẻ uể oải, hẳn là chúng đã lùng sục suốt một đêm. Và hiện giờ, đã kéo đến đây.

    May sao, từ tiếng vó ngựa cho thấy, chúng đã bị rừng thông chia cắt, chỉ có hai ba thớt ngựa mò được tới gần chỗ bọn cô.

    Nhưng dù chỉ có hai ba người, thì cô và Lý Thư Bạch cũng làm sao đối phó được đây? Giờ y đã thế này, sao chịu nổi cảnh tháo chạy trên đường núi gập ghềnh?

    Nghĩ đến đây, cô bật dậy, quất cho Địch Ác một roi đau điếng. Con ngựa đang dựa vào gốc cây gà gật thì hí dài một tiếng, giận dữ thở phì phò lao đến chỗ cô.

    Hoàng Tử Hà thấp giọng, giơ tay trỏ con đường phía trước, bảo nó: “Chạy đi! Mau chạy đi!”

    Địch Ác bị đau, lồng lên chạy như tên bay, vượt qua khe suối, lao thẳng về phía khoảnh rừng tối đen phía trước.

    Cô cũng lấy hết sức kéo Lý Thư Bạch dậy, giấu y vào bụi rậm bên bờ suối còn mình ngồi bên cạnh, nín thở mở to mắt nhìn ra ngoài.

    Hai thớt ngựa từ thung lũng đằng sau phi tới, băng qua bụi cây mà họ ẩn nấp, nhằm thẳng hướng Địch Ác vừa chạy đi. Một kẻ dẫn đầu truy đuổi, còn kẻ kia giương cung lắp tên bắn ra, tức thì một ngọn lửa nhỏ bay vút đi, vạch một luồng sáng như thanh loan đao xé toang màn đêm tăm tối.

    Cô ngồi trong bụi cỏ đợi thêm một lúc thật lâu, tới khi không nghe thấy tiếng vó ngựa nữa, bốn bề yên tĩnh lại như lúc ban đầu mới thở phào nhẹ nhõm, song chưa dám bước ra ngay mà nhích lại, bó chặt chỗ lá thuốc vừa bị xê dịch, thấy vết thương sau lưng y không chảy máu nữa, mới hơi yên lòng, ngoái đầu nhìn ra con suối bên ngoài.

    Không nhìn thì thôi, vừa nhìn cô đã giật bắn mình.

    Một bóng đen đã đứng lù lù trước bụi cỏ cô nấp tự khi nào.

    Tay người nọ dắt một thớt ngựa, hiển nhiên cũng là một trong những kẻ truy sát, song chẳng biết tại sao không đi theo hai người kia, mà nán lại đây.

    Lúc này, hắn đang đứng dưới ánh trăng, im lìm nhìn.

    Vầng trăng đã ngả về Tây, ánh sáng từ sau lưng hắn hắt lại, mặt hắn bịt khăn đen, chỉ để lộ ra đôi mắt lóe sáng, trừng trừng nhìn cô.

    Hoàng Tử Hà chợt thấy tim ngừng đập, ngồi đờ ra cạnh Lý Thư Bạch đang mê man.

    Rốt cuộc kẻ nọ cũng rời mắt khỏi cô mà nhìn sang Lý Thư Bạch, đoạn hạ giọng nói thật chậm rãi: “Quỳ vương Lý Thư Bạch.”

    Hắn nói giọng Từ Châu trầm khàn, chính là kẻ ra lệnh truy kích bọn họ, hẳn là đầu lĩnh của đám sát thủ.

    Nỗi kinh hoàng dâng lên trong lòng Hoàng Tử Hà, cô muốn đứng dậy nhưng hai chân cứ nhũn ra, lại ngã xuống cạnh Lý Thư Bạch.

    Kẻ nọ rút thanh kiếm đeo ở thắt lưng ra, từng bước tiến lại gần hai người, thân hình hắn chắn mất ánh trăng, bóng hắn đổ xuống người họ, làm Hoàng Tử Hà sợ đến tưởng chừng nghẹt thở.

    Ánh mắt hắn lướt qua người cô rồi dừng ở Lý Thư Bạch, hắn giơ cao thanh kiếm trong tay, toan đâm vào tim y.

    “Ta biết người là ai rồi!” Đúng lúc này, cô thình lình la lên, chặn đứng động tác của hắn.

    Kẻ nọ khựng lại, lạnh lùng liếc cô, song chẳng hề lên tiếng.

    “Ngươi đổi giọng nói, cố ý bắt chước giọng Từ Châu để bọn ta tưởng là bè đảng cũ của Bàng Huân báo thù cho chủ, đúng không?”

    Hắn chẳng nói chẳng rằng, chỉ đưa mũi kiếm nhằm thẳng vào yết hầu của cô.

    Lồng ngực cô phập phồng dữ dội, hơi thở ngắt quãng vì thanh kiếm trỏ vào cổ họng, giọng nói cũng nghẹn lại, vừa thấp vừa khẽ: “Song thực ra ta biết ngươi là người trong kinh thành, hơn nữa rất có thể còn xuất thân từ thập ty, vì…”

    Giọng cô càng lúc càng nhỏ lại, ấp a ấp úng, tựa hồ sợ đến nỗi nói không ra lời. Kẻ kia hơi khom người cúi đầu ghé tai lại, hòng nghe cho rõ hơn.

    “Vì khi ngươi rút kiếm, ngón cái khẽ miết sang bên cạnh theo thói quen…” Cô nói đến đây, hắn mới sực hiểu ra, vô thức nhìn xuống bàn tay phải đang cầm kiếm của mình.

    Chỉ một cái liếc mắt, song hắn chợt thấy trước mắt hoa lên, Hoàng Tử Hà đã từ trong bụi cỏ xông ra, vơ một nắm cát ném vào mắt hắn.

    Kẻ nọ phản ứng cực nhanh, lập tức xoay người tránh được, tiếc rằng đôi bên quá gần nhau, trong khoảnh khắc nhắm mắt lại, hắn bỗng thấy sườn trái mát lạnh. Tuy tránh được không để trúng chỗ hiểm, song mạng sườn vẫn bị thương, máu tươi tuôn ra xối xả.

    Hắn đè chặt sườn trái, loạng choạng lùi liền hai bước, hai mắt không tài nào mở ra được, đành một tay cầm kiếm, một tay bịt vết thương, vung kiếm xuất ra một loạt chiêu phòng thủ, không để cô áp sát lại gần.

    Chỉ nghe Hoàng Tử Hà nói: “Đốc kiếm của người trong thập ty ở trong kinh thành đều có chốt cài, để phòng khi đi lại giữa phố đông kiếm khỏi bị xóc nảy bật ra, đồng thời cũng ngầm răn đe người dùng không được tùy tiện rút kiếm. Bởi vì khi người của thập ty rút kiếm đều có thói quen gảy ngón cái mở chốt cài ra. Nếu người là bè đảng cũ của Bàng Huân từ Từ Châu đến, sao lại có thói quen này?”

    Kẻ kia không nói nửa lời, chỉ bịt chặt sườn trái, thấy cơn đau dữ dội buốt đến tận xương, không đứng vững nổi, đành phải dựa vào gốc cây sau lưng, dốc nốt chút sức tàn điểm huyệt cầm máu rồi trừng trừng nhìn cô, bất động. Tuy hắn vẫn cầm kiếm nhưng thân thể đã run bắn lên, chẳng còn sức tấn công nữa.

    Hoàng Tử Hà xé một mảnh áo ngoài, tiến lại gần hắn.

    Kẻ nọ nhìn cô chòng chọc, không hé răng nửa lời, song ánh mắt hết sức phức tạp, không sợ hãi, không oán hận, chỉ có bất lực và kinh ngạc.

    Hoàng Tử Hà cũng chẳng hơi đâu dò đoán ánh mắt kẻ đó, cô đi thẳng tới trước mặt hắn, một chân giẫm ngay lên kiếm còn chân kia đá mạnh vào cổ tay hắn. Dù dũng mãnh đến đâu chăng nữa, hắn cũng không ngăn được tiếng rên khẽ, thanh kiếm trong tay tức thì rơi ra.

    Hoàng Tử Hà nhanh nhẹn tóm lấy hai tay hắn, dùng mảnh vải vừa xé trói lại, rồi tiện tay giật khăn che mặt của hắn xuống, trông thấy một gương mặt lạ lẫm và tẻ nhạt, gần như hễ thấy là quên, bèn nhét ngay tấm khăn che mặt vào miệng hắn.

    Xử lý xong xuôi, cô mới nhặt lấy thanh kiếm, rồi ngồi thụp xuống trước mặt, xem xét vết thương của hắn. Một kiếm vừa rồi của cô rất nặng tay, gần như rách toác da bụng hắn, nếu phản ứng chậm một chút, chắc đã bị cô xẻ toang bụng rồi.

    Hoàng Tử Hà lật đi lật lại thanh đoản kiếm, trông thấy bên trên khắc rõ hai chữ “Ngự Trường” thì buột miệng lẩm bẩm: “Thảo nào.”

    Đoạn cô xé vạt áo kẻ nọ, băng bó quấy quá bên ngoài cho hắn, cũng chẳng quan tâm hắn sống hay chết. Mãi tới lúc đứng dậy, thấy hắn vẫn trừng trừng nhìn mình không chớp mắt, cô mới ném lại một câu: “Yên tâm đi, giờ ta chưa giết ngươi đâu, dù sao nếu đồng bọn của ngươi lần tới đây, ta cũng có thể đem ngươi ra làm con tin.”

    Vất vả cả đêm, cuối cùng chân trời cũng tang tảng sáng, sắp đến lúc bình minh. Hoàng Tử Hà đi xuống khe suối vốc nước rửa mặt, nước lạnh táp vào mặt khiến cô tỉnh táo hẳn. Cô vẩy ráo tay rồi dắt ngựa của tên kia lại, lục lọi cái túi đeo trên mình ngựa.

    Ngoại trừ cung tên, trong túi còn mấy quan tiền, dăm viên muối, mấy lọ cầm máu, và một lọ phấn bột không rõ công dụng. Cô mở nắp ngửi thử, thấy có mùi đại hoàng và địa sinh, bèn cầm tới trước mặt tên kia.

    Hắn đã mất quá nhiều máu, cặp mắt cũng hơi thất thần.

    Hoàng Tử Hà kề thanh đoản kiếm vào cổ hắn rồi móc tấm khăn nhét trong miệng hắn ra, hỏi: “Đây là gì?”

    Kẻ nọ liếc mắt nhìn, nghiến răng đáp: “Ta mắc chứng đau đầu, mỗi lúc phát bệnh lại chiêu ngụm nước nuốt một ít thuốc này.”

    Hoàng Tử Hà cười nhạt: “Ai lại dùng sinh địa và đại hoàng trị đau đầu? Đây rõ ràng là thuốc giải độc!”


    Hắn nhắm nghiền mắt lại, chẳng buồn nhìn cô, cũng chẳng hé nửa lời.

    “Ta không biết các ngươi làm cách nào lợi dụng được Kỳ Lạc quận chúa, nhưng quận chúa dù sao cũng là hoàng thân quốc thích, các ngươi đã chuẩn bị độc châm, ắt sẽ có sẵn thuốc giải, phòng khi xảy ra chuyện gì cũng có thể cứu chữa kịp thời để trở về còn có cái ăn nói. Tiếc rằng quận chúa không dùng được nữa. Thứ ngươi đem theo đây chính là thuốc giải, đúng không?”

    Rốt cuộc hắn cũng chịu mở miệng, song vẫn dùng giọng Từ Châu khàn khàn: “Mỗi lần dùng nửa thìa, pha vào nước.”

    Hoàng Tử Hà cứa nhẹ kiếm vào cổ hắn: “Nếu ngươi dám nói láo, để Quỳ vương xảy ra chuyện gì, thì ta cũng không giết ngươi đâu. Hoạn quan như ta, thích nhất là khiến người khác thành ra giống mình đấy…”

    Nói rồi, cô dịch thanh đoản kiếm xuống, gí sát vào bụng dưới hắn.

    Tên thích khách thở gấp, vẻ mặt hơi đờ đẫn, rõ ràng là mất máu quá nhiều. Song hắn vẫn nhìn dán vào cô, cất giọng thấp trầm mà rành rọt: “Một cô gái xinh đẹp như thế, không dưng sao lại…. mạo xưng hoạn quan.”

    Hoàng Tử Hà sững người, không ngờ lại bị hắn nhìn thấu chân tướng. Cô không tưởng tượng nổi đám người này đã tra ra được cả thân phận thực của mình, nhất thời vừa cuống vừa giận, vội nhét ngay tấm khắc che mặt vào miệng hắn.

    Đoạn cô lần tới chỗ hôm qua hút máu độc cho Lý Thư Bạch, quệt thanh đoản kiếm vào bãi máu độc đã nhổ ra, rồi quay lại chỗ tên thích khách, dùng kiếm dính máu độc đâm vào bắp chân hắn.

    Tên thích khách bắt đầu mê man vì mất máu đột nhiên thấy toàn thân đau đến co rúm người lại, trợn trừng mắt nhìn cô, miệng không ngừng ú ớ.

    Chẳng để hắn kịp phân bua, cô đã vạch ngay lớp vải bên ngoài, thấy vết thương không bao lâu đã đen bầm, mới móc tấm khăn bịt miệng ra, đổ ít thuốc vào miệng hắn rồi nói: “Đem ngươi ra thử thuốc trước, nếu ngươi có chết cũng đừng oán ta đấy.”

    Hắn trừng trừng nhìn cô đầy căm hận, song vừa nuốt thuốc vào thì miệng đã bị bịt ngay lại, chỉ có thể trừng mắt chứ không hề có cơ hội lên tiếng.

    Hoàng Tử Hà ngồi bên cạnh hắn hồi lâu, thấy vết thương ở chân hắn từ từ bớt đen bầm mới yên tâm nhặt lọ thuốc giải lên chạy tới bên Lý Thư Bạch, mở nắp lọ ra. Ở nơi đồng không mông quạnh thế này chẳng tìm đâu ra thìa, cô ngắt một chiếc lá to cuộn lại, múc ít nước đổ từ từ để y nuốt vào.

    May sao Lý Thư Bạch tuy mê man nhưng vẫn nuốt theo phản xạ. Hoàng Tử Hà lại cởi áo y ra, gõ nắm thảo dược đắp hôm qua xuống, bôi thuốc cầm máu lên rồi băng bó cẩn thận.

    Xong xuôi mọi chuyện thì trời đã sáng bạch. Khói lam thấp thoáng vờn quanh núi, ánh nắng len qua tán lá trên đỉnh rọi xuống, rung rinh chập chờn.

    Hoàng Tử Hà đứng dậy, thấy tên thích khách kia đã bắt đầu mơ màng, nhưng hai mắt vẫn nhìn dán vào mình không rời. Cô bèn vờ không thấy, quay lưng đi ra bờ suối rửa tay, bấy giờ mới phát hiện tóc tai đã xổ tung xõa dài, mái tóc đen dài càng tôn lên gương mặt trắng nõn, đường nét của nữ tử không giấu vào đâu được.

    Cô vội búi tóc lại rồi lấy hai mũi tên còn lại trên mình ngựa vào khe suối đứng rình.

    Khe suối khá nông, cá cũng gầy nhỏ nhưng lại khá nhiều, còn không biết sợ người. Hoàng Tử Hà vần đá xuống suối làm thành con đập nhỏ, rồi chậm rãi dịch chuyển từng tảng đá, thu hẹp vòng vây lại, cuối cùng cũng quây được mấy con cá, bấy giờ mới vung mũi tên đâm xuống, chỉ trong nháy mắt đã đâm được hai con cá bằng bàn tay, không ngừng quẫy cọ.

    Cô xách cá lội đến bên bờ, bỗng sực nhớ ra cách bắt cá này là anh trai dạy cho khi còn nhỏ.

    Hồi ấy anh cô để tóc trái đào, còn cô làm cái đuôi lẵng nhẵng đi theo. Vậy mà giờ đây, cô dùng cách anh dạy để bắt cá, còn anh đã ra người thiên cổ, mục rữa dưới mồ.

    Nghĩ đến đó, cô lại không nén được đau buồn, thần người ra bên mép nước một lúc mới giơ cánh tay lên che mắt, để mấy giọt nước vừa ứa ra khéo mắt thấm cả vào tay áo.

    Người chết là hết, giờ cô đâu còn thời gian mà đau đớn nữa?

    Cô cầm hai con cá lên bờ, dùng kiếm Ngư Trường mổ bụng moi ruột, rồi thái từng lát mỏng, lọc hết xương đi.

    Cô không dám đốt lửa, sợ đám sát thủ sẽ tìm đến, may mà người thời nay chuộng món gỏi cá. Có điều trước đây cô ăn gỏi cá luôn phải có nước chấm, giờ ăn không thấy tanh ngòm.

    Hoàng Tử Hà nhanh trí lấy bọc muối của tên thích khách ra, xát lên miếng cá rồi cầm đến trước mặt hắn, một tay cầm kiếm trỏ vào hắn, tay kia móc khăn bịt miệng ra: “Đói chưa? Cho ngươi ăn cái này, không được kêu lên đâu đấy.”

    Thích khách ngạc nhiên nhìn Hoàng Tử Hà, mãi tới lúc cô bóp miệng hắn nhét một miếng cá vào, mới sực hiểu ra cô cho hắn ăn thật. Thấy đôi mắt sáng rực như sao chăm chú nhìn mình, hắn ngẩn ra, nhai mà chẳng biết mùi vị gì nữa.

    “Ngon không?”

    Hồi tưởng lại giây lát rồi đáp: “Tanh…”

    “Xát muối của ngươi rồi đấy, không ngon à?”

    “Miễn cưỡng thì cũng nuốt được.”

    Hoàng Tử Hà lại cho ăn thêm miếng nữa, chăm chú quan sát nét mặt hắn.

    Hắn cũng không né tránh ánh mắt cô mà đăm đăm nhìn lại, hỏi khẽ: “Sao cô đối tốt với ta thế?”

    Song Hoàng Tử Hà chẳng buồn để tâm, thấy hắn đã ăn hết hai miếng cá, bèn nhét lại khăn vào miệng, “Xem ra muối của ngươi không có độc.”

    Tên thích khách kia chỉ biết trợn trừng mắt nhìn theo bóng cô đi khỏi, nhếch mồm cười ảo não.

    Hoàng Tử Hà ăn hết nửa chỗ cá, rồi bưng phần còn lại đến chỗ Lý Thư Bạch, quỳ xuống, cầm tay y áp vào má để thăm dò nhiệt độ.

    Thuốc giải đã phát huy tác dụng, tuy uống hơi muộn nên y vẫn chưa tỉnh lại, song ít nhất sắc đen trên mặt đã tan đi, khuỷu tay trái cũng không sưng tấy lên nữa.

    Hoàng Tử Hà thở phào nhẹ nhõm, bao nhiêu mệt mỏi sợ hãi suốt đêm thoắt chốc được đẩy lùi, cô cảm thấy cả người bải hoải, ngã ngồi xuống đất, trước mắt tối sầm, vội giơ tay lên đỡ trán, tựa đầu vào đầu gối nhắm mắt dưỡng thần một lúc lâu.

    Đợi cơn choáng váng qua đi, cô mở mắt ra, mới phát hiện Lý Thư Bạch đã tỉnh lại, đang he hé mắt nhìn mình không chớp.

    Cô vừa mở mắt, ánh mắt đôi bên đã giao nhau.

    Trông thấy đôi mắt trong veo của y, bao hoang mang lo sợ cả đêm bỗng tan biến cả, cô bất giác cuối xuống nhìn y, nước mắt cứ ứa ra: “Gia… cuối cùng cũng tỉnh rồi…”

    Thấy cô rơi nước mắt, Lý Thư Bạch dù đang mệt cũng mỉm cười: “Ừm, tỉnh rồi.”

    Bắt gặp nụ cười bất ngờ của y, Hoàng Tử Hà chợt thấy như có thứ gì vừa chạm đến cõi lòng, lớp lớp tâm tư từ từ hé ra như đóa hoa đang bừng nở.

    Tựa như đứa bé lần đầu tiên thấy tuyết tan, một con phù du lần đầu rơi lên cánh hoa, một con ve lần đầu bò ra khỏi hốc cây tăm tối nhìn lên bầu trời xanh thẳm, trông thấy một thứ hoàn toàn mới mẻ lạ lẫm, chẳng biết là gì, song lại vô cùng hấp dẫn, không thể rời mắt.

    Ánh nắng được sàng lọc qua tán lá đại thụ ken dày, thành những sợi tơ vàng ánh đỏ. Gió nhẹ hiu hiu, cành lá lay động, những đốm sáng vàng rực không ngừng nhảy nhót trên mặt trên người họ.

    Giữa khung cảnh ấy, cả hai đều thấy như vừa được tái sinh, cứ đăm đăm nhìn người kia thật lâu.

    Cô giơ tay sờ trán y, thấy vẫn còn hâm hấp, nhưng dù sao y cũng đã tỉnh lại. Khóe mắt vẫn rưng rưng, song khóe môi cô đã hé nụ cười: “Gia tỉnh lại rồi… Tốt quá…”

    Vừa thoát đại nạn, lại trông thấy nụ cười tươi tắn trước mắt, y chỉ muốn giơ tay lên chạm vào mặt cô, song chợt nhận ra toàn thân bải hoải vô lực, cánh tay nặng trịch như đeo đá, đành mỉm cười nhìn cô, khẽ ậm ừ.

    “Gia đói bụng không? Muốn uống nước không?” Thấy y chớp chớp mắt, cô liền đứng dậy múc một ít nước bưng đến, đút cho y hai hớp.

    Y nằm dưới đất, nuốt rất khó khăn, nước trào cả ra khóe miệng.

    Cô nghĩ ngợi rồi đỡ đầu y dậy, cho gối lên đùi mình, sau đó mới kề phiến lá cuộn lại đựng nước lên môi y, thận trọng từng li từng tí, để y uống từ từ từng ngụm một.

    Đợi y uống xong, cô bẻ hai cành cây, gắp cho y mấy miếng gỏi cá.

    Y ăn rất chậm, dáng vẻ hết sức khó nhọc và đau đớn, nhưng vẫn chăm chú nhìn cô, ăn từng miếng từng miếng đến hết non nửa.

    Hoàng Tử Hà rù rì giải thích: “Nô tài không dám đốt lửa, sợ thích khách phát hiện, xin gia lượng thứ.”


    Y chẳng nói nửa lời, chỉ gối đầu lên đùi Hoàng Tử Hà, lặng lẽ nhìn cô.

    Bấy giờ cô mới nhận ra tư thế của hai người có phần quá mức thân mật, song trong tình cảnh này cũng chẳng biết làm sao, đành giấu đầu hở đuôi, nói lảng sang chuyện khác: “Nô tài biết vương gia ưa sạch sẽ, nhưng giờ ở đây… Đợi khi nào thoát hiểm, nô tài sẽ giúp gia tắm gội…”

    Nói rồi cô thận trọng đặt đầu Lý Thư Bạch xuống đất, bứt mấy nắm cỏ lót bên dưới làm gối, sau đó mới bưng chỗ cá y ăn thừa xuống khe suối, vừa ngẩng đầu lên đã thấy gã thích khách bị trói vẫn đang dựa vào gốc cây nhìn mình đăm đăm, ánh mắt hết sức sâu xa phức tạp.

    Cô bất giác ngẩn người chột dạ nghĩ, cảnh tượng cô thân mật với Lý Thư Bạch vừa rồi chẳng phải đều lọt cả vào mắt hắn ư?

    Nhưng nghĩ lại thì kẻ nọ chỉ là một tên thích khách, dù có nhận ra cô là con gái, lại hiểu lầm quan hệ giữa bọn họ, cũng có can hệ gì đâu.

    Nghĩ thế, cô lại rời mắt nhìn đi chỗ khác, chẳng thèm đếm xỉa, tựa hồ đối phương chỉ là cành cây ngọn cỏ.

    Rửa sạch tay xong, cô mới đi đến trước mặt kẻ đó, ngồi xuống, kề kiếm vào cổ hắn, rồi moi chiếc khăn trong miệng ra: “Tên gì?”

    Ánh mắt vẫn dán vào cô, lúc này lại chuyển hướng nhìn ra khe suối bên cạnh: “Có nói ngươi cũng không biết.”

    “Thực tình ta cũng không muốn biết đâu.” Cô đập nhẹ thanh đoản kiếm vào vai hắn. Lý Thư Bạch đã tỉnh nên giọng điệu cô cũng nhẹ nhàng hơn hẳn: “Ta chỉ muốn tìm hiểu xem kẻ đứng sau ngươi là ai, rốt cuộc là kẻ nào cả gan hành thích Quỳ vương thôi.”

    Kẻ kia đáp không chút do dự: “Đại vương chúng ta là Bàng Huân đã triệu tập năm trăm vạn âm binh dưới cửu tuyền, quyết lấy mạng Quỳ vương để báo thù rửa hận.”

    Hoàng Tử Hà cười nhạt: “Lấy mạng vương gia làm gì? Để gia xuống dưới đó lại một tên bắn chết hắn hả?”

    Thích khách cứng họng, lạnh lùng hừ một tiếng.

    Hoàng Tử Hà thích thú nhìn hắn: “Ngươi xuất thân lương thiện, không quen dùng những lời tục tằn thô bỉ, rất ít kẻ ở trong quân mà vẫn giữ được phẩm chất ấy. Trong khi thuộc hạ cũ của Bàng Huân năm xưa đều là dân chạy nạn hoặc lính biên thùy, không thể có người như ngươi được.”

    Hắn nghiến răng không đáp, chỉ trừng mắt nhìn cô đầy dữ tợn.

    Hoàng Tử Hà phớt lờ cái nhìn chòng chọc của hắn, thuận thế ngồi thụp xuống vạt cỏ trước mặt, thanh kiếm trong tay không rời cổ hắn một khắc: “Ngoan ngoãn khai thực đi, ngươi rốt cuộc là ai? Kẻ nào phái ngươi đi hành thích Quỳ vương?”

    Nghe cô uy hiếp, hắn bỗng phá lên cười nói: “Chi bằng ta nói cho ngươi biết chuyện này nhé. Ngươi không biết ta là ai, không biết lai lịch ta thế nào, nhưng ta thì biết ngươi.”

    Hoàng Tử Hà dùng kiếm vạch vạch lên cổ hắn: “Ngươi nói thử xem?”

    “Ngươi nửa đêm canh ba nấp trong bụi cỏ, nên ta đoán họ của ngươi có bộ thảo đầu. Chúng ta gặp nhau vào giờ Dần, chữ Dần thêm bộ thảo đầu thành chữ Hoàng, vậy ngươi họ Hoàng.”

    “Đoán chữ cũng khá đấy.” Nói đoạn, cô lại lật kiếm đập vào vai hắn, “Có điều ta cho rằng ngươi đã biết thân phận ta từ trước, đây chẳng qua là đoán ngược ra thôi, phải không nào?”

    Hắn cười cười, nhưng cơ mặt đã cứng lại, thành ra trông rất khó coi.

    “Xem ra các người bỏ khá nhiều tâm sức vào Quỳ vương đấy, ngay một tên hầu nhãi nhép như ta cũng bị tra rõ thân phận.” Cô cười nhạt, rồi tiếp tục truy vấn. “Nói, rốt cuộc là ai phái các người tới?”

    Nào ngờ hắn vặn ngược lại: “Ngươi nói xem?”


    “Ngươi là người kinh thành, lại hợp tác với Kỳ Lạc quận chúa, rõ ràng là một trong những thế lực trong triều. Nhưng người sai khiến ngươi lại bất chấp an nguy của Kỳ Lạc quận chúa, chắc hẳn cũng chẳng buồn nể mặt hoàng thất, không phải người trong hoàng tộc…”

    “Sai rồi, kẻ phái ta đến, chính là người đứng đầu thiên hạ đó.” Hắn thuận miệng đáp.

    Hoàng Tử Hà ngoái lại nhìn Lý Thư Bạch, thấy y vẫn nằm yên ở đó, mới trừng mắt nhìn tên thích khách: “Khai thật đi!”

    “Ta nói thật mà, sao ngươi lại không tin?” Giọng điệu hắn bình thản tự nhiên, thậm chí ánh mắt còn có vẻ trêu ngươi.

    Hoàng Tử Hà nhíu mày, thanh kiếm trong tay khẽ cứa vào cổ hắn: “Hoàng thượng vẫn muốn dùng Quỳ vương để cân bằng các thế lực trong triều, kiềm chế Vương Tông Thực, sao tự dưng lại châm lửa đốt mình?”

    “À, Vương Tông Thực công công đã mắc bệnh nan y, không còn được bao lâu nữa rồi. Ngươi là tiểu hoạn quan bên cạnh Quỳ vương, lẽ nào chuyện nhỏ này cũng không biết à?” Rồi chẳng thèm đếm xỉa đến thanh kiếm sắc lẹm đang kề vào cổ, hắn tặc lưỡi cảm thán: “Chẳng lẽ mù tịt không biết gì về kẻ địch như các ngươi mới là hay ư?”

    “Nói nhăng nói cuội, ly gián Quỳ vương và triều đình như ngươi thì hay lắm hả?” Cô nhíu mày, song biết có hỏi thêm cũng chẳng ích gì, bèn bịt miệng hắn rồi quay về chỗ bụi cỏ, nào ngờ lại thấy Lý Thư Bạch đang mở mắt lắng nghe họ hỏi đáp nãy giờ.

    Cô chỉ biết thở dài: “Nô tài không hỏi tra tấn bức cung.”

    “Khỏi cần hỏi nữa, dù ngươi có giết hắn, hắn cũng không khai đâu… Thứ hắn phải bảo vệ còn quan trọng hơn chính bản thân hắn nữa.” Nói rồi, Lý Thư Bạch từ từ nhắm mắt lại: “Ngươi đi bảo hắn, nhờ hắn giúp ta huýt lên bốn tiếng, ba ngắn một dài. Nếu hắn không chịu thì cứ bảo hắn một câu: “Lũng Hữu, dưới gốc bạch du, tuyết bay mờ biên ải, tắt khỏi Phong hỏa đài.”*

    *Hai câu sau lấy trong bài “Lũng Tây hành” của Vương Duy

    Hoàng Tử Hà chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì, song vẫn gật đầu, đi đến trước mặt kẻ nọ, nhắc lại nguyên văn lời Lý Thư Bạch.

    Nghe xong, hắn sững sờ dựa vào thân cây, nhìn về phía Lý Thư Bạch, thấy y chẳng có động tĩnh gì mới thở dài, nhắm mắt lại, khẽ nói: “Giờ thân thể ta rất yếu, không biết có huýt ra tiếng được không nữa.”

    Hoàng Tử Hà là hung thủ khiến hắn thành ra thế này, song cô vẫn thản nhiên ngồi xuống, một tay chĩa kiếm vào ngực hắn, tay kia cởi trói tay cho hắn.

    Thích khách nhìn cô cười khổ não rồi đặt tay lên môi, chúm miệng huýt sáo.

    Dù hắn đã đuối sức, nhưng mấy tiếng huýt vẫn vang vọng núi rừng, lan đi cả mấy dặm. Hoàng Từ Hà trói nghiến tay hắn lại, ngoái đầu nhìn quanh quất, chỉ thấy giữa rừng thông vi vút, một thớt ngựa đang phi đến như bay.

    “Địch Ác!” Hoàng Tử Hà đứng phắt dậy, mừng đến nỗi chỉ muốn lao đến ôm lấy đầu nó vỗ về. Trải qua một đêm kinh hãi, cô chợt nhận ra, đôi lúc một con ngựa cũng có thể trở thành chỗ dựa.

    Trái lại Địch Ác chẳng buồn nhìn Hoàng Tử Hà, phớt lờ vòng tay cô đang dang ra, phi thẳng về phía Lý Thư Bạch.

    Hoàng Tử Hà câm nín quay lại vỗ nhẹ vào mông nó, nào ngờ lại thấy Địch Ác co chân toan đá mình, vội nhảy lùi lại né tránh. Còn đang bực bội, chợt nghe tiếng cười khẽ.

    Cô ngoái đầu nhìn, ra là tên thích khách kia. Tuy chỉ là một tiếng cười rất khẽ, song cô lại thấy quen quen.

    Hoàng Tử Hà nhíu mày săm soi gương mặt hắn, song chẳng moi nổi một nét quen thuộc nào trên gương mặt trơ trơ tẻ nhạt ấy. Cô thầm nghĩ, nếu có Chu Tử Tần ở đây lúc này, dựa theo lý thuyết xem xương đoán hình gì đó của gã, có phải sẽ nhận ra được diện mạo thực của kẻ nọ không?

    Nhưng nghĩ đi cũng phải nghĩ lại, ngay cả việc cô là nữ cải trang Chu Tử Tần còn không nhìn ra, thì trông mong nỗi gì?

    Ngoái lại trông thấy Địch Ác cúi đầu cọ cọ vào người Lý Thư Bạch, thái độ hung hăng vừa nãy đã biết đâu hết sạch, cô lại chạnh lòng nhớ đến Na Phất Sa, nhớ đến tiếng hí thê thảm của nó khi bị gãy chân ngã vào bụi cây, nỗi bi ai chẳng biết từ đâu ập đến, cô hằm hằm đi đến chỗ tên thích khách, nhét chặt miệng hắn rồi giận dữ đá cho mấy phát.

    Bỗng dưng bị hành hạ, hắn hết sức ngạc nhiên, trừng mắt nhìn cô rồi quay phắt mặt đi.
     
  11. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 3 - Nước chảy đá mòn
    Lại uống thêm ít thuốc giải độc nữa, cơ thể Lý Thư Bạch cũng khá hơn, bắt đầu gượng đứng dậy được, song vẫn chưa hạ sốt. Ở giữa đồng không mông quạnh thế này, Hoàng Tử Hà chỉ còn cách dùng khăn ướt đắp trán cho y.

    Cô trói gô tên thích khách lại, rồi đi loanh quanh tìm thức ăn và thảo dược. Ra khỏi cánh rừng, đứng dưới ánh dương phóng mắt nhìn ra xa xung quanh, chỉ thấy núi non xanh ngắt, cây cối um tùm. Ngang trời chim bay, mây ùn ùn lên lớp lớp như sóng dồi.

    Cô xem thế núi, lại quan sát mấy chỏm núi xung quanh, tức thì kích động hẳn lên, vội vã quay về bên cạnh Lý Thư Bạch nói nhỏ: “Chúng ta đi thôi.”

    Lý Thư Bạch mở mắt nhìn cô, hơi ngạc nhiên.

    “Nơi này rất gần phủ Thành Đô, tôi đã từng đi qua rồi. Gần đây có một chỗ tốt hơn ngủ ngoài trời thế này nhiều.” Nói rồi, cô vỗ nhẹ lên đầu Địch Ác.

    Địch Ác trừng mắt nhìn cô, song vẫn quỳ xuống.

    Cô đỡ Lý Thư Bạch lên ngựa, thấy y có vẻ khó nhọc thì không yên tâm, đắn đo giây lát cô trèo lên ngồi phía sau, hai tay vòng qua eo y, cầm lấy dây cương.

    Cảm nhận được đôi tay cô vòng qua eo mình, Lý Thư Bạch hơi cứng người lại, nhưng ngay lập tức y đã ngồi thẳng lên, ngoái đầu nhìn tên thích khách phía sau, thấy hắn ngồi dạng chân dưới đất, bị Hoàng Tử Hà trói chặt vào gốc cây, song lại toát lên vẻ nhàn nhã đắc ý. Chỉ khi trông thấy Hoàng Tử Hà ngồi sau Lý Thư Bạch, vòng tay ôm lưng y, cặp mắt vẫn nhìn dán vào cô mới vô thức lóe lên.

    Hoàng Tử Hà nhìn theo ánh mắt Lý Thư Bạch, rồi nắm chặt thanh đoản kiếm trong tay tỏ ý diệt khẩu.

    Nhưng họ Lý chậm rãi lắc đầu: “Để hắn đi đi.”

    Hoàng Tử Hà ngạc nhiên, không ngờ vị vương gia nổi danh lạnh lùng này lại giơ cao đánh khẽ tên thích khách như vậy. Song thấy ý y đã quyết, cô cũng đành xuống ngựa cắt đứt sợi thừng trói hắn vào thân cây, chỉ để lại dây trói trên tay, rồi tra kiếm vào vỏ đi thẳng.

    Tên nọ dựa vào thân cây, liêu xiêu đứng dậy. Hoàng Tử Hà thấy vậy cũng lấy làm bái phục, ở giữa rừng suốt một ngày một đêm, chẳng những không ăn không uống, lại còn bị trọng thương, vậy mà hắn vẫn đứng dậy được, đủ thấy thể lực và ý chí phi thường.

    Song hắn chỉ nhìn cô chằm chằm, không hề chớp mắt, khiến Hoàng Tử Hà đã đi được một quãng phải ngoái đầu lại.

    Trong khoảng khắc ấy, đôi mắt sáng như sao nọ đã in sâu vào lòng cô.

    Đôi mắt ấy rất quen, dường như đã thấy ở đâu đó.

    Cô ngẩn ngơ quay đi, hai tay vòng qua eo Lý Thư Bạch từ phía sau, nắm lấy dây cương nói khẽ: “Để nô tài giục ngựa, gia chỉ đường nhé.”

    Lý Thư Bạch ừm một tiếng.

    Hai người đi chầm chậm giữa rừng già, âm thanh duy nhất chỉ là tiếng vó ngựa và tiếng lá cây xào xạc.

    Có điều ngồi trên lưng ngựa xóc nẩy liên tục, Hoàng Tử Hà lo Lý Thư Bạch còn yếu sẽ ngã xuống, nên vô thức ôm chặt y, đến khi giật mình nhận thấy như thế không phải, lại lỏng tay ra, suốt dọc đường cứ ôm chặt rồi lại lỏng, lỏng rồi lại chặt như thế. Giống như ngọn gió lướt qua người họ lúc này vậy, cứ vờn nhẹ hết nhanh lại chậm, hết chậm lại nhanh.

    Lý Thư Bạch trước sau vẫn nhìn thẳng phía trước, mãi đến khi tay cô lại một lần nữa ghì chặt, y bất giác đặt tay lên mu bàn tay cô, khẽ gọi: “Hoàng Tử Hà…”

    “Dạ?” Hoàng Tử Hà nhanh nhảu đáp, song Lý Thư Bạch bỗng chốc không biết nói gì.

    Thấy y làm thinh, lại cảm giác được bàn tay y ấp trên tay mình hơi nóng lên, Hoàng Tử Hà chợt thấy hồi hộp khác thường.

    Chỉ nghe Lý Thư Bạch nói nhỏ: “Hình như đằng trước có một ngôi chùa, ngươi dừng lại đi.”

    Cô “a” một tiếng, ngó đầu ra nhìn rồi mừng rỡ reo: “Đúng rồi, chính là chỗ này! Tôi nhớ không sai mà!”

    Y nghiêng đầu ngắm vẻ hân hoan của cô, nhận xét: “Không biết ngôi chùa rách nát này có người không nữa.”


    “Chắc không đâu, vì năm ngoái ở đây từng xảy ra một vụ án mạng.” Hoàng Tử Hà nhảy xuống dắt ngựa, vừa đi vừa dò dẫm nhận lối trên con đường mòn lác đác cỏ dại. “Trong chùa vốn có một vị trụ trì và hai hòa thượng, sau khi trụ trì mất đi, để tranh chức trụ trì ngôi chùa nát này, một hòa thượng đã lén giết chết hòa thượng kia rồi lén chôn ở khu vườn đằng sau.”

    Lý Thư Bạch tiện miệng hỏi: “Ngôi chùa nát thế này cũng có người tìm đến mà phát hiện án mạng cơ à?”

    “Là bọn họ xui xẻo.” Hoàng Tử Hà dắt Địch Ác đi vòng qua hết khe nhỏ đến đá lớn, kể tiếp: “Tôi… và Vũ Tuyên hôm ấy vào núi du ngoạn, cuối cùng lạc đường, bị kẹt trong núi, lần theo đường mòn đến đây. Lúc lễ phật tôi chợt phát hiện thấy vết máu nhàn nhạt trên tấm phướn, nhìn như là bắn tóe vào vậy.”

    Lý Thư Bạch gật đầu tán đồng: “Dù hòa thượng trong chùa lén ăn mặn, cũng không thể mổ thịt ngay giữa đại điện được.”

    “Đúng thế. Tôi dựa theo hướng máu bắn, đoán rằng người đó chắc hẳn đang quỳ trên bồ đoàn trước bệ Phật gõ mõ thì hung thủ rón rén đi từ phía sau lại, đâm một dao vào sau lưng. Xét trên độ cao và góc vết máu bắn lên, chỉ có vị trí quỳ gõ mõ đó là có khả năng nhất.”

    “Bởi thế ngươi mới đoán ra người chết là hòa thượng ư?”

    “Thưa phải. Hơn nữa, kẻ có thể xuống tay giết hòa thượng ngay trong chùa không chút kiêng dè, cũng không sợ bị người ta phát hiện, còn dọn dẹp sạch sẽ hiện trường như thế, có lẽ chính là vị hòa thượng còn lại.” Lúc này, Hoàng Tử Hà đã dắt ngựa tới trước bức tường đất vàng ệch, giơ tay đẩy cánh cửa chăng đầy mạng nhện ra, “Bấy giờ tôi cố ý hỏi han hòa thượng vài câu, y nói trụ trì mấy hôm trước đã qua đời, sư huynh cũng lên đường vân du rồi. Tôi bèn trỏ chiếc bồ đoàn trước cái gõ mõ, vậy hòa thượng quỳ ở đó gõ mõ là ai thế, sao cứ trừng mắt nhìn sư phụ?”

    Kể đến đây, cô không nhịn được phì cười: “Gia đoán xem kết quả thế nào? Y sợ đến ngã phệt xuống đất, không nói nổi nửa câu!”

    “Sau khi hòa thượng nọ bị bắt đi, ngôi chùa này bỏ hoang ư?”

    “Đúng thế, xem ra các thiện nam tín nữ thỉnh thoảng đến dâng hương cũng không lui tới nữa, dù sao ngôi chùa này đã xảy ra án mạng, đâu còn là thánh địa Phật môn?”

    Ngôi chùa rất nhỏ, chỉ có một cánh cửa, một đại điện và một gian sau. Tường đã sập mất mấy chỗ, cỏ hoang trong sân đã cao đến nửa người, cánh cửa mục nát bốc lên mùi ẩm mốc. May mà chiếc phản kê mé bên đại điện vẫn còn, cô vội dìu Lý Thư Bạch ngồi xuống trước, rồi ra con suối đằng sau giặt sạch mấy mảnh vải xé hôm qua, lau kỹ mặt phản, đỡ y nằm xuống, lại cho uống thêm một cữ thuốc giải độc.

    Lý Thư Bạch nằm trên phản, cơn sốt khiến y có phần lơ mơ, thấy hơi nóng hầm hập âm thầm xâm lấn tri giác, y gắng gượng ngồi dậy, dựa vào cửa sổ chăm chú theo dõi nhất cử nhất động của cô.

    Chỉ thấy cô vạch đám cỏ dại cao đến nửa người trong sân, xăm xăm đi thẳng vào đại điện. Cỏ bồng và cỏ tranh trong sân đơm đầy những bông hoa trắng như tuyết tung bay trong gió, phất phơ theo nhịp bước, chẳng khác những đóa mây trôi nổi quanh cô.

    Trước tiên, cô quỳ trước tượng Bồ tát lạy một lạy, sau đó nhặt mấy mẩu nến vương vãi trên án thờ, phủi sạch bụi bặm rồi đút vào tay áo.

    Lý Thư Bạch bất giác tì người vào bậu cửa sổ nhìn cô, mỉm cười.

    Hoàng Tử Hà ngoái lại, bắt gặp Lý Thư Bạch đang ở bên song cửa mỉm cười nhìn mình, qua lớp lớp hoa trắng bay lang thang, nụ cười ấy lọt ngay vào mắt chẳng để cho cô kịp đề phòng.

    Hoàng Tử Hà bất giác đỏ bừng mặt, từ từ đi đến trước cửa sổ, ngại ngùng nói: “Nô tài nghĩ, đến tối chúng ta có khi phải dùng tới.”

    Lý Thư Bạch tì cằm lên cánh tay ngắm nghía cô, khóe môi cong lên: “Thế sao ngươi còn phải lạy Bồ tát?”

    Hoàng Tử Hà ngạc nhiên: “Lẽ nào gia đến nhà người ta tá túc, còn muốn mượn đồ dùng, mà lại không nói với người ta câu nào ư?”

    Ánh mắt ôn nhu thấp thoáng ý cười của Lý Thư Bạch dừng ở cô, y chuyển chủ đề: “Chẳng biết hắn đã được người ta phát hiện hay chưa, bị thương nặng như thế lại ở giữa rừng một mình, e rằng không chịu đựng được lâu đâu.”

    Hoàng Tử Hà hiểu y đang nói tới tên thích khách nọ, bèn gặng hỏi: “Gia quen hắn ư?”

    Lý Thư Bạch liếc cô, song chỉ lạnh nhạt ừm một tiếng. Hoàng Tử Hà thầm nghĩ, kẻ này chỉ nhìn thoáng qua là nhớ mãi không quên, hẳn nhiên đã nhớ mặt tất cả mọi người trong kinh thành thập ty rồi, dù kẻ kia che giấu giọng nói, y cũng vẫn nhận ra được.

    Đã biết lai lịch tên đó, nhất định y cũng đoán ra được kẻ chủ mưu đằng sau cũng như nguyên nhân của chuyện này. Song Hoàng Tử Hà đợi mãi chẳng thấy Lý Thư Bạch nói gì thêm, đành gác chuyện này qua một bên.

    “Gia thấy thế nào rồi?” Cô hơi chần chừ, nhưng rồi vẫn giơ tay sờ trán y, chỉ thấy nóng hầm hập, rõ ràng đang sốt rất cao, xem ra đắp khăn ướt cũng chẳng ăn thua gì.

    Nhưng ở giữa núi hoang thế này, y chỉ có thể dựa vào bản thân mình mà thôi. Còn cô, tác dụng duy nhất hẳn là đi tìm thức ăn.

    Thấy mấy quả xanh lơ thơ trên cành cây mọc hoang, cô vội hái lấy, lại ngắt một ôm rau sam ngoài khe suối về. Tới nơi đã thấy Lý Thư Bạch ngồi dưới bóng râm chờ sẵn, còn ném cho cô một con thỏ béo.

    “A… người ta ôm cây đợi thỏ, còn gia chỉ trông sân cũng bắt được thỏ ư?” Vừ nói, cô vừa đưa cho y một trong hai trái lê đã rửa sạch.

    Lý Thư Bạch giơ tay đón lấy: “Ta ngồi không cũng chẳng có việc gì, thấy con thỏ lảng vảng trước cửa, bèn lấy cung tên của thích khách kia bắn đại.”

    Cô hào hứng xách con thỏ lên, tấm tắc: “Hay thật, gia ngồi một chỗ mà vẫn lợi hại hơn tôi.”

    Hai người cùng trải qua sống chết, lại ở giữa núi rừng hoang vắng thế này, cũng quên cả thân phận chủ tớ, trò chuyện thoải mái hơn nhiều.

    Nhìn vẻ mặt rạng rỡ của cô, Lý Thư Bạch đáp: “Đúng thế, sau này ta đi săn, ngươi nấu ăn, hôm làm bữa gỏi cá, hôm lại nướng con thỏ, hầm ít khoai sọ gì đó cũng không tệ.”

    “Thế thì hay quá, chỉ sợ gia không buông được đại sự triều chính thôi.” Nói đoạn cô giơ con thỏ lên ngắm nghía, trầm trồ: “Ngắm chuẩn đấy, tiếc rằng không đủ mạnh, chưa xuyên được cổ họng, gia phải cố điều dưỡng cho khỏe mới được.”

    “Không phải ngắm vào cổ họng.” Lý Thư Bạch lạnh nhạt đính chính, “Ta ngắm vào mắt, tại tay ta không vững.”

    “Mắt ư…” Cô chợt thấy lòng quặn lên chua xót. Đôi tay ấy năm xưa từng bắn chết Bàng Huân từ ngoài trăm bước, vậy mà giờ chẳng những không đủ lực, còn ngắm không chuẩn nữa.

    Lý Thư Bạch ngửa mặt nhìn trời, nói với giọng trầm thấp mà thản nhiên hết sức: “Có lẽ… chữ đó thực sự ứng nghiệm rồi.”

    Câu nói bình thản là thế, lại khiến bờ mi Hoàng Tử Hà run lên, tim bỗng ngừng một nhịp, đau buốt như bị kim đâm. Cô vội giơ mũi tên lên phản bác: “Không phải đâu! Gia xem, mũi tên này thân cong queo, lại còn không chuốt kỹ, cả bộ cung tên gia công đều kém, làm ảnh hưởng đến độ chính xác đó mà! Hậu Nghệ có dùng thứ này cũng bắn trật!”

    Lý Thư Bạch cụp mắt xuống không nói, chỉ nhìn chằm chằm vào quả lên trong tay hồi lâu, rồi vô thức đưa lên miệng cắn một miếng.

    Vị chua gắt dị thường xộc lên khiến Quỳ vương xưa nay luôn bình thản dù Thái sơn có đổ ngay trước mặt phải nhíu mày xuýt xoa, cơ hồ ứa nước mắt. Hoàng Tử Hà trợn tròn mắt nhìn y đầy kinh ngạc, nắm chặt quả lê trong tay, lưỡi líu cả lại.

    Lý Thư Bạch vứt quả lê xuống, loạng choạng vịn tường đi ra con suối sau miếu, vốc ít nước uống. Hoàng Tử Hà đứng sau lưng y, vẻ mặt đầy phức tạp.

    Y uống xong ngẩng lên hỏi: “Vẻ mặt ngươi thế là ý gì?”

    Cô cảm khái đáp: “Vô tình biết được nhược điểm của vương gia, tâm tình nô tài hơi phức tạp thôi.”

    Y hậm hực lườm cô, rồi quay ngoắt đi: “Bản vương đói rồi.”

    Hoàng Tử Hà lập tức chạy ra ngoài, bắt đầu xử lý con thỏ.

    Mấy thứ trấn được của tên thích khách kia rất hữu dụng, hắn có cả bộ đánh lửa hoàn chỉnh, bùi nhùi còn được bọc giấy dầu, vừa đánh đã bén ngay.

    Những thứ nồi xoong bằng sắt đáng tiền trong chùa đã bị người ta vét sạch từ lâu, may mà cô tìm được một mảnh ngói cong cong, cho nửa con thỏ đã rửa sạch vào hầm thành canh, nửa còn lại vùi vào bếp nướng.

    Mùi thịt bốc lên thơm nức, đừng nói Hoàng Tử Hà, ngay Lý Thư Bạch cũng không nhịn nổi phải lê từ trong phòng ra cửa hóng.

    Hai người đói đến xanh cả mắt, hối hả rắc bừa ít muối lên con thỏ rồi bắt đầu xé thịt ăn. Lý Thư Bạch ưa sạch sẽ nên bóc lớp thịt cháy đen bên ngoài đi, còn Hoàng Tử Hà thì ăn tất, chỉ hận không liếm sạch được cả mấy đầu ngón tay dính mỡ. Đến khi canh sôi thì hai người cũng đã lưng lửng dạ, bắt đầu nhặt rửa sạch sẽ nắm rau sam Hoàng Tử Hà ngắt về rồi thả vào nồi canh sôi sùng sục, chờ cho chín mới vớt ra, ăn bằng hai cái bát gỗ nhặt được trong bếp.

    Đương là giữa hạ, ve kêu ran ran, núi xa xanh thẳm, cây cổ thụ cao ngất trên đầu che mất phần lớn ánh dương. Cả hai ngồi trong gian chùa nát, chia nhau uống canh rau sam thịt thỏ nóng hổi, ngẩng đầu lên trông thấy mặt người kia lem luốc, lại nghĩ đến dáng vẻ của mình, cùng phá lên cười khanh khách.

    Hoàng Tử Hà hít hà bát canh thơm phức, thở hắt ra: “Thực tình chúng ta sống trong núi thế này cũng hay. Không có thế sự rối ren, không có đấu đá hục hặc trên triều…”

    Lý Thư Bạch im lặng gật đầu, rồi đột ngột ngoảnh sang trầm tư nhìn cô, vô thức lặp lại: “Chúng ta ư?”

    Bấy giờ Hoàng Tử Hà mới nhận ra câu vừa rồi có phần hơi mờ ám, vừa lúng túng vừa thẹn thùng, vội bưng bát lên che mặt, nói lảng đi: “Mấy ngày tiếp theo, phải dựa vào tài săn bắn của gia rồi.”

    Thấy cô đỏ mặt, y tiếp lời cười nói: “Không không, ta thấy phải trông vào tài nấu nướng của ngươi mới đúng.”

    “Gia săn bắn tôi nấu nướng, thế là ổn.”

    Lý Thư Bạch nhìn cô, nét cười càng rõ.

    Hoàng Tử Hà còn chưa kịp định thần lại để nhận ra ý tứ “đàn ông chủ nhà, đàn bà chủ bếp” trong câu nói của mình, đã nghe Lý Thư Bạch bảo: “Ngươi theo ta được gần nửa năm rồi nhỉ, đây là lần đầu tiên đấy.”

    Hoàng Tử Hà ngớ ra một thoáng mới hiểu ý y nói đây là lần đầu tiên mình cười nói tự nhiên trước mặt y như vậy. Cô bưng bát canh lên, mỉm cười đáp: “Ồ, đúng thế, mới đây mà đã biết nhau nửa năm rồi… nhanh thật đấy!”

    Cuối cùng y cũng phải cụp mắt xuống, hàng mi dày rợp che đi đôi mắt sáng long lanh, song không giấu nổi nụ cười thấp thoáng trên môi.

    Nhìn người trước mắt, Hoàng Tử Hà thầm nghĩ, nếu sau này khoe với kẻ khác rằng mình từng thấy Quỳ vương cười, hơn nữa trong một khoảng thời gian ngắn ngủi còn thấy đến mấy lần, có lẽ phần lớn mọi người sẽ không tin. Bởi thế cô đành chôn sâu vẻ rạng rỡ như ánh mặt trời ló ra khỏi làn mây sau mưa cùng cảm giác xốn xang khó tả ấy vào trong tâm khảm, bởi cô thực lòng không có khả năng miêu tả nó cho người khác.

    Chợt cô nghe tiếng Lý Thư Bạch: “Thực ra ngươi…” Y ngập ngừng, đắn đo giây lát, cuối cùng vẫn nói nốt câu, “Cười trông rất đẹp.”

    Cô vừa kinh ngạc vừa ngại ngùng, ngỡ ngàng ngẩng đầu lên nhìn y, thầm nghĩ, đây chẳng phải là những lời mình muốn nói sao?

    “Chừng nào rửa sạch hết oan khiên, phải sống thật vui vẻ, ngày ngày tươi cười thế này, đừng ủ dột âu lo nữa.” Rồi y khẳng định chắc nịch, “Vì cái ngày đó, ta sẽ dốc sức giúp đỡ.”

    Hoàng Tử Hà không ngờ Lý Thư Bạch lại nói ra những lời này, chỉ biết ngẩn ngơ nhìn y, bao lời muốn nói dâng đầy trong lòng, nhưng không sao thốt nổi nên lời, thật lâu sau mới ngập ngừng đáp khẽ: “Đa tạ… vương gia.”

    Ăn xong một bữa no nê thì trời đã tối. Hai ngày hai đêm Hoàng Tử Hà chưa được nghỉ ngơi tử tế, trong phút chốc gục mặt xuống bên cạnh Lý Thư Bạch ngủ thiếp đi.


    Chẳng biết ngủ mất bao lâu, chợt người bên cạnh cử động khiến cô giật mình tỉnh giấc, vừa mở mắt ra đã thấy ánh nắng chói chang, trời sáng bạch tự lúc nào. Hành động đầu tiên của cô là giơ tay sờ trán Lý Thư Bạch, song khi chạm vào y, cô lập tức cảm thấy có gì đó không ổn…

    Thì ra Lý Thư Bạch đã thức giấc, đang lặng lẽ nhìn cô.

    Hoàng Tử Hà vội rút phắt tay lại che trước ngực, như vừa chạm phải lửa.

    Lý Thư Bạch nhếch môi, nửa cười nửa không: “Hình như đỡ hơn nhiều rồi.”

    Cô chẳng nhớ nổi lúc nãy chạm vào trán y có thấy nóng không nữa, đành hùa theo: “Thưa phải, hình như đỡ hơn nhiều rồi…”

    Y vẫn nhìn cô. Chẳng rõ có phải vì còn yếu, nên ánh mắt cũng dịu dàng hơn hẳn mọi ngày. Thấy cô co ro ngồi đó, y bèn giơ tay che mắt khỏi ánh dương từ ngoài cửa sổ rọi vào rồi nói: “Ngươi nghỉ thêm một lát nữa đi, ta dậy vận động một chút.”

    Đoạn y ngồi dậy, từ từ vịn tường ra ngoài rửa mặt. Hoàng Tử Hà vội đứng dậy, đỡ y ra con suối đằng sau.

    Nước trong vắt vỗ lên mặt, làm ướt cả hai má và lông mi y, những hạt nước ánh lên long lanh dưới nắng. Y đưa mắt nhìn cô, dưới hàng mi là đôi mắt như sóng gợn, lay động lòng người.

    Hoàng Tử Hà như mê đi trước muôn vàn đốm sáng lấp lánh ấy, hai má bất giác đỏ bừng lên. Cô bối rối đứng dậy, ấp úng nói: “Tôi… tôi đi loanh quanh tìm xem sáng nay ăn gì.”

    Cô hối hả băng qua sân, đi thẳng ra mảnh vườn cạnh đó. Lúc ngang qua Địch Ác, cô còn nghe nó phì mũi như cười nhạo.

    Vừa tức vừa ngượng, cô trợn tròn mắt lườm lại nó.

    Tuy mới sáng sớm, nhưng trời đã nóng nực vô cùng, may có tàng cây trên đầu ken dày che bớt. Hoàng Tử Hà đi trong bóng râm, ra mảnh vườn phía sau, ngó lại chỗ hung thủ chôn xác vị hòa thượng kia, thấy cái hố vẫn còn nguyên, nhưng bốn bề đã mọc đầy cỏ dại.

    Cô đi đến bên hố, phát hiện mấy gốc bầu trong vườn ngày trước đã bò đầy đất, đó đây lác đác mấy trái, to có nhỏ có. Cô đắn đo thầm nghĩ không biết bầu mọc trên đất chôn người chết sẽ thế nào, cuối cùng vẫn quả quyết hái.

    Thấy bên cạnh còn mấy dây củ mài, Hoàng Tử Hà bèn nhổ lên, tiếc rằng chỉ được một củ be bé. Cô thở dài lẩm bẩm: “Bé cũng không sao, hoài sơn* bổ khí, gia ăn vào ắt sẽ mau khỏe.”

    *hoài sơn: một cách gọi khác của củ mài, được sử dụng làm thuốc kiện tỳ vị, ích tâm phế, bổ thận, mạnh gân xương.

    Nghĩ đoạn cô xách củ mài đứng dậy, chợt nghe tiếng ve xung quanh ngớt hẳn, cảm thấy không bình thường bèn ngoái đầu nhìn lại phía sau.

    Xa xa, dưới gốc cây, có một người đang đứng. Dung mạo mơ hồ, dáng dấp quen thuộc, khí chất siêu phàm thoát tục ít người bì kịp.

    Gió lộng thổi qua hắn, lướt qua cô, rồi bay đến phương nào đó xa tít tắp.

    Cô sực nghĩ, mấy ngày nay chạy đôn chạy đáo khắp nơi, mình không mảy may nhớ đến hắn. Trong đời cô, dường như hắn cũng giống ngọn gió vừa thổi qua vậy, chỉ lướt qua rồi mãi mãi trôi về phương khác, chẳng thể nào quay lại nữa.

    Chính cô cũng kinh ngạc tự hỏi, tại sao sâu trong tâm khảm, mình không hề coi hắn là chỗ dựa.


    Có lẽ, khi cô nguy nan nhất, hắn lại đem bức thư tình chính tay cô viết ra làm tội chứng trình lên tiết độ sứ Phạm Ứng Tích. Kể từ đó, mọi thứ giữa cô và hắn, đều đã thành quá khứ.

    Giờ đây, điều cô lo lắng chỉ là thương thế của Lý Thư Bạch. Đêm ấy, cô ôm Lý Thư Bạch, cùng vượt qua bóng tối mù mịt vô vọng, nếu y quả thật không tỉnh lại, có lẽ cô sẽ suy sụp hoàn toàn, lạc giữa rừng thẳm núi sâu, không bao giờ ra được nữa.

    Nhìn Vũ Tuyên đang thong dong đi về phía mình, gương mặt dần hiện rõ dưới ánh dương, dung mạo tựa thần tiên, phong độ ung dung như con cháu nhà quyền quý, cô sực hiểu ra, hắn không chỉ là Vũ Tuyên, mà còn là một thời thiếu nữ, là những hồi ức đẹp đẽ huy hoàng như mộng ảo mà cô đã vĩnh viễn đánh mất. Mỗi lần cô ngẩn ngơ trước Vũ Tuyên, có lẽ không phải vì cô thấy kẻ mình từng yêu say đắm, mà bởi cô đang nhìn vào chính bản thân thuở trước – một Hoàng Tử Hà mãi mãi đứng lại ở tuổi mười sáu lộng lẫy như hoa, vô tư nói cười, được người người ngưỡng mộ.

    Còn Vũ Tuyên là kẻ chứng kiến, kẻ tham dự, thậm chí cũng là một trong những kẻ kiến tạo nên quãng thời gian tươi đẹp đó.

    Thế nên cô mỉm cười với hắn, như đang cười với bản thân trong quá khứ, chỉ muốn nói, xin chào giấc mơ của Hoàng Tử Hà mười sáu tuổi, lâu nay vẫn khỏe chứ?

    Nhưng, giấc mơ đẹp đến mấy, cuối cùng cũng phải tỉnh.

    Trái lại, Vũ Tuyên bỗng ngây ra. Dọc đường tìm đến đây, hắn từng dự đoán phản ứng của Hoàng Tử Hà, song không cách nào ngờ được, cô vừa trông thấy mình đã nhoẻn cười như thế.

    Hoàng Tử Hà vận bộ đồ hoạn quan, vạt dưới đã bị xé một mảng lớn, cả người đầy bụi đất, tóc tai bù xù, mặt mày lem luốc, tay còn xách một củ mài mới nhổ. Nhưng cô không mảy may bối rối, bởi với cô giờ đây, người này đã không còn quan trọng nữa. Cô quay đi thản nhiên nhặt nhạnh những quả bầu dưới đất, thuận miệng hỏi: “Sao huynh lại tới đây?”

    Thấy thái độ thản nhiên của Hoàng Tử Hà, Vũ Tuyên nhất thời không biết nói gì, im lặng giây lát rồi đi tới bên cạnh giúp cô hái hai quả bầu thật lớn.

    “Đừng lấy quả to quá, bầu già khó nhừ lắm.” Hoàng Tử Hà nhắc.

    Hắn thoáng ngớ ra, rồi lại hái hai quả còn non xanh, nhìn cô nói: “Nghe tin Quỳ vương xảy ra chuyện, tất cả thị vệ và hoạn quan bên cạnh tan tác hết, ta nhớ lại trước chúng ta từng lạc đường ngang qua đây, biết đâu muội lại vô tình đến chỗ này, nên đi qua xem thử.”

    Cô đỡ lấy hai trái bầu ôm vào trong lòng: “Đa tạ huynh quan tâm, muội không sao.”

    “Ta… nhớ muội bảo sẽ quay về rửa sạch tội trạng, nên vẫn mong muội chóng ngày về phủ Thành Đô. Ta muốn tận mắt chứng kiến muội lật lại bản án.”

    “Muội sẽ lật lại bản án.” Dứt lời, lại thấy vạt áo hắn ướt đẫm sương, cô nói thêm: “Đa tạ huynh lặn lội đêm khuya tìm đến tận đây.”

    “Tây Xuyên tiết độ sứ đã ra lệnh phong tỏa núi non để tìm kiếm, ta đành lựa lúc đêm tối lẻn vào.” Hắn đăm đăm nhìn cô, “Ta biết muội không sao mà… chỉ hơi lem luốc chút thôi.”

    Hoàng Tử Hà ôm bầu và củ mài đi về phía ngôi chùa nhỏ, không quên ngoái lại mỉm cười với hắn: “Đúng thế, muội đã nói sẽ rửa sạch oan khiên kia mà, sao có thể chết sớm được?”

    Nhìn khóe môi cong cong cùng vẻ mặt thản nhiên của cô, bước chân hắn bỗng chậm lại, lòng ngập tràn một cảm giác khó tả.

    Giữa lúc hắn còn ngơ ngác thẫn thờ, cô đã đi mất hút.

    Bóng hình hắn vẫn luôn phản chiếu trong mắt cô, giờ không thấy đâu nữa.

    Ánh mắt Vũ Tuyết thoắt tối sầm, nhưng hắn vẫn rảo bước theo cô vào trong chùa.
     
  12. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 4 - Cùng nhau hái đậu
    Hôm nay Lý Thư Bạch đã nhúc nhắc đi lại được, xách một con gà lôi đang vùng vẫy, thấy cô bước vào bèn hỏi: “Ngươi biết giết gà không?”

    “Quỳ vương không gì không làm được, lại không biết giết gà ư?”

    “Lười.” Nói rồi y ném con gà sang cô, chợt trông thấy Vũ Tuyên đứng phía sau thì khựng lại một thoáng mới tiếp: “Dù sao còn có ngươi nữa.”

    “À vâng.” Cô thuận miệng đáp rồi tóm lấy cánh gà, lôi nó ra phía sau.

    Lý Thư Bạch ngồi xuống bóng râm dưới hành lang, Vũ Tuyên đứng trước bụi lau trong sân, khom người hành lễ với y: “Tham kiến vương gia.”

    Lý Thư Bạch giơ tay ra hiệu cho hắn bình thân.

    Hai người cũng chẳng có chuyện gì để nói với nhau, cứ thế lặng thinh, người ngồi kẻ đứng. Đột nhiên phía sau có tiếng gà ré lên quang quác, sau đó một cái bóng sặc sỡ bổ ra, chạy lung tung khắp nơi, kéo theo máu be bét.

    Vũ Tuyên nhanh mắt nhanh tay chạy đến giữ chặt lấy nó. Bấy giờ mới thấy Hoàng Tử Hà xách kiếm Ngư Trường nhớn nhác lao ra: “Dạ, lần đầu ra tay, còn thiếu kinh nghiệm..”

    Lý Thư Bạch dựa vào lan can nhận xét: “Vừa nãy trông ngươi tự tin lắm mà.”

    “Tôi mới chỉ quan sát thím đầu bếp làm hai lần thôi…” Cô lè lưỡi đáp, rồi tóm lấy con gà trong tay Vũ Tuyên. Con gà lôi sống dai như thế giờ chỉ còn thoi thóp, cô nhanh nhẹn bẻ ngoéo cổ nó, rồi bồi thêm một đao, cuối cùng mới ngồi xuống hành lang lau sạch chỗ máu be bét.

    Lý Thư Bạch nhìn vết máu vương vãi suốt đại điện và hậu điện, đột nhiên nói: “Nếu Tử Tần đến đây trông thấy, nói không chừng lại phá được một vụ án thảm sát tất cả tăng nhân trong chùa cũng nên.

    Tưởng tượng ra cảnh Chu Tần sục sạo khắp chùa tìm vết máu, Hoàng Tử Hà phì cười, xách con gà quay vào trong: “Tôi đi đun nước làm lông.”

    Vũ Tuyên lưỡng lự một thoáng rồi đứng dậy theo cô ra đằng sau: “Để ta giúp muội.”

    Hoàng Tử Hà cũng chẳng từ chối, để hắn giúp trông bếp, còn cô nấu cơm.

    Ánh lửa bập bùng hắt lên gương mặt Vũ Tuyên, ánh vàng, ánh đỏ và ánh cam cứ luân phiên luân chuyển trên mặt hắn, đẹp đến mê người.

    Hoàng Tử Hà đang nấu cơm đột nhiên ngẩng lên, trông thấy gương mặt rực hồng dưới ánh lửa của hắn, bỗng thấy ấm lòng.

    Được cùng người này đi qua thuở thiếu thời rực rỡ như hoa, quả là rất đáng, tiếc rằng…

    Vũ Tuyên cũng ngước nhìn cô, ánh mắt đôi bên gặp nhau trong thoáng chốc. hắn khựng lại giây lát, rồi hạ giọng hỏi: “Muội định bắt tay từ đâu?”

    Hoàng Tử Hà hiểu ý hắn muốn hỏi mình định lật lại bản án của gia đình thế nào, bèn đáp ngay: “Tất cả mọi người trong phủ quận thú.”

    “Muội nghĩ là giặc trong nhà à?”

    “Người nhà gây án dễ dàng hơn người ngoài, nên tra xét trước.” Đoạn cô ngước nhìn hắn, thong thả tiếp, “Đến lúc đó nhất định phải điều tra tất cả mọi người một lượt, bao gồm cả huynh.”

    Hắn gật đầu, nhìn ngọn lửa trong lò, trâm ngầm hỏi: “Còn muội?”

    Hoàng Tử Hà lặng lẽ cúi đầu nêm nếm canh: “Huynh vẫn không tin muội.”

    Hắn lắc đầu: “Ta không thể buộc bản thân quên đi những gì tận mắt chứng kiến được.”

    Hoàng Tử Hà thầm run lên, hiểu rằng hắn đang nhắc tới chuyện trước khi cha mẹ qua đời, cô từng lấy gói tỳ sương ra, nhìn bằng ánh mắt lạnh lùng.

    Cô thái nhỏ củ mài, thả vào mảnh ngói trên bếp đậy lại rồi nói: “Đã vậy thì chúng ta lần lượt thuật lại mọi chuyện mình làm trong ngày hôm đó, đối chiếu với nhau đi.”

    Vũ Tuyên gật đầu, lại bỏ thêm hai cành tùng vào bếp lửa, phủi tro than trên áo rồi đứng dậy.

    Hoàng Tử Hà giơ tay lên đầu, lấy làm ngạc nhiên vì cây trâm Lý Thư Bạch tặng trải qua mấy ngày bôn ba vất vả như thế vẫn còn nguyên chưa rơi mất, bèn ấn vào hoa văn cỏ lá cuốn, rút thân trâm ngọc bên trong ra.

    “Ngày hai mươi lăm tháng Giêng, muội kết thúc vụ án con gái hạ độc giết cả gia đình, từ Long Châu quay về, đến nhà thì đã tối, nên tối hôm ấy chúng ta không gặp nhau đúng không?”


    Vũ Tuyên gật đầu xác nhận.

    “Ngày hai mươi sáu, muội ngủ đến cuối giờ Mão thì nghe tiếng huynh gõ vào cửa sổ.”

    Đó là thói quen nhiều năm nay của họ. Mỗi lần nghe tiếng Vũ Tuyên gõ vào song, cô lại hé cửa sổ ra, để hắn đưa cành hoa tặng cho mình vào.

    Hôm ấy, Vũ Tuyên tặng cho cô một nhành mai lục ngạc.

    Nhìn ba chữ “cuối giờ Mão” cô vạch lên mặt đất, Vũ Tuyên bèn trỏ chỗ trống bên cạnh nói: “Ngày hai mươi sáu, đầu giờ Mão, ta đi ngang vườn Tình, được thợ làm vườn cắt cho một cành mai lục ngạc.”

    Hoàng Tử Hà lại chấm một chấm nông ở phía trước, ý là đầu giờ Mão.

    “Cuối giờ Mão, ta gõ vào song cửa, không thấy muội đáp. Ta đợi một lát, lạ gõ thêm mấy lần nữa, nhưng chẳng thấy động tĩnh gì, bèn nghĩ không biết có phải muội đã dậy ra ngoài rồi không. Chợt ta phát hiện cửa cổ chỉ khép hờ, liền hỏi vọng vào: ‘A Hà, muội có trong đó không? Ta mở cửa nhé’, đoạn hé cửa sổ ra nhìn vào, “Ta thấy… muội đã trở dậy, đang đứng thần người ra trước bàn trang điểm, tay cầm một gói gì đó. Nhìn tờ giấy bọc bên ngoài, ta nhận ra đó là gói tỳ sương chúng ta mua lúc trước.”

    Hoàng Tử Hà đánh một dấu chéo vào cuối giờ Mão rồi thở hắt ra, “Từ sau lần gặp trước, muội cứ nghĩ đi nghĩ lại về ngày hôm trước. Hình như ký ức của muội và huynh không khớp nhau.”

    Vũ Tuyên gật đầu hỏi lại: “Ngày hôm ấy của muội thế nào?”

    “Cuối giờ Mão, muội nghe tiếng huynh gõ vào song cửa, bèn khoác áo ngồi dậy nói vọng ra: ‘Chờ muội một chút.’ Đến khi muội mặc xong quần áo, cũng là lúc huynh gõ song cửa lần nữa. Muội bèn mở cửa ra, nhận lấy nhành mai.”

    Vũ Tuyên nhíu mày: “Cành mai ấy, có mấy bông?”

    Hoàng Tử Hà chợt ngẩn ra, nghĩ ngợi một lúc mới đáp: “Hình như là bốn bông, cũng có thể là năm… Cành mai quá dài nên muội chỉ ngắt bông dưới cùng cài lên tóc.”

    “Bốn bông, hai nụ. Ta còn nhớ rõ.”

    Thấy hắn nói chắc như đinh đóng cột, Hoàng Tử Hà không giấu nổi vẻ kinh hãi.

    Ảo tưởng cô xây đắp lâu nay bỗng sụp đổ trong khoảnh khắc. Ký ức cứ ngỡ là tuyệt đối đáng tin, trong nháy mắt ngay cả bản thân cũng không tin nổi. Tất cả dường như đều mờ mịt méo mó hẳn đi, không cách nào phân biệt nữa.

    Cô gắng trấn tĩnh lại, dùng mũi trâm vẽ một vòng tròn cạnh dấu gạch chéo rồi kể tiếp: “Sau đó, muội rửa mặt chải đầu. Hôm ấy muội cài cây trâm đồi mồi thường dùng, lại giắt thêm một đóa mai lục ngạc huynh tặng, tay đeo chiếc vòng ngọc chạm đôi cá mà chúng ta vẽ mẫu rồi nhờ thợ khéo làm, áo khoác ngoài bằng gấm Thục màu tùng hương thêu hải đường liền cành, dưới là váy màu ngà.”

    Vũ Tuyên hồi tưởng lại rồi gật đầu bổ sung: “Đúng thế, còn kết một dải đồng tâm màu tím.”

    Hoàng Tử Hà xác nhận: “Màu tím hồng.”

    “Sau đó Mi Vu dưa bữa sáng tới, nhưng muội nói giờ dùng bữa sáng cũng dở dang rồi, chi bằng đưa thêm mấy món nữa, chúng ta ăn cả bữa trưa luôn.”

    “Ăn xong bữa là giờ Thìn hai khắc. Hai ta bèn ra vườn hoa hái hoa mai. Đến cuối giờ Ngọ thì bà nội và chú muội đến.”

    “Ừ, ta dù sao cũng là người ngoài, nên bèn kiếm cớ tránh đi. Sau đó lúc ngang qua vườn Tình, ta gặp mấy người bạn, bị họ kéo đi bàn luận chuyện trên trời dưới bể, đến chiều muộn tất cả lại kéo đến Hạnh Hoa trang ăn cơm, về đến nhà thì đã là canh hai, qua giờ giới nghiêm lâu rồi. Ta bị chuốc nhiều quá, còn gặp phải binh lính đi tuần tra, may mà họ nhận ra, bèn đưa ta về tận cửa.”

    Hoàng Tử Hà lần lượt ghi lại, sắp xếp mọi việc ra vào ngày hôm đó thật rành mạch. Vũ Tuyên ngồi trước bếp lửa, lặng lẽ nhìn cô, như hàng bao nhiêu lần trước đây, hắn đã ngồi ngắm cô chăm chú suy luận. Hàng mi dài che rợp đôi mắt sáng long lanh, nhưng không giấu nổi ánh nhìn sắc sảo.


    Đột nhiên, ánh mắt ấy nhìn thẳng vào hắn. Bấy giờ Vũ Tuyên mới sực nhận ra, đã không phải trước kia, không phải năm xưa nữa rồi. Sau biến động lớn khiến quỹ đạo cuộc đời cả hai thay đổi vĩnh viễn, họ lại cùng nhau ngồi phía sau ngôi chùa này, tựa hồ tất cả vẫn như thuở trước, nhưng rõ ràng không cách nào quay lại nữa.

    Hoàng Tử Hà đưa mũi trâm rà lại một lượt những việc làm trong ngày hôm đó, rồi lau sạch cây trâm, thong thả cài lại lên đầu, “Xem ra các việc huynh làm trong ngày hôm đó rõ ràng hơn muội nhiều. Từ giờ Ngọ hôm ấy đến sáng hôm sau, muội chỉ có một mình, muốn tìm một nhân chứng cũng khó.”

    Vũ Tuyên cụp mắt nhìn xuống, im lặng.

    “Có vẻ khả năng gây án của muội rất lớn…” Cô trầm ngâm nhận xét, rồi cắn môi đứng dậy, di chân xóa hết mọi vết tích trên mặt đất.

    Vũ Tuyên chậm rãi nói: “Trong tất cả mọi người, khả năng của muội là lớn nhất.”

    Hoàng Tử Hà im lặng nhìn nền đất đầy tràn to vừa bị mình di chân, hồi lâu mới nói: “Dù mọi chứng cứ đều nhằm vào muội, dù cả huynh cũng cho rằng muội là hung thủ, muội sẽ chứng minh cho huynh thấy, bất luận thế nào, Hoàng Tử Hà này vô tội. Để cha mẹ và người thân của muội dưới suối vàng được ngậm cười nhắm mắt!”

    Canh gà hầm củ mài đã chín, mùi thơm ngào ngạt.

    Cô rửa sạch bát gỗ, múc một bát đầy bưng đến chỗ Lý Thư Bạch.

    Vũ Tuyên nói từ phía sau: “Ta về trước đây.”

    Hoàng Tử Hà ngoái đầu nhìn hắn, lặng thinh.

    Vũ Tuyên cũng chăm chú nhìn cô. Hắn đứng trong căn bếp tối tăm, còn cô đứng ở hành lang đầy nắng, ánh nắng soi vào mắt khiến hắn không sao nhìn rõ gương mặt cô, chỉ thấy đôi mắt vẫn trong suốt sáng ngời như thuở ấy, chẳng khác hai viên đá đen đặt giữa lớp thủy tinh lóng lánh.

    Cuối cùng hắn nói: “Giờ muội còn phải chăm sóc Quỳ vương đang bị thương, ta ở lại bất tiện.”

    Cô cụp mắt: “Hay là chúng ta cùng về?”

    Vũ Tuyên tròn mắt ngạc nhiên, bước ra khỏi gian bếp tối tăm: “Muội… đi cùng ta bây giờ, để Quỳ vương ở lại ư?”

    Cô bưng bát canh nhìn hắn: “Ý muội là, huynh đợi mấy hôm nữa, để gia khỏe lại, chúng ta… ba người cùng về.”

    Ánh mắt trong mắt vụt tắt lịm, Vũ Tuyên quay mặt nhìn ra dãy núi trùng điệp ngoài xa: “Quỳ vương gia và ta chẳng qua lại gì, hơn nữa muội cũng biết đấy, ta xuất thân hèn kém, không dám với cao.”

    Hoàng Tử Hà ngẩn ra, không hiểu sao hắn bỗng dưng phản ứng mạnh như thế.

    Nhìn vẻ ngạc nhiên của cô, hắn lại nhớ đến những chuyện trước đây, ngập ngừng thật lâu mới lên tiếng: “Ta và Đồng Xương công chúa… không có gì cả.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu, định hỏi chuyện khác, nhưng rồi lại mím môi cúi đầu quay về.

    Nào ngờ, hắn lại nói khẽ: “Với muội, với y, với bất cứ ai, cũng không có liên quan gì cả.”

    Cô không kìm được, buột miệng: “Thế còn Quách thục phi?”

    Lần này đến lượt hắn ngạc nhiên, ngẩng phắt lên nhìn cô.

    Đã nói thì nói cho hết, cô cũng chẳng lấy làm thất vọng, chỉ đọc: “Cùng nghe ngóng lúc nay chẳng thấy, muốn theo trăng trôi chảy đến chàng.”

    Vũ Tuyên kinh ngạc tột cùng, lúng túng một hồi mới giải thích: “Ừm… nương nương từng viết cho ta một lá thư, ghi đôi câu thơ này. Nhưng giữa ta và bà ấy thực sự không có quan hệ gì cả.”

    Hoàng Tử Hà đáp khẽ: “Muội cũng tin huynh không tùy tiện qua lại với người khác.”

    “Bấy giờ ta được mời tới Quốc Tử Giám làm học chính, tình cờ, vào ngày Thanh minh mùng ba tháng Ba lại gặp Đồng Xương công chúa và Quách thục phi. Hôm ấy trời đổ mưa rào, họ không kịp tìm chỗ trú, lại không đem theo ô, mấy thị nữ bèn cởi áo ngoài ra che mưa cho họ. Ta đi ngang qua, cũng chẳng biết họ là ai, tiện thể cho họ mượn ô mà thôi…” Nói đến đây hắn cũng thở dài, “Ai ngờ mấy hôm sau, lúc ta đang giảng bài thì Đồng Xương công chúa thình lình xuất hiện…”

    Đám thị vệ gạt hết học trò ra, rồi Đồng Xương công chúa dân theo mấy thị nữ xăm xăm đi thẳng đến bàn đầu. Nàng chỉ đưa mắt liếc mấy học trò ngồi đó, họ liền hối hả thu dọn sách vở chạy xuống dưới. Đồng Xương công chúa thản nhiên như không, ngồi ngay xuống bàn đầu tiên.

    Lớp học đang yên lặng đột nhiên thị vệ thị nữ rầm rập kéo vào, còn cả một công chúa chống cằm ngồi ngay bàn đầu nghe giảng, khiến Vũ Tuyên buột phải ngừng bài giảng: “Chư vị đến đây không báo trước, có gì chỉ giáo?”

    Đồng Xương công chúa cười cười quan sát hắn, nụ cười sâu xa khôn tả: “Vũ học chính quên ta rồi ư?”

    Nhìn phục sức của mấy ả thị nữ phía sau, Vũ Tuyên mới sực nhớ ra cô gái mượn ô hôm trước.

    Quốc Tử Giám tế tửu nhăn nhó chạy vào, luôn miệng nhận tội: “Kẻ nào ở Quốc Tử Giám đắc tội công chúa điện hạ, xin điện hạ cứ nói, bọn chúng thần nhất định sẽ xử trí thật nghiêm, để điện hạ vừa lòng.”

    “Thế ư?” Cặp mắt phượng sắc sảo của Đồng Xương công chúa nhìn Vũ Tuyên từ trên xuống dưới, rồi lại nhìn sang Cốc tế tửu, giơ cả hai tay lên trỏ vào Vũ Tuyên, khóe môi nhếch lên một nụ cười kỳ dị: “Chính là kẻ này, rất đáng ghét.”

    Cốc tế tửu ngạc nhiên: “Đó là cử nhân từ quận Thục, vừa mới đến kinh thành làm học chính được mấy hôm, chủ yếu giảng về Chu lễ, chẳng hay đã đắc tội công chúa điện hạ lúc nào?”

    “Ngươi nói xem?” Nàng đứng phắt dậy, đi vòng quanh Vũ Tuyên một vòng, săm soi dáng đứng thẳng như cán bút của hắn, nụ cười càng thêm phần ranh mãnh: “Gần đây ta cũng muốn họ Chu lễ, tiếc rằng tim mấy người đều già lụ khụ, nhìn mà chẳng muốn giở sách ra nữa. Quốc Tử Giám các ngươi có một vị học chính thân thiện dễ gần thế này, lại chuyên giảng Chu lễ, mà giấu biệt không cho gặp ta, ngươi nói xem Quốc Tử Giám các ngươi, cả vị tiểu học chính này nữa, có đáng phạt không hả?”

    Cốc tế tửu vốn đã nhăn nhó, nghe vậy càngnhư khỉ ăn gừng, luôn miệng vâng dạ, còn khuyên Vũ Tuyên đi giảng bải cho công chúa.

    Về phần mình, Vũ Tuyên nào biết nàng là Đồng Xương công chúa, viên ngọc quý trên tay hoàng thượng, còn định từ chối. Nào ngờ Đồng Xương công chúa bèn ra tay khuấy đảo cuộc sống của hắn. Không chỉ mỗi lần Vũ Tuyên lên lớp đều bị thị vệ phủ công chúa chặn cửa không cho học trò vào học, mà ngay cả khi các vị tế tửu, giám thừa, chủ bộ… bàn luận, cũng bị họ quấy nhiễu đến nỗi không sao cất lời được. Cuối cùng tất cả giảng sư và học trò ở Quốc Tử Giám oán thán vang trời, vật nài hắn mau nhận lời, hắn mới bất đắc dĩ phải thu dọn sách vở, bước vào phủ công chúa.

    Hắn từng thắc mắc, vì sao mỗi khi mình giảng bài cho Đồng Xương công chúa, Quách thục phi lại đến dự thính, nhưng về sau cũng chẳng lấy làm lạ nữa. Bởi một lần, hắn đã gặp phò mã Vi Bảo Hoàng ở ngay cửa phủ.

    Việc Đồng Xương công chúa ép hắn vào phủ giảng bài, cả kinh thành đã đồn ầm lên, nhưng hắn thật không ngờ Vi Bảo Hoành không hề để bụng chuyện này, còn thỉnh giáo hắn vài vấn đề trong Chu lễ, than rằng gần đây học vấn của công chúa tiến bộ không ngờ, nói rằng ngày càng thâm sâu khó hiểu, nhờ hắn giải đáp cho vài điều. Vũ Tuyên cũng vui vẻ chuyện trò, mãi đến khi người ở vườn Tri Cẩm chạy đến báo công chúa đã đợi hồi lâu, hắn mới cáo từ phò mã, nhờ một thị nữ ở vườn Túc Vi dẫn đường.

    Trong vườn Tri Cẩm, ngoài rặng chuối, ở cạnh hồ nước. Đang đi trên cầu, hắn chợt nghe loáng thoáng có tiếng Đồng Xương công chúa và Quách thục phi rì rầm trò chuyện. Cây cầu khúc khuỷu quanh co, tuy hắn nghe thấy tiếng, song đi mãi chưa đến cửa.

    “Mẫu phi, giờ đang lúc rối ren, còn chưa giải quyết được kẻ trong cung Thái Cực, tội gì lại sinh sự thêm ra?”

    “Con sợ gì chứ? Từ khi ả kia chuyển đến cung Thái Cực, phụ hoàng con ngày nào cũng rầu rĩ không vui, mấy hôm lại bãi triều đến cung Kiến Bật rồi. Nghe nói ở đó mới tuyển năm trăm đứa con gái dân gian, chỉ đợi hoàng thượng tới.”

    “Mẫu phi sao phải lo? Đừng nói năm trăm, cho dù có năm vạn, cũng chẳng đẹp bằng kẻ kia. Vậy mà phụ hoàng còn vứt bỏ ả, chọn mẫu phi.”

    “Cả con cũng cho rằng việc đó là do ta làm ra ư? Thực ra ta cũng chẳng hiểu sao hoàng thượng đột nhiên lại đưa ả ta tới cung Thái Cực dưỡng bệnh nữa, chẳng lẽ… ả quá sợ hãi trước cái chết của em họ đến sinh bệnh ư?”


    “Bất kể thế nào thì mẫu phi cũng được lợi mà. Có lẽ kỳ vọng nửa đời của người, chỉ trông vào dịp này thôi.”

    “Đúng thế… Giờ đang là lúc mấu chốt, đáng lẽ ta phải tĩnh tâm lo liệu việc trong cung. Nhưng Linh Huy ạ, thực tình ta cũng chẳng dám mơ mòng, trong ngoài cung tai vách mạch rừng, bên cạnh ta lại luôn có thị vệ thị nữ kè kè, muốn cách năm ngày gặp hắn một lần đã khó, còn làm được gì nữa chứ? Huống hồ tuổi tác hắn chỉ sàn sàn con, mụ già như ta nào dám mơ tưởng?” Nói đến đây, Quách thục phi thở dài, giọng càng nghẹn ngào, “Linh Huy, ta ở bên phụ hoàng con hơn hai mươi năm, nhưng chỉ như cái xác không hồn. Ta biết mình vô duyên với hắn, đời này kiếp này, chỉ có thể xa cách đôi đàng ngóng vọng về nhau. Ta chỉ muốn… nhìn hắn lâu thêm một chút, nghe hắn nói lâu thêm một chút cũng đủ rồi…”

    Thị nữ dẫn đường cho hắn nghe đến đây thì tái mặt, hiểu rằng mình đã vô tình biết được bí mật vô cùng đáng sợ. Ả dừng lại, nhìn hắn nài nỉ.

    Hắn cũng kinh ngạc đến thần người ra, thấy đã đi gần hết cầu, sắp đến cửa, bèn gật đầu với ả, ra ý bảo ả mau đi đi.

    Nào ngờ ả bước quá vội, để Đồng Xương công chúa nghe được. Nàng đột nhiên đứng dậy đi đến cửa ngôi đình giữa hồ, thoáng nhìn thấy hắn đứng trên cầu, cũng thấy cả ả thị nữ đang hấp tấp bỏ đi.

    Sắc mặt Đồng Xương công chúa tái nhợt đi, nàng cao giọng quát: “Đậu Khấu!”

    Ra ả thị nữ ngoài ba mươi tuổi nọ tên là Đậu Khấu, cái tên thực chẳng phù hợp với tuổi tác chút nào. Nhưng hắn cũng chẳng để tâm, chỉ thấy lòng hoang mang vô hạn. Cứ ngỡ Đồng Xương công chúa đã khó đối phó rồi, giờ mới biết thì ra Quách thục phi có ý với mình, hắn càng thấy kinh ngạc hết sức, lòng rối như tơ vò.

    Hắn đứng trên cầu, trông thấy trong ngôi đình thấp thoáng dưới rặng chuối, Quách thục phi ngồi trước chiếc bàn bên cửa sổ, vừa gác bút, vo viên tờ giấy trong tay vứt xuống đất.

    Hắn bèn hành lễ với hai người rồi lẳng lặng quay người bỏ đi.

    Đậu Khấu cũng lật đật theo sau hắn, nhưng khi ra đến cổng thì Đồng Xương công chúa đuổi kịp, Đậu Khấu bị dẫn vào.

    Ba người đều hiểu rõ, không nhắc lại chuyện đó nữa. Hôm đó sau khi quay về, hắn cũng đệ đơn lên Quốc Tử Giám, xin được từ chức quay về Thục.

    Về sau, hắn nghe được ở phủ công chúa chuyện vườn Tri Cẩm bị niêm phong, lại nghe đồn, một thị nữ tên Đậu Khấu bị oan hồn đòi mạng, đã chết tại đó.

    Điều hối tiếc nhất trong thời gian ở kinh thành là hôm ấy, lúc đến cổng vườn Tri Cẩm, hắn đã không bảo Đậu Khấu quay về. Tuy ả và hắn chẳng hề quen biết, song hắn luôn cảm thấy chính mình đã hại chết ả.

    Sau này, lúc rời kinh, hắn từng gặp một cô gái tên Tích Thúy. Thấy vẻ kinh hoàng và luống cuống của Tích Thúy, hắn sực nhớ đến Đậu Khấu.

    Thế nên, hắn đã lừa đám quan binh, cứu nàng.

    Tích Thúy chạy thoát, Đồng Xương công chúa qua đời, hắn cũng rời xa kinh thành. Dường như tất cả đã kết thúc. Nhưng lúc này, nghe thấy câu nói ấy buột ra từ miệng của Hoàng Tử Hà, hắn chợt hiểu ra, chuyện đó vĩnh viễn không thể nào giải quyết, cũng không thể nào qua đi.

    Lòng rối bời, Vũ Tuyên nhìn Hoàng Tử Hà, thật lâu sau mới khẽ nói: “Muội tin hay không thì tùy, nhưng ta trước giờ…”

    Trước giờ thế nào, hắn không nói.

    Lặng lẽ lê bước quay về căn bếp tối tăm, hắn nhìn theo Hoàng Tử Hà hối hả bưng bát canh đi, chỉ sợ canh nguội.

    Cuối hạ, thời tiết nóng nực, lại đã gần trưa, ngọn gió hầm hập thổi qua mảnh sân đầy cỏ, phả vào phòng. Lý Thư Bạch đóng cửa sổ, ngủ thiếp đi.

    Hoàng Tử Hà ở bên ngoài gõ cửa khẽ rồi bước vào: “Gia dậy ăn chút gì đi.”

    Lý Thư Bạch vẫn chưa dứt sốt, lừ đừ nhỏm người dậy dựa vào tường, lim dim mắt nhìn cô: “Mấy giờ rồi?”

    “Giờ Ngọ một khắc. Nô tài chậm chạp, giờ mới nấu xong, xin gia thứ tội.” Cô mỉm cười bưng bát canh cho y ăn, còn cẩn thận dặn, “Canh hơi nóng, gia thổi đi đã.”

    Thấy Lý Thư Bạch cầm đôi đũa bằng thân cây lau săm soi, Hoàng Tử Hà vội phân bua: “Tôi đã rửa sạch rồi.”

    Y ừm một tiếng, thong thả hớp một ngụm, lại dùng đũa gắp một miếng của mài nếm thử rồi nhận xét, “Không sao, đã đến nước này còn kén chọn nỗi gì? Ta chỉ thấy ngươi dùng lau sậy làm đũa quả là mới mẻ.”

    “Thế ư? Nô tài còn sợ nó trơn quá khó gắp. Nhưng nếu dùng cành cây lại thô quá, xin gia thứ lỗi.” Cô ngồi bên mép giường, vừa đỡ bát canh cho y vừa nói.

    Lý Thư Bạch đang sốt nên thần trí có hơi mơ hồ, ngoan ngoãn để cô cho uống canh.

    Xong xuôi mọi việc, Hoàng Tử Hà đang chuẩn bị đứng dậy thì y hỏi: “Vũ Tuyên còn ở đây không?”

    Hoàng Tử Hà gật đầu: “Thưa còn.”

    Y chăm chú quan sát vẻ mặt cô, như muốn tìm kiếm gì đó, nhưng chẳng thấy. Cặp mắt cô vẫn sáng trong, phẳng lặng như khe suối giữa rừng.

    Hồi lâu, y rời mắt đi, giọng nói thường lạnh lùng cũng dịu dàng hẳn: “Hắn còn cho rằng ngươi là hung thủ không?”

    “Chúng tôi vừa đối chiếu lại những chuyện đã xảy ra hôm đó, tiếc rằng chẳng có tiến triển gì.” Cô thở dài, hạ giọng. “Có điều tôi cũng biết sự việc đâu có đơn giản như thế, đành chịu vậy.

    “Cứ thong thả, nhất định sẽ có ngày lộ rõ trắng đen thôi.” Nói rồi y tựa người vào tường nhìn cô, không bảo cô đi, cũng không giữ cô lại.

    Hoàng Tử Hà bưng bát, ngập ngừng hỏi: “Lá bùa kia của vương gia thế nào rồi?”

    Lý Thư Bạch rút lá bùa ra, nhìn vòng tròn đỏ thắm cùng chữ “tàn” bị khoanh rõ, đoạn chìa cho cô: “Có lẽ giờ ta cũng coi như tàn phế rồi.”

    Hoàng Tử Hà đón lấy xem xét, không quên kiếm lời an ủi: “Gia vẫn cử động được như thường, thân thể dần dần bình phục, đâu ra chuyện tàn phế? Xem ra điềm báo này sai rồi.”

    “Ngươi không biết trên đời, trừ tồn tại ra, còn phải sống ư?” Lý Thư Bạch nhìn lá bùa, thở dài thật khẽ: “Mà cuộc sống của ta, có lẽ đã bị cắt đứt rồi.”

    Nghe y nói, lại nghĩ đến thế lực ẩn hiện đằng sau lá bùa này, Hoàng Tử Hà rợn tóc gáy. Nhưng ngước lên trông thấy vẻ mặt trầm tĩnh lạnh lùng của y, bàn tay phải đặt trên lá bùa bỗng đờ ra như bị đóng băng, không cử động được, cũng không rụt về được.

    Cô lặng lẽ nhìn y hồi lâu, mới nhẹ giọng nói: “Gia yên tâm đi, bất luận là người hay ma, chúng ta cũng phải lôi bằng được kẻ đứng đằng sau ra.”

    Cô quay lại bếp thì Vũ Tuyên đã đi mất.

    Hắn chỉ để lại một hàng chữ trên nền đất đầy tàn tro: “Ta đợi muội ở phủ Thành Đô.”

    Cô múc bát canh gà thong thả uống, dựa vào bếp lò nhìn hàng chữ, lẩm bẩm: “Sao không phải là về lấy ít thuốc rồi sẽ quay lại nhỉ? Bệnh của gia chẳng biết bao giờ mới đỡ nữa…”

    Nói đến đây, cô lại tự thấy mình đã đòi hỏi quá nhiều. Vũ Tuyên và Quỳ vương chẳng liên quan gì tới nhau, cô dựa vào cái gì mà bắt hắn giúp chứ?

    Huống hồ giờ đây, ngay hắn với cô cũng đã thành kẻ thù. Hoặc là, thành người xa lạ.

    Sau khi dứt sốt, vết thương sau lưng Lý Thư Bạch tuy chưa thuyên giảm, nhưng cũng đã đóng vảy.

    Tĩnh dưỡng thêm vài hôm nữa thì các binh sẽ chia ra lục soát trong núi cũng có vài kẻ lần đến gần ngôi chùa.

    Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà đang chụm đầu nghiên cứu một quả bưởi xanh vừa mới hái, bàn cãi xem phải nhìn võ ngoài hay cuống quả để phân biệt bưởi chín bưởi xanh.

    Tranh cãi mãi chẳng đi đến đâu, Hoàng Tử Hà nhìn sắc trời rồi bổ luôn quả bưởi thành tám miếng: “Theo tôi thấy cách hay nhất là bổ ra xem!”

    Bưởi cuối hè, dĩ nhiên là chua loét. Lý Thư Bạch ghét ăn chua nên nhường cả cho Hoàng Tử Hà. Hoàng Tử Hà ngồi dưới hành lang nhẩn nha ăn, chợt nghe thấy tiếng xào xạc trong bụi cỏ ngoài cửa.

    Cô giật thót mình, vội vàng ra hiệu cho Lý Thư Bạch, nhưng người bệnh vừa đỡ phản ứng vẫn nhanh hơn, vươn tay ra nắm lấy tay áo cô, rồi cả hai lẩn vào nấp trong nhà.

    Người tới là hai kẻ vận trang phục binh lính Tây Xuyên, một già một trẻ, đi thẳng vào lục soát khắp các phòng, song hai người Lý Hoàng đều hết sức nhanh nhẹn, mấy lần chúng đến gần, họ đều nấp vào góc tường hay bụi cỏ mà tránh.

    May mà họ đã thả Địch Ác vào khu rừng bên cạnh ăn cỏ, nếu không bị đám lính trông thấy lại thêm phiền phức.

    Sau khi tra soát một vòng, hai tên nọ bèn ngồi trong đại điện giở lương khô ra ăn. Hoàng Tử Hà và Lý Thư Bạch nấp trong góc tường ở nhà sau, thấy chúng không hề phát hiện ra thì nhìn nhau cười đắc ý.

    Bấy giờ cô mới nhận ra mình và y đang áp sát vào nhau. Giữa bầu không khí im phăng phắc ấy, hơi ấm từ cánh tay y thầm thấm qua lớp áo, lan sang da thịt cô, rồi chảy vào huyết mạch, tràn đến căng đầy trong ngực, cuối cùng khiến mặt cô đỏ bừng lên.

    Cô hơi dịch vai đi, ngoảnh mặt sang hướng khác.

    Xung quanh im phăng phắc như tờ, tiếng ve cuối hạ lúc lúc khoan lúc nhặt, tán lá trên đầu xào xạc, ánh mặt trời chiếu xuống người họ lúc tự lúc tan.

    Hoàng Tử Hà bất giác quay đầu nhìn Lý Thư Bạch, ngắm những giọt nắng nhảy nhót trên mình y. Bệnh y vừa đỡ sắc mặt tái nhợt có phần yếu ớt, khiến cô cảm thấy hơi thở y nhẹ hơn hẳn mọi khi, duy có đường nét trên gương mặt nghiêng nghiêng vẫn đẹp đẽ tao nhã như một bức tranh thủy mặc.


    Lý Thư Bạch cũng đang nhìn cô, khẽ thì thầm: “Xin lỗi, ta quên khuấy đi mất.”

    Cô gật đầu, rồi quay đi nhìn ra rặng núi xa xa, im lặng.

    Giọng ý lại vang lên bên tai: “Xem ra hai tên kia đúng là quân Tây Xuyên.”

    “Vâng.” Ai lại phái kẻ yếu bệnh tật thế kia đi làm thích khách chứ?

    “Chúng ta có theo chúng xuống núi không?” Lý Thư Bạch dựa vào bức tường phía au, ngẩng đầu nhìn trời, lạnh nhạt nói: “Ta không muốn chịu ơn Phạm Ứng Tích.”

    Hoàng Tử Hà hiểu chuyện này không chỉ là chịu ơn, mà có thể gọi là nhận đại ân đại đức. Quỳ vương xưa nay lạnh lùng thờ ơ, đời nào chịu nhận.

    Nhìn theo bóng hai tên lính đã rời đi, y đứng thẳng dậy, ra lệnh: “Đi thôi, chúng ta tự xuống núi.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu, nhặt nhạnh mấy thứ quả hôm qua vừa hái, đi ra tìm khoác lên lưng Địch Ác.

    Lý Thư Bạch lên ngựa trước, rồi chìa tay cho cô.

    Qua mấy ngày cùng trải nguy nan, hai người đã cưỡi chung ngựa mấy lần nên cô cũng chẳng ngại ngùng gì nữa, điềm nhiên nắm tay y leo lên ngựa, ngồi sau lưng vòng tay ôm lấy y, cảm thấy thân y sọm hẳn so với lần trước, đường nét từ vai đến eo gầy gò mà vẫn rắn rỏi.

    Gần đây ngày đêm bôn ba mệt mỏi, y vừa gượng dậy sau trọng thương, rõ ràng có thể biếng nhác một chút, ỷ lại một chút, vậy mà vẫn cao ngạo lạnh lùng như vậy, không chịu nhận mảy may ơn huệ từ người khác.

    Vậy thì, y lặn lội ngàn dặm theo cô đến Thục, có lẽ cũng chỉ là nể tình cô từng giúp y khi trước đây thôi…

    Cô nhìn ra rặng núi trải dài ngút ngát, chợt thấy con đường phía trước mờ mịt hẳn đi.

    Cảm nhận được cánh tay vòng qua eo mình bỗng cứng lại, Lý Thư Bạch ngoái đầu nhìn cô. Hai người ngồi sát, gió thổi tung đôi mái tóc quấn quýt vào nhau, cơ hồ không thể tách rời.

    Thấy cô ngẩn ngơ, y liền nhắc nhở: “Cẩn thận đấy?”

    Cô gật đầu, lại phóng mắt nhìn ra những bờ ruộng ngang dọc bắt đầu lộ ra đằng xa, thầm nhủ, vậy đã làm sao, bất luận y đưa mình đến đây vì lý do gì, thì mục đích duy nhất của mình cũng là rửa oan và báo thù cho người nhà. Sau khi trắng đen rõ ràng, thì một cô gái mồ côi không nơi nương tựa còn liên quan gì tới một vương gia cao quý nữa đâu.

    Ra khỏi cùng lam sơn chướng khí, trông thấy bầy dê đang nhởn nhơ gặm cỏ trên sườn núi, thấy những thửa ruộng vuông chằn chặn, dăm mái nhà thưa thớt, thấy cả con đường cái chạy dọc theo bờ sông, cả hai mới thở phào nhẹ nhõm.

    Cứ dọc theo đường cái, cuối cùng cũng trông thấy một ngôi làng nhỏ đằng trước. Giờ đã ngả chiều, khói lam bảng lảng từ mái tranh bốc lên, cảnh vật muốn nhuộm màu u tĩnh, Lý Thư Bạch là vương gia cao quý, đi đâu cũng có người hầu hạ, dĩ nhiên không mang theo tiền, còn Hoàng Tử Hà nghèo rớt mùng tơi, đương nhiên càng không xu dính túi. May sao họ có mấy quan tiền lấy từ tên thích khách, bèn vào làng mua ít đồ ăn, tiện thể mua thêm mấy bộ đồ cũ để thay.

    Nơi này rất gần phủ Thành Đô, đi thêm nửa ngày nữa thì đến nơi.

    Lúc vào cổng thành, hai người thấy rất nhiều bổ đầu và ngựa tập trung ở cổng, kẻ nào kẻ nấy trông nhếc nhác hết sức, lá cây vụn cỏ bám đầy mình mẩy, rõ ràng là vừa xuống núi.

    Dân chúng quanh đó quan sát toán người ngựa vừa quay về, xôn xao bàn tán. Một kẻ có vẻ thạo tin oang oang nói: “Nghe đồn Quỳ vương gia mất tích trên đường từ Hán Châu đến phủ Thành Đô rồi! Sáng sớm hôm qua, có mấy thị vệ hầu cận vương gia chạy thoát về, kể dọc đường họ gặp phải thích khách, đến giờ vẫn chưa tìm được vương gia!”

    Người nghe tức thì ồ lên: “Gì cơ? Kẻ nào lớn mật đến thế, dám hành thích cả Quỳ vương gia?”

    Thấy mọi người hỏi dồn, kẻ kia càng dương dương tự đắc: “Hôm trước ta đến phủ quận thú giao củi, nghe người dưới bếp kể rằng, thích khách nói giọng Từ Châu! Các vị bảo, còn kẻ nào nói giọng Từ Châu nữa chứ? Dĩ nhiên là Bàng Huân rồi!”

    “Bàng Huân đã chết từ lâu, mấy kẻ cùng hội cùng thuyền cũng gần như bị quét sạch, chẳng lẽ nào còn hành thích được người ta?”

    “Ôi chao, ông há không nghe được chuyện mấy tháng trước ở kinh thành, oan hồn Bàng Huân đã giết chết con gái nhà họ Vương Lang Gia ư? Nghe đâu cô gái ấy biến mất rất thần bí trong cung Đại Minh, rồi mấy ngày sau, thi thể lại đột ngột xuất hiện ở đúng chỗ cũ, quái đản hết sức!” Trong đám đông cũng có kẻ nhà rỗi, tức thì liến thoắng kết hợp cả những tin thất thiệt mà mình thu lượm được, thả sức tưởng tượng ra đủ chuyện, “Các vị có biết cô nương bị oan hồn Bàng Huân giết hại là ai không? Chính là vương phi tương lai của Quỳ vương đấy!”

    Đám đông nhao nhao phản đối: “Vụ án đó chẳng phải đã tra rõ rồi sao? Nghe nói do Dương công công ở phù Quỳ phá giải, là hai thị nữ bên cạnh vương phi tương lai ra tay, liên quan gì đến oan hồn Bàng Huân?”

    Thấy mọi người không tin, kẻ kia gân cổ lên cãi cố: “Chuyện trong cung Đại Minh có ma, hơn nữa còn là hồn ma của phản tặc Bàng Huân sao có thể truyền ra ngoài chứ? Hai ả thị nữ kia chắc chắn là bị lôi ra chết thay thôi!”

    Hoàng Tử Hà và Lý Thư Bạch nhìn nhau, đều thấy vẻ phức tạp trong mắt người kia, chẳng biết có nên khen kẻ nọ tinh tường nhìn thấu chân tướng không nữa.

    Lại có người hỏi: “Nếu vậy thì lần này Quỳ vương bị hành thích, cũng do oan hồn Bàng Huân tác quái ư?”

    “Chứ gì nữa! Quỳ vương anh minh thần võ, không ai bì kịp, thích khách bình thường làm sao động được vào sợi tóc vương gia?” Thấy có người tán thành, kẻ kia càng thêm hào hứng, như thể chính mình là người trong cuộc vậy, “Đương nhiên là oan hồn Bàng Huân làm loạn, Quỳ vương nhất thời sơ suất, để cho chúng đắc thủ!”

    Hiện giờ cả phủ Thành Đô cùng các châu phủ xung quanh đang dốc sức sục sạo trong khu vực xảy ra chuyện, tiết độ sứ đại nhân cũng phái đi mấy nghìn người, nghe nói định rà soát khắp núi rừng một lượt, nếu Quỳ vương còn sống thì chẳng bao lâu nữa sẽ tìm thấy thôi.

    Lại có kẻ lắc đầu than thở: “Quỳ vương xảy ra chuyện trong địa giới quận Thục chúng ta, đừng nói là Chu sứ quân vừa nhậm chức, mà cả quận Thục cũng không tránh khỏi liên can.”

    “Đừng nói là quận Thục. Hiện nay cả triều đình đều phải dựa vào Quỳ vương gánh vác, bằng không đã rơi vào tay bọn hoạn quan rồi. Giờ vương gia xảy ra chuyện, kẻ duy nhất được lợi, hẳn là…”

    Nói đến đây, kẻ đó rụt đầu, nhìn quanh: “Sắp tối rồi, xem ra họ sẽ tìm kiếm suốt đêm đấy.”

    “Hi vọng sáng mai sẽ có tin tốt… Nếu Quỳ vương yêu ổn quay về được thì mừng quá.”

    Trong tiếng bàn tán xì xầm, đám đông cũng tản dần đi. Hoàng Tử Hà ngẩng đầu nhìn Lý Thư Bạch hỏi khẽ: “Chúng ta tới phủ Chu sứ quân trước chứ?”

    Lý Thư Bạch lắc đầu: “Ta nghĩ nhất định có kẻ lấy làm mừng vì ta mất tích. Chúng ta cứ tìm một quán trọ nghỉ lại, để chúng vui mừng mấy hôm đã.”
     
  13. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 5 - Vũ điệu mê người
    Phủ Thành Đô tấp nập thương lái qua lại, trên phố có rất nhiều quán trọ. Hai người bèn chọn một quán sạch sẽ nằm trong ngõ.

    Mấy ngày bôn ba vất vả, sau khi gọi tiểu nhị lấy nước tắm rửa sạch sẽ, Hoàng Tử Hà giúp Lý Thư Bạch thay thuốc rồi ngủ thiếp đi.

    Sáng hôm sau tỉnh dậy, cô thấy cả người rời rã mỏi nhừ. Giống như lần trước trốn khỏi Thục, ngày ngày băng sông vượt núi, thần kinh căng ra để chống chọi, nhưng một khi dừng lại, lập tức thấy mỏi mệt vô chừng, bao nhiêu đau đớn cùng ập đến.

    Cô nằm dài trên giường hồi lâu, thẫn thờ nhìn ánh sáng lọt qua song cửa. Chẳng biết hôm nay là hôm nào, cũng chẳng biết mình phải đi đâu. Mấy đóa thục quỳ rực rỡ đang đung đưa ngoài song, hắt bóng vào khung cửa, hồng nhạt tím thẫm, như một vệt son phai.

    Cô chợt mơ màng, tưởng như mình vẫn còn là tiểu thư ngàn vàng được nâng niu trong phủ quận thú, sống cuộc đời gần như hoàn mỹ. Xuất thân nhà quan, dung mạo mỹ lệ, nổi danh thiên hạ, còn có một người cùng nắm tay thưởng hoa...

    Người ấy...

    Vừa nghĩ đến Vũ Tuyên, cô liền thở dài.

    Khi hắn trình bức thư tình lên tiết độ sứ Phạm Ứng Tịch như một tội chứng, bọn họ đã cắt đứt hoàn toàn.

    Còn gì mà mơ tưởng nữa chứ?

    Việc đến nước này, nghĩ đến hắn chi bằng nghĩ về vụ án sắp giải quyết, hay những việc phải làm cùng Lý Thư Bạch hôm nay còn hơn.

    Cô mặc quần áo chỉnh tề, rồi thừ người ra trước gương. trước đây còn có thể đóng giả hoạn quan, nói thác là dung mạo hơi giống nữ mà thôi, nhưng giờ Lý Thư Bạch cũng cải trang, sao cô còn làm hoạn quan được nữa? Huống hồ giờ đang ở Thục, người biết mặt cô rất nhiều, chỉ thoáng trông là sẽ nhận ra ngay.

    Còn đương nghĩ ngợi thì nghe tiếng gõ cửa khe khẽ.

    Cô bèn đứng dậy ra cửa hỏi nhỏ: “Ai đó?”

    “Ta, có thứ này cho ngươi.” Là giọng Lý Thư Bạch.

    Cô vội mở cửa, thấy Lý Thư Bạch đứng bên ngoài chìa cho cô một gói. Y đã thay đồ, còn cẩn thận hóa trang, trước mật cô giờ đây chỉ là một gương mặt bình thường, chẳng có nét nào tuấn tú, thậm chí hơi gầy gò tiều tụy, song dáng vóc cao ráo vẫn không giấu đi đâu được.

    Hoàng Tử Hà nhận lấy, thuận miệng hỏi: “Sớm thế này… gia đã ra ngoài rồi ư?”

    “Ừm, giờ ta họ Vương, gọi là Vương Quỳ.” Y theo cô vào phòng, thấy cô thản nhiên mở gói, lấy các thứ bên trong ra, nét mặt không tỏ vẻ gì kinh ngạc, chỉ lẳng lặng ngồi xuống trước tấm gương đồng, tỉ mỉ xoa phấn vàng lên mặt, rồi dán chút keo lên làm cho đuôi mắt cụp xuống, tô lông mày thành sâu róm, còn chấm thêm mấy đốm tàn nhang.

    Trong gương hiện ra một thiếu niên tướng mạo bình bình, chẳng có gì thu hút.

    Y buột miệng: “Sao ngươi lại biết hóa trang?”

    “Trước đây tôi đi theo đám bổ khoái, có mánh khóe nào không biết đâu?” Nói đoạn cô ngoái lại cười, “Vương gia biết ngón này mới là lạ đấy.”

    “Ở Đại Lý Tự từng đọc được vài tài liệu mô tả.” Y đáp gọn lỏn, rồi quay người đi ra, “Đi ăn sáng.”

    Hoàng Tử Hà hối hả bó ngực, thay đồ rồi theo y tới đằng trước cửa tiệm ăn sáng.

    Quán trọ nằm trong hẻm, tuy yên tĩnh nhưng vì thế nên cũng vắng khách. Chỉ có vẻn vẹn mấy người ngồi ăn, đều là khách trọ lại đêm qua.

    Hai người ngồi xuống bàn dùng điểm tâm sáng, Hoàng Tử Hà đang gặm màn thầu, Lý Thư Bạch tiện tay bỏ thêm ít rau cần thái nhỏ vào bát vằn thắn trước mặt cô.

    Hoàng Tử Hà ăn được nửa bát, chợt phát hiện khách khứa xung quanh đều đổ dồn mắt ra cửa. Vài kẻ thậm chí còn nghển cổ lên nhìn, chẳng khác gì con vịt.

    Cô đang cầm thìa xì xụp ăn, cũng phải ngẩng lên nhìn theo.

    Một đám mây bồng bềnh lãng đãng, từ ngoài cửa trôi vào.

    Không, thực ra đó không phải một đám mây, mà là một nữ tử mảnh mai tha thướt. Nàng chừng ngoài ba mươi, vận một tấm áo chẽn bằng vải thô giản dị, đầu cài chụp tóc bằng lụa, lưng đeo tay nải, chân xỏ giày vải, ngoài ra không có trang sức gì.

    Một người phụ nữ như vậy lại tha thướt hơn cả thiếu nữ, chẳng khác cành liễu phất phơ trước gió xuân, khiến người ta nhìn mà rúng động.

    Điểm hấp dẫn nhất của nữ tử ấy không phải dung mạo đẹp đẽ, mà là phong thái tuyệt vời, chưa cần nhìn mặt, chỉ riêng cử chỉ của nàng đã khiến người ta phải choáng ngợp, trầm trồ.

    Hoàng Tử Hà nhìn đến thần người ra, thầm nghĩ, thời trẻ chắc hẳn người này phải là mỹ nhân tuyệt sắc, đã đến tuổi này mà phong tư vẫn hớp hồn như thế.

    Có điều, một giai nhân như vậy lại có vẻ rầu rĩ ủ ê, lòng sầu muôn mối.

    Nàng chọn một chiếc bàn cạnh cửa sổ, âu sầu ngồi xuống, uống hai hớp cháo rồi thừ ra, chống má lặng lẽ nhìn rặng liễu xanh mướt bên ngoài.

    Thấy Hoàng Tử Hà cứ nhìn dán vào giai nhân, Lý Thư Bạch bèn gõ lên bàn nhắc nhở: “Ăn nhanh lên, chút nữa phải ra ngoài đấy.”

    Hoàng Tử Hà vâng dạ rồi ăn vội ăn vàng nốt nửa bát, lúc nhìn sang chiếc bàn cạnh cửa sổ kia, cô chợt thấy giai nhân nọ lấy trong tay nải một chiếc vòng ngọc, thần người ra ngắm.

    Chiếc thìa trong tay Hoàng Tử Hà bỗng rơi cạch xuống bàn.

    Bởi cái vòng kia quá quen thuộc với cô.

    Vòng bạch ngọc chạm đôi cá uốn mình quấn quanh, con này ngậm đuôi con kia, tạo thành một vòng tròn hoàn chỉnh.

    Vì mình cá chạm rỗng, mỗi khi ánh sáng rọi qua lại càng trong suốt lung linh khác thường. Mắt cá bằng hạt ngọc trai nhỏ như hạt gạo, khảm trên vòng ngọc, ngọc tôn châu, cực kỳ tinh xảo, khiến người ta khó mà rời mắt.

    Chính là chiếc vòng Vũ Tuyên tặng cho cô, từng bầu bạn bên cô suốt bao ngày, cổ tay cô cũng đã quen với cảm giác lành lạnh từ nó. Khi gia đình gặp nạn, cô một thân một mình trốn khỏi Thục, chỉ có cây trâm trên đầu và chiếc vòng này là đáng tiền.

    Có ai hay, lúc đem nó đi cầm, cô đã tuyệt vọng nhường nào. Bấy giờ cô từng nghĩ, tháo nó ra rồi, có lẽ sẽ không bao giờ thấy lại nữa.

    Nào ngờ, vừa bước vào đất Thục, còn chưa đến Thành Đô, cô đã lại trông thấy nó.

    Thấy cô biến sắc, Lý Thư Bạch nhìn theo ánh mắt cô, săm soi chiếc vòng trên tay giai nhân rồi hỏi: "Sao vậy?"

    Giai nhân kia đã cất vòng đi. Hoàng Tử Hà vội đứng dậy, bảo Lý Thư Bạch: "Đợi tôi một lát,” rồi xăm xăm đi thẳng về phía nàng.

    Giai nhân nghiêng đầu nhìn lướt qua cô, thấy chỉ là một thiếu niên mặt mũi vàng vọt, chẳng có gì nổi bật thì lại hờ hững rời mắt, khoác tay nải đứng dậy toan đi.

    Hoàng Tử Hà liền vào đề ngay: "Tôi nhận ra chiếc vòng vừa rồi tỷ cầm."

    Quả nhiên, giai nhân khựng lại, ngập ngừng hỏi: “Cậu... trước đây từng trông thấy rồi ư?"

    Giọng nàng hơi khàn, trầm thấp mà dịu dàng, rất hợp với người.

    Hoàng Tử Hà gật đầu: "Chẳng hay tỷ tỷ tìm được nó ở đâu vậy? Theo tôi biết, khi chủ cũ của nó rời khỏi Thành Đô, giữa đường đã đem nó đi cầm."

    "Nếu vậy thì có lẽ hàng cầm đồ đã đem bán…” Giai nhân thở dài, đáp khẽ: "Đây là di vật của một người chị em tôi, tôi tới Dương Châu gặp cô ấy, nào ngờ người đã qua đời, chỉ để lại chiếc vòng này… Hình như là tình nhân của cô ấy tặng.”

    Trông thái độ của nàng, Hoàng Tử Hà hiểu ngay, người chị em đó hẳn là xuất thân không được tốt, còn chiếc vòng cô đem cầm đã được ai đó mua về, tặng lại cho người nọ.

    Cô bèn kiếm lời an ủi: “Xin tỷ tỷ bớt đau buồn, việc đời xưa nay vẫn thế, những người đột ngột qua đời vì bệnh hay vì chuyện bất ngờ nào có ít đâu.”

    Giai nhân im lặng lắc đầu.

    Hoàng Tử Hà lại hỏi: “Chẳng biết tỷ có thể để lại cho tôi chiếc vòng này không? Chủ cũ rất thích nó, giờ vẫn muốn tìm lại…”

    “Đây là tín vật định tình của tiểu muội tôi với tình lang, giờ cô ấy đã không còn, chỉ để lại một vật kỷ niệm này, bất luận thế nào, tôi cũng không thể tặng lại người khác được.” Giai nhân từ chối thẳng thừng.

    Thấy nàng cương quyết như thế, Hoàng Tử Hà đành tạ lỗi: “Đã vậy, xin thứ cho tại hạ mạo muội.”

    Lúc trở lại, Lý Thư Bạch trầm ngâm nhìn cô hỏi: “Cái đó của ngươi à?”

    Hoàng Tử Hà đáp khẽ: “Vâng, trên đường trốn chạy tôi đã phải đem cầm.”

    “Giờ còn thích nữa không?”

    Cô nghĩ ngợi, rồi lại lắc đầu: “Thôi bỏ đi, kỷ vật của tôi nhưng cũng là kỷ vật của cô ấy, đều có ý nghĩa cả.”

    “Huống hồ ngươi sắp gặp lại người tặng vòng rồi, còn cô ta thì vĩnh viễn không thể gặp được nữa.”

    Nghe giọng Lý Thư Bạch lạnh băng, Hoàng Tử Hà kinh ngạc nhận ra y đã đi guốc trong bụng mình, tim bất giác chậm lại một nhịp, hơi thở cũng nặng nề hẳn. Cô cắm cúi ăn, không dám ho he câu nào nữa.

    Nhìn biểu hiện của cô, Lý Thư Bạch lại cảm thấy mình không nên tỏ ra bực bội như thế, bèn chuyển chủ đề, nói khẽ: “Người ta là đại tỷ trong Vân Thiều Lục Nữ, Công Tôn Diên đấy.”

    Hoàng Tử Hà sững ra: “Công Tôn đại nương ư?”

    “Ừm, chính là đồ đệ của Lý thập nhị nương, thuở bé mồ côi, không cha không mẹ, nên sau khi được truyền y bát bèn đổi sang họ Công Tôn. Mười bảy năm trước, Công Tôn đại nương từng vào kinh biểu diễn, bấy giờ ta mới sáu bảy tuổi, còn ở trong cung, đến giờ vẫn chưa quên điệu Kiếm Khí Hồn Thoát năm ấy. Ai ngờ mười bảy năm sau gặp lại vẫn kiều diễm nhường kia, tài nghệ còn tiến bộ nữa chứ.”

    Hoàng Tử Hà hồi tưởng lại rồi nhận xét: “Thế thì năm nay Công Tôn đại nương cũng phải ba lăm ba sáu rồi đấy nhỉ.”

    “Mai Vãn Trí cũng xấp xỉ chừng đó mà.”


    Hai giai nhân nổi danh năm xưa, giờ một kẻ vẫn áo vải trâm gai, lưu lạc chân trời, cô đơn lẻ bóng, còn một người áo gấm cơm vàng, sống giữa thâm cung, được vạn người xưng tụng. Nghĩ tới sự vô thường của số mệnh, cô không khỏi cảm khái.

    Nhưng, ai mà biết được, rốt cuộc ai hạnh phúc hơn ai đây?

    Nhớ lại chuyện Công Tôn đại nương vừa kể về em gái, Hoàng Tử Hà khẽ ồ lên: “Nói vậy thì em út trong Vân Thiều Lục Nữ đã qua đời rồi ư?”

    “Người thứ sáu tên Phó Tân Nguyễn, mười bảy năm trước mới mười hai tuổi, còn chưa búi tóc, ngây thơ lãng mạn. Giờ thì cũng gần ba mươi rồi.”

    “Tuổi nhỏ đã nổi danh, đến lúc trưởng thành lại chết yểu.” Hoàng Tử Hà than thở, “Xem thái độ của Công Tôn đại nương, e rằng cái chết của người này có ẩn tình.”

    Lý Thư Bạch hờ hững nhắc: “Ngươi lo việc mình trước đi, hơi đâu quản mấy chuyện không đâu đó.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu, rồi bất giác lại liếc sang Công Tôn Diên, thấy Công Tôn Diên đã đứng dậy đi ra cửa, nào ngờ có hai gã nhà giàu cười hì hì chặn đường: “Chẳng phải Công Tôn đại nương đấy ư, sao bỗng từ Dương Châu đến Hán Châu thế này? Thật trùng hợp quá, tối nay chúng ta cũng trọ lại đây, đúng là có duyên mà!”

    Công Tôn Diên lạnh lùng nhìn hai kẻ trước mặt tôi, rồi lách mình né tránh, chẳng buồn đếm xỉa tới chúng.

    Nào ngờ hai tên vô lại bèn sáp tới chặn cửa. Khung cửa rộng chưa đầy ba thước bị chúng choán hết, không còn khe hở nào để lách qua.

    Hoàng Tử Hà nhím mày, toan đứng ra nói mấy câu phải quấy thì Lý Thư Bạch đã đổi đầu đũa, gõ nhẹ lên vai, bảo ý cô đừng manh động.

    Công tôn Diên không hề dừng bước, xăm xăm đi thẳng ra cửa, tưởng chừng sắp về va vào hai tên kia tới nơi. Nhưng đúng lúc chúng nhăn nhở cười cợt, giơ tay lên toan chạm vào người Công Tôn đại nương thì gia nhân bỗng bước chéo sang bên, trong khoảnh khắc thân hình nháng lên, chẳng biết làm sao đã đi xuyên qua người chúng, ra khỏi cửa nhẹ nhàng như một cánh chuồn chuồn, thoắt cái đã thấy đứng ngoài sân, chân không lấm bụi.

    Hai tên vô lại thấy Công Tôn Diên đi ra dễ như bỡn, chẳng hề coi mình vào đâu thì thẹn quá hóa giận, hộc tốc đuổi theo giữa tiếng cười ồ của mọi người trong quán.

    Công Tôn Diên cũng không muốn sinh sự, chỉ mềm mỏng thuyết phục: “Hai vị, hôm nay không có tiêu sáo làm nền, chỉ nhảy múa suông thì có gì hay? Huống hồ tiểu muội mới qua đời, tôi chẳng còn lòng dạ nào múa hát, xin hai vị bỏ quá cho.”

    Nào ngờ hai tên vô lại kia đã bắc thang cho còn không biết đằng leo xuống, trỏ Công Tôn Diên mắng mỏ: “Chẳng qua là vũ nữ Dương Châu chứ gì? Năm xưa anh em ta cho các ngươi bao nhiêu tiền, thế mà bây giờ còn ra vẻ đoan trang học làm Bồ tát nỗi gì?”

    “Đúng thế, nhìn cái bộ dạng đoan trang đứng đắn kìa, ai không biết còn tưởng là gái nhà lành cơ đấy!”

    “Hôm nay người đến chỗ đại gia đây, trước tiên hẵng múa một điệu Hồ toàn* cho chúng ta xem đã!”

    *Hồ toàn: điệu múa du nhập từ người Hồ Tây Vực, người múa liên tục xoay tròn ,nên gọi là Hồ toàn

    Người trong quán thấy hai tên vô lại chặn đường một mỹ nữ, đều dồn mắt vào nhìn, nghe nói giai nhân này là vũ nữ Dương Châu thì càng thêm hứng thú, đổ xô ra cửa xem náo nhiệt.

    Thấy mọi người xúm đông xúm đỏ xung quanh, Công Tôn Diên biết hôm nay không tránh được rầy rà, đành gỡ tay nải trên vai ném xuống đất, cao giọng: “Múa một điệu cũng không sao, có điều thường ngày tôi ít múa điệu Hồ toàn, xin múa hầu hai vị một khúc Kiếm khí, được chăng?”

    Chưa nói dứt câu, cũng chẳng đợi hai tên kia trả lời, Công Tôn Diên bẻ một cành liễu cạnh đó, bắt ngay vào thế khởi đầu. Tuy Công Tôn Diên chỉ mặc áo vải thô giản dị, tóc búi đơn sơ, nhưng đứng hiên ngang trước gió, tư thế tha thướt như tiên, khiến mọi người ở đó đều phải trầm trồ: "Đẹp quá!"

    Công Tôn Diên lấy liễu thay kiếm, tung người nhảy múa, dáng điệu phóng khoáng như mây vờn, tất cả chăm chú chiêm ngưỡng điệu múa của giai nhân, chợt thấy mảnh sân đất nện trước quán thoắt đã biến thành lầu son gác tía, tấm áo vải tay chẽn cũng trở thành gấm lụa lượt là. Giai nhân đứng giữa sân, phong thái bảng lảng như mây khói, tư thế phấp phới như sóng biển, khó mà trông rõ.

    Rồi vũ điệu của Công Tôn Diên đột ngột thay đối, sóng gợn và khói mây thoắt biến thành sấm sét, cành liễu trong tay nhanh như chớp quất thẳng tới hai tên vô lại. Chỉ nghe hai tiếng bốp, bốp giòn tan, trên mặt chúng đã nổi lên hai lằn đỏ, đau đến nỗi ôm mặt kêu oai oái.

    "Xin lỗi, cành liễu dài quá, vô ý quệt phải hai vị.” Công Tôn Diên cười nhạt.

    Người xung quanh rộ lên cười nhạo, Hoàng Tử Hà cũng mỉm cười.

    Bị cánh liễu quất phải chỉ là vết thuong ngoài da, nhục nhã nhất là bị đám đông chế nhạo, hai tên kia tức thì gầm lên lao đến.

    Công Tôn Diên ra tay rất nhanh, roạt roạt hat tiếng, hai tên kia lại ôm mũí ngồi thụp xuống, nước mắt nước mũi giàn giụa, ra là đã bị quất trúng mũi.

    "Xin lỗi hai vị, tôi ở Dương Châu, các vị ở Hán Châu, nước sông không phạm nước giếng. Hôm nay lở tay làm các vị bị thương, sau này các vị đến Dương Châu, tôi nhất định sẽ làm hết nghĩa vụ chủ nhà, tạ tội với các vị." Nói đoạn, Công Tôn Diên quay người đi thẳng, chẳng thèm đếm xỉa đến chúng nữa.

    Hai tên kia nào chịu buông tha, giận dữ bổ đến toan ngăn lại.

    Bịch, bịch. Chỉ trong nháy mắt, chúng đã bị đá văng vào góc tường, rống lên thảm thiết, không bò dậy nổi.
    “Giữa ban ngày ban mặt dám gây sự ngay giữa đất Thục, làm mất mặt người Thục, coi bổ đầu ta là phỗng đá đấy à?” Thình lình một tiếng quát sang sảng vang lên. Ngay lập tức, đám đông quanh đó nhao nhao vỗ tay hoan hô người vừa giáo huấn hai tên vô lại, có kẻ còn gào lên: “Chu thiếu bổ đầu oai phong lắm!”

    “Chu bổ đầu phụng chỉ tra án, quả là danh bất hư truyền!”

    “Quận Thục phải trông vào Chu thiếu bổ đầu và Chu sứ quân rồi!”

    Trong tiếng hoan hô vang dội, Chu thiếu bổ đầu phụng chỉ tra án oai vệ bước vào, giữa muôn vàn ánh mắt ngưỡng mộ. Hóa ra là Chu Tử Tần.

    Chỉ thấy gã mặc một bộ đồ nha sai đỏ thẩm, đeo thắt lưng ngọc xanh, eo còn giắt một thanh đao chuôi xanh chạm nhét trong bao da, chân xỏ giày màu tím diên vĩ, trên đầu sùm sụp một chiếc mũ đen cắm lông công.

    Chu Tử Tần ăn vận xanh đỏ tím vàng từ đầu đến chân hớn hở đi vào, chắp tay khiêm nhường chào tất cả: “Là việc nên làm, nên làm mà!”

    Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà nhìn nhau, phút chốc đều hiểu sâu sắc hàm nghĩa bốn chữ: “thắm không nỡ nhìn” – phục sức của họ Chu quá lòe loẹt, cơ hồ làm họ hoa cả mắt.

    “Rời kinh bấy lâu mà Tử Tần vẫn thế, chẳng thay đổi gì cả.” Hoàng Tử Hà buột miệng cảm thán.

    “Lạ thật đấy, thân thủ của Tử Tần làm sao đá văng hai tên kia được?”

    Chưa nói dứt câu, trông thấy người đi phía sau Chu Tử Tần, họ hiểu ra ngay.

    Trương Hàng Anh theo chân Chu Tử Tần bước vào.

    Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà tin chắc họ không nhận ra mình nên vẫn ngồi tại chỗ ăn uống. Có điều, giữa không khí xôn xao hỗn loạn trong quán, chỉ có hai người họ bình thản như không, càng khiến Chu Tử Tần chú ý hơn.

    Trò vui đã hạ màn, đám đông cũng tản đi, Công Tôn Diên khom người hành lễ với Chu Tử Tần và Trương Hàng Anh: “Đa tạ hai vị.”

    “Ồ, là việc nên làm thôi, tại hạ ghét nhất hạng người cậy thế ức hiếp phụ nữ trẻ nhỏ, có giỏi thì đi mà gây chuyện với bọn đàn ông chúng ta đây này!” Đoạn, Chu Tử Tần khinh miệt quay sang mắng hai tên vô lại đang len lén đứng dậy toan đánh bài chuồn, “Này, có giỏi thì đến phủ quận thủ nói chuyện nhé! Ta mà bắt gặp lần nữa thì không bỏ qua đâu!”

    Thấy chúng vắt giò lên cổ mà chạy, Công Tôn Diên mỉm cười với Chu Tử Tần: “Chắc chúng không dám làm nhục tôi nữa đâu.”

    Chu Tử Tần vỗ ngực hiên ngang đáp: “Có chuyện gì cứ đến tìm ta! Bổ đầu Chu Tử Tần ta đây cai quản tất cả đám vô lại ở Xuyên Thục đấy!”

    Tiểu nhị trong quán mau miệng vuốt đuôi: “Tốt quá tốt quá! Đúng là muôn dân trăm họ được nhờ, Hoàng tiểu thư đi thfi lại có Chu thiếu gia đến, xem ra đất Thục này lại sắp được bình yên rồi!”

    Tức thì, chủ quán cho hắn ăn ngay một đá, quát khẽ: “Nhắc đến Hoàng tiểu thư làm gì hả!”

    Bấy giờ tiểu nhị mới sực nhớ ra Hoàng tiểu thư phá án như thần ngày xưa đã trở thành tội phạm bị triều đình truy nã, không giấu được vẻ lúng túng: “Chuyện này… Xin thiếu bổ đầu bỏ qua cho…”

    “Bỏ qua gì chứ? Ta thích nhất câu này đấy, thực không ngờ có ngày ta lại được xếp ngang hàng với cô ấy!” Chu Tử Tần tươi như hoa vỗ nhẹ lên đầu tiểu nhị, rồi kéo Trương Hàng Anh đến ngồi ngay xuống bàn Hoàng Tử Hà, vừa ngồi vừa nói: “Huynh đến đây, ăn chút gì đã. Hai vị không ngại ngồi chung chứ?”

    Hoàng Tử Hà và Lý Thư Bạch dĩ nhiên lắc đầu, song cũng không chuyện trò gì với họ, e lộ thân phận, cứ thế lặng lẽ ăn uống.

    Lại nghe Chu Tử Tần hỏi Trương Hàng Anh: “Trương nhị ca, huynh lặn lội đến tận đất Thục, đã tìm được hành tung của A Địch chưa?”

    Trương Hàng Anh rầu rĩ lắc đầu.

    Thấy họ Trương gầy nhom tiều tụy, hẳn đã nếm trải nhiều vất vả trên đường tìm kiếm Tích Thúy, lòng Hoàng Tử Hà bỗng nao nao khó tả.

    “Ta nghĩ, nếu A Địch biết được tấm lòng của huynh nhất định sẽ rất cảm động.” Nói rồi, Chu Tử Tần cầm một quả trứng lên bóc vỏ, hỏi tiếp: “Sau đây huynh định tìm kiếm quanh quận Thục hả?”

    “Ừm, tôi nghĩ có lẽ cô ấy sẽ tìm tới một nơi xa xôi hẻo lánh nên định tìm quanh các thôn làng gần đây.”

    Chu Tử Tần vốn nhiệt tình, liền nói: “Có gì cần cứ bảo ta, nơi khác thì không nói, chứ ở đất Thục này, ta có thể tìm mấy người giúp huynh.”

    “Trước mắt thì chưa cần, cảm tạ Tử Tần huynh.” Trương Hàng Anh thần người giây lát rồi hỏi, “Chẳng hay Hoàng… Dương công công có ở đây không? Không chừng công công có thể giúp chúng ta một tay, bằng không với sức của tôi, muốn tìm A Địch chẳng khác nào vớt trăng dưới nước…”

    “Sùng Cổ ấy à…” Chu Tử Tần gọi khẽ, rồi nằm gục xuống bàn, mắt đỏ hoe: “Trương nhị ca, Sùng Cổ… mất tích rồi!”

    “Mất tích à?” Trương Hàng Anh giật nảy mình, vội hỏi, “Sao lại thế?”

    “Quỳ vương và Sùng Cổ trên đường đến Thục bị tập kích, giờ vẫn chưa tìm được tung tích. Tây Xuyên tiết độ sứ và cha ta đã phái rất nhiều người đi tìm khắp trong núi đến hôm nay là ba bốn ngày rồi, mà chưa có tin tức gì cả.”

    Trương Hàng Anh liền an ủi: “Quỳ vương dũng mãnh như thế, thích khách tầm thường sao đả thương nổi? Nhất định gia không sao đâu!”

    “Phải, phải, Quỳ vương có lẽ không sao, nhưng mà… nhưng mà Sùng Cổ thì gay rồi!” Chu Tử Tần mếu máo nhìn Trương Hàng Anh, nước mắt chực lăn xuống. “Huynh biết không? Đêm qua chúng ta đã tìm được Na Phất Sa, chính là con ngựa của Sùng Cổ ấy… Nó bị thương, còn rơi vào bụi gai, lúc đưa về chỉ còn thoi thóp. Huynh bảo, Na Phất Sa còn bị thương, thì Sùng Cổ…”

    “Dương công công thông tuệ hơn người, nhất định sẽ gặp dữ hóa lành, không có chuyện gì đâu!” Trương Hàng Anh ngắt lời, không để họ Chu nói tiếp.

    Chu Tử Tần ngước lên, thấy vẻ mặt Trương Hàng Anh chắc chắn như đinh đóng cột thì cũng hơi vững dạ, gật đầu: “Ừm, ta cũng nghĩ thế. Sùng Cổ lợi hại như vậy, chắc không gặp chuyện gì đâu!”

    Hoàng Tử Hà siết chặt đôi đũa trong tay, nhìn sang Lý Thư Bạch, Lý Thư Bạch lắc đầu với cô, song lại hạ giọng, giả tiếng khàn khàn khẽ thì thào với Chu Tử Tần: “Hai vị nói rất phải, giờ mới tìm thấy ngựa chứ nào đã thấy người, nhất định vị huynh đệ đó đã gặp dữ hóa lành, thuận lợi vượt qua đại nạn rồi.”

    “Huynh cũng nghĩ thế ư?” Chu Tử Tần tức thì xốc lại tinh thần, hỏi ngay, “Tôi thoạt nhìn đã biết hai vị không phải người thường mà, dám hỏi hai vị từ đâu đến, tới Thục có việc gì không?”


    Lý Thư Bạch thản nhiên đáp: “Tại hạ họ Vương, là người kinh thành, ngưỡng mộ cảnh sắc nước non đất Thục nên cùng cậu em họ đến đây du ngoạn vài tháng thôi.”

    “Ồ! Thế là phải lắm, phong cảnh nơi này tú lệ vô cùng, nhất là xuôi dòng đi xuống, qua ba eo sông, từ thành Bạch Đế đi thẳng đến ải Nam Tần, qua Vu sơn mây mù quanh năm, lại tới ngọn Thần Nữ nổi danh, dọc đường đi núi non trập trùng, vách đá cheo leo, khiến người ta trầm trồ không ngớt!” Chu Tử Tần niềm nở giới thiệu, “Tiếc rằng giờ ta bận bịu quá, nếu không nhất định phải đi chơi một chuyến!”

    “Chu bổ đầu giờ phải gánh vác công việc quan trọng của bổ khoái và đội ngựa toàn thành, muốn tranh thủ du ngoạn e rằng khó.” Lý Thư Bạch thuận miệng tiếp lời.

    Chu Tử Tần nghiêm mặt gật đầu: “Đúng thế, ta phải lo cho an nguy của trăm họ trong thành, sao dứt ra đi chơi nổi? Huống hồ có tấm gương sáng của Hoàng Tử Hà trước mắt, ta cũng không thể nhởn nhơ, phải dốc sức đuổi kịp cô ấy mới được.”

    Hoàng Tử Hà điềm nhiên bỏ thêm một dúm cần thái nhỏ vào chén tào phớ, rồi húp hết nửa chén.

    Chu Tử Tần hỏi ngay: “Ngon không?”

    Cô gật đầu.

    “Ta thấy mùi rau cần cứ thế nào ấy, nghe nói người Hồ ở Tây Vực rất thích ăn…” Nói rồi, gã cũng bỏ một dúm vào bát mình, nhưng vừa húp một miếng thì vội vàng nhặt ra ngay.

    Tiểu nhị đi ngang qua, buột miệng nói chõ vào: “Năm xưa Hoàng tiểu thư nhà quận thú nổi tiếng thích rau cần, mỗi lúc ăn tào phớ đều phải cho thêm cần.”

    “Thật à?” Chu Tử Tần tức thì bốc lại một dúm bỏ vào rồi ăn tiếp, “Chà chà, nói mới thấy, quả là có phong vị riêng.”

    Lý Thư Bạch nhìn lướt sang Hoàng Tử Hà, khóe mắt hơi nhướng lên, vẻ trêu cợt.

    Hoàng Tử Hà được nuông quá hóa sợ, nơm nớp nhìn nụ cười của Lý Thư Bạch rồi bưng bát tào phớ lên uống một hơi hết sạch phần còn lại.

    Đợi cô đặt bát xuống, Lý Thư Bạch liền đứng lên từ biệt Chu Tử Tần và Trương Hàng Anh: “Tôi và tiểu đệ phải đi dạo quanh Thành Đô một vòng, xin cáo từ.”

    Chu Tử Tần cũng hối hả uống hết bát tào phớ lẫn rau cần rồi nói: “Cũng không còn sớm nữa, ta phải đi tuần quanhc ác phố một lượt, nếu đến chiều rảnh rỗi ta còn muốn tới chỗ Quỳ Vương gặp chuyện, tìm thử xem sao…”

    “Không cần đi tìm đâu nữa,” Lý Thư Bạch nói

    Chu Tử Tần ngớ ra hỏi lại: “Tại sao?”

    “Bởi vì…” Y ghé tai họ Chu, thì thảo nào: “Ta đang đứng trước mặt ngươi đây.”

    Chu Tử Tần tức thì trọn tròn mắt, há hốc miệng ra, đủ nhét vừa cả quả trứng.

    “Đừng kinh ngạc thế, dịch ở trong tối ra ngoài ánh sáng nên phải cải trang chút thôi

    Chu Tử Tần khó khăn lắm mới ngậm được miệng vào, lắp bắp hỏi nhỏ: “Vậy… Vậy tôi phải làm sao?”

    “Cứ thản nhiên như thường, bỏ cái vẻ kinh ngạc đó đi.”

    Có điều biểu cảm của Chu Tử Tần xưa nay rất phong phú, bảo gã làm ra vẻ thản nhiên như không thì rất khó, chẳng qua chỉ miễn cưỡng trấn tĩnh, lừa được hạng người thành thực như Trương Hàng Anh mà thôi.

    “Ngươi có thể mời ta đến phủ quận thú làm khách, cứ nói là bạn mới của ngươi, cha ngươi sẽ biết phải làm sao.”

    “Vâng…” Chu Tử Tần gật đầu, rồi chợt nhận ra thái độ của mình không đúng, tức thì vênh mặt lên ngạo mạn gật đầu: “Hả, đương nhiên rồi, ngươi được Lý Minh Công giới thiệu, muốn cầu kiến cha ta hả, có khó gì đâu? Giờ ta cũng rảnh, để ta đưa ngươi đi, đi nào đi nào!”

    Hoàng Tử Hà cũng theo Lý Thư Bạch đứng dậy. Chu Tử Tần nhìn cô, cảm thấy rất thân thuộc nên cứ vừa đi vừa ngoái đầu nhìn. Ra khỏi cửa, gã cố ý tụt lại phía sau, thận trọng đi sát vào cô, hỏi khẽ: “Sùng Cổ đấy à?”

    Hoàng Tử Hà gật đầu.

    Chu Tử Tần vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, không kìm được huých khủy tay vào vai cô, còn giơ tay toan bóp cổ cô.


    Lý Thư Bạch như có mắt sau gáy, lạnh nhạt nhắc: “Đừng gây chú ý.”

    Chu Tử Tần lè lưỡi với Hoàng Tử Hà, rồi rụt cổ lại không dám nói năng gì nữa.

    “Lý Minh Công giới thiệu à? Lý Minh Công nào cơ? Không gặp không gặp đâu.”

    Chu Tường vừa nghe con trai nhắc đến Lý Minh Công đã mắng ngay: “Có phải người ta lại dâng cho mày xác khô xác cổ nào rồi không? Mày vô công rồi nghề đâm ra hạng người nào cũng lôi đến gặp ta hả?”

    “Chu sứ quân, lần này ông trách lầm Tử Tần rồi. “Lý Thư Bạch cười nói.

    Vừa nghe giọng y, Chu Tường biến sắc, nơm nớp đứng dậy, nhưng trông thấy diện mạo y lại đâm ra ngần ngừ, chăm chú săm soi hồi lâu không dám lên tiếng.

    “Sứ quân không nhầm đâu, là ta đây.”

    Chu Tường lập tức cho tất cả người hầu lui ra, sau đó hành lễ với y: “Quỳ vương gia tha tội! LẦn này gia bị hành thích trên đường đến Thục, hạ quan thực đáng chết…”

    “Ông vừa chân ướt chân ráo đến đây, dưới chưa quen trên chưa biết, sao phải nhận trách nhiệm?” Lý Thư Bạch ra hiệu cho ông ta không cần đa lễ, rồi nói: “Ta vẫn chưa lần ra hung thủ đứng sau vụ này, mong sứ quân tạm thời đừng để lộ ra, phải nhanh chóng tóm được kẻ đằng sau đã.”

    “Thưa vâng! Hạ quan tuân lệnh!”

    Lý Thư Bạch ngừng một lát, lại hỏi tiếp: “Kỳ Lạc quận chúa… giờ sao rồi?”

    Chu Tường thở dài, không giấu vẻ tiếc thương: “Quận chúa bất hạnh… đã qua đời rồi!”

    Lý Thư Bạch lặng thinh nhắm nghiền mắt lại. Hoàng Tử Hà không thấy được ánh mắt y, chỉ thấy y mím chặt môi.

    Bên tai cô chợt vang lên những lời Lý Thư Bạch kể hôm ấy.

    Khi y bị đổi phong hiệu thành Thông vương, đóng cửa giam mình trong căn nhà tại phường Vĩnh Gia, tương lai mờ mịt, cuộc đời vô vọng, một thân một mình trơ trọi giữa đời, chỉ có thiếu nữ ngây thơ vô tư ấy chẳng hề e sợ nắm lấy tay y, trong khi những kẻ khác tránh còn không kịp.

    Có lẽ y cũng có lúc đổi ý, toan cưới cô em họ xa này hòng đền đáp tình cảm của nàng dành cho y năm xưa.

    Nhưng rốt cuộc y vẫn chỉ coi nàng như em gái, không thể chấp nhận.

    Hoàng Tử Hà lặng lẽ đứng phía sau, chỉ thấy bờ mi y thoáng run rẩy. Nhưng ngay lập tức, y đã quay đi, không để bất cứ kẻ nào trông thấy nét mặt mình, giọng nói vật bình thản lạnh nhạt như mọi lúc: “Ắt Chu sứ quân đã lo liệu hậu sự cho quận chúa đâu vào đấy rồi.”

    Chu Tường vội đáp: “Thưa, đã sai người đến Trường An báo tang. Thi hài quận chúa ở đây, chúng hạ quan cũng cho bảo quản chu đáo rồi.”

    “Các thị vệ của ta có bao nhiêu người trở về?”

    Chu Tường than thở: “Cho đến giờ, các thị vệ và hoạn quan hầu cận vương gia mới có mười mấy người quay về thôi, hầu hết đều bị thương, đang ở chỗ tiết độ sứ Phạm tướng quân điều dưỡng. Chẳng hay gia có muốn tới đó xem thử, đồng thời bảo Phạm tướng quân ngừng tìm kiếm không?”

    “Giờ ta vừa mới thoát hiểm, nếu đến phủ tiết độ sứ, để kẻ địch nhận ra, chẳng phải lại rơi vào cục diện địch ở trong tối ta ngoài sáng ư? Cứ để Phạm tướng quân tìm tiếp đi, chưa chừng lại tìm thêm được mấy người về.” Nói đến đây, Lý Thư Bạch thoáng trầm ngâm, “Trong số những người thoát nạn, có kẻ nào thuộc hàng chữ ‘Cảnh’ không?”

    “Thôi được.” Y cũng không hỏi thêm nữa.

    Chu Tường sực nhớ ra một chuyện, vội thưa: “Còn nữa, hạ quan cùng Phạm tiết độ đến nơi vương gia gặp nạn tra xét hiện trường, tìm được một chiếc bình lưu ly trong xe, bên trong có một con cá đỏ, vẫn còn sống…”

    Lý Thư Bạch gật đầu hỏi: “Giờ nó ở đâu?”

    “Thưa, ở chỗ Phạm đại nhân.” Tiết độ sứ đương nhiên quyền cao hơn quận thú, y muốn lấy đi, Chu Tường không thể ngăn được.

    “Vậy cứ để chỗ phủ tiết độ thôi. Ta nghĩ tiết độ sứ không đến nỗi không tìm được một kẻ biết nuôi cá.”
     
  14. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 6 - Băng tuyết dung nhan
    Chu Tử Tần chưa bao giờ thấy đời viên mãn như thế, đi trên đường mà cảm giác như tỏa ra hào quang vạn trượng, chói lọi lóa mắt.

    Bởi lần này, cùng gã cưỡi ngựa đi tuần, bên trái là Dương Sùng Cổ nổi danh khắp kinh thành về tài phá án, bên phải còn oách hơn, chính là Quỳ Vương Lý Thư Bạch đang hờ hững ngắm cảnh phố phường.

    Dẫn hai người này ra ngoài công cán, đúng là thắng lợi lớn trong đời!

    Có điều... việc công cán hình như hơi vặt vãnh....

    “Đại nương à, đống gương sen này vừa tươi vừa ngon. nhưng hình như sạp hàng lấn cả ra đường rồi, nếu kẻ nào phi ngựa phóng nhanh va phải thì làm thế nào đây?... Mau mau, ta giúp đại nương bê nó lùi lại nhé...”

    “Chà chà, đại ca thổi kẹo khéo quá, nhưng bày sạp ngoài phố thế này thì bụi lắm nhỉ? Ta bảo này, huynh ra chỗ gốc đa kia mà ngồi có phải sạch sẽ mát mẻ không, nào nào, để ta giúp huynh khiêng qua đó...”

    “Nhị cô nương ơi, không phải ta nói cô đâu, nhưng..

    Cô xinh xắn thế này, sao lại chường mặt ra đường bán thịt dê chứ? Phải phải, luật pháp Đại Đường không cấm đàn bà con gái bán thịt dê, nhưng cô nhìn mà xem, cả đám choai choai cứ xúm lấy mua thịt của cô, làm tắc cả đường kia...”

    Nhị cô nương nọ tay lăm lăm con dao, lườm Chu Tử Tần một cái sắc lém: “Thì làm sao? Đường đường Chu thiếu bổ đầu mà cũng nhúng mũi vào mấy chuyện vặt vãnh này à? Có giỏi thì lên núi tìm Quỳ Vương về đi, chừng đó muôn dân thiên hạ đều phải cảm tạ đại nhân đó?”

    Chu Tử Tần tay trái cầm gương sen, tay phải cầm kẹo thổi, lúng búng phân trần: “Chuyện đó... Binh mã đã lên núi rồi, ta có đi cũng chẳng giúp được gì...”

    Nhị cô nương tay chặt sườn, miệng đốp lại: “Nếu rảnh thì bổ đầu đại nhân ra bãi tha ma đi dạo đi, vừa mát vừa có bao nhiêu thi thể chết oan đang chờ đại nhân trổ tài đấy!”

    Hoàng Tử Hà đứng sau vừa hào hứng xem hai bên đấu khẩu, vừa quan sát Nhị cô nương. Chỉ thấy cô ta dáng người nhỏ nhắn, gương mặt bầu bĩnh có duyên, tuổi chưa đến đôi mươi, da trắng nõn như đa số con gái Thục, hết sức khả ái.

    Chu Tử Tần cứng họng, đành ấm ức quay người lên ngựa, rồi kể với Hoàng Tử Hà: “Cô ấy nói đến bãi tha ma, ta lại nhớ ra một chuyện. Sùng Cổ này... ừm... chuyện này ta thấy hình như có vấn đề, nhưng hình như cũng không có... Tóm lại chẳng có manh mối gì cả, đang đợi công công giúp một tay đấy!”

    “Tôi với công tử đến đó xem đi.” Đoạn cô ngoái lại nhìn Lý Thư Bạch nói khẽ: “Giờ gia còn chưa bình phục, “

    không nên gắng sức quá,huống hồ việc nghiệm thi để tôi và Tử Tần đi cũng đủ.”

    Lý Thư Bạch gật đầu: “Ngươi cũng đừng lao lực quá, mấy ngày nay vất vả rồi, nên nghỉ ngơi cho khỏe là hơn.”

    Nghe y dặn dò, Hoàng Tử Hà thấy ấm cả lòng, ngoan ngoãn gật đầu: “Vâng.”

    “Còn nữa... Thay ta bái tế Kỳ Lạc quận chúa.”

    Chu Tử Tần xưa nay vẫn phải cạy cửa lẻn vào nghĩa địa nghiệm thi, giờ đã coi như mở mày mở mặt, có thể đường hoàng thúc ngựa đi vào từ cửa chính, còn gọi thẳng người quản trang đến hỏi: “Bác Khương, ta đến xem cái xác đẹp nhất quận Thục đây!”

    Lão Khương niềm nở ra đón, cười gượng: “Ôi chao, thiếu bổ đầu mẫn cán quá! Lại, lại đến xem ư?”

    Chu Tử Tần nhảy xuống ngựa: “Lần này ta không đến một mình đâu. Vị này là... ừm.. bổ khoái mới của chúng ta, rất giỏi phá án, ta dẫn huynh ấy đến xem thử.”

    Lão Khương vội khom người chào hỏi cả hai, nhìn Hoàng Tử Hà rồi nhíu mày nghi hoặc hỏi: “Vị tiểu ca này... hình như lão đã gặp ở đâu rồi thì phải?”

    Hoàng Tử Hà trước đây từng gặp lão không ít lần, giờ chỉ biết cười cười, không nói năng gì, e lại rầy rà thêm.

    Lão Khương đang cau mày nhớ lại, chợt thấy Chu Tử Tần xăm xăm dẫn Hoàng Tử Hà đi vào, vội gọi giật lại: “Thiếu bổ đầu, thiếu bổ đầu...”

    Chu Tử Tần ngoái lại: “Sao thế?”

    “Cái ... cái xác đó...” Lão Khương ấp úng vẻ khó xử.

    “Hỏng rồi à? Không phải chứ?” Chu Tử Tần cuống lên, “Không thể nào! Đặt trong hầm băng lạnh như vậy

    sao thối nhanh thế được?”

    “Không phải không phải, có điều...” Lão Khương chột dạ, suýt nữa cắn phải lưỡi. “Ban nãy có một nữ tử tìm đến, nói là chị em với người đã khuất, muốn nhìn mặt tiểu muội lần cuối. Lão thấy có vẻ không phải người xấu, bèn... bèn dẫn cô ta vào.”

    “Giờ cô ta đâu rồi?” Chu Tử Tần hỏi.

    “Đang bái tế bên trong.” Lão Khương vừa nói vừa lần lần cục cộm lên trong tay áo, chẳng biết người kia đã cho lão bao nhiêu nữa.

    Một trong những nơi Hoàng Tử Hà thông thuộc nhất là nghĩa địa quận Thục.

    Trước hết, cô lục tủ hồ sơ, tìm bản sao biên bản nghiệm thi rồi mở ra xem kỹ.

    Biên bản mới nhất ghi: “Vụ hai người tự tử vì tình, nhà họ Phó, phố Tùng Hoa.”

    Người khám nghiệm: Tưởng Tùng Lâm, ngỗ tác già trong quận.

    Nghiệm: một xác nam, một xác nữ.

    Xác nam cao sáu thước, ba mươi bảy tuổi, hơi béo, mặc áo xô trắng, đi giày vải trắng, nằm ngửa trên cái sập nữ tử họ Phó vẫn ngủ hằng ngày, hơi nhăn mặt, người duỗi thẳng, có triệu chứng tiêu chảy nhẹ.

    Xác nữ cao năm thước hai, khoảng ba mươi tuổi, thon thả, vấn tóc vòng, mặc áo xám, váy xanh, đi hài tơ trắng, nằm ngửa bên phải xác nam. Tay trái nắm lấy tay phải xác nam, mười ngón tay đan vào nhau đã cứng lại, khó gỡ ra. Đầu các ngón bàn tay phải hơi đen, như bị dính phẩm màu.

    Qua khám nghiệm cho thấy xác nam và xác nữ đều không

    có dấu hiệu bị ngoại lực tác động, chết do trúng độc. Thời gian trúng độc từ giờ Dậu đến giờ Tuất ngày hôm trước.

    Phán đoán: trúng độc tỳ sương


    Cô xem kỹ một lượt, rồi theo Chu Tử Tần vào nhà xác.


    Bên trong chỏng chơ mấy cái giường không, có cửa ngách dẫn xuống hầm. Hai người theo bậc thang đi xuống, càng xuống càng sâu, càng sâu càng lạnh. Mùa hè ở Thục nóng nực, thi thể rất khó bảo quản, nên hai năm trước khi trùng tu nghĩa địa, Vũ Tuyên và cô đã tìm ra một cách cho đào mấy căn hầm bên dưới nhà xác, tường ốp đá xanh thật dày, mùa đông trữ thật nhiều băng bên trong, đến mùa hạ, nếu không ra vào liên tục thì số băng trong đó có thể giữ được khá lâu, rất tiện bảo tồn thi thể.

    Càng đi xuống, hơi lạnh càng phả vào mặt. Ánh sáng leo lét từ ngọn đèn nhỏ trong tay họ chập chờn giữa bốn bề tường đá vây bọc, càng làm nổi bật khung cảnh lạnh lẽo.

    Chu Tử Tần dẫn hai người vào phòng chữ Huyền, thấy bên trong thấp thoáng ánh nến, một nữ tử đang đứng bất động trước thi thể.

    Kẻ nọ ăn mặc rất giản dị, áo vải thô, tóc cũng vấn đơn giản, nhưng nhìn vóc dáng thon thả ấy, hai người nhận ra ngay.

    Chính là Công Tôn Diên, Công Tôn đại nương nổi danh.

    Hoàng Tử Hà lập tức đoán ra cái xác đẹp nhất quận Thục là ai.

    Nghe tiếng hai người đến gần, Công Tôn Diên quay lại, ánh nến lập lòe được những khối băng xung quanh phản chiếu thành vô số ánh cầu vồng lấp lánh dập dờn bao quanh giai nhân, lộng lẫy không thể nhìn gần, hàng lệ lăn dài trên má cũng trở nên trong suốt long lanh.

    Công Tôn Diên lau nước mắt, khom người hành lễ rồi nghẹn ngào nói: “Chu bổ đầu thứ tội! Tôi lặn lội từ Dương Châu đến đây mà không thể gặp mặt tiểu muội lần cuối thì ân hận cả đời nên mới cầu khẩn Khương lão ca cho vào, xin Chu bổ đầu bỏ quá cho.”

    Chu Tử Tần vội đáp: “Không sao không sao, miễn đại nương đừng động chạm vào là được.”

    “Tôi biết... Tôi chỉ đứng đây nhìn, chưa hề lại gần động chạm...” Nói đến đây, Công Tôn Diên lại ứa nước mắt, “A Nguyễn nằm đây, hẳn là lạnh lắm.”

    “Vụ này coi như kết thúc rồi, Phó nương tử được xác định là tự tử cùng tình nhân. Họ hàng xa của Ôn Dương cũng bằng lòng chôn họ chung một huyệt, không lâu nữa sẽ an táng, chẳng hay ý đại nương thế nào?”

    Công Tôn Diên nhìn thi thể Phó Tân Nguyễn, miễn cưỡng gật đầu: “Có lẽ... đợi mấy chị em tôi tới đã, ít ra cũng để tất cả gặp mặt A Nguyễn lần cuối.”

    Chu Tử Tần gật đầu: “Cũng được.”

    Công Tôn Diên lại cảm tạ gã lần nữa.

    Hoàng Tử Hà cầm đèn đi đến trước thi thể, rồi vẫy Chu Tử Tần lại. Thấy tấm vải trắng phủ bên trên đã bị Công Tôn Diên kéo xuống đến cổ, để lộ gương mặt người chết, gã liền bỏ luôn ra, phơi bày toàn bộ thi thể.

    Hoàng Tử Hà giơ đèn soi từ trên xuống dưới thi thể Phó Tân Nguyễn một lượt. Quần áo vẫn chỉnh tề, áo xám, váy xanh, hài tơ trắng, đúng như biên bản nghiệm thi ghi chép. Chu Tử Tần nói không sai, đây là một cái xác hoàn mĩ hiếm có. Tuy đã lạnh buốt cứng đờ, nhưng thân hình vẫn mịn màng thon thả, hẳn lúc sống là một mỹ nhân.

    Giảm một phần thì thiếu, tăng một phần thì thừa, thoa son thì quá đỏ, đánh phấn lại quá trắng.

    Sau khi xem xét, cô đặc biệt chú ý đến hai tay Phó Tân Nguyễn, ngón tay họ Phó thon dài, đầu các ngón bàn tay phải quả nhiên lem luốc vết đen, nổi bật trên làn da trắng nõn.

    Hoàng Tử Hà chăm chú quan sát rồi giơ tay lau đi, chỉ thấy lạnh ngắt, không lau sạch được. Cô lại cúi đầu ngửi, nhưng thi thể đặt trong hầm băng đã lâu, không còn mùi gì nữa.

    Cô nhíu mày, đặt tay Phó Tân Nguyễn xuống, rà sát toàn thân họ Phó một lượt. Chu Tử Tần nói thêm: “Ta đã kiểm tra hai lần rồi, đúng là trúng độc chết.”

    “Ừm... quả vậy.”Cô gật đầu rồi kéo nhẹ tấm vải trắng lên che kín thi thể. Trong hầm băng lạnh buốt, ba người mặc áo mỏng đứng nói chuyện rồi nghiệm thi, tay chân đã lạnh ngắt, thấy không có phát hiện gì mới, Hoàng Tử Hà bèn bảo Công Tôn Diên: “Thắp đèn nến trong này lâu e rằng băng chảy hết mất, chi bằng đại nương lên trên trước đi.”

    Công Tôn Diên gật đầu, lặng lẽ nhìn Phó Tân Nguyễn im lìm nằm đó rồi theo bậc thang đi lên.

    Hoàng Tử Hà lại sang phòng chữ Thiên đặt thi thể Kỳ Lạc quận chúa. Trên khuôn mặt bầu bĩnh, đôi mắt hạnh sáng rực đã khép lại vĩnh viễn. Độc châm trên xác nàng được rút ra, song thi thể đen bầm, đủ thấy độc tính mạnh cỡ nào.

    Chu Tử Tần đứng sau nói: “Khỏi cần xem nữa, là trúng độc chết.”

    Hoàng Tử Hà kéo cổ áo quận chúa xuống, thấy lỗ châm ở cổ và ngực đề đã thâm đen lại.

    Chu Tử Tần quan sát kỹ rồi nhận xét: “Mấy câu châm này vừa nhanh vừa nhiều, hẳn là có chốt lẫy bắn ra, không phải do người phóng.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu, nghĩ bụng, bấy giờ Lý Thư Bạch tránh được đám châm đó, quả là lợi hại. Cũng có thể, đó là nhờ bản năng được tôi rèn qua bao nhiêu sóng gió.

    Cứ lan man, cô lại nghĩ đến tên thích khách nọ, nhưng chẳng có manh mối gì. Lý Thư Bạch biết hắn, hẳn là y đã nắm được sự việc này rồi, cô không nghĩ thêm nữa, kéo tấm vải trắng lên che thi thể Kỳ Lạc quận chúa lại.

    Lão Khương hôm nay phạm lỗi, bị bắt quả tang, rắp tâm lập công chuộc tội nên đã chuẩn bị sẵn nước rửa tay và trà bánh cho họ.

    Hoàng Tử Hà rửa tay xong, liền giữ Công Tôn Diên lại: “Đại nương ngồi đây uống trà với chúng tôi đã. Còn vài chuyện liên quan đến cái chết của Phó nương tử, xin đại nương chỉ giáo cho.”

    Công Tôn Diên gật đầu, gập gối ngồi xuống bên bàn. Chu Tử Tần rót trà rồi ân cần lấy điểm tâm cho hai người.

    Công Tôn Diên chẳng có lòng dạ dùng điểm tâm, chỉ bưng ly trà lên kể: “Mười tám năm trước, chúng tôi có sáu người, mộ tài nhau mà kết bài thành tỷ muội, đã hứa cả đời giúp đỡ, nương tựa lẫn nhau. Bấy giờ tôi có một người bạn cũ bỏ ngàn vàng ra xây dựng Vân Thiều Uyển cho chúng tôi làm chỗ trú thân, nên người trong giáo phường cũng gọi chúng tôi là Vân Thiều Lục Nữ.”

    Chu Tử Tần góp lời: “Chuyện này ta từng nghe Cẩm Nô nhắc đến.” “À phải, Cẩm Nô là đệ tử của nhị muội Vân Trí, từ sau khi nhị muội mất tích, luận về tỳ bà ở Dương Châu, nó đáng xếp hàng đầu.”

    Hoàng Tử Hà chẳng rõ Công Tôn Diên đã nghe tin Cẩm Nô qua đời hay chưa, nhưng có lẽ Công Tôn Diên nằm mơ cũng không tưởng tượng được, Cẩm Nô lại chết trong tay nhị muội Vân Trí đã mất tích bao năm qua.

    “Bọn chúng tôi mỗi người một sở trường, như tôi thiên về những điệu máu mạnh mẽ, tam muội Lan Đại chuyên những điệu uyển chuyển, tứ muội Ân Lộ Y năm xưa từng được gọi là tuyệt thế ca nữ... Còn A Nguyễn lại không phải chường mặt ra biểu diễn như chúng tôi, chỉ chuyên dựng vở múa.” Công Tôn Diên thở dài kể tiếp, “Mấy năm trước A Nguyễn được mấy kỹ viện ca múa ở Thục mời đến giúp dàn dựng một vở lớn. Vốn bảo là hai tháng sẽ về, ai ngờ lại quen Ôn Dương rồi lần nữa hết tháng này sang tháng khác. Chúng tôi nghe A Nguyễn kể trong thư rằng vợ Ôn Dương mất sớm, cảm thấy A Nguyễn gả cho Ôn Dương cũng tốt nên không giục về nữa. Sau này cha mẹ Ôn Dương không chấp nhận một nàng dâu trong làng ca múa, nên A Nguyễn quay về Dương Châu mấy năm, mãi đến mùa thu năm ngoái gặp lại Ôn Dương ở nơi khác, hay tin cha mẹ y đều đã qua đời, nên lại theo y về Thục. Tháng trước A Nguyễn viết thư báo Ôn Dương đã mãn tang, hai người chuẩn bị thành thân. Mấy người chúng tôi bèn liên lạc với nhau, tam muội ở Bồ Châu và tứ muội ở Tô Châu cũng hẹn sẽ cùng đến dự. Tôi là đại tỷ nên tới sớm hơn, định giúp A Nguyễn thu xếp việc hôn sự, nào ngờ vừa đến Thục lại nhận được tin dữ...”

    Kể đến đây, Công Tôn Diên không kìm được xúc động, rưng rưng nước mắt, song vẫn gắng nên không rơi lệ, nhìn Chu Tử Tần kể tiếp: “Nghe nói Chu công tử là tổng bổ đầu quận Thục được hoàng thượng khâm điểm, trộm nghĩ chắc công tử cũng thấy vô lý. Tiểu muội A Nguyễn chờ đợi bấy nhiêu năm, cuối cùng sắp đến ngày được chắp cánh liền cành với tình nhân. Giờ họ đã chẳng còn ai ngăn cản, lại yêu thương nhau sâu nặng, hà cớ gì trước ngày thành thân lại cùng uống thuốc độc tự vẫn? Tôi cảm thấy bên trong ắt có ẩn tình!”

    Chu Tử Tần gật đầu: “Quả là vô lý!”

    Hoàng Tử Hà lại hỏi: “Ôn Dương ở bên ngoài có chuyện gì không được như ý không?”

    “Không hề có. Tôi đã hỏi thăm láng giềng quanh nhà họ Ôn, nghe nói sau khi cha mẹ và vợ y qua đời, y cũng ít khi ra ngoài, càng không va chạm với ai. Nhà y có sản nghiệp trong rừng, thu hoạch hàng năm không tệ, nên thường ngày chỉ ở nhà đọc sách vẽ tranh, tính tình rất ôn hòa. Điểm này cũng phù hợp với những gì A Nguyễn kể trong thư.”

    “Vậy lục muội của đại nương trước lúc tự vẫn có biểu hiện gì lạ không?”

    “Tôi không biết nữa... A Nguyễn sở trường dựng vở và viết nhạc nên hằng ngày cũng ít ra ngoài, ở Thành Đô chỉ thuê một gian nhà nhỏ và một u già hầu hạ thôi. Gần đây chuẩn bị gả về nhà họ Ôn nên đã cho u già về quê, tôi không tìm được bà ấy.” Công Tôn Diên nuốt lệ lắc đầu, “Mấy kỹ viện ca múa thường nhờ A Nguyễn dựng vở chỉ kể rằng, trước hôm tự vẫn hai ngày, A Nguyễn còn tới chỗ họ từ biệt, bấy giờ trông rất tươi tắn vui vẻ, thực chẳng ai ngờ mấy hôm sau lại tự vẫn cùng tình nhân...”

    Hoàng Tử Hà trầm ngâm gật đầu: “Nói vậy thì quả thực lạ lùng. Chờ đợi suốt mười năm, vượt qua bấy nhiêu trở ngại, thế mà trước ngày thành thân lại cùng tự vẫn, thật khiến người ta không sao tưởng tượng nổi.”

    “Bởi thế mong Chu công tử tra xét lại vụ này thật kỹ, Công Tôn Diên cảm kích vô cùng!”Cặp mắt rưng rưng của Công Tôn Diên nhìn Chu Tử Tần đầy khẩn cầu, khiến họ Chu bất giác gật đầu: “Đại nương yên tâm đi, ta thân là tổng bổ đầu quận Thục, nhất định không bỏ qua vụ này đâu!”

    Hoàng Tử Hà tức anh ách.

    Dọc đường từ nghĩa địa trở về, nhìn gương mặt nhăn nhó vì phải cố giấu vẻ hớn hở của Chu Tử Tần, cô tức gần chết, chỉ muốn đá cho gã ngã nhào xuống ngựa, để bản mặt đắc ý ngầm kia sưng vù lên mới hả.

    Đợi Công Tôn Diên đi rồi, chỉ còn hai người trong nha môn, Hoàng Tử Hà lườm gã: “Công tử đã nắm được gì rồi?”

    Chu Tử Tần vừa đắc ý, vừa phục lăn nhìn cô: “Sùng Cổ đúng là liệu sự như thần! Sao lại biết ta đã có manh mối?”

    “Vớ vẩn, nhìn mặt công tử là biết liền.” Đoạn cô xòe tay ra trước mặt gã.

    Chu Tử Tần vội lấy trong ống tay áo ra một mớ tóc đặt vào tay Hoàng Tử Hà rồi xun xoe cười: “Ôi chao, ta vẫn thấy có gì đó bất thường mà, tuy nhìn bên ngoài rất giống trúng độc tỳ sương, nhưng Sùng Cổ không thấy màu đen trên đầu ngón tay thi thể rất lạ ư?”

    Hoàng Tử Hà nhìn mớ tóc, thả hắt ra rồi ném trả lại gã: “Tôi tưởng công tử lén xẻo một miếng thịt cơ chứ.”

    Chu Tử Tần giật nảy mình: “Sùng Cổ tàn nhẫn thế? Người thiện lương thật thà như ta sao có thể làm chuyện như vậy? Huống hồ thi thể đã đông cứng như đá, dễ gì mà xẻo được.”

    Nếu dễ xẻo chắc công tử đã xẻo rồi nhỉ? Hoàng Tử Hà chẳng biết nói sao, đành chuyển chủ đề: “Kiểm nghiệm tóc cũng được ư?”

    “Miễn cưỡng thôi... Phải trông vào may mắn nữa.” Nói rồi, gã nhét mớ tóc vào ngực áo.

    Hoàng Tử Hà sực nhớ ra một chuyện, liền hỏi: “Lúc trước công tử có nói đã tìm được Na Phất Sa ư?”

    “Đúng thế, vết thương ở chân nó không nặng, có điều ngã vào bụi gai, bị đói mất mấy ngày, lúc tìm được chỉ còn thoi thóp.”

    Chu Tử Tần dắt cô đến tàu ngựa.

    Tuy Hoàng Tử Hà đã hóa trang, song Na Phất Sa vừa thấy bóng cô đã mừng rỡ lết đến, cọ đầu vào người cô, thân thiết vô cùng.

    Hoàng Tử Hà ôm đầu nó vỗ về, lòng cũng mười phần hoan hỉ. Có điều thấy nó gầy giơ xương, cô không nén được tiếng thở dài, vội xúc thêm cho nó mấy thăng đậu, đổ vào máng cỏ.

    Tiểu Hà của Chu Tử Tần cũng lân la lại gần ăn ké mấy miếng. Chu Tử Tần bịt mũi nó lại rồi đẩy ra, mắng: “May mà Na Phất Sa hiền, chứ nếu là Địch Ác, xem nó có đá văng mày ra không?”

    “Nếu là Địch Ác thì không dám cho nhốt chung với ngựa khác đâu.” Nghĩ đến đó, Hoàng Tử Hà mỉm cười rồi nói: “ Công tử mau đi kiểm nghiệm mớ tóc của Phó Tân Nguyễn đi, may ra lại có phát hiện mới.”

    “Ừ, ừ ta đi ngay”. Chu Tử Tần vội vàng đi thẳng ra sau.

    Hoàng Tử Hà đứng ngoài cửa ngó vào, thấy A Bút và A Nghiễn vẫn thản nhiên ngồi trong sân chơi móc dây, hai pho tượng đồng dựng dưới hành lang, trên bậu cửa sổ xếp một hàng xương đầu lợn, đầu dê, đầu bò, xem ra Chu Tử Tần sau khi đến Thục ngày càng táo tợn.

    Nhớ đến Lý Thư Bạch, cô bèn rời khỏi phủ quận thú, đi về quán trọ.

    Thành Đô địa thế thấp, bốn bề có núi bao quanh, quanh năm ít khi nhìn thấy mặt trời. Giờ đương mùa hạ, khí hậu có phần ngột ngạt ẩm ướt. Song Hoàng Tử Hà đã quen, còn cảm thấy ngọn gió thổi qua cũng thân thuộc vô cùng.

    Cô thông thuộc đường ngang ngõ tắt ở Thành Đô như lòng bàn tay, qua bảy chỗ rẽ tám chỗ vòng là tới con ngõ có quán trọ. Về phòng thay đồ xong xuôi, cô lập tức sang phòng bên nghe ngóng xem Lý Thư Bạch ngủ hay thức. Nào ngờ vừa đến cửa, bên trong đã vang lên tiếng y: “Vào đi.”

    Hoàng Tử Hà đẩy cửa bước vào bắt gặp Lý Thư Bạch đang ngồi bên cửa sổ uống trà. Thấy cô, y bèn ra hiệu cho cô ngồi xuống chiếc ghế trước mặt.

    Hoàng Tử Hà thoáng ngập ngừng rồi cũng ngồi xuống, rót thêm trà vào chén cho y: “Gia có biết cái xác chúng tôi đến xem là ai không?”

    Ánh mắt Lý Thư Bạch vẫn không rời những căn nhà ngoài cửa sổ, lạnh nhạt đáp: “Phó Tân Nguyễn trong Vân Thiều Lục Nữ hả?”

    Hoàng Tử Hà phục sát đất: “Sao gia đoán được thế?”

    “Phó Tân Nguyễn mới qua đời ở Thành Đô, cái chết rất đáng ngờ, lẽ nào Tử Tần không biết? Rõ ràng gã chưa lần ra manh mối, nên cậy ngươi đến giúp.”

    Cô gật đầu: “Chuyện này rất đáng nghi. Các ngón bàn tay phải của Phó Tân Nguyễn có vết đen rất lạ, Tử Tần định bắt tay từ đó, tra xem chất độc này có vấn đề hay không.”

    Y không đáp lời, chỉ trầm ngâm nhìn khung cảnh ngoài cửa sổ.

    Hoàng Tử Hà cũng ngồi ngắm cảnh cùng y.

    Ráng chiều xuyên qua tầng mây, phủ lên cảnh vật một tấm màn vàng nhàn nhạt. Trong thành nhà nào cũng có hoa thục quỳ, hoa phù dung rực rỡ khoe sắc, ngay cả bầu không khí vừa nóng vừa ẩm như cũng sáng lên.

    “Phủ Thành Đô đẹp nhỉ?”

    Đang trầm tư, cô bỗng nghe y nói, theo phản xạ bèn gật đầu ngay. Lý Thư Bạch thình lình đứng dậy: “Đi thôi, dẫn ta đi xem chỗ này.”

    Hoàng Tử Hà ngạc nhiên hỏi: “Gia nghỉ ngơi thêm đã?”

    Y lắc đầu: “Ta muốn đến nơi ngươi trước đây thường lui tới.”

    Cô ồ lên, nghĩ ngợi một lát rồi hỏi: “Xem nơi... trước đây tôi thường lui tới ư?”

    Lý Thư Bạch gật đầu: “Biết đâu...lại giúp ích được cho vụ án gia đình ngươi.”

    Hoàng Tử Hà cảm thấy y chỉ viện cớ, xong cũng chẳng tiện gặng hỏi, bèn theo y ra ngoài, đi tới khu vực náo nhiệt nhất Thành Đô.

    Trời đã ngả bóng, ánh hoàng hôn rọi chiếu khắp phố lớn ngõ nhỏ Thành Đô. Trên những con đường lát đá xanh, có tiệm đóng cửa, có tiệm thắp thêm đèn, ánh đèn hắt bóng xuống con đường phía trước, quanh co lặp lòe.

    Theo luật bản triều, phủ Thành Đô cũng phải đặt giờ giới nghiêm. Nhưng từ sau loạn An Sử đến nay, luật lệ lỏng lẻo, ngay lệnh giới nghiêm ở kinh thành cũng chẳng lấy gì làm nghiêm ngặt, quanh chợ Đông chợ Tây Trường An thường xuyên có người đến đêm mới về, Thành Đô cách kinh thành rất xa, nên giới nghiêm chỉ gọi là cho có.

    Hai người đi mãi, dọc đường ngang qua cả phường thêu và phường dệt gấm, gấm vóc vải thêu treo đầy đường, dưới ánh đèn càng thêm rực rỡ. Gấm vóc và đồ thêu đất Thục đứng đầu Đại Dường một thời, được người đời đua nhau ca tụng. Ánh mắt cô dừng trên hàng dãy túi hương thêu hoa văn cát tường ngũ sắc, thầm nghĩ mình cũng định thêu một cái túi đẹp như thế để người đó đeo vào thắt lưng, nhưng sau cùng vừa bận bịu lại vụng về, vẫn để trong hộp tủ ở nhà...

    Giờ đây, chắc chiếc túi thêu hương dở ấy đã bị người chuyển vào sau này dọn dẹp vất đi rồi.

    Phố đêm Thành Đô nhiều nhất là đồ ăn vặt.

    Hoàng Tử Hà dùng tiền lấy được từ tên thích khách mua ít cánh và chân ngỗng nướng, nghĩ ngợi rồi đưa cánh cho Lý Thư Bạch: “Gia chắp cánh bay cao, nên phần gia chỗ cánh; còn tôi hai chân giẫm đất, nên ăn phần chân.”

    Lý Thư Bạch cúi đầu nhìn cô, giữa dòng người huyên náo, ánh đèn lập lòe trên phố soi sáng cặp mắt cô, long lanh trong suốt.

    Như sao sáng trên trời, như minh châu biển biếc, ánh sáng lung linh lần đầu tiên rọi vào cuộc đời ảm đạm của y.

    Y chậm rãi nhận lấy hai chiếc cánh ngỗng, lại xé thêm một mảnh giấy dầu trong quầy, chia cho cô một cái, cũng lấy một cái chân từ tay cô.

    Hoàng Tử Hà cầm phấn mới được chia, còn đang ngơ ngác thì nghe giọng Lý Thư Bạch khẽ khàng, tựa như từ rất xa truyền đến, văng vẳng vọng vào lòng cô, làm gợi lên muôn phần xao xuyến.

    “Trên trời dưới đất, đều quá xa xôi.”

    Cô đứng đó, bỗng thấy sóng lòng cuộn lên từng đợt, chẳng hiểu sao mình lại luống cuống, cũng chẳng biết phải làm thế nào mới đúng.

    Lâu thật lâu, thấy Lý Thư Bạch đã đi tiếp, cô mới định thần đuổi theo sau, lặng lẽ ăn ngỗng nướng. Hàng đồ nướng này nổi tiếng nhất Thành Đô, ngoài giòn trong mềm, nướng vừa đủ độ, mùi thơm ngào ngạt, là một trong những quán ăn vặt cô ưa thích nhất ở đây.

    Hoàng Tử Hà cắn thêm một miếng, lại lo không biết Lý Thư Bạch có nuốt trôi mấy món quà vặt ngoài đường thế này không, len lén nhìn lên thì bắt gặp y đang đứng giữa đám đông, ngoái đầu nhìn mình.


    Cô len qua đám đông đến cạnh y, ngẩng đầu hỏi: “Gia thấy ngon không?”

    Nhìn đôi môi đỏ mọng của cô, lại cúi đầu nhìn cánh và chân ngỗng trong tay mình, lần đầu tiên trong đời, ngay giữa phố, Lý Thư Bạch xé lớp giấy dầu, cắn một miếng nếm thử rồi gật đầu: “Không tệ.”

    Ngắm gương mặt y sáng bừng lên dưới ánh đèn, Hoàng Tử Hà bỗng thấy hơi hồi hộp, rồi như để lấp liếm, cô vội chuyển chủ đề: “Chúng ta đang bị truy sát, liệu kẻ kia có hạ độc vào mấy thứ này không?”

    “Không đâu.” Lý Thư Bạch thản nhiên đáp, “Kẻ địch chưa chắc đã biết thân phận chúng ta, sao có thể dùng biện pháp vừa hú họa vừa mạo hiểm thế này chứ?”

    “Ừm, thà phóng hỏa đốt chỗ trọ của chúng ta có lẽ còn tiện hơn hạ độc ngoài phố.”

    Lý Thư Bạch gật đầu, “Đúng vậy, bởi thế kể từ thời khắc bộc lộ thân phận, chúng ta phải hết sức thận trọng từng đường đi nước bước.”

    Hoàng Tử Hà hiểu ý, bèn tiếp lời ngay: “Tiếp theo đây, những người chúng ta sẽ gặp, hay nói chính xác hơn là những người chúng ta sẽ gặp từ bây giờ cho tới lần bị phục kích tiếp theo, là rất quan trọng.”

    Lý Thư Bạch gật đầu nhìn cô, không nói thêm gì nữa.

    Hai người hòa vào dòng người hối hả xuôi ngược trên đường. Chẳng ai để ý tới họ, đương nhiên cũng chẳng ai chú ý, hai người đi giữa đám đông, lúc thì bị xô vai vào nhau, lúc thì bị gió thổi tung mái tóc quấn quýt vào nhau.

    Cuối phố là một tiệm giấy mực. Trong tủ có giấy trắng, giấy vàng, giấy màu đủ loại, cả giấy hoa tiên rắc nhũ. Giấy dó Ích Châu được triều đình khâm định là giấy tiêu chuẩn, Lý Thư Bạch thường ngày cũng hay dùng, có điều loại bán trong dân gian dù sao cũng không bì được loại giấy tiến cống nên ý chỉ cầm lên xem rồi lại đặt xuống.

    Hoàng Tử Hà mân mê một tờ giấy dó vàng trong tay, lại nhớ đến bức di bút của tiên hoàng cũng được vẽ trên giấy dó vàng đất Thục, song đến giờ ý nghĩa của ba hình vẽ vẫn chưa ai suy đoán được, càng không sao hiểu nổi nguyên nhân bên trong.

    Lý Thư Bạch đương nhiên cũng đang nghĩ tới chuyện này, ngoái lại nhìn cô nói khẽ: “Phụ hoàng vẽ tranh xưa nay vẫn dùng giấy dó trắng. Giấy dó vàng... chỉ để viết chữ.”

    Hoàng Tử Hà ngạc nhiên tròn mắt nhìn y.

    Y chăm chú nhìn cô. Bên trong tiệm rất hẹp, hai người đứng quá gần, giọng y vang lên ngay bên tai, khiên cô cơ hồ cảm nhận được cả hơi thở y phả nhẹ vào dái tai mình, ánh hồng tức thì loang ra má. “Bởi thế, bây giờ là phụ hoàng viết chữ, chứ không phải vẽ tranh.. . càng không phải vẽ ra mấy thứ không biết là gì ấy.”

    Giọng nói khẽ khàng, hơi thở vương vấn, khiến cô bỗng thấy căng thẳng cực độ. Xúc cảm khiến cô hồi hộp đỏ bừng mặt lại dâng lên trong lòng một lần nữa.

    Hai người rời tiệm giấy mực thì đêm đã về khuya, lúc đi giữa con đường vắng tanh, Hoàng Tử Hà không nhịn được hỏi: “Gia... hẳn đã nghĩ đến việc này từ lâu?”

    Y khẽ ừm một tiếng, cặp mắt sâu thăm thẳm dưới hàng mi hơi đảo qua cô.

    Hoàng Tử Hà ngập ngừng: “Tại sao... giờ lại nói với tôi?”

    “Vì bây giờ chúng ta khác rồi.”

    Cô ngỡ ngàng ngẩng nhìn y.

    Trăng vừa mọc, nền trời xanh thẫm, dưới vòm trời đêm, giữa ánh trăng vằng vặc, y chăm chú nhìn cô, không nói một lời, song lại khiến cô hiểu những điều y muốn nói.

    Đúng thế, bây giờ đã khác.

    Cô nhớ mình từng ôm chặt thân thể nóng giãy của y trong đêm, áp má vào gáy; từng rạch áo y, ấn lên làn da trần, giúp y băng bó; từng trông ý suốt đêm rồi mệt mỏi thiếp đi, đến tảng sáng mới mơ màng mở mắt ra, trông thấy đôi mắt trong suốt đang lặng lẽ ngắm mình.

    Giống như y đang nhìn cô bây giờ vậy.


    Giờ đây, y tiết lộ bí mật ấy cho cô, cũng tức là cuốn cô vào xoáy âm mưu trùng trùng cạnh mình. Từ nay, dù phá xong vụ huyết án gia đình, lấy lại thanh danh cho mình, cô cũng phải sánh vai y đi tiếp, không thể tách rời nữa.

    Bởi vì, mọi chuyện đã khác rồi.

    Y và cô, đã khác.

    “Quỳ... Vương huynh! Dương tiểu đệ!”

    Về đến cửa quán trọ, họ chợt nghe thấy một tiếng gọi hối hả vang lên, phá tan không khí im lặng giữa đôi bên nãy giờ.

    Hoàng Tử Hà trông thấy Chu Tử Tần giơ cao một cái lọ nhỏ đang lật đật chạy lại, vẻ mặt vừa đắc ý, vừa cao hứng, vừa kinh hoàng, trông vô cùng quái dị.

    Cô hỏi ngay: “Kiểm nghiệm nhanh thế ư?”

    “Đúng thế, ta thật không ngờ...” Nói đến đây, gã bỗng đảo mắt nhìn quanh rồi úp mở kéo họ vào trong: “Chuyện này đúng là quái dị, mau mau, cho các vị xem cái này!”

    Quen thói úp mở câu giờ, Chu Tử Tần đóng cửa sổ xong còn săm soi nhìn khắp các khe kẽ xung quanh một lượt, xác định không có ai nghe lén, mới đặt cái lọ lên bàn hạ giọng nói: “Các vị có biết đây là gì khong?”Hoàng Tử Hà cầm lên ngắm nghía, thấy bên trong chứa một thứ chất lỏng không màu, không mùi, nhìn hệt như nước, chẳng có gì lạ.

    “Cẩn thận! Kịch độc đấy!” Chu Tử Tần vội nhắc.

    “Gì cơ? Ở đâu ra đấy?”

    “Đương nhiên từ mớ tóc kia rồi. Phó Tân Nguyễn uống thuốc độc vào là chết ngay, nhưng độc tính vẫn lan ra đến đầu tóc, ta chỉ đốt mấy sợi hòa tro vào nước, lọc qua một lượt là được lọ thuốc độc này.” Chu Tử Tần dương dương tự đắc chìa lọ thuốc ra cho hai người xem. “Nhưng phải cẩn thận đấy, ta nhúng đầu đũa vào đó rồi nhúng vào bể cá, thế là lũ cá trong bể chết cả.”

    Hoàng Tử Hà bất giác sinh lòng thương xót lũ cá nhà họ Chu.

    Lý Thư Bạch nhíu mày, cầm chiếc lọ săm soi hồi lâu, rồi trầm tư hỏi: “Trẩm độc à?”

    “Đúng thế! Đúng là trẩm độc!” Chu Tử Tần đang phấn kích như điên, lại phải nén không thể reo ầm lên, nên rất ấm ức, “Chỉ cần chấm lông chim trẩm vào rượu là thành rượu độc.”

    “Đấy là người ta đồn đại thế thôi.” Lý Thư Bạch hờ hững nói, “Trên đời làm gì có chim trẩm, chỉ là người chết vì trúng loại độc này, toàn thân đến cả thịt da lông tóc đều sẽ chứa chất độc, chim trúng độc chết thì đến lông vũ cũng có độc. Chỉ cần lấy tóc người hoặc lông chim trúng độc cũng đủ tái chế thành kịch độc, nên mới có truyền thuyết ấy.”

    Chu Tử Tần lè lưỡi nhận xét: “May mà người đời không biết cách chế loại độc này, bằng không chẳng phải thiên hạ đại loạn rồi ư?”

    Lý Thư Bạch gật đầu: “Trong cung vốn có loại độc này, từ triều trước để lại. Nghe nói nguyên liệu chủ yếu là tỳ sương, ngoài ra còn bỏ thêm phụ tử, đậu đỏ, cỏ đoạn trường, câu vẫn, mấy loại độc kiến huyết phong hầu vào luyện chế thành. Năm xưa sau khi Tùy Dạng Đế qua đời, Vũ Văn Hóa Cập thu được trong hành cung ở Dương Châu, truyền qua nhiều người, cuối cùng rơi vào tay Thái Tông hoàng đế. Thái Tông cho rằng loại độc này quá nguy hiểm, bèn hủy công thức đi, chỉ giữ lại một lọ nhỏ, đến nay gần như đã tuyệt tích rồi.”

    “Không thể nào, chỉ cần sau khi hạ độc hại chết một người, rồi lấy da tóc người đó chế thành thuốc, chẳng phải lại có thuốc độc mới ư?”

    Lý Thư Bạch lắc đầu: “Trẩm độc tuy lợi hại, nhưng độc tính cũng sẽ mất dần qua quá trình sử dụng. Thí dụ lượt dùng đầu tiên sau khi chế luyện thì chỉ chạm vào môi đã phát huy tác dụng, đừng hòng thoát chế. Nhưng sau khi lấy máu hoặc da tóc người trúng độc chế luyện thành thuốc độc loại hai thì thời gian phát tác sẽ chậm hơn, sau khi trúng độc có thể phải một hai canh giờ mới phát, một khi phát tác ắt chết ngay, thậm chí không kịp kêu cứu, hay phản ứng gì. Song độc được luyện chế từ người chết lần này, tuy vẫn là kịch độc, nhưng phát tác rất chậm, kẻ trúng độc phải bị giày vò đến mấy canh giờ, cũng không thể chế luyện ra thuốc độc nữa, chẳng khác gì những loại độc bình thường.”

    Chu Tử Tần lại hỏi: “Vậy biểu hiện bề ngoài của người chết vì trẩm độc, có phải rất giống trúng độc tỳ sương không?”

    “Đương nhiên, dù sao nguyên liệu chủ yếu vẫn là tỳ sương mà, những thứ khác chỉ là phụ thôi. Có điều độc tính mạnh hơn tỳ sương bội phần. Uống lầm lượng nhỏ tỳ sương cũng không sao, còn trẩm độc chỉ một giọt là đủ lấy mạng cả trăm người.” Nói đoạn, Lý Thư Bạch lại nhìn lọ thuốc độc Chu Tử Tần mới chế, “Xem ra Phó Tân Nguyễn và Ôn Dương chết vì trẩm độc lượt hai.”

    Hoàng Tử Hà bèn hỏi: “Vấn đề là, một người xuất thân từ làng ca múa, lại ở tít quận Thục, tự vẫn cùng tình lang chưa hề ra làm quan, tại sao lại dùng trẩm độc từ đại nội hoàng cung?”

    “Hơn nữa, theo lời vương gia nói thì trẩm độc hiện giờ cũng gần như tuyệt tích trong cung, họ lấy đâu ra được nhỉ?” Nói đến đây, Chu Tử Tần bỗng sáng mắt lên, nhìn Hoàng Tử Hà, nói như reo, “Này Sùng Cổ! Không chừng lần này chúng ta lại gặp một vụ kinh thiên động địa rồi!”

    Hoàng Tử Hà ngán ngẩm gật đầu, “Ừm, xem ra... đằng sau nhất định còn ẩn giấu bí mật chúng ta chưa biết.”
     
  15. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 7 - Trăng mờ bến nước
    Sau khi tiễn Chu Tử Tần đang bừng bừng hứng khởi vì vớ được vụ án lớn, Hoàng Tử Hà cũng đứng dậy cáo từ Lý Thư Bạch.

    Song vừa bước đến cửa, nhìn thấy khóm thục quỳ đung đưa trước mặt, tươi đẹp vô ngần dưới ánh trăng, mắt cô bỗng hoa lên, đứng ngây ra đó hồi lâu rồi sực nhớ đến một chuyện, lòng bỗng lạnh buốt đi, mặt cũng tái nhợt.

    Cuối hạ, gió đêm đã bắt đầu lành lạnh. Lý Thư Bạch đứng phía sau, thấy thân hình cô run lên thì hỏi khẽ: “Sao vậy?”

    Cô từ từ ngoái lại nhìn y, miệng há ra nhưng không thốt nên lời.

    Thấy mảnh sân trong quán thi thoảng lại có người đi qua đi lại, Lý Thư Bạch bèn nắm tay cô kéo vào trong, đóng cửa lại rồi hỏi: “Ngươi nghĩ gì thế?”

    “Cha mẹ tôi, còn cả anh trai… bà nội…” Môi cô run lên bần bật, không cất nổi nên lời.

    Lý Thư Bạch hiểu ngay, ghé tai cô hỏi khẽ: “Ngươi nghi ngờ người nhà mình cũng chết vì trẩm độc phải không?”

    Hoàng Tử Hà cắn mạnh môi dưới, ép mình bình tĩnh lại. Tay cô siết chặt mép bàn đến trắng bệch ra: “Vâng… Tôi muốn xác nhận lại một lần…”

    “Uống ngụm nước đi đã.” Lý Thư Bạch rót cho cô một ly trà, rồi đứng nhìn cô chằm chằm, “Ngươi muốn xác nhận lại thật ư?”

    Hoàng Tử Hà ngước nhìn y, cặp mắt từ từ dâng lên một màn sương, dưới ánh đèn trông càng long lanh tựa thủy tinh, toát lên vẻ hoang mang bơ vơ khôn tả.

    Cô cắn chặt môi rồi quả quyết gật đầu: “Vâng.”

    Y chẳng nói thêm nửa lời, chỉ giơ tay ấn nhẹ lên vai cô rồi rảo bước rời quán trọ, đi thẳng ra đầu ngõ.

    Xa xa, dưới ánh trăng, Chu Tử Tần đang dắt Tiểu Hà nhảy chân sáo đi về phía quận thú, trông điệu bộ như chỉ sợ người khác không biết minh vui.

    Y liền gọi lớn: “Chu Tử Tần!”

    Đêm khuya đường sá vắng hoe, nghe tiếng gọi, Chu Tử Tần vội kéo Tiểu Hà chạy hướng ngược lại: “Vương huynh! Còn chuyện gì ư?”

    Lý Thư Bạch buông một câu gọn lỏn: “Chúng ta ra ngoài một chuyến.”

    Chu Tử Tần rạng rỡ hẳn lên: “Hay quá, gọi cả Sùng Cổ đi, để tôi dắt hai vị đến hàng cá ngon nhất quận Thục! Rắc thêm ít tiêu là thơm nức…”

    “Hắn không đi đâu.”

    Chu Tử Tần ồ lên, rồi hỏi: “Vậy chúng ta… đi đâu?”

    “Quật mộ.”

    Chu Tử Tần vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ: “Thích quá! Tôi và Sùng Cổ ăn ý lắm! Chúng tôi là hai đại cao thủ đào mồ quật mả, phối hợp nhịp nhàng hết ý đấy…”

    “Nói nhỏ thôi…” Lý Thư Bạch lạnh lùng nhắc.

    Chu Tử Tần vội bưng miệng lại.

    Lý Thư Bạch lại nói: “Mấy hôm trước Sùng Cổ vất vả nhiều, hôm nay phải nghỉ ngơi.”

    “Lúc gay cấn thế này Sùng Cổ lại ở nhà ngủ à… Đúng là chẳng có đạo đức nghề nghiệp gì cả.” Chu Tử Tần bĩu môi, rồi sực nhớ ra gì đó, vội hỏi: “Vương gia vừa mới đỡ, việc này… chi bằng để tôi đi một mình là được, bảo đảm thập toàn thập mỹ, không sai sót một li!”

    Lý Thư Bạch nhìn ra bóng đêm mịt mùng, đường sá phủ Thành Đô thảy đều lát đá xanh, trải bao dầu dãi đã bị mài đến nhẵn bóng lên, phản chiếu ánh trăng lành lạnh.

    Y thong thả giải thích: “Đây có thể là chứng có lợi đầu tiên của cô ấy, ta không đi không được.”

    Chu Tử Tần ngạc nhiên: “Cô nào cơ ạ?”

    Lý Thư Bạch không trả lời, chỉ hỏi: “Ngươi ra khỏi thành được không?”

    “Không vấn đề, tuy tôi mới tới không lâu, nhưng đã kịp kết bạn với tất cả binh sĩ canh cổng thành rồi, chỉ cần nói ra ngoài tra án ban đêm, bảo đảm họ sẽ mở cửa cho chúng ta.” Đoạn gã ghé tai Lý Thư Bạch thì thào hỏi, “Đi quật mờ ở đâu cơ?”

    Lý Thư Bạch quay đầu nhìn ra ngọn núi phía ngoài thành, đáy mắt phản chiếu ánh trăng, vừa lạnh lùng, vừa tịch mịch.

    Cuối cùng, y đáp: “Mộ cả nhà Hoàng sứ quân.”

    Đi về phía Tây quận Thục, ngân hạnh mọc thành hàng dài dọc đường lên núi, mặt Nam là vô số mộ phần.

    “Nghe nói phong thủy nơi này rất tốt, nên nhiều người khá giả đặt mộ ở đây. Sau khi Hoàng sứ quân qua đời, Hoàng Tử Hà bỏ trốn, dòng tộc họ Hoàng chẳng còn ai lo ma táng, cuối cùng mấy hương thân trong quận đành bỏ tiền chôn ông ấy ở đây.” Chu Tử Tần xách dụng cụ vừa lấy từ nhà, đi vòng quanh phần mộ không lấy gì làm to lớn, đọc chữ trên bia rồi buột miệng than: “Trên bia không có Hoàng Tử Hà.”

    Lý Thư Bạch lạnh nhạt nhận xét: “Cuối cùng sẽ lại thêm vào thôi.”

    “Chẳng biết cô ấy có tới thăm mộ người nhà hay không nữa.” Vừa nói, gã vừa săm soi các ngôi mộ xây đá xanh khum khum, tìm chỗ nứt để ra tay, “Thực ra, tôi chỉ muốn ngày ngày nấp ở đây chờ sẵn, chắc chắn sẽ đợi được Hoàng Tử Hà lén lút đến viếng mộ, tới lúc đó tôi sẽ lao ra bắt quả tang cô ấy, nói với cô ấy rằng, chúng ta phối hợp phá vụ huyết án của gia đình cô đi! Vương gia bảo, Hoàng Tử Hà có cảm động trước tấm lòng của tôi mà ở lại bên cạnh, cùng tôi phá giải tất cả những vụ án lạ lùng trong thiên hạ không…”

    “Không đâu.” Lý Thư Bạch lạnh lùng cắt lời.

    Chu Tử Tần mù tịt ngó nhìn mặt đoán ý, vẫn khấp khởi nói tiếp: “Cũng phải. Thế nên cách hiện giờ của tôi là hoàn toàn chính xác. Tôi định phối hợp với Sùng Cổ phá vụ án nhà họ Hoàng, tới lúc đó Hoàng Tử Hà nhất định sẽ quay về Thục tìm tôi tạ ơn, bấy giờ tôi sẽ bảo cô ấy rằng…”

    Chu Tử Tần cứ thao thao bất tuyệt cứ như thể Hoàng Tử Hà đang đứng ngay trước mặt, còn khoát tay cười ha hả, đầy vẻ hào sảng: “Không cần đa lễ, đây là việc bản bổ đầu nên làm mà! Nếu cô muốn cảm tạ thì ở lại đây đi, chúng ta cùng chung tay phá án, tạo phúc cho dân chúng quận Thục, để tiếng thơm muôn đời!”

    Lý Thư Bạch sốt ruột chuyển chủ đề: “Ngươi thấy nên bắt tay từ chỗ nào?”

    Chu Tử Tần lại nghiên cứu hai ngôi mộ của Hoàng lão phu nhân và Hoàng Quân, rồi đáp: “Trong một đêm muốn quật cả năm ngôi mộ thì khó quá. Theo tôi thấy, một của Hoàng Quân em Hoàng sứ quân tuy cũng xây bằng đá xanh, nhưng nhỏ hơn nhiều. Hơn nữa các hương thân quận Thục chỉ tiện thể an táng cho ông ấy thôi, nên không làm kỹ càng. Chi bằng ta đào một cái ngách chếch phía sau mộ dẫn xuống, trước khi trời sáng chắc cũng kịp quật lên.”

    Nói là làm, hai người chiếu theo hướng bia, đào một cái hố chếch xuống ở phía sau mộ. Dù sao cũng mới hạ táng chưa lâu, đất còn mềm xốp, chẳng mấy chốc đã đào đến mộ, sau khi nạy lớp đá bọc ngoài, một đầu quan tài ló ra.

    “Đây hẳn là phần đầu áo quan, chỉ cần cắt ít tóc đem về là được.” Chu Tử Tần vừa cạy ván vừa liến thoắng: “Lần này chúng ta may đấy, lần trước ở Trường An tôi cũng gặp một vụ, Đại Lý Tự yêu cầu quật mồ nghiệm thi. Nào ngờ nhà đó giàu quá, còn dùng lòng trắng trứng hòa với nước gạo nếp trộn vào đất đắp lên, sau bao ngày dầu dãi nắng mưa, lớp đất đã cứng lại như sắt, cả đám người của Đại Lý Tự đào suốt bốn năm ngày mới đục được một lỗ, kết quả kẽ đá lại được đổ đồng nung chảy, kín như bưng, giọt nước cũng không chui lọt, cuối cùng chúng tôi phải bẩy tất cả lên mới xong…”


    “Cha ngươi mắng cho ngươi một trận hả?”

    Chu Tử Tần lè lưỡi: “Gia đúng là liệu sự như thần.”

    Rạng sáng, Lý Thư Bạch về đến khách sạn, thấy phòng Hoàng Tử Hà vẫn leo lét ánh đèn. Y thoáng phân vân, thấy nhà bếp đã bắt đầu chuẩn bị đồ sáng bèn bảo họ cho hai bát bánh canh, bưng đến gõ cửa phòng Hoàng Tử Hà.

    Hoàng Tử Hà nghe tiếng liền mở cửa ngay, rõ ràng đã thức đợi tin suốt đêm, đến nỗi hai mắt đỏ ngầu.

    Lý Thư Bạch đặt đồ ăn lên bàn, ra hiệu cho cô ăn trước đã.

    Trời vừa tảng sáng, trong phòng chỉ còn một ngọn nến lập lòe. Hoàng Tử Hà bưng bát bánh canh nóng hổi, lặng nhìn y.

    Lý Thư Bạch đăm đăm nhìn cô, cuối cùng lên tiếng: “Là trẩm độc, không sai.”

    Hoàng Tử Hà đứng phắt dậy, suýt nữa hất đổ cả bát bánh canh. Lý Thư Bạch thản nhiên giơ tay giữ lấy bát, nhắc nhở: “Nghe ta nói đã.”

    Hoàng Tử Hà cắn môi gật đầu, song người vẫn run lên bần bật. Cô gắng gượng day day huyệt thái dương, ép mình bình tĩnh lại.

    “Mọi chuyện trên đời, nếu quá bận lòng lại hóa ra rối trí, tuy ngươi xưa nay bình tĩnh, nhưng chuyện liện quan đến người nhà, ắt sẽ rối loạn, nên ta không cho ngươi theo, sợ ngươi xúc động quá mức lại không hay.”

    “Vâng… tôi hiểu.” Cô miễn cưỡng đáp.

    “Hiện giờ vụ án của gia đình ngươi đã có đột phá quan trọng, tin rằng ngày ngươi rửa sạch oan khiên chẳng còn xa nữa.” Nói đoạn, y đẩy bát bánh canh tới trước mặt cô, “Có điều bây giờ quan trọng nhất là ngươi phải chăm sóc bản thân thật tốt, nếu ăn không ngon ngủ không yên, suốt ngày lo buồn rầu rĩ thì làm sao lật lại bản án, rửa sạch mối oan đây?”

    Cô lặng lẽ gật đầu, rồi bưng bát lên, thong thả ăn từng miếng đến hết, đoạn đặt bát xuống nhìn y.

    Ánh bình minh đã ló ra phía cuối trời, lại là một sớm mùa hè nắng đẹp.

    Lý Thư Bạch bảo cô: “Xét theo độc tính của trẩm độc thì người nhà ngươi, cũng giống như Phó Tân Nguyễn và Ôn Dương, đều trúng loại độc chế luyện lần hai. Bởi thế, kẻ hạ độc không thể là ngươi.”

    Cô gật đầu, nuốt nước mắt run rẩy đáp: “Vâng… Bao lâu nay, tôi dốc lòng muốn tìm một điểm đột phát, nhưng truy tra thế nào cũng chỉ toàn những chứng cứ bất lợi. Mãi đến giờ mới tìm được chứng cứ quan trọng đầu tiên, có lẽ từ nay có thể gạt bỏ giả thiết tôi là hung thủ rồi…”

    “Đúng thế, đồng hoang ngàn dặm, cuối cùng cũng xuất hiện một cơ may.” Lý Thư Bạch uể oải đáp. Suốt đêm y cùng Chu Tử Tần đào mồ quật mả, bất chất bản thân vốn ưa sạch sẽ, thậm chí còn cầm mớ tóc cắt từ tử hi. Tất nhiên trước khi cầm đã đeo găng tay Chu Tử Tần cung cấp.

    Hoàng Tử Hà đang xúc động, quên cả cảm tạ y, chỉ mãi hỏi dồn: “Thi thể của cha mẹ tôi… giờ sao rồi?”

    “Vì triệu chứng và thức ăn của năm người giống nhau, thời gian lại gấp gáp nên chúng ta chỉ cắt tóc của chú và anh trai của ngươi đem kiểm nghiệm thôi, đều trúng phải trẩm độc. Ta nghĩ có lẽ nên để Tử Tần mượn vụ án Phó Tân Nguyễn loan tin ra, sau đó đường đường chính chính kiểm nghiệm lại thi thể cho mẹ ngươi, nếu xác định là trẩm độc, thì có thể rửa oan cho ngươi, đồng thời xóa bỏ bản án cũ, lập án mới điều tra lại.

    “Giờ… tôi rối lắm, chẳng biết phải làm sao nữa…” Nói rồi, cô rút cây trâm trên đầu, chầm chậm vạch lên bàn.

    Thoạt tiên, tay còn run, đường vạch cũng ngập ngừng chậm chạp, nhưng càng về sau, cô vạch càng nhanh, lấy trẩm độc làm cầu nối, suy đoán ra bao nhiêu giả thiết. Vừa vạch, cô vừa lẩm bẩm từng điểm nghi vấn:

    “Thứ nhất, trẩm độc từ đâu mà ra, kẻ ra tay có liên quan gì với cung đình không? Có phải cùng một người ra tay không?”

    “Thứ hai,đều dùng một loại chất độc, vụ án gia đình tôi và vụ Phó Tân Nguyễn có liên quan gì? Manh mối giao nhau ở đâu?”

    “Thứ ba, hung thủ làm cách nào bỏ trẩm độc vào bát canh móng dê tôi chính tay bưng lên?”

    “Thứ tư, trẩm độc trong vụ Phó Tân Nguyễn và Ôn Dương từ đâu mà ra? Sao họ phải dùng thứ thuốc độc đó để tự vẫn?”


    Lý Thư Bạch xem những nghi vấn cô vạch ra, trầm ngâm nói: “Trong số này, dễ tra nhất là điểm thứ ba và thứ tư. Giờ còn sớm, chúng ta hẵng nghỉ ngơi đã. Ta đã sai Tử Tần điều tra tất cả những kẻ trong phủ quận thú có khả năng động đến bát canh móng dê ấy rồi, chiều chúng ta tới chắc sẽ có kết quả.”

    Phủ quận thú Xuyên Thục nằm giữa Thành Đô, tường bao cao ngất, choán hơn nửa con phố.

    Từ cổng lớn đi vào, chính giữa là công đường nha môn, bên trái là nhà kho lớn nhất quận Thục, bên phải là chỗ ở của tam ban nha dịch, phía sau là khi nhà của quận thú, cạnh đó có một khu vườn nhỏ.

    Hoàng Tử Hà nhắm mắt cũng có thể đi lại thoăn thoắt ở đây. Cả thời thiếu nữ tươi đẹp của cô đã bị chôn vùi vĩnh viễn tại nơi này cùng vụ thảm án ngày hôm ấy.

    Cô cùng Lý Thư Bạch theo cửa ngách đi thẳng vào phòng của bổ khoái. Chu Tử Tần đang ngồi vắt chân ăn thông ngào đường, thấy họ đến bèn chia cho mỗi người một ít, rồi rút trong ngực áo ra một cuộn giấy: “Nào nào, chúng ta nghiên cứu cái này đi.”

    Mới cuối giờ Ngọ đầu giờ Mùi, trong phòng bổ khoái ngoài họ ra chẳng có một ai.

    “Đêm qua ta và vương gia cắt lấy ít tóc, đắp lại phần mộ rồi tức tốc quay về chỗ ta kiểm nghiệm, xác định đúng là trẩm độc.” Chu Tử Tần dương dương tự đắc khoe, “Vương gia lập tức sai ta điều tra tất cả người trong phủ, hì hì, chuyện này giao cho địa bổ đầu vừa thân ái dễ gần vừa có danh có phận như ta đây, há chẳng dễ như trở bàn tay ư?”

    Nói đoạn, gã trải cuộn giấy ra, bên trên ghi chép rõ ràng đâu ra đấy, chữ Chu Tử Tần tuy cũng bình thường, nhưng được cái ngay ngắn, rất dễ đọc.

    Đầu bếp thứ nhất, Lỗ Tùng Nương, cai quản đồ ăn thức uống trong bếp. Trong đêm xảy ra án mạng, đã đem canh nóng dê cùng các món ăn thừa cất vào chạn khóa lại. Hiện trạng: Mấy hôm trước con trai bị ốm, phải vay hai quan tiền của A Bát canh cổng.

    Đầu bếp thứ hai. Lưu Tứ Nương, cai quản việc bếp núc, bên dưới còn có hai a đầu chuyên nhóm bếp. Vào ngày xảy ra án mạng, chỉ huy a đầu nhóm bếp làm cơm. Hiện trạng: Về cơ bản vẫn như xưa, mới có thêm một chiếc nhẫn bạc, đi khoe khắp nơi.

    Đầu bếp thứ ba, Tiền Đại Nương…

    Tạp dịch thứ nhất, thứ hai, thứ ba…

    A hoàn thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư…

    Hoàng Tử Hà đọc mà phục Chu Tử Tần sát đất. Trên dưới phủ quận thú phải đến bốn mươi mấy người, vậy mà chỉ một buổi sáng gã đã hỏi han khắp nơi, hơn nữa còn hỏi rất kỹ càng, đúng là có thiên bẩm dò la, lợi hại hơn cả mấy bà tám ngoài đường.

    “Mấy chuyện này… hằng ngày ta vẫn thường để ý nghe ngóng, cũng là rèn luyện khả năng điều tra, đúng không nào?” Chu Tử Tần nghiêm trang nói: “Ta tin rằng Hoàng Tử Hà cũng sẽ để ý kỹ những chuyện này.”


    “Tôi nghĩ là không đâu.” Khóe miệng Hoàng Tử Hà hơi rần rật.

    Lý Thư Bạch liếc nhìn cô, như cười mà không phải cười, đọc lướt qua bản ghi chép rồi ném xuống bàn, hỏi: “Ngươi điều tra cả một buổi sáng, không thấy ai khả nghi hả?”

    Chu Tử Tần bấy giờ mới hơi lúng túng: “Đúng… đúng thế. Trẩm độc là thuốc độc chỉ lưu truyền trong cung, nếu có kẻ nào tuồn ra cho người trong phủ hạ độc thì hung thủ hoặc là đã bị giết, hoặc đã thăng tiến vùn vụt, được kẻ chủ mưu xem là tâm phúc rồi. Song xem ra mọi người trong phủ không có gì thay đổi đáng kể, chứng tỏ không ai mượn việc này để lôi kéo quan hệ với quan trên cả.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu tán đồng: “Tử Tần phân tích rất đúng.”

    Chu Tử Tần nghe vậy thì đắc ý hẳn: “Đã bảo ra có thiên bẩm rất cao mà lại, nếu ngày sau ta phối hợp với Hoàng Tử Hà thì cánh danh thần thám đệ nhất kinh thành Sùng Cổ e là khó giữ lắm đấy ha ha ha…”

    Hoàng Tử Hà và Lý Thư Bạch ngán ngẩm nhìn nhau, nhất trí lờ Chu thiếu bổ đầu đi.

    “Thế nên, tiếp đây chúng ta phải bắt tay từ vụ Phó Tân Nguyễn và Ôn Dương thôi.”

    Nhà Ôn Dương nằm ở ngõ Thạch Lưu phía Tây phủ Thành Đô, trong ngõ trồng rất nhiều thạch lựu. Giờ đương cuối hạ, hoa lựu đã tàn quá nửa, trên cành lúc lỉu những trái lựu to bằng nắm tay, đung đưa nhè nhẹ, nhìn rất thích mắt.

    Nhà họ Ôn cũng khá giả, xây theo kiểu tứ hợp viện với ba dãy nhà bao quanh một mảnh sân, giữa sảnh chính treo một bức tranh vẽ cảnh nghe đàn bên suối, hai bên đặt đôi liễn: “Trúc vũ tùng phong cầm vận, trà yên ngô nguyệt thư thanh” *

    *Tạm dịch nghĩa: Mưa qua bụi trúc, gió lùa rặng thông, gảy cung đàn vi vút; khói trà bảng lảng trăng treo ngô đồng, cao giọng đọc vang vàng. Mọi chú thích trong truyện đều do người dịch chú thích

    Quản gia nhà họ Ôn, một ông già râu tóc bạc phơ, mặt mày rầu rĩ ra đón bọn họ, khom lưng hành lễ: “Tham kiến Chu bổ đầu.”

    Chu Tử Tần vội đỡ ông ta dậy: “Lão nhân gia không cần đa lễ.”

    Lão quản gia mời họ vào phòng khách ngồi, sai tiểu đồng pha trà rồi gọi tất cả đầu bếp và người hầu trông nhà ra gặp họ.

    “Tổ tiên lão gia tôi từng làm thứ sử Trịnh Châu, về sau mới từ quan về quê. Lão gia năm nay ba mươi bảy tuổi, hơn mười năm trước còn tha thiết công danh, tiếc rằng cứ thi trượt mãi, nên cũng nguội lòng. Sau khi lão thái gia, lão phu nhân và phu nhân qua đời, lão gia càng ít ra ngoài, chỉ đóng cửa ở trong nhà đọc sách Lão Trang, trồng hoa trong vườn, ít tiếp xúc với người ngoài.”

    Chu Tử Tần gật đầu hỏi: “Vậy làm sao ông ấy quen được Phó Tân Nguyễn, chính là tình nhân cùng nhau tự vẫn ấy?”

    “Tổ tiên họ Ôn để lại sản nghiệp ở trong rừng, thu hoạch hằng năm cũng khá, sau khi phu nhân qua đời, lão gia không tục huyền, cũng không buồn nạp thiếp. Xưa nay ông ấy thích nhất thơ Vương hữu thừa*, nói rằng Vương hữu thừa cũng không tục huyền, sau này chọn trong hàng cháu chắt một đứa thông mình nhận làm con thừa tự là được.” Nói đến đây, quản gia hoang mang hỏi: “Bổ đầu có biết Vương hữu thừa là ai không?”


    *Vương hữu thừa: ý chỉ Vương Duy, nhà thơ nổi tiếng thời Đường. Ông từng làm quan đến chức thượng thư hữu thừa, nên còn được gọi là Vương hữu thừa.

    Chu Tử Tần đáp: “Chính là Vương Duy Vương Ma Cật đó mà.”

    “Ồ ra thế.” Quản gia đáp, rõ ràng cũng chẳng biết Vương Duy là ai, song vẫn kể tiếp, “Lão gia không có người nâng khăn sửa túi nên thỉnh thoảng cũng đến giáo phường tìm vài cô nương, có điều xưa nay chưa từng đưa những cô gái phong trần đó về nhà, nên tôi chẳng biết ai vào ai cả.”

    Chu Tử Tần hạ giọng thì thào: “Đã thích Vương Duy sao không học ông ấy đóng cửa ở ẩn cho rồi, còn qua lại những chỗ đường hoa ngõ liễu?”

    Hoàng Tử Hà chẳng buồn đếm xỉa đến gã, mà quay sang hỏi lão quản gia: “Xin hỏi lão nhân gia, hôm ấy trước khi lão gia nhà các vị ra ngoài có căn dặn gì không?”

    “Hôm ấy… hình như lão gia có hẹn, nói rằng phải đến phố Tùng Hoa, tôi cũng không nhớ rõ lắm… Ôi, lão gia tuy có chút sản nghiệp nhưng độ hai năm nay thu nhập hơi kém, vốn dĩ bên cạnh vẫn có một thư đồng theo hầu, song mấy năm trước cũng cho nghỉ rồi. Giờ trong nhà chỉ có bốn người là tôi, một đầu bếp, một người hầu, và thằng cháu tôi thỉnh thoảng theo ra ngoài.” Đoạn lão trỏ tiểu đồng đang pha trà, thở dài kể: “Các vị bảo trong nhà không có bàn tay đàn bà sắp xếp, làm sao hưng vượng nổi? Mấy hôm trước có vài vị trong thi xã của lão gia tới viếng, một đại quan, hình như họ Tề thì phải, còn nấn ná trong thư phòng lão gia tôi hồi lâu rồi than vãn, lão gia nhà các ngươi phải tìm một người phụ nữ lo liệu việc nhà từ lâu rồi mới phải.”

    “Nói vậy là các vị không biết gì về chuyện của lão gia ở bên ngoài?”

    “Lão gia xưa nay không nhắc đến, cũng không dẫn chúng tôi theo… quả thật không ai biết gì cả.”

    Thấy lão quản gia hoàn toàn mù tịt, đầu bếp, người hầu và tiểu đồng cũng lắc đầu quầy quậy, Chu Tử Tần đành dẫn Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà ra phía sau xem xét.

    Phía sau nhà là thư phòng, cả khoảng sân chỉ thấy bóng trúc hiu hiu, ngô đồng biêng biếc, tùng bách xanh um, non bộ lởm chởm, toát lên vẻ thanh cao cô ngạo.

    Chu Tử Tần buột miệng: “Trông cảnh này tôi lại thấy quen quen, giống nơi nào ấy nhỉ…”

    Gã còn đang gãi đầu gãi tai nghĩ ngợi thì Lý Thư Bạch đứng cạnh nói ngay: “Ngạc vương phủ.”

    “Đúng đúng, chính là ngôi đình Ngạc vương gia hay ngồi uống trà! Ý cảnh cố tình bày đặt này, đúng là sởn da gà!” Chu Tử Tần sờ sờ lớp gai ốc mới nổi trên tay rồi xăm xăm đi thẳng vào thư phòng xem xét.

    Vừa bước qua cửa đã thấy đập vào mặt một giá đồ cổ, phải đi vòng qua mới thấy hai hàng giá sách và một án thư. Sau án thư đặt một bức bình phong, chép bài Sơn cư thu mình của Vương Duy, nét chữ như rồng bay phượng múa, lạc khoản đề: Tịnh Tế cư sĩ.

    Mặt tường bên phải bình phong treo bức tranh vẽ một cánh bướm đậu trên đóa hồng tú cầu. Màu mực đã phai, hẳn là đồ cũ. Cả phòng chỉ có bức tranh này là diễm lệ, níu được ánh mắt Hoàng Tử Hà thêm một thoáng.

    Trên bàn có mấy tờ giấy, được xếp lại đặt ở đầu bàn.

    Chu Tử Tần cầm lên xem, thấy chữ đầu tiên ở tờ thứ nhất là “Đề”, mấy chữ sau đó là “nghĩ thế nào, Tu Đà Hoàn có ý”, thì ngơ ngác chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì, nhìn sang Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà. Hoàng Tử Hà đương nhíu mày, Lý Thư Bạch đã ứng khẩu đọc ngay: “Tu Bồ Đề nghĩ thế nào? Tu Đà Hoàn có ý nghĩ rằng ‘ta tu được đạo quả Tu Đà Hoàn’ chẳng?”

    Hoàng Tử Hà hiểu ra ngay, liền đọc tiếp: “Tu Bồ Đề thưa, ‘Không, bạch Thế Tôn. Tại sao vậy? Vì Tu Đà Hoàn là hòa vào dòng nước, thế nhưng thật ra không có cái gì nhập vào đâu cả: không nhập sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, nên được mệnh danh là Tu Đà Hoàn.” *

    *Những nội dung về kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật, ở đây lấy theo bản dịch của Hòa thượng Thích Trí Quang.

    Chu Tử Tần đối chiếu những lời họ đọc với ghi chép trên giấy thấy giống y hệt, song vẫn chưa hiểu đầu cua tai nheo: “Các vị đọc gì thế?”

    Hoàng Tử Hà giải thích: “Là một đoạn trong kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật, xem ra Ôn Dương từng chép một đoạn kinh này. Có điều các trang giấy sắp xếp lộn xộn nên công tử đọc không hiểu đấy thôi.”

    Chu Tử Tần ồ lên, đặt mấy tờ giấy xuống.

    Hoàng Tử Hà nghĩ ngợi rồi bước đến sắp lại mấy trang giấy cho đúng thứ tự. Chợt cô ngạc nhiên kêu lên: “Đoạn đầu kinh văn đâu mất rồi?”

    “Hả?” Chu Tử Tần đang săm soi giá sách của họ Ôn quay sang nhìn cô: “Thứ này cũng có người lấy đi ư? Chữ viết của Ôn Dương cũng xoàng thôi mà.”

    “Ừm, nhưng câu vừa rồi công tử đọc chính là câu đầu tiên, theo bản chép tay này.” Sắp lại đống giấy xong xuôi, cô đặt xuống bàn, chèn một con sư tử mã não lên trên rồi lục tìm khắp trên giá lẫn trong ngăn kéo, song không hề thấy mấy đoạn trước.

    “Còn mấy phong thư đây này?” Cả bọn tìm được mấy phong thư cất trong hộp gấm, bèn mở ra xem, Chu Tử Tần lập tức kích động hẳn lên: “Là của Phó Tân Nguyễn gửi cho Ôn Dương đó!”

    Ôn lang thấy chữ như thấy người.

    Mưa dầm nhiều ngày, nước ngập phố xá, không thể lặn lội. Nghĩ đến hoa quế trước sân, chỉ còn đôi ba phần, thương tiếc hương ấy nên gom lại, chưng nước quế hoa cho chàng.

    Đất Thục nắng ít, mây nhiều. Hôm nay mở hộp phấn chàng tặng khi trước, hương thơm thoang thoảng, màu sắc tươi đẹp, chẳng khác bức tranh bướm vờn tú cầu trước án thư của chàng. Mong chàng mau đến thăm, chớ để hoài nhan sắc. Thiếp đã quét sẵn cửa đợi bóng chàng.

    Tân Nguyễn kính thư.


    Chu Tử Tần cảm thán: “Hai người họ thân thiết thật, đúng là ái ân mặn nồng.”

    Lại tiếp tục xem, ngoài mấy phong thư của Phó Tân Nguyễn, còn lại phần lớn là những chuyện qua lại thù tạc ở thi xã, chẳng có gì đặc biệt.

    Chu Tử Tần nhận xét: “Xem ra nửa đầu bộ kinh Kim Cương mất thật rồi. Nói không chừng người hầu trong nhà lại tưởng là giấy vụn đem vứt đi. Cứ nhìn người trong nhà này, từ già đến trẻ, hình như đến chữ còn không biết, làm sao biết được cái gì có ích cái gì vô dụng chứ?”

    Hoàng Tử Hà lắc đầu: “Chính vì không biết chữ, nên họ sẽ giữ gìn cẩn thận từng trang giấy có chữ, để khỏi vứt lầm, lại bị chủ nhân trách mắng. Nhất là vị chủ nhân này hình như còn rất tự hào về thư pháp của mình.”

    “Sao Sùng Cổ biết?” Thấy cô nói ra điều mình chưa nhận thấy, Chu Tử Tần có phần không phục.

    “Nét chữ trên giấy và trên bình phong giống nhau, đúng không nào? Tự viết bình phong tự thưởng thức, chẳng phải là rất tự hào về thư pháp bản thân ư?”

    “Nhưng lạc khoản trên bình phong là Tịnh Tế cư sĩ cơ mà?”

    “Ôn là nhu, Dương là cương, Ôn Dương cảm thấy tên mình vừa nhu vừa cương, cương nhu phối hợp*, nên lấy hiệu này đó mà.”

    *cương nhu phối hợp: nguyên văn cương nhu tịnh tế.

    “Thật không đấy?” Chu Tử Tần nửa tin nửa ngờ, đi ra sân, vẫn gã hầu đang dọn dẹp bên ngoài: “Này này, huynh qua đây một chút!”

    Người hầu vội chạy lại hỏi: “Bổ đầu có gì căn dặn?”


    “Bức bình phong trong thư phòng do ai viết vậy?”

    “Là bút tích của lão gia đấy, viết hỏng hai mươi mấy cuốn lựa mới được một bức, có vẻ lão gia rất thích nên đã gọi người tới hồ rồi căng lên làm bình phong.”

    Hoàng Tử Hà đứng phía sau hỏi: “Hằng ngày các ngươi dọn dẹp có vứt các trang giấy viết chữ đi không?”

    “Thưa có, những phải được lão gia cho phép. Mấy năm trước có lần tôi trót vứt lầm một bài thơ của lão gia, từ đó về sau muốn dọn dẹp thư phòng phải đợi khi lão gia có nhà, xem qua từng tờ rồi mới cho vứt hay giữ lại.”

    Chu Tử Tần nhìn Hoàng Tử Hà đầy ngưỡng mộ, chỉ thiếu chưa viết lên mặt mấy chữ “chúng ta phối hợp đánh bại Hoàng Tử Hà đi” mà thôi.

    Lý Thư Bạch quan sát khắp thư phòng một lượt, rồi hỏi gã hầu: “Bức tranh hồ điệp tú cầu kia treo lên từ khi nào thế?”

    “Cái đó thì tôi không rõ… Lão gia có mấy bức họa, có bức non nước, có bức sông suối, mỗi khi cao hứng lại chọn một bức treo lên, bọn người hầu chúng tôi cũng khó biết tranh treo lên lúc nào?”

    “Theo ngươi nhớ thì bức tranh này treo đã lâu chưa?”

    “Ừm… hình như mới được mấy hôm thôi, tóm lại là chưa lâu, trước đây cũng chưa từng thấy.”

    Đợi gã hầu đi khỏi, Chu Tử Tần nhìn quanh, nhận xét: “Xem ra không có gì khác thường cả, chúng ta có định điều tra thêm gì ở đây không?”

    Hoàng Tử Hà trỏ về phía Tùng Hoa: “Đến hiện trường vụ án thử xem.”

    Vừa ra khỏi cửa nhà họ Ôn, thoáng trông thấy người đứng ở đầu kia con ngõ, bước chân Hoàng Tử Hà chợt khựng lại.

    Bóng người kia dong dỏng gầy gò ấy đang đứng dưới khóm trúc bên bờ sông.

    Lá trúc lay lay, bóng hắn gầy gầy, càng tôi lên phong thái của nhau.

    Hoàng Tử Hà đứng lặng nhìn hắn, còn Chu Tử Tần vẫy tay rối rít: “Ồ? Chẳng phải Vũ Tuyên Vũ học chính đấy ư? Huynh còn nhớ tôi không? Chúng ta từng gặp nhau ở kinh thành đấy!”

    Vũ Tuyên gật đầu với gã, ánh mắt nán lại nơi Hoàng Tử Hà một thoáng rồi quay sang hành lễ với Lý Thư Bạch, đoạn mới đáp lời Chu Tử Tần: “Tôi có việc muốn tìm thiếu bổ đầu.”

    “Huynh nói đi, cứ nói ra nào.” Chu Tử Tần nhảy chân sáo đi đến.

    Hắn trỏ bình trà rỗng và giỏ trúc trên tay nói: “Sáng nay tôi đến chùa Quảng Độ xin ít tịnh thủy để cúng tế Hoàng quận thú.”

    Hoàng Tử Hà run bắn lên, vô thức siết chặt hai tay lại. Dây cương hằn lên lòng bàn tay thành một vết tím tái, nhưng cô chẳng hề nhận ra.

    Thấy vậy, Lý Thư Bạch im lặng vỗ nhẹ lên vai cô. Hoàng Tử Hà sực tỉnh, từ từ buông lỏng dây cương, song thân hình vẫn cứng đờ.

    Chu Tử Tần chẳng hề nhận ra vẻ khác thường của họ, chỉ ồ lên một tiếng rồi hỏi: “Hôm nay là ngày giỗ chạp gì ư?”

    Vũ Tuyên lắc đầu: “Không.” “Vậy thì…” Chu Tử Tần ngạc nhiên nhìn hắn.

    “Hễ ở Thành Đô ngày nào, tôi đều tới quét mộ.” Ánh mắt hắn lướt qua Chu Tử Tần, rồi dừng ở Hoàng Tử Hà. Cặp mắt trong veo, còn trong hơn dòng nước chảy bên bờ, giọng nói khe khẽ, còn nhẹ hơn ngọn gió lao xao qua rặng trúc: “Tối qua ngẫu nhiên mơ thấy chuyện cũ, chạnh lòng tưởng nhớ nên mới đến xin Mộc Thiện đại sư ít tịnh thủy, mua thêm hương hoa tới cúng tế.”

    Chu Tử Tần xưa nay rất thích hóng hớt, những chuyện đồn đãi kiểu này, liền hỏi ngay: “Tịnh thủy của Mộc Thiện đại sư có tiếng lắm à? Hình như rất nhiều người tới đó xin.”

    Vũ Tuyên gật đầu: “Mộc Thiện đại sư đạo hạnh cao thâm, là cao tăng nổi danh nhất đất Thục. Gần đây ở Thành Đô đồn rằng sau thiền phòng của pháp sư có một mạch nước nhỏ, qua nhiều năm nghe ngài tụng kinh cảm hóa, chỉ trong một đêm đã cuồn cuộn tuôn trào, trở thành một con suối, ai cũng bảo là kỳ tích. Bởi thế mọi người đua nhau tới xin nước, nghe nói nếu ngược lại được Mộ Thiền đại sư trì tụng nữa thì có thể trở thành tịnh thủy, khiến người sống lục căn thanh tịnh, cũng có thể giúp vong hồn được siêu độ vãng sinh.”

    Hoàng Tử Hà dắt ngựa, đứng bên rặng trúc, nghe hắn rủ rỉ kể, bất giác mơ màng nhớ lại khi xưa họ từng cùng lang thang khắp đường lớn ngõ nhỏ ở Thành Đô, mỗi cành cây cọng cỏ qua lời hắn kể đều có điển cố, sự tích, khiến người ta nghe mà mê mẩn.

    Chu Tử Tần ngẩng đầu: “Hôm sau ta cũng phải tới xin ngụm nước uống mới được.”

    Vũ Tuyên gật đầu rồi khom người hành lễ với Chu Tử Tần: “Chu thiếu bổ đầu, hôm nay tôi từ mộ cha nuôi về thẳng nha môn tìm bổ đầu, nghe người ở đó chỉ lại tìm đến tận đây, là vì có một chuyện quan trọng phải trình báo.”

    “Chuyện gì vậy?”

    “Vừa rồi tôi quét dọn phần mộ, phát hiện mộ em trai của Hoàng sứ quân và Hoàng cô tử có dấu hiệu bị đào xới, may mà nấm và đá đắp phía trên vẫn nguyên vẹn, chỉ là vạt đất bên ngoài bị xới lên. Có khi nào có kẻ gian định quật mộ không?”

    Chu Tử Tần đang tươi cười nghe thế thì đuỗn mặt ra, bất giác ngoái lại nhìn Hoàng Tử Hà, ngượng nghịu nhếch mép với cô.

    Thật uổng cho gã hằng ngày khoe khoang tay nghề đào mồ quật mã, không ngờ Vũ Tuyên chỉ nhìn thoáng trông đã nhận ra ngay. Có điều gã nghĩ chắc hẳn Vũ Tuyên không biết, những kẻ quật mộ đều đang đứng ngay trước mặt hắn, hơn nữa, một trong số đó là Quỳ vương gia, kẻ còn lại chính là Chu thiếu bổ đầu mà hắn bẩm báo.

    Vũ Tuyên đương nhiên không biết Chu thiếu bổ đầu vẻ mặt phức tạp trước mặt chính là thủ phạm, thong thả nói tiếp: “Tôi nghĩ dân chúng Thành Đô đều biết Hoàng sứ quân liêm khiết thanh bần, trong mộ chủ yếu là thư tịch bút mực, sao lại bị đám trộm mộ dòm ngó chứ?”

    Chu Tử Tần hào sảng gật đầu: “Không sai! Vũ huynh đệ nói đúng lắm! Ta nghĩ việc này ắt có nội tình!”

    Hoàng Tử Hà chỉ biết cúi đầu nín lặng, nhìn chằm chằm cành trước bên cạnh.

    Lý Tư Bạch bèn vít cành trúc nọ xuống, săm soi gân lá, như thể trên đó viết lời vàng ý ngọc vậy.

    Chu Tử Tần len lén liếc hai người, thấy cả hai trầm tĩnh thản nhiên, không mảy may sơ hở, cũng không buồn nói đỡ cho mình nửa câu, đành vặn lại Vũ Tuyên: “Vậy Vũ huynh cho rằng… sao chúng lại muốn quật mộ Hoàng quận thứ?”

    Vũ Tuyên lắc đầu: “Tôi cũng không rõ, nhưng chắc hẳn phải có nguyên nhân. Ví như muốn mượn chuyện này để gây bất lợi cho Chu quận thú mới nhậm chức, hoặc là, Chu thiếu bổ đầu cũng biết đấy, Hoàng Tử Hà con gái Hoàng quận thú bỏ trốn đến giờ vẫn chưa rõ tung tích, biết đâu có kẻ định làm vậy để dụ Hoàng Tử Hà xuất đầu lộ diện, hòng hãm hại cô ấy?”

    Vừa nghe nhắc đến Hoàng Tử Hà, Chu Tử Tần ngạc nhiên hỏi ngay: “Không thể nào? Còn có thể có ý đồ này nữa ư?”

    “Tôi không biết nữa… Có điều mong Chu thiếu bổ đầu để ý giùm xem có kẻ nào rắp tâm làm bậy hay không. Hoặc là…” Hắn nhìn sang Hoàng Tử Hà, hơi cao giọng: “Để Hoàng Tử Hà biết, có lẽ còn thế lực nào đó mà cô ấy chưa thấy được đứng sau vụ này, đang chuẩn bị đối phó với cô ấy.”

    “Ừm… Chúng ta sẽ chú ý, nha môn bảo đảm sẽ lưu tâm bảo vệ phần mộ Hoàng quận thú nguyên vẹn.” Vừa nói, Chu Tử Tần vừa nháy mắt với hai người kia ra ý bảo: “hai người xem, gã này nghĩ tới nghĩ lui, lại không ngờ là do chính chúng ta gây ra, ha ha ha!”

    Nhưng Hoàng Tử Hà phát lờ thái độ đắc ý của gã, cô đứng dưới rặng trúc, trước cơn gió hiu hiu, đắn đo một thoáng rồi ngẩng đầu nhìn thẳng vào Vũ Tuyên, ánh mắt trong suốt thản nhiên: “Đa tạ huynh đã có lòng nhắc nhở, cũng đa tạ huynh lo lắng cho sự an nguy của Hoàng Tử Hà. Song việc này… tôi nghĩ không có thế lực nào đứng sau cả, không cần phải lo.”

    Vũ Tuyên ngỡ ngàng nhìn cô.

    Song Hoàng Tử Hà ngoảnh mặt đi, né tránh ánh mắt hắn, nói tiếp: “Là chúng tôi làm đấy.”

    Vũ Tuyên kinh ngạc đến nỗi phải loạng choạng lùi lại mấy bước mới trụ vững nổi. Khó khăn lắm hắn mới thốt lên được mấy tiếng: “Các… các vị đã quật mồ cả nhà Hoàng quận thú ư?”

    Hoàng Tử Hà gật đầu: “Phải. Chúng tôi còn tìm thấy chứng cứ rành rành chứng minh Hoàng Tử Hà không phải là hung thủ nữa.”

    Vũ Tuyên trợn tròn mắt nhìn cô, lắp bắp hỏi: “Huynh… chính tay… quật mồ người nhà họ Hoàng à?”

    “Thực ra hôm đó Sùng Cổ ngã bệnh không đi, ta muốn khám nghiệm lại tử thi để lật án, nên cùng… nên đi một mình.” Che giấu được cho Lý Thư Bạch, Chu Tử Tần lấy làm đắc ý lắm: “Ta làm gọn gàng đấy chứ? Quật mộ khám nghiệm xong, ta lại đắp lại như cũ đấy. Nếu không phải huynh ngày ngày đến quét tước thì ta dám đảm bảo, chỉ mấy hôm nữa, hoặc chỉ sau một cơn mưa, là không ai phát hiện được mảy may dấu vết.”

    Song Vũ Tuyên chẳng buồn để ý đến những lời huênh hoang của gã, rảo bước đi thẳng tới trước mặt Hoàng Tử Hà, nắm chặt lấy vai cô nhìn chằm chằm vào mắt hỏi: “Kết quả khám nghiệm lại thi thể thế nào? Căn cứ vào đâu để chứng minh Hoàng Tử Hà không phải hung thủ? Nếu thế thì hung thủ là ai? Hắn giá họa bằng cách nào?”

    Thấy cặp mắt vốn trong veo của hắn thoắt chốc đỏ vằn tia máu, gần như mất trí, cô thở dài đáp: “Huynh bình tĩnh đi, chúng tôi vẫn chưa tìm ra hung thủ.”

    “Nhưng… đã chứng minh được Hoàng Tử Hà vô tội rồi ư?” Hắn gặng hỏi lần nữa.

    Hoàng Tử Hà im lặng nhìn Vũ Tuyên, từ từ gỡ tay hắn khỏi vai mình, không đáp.

    Lý Thư Bạch chợt quay sang bảo Chu Tử Tần: “Vừa rồi ta quên mất không để ý bức tranh tú cầu hồ điệp của Ôn Dương có mấy đóa hoa.”

    Chu Tử Tần lại vã mồ hôi đầy đầu: “Hả? Chuyện này cũng… liên quan đến vụ án à?”

    “Không, nhưng bản vương muốn đếm thử.” Nói rồi y quay người đi thẳng.

    Chu Tử Tần đành nhăn nhó vẫy tay với Hoàng Tử Hà rồi chạy theo y.

    Thấy Lý Thư Bạch thoăn thoắt bước đi, Hoàng Tử Hà mới yên tâm quay lại, gật đầu với Vũ Tuyên: “Đúng, người nhà muội không phải trúng độc tỳ sương.”

    “Không phải tỳ sương ư? Lẽ nào…” Dù đã đoán được, song Vũ Tuyên vẫn không khỏi kinh ngạc, chỉ biết đứng sững sờ, cơ mặt hơi rần rật, hối hận, mừng rõ và hoảng hốt đan vào nhau như một dòng nước xiết, khiến hắn gần như không đứng nổi, vô thức vùi liền hai bước, mãi tới khi lưng đụng phải khóm trúc, mới tìm được chỗ dựa, ngước mắt chăm chú nhìn Hoàng Tử Hà đầy vẻ hoang mang và đau đớn, run run hỏi: “Ta… ta sai rồi ư?”

    Hoàng Tử Hà cũng nhìn hắn, bình thản đáp: “Phải. Tuy muội có mua tỳ sương, tuy huynh kể từng trông thấy muội cầm gói tỳ sương ấy với vẻ mặt rất lạ, nhưng tất cả những chuyện đó đều không liên quan tới cái chết của người nhà muội. Vì họ không trúng độc tỳ sương.”

    “Ta… trách oan muội rồi.” Hắn hoang mang lặp lại, cả người run lên.

    “Phải. Hơn nữa huynh còn đem bức thư muội gửi trình lên như tội chứng, khiến tội trạng muội càng nặng thêm, khó mà rửa sạch.” Hoàng Tử Hà không hề né tránh ánh mắt Vũ Tuyên, trái lại còn nhìn thẳng vào hắn, giọng trầm thấp mà bình thản: “May mà bọn muội đã tìm ra sự thật không thể chối cãi, nhất định sẽ có một ngày muội rửa sạch tất cả oan khuất.”

    Vũ Tuyên mở to mắt, chăm chú nhìn cô.

    Lúc này đây, cô đứng ngay trước mặt hắn, đôi mắt trong veo, toàn thân toát lên sức sống mãnh liệt của mùa hạ. Ánh dương phủ lên mình khiến cô càng lộng lẫy chói lòa, cơ hồ làm hắn lóa mắt.

    Hắn phải giơ tay lên che mắt, che cả bóng hình người con gái trước mặt, cũng giấu luôn bức màn mờ mịt vừa giăng ngang mắt, để cô khỏi trông thấy vẻ hối hận và mất bình tĩnh.

    Hắn nhớ lại nỗi hận hôm ấy, hận cô chỉ trong nháy mắt đã giết hại cả nhà mình. Mái nhà duy nhất, hơi ấm duy nhất hắn tìm được sau bao năm lênh đênh trôi dạt lại bị người mình yêu thương nhất chính tay phá nát. Trong đầu hắn, ngày cũng như đêm, chỉ đau đáu nhớ hình ảnh cô cầm gói tỳ sương, vẻ mặt lạnh lùng đến quái dị, không cách nào xua tan đi được… Bao nhiêu yêu thương đều đã hóa thành vũng máu đen đặc nhấn chìm hắn, khiến hắn đờ đẫn cả người. Đến khi sực tỉnh, hắn đã thấy mình ở phủ tiết độ sứ, bức thư tình kia cũng đã được trình lên Phạm Ứng Tích.

    Vũ Tuyên dựa lưng vào bụi trúc phía sau, thấy mồ hôi vã ra đầm đìa, số mệnh đã xẻ thế giới trước mặt hắn ra thành hai vùng ảo ảnh, khiến cả người hắn run bắn lên, ngực đau như bị dao cùn cứa nát.

    Một bên là cảnh tượng năm hắn mười sáu tuổi, khoảnh khắc thấy Hoàng Tử Hà chân trần lội xuống hồ sen, ánh mặt trời dường như cũng rực hồng, cả trời đất đều nhuốm một màu đỏ thắm như máu. Đó là lần đầu tiên họ gặp nhau, diễm lệ biết mấy, cũng ẩn giấu điềm lành biết mấy.

    Bên kia là cảnh tượng năm hắn mười bốn tuổi, mở mắt trông thấy ánh mặt trời len qua khe cửa cũ nát, bốn bề lặng phắc như tờ, yên ắng đến đáng sợ. Hắn từ giường ngồi dậy loạng choạng chạy ra ngoài, trông thấy trên vách tường loang lổ bong tróc, bóng mẹ hắn được ánh mặt trời đỏ gắt hắt lên, lủng lẳng trên xà ngang, hình như còn đung đưa nhè nhẹ.

    Đời người vốn là như vậy, gặp được một ai đó, vĩnh biệt một ai đó, hình như đều mang màu sắc giống nhau, cũng chẳng thể phân biệt được số phận ấy rốt cuộc là buồn hay vui, sắc đỏ trước mặt là vết máu, hay là ánh dương.

    Giọng Hoàng Tử Hà văng vẳng bên tai hắn: “Muội đã điều tra toàn bộ những người ở trong phủ lúc ấy, song chưa tìm được kẻ tình nghi. Bởi thế, giờ phải bắt tay vào tra vụ án giết người tại ngôi nhà ở phố Tùng Hoa trước.”

    Vũ Tuyên gắng gượng hít thở, lồng ngực phập phồng dữ dội, cố ép mình bình tĩnh lại. Giọng hắn run run, song vẫn cố nói thành lời: “Muội nói đã chứng minh được mình không phải là hung thủ, bởi… mọi người không trúng độc tỳ sương ư?”

    “Là trẩm độc, tình trạng lúc phát tác giống hệt tỳ sương, nên lão ngỗ tác nổi tiếng nhất Thành Đô cũng lầm lẫn đến hai lần.” Hoàng Tử Hà gật đầu.

    Hắn đăm đăm nhìn cô, thật lâu sau lại hỏi: “Trẩm độc đó từ đâu ra vậy? Bỏ vào bằng cách nào? Nếu là trẩm độc, sao muội không tăng liều lượng thêm một ít, há chẳng tác dụng nhanh hơn tỳ sương nhiều ư?”

    Hoàng Tử Hà phản bác: “Muội lấy đâu ra trẩm độc? Loại độc này chỉ có trong cung, dân gian rất hiếm. Hơn nữa hung thủ cố ý dùng loại độc có biểu hiện phát tác giống hệt tỳ sương, ắt là muốn đổ tội cho muội.”

    “Vậy… bức thư kia giải thích thế nào đây?” Giọng hắn, kể cả lúc run rẩy, vẫn có vài phần nghi hoặc, khiến cô nhận ra, hắn trước giờ vẫn chưa thực sự tin mình.

    Hoàng Tử Hà thoáng ngẩn người, sực nhớ đến phong thư viết cho Vũ Tuyên lúc ở Long Châu, bèn đáp: “Bức thư đó… muội chỉ nói vậy thôi, huynh đã nghi rồi.”

    “Thế ư…” Hắn nói, ánh mắt nhìn cô cuối cùng cũng dịu lại, “Có lẽ lúc trước ta đã sai khi khăng khăng muội là hung thủ… Nếu có gì cần muội cứ tìm ta, ta cũng muốn chung tay cùng muội tra rõ cái chết của mẹ nuôi.”

    “Ừm, trong vụ án tự vẫn có phố Tùng Hoa có vài chuyện cần huynh giúp đây. Dù sao một trong hai người chết trong vụ đó cũng là người quen của huynh.” Hoàng Tử Hà thở hắt ra, nói khẽ: “Vụ tự vẫn này có thể liên quan đến vụ án gia đình muội. Bởi… chất độc dùng trong hai vụ giống nhau.”

    “Trẩm độc hiếm lắm à?”

    Hoàng Tử Hà gật đầu: “Phải.”

    Vũ Tuyên day day huyệt thái dương, đợi cơn choáng váng qua đi mới nói: “Ôn Dương cũng không qua lại nhiều với ta, song trước đây từng tham gia cùng một thi xã, thỉnh thoảng có chạm mặt.”

    “Huynh có biết chuyện y qua lại với Phó Tân Nguyễn không?”

    Vũ Tuyên ngẩn người một thoáng, rồi như sực nhớ ra gì đó, vội hỏi: “Nghe nói… Ôn Dương tự vẫn cùng một ca kỹ?”

    Hoàng Tử Hà gật đầu, lại hỏi: “Bình thường y là người thế nào?”


    Vũ Tuyên cuối xuống né tránh ánh mắt cô, đáp khẽ: “Ôn Dương trước mặt mọi người thì trầm tính ít nói, nhưng đời tư… khá tai tiếng.”

    “Tai tiếng thế nào?” Hoàng Tử Hà gặng tiếp.

    Vũ Tuyên ngập ngừng mãi, nhưng thấy cô hỏi riết không buông, đành đáp: “Y không đứng đắn, nên ta thường kính nhi viễn chi.”

    Hoàng Tử Hà vỡ lẽ, hẳn là việc Ôn Dương lui tới những chốn đường hoa ngõ liễu bị người ta phát hiện, với cá tính của Vũ Tuyên, đương nhiên không muốn qua lại cùng y.

    “Những người khác có biết việc y làm không?”

    Vũ Tuyên lắc đầu: “Không nhiều. Bằng không người trong thi xã đó đa phần giữ mình trong sạch, sao chịu giao lưu với hạng ấy?”

    Hoàng Tử Hà gật đầu, rồi sực nhớ ra một chuyện: “Dạo này huynh thường tới chỗ Mộc Thiện đại sư ở chùa Quảng Độ ư?”

    Vũ Tuyên gật đầu: “Việc đời lắm biến ảo vô thường. Gần đây ta hay xem kinh phật, cảm thấy trời đất mênh mang mà bản thân chỉ như hạt cải, những khổ ải trên trần thế mà người ta phải chịu, chẳng qua chỉ là hạt bụi nhỏ nhoi trên hạt cải mà thôi. Có lúc nghĩ ngợi như thế cũng thế nhẹ nhõm chốc lát.”

    “Nhưng cũng chỉ là chốc lát thôi, đúng không nào? Chỉ có tra rõ chân tướng, đem tế trước hương hồn người thân, mới được yên lòng mãi mãi.”

    Vũ Tuyên đăm đăm nhìn nét mặt quật cường của cô, đáp khẽ: “Đúng vậy. A Hà, nói cho cùng ta cũng chẳng thể thấu tỏ thông suốt như muội được.”

    “Muội không thấu tỏ, cũng không thông suốt, muội không hứng thú với việc xuất thế.” Hoàng Tử Hà lắc đầu, “Sống trên đời này, đau khổ cũng thế mà vui sướng cũng vậy, xưa nay muội chưa hề có ý định trốn tránh. Điều gì phải đến ắt sẽ đến, dù là tốt hay xấu, muội cũng phải đón nhận, ngày nào còn chưa tra rõ trắng đen, muội sẽ không buông tay đâu.”

    Vũ Tuyên lặng lẽ gật đầu. Hai người đứng dưới rặng trúc, nghe tiếng nước rì rào, không ai nói thêm lời nào nữa.

    Ở đầu kia con ngõ, Lý Thư Bạch và Chu Tử Tần đã vòng về.

    Lý Thư Bạch bình thản bảo cô: “Đi thôi.”

    Chu Tử Tần thì hào hứng hỏi cô: “Sùng Cổ có biết cụm hồng tú cầu trên bức họa kia có bao nhiêu hoa không?”

    Hoàng Tử Hà chẳng buồn ngoái lại, lạnh nhạt đáp: “Rất nhiều.”

    “Ôi dà, cứ xem thái độ của Sùng Cổ là biết nhất định không thể thành thần thám như Hoàng Tử Hà rồi! Hoàng Tử Hà sẽ nắm rõ từng li từng tí trên hiện trường như lòng bàn tay chứ, đâu có giống Sùng Cổ, thái độ chẳng ra sao cả…”

    Vũ Tuyên hành lễ với họ rồi xách giỏ đồ lễ đi mất.

    Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà vờ như không nghe thấy gã nói, nhảy lên ngựa đi thẳng.

    Chu Tử Tần hậm hực bĩu môi lẩm bẩm: “Sùng Cổ đúng là nhỏ mọn! Không bằng Hoàng Tử Hà thì thôi, còn không chịu thừa nhận!”
     
  16. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 8 - Tử Hà ở đâu?
    Phố Tùng Hoa, nhà họ Phó.

    Phó Tân Nguyễn từ mười hai tuổi đã nổi tiếng Giang Nam, các phường ca múa đua nhau mời soạn nhạc soạn vở, lại không bị má mì ăn chặn, nên cũng dành dụm được một khoản kha khá, sau khi đến Thục bèn mua một gian nhà nhỏ ở phố Tùng Hoa, sống một mình.

    Chu Tử Tần xé giấy niêm phong trên cửa rồi lấy chìa khóa ra toan mở khóa.

    Hoàng Tử Hà trông thấy một mẩu giấy khác dán trên cửa, viết rằng, “Ở quán trọ Vân Lai phố Tử Trúc. Nhớ tới.”

    Bên dưới không ký tên, chỉ vẽ một con diều giấy.

    Hoàng Tử Hà đang quan sát thì thấy một bà thím ở bên cạnh đó bước ra, trông thấy bọn họ, bèn ngăn Chu Tử Tần lại: “Này cậu kia, đấy là niêm phong của quan phủ, bóc ra là bị bắt đấy.”

    Họ Chu chìa vạc áo quan mặc trên người ra, cười đáp: “Thím à, ta là người của quan phủ đây chứ ai.”

    Bà thím vội hỏi: “Vậy là vụ án đó đã có kết luận rồi ư?”

    “Chưa chưa, chẳng phải bọn ta đang tra đây?”

    “Ai dà, các vị tra mau mau cho! Nhà này tự dưng xảy ra án mạng, còn chết đến hai người, khiến láng giềng chúng tôi lo lắng không yên, đêm cũng chẳng được ngon giấc!”

    “Được được, thím cứ để ta lo! À, có chuyện này phải hỏi thím, người tên Ôn Dương kia hay tới đây lắm à?”

    “Tôi làm sao biết được? Phó cô nương kia tính tình rất lạ, thường ngày ru rú trong nhà, đến cái bóng cũng chẳng thấy, chỉ nuôi một u già hầu hạ. Cô ta ở đây hơn một năm mà tôi cũng chỉ gặp bốn năm lẩn, huống hồ là Ôn đại gia kia? Rõ khổ, người đẹp là thế mà mệnh mỏng, lần đầu gặp mặt tôi đã thấy số mạng cô ấy không được tốt rồi mà!” Bà thím lắc đầu than thở, rồi quay ra săm soi Chu Tử Tần từ đầu đến chân, “Chà chà, tôi bảo bổ đầu câu này nhé, tôi đã xem tướng cho nhiều người rồi, không nhìn lầm đâu, cậu với con bé cháu nhà tôi có tướng phu thê, hay là cậu để lại địa chỉ đi, mai cháu gái tôi đến tôi sẽ tới gọi cậu sang xem mặt, được không nào?”

    Khó khăn lắm mới cắt đuôi được bà thím từ đâu xông ra làm mối, Chu Tử Tần mở khóa đẩy cửa, nếu bị bà hàng xóm này tóm được, chẳng phải mất toi một ngày ư?”

    Hoàng Tử Hà và Lý Thư Bạch cũng đồng tình, an ủi gã mấy câu rồi kéo cả vào nhà xem xét.

    Đằng trước nhà là giếng trời nhỏ, trồng mấy bụi hoa, dăm chậu lan. Trên bàn thờ giữa nhà bày lư hương và đồ thờ, thờ một nữ tử gấm mũ ngọc, đang cầm kiếm múa, vạt áo cùng dải lụa tung bay, trông chẳng khác thần tiên.

    Ánh mắt Hoàng Tử Hà dừng ở tay cô gái. Cô ta cầm một thanh kiếm sẫm màu, thân kiếm ngắn mà nhỏ, không giống đạo cụ dùng để múa kiếm, mà giống một thanh đoản kiếm gỉ sét hơn.

    Lý Thư Bạch cũng chú ý đến thanh đoản kiếm nọ, hỏi khẽ: “Ngươi thấy thanh kiếm kia không?”

    “Dạ, gia biết lai lịch nó ư?”

    “Đây chính là thanh kiếm Thái Tông hoàng đến ban cho Võ Hậu năm xưa, dùng để hàng phục con Sư Tử Thông, về sau lại ban cho Công Tôn đại nương*, rồi truyền đến tay đệ tử của bà ta là Lý thập nhị nương. Mười bảy năm trước, khi Vân Thiều Lục Nữ vào kinh, Công Tôn Diên từng dùng chính thanh kiếm này để múa,” Nói đoạn, Lý Thư Bạch lại trầm tư nhìn cô, “Thanh kiếm đó vốn là vật tùy thân của Thái Tông, rèn từ hàn thiết hải ngoại tiến cống, đúc thành hai mươi tư thanh, Thái Tông chỉ chọn lấy một thanh này, luôn đem theo người. Tương truyền hàn thiết hải ngoại không bao giờ han gỉ, nào ngờ rời khỏi cũng đình lại gỉ ngoèn thế này.”

    *Lưu ý: Công Tôn đại nương này khác với Công Tôn Diên, Công Tôn đại nương này là người được ca ngợi trong bài “Xem đệ tử của Công Tôn đại nương múa kiếm” của Đỗ Phủ thời Đường

    Hoàng Tử Hà nhận xét: “Đủ thấy truyền thuyết không thể tin được.”

    Lý Thư Bạch gật đầu: “Bởi vậy năm xưa trông thấy thanh kiếm này trong tay Công Tôn Diên, tiên hoàng cứ thương cảm mãi, nói rằng vật Thái Tông yêu nhất năm xưa, nay lại thành ra thế này, thời gian thấm thoát thoi đưa đúng là chẳng tha một ai.”

    Hoàng Tử Hà nhớ tiên hoàng từng được xưng tụng là Tiểu Thái Tông, rất ngượng mộ phong thái của Thái Tông, lại nhìn thanh kiếm trên tay cô gái, nghĩ đến tâm tình tiên hoàng năm xưa, cũng không khỏi thương cảm.


    Chu Tử Tần gài then cẩn thận rồi chạy lại hỏi họ: “Bắt đầu tra xét được chưa?”

    “Cứ ra đằng sau xem đã.” Ba người vòng ra phía sau, thấy hoa tử vi đang nở rộ trong đình, từng chùm hoa tím biếc nở thành tầng thành lớp, diễm lệ vô cùng, thấp thoáng phía sau là gác đánh đàn và thư phòng.

    Họ vào thư phòng xem thử, thấy bên trong bày ra mấy giá sách đặt xuống nền, trên xếp đầy những cuốn trục. Hoàng Tử Hà mở mấy cuốn ra xem, đều là những ký tự ngoằn ngoèo khó hiểu.

    Lý Thư Bạch cầm lên xem, rồi nhận xét: “‘Tứ huyền tứ tướng yến nhạc bán tự phổ’, đây là một bản nhạc dành cho đàn tỳ bà, hẳn là Phó Tân Nguyên dùng khi dựng vở hoặc viết nhạc. Những cuốn khác chắc cũng đều là nhạc phổ.”

    Hoàng Tử Hà lục thêm mấy cuốn ra xem, bản nhạc còn hiểu láng máng, song bản múa thì mù tịt, đành đặt xuống.

    Chu Tử Tần lôi trong ngắn kéo ra một xấp giấy, sáng mắt lên gọi: “Hai vị xem cái này này.” Cả ba châu đầu vào xem, ra là bản ghi chép kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật, nét chữ giống nửa bộ ở nhà Ôn Dương.

    Chu Tử Tần vội lật đến trang cuối, phát hiện câu cuối cùng là: “Tu Bồ Đề, cái gọi là Phật pháp, tức là phi Phật pháp. Tu Bồ”, hoàn toàn khớp với đoạn dở dang kia. Gã bèn vỗ xấp giấy trong tay, nhận xét: “Hai người thân thiết như thế, Ôn Dương tất sẽ để lại đồ vật ở nhà Phó Tân Nguyễn.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu: “Tập kinh này chắc chắn là của Ôn Dương.”

    “Có điều nó chẳng có ích gì trong việc phá án cả.” Chu Tử Tần tiu nghỉu ném xấp giấy trong tay xuống mặt bàn đầy bụi: “Phải tìm các chứng cứ khác, mới biết tại sao họ tự vẫn.” Lý Thư Bạch liếc xấp giấy rồi hỏi Hoàng Tử Hà: “Ngươi có nhìn ra điểm bất thường trong đó không?”

    Hoàng Tử Hà biết y sợ bẩn không muốn chạm vào mặt bàn bụi bặm, bèn tự mình lật lật mấy trang rồi gật đầu: “Thưa có, xem ra bản chép tay này có ích đấy.”

    Chu Tử Tần nghe thế thì giật ngay lấy xấp giấy hỏi liến thoắng: “Đâu đâu? Chỗ nào bất thường?”

    Hoàng Tử Hà giải thích: “Mấy trang giấy này viết cách lề rất xa, cả lề ngang lẫn lề dọc, chúng tôi đoán rằng có lẽ để đóng kiểm bướm*.”

    *Đóng sách kiểu bướm tương tự cách đóng sách ở phương tây hiện nay, gấp đôi tờ giấy giống nhau như hai cánh bướm và khâu lại ở chỗ nếp gấp. Một tờ giấy như thế có bốn mặt chữ. Nhưng cách đóng kiểu bướm của Trung Quốc ngày xưa thường dán dính ở chỗ mở tờ giấy, làm thành một tờ giấy hai mặt chữ.

    Chu Tử Tần ngơ ngác hỏi: “Đóng kiểu bướm thì sao? Đẹp mà.”

    Hoàng Tử Hà bó tay, đứng dậy mở tủ quần áo ra xem xét. Bên trong có hai bộ đồ lót đàn ông, cô đưa cho Chu Tử Tần đem về so sánh với quần áo của Ôn Dương, rồi giở đến quần áo của Phó Tân Nguyễn. Giờ đang mùa hè, y phục của Phó Tân Nguyễn chủ yếu là áo lụa màu tươi, mỏng nhẹ, vàng ngà, xanh nhạt, trắng tinh, hồng đậm, sinh động bắt mắt khôn xiết.

    Đứng trước cả tủ quần áo nữ, Hoàng Tử Hà không khỏi xúc động, bất giác sờ nhẹ lên những tấm áo the, áo lụa, nhìn những màu sắc nhẹ nhàng mà tươi tắn ấy nhòa đi, thành một màu duy nhất của mùa hè.

    Chu Tử Tần đang lục lọi đống áo nam quay sang bắt gặp thì phì cười: “Sùng Cổ giống con gái đã đành, còn thích cả quần áo con gái nữa à?”


    Hoàng Tử Hà chẳng thèm đáp, thản nhiên đóng cửa tủ lại rồi lục sang hộp trang sức của Phó Tân Nguyễn, buông một câu: “Thoạt nhìn là biết công tử chẳng hay biết gì về đàn bà con gái.”

    Chu Tử Tần trêu lại: “Hừm, nói cứ như Sùng Cổ hiểu lắm ấy.”

    Hoàng Tử Hà chẳng buồn đếm xỉa đến gã, mở toang hộp trang sức ra. Bên trong có rất nhiều hoa tai và trang sức, ngoài những thứ chạm hình hoa lá chim chóc, con mấy chiếc trâm khắc hình chuồn chuồn hay dễ, rất đặc biệt, cũng rất xinh xắn. Vòng ngọc xuyến vàng nhan nhản, đều nằm dưới đống trâm cài.

    Ở đáy hộp, dưới tất cả đống trang sức là một chiếc hộp nhỏ bằng gỗ tử đàn.

    Hoàng Tử Hà mở ra, thấy bên trong cất một chiếc vàng ngọc dương chi óng ánh tỏa sáng dưới ánh ngày từ cửa sổ hắt vào, như được phủ một làn khói mỏng.

    Cô giơ vòng lên ngang mắt săm soi hồi lâu, thấy màu ngọc hình như có thể thay đổi theo ánh sáng bên ngoài, hiện ra vô số đường vân đủ hình dạng.

    Báu vật hiếm có thế này, hèn chi Phó Tân Nguyễn phải cất riêng, giữ gìn thật kỹ.

    Hoàng Tử Hà đặt lại nó vào hộp rồi hỏi: “Công Tôn Diên đã đến đây rồi ư?”

    Chu Tử Tần tỏ vẻ ngạc nhiên: “Không thể nào? Lúc Công Tôn Diên đến thì Phó Tân Nguyễn đã qua đời, nơi này sau khi khám nghiệm tử thi xong cũng được niêm phong, dấu niêm phong dán trên cửa không có dấu hiệu bị bóc. Huống hồ tường bao rất cao, lẽ nào Công Tôn Diễn biết trèo tường?”

    “Ừm… Bởi thế sau khi Phó Tân Nguyễn qua đời, Công Tôn Diên mới hối lộ lão Khương quản trang để vào nhìn mặt cô ta lần cuối?”

    “Chắc là vậy?” Chu Tử Tần đáp.

    Hoàng Tử Hà trầm tư nhìn sang Lý Thư Bạch, hai người tâm ý tương thông, y hiểu ngay ý cô: “Cái vòng đó hả?”

    Sau khi Phó Tân Nguyễn qua đời, lúc Công Tôn Diên chưa đến nghĩa trang, đã cầm chiếc vòng của Phó Tân Nguyễn rồi.

    Nó lọt vào tay Công Tôn Diên bằng cách nào, là một vấn đề đáng phải truy cứu.

    Lý Thư Bach cầm cái hộp từ tay cô, lấy chiếc vòng ra giơ lên ngắm nghía.

    Thấy y thoáng nhíu mày, cô bèn hỏi nhỏ: “Vương gia nhận ra lai lịch nó ư?”

    Lý Thư Bạch quay sang nhìn cô, ánh mặt trời rọi lên chiếc vòng trong vắt, hắt sáng lên mặt y, khiến khóe môi y lộ ra vẻ kinh ngạc pha lẫn âu lo.

    Y khẽ đáp: “Đây là đồ vật trong cung.”

    Hoàng Tử Hà kinh ngạc.

    “Hơn nữa, không lâu trước khi phụ hoàng qua đời, nội đình mới chế tác ra.”

    Y không nói rõ chiếc vòng này thuộc về ai, nhưng Hoàng Tử Hà biết, lúc tiên hoàng đau yếu, người thân cận nhất bên cạnh chỉ có một mình Trần thái phi, mẹ ruột của Ngạc vương Lý Nhuận, về sau đã hóa điên.

    Hiểu được suy nghĩ của cô, Lý Thư Bạch cũng gật nhẹ đầu: “Vật trong cung lại xuất hiện ở nhà một ca kỹ tự vẫn vì tình, căn nguyên bên trong hắn rất lắt léo.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu, rồi hỏi lại: “Gia khẳng định… là người đó ư?”

    “Ừm, trước khi phụ hoàng qua đời, ta thường tới thăm nom. Bấy giờ bà ta luôn ở bên giường bệnh hầu hạ, chiếc vòng này cũng là vật bà ta yêu thích nhất, đeo trên tay không rời. Những đường vân rực rỡ của nó, ta không bao giờ quên.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu, giao lại chiếc vòng cho Chu Tử Tần, thấy gã cũng chăm chú lật đi lật lại ngắm nghía, bèn chuyển chủ đề: “Phải rồi Tử Tần, chẳng phải nhà Phó Tân Nguyễn nuôi một u già ư? Về sau vì sắp thành thân nên mới cho bà ta về nhà, hiện giờ đã tìm thấy chưa?”

    “À, đã sai người đi tìm rồi, nghe nói nhà bà ta ở Hán Châu gần đây, mấy hôm là tìm ra thôi.” Nói rồi Chu Tử Tần bỏ ngay vòng xuống, hí hửng ghé tai cô thì thào: “Nghe nói u già đó nấu ăn rất ngon, nhất là món gà hạt tiêu, thơm nức cả phố Tùng hoa, sau này chúng ta có thể bảo bà ta nấu cho ăn thử!”

    Tiếc rằng, cuối cùng gà hạt tiêu thơm phức phố Tùng Hoa cũng chẳng đến lượt gã ăn thử.

    Chiều hôm ấy, đám bổ khoái đi Hán Châu trở về, ủ rủ báo với gã: “U già Thang Châu Nương ấy, trên đường từ Thành Đô về Hán Châu lỡ sẩy chân ngã xuống vách núi, chết rồi.”

    Chu Tử Tần giật nảy mình: “Chết thật ư? Tìm thấy thi thể chưa?”

    “Thấy rồi, chúng tôi đến nơi xảy ra chuyện nhìn xuống, thấy xác một người đàn bà nằm trên bãi sông, cả người đầm đìa máu. Theo chức trách, chúng tôi lập tức buộc dây vào thắt lưng leo xuống, khám nghiệm cái xác.”

    “Xác thực là bà ta ư?”

    “Đúng thế. Tuy gương mặt đã giập nát, nhưng những người quen đều nói sau tai bà ta có một nốt ruồi, vị trí không sai vào đâu được!”

    Chu Tử Tần ngoái lại, ngơ ngẩn bảo Hoàng Tử Hà: “Chết rồi.”

    Hoàng Tử Hà nhíu mày, vô thức rút cây trâm trên đầu ra, vạch mấy đường lên bàn.

    Chu Tử Tần ngồi xuống ngay trước mặt cô: “Sùng Cổ nghĩ ra chuyện gì thế?”

    Cô liền chỉ mấy đường xuống mấy đường thẳng giao cắt nhau, giải thích: “Một là nguyên nhân tự vẫn. Hai người trải qua muôn vàn sóng gió, cuối cùng cũng được ở bên nhau, sao giờ lại tự vẫn? Hai là sấp giấy trong thư phòng, rõ ràng Ôn Dương chép kinh định đóng thành sách theo kiểu bướm, sao lại để một nửa ở nhà Phó Tân Nguyên?”

    Chu Tử Tần bấy giờ mới vỡ lẽ: “Thì ra khi nãy hai vị nói cuốn kinh bất thường là vì thế? Vậy điều thứ ba và thứ tư là gì?”

    “Cái chết của Thương Châu Nương và nguồn gốc của trẩm độc.” Hoàng Tử Hà còn đương cầm cây trâm ngẫm nghĩ thì một gã bổ khoái nữa lại xộc vào, rối rít: “Bổ đầu, bổ đầu, không hay rồi!”

    Chu Tử Tần lườm gã: “Không hay rồi mà người tươi tỉnh thế à?”

    “Thưa vâng, có khổ chủ của người chết tìm đến bắt chúng ta giải thích! Xem ra nếu không xoa dịu được thì chúng ta khó mà thoát thân!” Gã bổ khoái bước đến ghé tai Chu Tử Tần nói khẽ: “Khổ chủ đó là một đại mỹ nhân đấy!”

    Chu Tử Tần nghe thế vội đứng phắt dậy chạy ra xem, quả nhiên trông thấy một giai nhân tuyệt thế vận áo xanh đứng trước cổng nha môn, toàn thân không đeo trang sức, song vẫn quyến rũ mê người, đứng giữa một con đường bình thường mà như đang đứng giữa khóm hoa trong ngày xuân phơi phới.

    Giai nhân yêu kiều hành lễ với Chu Tử Tần, không giấu vẻ buồn thương: “Chu bổ đầu gọi tôi đến, không biết có phải đã phát hiện được gì về vụ án của tiểu muội không?”

    “Ồ, ra là Công Tôn đại nương!” Chu Tử Tần niềm nở ra đón, “Đại nương, hôm nay chúng ta tra xét cả một ngày cũng đã được chút manh mối, mời vào mời vào, vừa hay phải hỏi đại nương vài chuyện…”

    Chưa nói dứt câu, đã nghe tiếng đằng hắng bên cạnh.


    Chu Tử Tần ngoái lại, tức thì tiu nghỉu như mèo cắt tai, vội xuôi tay đứng nghiêm: “Cha.”

    Chu Tường lườm đứa con trai không nên nết, khẽ nạt: “Quả nhiên là Chu thiếu bổ đầu lừng danh quận Thục, giao du rộng thật đấy, hạng người nào cũng quen được!”

    Chu Tử Tần khom người vâng dạ rối rít: “Dạ dạ, cha nói rất phải, con nhất định không phụ kỳ vọng của cha, giao du rộng rãi, hạng nào cũng quen…”

    “Hử?” Chu Tường trừng mắt với gã.

    Chu Tử Tần ngớ ra, ngơ ngác không hiểu mình nói sai chỗ nào.

    Chu Tường thấy thế tức tối giũ áo đi thẳng, không quên mắng: “Thằng nghịch tử! Mày muốn chọc ta tức chết phải không!”

    Kẻ phía sau Chu Tường vội cười xuê xoa: “Nhạc phụ đại nhân đừng giận, Tử Tần ngây thơ chất phác, hồn nhiên như trẻ nhỏ, cũng tốt mà!”

    Chu Tử Tần thấy cha quay người bỏ đi thì lè lưỡi, nắm ngay lấy người đằng sau ông ta: “Tề đại ca đến đây à! Lại đây lại đây, đệ giới thiệu với huynh hai người bạn!”

    Chu Tử Tần kéo người nọ vào trong, thấy Hoàng Tử Hà và Lý Thư Bạch đang trò chuyện với Công Tôn Diên liền nói: “Vương huynh, Dương tiểu đệ, để tôi giới thiệu, đây là Tề Đằng Tề đại ca, phán quan tại phủ Tây Xuyên tiết độ sứ. Tề đại ca, hai vị này là… trợ thủ mới của tôi mới mời tới, Vương Quỳ Vương huynh, vị này là Dương tiểu đệ.”

    Tề Đằng chừng ba mươi tuổi, tướng mạo đoan chính, lúc cười càng thấy ôn hòa, chắp tay chào bọn họ: “Tại hạ là Tề Đằng.”

    Hoàng Tử Hà vội chắp tay trả lễ, còn Lý Thư Bạch chỉ gật đầu.

    Ngoái lại, thấy Công Tôn Diên đang nhìn xuống, mắt lóe lên, Hoàng Tử Hà nhìn theo ánh mắt Công Tôn Diên, song chỉ thấy năm ngón bàn tay trái của Tề Đằng giấu trong áo, không có gì khác lạ.

    Thấy cô ngoảnh nhìn mình, Công Tôn Diên vội nói: “Tôi muốn hỏi, hiện giờ… vụ án của tiểu muội đã có tiến triển gì chưa?”

    “Đại nương, xin rời bước qua bên này nói chuyện.” Hoàng Tử Hà ra hiệu cho Công Tôn Diên.

    Chu Tử Tần vội cáo lễ với Tề Đằng: “Xin lỗi Tề đại ca, huynh cứ ngồi đây đi, chúng tôi phải hỏi chuyện đại nương mấy câu.”

    Nụ cười của Tề Đằng hơi đờ ra, hắn tần ngần hỏi: “Là vụ án ở phố Tùng Hoa hôm trước ư? Chẳng phải là Ôn Dương cùng cô nương đó tự vẫn vì tình à? Sao lại liên quan đến mấy vị đại nương này?”

    Chu Tử Tần bấy giờ mới sực nhớ: “Ồ, đúng rồi, huynh có quen Ôn Dương không?”

    Tề Đằng gật đầu: “Có. Mấy năm trước Trần Luân Vân khơi mào thành lập một thi xã, chúng ta đều tham gia, thường tụ tập xướng họa. Có điều tháng trước xảy ra chuyện không vui nên cãi cọ mấy câu, về sau Ôn Dương cũng đã viết thư xin lỗi ta, nào ngờ… giờ đã âm dương đôi ngả.”

    Hoàng Tử Hà nghe nói bèn quan sát kỹ Tề Đằng, thấy hắn nhất mực tươi cười, ôn hòa hiền hậu, song vai rộng người cao, ra dáng đàn ông, trông rất đáng tin cậy.

    Phán quan phủ tiết độ sứ cũng là chức khá cao, còn trẻ như vậy mà đã làm đến thế, hơn nữa không hề nhiễm thói thô lỗ của đám người trong quân ngũ, kể cũng là hiếm có.

    Nhưng nghĩ lại thì Quỳ vương Lý Thư Bạch từng dẫn quân trấn áp phản loạn, Vương Uẩn cũng là một trong số ít con cháu họ Vương tòng quân, song vẫn cao nhã hào hoa, nào có vẻ thô hào của binh sĩ.

    Công Tôn Diên được dẫn sang phòng bên thì có vẻ bất an, lo lắng nhìn nét mặt nghiêm trang của họ: “Xin lỗi các vị, có phải vụ án này có điểm gì đó không ổn chăng?”

    “Xin hỏi đại nương có thực lòng mong vụ án này sớm ngày được phá không?”

    Công Tôn Diên biến sắc, hơi cứng người lại, ngần ngừ hỏi: “Sao các vị lại hỏi vậy?”

    “Thế thì tại sao có những việc đại nương không kể với bọn tôi, mà lại giấu giếm?”

    Công Tôn Diên nhíu mày, lo lắng nhìn ra sân, tránh ánh mắt họ.

    Hoàng Tử Hà nói thêm: “Xin đại nương cho biết, chiếc vòng đại nương cầm trong tay lần đầu chúng ta gặp mặt, từ đâu mà ra vậy?”

    Công Tôn Diên cúi đầu đáp khẽ: “Chuyện này… đúng là khó mở lời.”

    Hoàng Tử Hà nhìn Công Tôn Diên, dịu giọng: “Xin đại nương cứ nói, bằng không, dù chúng tôi có lòng giúp đỡ, cũng chẳng biết bắt tay từ đâu được.”

    Thấy Công Tôn Diên ngập ngừng, cô lại thuyết phục thêm: “Lẽ nào đại nương không mong sớm tra ra sự thật? Nếu đại nương không giải thích những nghi ngờ cho chúng tôi, chúng tôi sao có thể phá án giúp đại nương được?”

    Công Tôn Diên bấy giờ mới thở dài đáp: “Tiểu huynh đệ nói phải lắm, tôi không nên giấu giếm các vị. Có điều chuyện này… Thực ra thứ tôi định lấy đi, vốn không phải chiếc vòng này.

    Đoạn bà ta lấy chiếc vòng chạm đôi cá vẫn đem theo người ra, đặt xuống mặt bàn: “Tôi chỉ muốn tìm một chiếc vòng bằng ngọc dương chi đơn giản, không chạm trổ gì cả.”

    Hoàng Tử Hà sực nhớ đến chiếc vòng ngọc hiếm thấy trong hộp trang sức của Phó Tân Nguyễn, phân vân một thoáng rồi dò hỏi: “Chẳng hay chiếc vòng đó có gì đặc biệt?”

    “Đó là quà của một quý nhân ở Trường An tặng cho A Nguyễn, vốn là di vật của mẹ người ấy để lại nên y rất trân quý.” Công Tôn Diên thở dài, “A Nguyễn lớn tuổi hơn người ấy nhiều, cũng không để y vào lòng, tuy nể lời nài nỉ mà nhận lấy, song lòng đã có kẻ khác. Lần này A Nguyễn sắp thành thân, trong thư viết cho tôi có nhờ tôi thay muội ấy đem chiếc vòng trả lại chủ cũ, dù sao cũng là di vật của mẹ người ta, không thể gửi gắm cho ai được.”

    Hoàng Tử Hà nhớ đến những lời Lý Thư Bạch kể, bất giác ngước lên nhìn y, cả hai đều rúng động trong lòng.

    Tuy đã đoán ra chiếc vòng ấy thuộc về mẫu phi của Ngạc vương Lý Nhuận, song chẳng ai ngờ Lý Nhuận lại chính tay tặng cho Phó Tân Nguyễn, trong khi Phó Tân Nguyễn không yêu y.

    Nhưng nghĩ kỹ lại thì Lý Nhuận là vương gia đương triều, còn Phó Tân Nguyễn chỉ là người trong làng ca múa, dù có vào vương phủ, tương lai vẫn phải trơ mắt nhìn Lý Nhuận lập một tiểu thư danh giá làm vương phi. Huống hồ Phó Tân Nguyễn lớn tuổi hơn Lý Nhuận khá nhiều, khi tuổi thiếu niên sôi nổi qua rồi, còn được bao nhiêu nam nhân nhớ đến nhưng si mê quyến luyến của mình ngày cũ?

    Phó Tân Nguyễn từ chối vị trí tỳ thiếp của vương gia, chọn làm vợ một thường dân tuổi tác tương đương mình, ngoại trừ tình cảm, cũng là một lựa chọn lý trí và hợp lệ.

    Có điều, có lẽ Phó Tân Nguyễn cũng không ngờ, dù không tham vọng, không viển vông, cuối cùng vẫn chỉ có thể cùng người mình lựa chọn xuống suối vàng.

    Công Tôn Diên giơ tay chống cằm, dùng bàn tay che hai hàng nước mắt lan dài, run rẩy kể: “Sau khi tới Thành Đô, tôi tới ngay phố Tùng Hoa tìm A Nguyễn, nào ngờ chưa đến đầu ngõ đã nghe tiếng ồn ào, rồi thấy người ta xúm đông xúm đỏ chật cả ngõ, xì xào bàn tán. Tôi hỏi han thì biết được cô gái họ Phó nửa đêm đã chết trong phòng cùng với một người khác, người của quan phủ vừa mới khiên thi thể đi… Bấy giờ tôi mới vừa kinh hoảng vừa đau xót, chẳng hiểu tại sao tiểu muội lại đột ngột qua đời vào lúc hạnh phúc nhất, cứ đứng đờ ra đó khóc òa lên, không biết gì nữa…”

    Giờ đây, kể lại tình cảnh ngày hôm đó, Công Tôn Diên vẫn lộ vẻ đau buồn và hoang mang khôn xiết, khiến người ta không khỏi động lòng thương cảm. Nghẹn ngào thổn thức hồi lâu, Công Tôn Diên mới gắng gượng kể tiếp: “Chẳng biết khóc lóc mất bao lâu thì có người bên cạnh hỏi, sao lại đứng ở đây mà khóc. Tôi ngước lên, trông thấy một dáng dấp như u già, tự xưng là Thang Châu Nương, u già trong nhà họ Phó. Tôi bèn hỏi có thể vào nhà thăm A Nguyễn được không, song bà ta lắc đầu chỉ các bổ khoái nha dịch đang tất bật đi lại, nói quan phủ sắp niêm phong nơi này rồi, mấy hôm trước A Nguyễn cũng đã cho bà ta nghỉ làm, lần này trở về định lấy nốt đồ đạc của mình mà thôi.”

    Chu Tử Tần vội hỏi: “Thế là đại nương nhờ bà ta giúp mình lấy chiếc vòng kia ra ư?”

    “Vâng… Tôi nghĩ, nếu người ta niêm phong cả vật dụng của A Nguyễn, lỡ tra ra lai lịch chiếc vòng ấy, e rằng lại tai tiếng lây đến cả người tặng, huống hồ A Nguyễn đã viết thư nhờ tôi trả lại vòng cho người ta, nên tôi dúi cho bà già ấy ít tiền, dặn bà ấy nếu có cơ hội thì lấy hộ tôi một chiếc vòng bạch ngọc trong hộp trang sức…”

    “Cuối cùng bà ấy lại lấy lầm vòng, đúng không nào?” Hoàng Tử Hà nhìn chiếc vòng chạm đôi cá, thở dài, “Chúng tôi đã xem qua hộp nữ trang của Nguyễn cô nương rồi, bên trong có rất nhiều trang sức, bà ta làm sao biết được đại nương muốn lấy cái vòng nào?”

    “Đúng thế… Nhưng bấy giờ người của quan phủ cứ giục bà ta đi cho mau, tôi cũng chẳng cách nào nhờ bà ấy quay lại đổi được, đành cầm đi luôn… Dù sao đây cũng là di vật của A Nguyễn, nhìn nó sáng bóng thế này, hẳn là ngày thường A Nguyễn hay đeo, nên bà ấy mới lấy lầm.”

    “Đại nương làm thế là bậy quá, quan phủ đang tra án mà đại nương tùy tiện mua chuộc người khác, lấy đi đồ vật của người chết, không hay chút nào.” Chu Tử Tần lắc đầu trách.

    Công Tôn Diên gật đầu: “Vâng, tôi cũng biết là không đúng, nhưng… người ta để mắt đến tiểu muội là chúng tôi đã cảm kích lắm rồi, đâu thể để người ta mang tai mang tiếng chứ?”

    Hoàng Tử Hà chậm rãi khuyên: “Tử Tần, con cháu nhà quyền quý nào đó tự tiện đem đồ gia bảo tặng cho Phó Tân Nguyên, Công Tôn đại nương có lòng nghĩ cho danh tiếng nhà họ, sau khi Phó cô nương qua đời bèn tìm vòng trả lại, tuy không thỏa đáng, song cũng không phải lỗi lớn.”

    Nghe lời Dương Sùng Cổ là thói quan từ trong tiềm thức, biện bạch giùm giai nhân là trách nhiệm không thể thoái thác, nên Chu Tử Tần lập tức bỏ qua việc Công Tôn Diên tự tiện lấy đồ vật của người chết, “Điều này ta hiểu, hơn nữa khi Phó Tân Nguyễn tự vẫn, Công Tôn Diên vẫn còn ở ngoại ô Thành Đô, đến hôm sau mới vào thành, tin rằng đại nương không liên quan gì đến cái chết của của cô ấy.”

    Được gã thông cảm, chuyện này coi như bỏ qua.

    Hoàng Tử Hà cuối đầu nhìn chiếc vòng bị lấy nhầm, vô thức cầm lên ngắm nhìn, nhất thời buồn bã, ngẩn ngơ.

    Ánh mắt Lý Thư Bạch từ từ chuyển từ chiếc vòng sang Hoàng Tử Hà.

    Chỉ thấy cô thở dài, đẩy nó sang bên Chu Tử Tần, ý bảo gã cất đi, rồi nói khẽ: “Chiếc vòng này.. liên quan tới vụ án, cứ giao cho nha môn cất giữ đi.”

    Chỉ một động tác đơn giản ấy đã khiến những thứ vốn dồn nén trong lòng y bấy lâu nay tan ra như tuyết, hết thảy hanh thông.

    Chính y cũng không nhận ra, khóe môi mình đã nhếch lên.

    Chu Tử Tần cầm chiếc vòng lên, liếc qua rồi nhận xét: “Chiếc vòng này cũng đẹp ghê, hơn nữa xem ra được chủ nhân yêu thích, mới giữ gìn sáng bóng như thế. Ồ, bên trong còn một hàng chữ này.”

    Gã giơ vòng lên ngang tầm mắt, từ từ xoay để đọc hàng chữ bên trong: “Vạn mộc chi trường, hà phương vi hà… là ý gì vậy?”

    Hoàng Tử Hà cúi mặt chậm rãi uống trà. Trà đã lạnh ngắt, cái lạnh trôi theo cổ họng xói vào lòng đắng chát.


    Lý Thư Bạch bình thản giải thích: “Vạn mộc chi trường, chính là ‘tử’.”

    “Ồ, tử… hà…” Chu Tử Tẩn kinh ngạc thốt lên, “Tử hà? Hoàng Tử Hà ư? Nói vậy thì, đây từng là đồ vật của Hoàng Tử Hà?”

    Công Tôn Diên nghi hoặc nhìn gã, chẳng biết Hoàng Tử Hà là ai.

    Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà đành tảng lờ như không nghe thấy.

    Chu Tử Tần mừng như phát cuồng, bất chấp chiếc vòng là vật liên quan tới vụ án, nhét ngay vào ngực áo, còn khư khư giữ tay bên ngoài, chỉ sợ nó rơi ra, ngửa mặt cười lớn: “Ha ha ha, thật không ngờ chiếc vòng Hoàng Tử Hà từng đeo lại rơi vào tay ta! Từ hôm nay ta sẽ ôm nó ngủ hằng đêm, đừng ai hòng chạm vào một ngón tay! Ai dám đụng vào, ta sẽ liều mạng với kẻ đó!”

    Công Tôn Diên giơ khăn tay lên chặm nước mắt, ngập ngừng hỏi Hoàng Tử Hà: “Chu bổ đầu… không sao chứ?”

    “À, đại nương yên tâm, không sao đâu.” Hoàng Tử Hà chẳng buồn ngước mắt, bưng ly trà lên chậm rãi đáp: “Nếu không điên thì đâu gọi là Chu Tử Tần.”

    Hôm nay quả là một ngày may mắn, Chu Tử Tần cực kỳ vui vẻ, bắt đầu đi ban phát ân huệ khắp nơi.

    “A Trác! Gọi mấy huynh đệ gần đây vất vả tra án đến, hôm nay ta mời mọi người đi uống rượu, bõ công bao ngày cực nhọc!”

    Cả đám nhốn nháo theo Chu Tử Tần ùa ra phố, vừa trông thấy gã rút chiếc vòng ra khoe khoang ai nấy bèn nhao nhao lên: “Đúng đúng, trước đây Hoàng tiểu thư hay đeo cái này, hơn nữa còn rất yêu thích!”

    Lý Thư Bạch, Hoàng Tử Hà và Công Tôn Diên chịu không nổi giọng oang oang đầy phấn khởi của Chu Tử Tần, đành đi tụt lại phía sau cách bọn họ hai trượng.

    Đám người vừa yên vị, chợt trông thấy Công Tôn Diên, tức thì mắt kẻ nào kẻ nấy trợn tròn lên, nhất là mấy bổ khoái trẻ, cảm thấy được ngồi cạnh giai nhân thực là hết sức hãnh diện nên bắt đầu tranh nhau chỗ ngồi, suýt nữa còn ẩu đả. Rượu vừa đưa lên, cả đám lại ùa đến ân cần kính rượu.

    Công Tôn Diên uống hết lượt rượu được kính, khiêm nhường cảm tạ: “Con cái mấy chị em tôi cũng xấp xỉ tuổi các vị, song xem ra các vị ngoan ngoãn hơn nhiều.”

    Các bổ khoái tái mặt, chăm chú nhìn giai nhân trước mặt: “Xin đại nương cho biết niên kỷ?”

    “Tôi gần bốn mươi.” Công Tôn Diên thản nhiên đáp.


    Trừ mấy người Hoàng Tử Hà ra, những kẻ còn lại đều đau khổ ôm mặt quay đi.

    Chu Tử Tần nhăn nhó cười nói: “Thực ra lần này Công Tôn đại nương đến đây cũng vì tiểu muội mà thôi. Chính là người con gái trong vụ án tự vẫn vì tình mấy hôm nay các huynh đang điều tra đó.”

    Bổ đầu quận Thục trước đây là Quách Minh, về sau Chu Tử Tần được khâm điểm làm bổ đầu cho nên họ Quách chuyển sang làm đội trưởng đội ngựa, chức giáng nửa cấp song bổng lộc lại thăng lên một cấp, lợi ích thiết thực hơn nhiều, nên hết sức vui mừng: “Ồ, cô gái đó ư! Đẹp lắm, là người trong làng ca múa đúng không? Dù sau khi trúng độc thi thể tím tái, song dung mạo, thân hình vẫn như ngọc tạc vậy…”

    Nói đến đây, hắn liếc Công Tôn Diên rồi sực nghĩ ra một chuyện, vội hỏi: “Cô ấy là… tiểu muội của đại nương ử?”

    Công Tôn Diên gật đầu, nước mắt rưng rưng, rồi đột nhiên đứng dậy kính rượu tất cả bổ khoái: “Tiểu muội A Nguyễn của tôi dung hoa nguyệt mạo, tiếc rằng nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương, quả là thê thảm. Tôi biết tiểu muội tính tình cứng cỏi, giờ lại vừa khổ tận cam lai, nhất định không thể tự tìm cái chết, xin các vị đại ca tiểu đệ rủ lòng thương mà minh oan cho muội ấy!”

    Các bổ khoái nhao nhao đáp ứng. Quách Minh vẻ xúc động nhất, còn nói thêm: “Đại nương yên tâm, nếu Phó cô nương quả thật bị hại chết thì anh em chúng tôi nhất định sẽ dốc hết sức điều tra! Hiện giờ thiếu bổ đầu còn mời cả Vương huynh và Dương tiểu đệ giúp đỡ, tôi nghĩ vụ này chẳng mấy lâu sẽ phá được thôi!”

    A Trác cạnh đó thở dài thì thào: “Nếu có Hoàng tiểu thư ở đây thì vụ này chẳng là gì cả. Tiếc rằng giờ đây… tôi vẫn chưa thấy manh mối nào hết…”

    Hoàng Tử Hà lặng lẽ cúi đầu ăn cơm.

    Chu Tử Tần đang mân mê chiếc vòng nghe vậy thì sáng mắt lên, cất vòng vào ngực áo rồi hỏi: “Hoàng tiểu thư mà các người nói, có phải Hoàng Tử Hà không?”

    Quách Minh thấy A Trác im thin thít, bèn đáp thay: “Chính là cô ấy! Nữ thám tử mà cả quận Thục kính nể đó…”

    “Mau kể cho ta nghe, Hoàng tiểu thư là người thế nào? Dung mạo ra sao? Có giống tranh vẽ trên lệnh truy nã ấy không? Hằng ngày thích ăn gì? Thích màu gì? Thích hoa gì? Thích chơi cái gì thích đọc sách gì?” Chu Tử Tần hỏi liền một tràng.

    “Hoàng tiểu thư xinh đẹp lắm! Tuy phong tư không được như đại nương đây, nhưng chỉ riêng dung mạo thanh lệ thoát tục cũng đủ xưng tụng là mỹ nhân xuất sắc!”

    “Cũng hơi giống trong tranh, may mà bức tranh đó vẽ đẹp đấy.” Nói đến đây A Trác nhìn sang Hoàng Tử Hà thoáng ngây người, “Thực ra hình như áng chừng có lẽ Hoàng tiểu thư cũng… nhang nhác giống vị Dương huynh đệ này thì phải.”

    Hoàng Tử Hà biết mình đã hóa trang, nhưng nghe A Trác nói vậy vẫn im lặng quay đi, vẻ ngượng nghịu.

    Lý Thư Bạch liếc cô, bất giác mỉm cười.

    Quách Minh thấy thế bèn cốc đầu A Trác: “Nói lung tung! Dương huynh đệ và Hoàng tiểu thư một người là nam một người là nữ, một là thám tử từ kinh thành đến, một là… hung thủ bị truy nã toàn quốc, sao lại giống nhau được?”

    A Trác sờ trán, rụt cổ, im thít không dám nói năng gì nữa.

    Quách Minh vội quay sang xin lỗi Hoàng Tử Hà rồi thở dài, rầu rĩ cúi đầu uống rượu.

    Không khí trên bàn rượu bỗng trầm hẳn, bất luận Chu Tử Tần khơi gợi thế nào, cũng chẳng ai hé răng nhắc đến Hoàng Tử Hà nữa.

    Ai mà tưởng tượng nổi Hoàng tiểu thư của họ giờ đã thành trọng phạm bị truy nã toàn quốc. Tội của cô là, đầu độc cả nhà.

    Lý Thư Bạch quay sang thấy Hoàng Tử Hà cúi đầu nín lặng, hàng mi che khuất tối sầm. Y bèn gắp vào bát cô một miếng ngó sen rồi nói: “Dù ở giữa đầm lầy, song người người đều biết ngó sen trắng như tuyết, ngọt như lê. Đến khi rửa sạch bùn nhơ, mới hay chân tướng. Ngươi thích ăn không?”

    Hoàng Tử Hà ngước nhìn y, đáp khẽ: “Vâng. Tôi… thích.”

    Nghe hai người nói chuyện ngó sen, những kẻ xung quanh chẳng hiểu mô tê gì, chỉ ra sức uống rượu giải sầu. Chợt một bổ khoái lẩm bẩm: “Nói ra thì, hôm qua ta còn gặp Vũ Tuyên cơ đấy.”

    “Tên khốn nạn đó, đúng là uổng phí tâm ý của Hoàng tiểu thư dành cho hắn!” A Trác trẻ nhất cũng ngưỡng mộ Hoàng Tử Hà nhất giận dữ mắng: “Ơn nghĩa của gia đình Hoàng sứ quân đối với hắn nặng tày non, Hoàng tiểu thư và hắn lại đã có giao tình nhiều năm, nào ngờ nhà họ Hoàng vừa gặp nạn, hắn lại là kẻ đầu tiên nghi ngờ Hoàng tiểu thư, còn dâng thư tình của cô ấy lên tiết độ sứ Phạm tướng quân. Trước đây con cháu Phạm tướng quân mắc tội, bị Hoàng tiểu thư phanh phui, các người nói tiết độ sứ liệu có bỏ qua chuyện này không!”

    “A Trác.” Quách Minh quát lên ngắt lời, không quên lườm hắn một cái: “Mới uống mấy ly rượu đã nói lung tung rồi! Phạm tướng quân nhìn xa trông rộng, mấy bổ khoái nhãi nhép chúng ta biết cái gì hả, cứ vâng lệnh hành sự đi!”

    A Trác đành ngậm miệng, nhưng không giấu được vẻ hậm hực.

    Chu Tử Tần còn phẫn nộ hơn A Trác, đập bàn hỏi: “Tên khốn ấy còn mặt mũi sống ở đây sao?”

    “Hắn hả? Hắn lại chẳng rộng bước đường mây, được tiến cử vào Quốc Tử Giám trong kinh, nghe nói là làm học chính. Có điều gần đây lại quay về rồi.”

    Chu Tử Tần nghe đến đấy thì sững sờ hỏi lại: “Là Vũ Tuyên học chính Quốc Tử Giám ư?”

    “Đúng đúng, bổ đầu ở kinh thành từng gặp hắn rồi à?”

    “Đâu chỉ gặp mặt, mà còn…” Chu Tử Tần lúng túng chẳng cách nào liên hệ được Vũ học chính thanh tú tiêu sái, hiền hậu ôn hòa mà gã hằng ngưỡng mộ với tên khốn Vũ Tuyên ăn cháo đá bát, vứt bỏ Hoàng Tử Hà.

    Hoàng Tử Hà lại hỏi: “Nói đi cũng phải nói lại, Hoàng Tử Hà có thể trốn thoát khỏi thiên la địa võng, hẳn là đã được rất nhiều người giúp đỡ. Bằng không quận Thục các vị bao nhiêu binh mã bổ khoái như thế, cô ta làm sao trốn nổi?”

    Quách Minh vội phân trần: “Không có chuyện mở một mặt lưới đâu! Chúng tôi dốc hết sức lùng bắt cô ấy thật mà! Tất cả mọi người ở nha môn đã lùng sục suốt mấy ngày đêm đấy!”

    “Vậy hẳn là số mệnh của cô ta chưa đến lúc tận.” Thấy Quách Minh giấu đầu hở đuôi, Hoàng Tử Hà mỉm cười nâng ly rượu lên, “Bất luận thế nào, tôi cũng kính các vị một chén.”

    Không khí trên chiếu rượu lúc này hết sức gượng gạo, mỗi người ôm một tâm sự, mải miết ăn cơm, chẳng ai nói với ai câu nào. Đột nhiên Chu Tử Tần lẩm bẩm: “Ta phải đi tìm Vũ Tuyên hỏi cho rõ, rốt cuộc là chuyện gì.”

    Quách Minh sực nhớ ra một chuyện, bèn hỏi: “Phải rồi Tề đại nhân, năm xưa sau khi Vũ Tuyên thi đỗ cử nhân, trong quận phân cho hắn một căn nhà, hinh như ở cạnh phủ đại nhân thì phải?”

    Nụ cười của Tề Đằng thoáng gượng gạo, hắn cầm ly rượu đáp: “Đúng thế, Vũ huynh ở ngay cạnh nhà ta. Nhưng… tính tình huynh ấy cao ngạo, không thích ồn ào, thường ngày ít qua lại nên ta cũng chẳng biết được gì nhiều.”

    Lời này hắn nói thực, trước đây Hoàng Tử Hà và Vũ Tuyên gần gũi như thế, song cô không có ấn tượng gì về Tề Đằng. Nếu là người quen của Vũ Tuyên, nhất định cô cũng phải gặp qua rồi.

    Hoàng Tử Hà mỉm cười giơ ly rượu lên kính hắn: “Hiện giờ trong phủ tiết độ sứ không có phó sứ, phán quan chính là đứng dưới một người mà trên muôn người rồi. Tề phán quan tuổi còn trẻ mà đã gánh vác trọng trách như thế, hẳn là kỳ tài xuất chúng, mới lọt mắt xanh Phạm tướng quân.”

    “Đâu có, chẳng qua là may mắn đấy thôi?” Tề Đằng khiêm tốn cười đáp.

    Chu Tử Tần khoác vai họ Tề, bô bô: “Tề đại ca đừng khiêm tốn nữa, con rể cha đệ trăm kén ngàn chọn mới được, đâu phải tầm thường. Nếu là kẻ tầm thường, cha đã chẳng nỡ lòng nào gả con gái cho đâu.”

    Hoàng Tử Hà ngạc nhiên hỏi: “Thì ra Tề đại ca sắp thành con rể quận thú rồi ư?”

    “À, quên mất không kể với các vị, Tử Yên em gái ta cuối năm nay sẽ thành thân với Tề đại ca.” Nói rồi Chu Tử Tần lại nhìn Tề Đằng, lắc đầu cười nói: “Đang là vai em tự dưng lại thành vai anh, rốt cuộc là ta được lợi hại bị thiệt đây?”

    Bọn Quách Minh cười ồ, tranh nhau kính rượu họ, chiếu rượu thoắt chốc sôi nổi hẳn lên.

    Ăn xong bữa thì trăng đã lên đến giữa trời.

    Chu Tử Tần và các bổ khoái an ủi Công Tôn Diên, hứa sẽ cố gắng tìm ra chân tướng thật nhanh.

    Rồi ai về nhà nấy.

    Chu Tử Tần tiễn Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà về quán trọ, ba người giẫm lên ánh trăng, theo đường lớn mà đi.

    Hoàng Tử Hà nói: “Tề Đằng năm nay bao nhiêu tuổi rồi?”

    “Gần ba mươi.” Chu Tử Tần gãi đầu ngán ngẫm, “Đúng là tức chết đi được, cha ta vừa đến Thục, đương nhiên phải giữ quan hệ với tiết độ sứ. Tề Đằng nhiều năm trước từng thành thân, nhưng vợ chết đã lâu, Phạm đại nhân biết được em gái ta còn chưa lấy chồng, bèn nói Tề Đằng là cánh tay phải của mình, đang muốn tìm một đám tử tế. Sùng Cổ bảo, tiết độ sứ nói thế thì cha ta còn biết làm sao nữa? Đành gọi người lấy sinh thần bát tự ra so, nào ngờ lại phù hợp, đại cát đại lợi! Thế là định hôn thôi!”

    Lý Thư Bạch trầm tư nhận xét: “Nắm đằng lưỡi thì còn làm sao được.”

    Hoàng Tử Hà biết ý y muốn nói là thế lực của tiết độ sứ quá lớn, kiềm chế cả quận thú. Tiếc rằng Chu Tử Tần không hiểu, chỉ chớp chớp mắt rồi nhe nhở kể tiếp: “Có điều em gái ta cũng có thiệt thòi gì. Đã bị người ra hối hôn thì ở kinh thành chắc chắn không tìm được đám nào tốt nữa. Cha ta đem nó đi ngàn dặm xa xôi đến tận đây, chẳng phải là muốn tìm một tên ù ù cạc cạc, chẳng biết đầu cua tai nheo gì gả phứt ư?”

    Hoàng Tử Hà thầm hiểu bên trong ắt có vô số nội tình, bèn hỏi dồn: “Sao lại bị hối hôn?”

    Biết rõ ngoài phố vắng hoe, song Chu Tử Tần vẫn cẩn thận nhìn quanh một vòng, thấy xung quanh thực sự không có ai mới ghé tai cô nói nhỏ: “Nó quen một tay trông rất giỏi trong giáo phường, chết mê chết mệt gã, còn tự thêu túi hương trao tặng, bị người ta bắt gặp, đồn ầm lên… Ôi cha, chuyện xấu trong nhà không nói lộ ra ngoài, các vị nhớ giữ bí mật đấy!”

    Hoàng Tử Hà gật đầu: “Có gì đâu, tặng cái túi hương thôi mà.”

    “Tóm lại cha ta suýt thì tức chết. Các anh trai ta đều nhậm chức ở các nha môn lớn, hoạn lộ thênh thang, tự dưng lại nảy ra hai đứa bất hiếu là ta và Tử yên, đúng là gia môn bất hạnh, ha ha ha…”

    Từ biệt Chu Tử Tần, Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà về quán trọ.

    Đêm đã khuya, cả hai chuẩn bị ai về phòng nấy, song vẫn nấn ná đứng lại ngoài sân nói vài câu.

    “Tiếp theo ngươi định điều tra thế nào?”

    “Trong các manh mối chúng ta lần ra cho đến giờ, đáng nghi nhất là cái chết của Thang Châu Nương. Quan phủ vừa định tìm đến thì bà ta chết ngay, nhất định bên trong có vấn đề. Sáng mai phải phái người đến ngay Hán Châu, tìm những người quen biết bà ta, xem có nghe ngóng được chuyện gì, truy ra nguyên nhân hung thủ hại bà ta không.”

    Lý Thư Bạch gật đầu bổ sung: “Những kẻ làm việc trong phủ quận thú khi trước cơ bản vẫn còn ở đây cả, song không có gì khác thường, xem ra cũng không ai được lợi từ cái chết của gia đình ngươi. Nếu muốn tìm hiểu nguồn gốc trẩm độc và kẻ hạ độc, hẳn phải mở rộng phạm vi điều tra, đồng nghĩa với độ khó tăng lên.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu, ngẩng lên nhìn bầu trời đêm tím thẫm. Vầng trăng chênh chếch, sông Ngân sà thấp, cả bầu không sáng rực như minh châu.

    Ngày ấy, cô cũng trốn đi vào lúc nửa đêm thế này.

    Cả nhà bỏ mạng chỉ trong một ngày, cô bị cho là hung thủ, hớt ha hớt hải trốn khỏi Thành Đô. Bấy giờ trăng nhạt sao thưa, cô chẳng trông thấy đường, chỉ biết nhắm hướng Bắc mà đi, hy vọng có thể nắm lấy một cơ hội mong manh nào đó ở kinh thành, rửa sạch oan khuất cho mình và người thân.

    Song thực ra bấy giờ lòng cô vô cùng tuyệt vọng. Tự thâm tâm, cô không tin có thể tìm được người giúp đỡ thậm chí cô đã thẫn thờ lang thang rất lâu dọc con đường núi âm u, ngỡ rằng đời mình từ nay sẽ chôn vùi trong bóng tối.

    Nào ngờ giờ đây, dưới sự giúp đỡ của người bên cạnh, cô lại có thể trở về Thành Đô, truy tìm chân tướng.

    Nghĩ đến đây, cô nhìn sang Lý Thư Bạch, ngắm nửa gương mặt trầm tư của y. Hàng mi hơi cụp che đi đôi mắt, khóe môi hơi nhếch lên thành một đường cong lạnh nhạt, song chỉ mình cô biết những khía cạnh chẳng để ai hay ẩn giấu sau dáng vẻ lạnh lùng ấy.

    Bằng không, khi lôi cô ra từ dưới ghế ngồi trong xe, trông bộ dạng lôi thôi lếch thếch, rõ ràng có thể đuổi đi, tại sao y lại chấp nhận điều kiện của cô, dẫn cô về Thục tìm chân tướng?

    Dường như, cảm nhận được ánh mắt của cô, y khẽ đưa mắt nhìn sang.

    Ánh mắt hai người giao nhau.

    Nhìn vào cặp mắt hun hút không thấy đáy, Hoàng Tử Hà có cảm giác ánh mắt y đang xoáy thẳng vào nơi sâu thẳm nhất trong lòng mình, tim cô đập rộn lên.

    “Nghỉ ngơi sớm đi, sáng mai phạm vi điều tra có lẽ sẽ rộng ra, ngươi phải chú ý ăn ngủ đấy.” Lý Thư Bạch dịu giọng dặn dò.

    “Vâng, gia cũng vậy.” Cô gật đầu.

    Hai người đang định về phòng thì nghe bên ngoài vang lên tiếng đập cửa ầm ầm, giữa đêm hôm, gần như đánh thức cả nửa con phố.

    Tiểu nhị đang gục mặt lên quầy say sưa ngủ đến chảy cả dãi thì bị đánh thức, cầm đèn dầu xông ra toan chửi cho một trận. Nào ngờ vừa mở cửa soi đèn, hắn đã nín khe, lúng túng cười hỏi: “Khách quan muốn nghỉ lại ư?”

    Một giọng khàn khàn hối hả đáp: “Bọn ta bị thương, ngươi lấy cho ta một gian phòng đi.”

    Hoàng Tử Hà nghe thấy giọng nói quen quen, vội đi ra. Lý Thư Bạch cũng đi theo: “Sao nửa đêm Trương Hàng Anh lại dẫn người đến quán trọ?”

    Chỉ thấy ngọn đèn nhỏ như hạt đậu chiếu lên người Trương Hàng Anh đang xăm xăm đi vào, vẻ mặt đầy lo lắng, còn đỡ một kẻ quần áo rách rưới.

    Trương Hàng Anh vốn cao lớn, giờ mặt lại loang lổ máu, nhìn rất đáng sợ, chẳng trách tiểu nhị không dám nặng nhẹ nửa lời, chỉ dè dặt khuyên: “Khách quan à, xem ra bạn của ngài bị thương nặng đấy, tôi thấy nên đưa đến thầy thuốc đi.”

    “Thầy thuốc hả? Thầy thuốc ở đâu?” Trương Hàng Anh hỏi.

    Tiểu nhị chưa kịp trả lời, Lý Thư Bạch đã buột miệng thốt lên: “Cảnh Dục.”
     
  17. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 9 - Cây ngọc điêu tàn
    Kẻ bị thương đang dựa vào người Trương Hàng Anh, thoạt nghe tiếng y thì run bắn, mái đầu nãy giờ rũ xuống khó ngọc ngẩng lên gọi khẽ: “Vương…”

    “Đúng rồi, chính là Vương Quỳ huynh, ngươi nhận ra rồi ư?” Hoàng Tử Hà đã lẻ đến bên cạnh Cảnh Dục tự lúc nào, lập tức ngắt lời.

    Dưới ánh đèn leo lét, mặt Cảnh Dục tái nhợt, hơi thở đứt quãng, chỉ có cặp mắt sáng rực vẫn không rời Lý Thư Bạch. Biết không thể để lộ thân phận Lý Thư Bạch, nên y cũng không nói gì thêm nữa.

    Lý Thư Bạch bảo Trương Hàng Anh đỡ Cảnh Dục vào phòng mình. Tiểu nhị nhìn hai kẻ máu bê bết đi vào, mặt than như bị, nhưng không dám ngăn cản.

    Hoàng Tử Hà buông một câu: “Ta đi tìm thầy thuốc.” Rồi mượn tiểu nhị một ngọn đèn lồng rách hối hả chạy ra ngoài.

    Cô thông thuộc đường sá nơi này như lòng bàn tay, chẳng mấy chốc đã chạy đến một hiệu thuốc ở góc phố, ra sức đập cửa.

    Thầy thuốc nhà đó rất nhiệt tình, nửa đêm có người mời đi chữa bệnh chưa bao giờ từ chối, nghe Hoàng Tử Hà nói có người bị trọng thương, bèn vội vã thu xếp hòm thuốc, theo cô ra ngoài.

    Hai người về đến quán trọ thì Cảnh Dục đã được đặt xuống giường, thay bộ đồ rách nát lấm máu ra, đắp chăn nằm thiêm thiếp.

    Thầy thuốc họ Địch bắt mạch xong thì lắc đầu: “Người này bị thương đã lâu, vết thương phần lớn đã thói rửa, cố chịu đựng đến giờ đã là mạo hiểm rồi, hôm nay lại bị thương lần nữa, vết thương cũ chưa lành còn thêm vết thương mới, e rằng không dễ chữa trị. Tôi tạm kê đơn, còn có thuyên giảm được hay không, phải trông vào sức khỏe của y.”

    Nói rồi, ông ta cởi quần áo của Cảnh Dục ra, phun rượu nóng lên lưỡi dao rồi hơ qua lửa để sát trùng, sau đó khoét những phần thịt thối trên vết thương.

    Hoàng Tử Hà ở bên ngoài nghe tiếng Cảnh Dục la hét, bất giác dựa vào tường, cắn chặt môi.

    Đám thích khách kia rốt cuộc là kẻ nào sai khiến? Điều động được người của kinh thành thập ty, còn lợi dụng cả Kỳ Lạc quận chúa, hơn nữa lại nắm rõ tất cả đường hướng của cô và Lý Thư Bạch, rốt cuộc là ai?

    Trước mắt cô hiện ra gương mặt đầy đặn ôn hòa tươi tắn của hoàng đế, sau đó lại đến cặp mắt nham hiểu như rắn độc của Vương Tông Thực. Nhưng, còn cả những kẻ nấp sau màn như Vương hoàng hậu, Quách thục phi, Bàng Huân, thậm chí cả Tây Xuyên tiết độ sứ Phạm Ứng Tích… Trần thế mênh mông, lòng người là khó đoán nhất, ai biết được kẻ nào miệng nam mô bụng bồ dao găm chứ?

    Chợt nghe tiếng cửa phòng hé mở, rồi Trương Hàng Anh bước ra. Gã lúng túng đi đến gần, nhìn cô vẻ ngập ngừng.

    Hoàng Tử Hà thấy vậy bèn nói: “Là tôi đây.”

    “Quả là Sùng Cổ…” Gã lẩm bẩm, đầu cúi gằm, đứng sừng sững trước mặt cô, dáng vẻ buồn đau khôn xiết.

    Hoàng Tử Hà thở dài hỏi: “Huynh làm sao gặp được Cảnh Dục?”

    “Tôi, vốn định lùng sực khắp đất Thục xem có thấy tung tích của A Địch không, nào ngờ hôm qua vừa ra khỏi phủ Thành Đô, đang đi trên đường mòn thì trông thấy một người cưỡi ngựa từ trên núi lao xuống. Đường mòn khá hẹp, tôi không tránh kịp, bị tông ngã lăn xuống vách núi…”

    Vách núi ở đó khá dốc, may sao Trường Hàng Anh bám vào một gốc cây, mới trụ vững được.

    Gã ngẩng đầu nhìn quanh, thấy mình đã ở rất gần đáy vực, bèn leo xuống uống ngụm nước, ngồi bên bờ suối nắn lại cánh tay vừa trật khớp.

    Bỗng nghe tiếng gầm của dã thú, Trương Hàng Anh ngoái lại thì thấy một con báo gấm nhào đến. Tay phải bị trật khớp vừa nắn lại, gã thầm biết không thể chống cự, bèn dứng phắt dậy toan chạy.

    Ngờ đâu con báo rất nhanh, nháy mắt đã sắp vồ được họ Trương, hàm răng nhọn hoắt nhằm thẳng cổ gã mà ngoạm. Gã đang chuẩn bị nhắm mắt chờ chết thì chợt có một hòn đá bay đến hất văng con báo ra.

    Trương Hàng Anh tiếc hùi hụi, giá hòn đá nọ to hơn có phải đã ném vỡ đầu con dã thú rồi không. Quay đầu nhìn lại, gã mới thấy kẻ ném đá cả người bê bết máu, tựa vào tảng đá lớn bên bờ sông, dường như bị trọng thương. Đã thế còn ném đá cứu mạng gã, kể cũng là tận sức rồi.

    Trương Hàng Anh vội chạy đến chỗ người nọ, cả hai dựa vào phiến đá lớn, liên tục nhặt đá ném vào con báo. Kẻ kia tuy đã kiệt sức, song nhắm rất chuẩn, còn Trương Hàng Anh tay phải bị thương nhưng vẫn còn tay trái, bờ suối chẳng thiếu đá, cả hai tha hồ ném cho con dã thú gầm lên thảm thiết.

    Con báo nọ cũng là đói quá mới phải vồ người, thấy đói thủ hợp sức, biết tự khó mà chống cự, đành mài móng xuống bãi rồi nhảy tót vào rừng.

    Đợi nó đi khuất, Trương Hàng Anh mới quay sang người kia: “Huynh đệ không sao chứ?” Nào ngờ kẻ kia hỏi lại: “Trương Hàng Anh… Sao ngươi lại ở đây?”

    Gã ngạc nhiên: “Huynh nhận ra tôi?”


    “Lại còn không… Ta… là Cảnh Dục ở phủ Quỳ…”

    “Dục công công dọc đường có kể cho tôi vài chuyện. Nghe nói sau khi vương gia gặp phải thích khách, công công bị lạc trong lúc phá vây, còn xui xẻo trúng tên. Cuối cùng chạy vào trong núi, nào ngờ mùi tanh máu lại thu hút dã thú…” Trương Hàng Anh lo lắng nhìn vào trong hạ giọng, “Khó khăn lắm mới chống chịu được đến giờ, mong rằng công công không sao…”

    Hoàng Tử Hà biết, tuy họ chỉ đi cùng nhau một ngày nửa đêm, nhưng từng chung vai chống địch, dọc đường dìu đỡ quay về đây, đã kết thành mối giao tình cùng chung hoạn nạn. Giống như cô và Lý Thư Bạch vậy.

    Trương Hàng Anh nhìn cô qua ánh đèn leo lét dọc hành lang, băn khoăn hỏi: “Hoàng… Dương huynh đệ sao lại ở đây?”

    “Dọc đường chúng tôi bị tập kích, để che giấu tung tích, đành tạm thời trọ lại đây.” Hoàng Tử Hà giải thích ngắn gọn.

    Bên trong, tiếng la của Cảnh Dục cũng ngớt dần, Hoàng Tử Hà vội đi lấy một chậu nước nóng, thấy thầy thuốc đã đi ra, bèn xăm xăm bưng vào trong. Trương Hàng Anh thấy vậy liền đón lấy: “Để tôi.”

    Gã ngồi xuống mép giường lau vết máu trên người Cảnh Dục, thấy khắp người y quấn băng chằng chịt thì chẳng biết phải bắt tay lau từ đâu nữa, đành lau qua tay và mặt cho y, lòng không khỏi đau xót.

    Lý Thư Bạch đã nhường phòng cho Cảnh Dục và Trương Hàng Anh, còn mình thuê một phòng khác, thấy máu me bê bết đầy giường, tiểu nhị chỉ chực khóc ròng, song hai gian phòng này được thuê dưới danh nghĩa Chu Tử Tần nên hắn cũng không dám cằn nhằn, chỉ dặn: “Khách quan nhớ trả thêm tiền đệm nhé.”

    Trời còn chưa sáng Hoàng Tử Hà đã trở dậy, rửa mặt chải đầu mặc quần áo xong xuôi bước ra đã thấy Lý Thư Bạch từ phòng Cảnh Dục đi ra, xoay tay khép cửa ròi bảo cô: “Hơi sốt, nhưng đỡ hơn hôm qua nhiều rồi.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu, thở phào nhẹ nhõm.

    Lúc hai người ăn sáng, Hoàng Tử Hà hạ giọng thì thào: “Đêm qua tôi sực nhớ ra một chuyện, phải thỉnh giáo gia.”

    Lý Thư Bạch gật đầu, ngẩng lên nhìn cô.

    “Người chết vì trẩm độc, ngoại trừ triệu chứng như trúng độc tỳ sương, còn dấu hiệu gì khác không? Ví như đầu ngón tay thâm đen chẳng hạn?” Lý Thư Bạch trầm tư hỏi: “Ý ngươi muốn nói đến vết đen trên ngón tay Phó Tân Nguyễn ư?”

    “Vâng.”

    “Có lẽ không có. Ta nghĩ vết đen đó do dính phải thứ gì đó thì đúng hơn.”

    “Vậy thì quả đáng ngờ. Phó Tân Nguyễn là nữ tử, dung mạo lại xuất xắc nhường ấy, gia nghĩ xem, một cô gái trước khi tự vẫn, lẽ nào không chăm chút thân thể mình, lại để đôi tay nõn nà như cọng hành non dính vết đen khó coi như thế?”

    Lý Thư Bạch gật đầu: “Nhắc tới chuyện này mới nhớ, hôm qua lúc tra xét hộp nữ trang của Phó Tân Nguyễn, ta thấy ngươi lộ vẻ chần chừ, lại phát hiện được gì rồi ư?”

    “Chuyện này nam nhân các vị không hiểu được đâu.” Cô nhìn quanh, thấy chỉ có hai ngươi họ ngồi trong góc, mới thì thầm: “Gia có nhớ không? Lúc chết Phó Tân Nguyễn vấn tóc vòng quanh, vận áo xám tro, quần xanh, đi hài tơ trắng.”

    Y gật đầu xác nhận rồi nhìn cô dò hỏi.


    “Tôi thấy tủ quần áo của Phó cô nương toàn màu xanh nhạt hoặc hồng phấn. Có thể thấy hàng ngày Phó Tân Nguyễn thích quần áo màu sắc tươi sáng. Chiếc áo màu xám tro đó, tôi thấy giống như đồ cũ đã phai màu, để làm quần áo mặc nhà, tùy tiện khoác lên thôi.”

    “Ý ngươi là trước lúc lâm chung, nữ tử thông thường đều sẽ thay đồ mới đẹp đẽ, chứ không mặc áo cũ như thế hả?”

    “Huống hồ cô ấy tự vẫn cùng tình nhân, lẽ nào lại bỏ qua cả tủ quần áo rực rỡ, chọn bộ áo cũ rung rúc ấy mà theo tình lang xuống suối vàng ư? Ít ra cũng nên chỉnh trang lại một chút chứ?” Nói đoạn Hoàng Tử Hà nghĩ ngợi một thoáng rồi lắc đầu tiếp: “Có điều bây giờ không thể võ đoán được, lúc đã quyết chết thì lòng như tro tàn, có lẽ cũng chẳng màng để ý mình mặc đẹp hay không nữa?”

    “Thế nên tiếp theo đây chúng ta phải điều tra xem, chuyện gì đã khiến bọn họ lòng lạnh như tro tàn?”

    Hoàng Tử Hà gật đầu rồi cùng y dùng bữa. Lúc cả hai ăn xong rời khỏi quán trọ, cô không kìm nổi quay sang nhìn y, vẻ ngập ngừng.

    “Nói đi.” Y lạnh nhạt lên tiếng.

    “Tôi chỉ thấy hơi lạ… Lẽ nào gia không để tâm vụ hành thích lần trước ư?” Nhìn y thong dong bình thản ngày ngày cùng minh đi khắp nơi điều tra thế này, cô cũng đâm ngờ, chẳng biết có phải mấy hôm trước mình từng bị ám sát, phải bôn ba trốn chạy hay không nữa.

    Y liếc cô: “Vội cái gì, chẳng bao lâu nữa lại có vụ sau đấy.”

    “Được thôi… đến thủ lĩnh thích khách gia cũng biết, hẳn đã có sắp xếp riêng, là tôi lắm lời rồi.” Vừa nói cô vừa lườm trả miếng.

    Lần đầu tiên thấy cô tỏ thái độ này, Lý Thư Bạch bất giác mỉm cười nghiêng đâu bảo: “Nói cho ngươi cũng chẳng sao, thực ra tên thủ lĩnh…”

    Bỗng y nhác thấy một người phía trước, câu nói đang dang dở ngưng bặt.

    Đối diện bên kia đường, áo xanh phất phơ, tiêu sái thoát tục, là Vũ Tuyên.

    Mà kẻ đang đứng trước mặt Vũ Tuyên, khiến hai người phải đưa mắt nhìn nhau, chính là em rể tương lai của Chu Tử Tần, Tề Đằng.

    Bấy giờ còn sớm, ngoài đường thưa vắng người qua, chẳng rõ hai kẻ này đứng nói chuyện gì. Vẻ mặt Vũ Tuyên rất khó coi, bất luận Tề Đằng nói gì, hắn cũng lắc đầu, thong dong mà kiên quyết.

    Hoàng Tử Hà đang do dự thì thấy Lý Thư Bạch vỗ nhẹ vai mình: “Theo ta sang đó.”

    Y dẫn cô băng qua đuờng, đi về phía hai kẻ kia.

    Hoàng Tử Hà cúi đầu lẳng lặng theo sau y, như một tiểu đồng.

    Khi đến gần hai kẻ nọ, Lý Thư Bạch dừng chân cạnh một gian hàng, họi: “Cho hai bánh hấp.”

    Đoạn họ quay lưng về phía hai nguời kia, vừa nhìn chủ quán vớt bánh vừa dỏng tai nghe ngóng.

    Tề Đằng thuyết phục: “Đây là tôi tiếc cho tài hoa của Vũ huynh thôi. Thực ra hằng ngày chúng ta ít khi qua lại, song tôi rất ngưỡng mộ học vấn của huynh. Hiện giờ cả nhà Hoàng quận thú đã chết, huynh chỉ trông vào mấy đồng tiền phụ cấp mà quận phát cho thì làm sao đủ? Phạm tướng quân mộ tài huynh, mới mời vào phủ tiết độ sứ, vừa bước vào đã là chưởng thư ký, sang năm đổi thành chi sử, tướng quân chính miệng hứa rồi.”

    Giọng Vũ Tuyên lạnh nhạt, tựa hồ hoàn toàn không nghe thấy điểm quan trọng mà Tề Đằng nói tới: “Nhà Hoàng quận thú vẫn còn một cô con gái.”

    “Hừ… Hoàng Tử Hà ấy à? Nếu ả dám quay về thì cũng chỉ có đường chết mà thôi. Kẻ độc ác giết hại cả nhà, còn kể đến làm gì?” Tề Đằng cười nhạt, ngữ điệu không mềm không cứng: “Trước đây chính huynh tố cáo ả với Phạm tướng quân, sao giờ còn nhắc đến?”

    Vũ Tuyên im lặng hồi lâu rồi đổi hướng đi thẳng: “Tôi có chút việc, xin lỗi.”

    Tề Đằng bước xéo qua, chặn hắn lại: “Huynh còn việc gì nữa hả? Tỉnh lại đi, người chết hơn nửa năm rồi, huynh còn tới một quét tước hóa vàng làm gì nữa? Chẳng qua chỉ là con nuôi, mà nói trắng ra ông ta thu nhận huynh là để sắp sẵn trợ thủ trên quan trường sau này thôi.”

    Giọng Vũ Tuyên chợt lạnh buốt, như băng va mặt nước: “Tôi là kẻ hèn mọn nào dám, nào dám thân cận với Phạm tướng quân? Nhờ huynh chuyển lời bẩm lại tướng quân, đời này kiếp này Vũ Tuyên chỉ là một kẻ quét mộ, không dám giẫm bẩn cửa của phủ tiết độ sứ!”

    “Ha ha, huynh thanh cao quá nhỉ!” Tề Đằng cười cợt, “Nghe nói lúc vào kinh làm học chính, cũng nồng nàn với Đồng Xương công chúa lắm, suýt nữa bám cạp váy trèo lên hoạn lộ thênh thang cơ mà? Tiếc rằng sông có khúc người có lúc, Đồng Xương công chúa đột ngột qua đời, huynh mới lủi thủi quay về Thục chứ gì? Về đây coi như quên hết mọi chuyện ở Trường An, lại định làm thánh hiền đấy à?”

    “Hai vị, bánh hấp xong rồi đây, cẩn thận kẻo bỏng.” Chủ quán dùng lá khoai bọc bánh, đưa cho mỗi người một cái.

    Thấy bàn tay giơ ra nhận bánh của Hoàng Tử Hà hơi run, Lý Thư Bạch bèn nhận luôn hộ cô, ghé tai nói khẽ: “Đừng lên tiếng, cứ lặng im xem.”

    Vũ Tuyên im lặng, thở dài, một lúc lâu mới thốt: “Đời này, tôi chỉ cầu không thẹn với lòng.”

    “Ha ha… Ha ha ha ha ha ha…”

    Tề Đằng phá lên cười ngặt nghẽo, suýt nữa xô đổ cả gánh đào bên cạnh. Đợi mấy gánh đào cạnh đó tránh đi hết, hắn mới trỏ Vũ Tuyên, cười hụt cả hơi: “Không thẹn với lòng… Ha ha ha, đương nhiên huynh không thẹn với lòng! Nếu thẹn, chắc huynh đã chết từ lâu rồi!”

    Vũ Tuyên không hiểu ý câu này, chỉ lạnh lùng nhìn Tề Đằng.

    Tề Đằng vỗ vào gốc đại thụ, vẫn chưa dứt cơn cười. Trong tiếng cười của hắn, Vũ Tuyên cảm thấy một luồng hơi lạnh tự đáy lòng từ từ bốc lên, lan ra tứ chi, cuối cùng đâm vào huyệt thái dương nhoi nhói, đau đớn vô kể.

    Vũ Tuyên ôm đầu, mạch máu trên đầu rần rật khiến hắn loạng choạng cơ hồ ngã lăn ra.

    Bên tai hắn, giọng Tề Đằng quỷ dị mà trào phúng: “Huynh có nhớ con cá đỏ của tôi đâu rồi không?”

    Vũ Tuyên ngạc nhiên mở to mắt, đôi mắt trong suốt sáng ngời nay trợn trừng lên, vằn đầy tia máu, kinh hoảng pha lẫn hoang mang, tựa hồ vừa nhác thấy một bí mật mà mình không dám khám phá.

    “Ôi chao, huynh xem, tôi chỉ bàn với huynh chút chuyện, ngờ đâu huynh lại phản ứng thế này.” Tề Đằng ngồi xuống vỗ vỗ má Vũ Tuyên: “Quay về nghĩ kỹ lại đi, tôi đợi tin huynh, dù sao… giao tình giữa chúng ta không vừa đâu.”

    Vũ Tuyên nghiến răng, gạt tay họ Tề ra.

    Tề Đằng lại phì cười, song không cười ngặt nghẽo hay chế nhạo như vừa nãy nữa, hắn đã lấy lại nụ cười ôn hòa bình thản mọi khi: “Đa nghi quá, tôi đâu phải Ôn Dương, sợ gì chứ.”

    Dứt lời hắn phất tay áo đi thẳng về phía phủ tiết độ sứ. Cuộc cãi vã thế là kết thúc, chỉ còn Vũ Tuyên loạng choạng đứng lên, gạt đám người xúm đông xúm đỏ xem náo nhiệt ra, lẳng lặng đi về phía cuối phố.

    Có kẻ chỉ trỏ sau lưng hắn bình phẩm: “Chẳng phải Vũ Tuyên đấy ư? Năm xưa cứ nói phủ quận thú gồm thâu cả nhật nguyệt, một người là thiên kim tiểu thư Hoàng Tử Hà, người còn lại là Vũ Tuyên, con nuôi quận thú. Đôi người ngọc này soi chiếu lẫn nhau, đều là hạng kinh tài tuyệt diễm, ai ai ở Thục cũng đem lòng ngưỡng mộ, nào ngờ mới vỏn vẹn mấy tháng, đã thành ra thế này.”

    Hoàng Tử Hà đứng lẳng lặng bên đường, thật lâu mới ngoái lại nhìn Lý Thư Bạch. Y đưa một chiếc bánh cho cô: “Đi thôi!”

    Bánh hấp ngọt ngào thơm nức, giờ vào miệng lại nhạt như nước ốc. Cô sực nhớ mình đã ăn sáng, song vẫn đờ đẫn cắn thêm miếng nữa.

    Lý Thư Bạch dẫn cô bám theo sau Vũ Tuyên.

    Vũ Tuyên cứ lầm lũi đi, sắp ra khỏi cổng thành mới cảm thấy đằng sau có người, bèn từ từ ngoái lại.

    Lý Thư Bạch buông một câu: “Chào.” Thái độ bình thản, như tình cờ gặp vậy.

    Vũ Tuyên khẽ gật đầu, đưa mắt nhìn Hoàng Tử Hà.


    Hoàng Tử Hà cũng không hiểu tại sao đến lúc này mình vẫn cầm khư khư cái bánh hấp, hơn nữa, đã vô thức ăn mất quá nửa. Cô bóp chặt chiếc bánh, vứt không vứt, ăn không ăn. chỉ bóp chặt trong tay, ngượng nghịu gật đầu chào hắn.

    Vẫn là Vũ Tuyên lên tiếng trước: “Hai vị đi đâu vậy?”

    Lý Thư Bạch đáp: “Chúng ta đến Thành Đô mấy ngày mà chưa kịp thưởng lãm phong cảnh quanh đây, hôm nay nhân lúc rảnh rỗi mới ra ngoại ô ngắm danh lam.”

    Vũ Tuyên cũng hùa theo: “Đúng đấy, chùa Quảng Độ trên núi Minh Nguyệt là di tích cổ ở Thục, trong khe núi có suối đá, có cả rừng trúc xanh mướt, cảnh đẹp vô cùng, rất đáng thưởng ngoạn.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu: “Chúng tôi cũng đang định tới bái phỏng Mộc Thiện đại sư.”

    “Mộc Thiện đại sư với tôi là chỗ quen biết, tôi có thể giới thiệu hai vị.” Nói rồi, hắn ra hiệu cho họ cùng đi thẳng ra ngoại ô.

    Đất Thục núi non hiểm trở, núi Minh Nguyệt lại càng cheo leo chót vót.

    Men theo bậc đá dưới chân núi, Hoàng Tử Hà đi sau Vũ Tuyên, từng bước leo lên, lại chạnh nhớ cũng tầm này năm ngoái, trời quang nắng ấm, họ từng lên núi Minh Nguyệt chơi.

    Bấy giờ hai người sánh vai cười nói, thoăn thoắt đi lên. Đến chỗ hiểm trở, cô hơi tụt lại sau, hắn bèn chìa tay ra.

    Có lúc cô không cần nhờ, buông một câu “Muội tự đi được” rồi vùng vằng trèo lên, toan vượt qua hắn; có lúc lại nắm lấy tay hắn, mượn lực nhảy qua hai ba bậc; có lúc cô lại ngắt một đóa hoa dại bên đường đặt vào tay Vũ Tuyên, vờ như không hiểu ý hắn.

    Loài hoa cô hái năm ngoái, nay vẫn nở đầy ven đường.

    Lúc ngang qua, cô vô thức ngắt một đóa, cầm trong tay, ngước nhìn hai người đi trước.

    Vũ Tuyên như trúc, Lý Thư Bạch như ngọc.

    Một kẻ là mối tình đầu ghi tâm khắc cốt, là rung động ban sơ thời thiếu nữ ngây thơ.

    Một người là chỗ dựa vững chắc, là sức mạnh nắm tay cô sánh vai chung bước.

    Một kẻ dường như đã thành quá khứ, một người tựa hồ còn chưa bắt đầu.

    Hoàng Tử Hà cúi đầu nhìn đóa hoa vàng mong manh rồi giơ tay ra để gió núi cuốn nó bay đến chân trời xa tắp.

    Cô thở hắt ra, như muốn gạt bỏ hết thảy tạp niệm, để những tâm sự rối ren của mình theo gió bay đi như đóa hoa kia.

    Còn chưa hoàn thành việc quan trọng nhất trong đời, sao cô có thể để những tình cảm vụn vặt ấy xâm lấn tâm tư.

    Cửa chùa Quảng Độ nằm ở lưng chừng núi, dọc theo thế núi đi lên lần lượt là các đại điện, cho đến tận đỉnh. Thế núi cheo leo, quy mô chùa lại quá lớn, từ lưng chừng núi đã chỉ thấy chùa không thấy núi, trùng trùng điệp điệp những tường vách phòng ốc, choán cả một vùng núi non.


    Mộc Thiện đại sư hiện là trụ trì trong chùa, ngụ trong thiền phòng hoa cỏ thâm u. Phía sau có một khe suối từ kẽ đá chảy ra, róc rách bao quanh thiền phòng.

    “Đấy chính là mạch nước chỉ trong một đêm biến thành con suối đấy ư?” Hoàng Tử Hà đi đến gần, cúi xuống quan sát nguồn suối. Vết đá nứt vẫn còn nguyên, rêu xanh xung quanh tróc mất một mảng, nước chảy róc rách.

    Lý Thư Bạch cũng khom người ngắm nghía, không khỏi phì cười. Hoàng Tử Hà ngoái lại nhìn y, nói khẽ: “Quả nhiên là con người làm ra.”

    Lý Thư Bạch ghé tai cô hỏi: “Cách làm vụng về thế này, sao hầu như ai ai ở Thục cũng tin vậy? Ngay cả Vũ Tuyên cũng tin răm rắp, chẳng phải lạ lắm ư?”

    Hoàng Tử Hà liếc Vũ Tuyên đứng dưới gốc quế cách đó không xa, rồi lại nhìn kẽ đá, gật đầu: “Đúng thế, kẽ đá này vẫn còn rìa nhọn lởm chởm kìa.”

    Hai người còn đang xem xét thì tiểu sa di đón khách đã bước ra: “Hai vị lần đầu đến đây ư? Hẳn là định gặp Mộc Thiện đại sư? Mời các vị xem, con suối này chính là chứng tích pháp lực vô biên của đại sư đấy.”

    Hoàng Tử Hà quay lại hỏi: “Nghe nói đây vốn là một mạch nước, chỉ trong một đêm đã biến thành con suối ư?”

    “Đúng thế! Hôm trước Mộc Thiện đại sư còn phàn nàn rằng mạch nước này nhỏ quá, đến sáng hôm sau tôi đang ngủ chợt nghe tiếng ào ào, vội trở dậy xem thì thấy nước đã tràn cả ra mặt đất! Nhìn mà xem, nước suối chảy mạnh thế cơ mà!”

    “Đột nhiên xuất hiện trong đêm à? Quả nhiên là thần tích!” Tiểu sa di càng thêm hãnh diễn, ưỡn ngực đáp: “Phải đấy! Các vị biết không, trước đây ở Thành Đô có Trần tham quân nổi tiếng sợ vợ, vợ ông ta rất dữ, dân chúng Thành Đô đều nghe danh, ngày nào ông ấy cũng bị vợ phạt quỳ, còn bắt đội bô…”

    Hoàng Tử Hà lúc trước từng nghe chuyện Trần tham quân, bèn thích thú phụ họa: “Chuyện này tôi cũng nghe nói.”

    Tiểu sa di tự đắc kể: “Nhưng giờ ông ta rũ bùn đứng dậy rồi! Giờ vợ ông ta lại sợ chồng như sợ cọp, ngày ngày bưng mân ngang mày, quỳ xuống hầu chồng dùng bữa!” Hoàng Tử Hà vốn không tin mấy thứ huyên thuyên, song vẫn làm bộ hào hứng hỏi: “Đại sư làm cách nào mà khiến bà ta đổi tính thế?”

    “Đại sư rất lợi hại, không đánh không mắng, chỉ gọi hai vợ chồng vào thiền phòng, múc một chén nước suối pha một bình trà, nhân lúc uống trà thì giảng cho họ vài đạo lý trong kinh Phật, nói có tình có lý, kết quả cọp cái thoắt chốc đã thành mèo con!”

    “Ồ! Mộc Thiện đại sư quả là pháp lực cao cường!” Hoàng Tử Hà lộ vẻ thành tín cùng kính phục: “Chẳng hay còn thần tích nào nữa không?”

    “Còn chuyện này nữa, liên quan đến tiết độ sứ Tây Xuyên Phạm tướng quân đó nhé! Chuyện này nổi tiếng Thành Đô, ai ai cũng biết!” Hai mắt tiểu sa di sáng bừng, gương mặt như tỏa hào quang, “Bấy giờ công tử của phạm tướng quân mê mẩn một ca kỹ, sống chết đòi đưa về nhà. Phạm tướng quân đánh không được mắng không xong, đành bó tay với cậu quý tử, nhưng đại sư chúng tôi vừa ra tay, chỉ nói mấy câu đã khiến Phạm công tử hồi tâm chuyển ý, vứt bỏ ả ca kỹ kia. Đủ thấy Phật pháp vô biên, gột rửa tâm linh, đại sư đại trí tuệ đại pháp lực, ngăn cản sóng dữ, khiến lãng tử quay đầu, bể khổ vô bờ, đại như nhà chúng tôi phổ độ chúng sinh…”

    Hoàng Tử Hà sốt ruột ngắt lời: “Mộc Thiện đại sư có ở đây không?”

    “Đại sư ở trong thiền phòng.” Tiểu sa di không nhận ra cô muốn kết thúc câu chuyện, vẫn chắp hai tay thao thao: “Nếu thí chủ thích nghe, tôi sẽ kể tiếp chuyện ả đanh đá ở ngõ Lưu Gia biến thành thục nữ, con bất hiếu trên phố Châu An hối cải…”

    Chẳng đợi tiểu sa di nói hết, Vũ Tuyên đã đi đến, dẫn bọn họ tới tham kiến Mộc Thiện đại sư. Hắn cầm một bình nước, gõ nhẹ lên cánh cửa khép hờ: “Pháp thể đại sư thế nào? Xin cho đệ tử Vũ Tuyên gặp mặt.”

    Giọng khàn khàn trầm thấp vang lên bên trong: “Vào đi.”

    Vũ Tuyên ngập ngừng một thoáng, rồi thưa: “Đệ tử dẫn theo hai người nữa, cũng muốn xin gặp mặt đại sư, là bổ khoái quận Thục… Vương Quỳ và Dương Sùng Cổ.”

    “Ồ…” Mộc Thiện đại sư chỉ thốt lên một tiếng, rồi trù trừ hồi lâu không đáp. Hoàng Tử Hà và Lý Thư Bạch cứ ngỡ đại sư sẽ từ chối không gặp, nào ngờ ông ta lại mở rộng cửa, chắp tay chào bọn họ: “Khách quý đến chơi, không kịp ra đón từ xa, mời vào mời vào.”

    Mấy người ngồi cả xuống. Tiểu sa di múc nước dưới suối ngồi một bên pha trà.

    Mộc Thiện đại sư khoác một tấm áo đã cũ, tay cầm chuỗi tràng mười tám hạt đã lần đến sáng bóng, râu bạc phơ, song mặt hơi tái, nhiều nếp nhăn và đồi mồi, không thể coi là đẹp lão.

    Ông ta áng chừng bảy tám mươi tuổi, đôi mắt sắc như dao hoàn toàn trái ngược với gương mặt già nua, nheo nheo mắt nhìn xoáy vào mọi người, khiến người ta thấy toàn thân nóng bừng lên.

    Hoàng Tử Hà cũng chắp tay hành lễ, thầm nghĩ cặp mắt vị hòa thượng này thâm độc thật, chẳng rõ có phải đã nhìn ra chuyện gì không.

    Cả ba được mời vào trong dùng trà.

    Mộc Thiện đại sư hiền hòa hỏi: “Hình như hai vị bổ khoái nói giọng phương Bắc?”

    “Đúng thế, chúng tôi đến từ Trường An.” Hoàng Tử Hà đáp.

    “Tình hình trong kinh giờ thế nào? Chẳng hay hai vị đến Thành Đô có việc gì?”

    Hoàng Tử Hà thuận miệng đáp bừa: “Nghe nói năm xưa đại sư từng vào kinh, tôi nghĩ giờ đây cũng chẳng khác khi ấy là bao.”

    “Sự đời thấm thoát, bãi bể nương dâu… Mười mấy năm trước khi lão nạp vào kinh, hoàng thượng cũng vừa đăng cơ, giờ đã tại vị mười mấy năm. Lão nạp dạo ấy còn khỏe, giờ thì yếu lắm rồi…” Mộc Thiện đại sư rù rì kể, vẻ cảm khái.

    Hoàng Tử Hà thản nhiên đáp: “Đại sư tinh anh quắc thước, bọn chúng tôi vẫn hằng ngưỡng mộ.”

    Mọi người uống trà, rồi tán gẫu vài chuyện tầm phào.

    Mộc Thiện đại sư già nhưng chưa lão, nói năng lưu loát, Hoàng Tử Hà đương nhiên càng không tiếc lời tán dương. “Chẳng trách Vũ huynh thường hay tới đây. Ở đây có trà, lại có cả đại sư, đúng là tuyệt diệu, có thể giúp người ta thanh tâm quả dục.”

    Mộc Thiện đại sư cười đáp: “Thí chủ nói sai rồi, thứ tuyệt diệu nhất ở chùa Quảng Độ này, không phải là trà và lão nạp đâu.”

    “Ý đại sư muốn nói đến mạch nước suối ở sau thiền phòng phải không?” Hoàng Tử Hà giơ tay búng nhẹ vào bình nước Vũ Tuyên đem đến: “Chẳng phải Vũ huynh hôm nay đến đây xin nước ư?”

    Thấy hai người nhắc tới, Vũ Tuyên bèn thưa với Mộc Thiện đại sư. “Nước này Vũ Tuyên xin để dâng cúng cha mẹ nuôi, xin đại sư tụng cho một biến kinh, để thành tịnh thủy.”

    Mộc Thiện đại sư ngồi khoanh chân trước bình nước, tay lần tràng hạt, lẩm bẩm tụng một biến kinh Pháp Ấn Phật Giảng Cho Hải Long Vương. Đoạn kinh rất ngắn, chỉ có hai ba trăm chữ, chẳng bao lâu đã tụng xong. Trong thiền phòng chỉ nghe tiếng rì tầm tụng niệm, đầy vẻ hiền hòa từ bi.

    Hoàng Tử Hà nghe ông ta tụng kinh, đến bốn câu “các hành đều vô thường, tất cả đều là khổ, các pháp không có ngã, tịch diệt an vui nhất”* thì không khỏi cúi xuống, lòng ngổn ngang muôn mối, hoang mang khó nói nên lời.

    *Phần dịch kinh Pháp Ấn Phật Giảng Cho Hải Long Vương lấy từ bản dịch của Tại gia Bồ tát giới Ưu bà tắc Nguyên Thuận. Mọi chú thích đều là của dịch giả.

    Đến khi Mộc Thiện ngừng tụng, thiền phòng vẫn lạnh ngắt như tờ, chỉ có mùi đàn hương thoang thoảng.

    Vũ Tuyên bưng bình nước đứng dậy cảm tạ Mộc Thiện đại sư rồi cáo từ. Trước khi đi, ánh mắt hắn dừng ở Hoàng Tử Hà, do dự hồi lâu, cuối cùng cũng lên tiếng chào hỏi: “Hai vị có muốn đi cùng không?”

    Hoàng Tử Hà chậm rãi lắc đầu: “Tôi sẽ đến bái tế cả nhà Hoàng quận thú, nhưng không phải bây giờ.”

    Vũ Tuyên lặng lẽ nhìn cô.

    Hoàng Tử Hà thong thả nói rành rọt từng chữ: “Nếu không thể rửa sạch mối oan cho họ, tôi còn mặt mũi nào tới gặp? Đợi khi nào phá xong vụ án nhà họ Hoàng, tôi sẽ tự tới trước mộ, lấy chân tướng cúng tế vong linh họ!”

    Vũ Tuyên gật đầu đáp khẽ: “Nên như thế.” Nói rồi, hắn chăm chú nhìn cô hồi lâu, thấy cô không nói thêm gì nữa, thì dặn dò: “Tôi đi trước, nếu có gì cần cứ đến vườn Tình tìm tôi.”

    Đợi Vũ Tuyên đi khỏi, Mộc Thiện đại sư nhìn chằm chằm Hoàng Tử Hà thật lâu rồi cười nói: “Thí chủ đến từ Trường An, song có vẻ rất coi trọng vụ án nhà Hoàng quận thú.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu: “Vợ chồng Hoàng quận thú có ơn với tôi.”


    Ơn nuôi nấng mười bảy năm, giờ con muốn báo hiếu mà cha mẹ đã khuất núi, cô nhìn ra cành cây lay động ngoài cửa sổ, buồn đau khôn xiết.

    Mộc Thiện đại sư vẫn nhìn xoáy vào cô, giọng trầm trầm mà chậm rãi: “Chẳng hay là… ân tình gì?”

    Nghe giọng nói dịu dàng, đầy vẻ ôn hòa bao dung, khiến người ta bất giác buông lỏng hết thảy phòng bị, Hoàng Tử Hà ngoái lại nhìn ông ta.

    Trên gương mặt tai tái đầy nếp nhăn và đốm đồi mồi, cặp mắt luôn nheo lại vì tuổi tác lúc này sâu hun hút như hai miệng hang, khiến cô khó mà rời mắt, tựa hồ sắp bị hút vào trong.

    Cô mơ màng buột miệng: “Là ơn lớn trên đời…”

    Mộc Thiện đại sư ngừng một lát rồi hỏi: “Thí chủ đến đây là vì cái chết của Hoàng quận thú ư? Ai phái các vị đến vậy?”

    Hoàng Tử Hà vẫn chưa hoàn hồn, vô thức đáp: “Tôi vì bản thân mình, cũng vì…”

    Chưa nói dứt câu, cô bỗng thấy mu bàn tay nóng giãy, buột miệng kêu khẽ, giơ tay lên nhìn.

    Thì ra Lý Thư Bạch rót trà vô ý làm bắn một giọt lên tay cô.

    Nước trà nóng giãy, làm tay cô nổi lên một đốm đỏ hồng. Cô vội xoa xoa mu bàn tay, nhớ lại những lời vừa đối đáp với Mộc Thiện đại sư, song chỉ thấy mông lung mơ hồ, chẳng biết là thật hay giả, nhất thời đầu chợt ngâm ngẩm đau.

    Lý Thư Bạch nắm lấy cổ tay cô qua lớp áo, nhìn mu bàn tay, thấy chỉ bị phỏng một đốm nhỏ, bèn nói: “Xin lỗi, lúc nãy ta rót nhanh quá, không để ý.”

    “Ha ha, trà này mới pha, hai vị lúc rót phải cẩn thận.” Mộc Thiện đại sư vẫn thản nhiên như thường, vừa nói vừa rót cho mỗi người một chén: “Mời hai thí chủ.”

    Lý Thư Bạch chỉ nhấp môi gọi là rồi đặt xuống.

    Hoàng Tử Hà hít sâu một hơi, gắng nén nghi hoặc trong lòng, phụ họa: “Quả là trà ngon, hình như không phải trà đất Thục, chẳng hay đại sư từ đâu mà có?”

    Mộc Thiện đại sư gật đầu cười đáp, vẻ hãnh diện: “Đây là trà Dương Tiễn, lấy ở chỗ Vương công công đấy.”

    “Vương công công ư?” Trong đầu Hoàng Tử Hà bỗng hiện ra hình ảnh viên hoạn quan áo tím âm hiểm ấy. Gương mặt trắng bệch như tuyết, ánh mắt lạnh buốt như rắn, chính là Vương Tông Thực quyền thế khuynh đảo triều đình.

    Mộc Thiện đại sư gật đầu: “Đúng thế, là Vương Tông Thực, đô úy giám quân của quân Thần Sách.”

    Giữa ngày hè nóng nực mà Hoàng Tử Hà vã mồ hôi lạnh.

    Dường như cô vừa trông thấy vực thẳm tăm tối nhất trên đời, còn bản thân đứng ngay bên mép vực, cúi nhìn xuống bóng tối sẵn sàng nuốt chửng mình bất cứ lúc nào.

    “Thì ra đại sư cũng quen biết Vương công công.” Hoàng Tử Hà gắng nén cảm xúc, cười nói.


    Khóe mắt chảy xệ của Mộc Thiện đại sư hơi rần rật, lộ vẻ đắc ý: “Không dám không dám, chỉ gặp mặt mấy lần mà thôi.”

    “Mười mấy năm trước đại sư từng vào kinh diện thánh ư?”

    “Phải, giờ tính ra cũng mười một năm rồi.” Ông ta bấm ngón tay tính toán, “Lão nạp vào kinh năm Đại Trung thứ mười ba, đến tháng Tám cùng năm thì rời kinh.”

    Tháng Tám năm Đại Trung thứ mười ba, chính là thời điểm tiên đế Tuyên Tông băng hà.

    Hoàng Tử Hà thản nhiên hỏi tiếp: “Chẳng hay đại sư vào kinh có việc gì?”

    “Bấy giờ long thể tiên đế bất an, nên lão nạp cùng mấy chục cao tăng các nơi được gọi vào kinh để cầu phúc. Lão nạp may mắn lọt vào mắt Vương công công, mới trở thành tăng nhân duy nhất được vào cung bái kiến thánh thượng.”

    Hoàng Tử Hà nghĩ ngay đến cha Trương Hàng Anh. Bấy giờ tiên hoàng bệnh nặng, có bệnh thì vái tứ phương, trong cung chẳng những triệu các danh y mọi nơi vào chẩn trị, còn cho mời nhiều cao tăng nổi tiếng vào kinh cầu phúc. Mộc Thiện đại sư ngày ấy là bậc đại đức lừng danh thiên hạ, nên được Vương Tông Thực mời vào cung.

    “Tiếc rằng tuy Phật pháp vô biên, nhưng Phật tính của lão nạp chưa đủ kiên định, cuối cùng cũng chẳng thể xoay trời chuyển đất.” Mộc Thiện đại sư thở dài than, “Hôm ấy lão nạp vào cung tụng kinh, tuy cũng giúp tiên hoàng tỉnh lại được một lát, song cuối cùng chỉ là hồi dương, chẳng bao lâu sau đã về trời…”

    Hoàng Tử Hà nhíu mày, nhớ rõ bấy giờ là cha Trương Hàng Anh dùng thuốc kết hợp châm cứu, mới khiến tiên hoàng tỉnh lại một lát, nhờ thế mà được ban thượng ngự bút, giờ đây Mộc Thiện đại sư lại ngang nhiên tranh công, tự dát vàng lên mặt mình.

    Bèn làm bộ phân vân hỏi: “Nhưng người trong kinh đều nói là nhờ một thầy thuốc ở Đoan Thụy Đường chữa trị, tiên hoàng mới tỉnh lại…”

    Mộc Thiện đại sư không ngờ cô lại biết chuyện năm xưa, nhất thời lúng túng, đành hàm hồ giải thích: “Ồ, lão nạp còn nhớ thầy thuốc đó, bấy giờ người đó đã đứng tuổi, cũng là kẻ lớn mật không sợ chết. Bao nhiêu thái y trong Thái Y Viện còn không dám dùng thuốc mạnh, sợ sức thuốc làm hại đến long thể, vậy mà ông ta cả gan nhận định rằng, nếu cứ kéo dài tình trạng hôn mê bất tỉnh thế này, chi bằng cứu chữa để bệ hạ tỉnh lại trong chốc lát, hòng trù liệu việc xã tắc về sau.”

    Lý Thư Bạch liền hỏi: “Long thể tiên hoàng quý giá vô ngần, ông ta chữa trị như thế, sao các thái y không ngăn cản?”

    Ánh mắt Mộc Thiện đại sư lóe sáng, song vẫn tránh né câu hỏi của y, “Bấy giờ long thể nguy ngập, tình thế bức bách, là Vương công công đưa ra quyết định.”

    Hoàng Tử Hà nhớ Lý Thư Bạch từng kể, trong vũng máu tiên hoàng khạc ra có một con A Già Thập Niết, không khỏi nhíu mày, định gặng tiếp, song lại thấy việc này hết sức quan trọng, không dám hỏi bừa. Lưỡng lự hồi lâu mới hỏi: “Thế nên khi tiên hoàng tỉnh lại, bên cạnh có đại sư, Vương công công và thầy thuốc Trương ở Đoạn Thụy Đường ư?”

    “À, lão nạp cũng nhớ ra rồi, thầy thuốc ấy họ Trương…” Mộc Thiện đại sư gật đầu, “Lúc thánh thượng tỉnh lại, chúng tôi đều tránh ở đại sảnh, cũng có hỏi họ tên nhau. Tiếc rằng nhiều năm trôi qua, cũng quên đi mất.”

    Hoàng Tử Hà lại hỏi: “Nói vậy thì đại sư và thầy thuốc Trương bấy giờ đều đợi ở đại sảnh ư?”

    Mộc Thiện đại sư ngập ngừng hồi lâu mới đáp: “Phải.”

    Lý Thư Bạch yên lặng không nói, song cả cô và y đều hiểu Mộc Thiện đại sư nói dối. Bấy giờ Lý Thư Bạch luôn túc trực ở đại sảnh, nếu Mộc Thiện đại sư đi ra, nhất định đã chạm mặt y. Song một kẻ trí nhớ siêu phàm như y lại không hề nhớ mặt ông ta, chứng tỏ hai người chưa từng gặp mặt. Cũng tức là, khi phụ hoàng y tỉnh lại, Mộc Thiện đại sư có lẽ đã ở ngay bên cạnh.

    Có điều hôm nay vội vã đến đây, lại dùng thân phận bổ khoái, hiển nhiên không thể hỏi rõ, nên hai người đều lờ đi không vạch trần.

    Thấy Lý Thư Bạch khẽ gật đầu với mình, Hoàng Tử Hà bèn chắp tay hành lễ cáo biệt: “Đa tạ đại sư ban trà ngon. Đã được thấy pháp dung, coi như cũng đạt thành tâm nguyện. Đệ tử không dám quấy rầy đại sư thanh tu nữa. Mấy hôm nữa lại xin đến bái phỏng.”

    Mộc Thiện đại sư đảo mắt nhìn lướt qua cô rồi tươi cười đứng dậy tiễn hai người ra cửa.
     
  18. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 10 - Nhiếp ly hồn phách
    Lúc lên núi là ba người, giờ chỉ có hai người họ xuống núi. Gió núi rin rít, đường mòn quanh co. Hoàng Tử Hà và Lý Thư Bạch bước trong im lặng.

    Đi đến bên sườn núi, trước mặt không còn gì ngăn trở nữa, hai người không hẹn mà cùng ngoái lại nhìn non nước mênh mang. Phía trước họ là chim bay ngang núi biếc, khói mây vắt qua trời.

    Thấy xung quanh vắng lặng không một bóng người, Lý Thư Bạch mới lên tiếng: “Mộc Thiện đại sư hình như biết thuật nhiếp hồn của Thiên Trúc.”

    “Thuật nhiếp hồn ư?” Hoàng Tử Hà trầm tư nhíu mày, hồi tưởng lại cảm giác mơ màng như đang nằm mộng khi nhìn vào đôi mắt sâu hút của Mộc Thiện đại sư.

    “Trước đây ta từng nhìn thấy một nhà sư người Hồ đến từ Tây Vực có thể dùng ánh mắt khống chế người khác, khiến người ta như mê như say, răm rắp nghe lời. Xem ra Mộc Thiện đại sư cũng học được thuật này, chỉ là chưa cao cường bằng nhà sư kia thôi.”

    “Ừm, nghe nói ông ta từng đi qua Tây Vực, chẳng biết có liên quan gì đến con A Già Thập Niết kia không.” Rồi như sực vỡ lẽ, từng nghe truyền thuyết về pháp lực vô biên của Mộc Thiện đại sư, cũng biết chuyện Phạm Nguyên Long con trai Phạm tiết độ mê mẩn ca kỹ, có điều chưa bao giờ liên hệ hai chuyện này với nhau cả. Giờ xem ra, có lẽ Mộc Thiện đại sư đã dùng thuật nhiếp hồn để lay chuyển tâm tư Phạm Nguyên Long. Thảo nào chẳng một ai nghi ngờ con suối nhân tạo kia, mấy cái gọi là con hư hối cả, gái dữ đổi tính, chắc cũng thế cả. Nếu ông ta dùng thuật này vào việc chính đáng thì cũng tốt.”

    “Song nếu năm xưa ông ta ở trong cung lại làm vài chuyện chúng ta không biết thì sao?” Lý Thư Bạch ngẩng lên nhìn cánh chim bay ngang núi, thở dài, “Nếu ông ta liên quan đến ngự bút của tiên hoàng, đến chứng điên của Ngạc thái phi và con cá trong vũng máu tiên hoàng khạc ra khi lâm chung thì sao?”

    Bấy nhiêu bí mật nghiêng trời lệch đất được y nhẹ nhàng thốt ra rồi tan đi trong gió, chẳng ai hay biết.

    Hoàng Tử Hà ngắm gương mặt nghiêng của Lý Thư Bạch, nét nào nét nấy đẹp đẽ mà xa xôi hơn cả ngàn dặm giang sơn, khiến cô nhất thời chẳng biết nói sao. Thật lâu, mới cất tiếng: “Bất luận thế nào thì núi Minh Nguyệt ở đây, chùa Quảng Độ cũng ở đây. Lần sau gặp lại Mộc Thiện đại sư, chúng ta sẽ chuẩn bị kỹ càng.”

    Hai người đi thẳng về phía Bắc, đến phủ quận thú.

    Đến giao lộ, Lý Thư Bạch đột nhiên ngoặt sang phía bên kia.

    Hoàng Tử Hà đi sau nhắc: “Gia lầm đường rồi.”

    “Không. Chỗ này cách vườn Tình chưa đầy trăm bước, chúng ta đến tìm Vũ Tuyên đi.”

    Vũ Tuyên. Hoàng Tử Hà lặng người, không ngờ Lý Thư Bạch lại chủ động tìm đến hắn. Cô vội rảo bước đuổi kịp y rồi hỏi: “Sao gia biết vườn Tình ở đây?”

    “Ở nha môn chẳng treo một tấm bản đồ Thành Đô đấy ư, ta có liếc qua.”

    Hoàng Tử Hà câm nín. Y chỉ liếc qua mà có lẽ còn thông thuộc đường sá hơn kẻ sống ở đây ba năm như cô.

    Vườn Tình trồng rất nhiều mai, đào, mận. Giờ đang cuối hạ, không phải mùa hoa nên chỉ có từng chùm mạch môn tím biếc nở rộ dưới hòn giả sơn, hàng thục quỳ khoe sắc bên giậu trúc là đáng xem.

    Vũ Tuyên đang xách thùng nước tưới hoa, thấy hai người đến thì gật đầu chào: “Xin đợi một lát, còn mấy luống nữa thôi.”

    Hoàng Tử Hà nhìn quanh hỏi: “Bác Lý giữ vườn đâu rồi?”

    “Cháu bác ấy bị ốm nên phải nghỉ ở nhà chăm sóc, ta đã nhận tưới hoa hai lần sáng tối thay bác ấy.” Nói rồi, hắn chỉ luống hoa phía trước, “Tưới hết chỗ kia là xong.”

    Hoàng Tử Hà lặng lẽ ra giếng múc một thùng nước, định giúp hắn tưới hoa.

    Nào ngờ Lý Thư Bạch đỡ lấy thùng nước từ tay cô, thản nhiên xách giùm, rồi dúi cho cô một cái gáo. Hoàng Tử Hà được chiều quá hóa sợ, quay lại nhìn y, chỉ thấy nét mặt y vẫn bình thản như thường, bèn nhận lấy gáo, múc nước trong thùng y xách tưới từng gáo xuống luống hoa.

    Thấy họ một xách một tưới tự nhiên như thế, Vũ Tuyên bất giác khựng lại, đứng lặng nhìn, thật lâu vẫn chưa định thần được.

    Mãi đến khi Hoàng Tử Hà ngoái lại hỏi: “Tưới bao nhiêu là đủ?”

    Hắn mới rời mắt, cúi đầu đáp: “Tưới nhiều chút đi, dạo này trời nóng, nếu không tưới nhiều đến trưa lại thiếu nước.”

    Hoàng Tử Hà vừa tưới hoa vừa hỏi: “Vườn rộng thế này chỉ một mình huynh lo liệu thôi à? Sao không nhờ thêm mấy người nữa?”

    “Giờ ta ở nhà nhàn nhã, chẳng có việc gì, lao động chân tay giết thời gian ấy mà.”

    “Trước đây phong cảnh vườn Tình đẹp nhất phủ Thành Đô, các quan lại đều tụ về đây, gần như ngày nào cũng có buổi họp mặt.” Hoàng Tử Hà phóng mắt nhìn ra vườn, vẻ tiếc nuối: “Tiếc rằng giờ trời nóng quá, chắc cũng chẳng ai đến thưởng ngoạn.”

    Vũ Tuyên gật đầu: “Giờ sen đã tàn quế chưa nở, trời lại nóng, dĩ nhiên không ai lui tới. Có điều tối qua còn có hội thả rượu theo dòng*, mọi người thắp nến chơi đêm, còn làm mấy bài thơ.”

    *Một thú chơi của người thời xưa. Mọi người ngồi hai bên bờ sông, rồi cho thả ly rượu từ thượng nguồn xuống, rượu trôi theo dòng nước, dừng lại trước mặt ai thì người đấy cầm lên uống.

    “Thả rượu theo dòng ư? Những ai tham dự thế?”

    “Có nhiều người trong thi xã của ta… chỉ thiếu Ôn Dương.”

    Hoàng Tử Hà hỏi dồn: “Nói vậy là Tề Đằng cũng đến ư?”

    Vũ Tuyên gật đầu: “Tề huynh còn bắt cả cá dưới suối đem về, bảo rằng muốn nuôi một con.”

    “Cá ư?” Hoàng Tử Hà và Lý Thư Bạch tóm ngay được điểm mấu chốt này, tuy ngoài mặt vẫn thản nhiên, song đều đưa mắt nhìn nhau.

    “Ừm, Tề Đằng thích nuôi cá. Trước đây huynh ấy nuôi một con cá đỏ, còn mua cả bình sứ về đựng, đem theo khắp nơi nói rằng đây là A Già Thập Niết hiếm có trên đời, giống hệt con của Quỳ vương gia.”

    Lý Thư Bạch thản nhiên hỏi: “A Già Thập Niết rất hiếm thấy, con của Tề Đằng phải thật không?”

    Vũ Tuyên cúi đầu tưới nước, miệng đáp: “Tôi không biết, song nghe Mộc Thiện đại sư nói là thật.”

    Hoàng Tử Hà sực nhớ, lúc sáng cô từng nghe Tề Đằng hỏi Vũ Tuyên, huynh có nhớ con cá đỏ của tôi đâu rồi không.

    Bấy giờ nét mặt của Vũ Tuyên méo xệch đi vì kinh hãi, trông mà phát khiếp.

    Cô múc từng gáo tưới cho khóm thục quỳ, thong dong hỏi lại: “Huynh có biết con cá đó của Tề Đằng… giờ ở đâu không?”

    Vũ Tuyên lặng người giây lát, đoạn đưa mắt nhìn cô, thấy cô vẫn bình thản nhìn mình thì gượng gạo hít sâu một hơi, đáp khẽ: “Ta không rõ nữa… Lâu lắm cũng chẳng thấy đâu.”

    “Bao lâu không thấy rồi?”

    Vũ Tuyên nghĩ ngợi thật lâu, mặt hơi tái đi: “Hình như khoảng… sau khi phủ quận thú xảy ra chuyện.”

    Hoàng Tử Hà ừm một tiếng, trầm ngâm. Lý Thư Bạch thấy cánh tay cầm gáo của cô đờ ra, bèn cầm lấy gáo từ tay cô, tiếp tục tưới.

    Chỉ còn Hoàng Tử Hà và Vũ Tuyên đứng dưới bóng thục quỳ, ánh mặt trời hắt bóng hoa lên mình cả hai, dập dờn lay động, thoắt sáng thoắt tối.

    Hoàng Tử Hà chợt thấy lòng đau nhói, vội ngoảnh mặt đi về phía Lý Thư Bạch.

    Để phá tan không khí ngại ngùng, Vũ Tuyên nói khẽ: “Ta nhớ trước đó mọi người từng đùa rằng, ngoại hiệu của Tề Đằng đừng gọi là Hàn Nguyệt công tử nữa, đổi phứt thành Dưỡng Ngư công tử cho rồi… Có điều về sau chẳng thấy con cá ấy đâu, nên cũng chẳng ai trêu nữa…”

    Hoàng Tử Hà dừng bước, nhận thấy có điểm không ổn: “Ngoại hiệu của Tề Đằng từng gọi là Hàn Nguyệt công tử ư?”

    “Đúng thế, Tề Đằng tên chữ là Hàm Việt, đồng âm với Hàn Nguyệt, sau khi Ôn Dương tham gia thi xã, mấy kẻ nhiều chuyện bèn trêu rằng Ôn Dương và Hàn Nguyệt đúng là trời sinh một đôi, từ bấy mọi người khi vui đùa đều gọi huynh ấy là Hàn Nguyệt công tử.”

    Hoàng Tử Hà chậm rãi ngẫm nghĩ rồi nhận xét: “Xem ra Tề Đằng cũng may mắn thật. Muội xem hồ sơ thấy năm ngoái huynh ấy vẫn đang bất đắc chí, giữ một chức chi sử hạng bét dưới quyền Phạm tướng quân, thế mà năm nay đã lọt mắt xanh Phạm tướng, đường mây mở rộng, chỉ vỏn vẹn mấy tháng đã được đề bạt làm phán quan rồi!”

    Vũ Tuyên gật đầu: “Đúng thế, ai mà ngờ được chứ?”

    “Huynh ấy thăng tiến nhanh như thế, có phải là nhờ người thân trợ giúp không?”


    “Ta không biết, có lẽ thế.”

    Luống cuối cùng trồng đầy nguyệt quế. Trời nắng gắt nên cây héo rũ, cành lá lưa thưa, chỉ lác đác vài ba bông hoa ủ ê.

    “Giống nguyệt quế này rất đẹp, mùa xuân năm nay đóa nào cũng to bằng cái bát, đủ cả hình, sắc, hương.” Vũ Tuyên vừa tưới vừa kể, “Ta nhớ Tề Đằng thích nhất loại hoa này.”

    Hoàng Tử Hà thuận miệng hỏi: “Tề Đằng thích nguyệt quế ư?”

    “Huynh ấy thích tất cả những loài hoa màu sắc rực rỡ. Trái lại Ôn Dương ghét những loài hoa lộng lẫy, ví như nguyệt quế, mẫu đơn, tú cầu, thục quỳ, vân vân…”

    Hoàng Tử Hà nghĩ ngay đến bức tranh tú cầu hồ điệp treo trong thư phòng Ôn Dương, bèn chậm rãi gật đầu hỏi: “Quan hệ giữa Ôn Dương và Tề Đằng thế nào?”

    Vũ Tuyên nghĩ ngợi hồi lâu mới đáp: “Cũng ít khi qua lại.”

    “Huynh thì sao?” Hoàng Tử Hà ngập ngừng hồi lâu, cuối cùng vẫn hỏi: “Trong hai người đó, huynh thân với ai hơn?”

    Vũ Tuyên ngoảnh mặt đi: “Tề Đằng từng cứu ta. Ôn Dương cùng ta bàn luận thư pháp, nhưng ta coi cả hai… đều là sơ giao thôi. Chơi cùng cũng được, không chơi cũng chẳng sao.”

    Hoàng Tử Hà hỏi dồn: “Tề Đằng cứu huynh lúc nào thế?”

    “Sau khi cha mẹ nuôi qua đời, ta nghĩ quẩn, tình cờ Tề Đằng đi ngang qua cứu được.” Hắn không muốn nói nhiều chỉ đáp qua loa, song cũng đủ khiến Hoàng Tử Hà lặng đi như bị rút cạn sức lực, một lúc lâu cũng chẳng biết phản ứng ra sao. Khó khăn lắm, cô mới nặn ra được mấy chữ: “Huynh… vì sao?”

    “Ta… không chịu đựng nổi, muốn trốn tránh…” Hắn ngoảnh đầu đi, đáp khẽ: “Đời này ta đã nếm nỗi đau nhà tan cửa nát một lần, không muốn chịu thêm… lần thứ hai nữa.”

    Hai mắt Hoàng Tử Hà cay sè, nỗi chua xót khôn tả từ từ quặn lên trong lòng, khiến cô gần như không kìm nổi nước mắt.

    Thấy mắt cô ầng ậng nước, Lý Thư Bạch sợ cô khóc òa lên, bèn nhắc nhờ: “Không còn sớm đâu, Tử Tần đang đợi ở nha môn đấy.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu, ngửa mặt lên hít một hơi thật sâu, nuốt nước mắt vào lòng.

    Thấy cô định đi, Vũ Tuyên liền hỏi: “Vụ án Ôn Dương… có liên quan gì đến cái chết của cha mẹ nuôi không?”

    “Ở Thành Đô này, không mấy người lấy được trẩm độc đâu. Hơn nữa còn có thể tiếp cận phủ quận thú, thì càng ít.” Nói đoạn, cô lắc đầu, “Song chỉ là cùng một loại độc thôi, cũng có thể tại muội đa nghi.” Thực ra còn một mối liên hệ nữa, chính là chiếc vòng hắn tặng cô. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, Hoàng Tử Hà quyết định giấu nhẹm.

    “Nói đến đây, ta lại nhớ ra một chuyện.”

    “Gì cơ?”

    “Ta biết một người, có lẽ có quan hệ với cung đình, có thể lấy được trẩm độc.”

    “Ai?”

    “Tề Đằng.”

    Đừng nói Hoàng Tử Hà, ngay Lý Thư Bạch cũng cảnh giác hỏi lại: “Tề Đằng từng tiếp xúc với người trong cung ư?”

    “Chuyện này ta không rõ, nhưng mấy hôm trước Vương Uẩn nhà họ Vương Lang Gia đến đây…” Nhắc tới cái tên này, hắn lại đưa mắt nhìn Hoàng Tử Hà.

    Tâm trạng Hoàng Tử Hà đang suy sụp nên mắt chỉ hơi sáng lên, đợi nghe tiếp.

    Vũ Tuyên do dự một thoáng rồi tiếp: “Hôm trước Tề Đằng dẫn y tới chơi, ta mới biết hóa ra mẹ Tề Đằng họ Vương, Tề huynh là anh họ xa của Vương Uẩn.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu lẩm bẩm: “Nhà họ Vương à…”

    Vương hoàng hậu ở trong cung, nếu muốn lấy trẩm độc, hẳn là thừa sức.

    Lý Thư Bạch trầm ngâm giây lát rồi nhìn sang cô, ánh mắt đầy phức tạp.

    Hoàng Tử Hà hiểu ý y. Vương Uẩn đến Thành Đô tìm Vũ Tuyên, đương nhiên không phải vì việc triều đình hay việc của nhà họ Vương, nguyên nhân duy nhất chỉ có một.

    Chắc hẳn tình cảnh lúc ấy cũng rất khó xử.

    Chính Hoàng Tử Hà cũng không hiểu mình đang nghĩ gì, chỉ thấy lòng ngổn ngang, đành ngẩng đầu nhìn lên trời cao, thở hắt ra bảo Vũ Tuyên: “Cám ơn huynh, chuyện này rất quan trọng, muội phải đến nha môn tìm Chu Tử Tần bàn bạc xem sao.”

    Nhớ lại chuyện Mộc Thiện đại sư hôm nay, Hoàng Tử Hà chần chừ hỏi: “Vũ Tuyên, muội hỏi này, huynh có biết Mộc Thiện đại sư hình như… biết thuật nhiếp hồn không?”

    Vũ Tuyên nhíu mày ngạc nhiên: “Gì cơ?”

    “Có thể huynh không tin, nhưng vừa rồi trong thiền phòng, quả thật ông ấy định moi chuyện gì đó từ muội.”

    Hoàng Tử Hà bình thản quan sát nét mặt hắn: “Dân chúng Thành Đô đều nói Mộc Thiện đại sư Phật pháp vô biên, phổ độ chúng sinh. Thực ra, những thứ gọi là thần tích đó, có lẽ chỉ là thuật nhiếp hồn thôi.”

    “Thuật nhiếp hồn…” Vũ Tuyên định nói gì đó rồi lại thôi, chỉ đứng yên bất động, hơi thở dần nặng nề hắn.

    Thấy hắn đứng sững, Lý Thư Bạch liền giải thích: “Thuật nhiếp hồn vốn truyền từ Tây Vực vào, nghe nói dưới thời Võ hậu từng có yêu nhân vào kinh, chỉ liếc một cái đủ khiến người ta phát điên phát dại, có cung nhân bị mê hoặc nửa đêm còn lẻn vào tẩm cung Võ hậu toan hành thích, may mà Thượng Quan Uyển Nhi hầu cận Võ hậu quơ được một thanh đoản kiếm ném ra chém chết thích khách, mới bảo vệ được Võ hậu. Về sau Địch công Địch Nhân Kiệt phá giải lớp lớp nghi vấn, vạch trần thuật nhiếp hồn của yêu nhân, thấy mọi chuyện bại lộ, yêu nhân nọ định phản kháng, nhưng bị giết chết. Từ đó về sau, dường như không nghe nói có ai biết thuật nhiếp hồn nữa!”

    Hoàng Tử Hà gật đầu bảo Vũ Tuyên: “Đúng thế, Mộc Thiện đại sư kia có lẽ là cao thủ về thuật đó, dù ông ta không có tai tiếng xấu, nhưng về sau trong giao tiếp huynh nên chú ý hơn, để khỏi bị ông ta thao túng.”

    Vũ Tuyên lặng lẽ gật đầu. Sắc mặt hắn vốn trắng tái, dưới ánh mặt trời càng sáng bóng lên, gần như trong suốt, đẹp đẽ vô cùng.

    Cả ba cùng rời khỏi vườn Tình. Hắn trầm lặng đi sau hai người thật lâu mới cất tiếng gọi: “A Hà…”

    Hoàng Tử Hà ngoái lại.

    Vũ Tuyên ngập ngừng mãi, gương mặt tái nhợt đầu do dự, phân vân và sợ hãi. Hồi lâu, hắn mới nói: “Lúc trước ta có nói muốn cho muội xem thứ này.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu: “Cái gì thế?”

    Hắn trỏ về phía Nam: “Ở trong thư phòng của ta, nếu giờ muội rỗi thì đi xem luôn.”

    Hoàng Tử Hà nhìn sang hỏi ý Lý Thư Bạch thì được y gật đầu. Thấy Lý Thư Bạch bằng lòng, Vũ Tuyên chẳng nói thêm nửa lời, quay lưng đi thẳng về phía khu nhà mình.

    Xưa nay đất Thục lắm hiền tài, để khích lệ sĩ tử phấn đấu, hương thân các huyện đều treo phần thưởng. Sau khi nho sinh Thành Đô thi đỗ, quan phủ sẽ phân cho nhà ở, hàng tháng còn phát lương, nhằm khuyến khích việc học hành.

    Vũ Tuyên chưa đầy mười chín tuổi đã đỗ giải nguyên, nức tiếng xa gần. Tuy cha cô lưu luyến không rời, nhưng vẫn phải để hắn dọn sang gian nhà mới được phân. Có lẽ cha cô cũng nghĩ con gái đã mười lăm mười sáu, lại có hôn ước, không nên quá thân cận với Vũ Tuyên.

    Căn nhà của Vũ Tuyên ở gần cầu Hàm Nguyên phía Đông thành.

    Trước cửa là một rặng đào trông dọc bờ sông, đến mùa xuân hẳn là rất đẹp.

    Hoàng Tử Hà chẳng nhớ nổi mình từng đến đây gõ cửa bao nhiêu lần nữa. Song cô biết,trừ Vũ Tuyên ra, cô là người thông thuộc cách sắp xếp bên trong nhất. Từ cổng đi vào, ngoài cùng là bức chiếu bích quét vôi trắng, sau đó đến giếng trời khá hẹp, một cái ao rộng chừng bốn năm thước vuông trồng đầy hoa súng, giờ đương cuối hè, chính là lúc hoa nở rộ. Qua khỏi cái ao là nhà chính. Bên trái có chái nhà, hành lang quanh co. Đi tiếp là tới nhà sau, ba gian thông nhau, thư phòng liền với phòng ngủ, ngăn cách bằng giá sách và giá bày cổ vật, phòng ốc rộng rãi và thoáng đãng.

    Cô từng cười bảo hắn, gian nhà nhỏ thế này chi bằng dọn về phủ quận thú ở quách, viện Tiết Lệ hắn từng ở còn rộng rãi đẹp hơn nhiều. Song hắn chỉ nằm dài trên sập, lấy sách đậy lên mặt che nắng, trầm giọng nói: “Xuất thân ta như thế, đời này kiếp này có tấc đất cắm dùi là may mắn lắm rồi. Nơi này rất tốt, người sống trên đời, dẫu là công hầu khanh tướng thì ăn ở nằm ngủ có đáng mấy chỗ đâu?”

    Giờ nghĩ lại thì, quả thật từ khi Vũ Tuyên chuyển đi, giữa họ đã bắt đầu xa cách. Cô bận bịu với các vụ án, hắn bận tụ họp giảng bài, thường thường mươi ngày nửa tháng cũng chẳng gặp nhau, dù ngày ngày vẫn viết thư, song chỉ càng làm tăng cảm giác xa cách.

    Bấy giờ hắn nói, A Hà, nếu muội không biết phá án có phải tốt không.

    Cô nổi trận lôi đình, như bị xóa bỏ ý nghĩa tồn tại, từ nay về sau không thể ngẩng cao đầu kiêu hãnh nữa vậy. Đó là lần đầu tiên họ cãi nhau kịch liệt, cô hầm hầm chạy về, thề rằng không bao giờ gặp hắn nữa. Vậy mà chỉ sáng hôm sau, hắn đã gõ cửa sổ, trao cho cô một nhành hoa quế và một chiếc hộp.

    Hương hoa quế ngọt ngào tỏa ngát cả khuê phòng cô, chiếc vòng trong hộp khiến bao nhiêu ấm ức cô nung nấu đêm qua thoắt chốc tan biến.

    Nó được làm đúng theo kiểu bọn họ đã thảo luận từ lâu. Hai con cá nhỏ ngậm đuôi nhau hệt như họ vậy, quấn quýt luyến lưu, mãi không xa rời.

    Hoàng Tử Hà vừa trầm tư hồi tưởng chuyện cũ, vừa theo Vũ Tuyên vào trong.


    Vòng qua bức bình phong quét vôi trắng, qua giếng trời đầy hoa súng, là đến thư phòng và phòng ngủ của hắn.

    Vũ Tuyên đi đến bên bàn, mở ngăn tủ, rút ở dưới cùng ra một phong thư, giao cho Hoàng Tử Hà.

    Thấy phong bì trắng trơn, không ghi tên người gửi, cũng chẳng đề tên người nhận, cô bèn đón lấy, ngước nhìn hắn dò hỏi.

    Vũ Tuyên chậm rãi giải thích: “Một hôm, ta từ chỗ Tề Đằng trở về thì thấy nó… ở trên bàn.”

    Phong bì không dán. Cô mở ra, bên trong chỉ có một tờ giấy hoa tiên màu trắng mỏng tang.

    Cô rút mảnh giấy mở ra đọc kỹ những con chữ quen thuộc trên đó.

    Mười mấy năm vui vầy, qua một đêm sóng gió bất ngờ, cả nhà chỉ còn một thân côi cút giữa đời, cũng chẳng muốn hai tay vấy máu sống nốt kiếp tàn. Yêu mà chẳng được, việc đời thường trái ý, muôn mối nghiệt duyên, vận mệnh hay đùa cợt. Kiếp sau chẳng biết, kiếp này đành thôi, hạ bút thành thư, cùng người từ biệt, trời xanh mưa gió, lìa bỏ thế gian.

    Hoàng Tử Hà nhìn vết mực đầm đìa trên giấy, những hàng chữ rối loạn khiến lưng cô vã mồ hôi lạnh, cả người đờ ra bất động.

    Bởi nét chữ này quen thuộc đến nỗi cô cảm thấy từng chữ giống như từng con quái thú đang nhe nanh giương vuốt với mình, lăm le nuốt chửng cả hồn phách ý thức cô.

    Đây là nét chữ của chính cô.

    Trên đời này, chẳng ai quen thuộc với chữ của cô hơn cô nữa.

    Cô bỗng thấy mỗi tấc da thịt trên người đều sởn gai ốc, từng lỗ chân lông đều rịn mồ hôi lạnh như kim đâm, hơi thở nghẹn lại, khiến cả người cô run bắn lên, sắc mặt thoắt xám ngoét.

    Vũ Tuyên nhìn cô, chậm rãi nói: “Ta nhận ra… Ta nghĩ, muội hẳn cũng biết.”

    Hoàng Tử Hà gắng hít một hơi thật sâu, nén dòng máu đang cuộn trào trong lồng ngực xuống nhưng vô ích. Nỗi kinh hoàng tối thượng trong nháy mắt đã bao trùm toàn thân cô, khiến cô chỉ muốn quay người bỏ chạy, thoát khỏi con sóng tối tăm đang ập xuống mình, thoát khỏi vực sâu thăm thẳm sắp nuốt chửng cô.

    Đầu ong ong lên, cô ném phong thư xuống, bịt chặt tai, gắng hết sức ép mình lấy lại lý trí.

    Rồi cô ngẩng phắt lên nhìn Vũ Tuyên trừng trừng, gằn từng chữ: “Đây là cái gì? Huynh có ý gì?”

    Hắn chăm chú nhìn cô không chớp, giọng trầm khàn: “Ý ta là, khi muội nhắc ta cảnh giác với Mộc Thiện đại sư… Có lẽ trước đây muội từng gặp đại sư?”

    Ai mà biết được? Thứ mà họ phải đối mặt có thể là thật, có thể là giả, có thể là nửa thật nửa giả.

    Ít nhất, cô cũng không hề biết mình viết ra bức thư này lúc nào, đặt trên bàn hắn như thế nào, rồi quên bẵng nó ra sao.

    Khi nhắc nhở Vũ Tuyên, cô thật không ngờ, chính mình cũng có những thứ không hề tồn tại trong ký ức, vô thức đã để lại những dấu vết mà bản thân chẳng phát hiện ra.

    Cô day day huyệt thái dương, song không ngăn được tiếng thở gấp.

    Vũ Tuyên nhìn cô, dịu giọng hỏi: “Muội… không nhớ ư?”

    Hoàng Tử Hà nghiến răng lắc đầu, song không thốt nổi lời nào.

    Tờ giấy hoa tiên rơi xuống đất nhẹ như tơ, không một tiếng động.

    Lý Thư Bạch nãy giờ chỉ đứng yên quan sát chợt nhặt nó lên, nhìn mấy hàng chữ không có tiêu đề cũng chẳng có lạc khoản, lặng lẽ đọc qua một lượt rồi chậm rãi hỏi: “Tử Hà viết cho ngươi đấy ư?”

    Vũ Tuyên không đáp, chỉ đứng lặng nhìn Hoàng Tử Hà.

    Hoàng Tử Hà gật đầu: “Đây là… nét chữ của tôi.”

    Vũ Tuyên nhắm mắt lại, gật mạnh đầu.

    Lý Thư Bạch săm soi kiểu chữ, thong thả vặn lại: “Trong thiên hạ, kẻ tập theo thư pháp Vệ phu nhân rất nhiều, sao lại bảo đây là chữ của ngươi?”

    Hoàng Tử Hà khẽ đáp: “Vì… từ nhỏ mỗi khi viết bộ ‘hiệt’, tôi hay viết thiếu hai nét ngang ở giữa. Tuy biết thế nhưng cố tật không sửa được, đành phải thêm vào, nên có dấu vết viết thêm…”

    Trên giấy có ba chữ có bộ “hiệt”, đều có dấu vết viết thêm.

    “Nhưng nét chữ của tôi, phong thư tôi viết, sao tôi chẳng biết gì cả…” Cả người Hoàng Tử Hà rũ ra như thể sức lực toàn thân bị rút cạn. Cô phải vịn vào chiếc ghế bên cạnh, từ từ ngồi xuống, hoang mang.

    “Đây là phong thư thứ hai muội gửi cho ta kể từ sau khi vụ án xảy ra.” Vũ Tuyên bình thản nói, “Sau khi cha mẹ nuôi qua đời, muội trốn khỏi Thành Đô, một hôm ta từ chỗ Tề Đằng trở về thì thấy nó trên bàn. Chẳng biết từ đâu ra, cũng chẳng biết muội gửi cho ta bằng cách nào, song ta nghĩ, hẳn muội có ý nghĩ thừa nhận tội trạng, quyết từ giã cõi đời.”

    Lý Thư Bạch xem xét kỹ nội dung bức thư rồi lạnh nhạt nhận xét: “Ta chỉ thấy bức thư này có ý từ giã cõi đời, chẳng thấy chỗ nào là thừa nhận tội trạng cả.”

    Vũ Tuyên lặng thinh, song Hoàng Tử Hà nghẹn ngào nói: “Chẳng lẽ “hai tay vấy máu” không phải là thừa nhận ư?”

    “Bức thư này còn rất nhiều nghi vấn, chúng ta cần phải cân nhắc kỹ rồi hẵng kết luận.” Lý Thư Bạch bình tĩnh gập tờ giấy lại, bỏ vào phong bì, giọng nói còn thản nhiên hơn thái độ.

    Vũ Tuyên chỉ nhìn nHoàng Tử Hà, khàn khàn nói: “Ta giữ bức thư này hơn nửa năm nay, chưa hề tiết lộ với ai. Hôm nay trao lại cho muội, nếu muội thật sự cho rằng mình… cho rằng Hoàng Tử Hà vô tội, thì hãy tiếp tục điều tra để cho ta, cũng là cho bản thân mình một câu trả lời.

    Hoàng Tử Hà nhét phong thư vào trong ngực áo, theo Lý Thư Bạch về nha môn Thành Đô.

    Vừa về đến nơi đã thấy Chu Tử Tần đang ngồi một tay cầm bánh bao một tay kia chầm chiếc vòng chạm đôi cá ngắm nghía, vẻ mặt rạng rỡ.

    Hoàng Tử Hà cảm thấy góc bì thư đang đâm vào vào da thịt mình, khiến cô vừa bất lực, vừa hoang mang.

    Lý Thư Bạch nửa cười nửa không liếc sang, thấy Hoàng Tử Hà thẫn thờ, y chợt ghé tai cô hỏi nhỏ: “Ngươi bảo khi nào thì nên nói thật với Tử Tần?”

    Nghe ra ý tứ trêu chọc trong câu nói của y, Hoàng Tử Hà chợt thấy tảng đá đè nặng lên ngực mình dường như cũng nhẹ bớt mấy phần, vô thức cự lại: “Kiếp sau đi!”

    “Kiếp sau gì cơ?” Chu Tử Tần thính tai nghe lọt câu này. Gã đứng phắt dậy đi về phía họ: “Các vị lề mề quá, tôi đợi lâu lắm rồi đấy.”

    Lý Thư Bạch liếc chiếc vòng trên tay gã: “Đợi chúng ta có việc gì?”

    “Thi thể Thang Châu Nương kia đã được đưa đến đây, cũng tìm được mấy người quen của bà ta ở Long Châu rồi, chúng ta mau đi tra xét xem!”

    Nói đoạn, Chu Tử Tần tay cầm vòng tay cầm bánh bao, vừa cầm vừa xăm xắn đi ra ngoài. Đầu bếp ló đầu ra trông thấy gã bèn gọi rối rít: “Bổ đầu, bổ đầu! Có bánh gạo này, lấy cái này nữa nhé?”

    “Ta thích bánh gạo lắm đấy!” Chu Tử Tần mừng như bắt được vàng, vội nhét ngay vòng vào ngực áo để rảnh tay cầm bánh gạo.

    “Chào Tử Tần, sớm quá nhỉ.” Bên cạnh chợt có người nói.

    Chu Tử Tần ngoái lại, ra là Tề Đằng đang bưng một chồng công văn, hẳn đến bàn công việc. Gã lập tức nhét bánh gạo vào miệng, chắp tay chào: “Ề ại a!”

    “Tay đệ bẩn thế kia lại cầm vào bánh gạo.” Tề Đằng đùa rồi giật ngay cái bánh bao trên tay Chu Tử Tần, song cũng không ăn, chỉ nhìn chằm chằm vào tay họ Chu: “Tay dính đầy bột gạo kìa, đệ định cứ để thế mà đi điều tra đấy à?”

    “Ồ…” Chu Tử Tần chớp chớp mắt, còn đang mãi ngắm bột gạo dính trên tay thì Tề Đằng đã ném phứt cái bánh gạo xuống rãnh nước bẩn, lại múc một gáo nước cạnh đó, gọi: “Lại đây rửa tay nào.”

    Chu Tử Tần xấu hổ, vội từ chối: “Đệ… Để đệ tự…”

    “Được rồi, đệ sắp thành anh vợ ta còn gì.” Tề Đằng vừa nói vừa dội liên tiếp hai ba gáo nước, đến khi tay Chu Tử Tần sạch bong mới chịu buông tha, quăng gáo nước dặn dò: “Tử Tần có biết đồ dùng của phụ nữ bẩn thế nào không? Đệ không nhìn thấy thôi, bề mặt dính toàn thứ bẩn thỉu đấy. Ta có một người bạn, thường mân mê chiếc vòng của người yêu mà âm thầm tưởng nhớ, một lần mải xem chưa rửa tay đã cầm trái cây ăn, kết quả vừa nôn vừa mửa vừa đi tả, suýt nữa thì mất mạng. Về sau mới biết người yêu của huynh ấy mua cái vòng từ tiệm cầm đồ, nghe nói là mấy tên vô lại đáng chết tháo nó từ một cái thây chết trôi đem đi cầm, đệ giữ khư khư vật này bên mình, còn vừa cầm xem vừa ăn, chẳng phải bẩn lắm ư?”

    Chu Tử Tần cười gượng, sờ sờ chiếc vòng qua lớp áo: “Tề đại ca, chiếc vòng này của đệ… còn mới, không phải lấy từ xác chết trôi đâu….”

    “Cẩn thận vẫn hơn! Chiều nay ta rảnh, để ta dắt đệ lên núi Minh Nguyệt xin Mộc Thiện đại sư ít tịnh thủy, thanh tẩy cái vòng này mới được!”

    Nói rồi hắn lại bưng chồng công văn lên đi thẳng vào nha môn.

    Chu Tử Tần lè lưỡi lẩm bẩm: “Sao lúc trước không nhận ra huynh ấy cũng mắc bệnh sạch sẽ nhỉ…”

    Hoàng Tử Hà nhìn chiếc bánh gạo bị ném xuống rãnh rồi trầm tư ngẩng lên, gặp ngay ánh mắt Lý Thư Bạch.

    Tự biết y chắc chắn không làm chuyện ấy, cô đành nhăn mặt gật đầu.

    Ba người vừa đi ra, chợt Hoàng Tử Hà ối một tiếng, cáu kỉnh vẩy chân lia lịa: “Giẫm phải phân chó rồi.”

    Chu Tử Tần quan tâm hỏi: “Không sao chứ?”

    “Không sao, may mà khô rồi, để tôi ra rãnh nước cọ đi.”

    Đoạn cô chạy thẳng về phía rãnh nước bẩn. Chu Tử Tần ơi ới gọi với theo: “Nhanh lên, ta đợi.”

    “Thôi đừng đợi, chúng ta đến tàu ngựa trước đi.” Lý Thư Bạch nói rồi xăm xăm đi thẳng.

    Chu Tử Tần ngoái lại nhìn cô, rồi hấp tấp đuổi theo y.

    Hoàng Tử Hà đến bên rãnh nước, vờ cọ đế giày, song mắt lại đảo quanh, thấy không có ai bèn nhặt một cành cây dưới đất chọc vào miếng bánh gạo vớt lên. May mà bánh gạo rơi xuống tảng đá nên chưa bị chảy nhũn ra.

    Cô ngắt một lá cải thảo, bọc bánh gạo vào cầm trong tay đi đến tàu ngựa gặp Lý Thư Bạch và Chu Tử Tần.

    Địch Ác vẫn đang được vỗ béo, vừa đắc ý ăn đậu vừa hằm hè bắt nạt những con ngựa khác. Cạnh đó là Na Phất Sa đang nằm giữa đống cỏ dưỡng thương, giương cặp mắt to nhìn quanh.

    Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà tuy đã hóa trang nhưng sợ Địch Ác nhận ra mùi nên cố ý đi đến tàu ngựa đối diện, chọn hai con ngựa bình thường.

    Đúng lúc họ cưỡi ngựa băng qua đường thì một con chó gầy gò dữ tợn từ trong ngõ lao ra sủa ông ổng. Đang muốn ngủ lại có người dâng gối, Hoàng Tử Hà tiện tay ném bánh gạo gói trong lá cải thảo ra. Con chó nọ hít hít mấy cái rồi ngoạm ngay một miếng, ăn cả lớp cải thảo bọc ngoài.

    Chu Tử Tần càu nhàu: “Ta không đời nào cho chó dữ ăn!”

    Hoàng Tử Hà đáp: “Tôi đang cần một con chó.”

    “Để làm gì thế?”

    “Mũi chó rất thính, nếu huấn luyện thuần thục có thể hỗ trợ phá án. Nhìn dáng dấp con này, chính là giống chó Tế* thuần chủng đó.”

    *Chó Tế: một giống chó săn ở Trung Quốc từ thời xưa, chủ yếu bắt nguồn từ đất Tế (khu vực cả tỉnh Sơn Đông và Thiểm Tây)


    Chu Tử Tần tức thì quay sang bảo thuộc hạ: “A Trác, mau bắt lấy nó cho ta!”

    Bởi vậy, khi họ đến nghĩa địa, đã thành ra ba người và một con chó.

    Lão quản trang thoạt trông thấy con chó gầy gò bẩn thỉu thì bật cười: “Thiếu bổ đầu muốn nuôi chó cứ bảo tôi! Con chó nhà tôi mới đẻ mấy con, xinh hơn con này nhiều!”

    “Lão thì hiểu gì? Nhìn con chó này xem, là giống chó Tề thuần chủng đấy!” Chu Tử Tần kéo dây buộc cổ, buộc nó vào cửa.

    Ông lão không dám tin vào mắt mình, vội ngồi thụp xuống nhìn thẳng vào mắt con chó, hồi lâu mới làu bàu: “Con chó này mà cũng gọi là chó Tế à? Rõ ràng là chó cỏ.”

    Chu Tử Tần sải bước vào nghĩa địa, thấy trong nhà xác đặt một thi thể phủ vải trắng, mấy bổ khoái đang đứng đó huyên thuyên, bên cạnh là mấy ông già bà cả mặt mày ủ rũ, hẳn là người thân của Thang Châu Nương.

    “Lại đây, tham kiến Chu thiếu bổ đầu mau lên!” Các bổ khoái quát gọi, rồi lần lượt giới thiệu với Chu Tử Tần đâu là hàng xóm, đâu là con cháu Thang Châu Nương.

    Chu Tử Tần nhanh nhẹn mở hòm đồ nghề ra, đeo găng tay vào, bắt đầu kiểm tra vết thương của Thang Châu Nương. Tay chân bà ta gãy nát, đầu bê bết máu, quả là bị ngã núi. Gương mặt cũng giập nát, chỉ còn nốt ruồi sau tai chứng minh thân phận.

    “Đây là những thứ bà ta mang trên người khi rơi xuống núi.” Các bổ khoái lại trình lên một tay nải.

    Chu Tử Tần thuận tay giở ra xem, thấy chỉ có mấy bộ đồ để thay đổi và một nắm tiền lẻ, gã bèn bỏ đó nhận xét: “Xem ra quả là đi đường sẩy chân ngã xuống núi.”

    Hoàng Tử Hà sực nhớ ra một chuyện, liền hỏi: “Bà ta chết khi nào vậy?”

    “Sáng hôm qua, khoảng… giờ Mão.”

    Giờ Mão. Hoàng Tử Hà nhớ ngay đến việc Trương Hàng Anh va vào một thớt ngựa phi như bay, bị hất văng xuống núi, áng chừng cũng khoảng giờ Mão hôm qua.

    “Phải rồi, Tử Tần, nghe nói gần đây vì chuyện Quỳ vương bị hành thích nên suốt dọc đường từ phủ Thành Đô đến Hán Châu đều có quân Tây Xuyên canh gác, dân chúng muốn đi vào cũng rất khó khăn phải không?”

    “Đúng thế, đoạn đường đó vốn tấp nập lái buôn, giờ quân Tây Xuyên lại nghiêm cấm cưỡi ngựa hoặc ngồi xe ngựa ra vào, những người đi bộ còn phải khám người, dân chúng oán than không ngớt.” Chu Tử Tần sực nhớ ra một chuyện: “Chẳng biết Trương nhị ca đã đến Hán Châu hay chưa? Ôi, Trương nhị ca thật đáng thương, thiên hạ rộng lớn biển người mênh mang, biết đi đâu mà tìm Tích Thúy đây!”

    Hoàng Tử Hà ngồi xuống quan sát vết thương của Thang Châu Nương, thấy gáy bà ta cũng bị giập nát, quả là thê thảm không nỡ nhìn, bèn đứng dậy quay sang hỏi Chu Tử Tần: “Công tử có muốn biết Trương nhị ca bây giờ ở đâu không? Hay để tôi tiết lộ nhé?”

    “Ta không tin!” Chu Tử Tần hừ mũi: “Lẽ nào Sùng Cổ có thiên lý nhãn thuận phong nhĩ, nắm được mọi hành động của Trương nhị ca ở tít tận Hán Châu ư?”


    Hoàng Tử Hà cười đáp: “Tin hay không thì tùy. Tôi chẳng những biết Trương nhị ca ở đâu, mà còn biết tay phải huynh ấy bị trật khớp, đang ở quán trọ sắc thuốc cơ đấy…”

    Chu Tử Tần tức thì nhảy dựng lên: “Cái gì cơ? Trương nhị ca đã bị thương, còn phải ở quán trọ sắc thuốc à?”

    “Đừng cuống, không phải sắc thuốc cho mình, không nghiêm trọng thế đâu,” Vừa nói cô vừa mở tay nải xem kỹ kiểu dáng và hoa văn quần áo của Thang Châu Nương. Chu Tử tần nóng ruột, đành quay sang nắm tay áo Lý Thư Bạch nài nỉ: “Vương huynh cho tôi biết đi, là chuyện gì thế?”

    Lý Thư Bạch nhìn Hoàng Tử Hà: “Trưa nay cứ theo chúng ta là biết.”

    “Hai người… Các vị đúng là làm tôi tức chết mà!” Thấy Chu Tử Tần như kiến bò chảo nóng, Hoàng Tử Hà bất giác nhoẻn cười nhìn Lý Thư Bạch vẻ tán thưởng.

    Thang Châu Nương góa chồng từ khi còn trẻ, người thân quen đến đây cũng chỉ có một đứa cháu và hai ba láng giềng.

    Một người hàng xóm gầy gò ăn mặc chỉnh tề, tay đeo nhẫn vàng, cười rất khó coi: “Tiểu nhân là lý chính phố Tùng Hoa. Thang Châu Nương vốn dĩ là người Thành Đô, năm mười bảy tuổi mới gả đến Hán Châu. Vợ tôi chơi với bà ấy từ nhỏ, có kể rằng chồng bà ta mất sớm, cuộc sống rất khổ sở, phải đi làm công nhặt nhạnh từng đồng. Về sau thấy Phó cô nương loan tin muốn tìm người làm, tôi bèn bảo bà nó, người ta trông có vẻ tử tế, chắc cũng không khó hầu hạ, lương tháng nhiều mà việc lại nhẹ nhàng, bà thử hỏi Thang Châu Nương xem, nếu muốn làm thì để tôi giới thiệu.”

    “Nói vậy thì ông chính là người giới thiệu Thang Châu Nương cho Phó Tân Nguyễn ư?”

    “Đúng thế. Nào ngờ mới được một năm lại xảy ra chuyện… Ôi, nhắc tới chuyện ấy, tôi với bà nó còn hối hận đây này. Mọi người đều nói gian nhà đó có vấn đề, chẳng những có hai người tự sát bên trong, mà ngay cả Thang Châu Nương cũng gặp nạn bỏ mạng, chẳng phải quái dị lắm ư?”

    Hoàng Tử Hà thấy sau lưng ông ta là một phụ nữ béo lùn phúc hậu, đang cúi đầu vần vò chiếc khăn tay, bèn hỏi: “Kia là người nhà ông ư?”

    “Bà nó nhà tôi đấy, Thang Châu Nương lúc trước là hàng xóm của bà ấy.”

    Hoàng Tử Hà liền hỏi bà ta: “Thang Châu Nương làm u già trong nhà họ Phó, có kể chuyện gì với các vị không?”

    Người đàn bà kia rõ ràng còn chưa hết kinh hãi trước thi thể giập nát đáng sợ của Thang Châu Nương, lấy khăn tay chặm mắt nghẹn ngào đáp: “Không có. Ngày lễ tết bà ấy thường đem quà cáp cám ơn bọn tôi đã giới thiệu cho chỗ làm tốt. Nghe nói… Nghe nói Phó nương tử rất ôn hòa, đồ ăn thức mặc đều chia cho bà ấy một phần, chưa bao giờ cắt xén tiền lương, công việc hằng ngày cũng nhàn nhã, chỉ quét tước dọn dẹp, lo ba bữa cơm mà thôi.”

    “Bà ấy có bao giờ nhắc đến khách khứa qua lại với Phó nương tử không?”

    “Thưa không… Lúc trước phó nương tử nhờ chúng tôi tìm người, cũng nói phải tìm người kín miệng, chắc hẳn Thang Châu Nương được chủ dặn dò nên không bao giờ nói mấy chuyện đó. Huống hồ… Huống hồ cô ấy là người trong làng ca múa, chúng tôi làm sao dò hỏi về khách khứa nhà người ta được?”

    Hoàng Tử Hà cho hai vợ chồng lý chính lui xuống, hỏi đến người tiếp theo.

    Là một người phụ nữ trung niên mặt mày vàng vọt, đeo tạp dề xanh, búi tóc cắm một cây trâm bạc bám bụi. Trông bà ta hết sức lúng túng, tay chân lóng ngóng chẳng biết đặt vào đâu, rõ ràng chưa bao giờ gặp phải chuyện này: “Tôi… Nhà tôi ở ngõ Điền Gia Hán Châu, xéo nhà Thang Châu Nương. Năm mười bảy tuổi chị ấy được gả đến đó, hai chúng tôi xấp xỉ tuổi nhau, nhà cũng gần, tính ra thì tôi còn phải gọi Thang Châu Nương là chị dâu.”


    “Gần đầy Châu Nương có về ngõ Điền Gian không? Có nói gì với bà không?”

    “Tháng trước có về, còn mừng rỡ khoe Phó nương tử nhà mình sắp thành thân. Tôi buột miệng nói hạng người đó đời nào gả được vào nhà tử tế, không ngờ chị ấy kể rằng đám đó rất tốt, lang quân tuy từng kết hôn, nhưng không có con cái, tuổi cũng còn trẻ, gia cảnh lại khá, Phó nương tử gả vào đó quả là phúc phận mấy đời.”

    “Bà ấy có kể gì về vị lang quân kia không?”

    “Không… Tôi… Tôi quan tâm tới chủ của Châu Nương làm gì chứ? Huống hồ chúng tôi chỉ trò chuyện được mấy câu thì cháu đằng nhà mẹ của Châu Nương đến, tôi cũng vội về nhà nấu cơm, thực không ngờ… Đó lại là lần gặp cuối cùng…”

    Thấy bà ta líu ríu kể lể, Chu Tử Tần bèn cho lui, rồi gọi cháu của Thang Châu Nương lại.

    Cháu Thang Châu Nương tên gọi là Thang Thăng, chừng hơn hai mươi tuổi, bộ dạng lông bông, mỗi khi cười trông mặt như bị rút gân, nhìn kiểu gì cũng thấy đáng ghét.

    “Cô tôi ấy à? Phải phải, tháng trước tôi có gặp, xin bà ấy cho thêm ít tiền cưới vợ. Ai ngờ bà ấy chỉ nặn ra có hai quan tiền, chậc chậc…” Thang Thăng vung vẩy túi tiền, tỏ vẻ xem thường, “Làm người hầu trong nhà tử tế đã chẳng phải chuyện hay ho gì, huống hồ bà ấy lại hầu hạ một kỹ nữ Dương Châu, mất mặt biết chừng nào! Nếu không nể tình bà ấy đánh cho vợ chưa cưới của tôi một đôi trâm bạc, tôi còn chẳng muốn nhìn mặt nữa ấy chứ!”

    Hoàng Tử Hà hỏi: “Chuyện đánh đôi trâm bạc là thế nào?”

    “Chuyện từ lâu rồi mà, chẳng phải bà ấy và ả kỹ nữ kia đều chết cả rồi ư? Hôm đó cô tôi vừa thu dọn mọi thứ xong xuôi đi ra ngõ thì gặp tôi đi về. Nhà tôi ở ngay ngõ Song Hỉ bên cạnh ấy.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu, thầm hiểu đó chính là nhà mẹ đẻ Thang Châu Nương.

    “Thấy tôi, bà ấy vội gọi giật lại rồi lục tìm trong tay nải, bảo có thứ này cho tôi. Tôi còn tưởng là cái gì hay ho, bèn đứng lại đợi. Bà ấy lục lọi một hồi, tôi thấy bà ấy lôi túi tiền ra được nửa chừng thì lại nhét vào nói, để ta đem về Hán Châu, đánh một đôi trâm bạc cho vợ chưa cưới của cháu nhé. Tôi cứ tưởng thật, song về nhà nghĩ lại mới thấy bà ấy lỡm mình. Tiệm bạc trong phủ Thành Đô nhiều vô số, nếu có lòng thì việc gì phải lặn lội đi tận Hán Châu mới đánh được, rõ ràng là tiếc tiền, chỉ đãi bôi với tôi thôi.”

    Hoàng Tử Hà dừng ghi chép, xem lại biên bản một lượt rồi hỏi: “Cô ngươi lúc đó đã nói: ‘Để ta đem về Hán Châu đánh một đôi trâm bạc cho vợ chưa cưới của cháu nhé’ ư?”

    “Đúng thế.” Thang Thăng gật đầu, “Sau khi về nhà tôi đã nhẩm đi nhẩm lại câu này mấy trăm lần, không sai một chữ, càng nghĩ càng thấy giả tạo.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu, lại hỏi: “Bà ấy có kể chuyện gì với các ngươi không? Ví như những người Phó nương tử thường qua lại, hay cuộc sống thường ngày chẳng hạn?”

    “Không hề, bà ấy lấy chồng mấy chục năm rồi, có về nhà cũng chỉ là về thăm bà nội tôi. Giờ bà nội tôi đã già rồi, chẳng khác gì phỗng đá, nói gì cũng không nghe thấy, mỗi tháng bà ấy chỉ đáo qua biếu bà nội ít tiền, thế thôi.”

    Xem ra Thang Châu Nương sống cũng chẳng sung sướng gì, họ hàng không ai đến nhận xác, chỉ có đứa cháu trai ngó qua thi thể một lượt rồi xác nhận: “Chắc là đúng rồi. Ối chà, nhà chồng bà ấy hết người hay sao mà gọi nhà mẹ đẻ đến nhận xác?”

    Chu Tử Tần chen vào: “Nếu nhà chồng bà ấy còn người thì gian nhà đã bị họ thu lại rồi, chứ còn đến bây giờ ấy à?”

    Thang Thăng nghe vậy thì sáng mắt lên: “Nhà bà ấy chưa bị thu hồi ư?”

    Hoàng Tử Hà lạnh nhạt đáp: “Người chết không con cái, nếu hàng cháu đứng ra lo liệu việc chôn cất thì có thể kế thừa sản nghiệp.”

    Thang Thăng vội nói ngay: “Tôi là cháu ruột bà ấy, sửa soạn tang ma cho cô mình cũng là việc nên làm mà.”

    “Vậy thì tốt, ngươi về lo mua quan quách, chọn sẵn đất chôn cất đi. Chừng nào chôn cất xong xuôi thì đến nha môn lấy giấy tờ đất.”

    Sau khi tống tiễn Thang Thăng, Chu Tử Tần hỏi Hoàng Tử Hà: “Triều ta có luật này ư?”

    Hoàng Tử Hà lắc đầu: “Không có. Nhưng công tử có thấy, vừa nghe nói còn một gian nhà, ‘bà ấy’ đã lập tức biến thành ‘cô mình’ hay không?”


    Chu Tử Tần hậm hực: “Tốt nhất là nghĩ ra cách gì đó khiến người này xôi hỏng bỏng không.”

    “Được được, gian nhà nát trong hẻm ở Hán Châu, trừ chi phí tang ma thì chỉ bằng một đôi trâm bạc thôi.” Nói rồi, Hoàng Tử Hà đọc lại bản khai của mấy người kia một lượt.

    Chu Tử Tần sốt ruột hỏi: “Tiếp theo đây Sùng Cổ rảnh không? Mau nói cho ta biết Trương nhị ca thế nào rồi?”

    “Đừng nôn nóng, dẫn công tử đến xem là biết mà.” Hoàng Tử Hà sắp xếp biên bản lời khai vừa ghi chép rồi gập lại.

    Bấy giờ Lý Thư Bạch mới vươn tay cầm lấy giở ra săm soi nét chữ cô.

    Vẫn là những con chữ y đã quen, thể tiểu khải trâm hoa*, thanh nhã tú lệ, song vì viết nhanh nên hạ bút và thu bút đều khá vội vã.

    *một dạng chữ Khải, tương truyền do Vệ phu nhân đời Tấn sáng tạo ra.

    Lý Thư Bạch nhíu mày, nhìn lướt qua mấy hàng chữ, ánh mắt bỗng lạnh băng.

    Hoàng Tử Hà hỏi khẽ: “Thế nào?”

    Y trả bản lời khai lại cho cô, “Quan tâm quá ắt loạn, dính dáng đến người nhà, quả nhiên ngươi không giữ được bình tĩnh.”

    Hoàng Tử Hà cau mày, lại giở ra xem lại.

    Chu Tử Tần ngồi bên hỏi ngay: “Gì cơ? Vụ này dính dáng đến người nhà ai vậy? Không phải là tên Thang Thăng kia đấy chứ?”

    Lý Thư Bạch gật đầu, thuận miệng đáp: “Chính xác.”

    Hoàng Tử Hà lật xem những hàng chữ mình viết ra, gắng nén kinh sợ, nhưng ánh mắt vẫn lộ ra vẻ bàng hoàng pha lẫn hồ nghi, bất giác bước chậm hẳn lại.

    Lý Thư bạch ngoái nhìn, dừng một lát rồi đi đến bên cạnh, vỗ nhẹ vào vai cô: “Đến phủ quận thú hẵng so lại.”

    Cô miễn cưỡng gật đầu, gập bản lời khai lại, như trốn tránh.

    Thấy ba người ra khỏi nghĩa địa, con chó xấu xí gầy gò bẩn thỉu mừng rỡ nhảy lên sủa ầm ĩ.


    Hoàng Tử Hà nhìn sắc trời, lại nhìn sang con chó, vẻ ngạc nhiên.

    Lý Thư Bạch ghé tai thì thầm: “Không ngờ ngươi cũng có lúc tính lầm.”

    Hoàng Tử Hà lườm y: “Tôi nói nuôi con chó này để giúp tra án thôi mà!” Mấy bổ khoái cưỡi ngựa dắt theo một con chó xấu xí chạy rầm rập qua phố khiến người đi đường đều phải liếc mắt nhìn, có kẻ thấy con chó kia thì che miệng cười thầm, có người lại cười phá lên hỏi Chu Tử Tần: “Chu thiếu bổ đầu, con chó này mắc tội gì mà bị cả đám bổ khoái các vị giải đi diễu phố vậy?”

    “Phì, bổ đầu đại gia ta nuôi con chó Tế giúp phá án, mắt mũi các ngươi để đâu thế hả?”

    “Ra là chó Tế của bổ đầu, sao giống chó cỏ thế?”

    “Ha ha ha… nhìn thân mình nó dính đầy bùn đất, ngươi nhận ra được hình dạng thật à? Không chừng tắm rửa sạch sẽ lại đúng là chó Tế ấy chứ?”

    “Nếu đúng là chó Tế, tôi sẽ nuốt sống nó!”

    Đi đến góc phố, đúng chỗ Nhị cô nương nọ bày sạp bán thịt dê, vừa trông thấy con chó, cô ta bèn quăng cho nó một dẻ sườn. Con chó mừng rỡ lao ngay đến, khiến Chu Tử Tần đang dắt nó suýt nữ ngã nhào, còn đang loạng choạng đã bị nó kéo xềnh xệch đến trước sạp thịt, không kịp thu chân lại, cả người va vào sạp đánh rầm, khuỵu xuống.

    Nhị cô nương xách dao chặt xương cười cười nhìn gã: “Chu thiếu bổ đầu việc gì phải hành đại lễ như thế?”

    Chu Tử Tần bưng cái mũi nhức nhối, đau ứa nước mắt: “Nhị cô nương, chẳng phải ta đã bảo cô không được ngang nhiên bày sạp giữa phố hay sao? Dù gì… Dù gì cũng đừng chìa ra mặt đường thế chứ?”

    Nhị cô nương thản nhiên đẩy xe thịt dạt vào bên đường chừng hai ba thước rồi châm chọc; “Tôi có dạt vào đây thì Chu thiếu bổ đầu vẫn quỳ mọp trước mặt tôi thôi.”

    Chu Tử Tần nhăn mặt: “Ít ra… cũng không tha thiết quỳ sụp trước gấu váy cô như thế.”

    Nhị cô nương kéo gấu váy đã cũ, trừng mắt lườm gã rồi nhặt một dẻ sườn to hơn quăng ra: “Đi!”

    Con chó mừng như điên, lao vọt tới, Chu Tử Tần đang bò lồm cồm dưới đất bị nó kéo lê hơn hai trượng, cuối cùng tóm được một thân cây, buộc nghiến nó lại mới thôi.

    Trong tiếng cười ồ của cả con phố, Chu Tử Tần tức tối gỡ phăng sợi dây buộc cổ chó khỏi tay, xoa xoa khuỷu tay và đầu gối xước xát, xông đến trước mặt Nhị cô nương, vỗ sạp thịt hùng hổ: “Cô!”

    Nhị cô nương vớ ngay con dao chặt xương, bình thản nhìn gã: “Tôi làm sao?”

    Chu Tử Tần nhìn con dao rồi lại nhìn gương mặt trắng trẻo thanh tú của Nhị cô nương, há miệng ra, rồi lúng túng giơ tay lên, lùi lại: “Ta… Ta chỉ định bảo, sau này cô bày sạp ở đây được rồi, đừng chìa ra phố chắn đường xe cộ người ngựa qua lại.”
     
    Chỉnh sửa cuối: 24/8/17
  19. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 11 - Rồng lửa phấp phới
    Trong tiếng cười rộ khắp phố, rốt cuộc Chu Tử Tần cũng theo họ đến quán trọ, chạy thẳng ra nhà sau, thấy siêu thuốc đang đặt trên bếp lửa, Trương Hàng Anh ngồi trên ghế con, vừa quạt lửa vừa hé nắp ra xem.

    “Trương nhị ca!” Chu Tử Tần gọi toáng lên chạy ù vào, suýt hất văng siêu thuốc: “Chẳng phải huynh đến Hán Châu rồi ư? Sao lại ở đây?”

    Trương Hàng Anh giật nảy mình, vội vòng tay che cho siêu thuốc: “Cẩn thận, sắc thêm lát nữa là được rồi.”

    “Xảy ra chuyện gì thế? Huynh bị ốm à? Hay là bị thương?”

    Thấy Trương Hàng Anh lắp bắp mãi không kể rõ đầu đuôi được, Hoàng Tử Hà bèn chen vào đáp thay: “Trương nhị ca và một người bạn giữa đường gặp chuyện, nên huynh ấy đưa bạn quay lại đây.”

    “Bạn nào vậy? Hình như Trương nhị ca chỉ đi có một mình thôi mà.” Chu Tử Tần ngó vào phòng, tức thì giật bắn mình, “Cảnh Dục ư?”

    “Chu thiếu gia.” Cảnh Dục nằm trên giường quay ra gượng cười với gã, rồi vội vã sửa lại: “À à, không phải, là Chu bổ đầu.”

    “Công công cũng thoát được ư? Sao lại ở đây?”

    “Tôi… đương nhiên là ở cạnh gia vẫn hơn.” Cảnh Dục nhìn Lý Thư Bạch nói khẽ, “Có điều… giờ nô tài thế này, e rằng lại làm liên lụy đến gia…”

    “Đừng nói những lời này.” Lý Thư Bạch cắt ngang. “Yên tâm tĩnh dưỡng đi.”

    Cảnh Dục khó nhọc gục gặc đầu đầy cảm kích. Trương Hàng Anh bưng bát thuốc đi vào: “Hồi ở Đoan Thụy Đường, tôi cũng học được cách sắc thuốc, bát thuốc này sắc vừa đủ độ, công công mau uống đi cho nóng.”

    Lý Thư Bạch cầm bát thuốc, ngồi xuống đấu giường Cảnh Dục, thổi cho nguội bớt.

    Cảnh Dục thấy vậy vội dựa gối ngồi dậy, cúi đầu đón lấy bát thuốc, không dám để y đút. Chu Tử Tần cũng ngồi xuống bên cạnh, nhìn Cảnh Dục uống thuốc.

    Hoàng Tử Hà rút cây trâm ngọc trên đầu ra, ngồi xuống bàn thong thả sắp xếp lại những manh mối thu được ngày hôm nay.

    Ánh hoàng hôn dần nhạt đi, trời cũng tối dần. Mọi người bắt đầu ăn cơm tối, chỉ mình Chu Tử Tần nấn ná không muốn về, cứ thao thao nói chuyện đến tối mịt.

    Cuối cùng Hoàng Tử Hà đành kéo gã dậy: “Công tử để Dục công công đi nghỉ sớm đi, đừng quấy rầy nữa.”

    “Ta không về đâu, ngủ luôn ở đây cho xong, chứ muộn thế này quay về rồi sáng sớm mai lại chạy đến, mệt chết.” Nói đến đây, mắt gã sáng lên nhìn cô: “Phòng Sùng Cổ có rộng không? Cho ta ngủ nhờ một hôm nhé?”

    Hoàng Tử Hà lạnh toát sống lưng, đang định từ chối thì giọng Lý Thư Bạch phía sau đã lạnh nhạt vang lên: “Không rộng.”

    Cô vội cúi đầu, hành lễ với y.

    Chu Tử Tần tiu nghỉu: “Thôi được, để ta đi thuê thêm phòng.”

    “Nhớ trả giúp chúng tôi tiền phòng mấy hôm trước đấy.” Hoàng Tử Hà gọi với theo. Chuyện này đương nhiên, số tiền lấy được từ gã thích khách đã sắp cạn sạch, cứ để Chu thiếu gia tiêu tiền như rác chi đi.

    Khó khăn lắm mới sắp xếp ổn thỏa cho Chu Tử Tần, mọi người cũng được yên tĩnh, ai về phòng nấy nghỉ ngơi.

    Đang thiêm thiếp ngủ, chợt nghe bên ngoài có tiếng la hét ầm ĩ.

    Hoàng Tử Hà kinh hãi bật dậy, vừa trông thấy ánh lửa hắt lên song đã nghe thấy tiếng Lý Thư Bạch gõ cửa: “Cháy rồi.”

    Cô lập tức trở dậy mặc quần áo, vì còn phải bó ngực nên cũng hơi lâu. Ra khỏi cửa, cô thấy Chu Tử Tần liêu xiêu chạy đến: “Không xong rồi, không xong rồi!”

    Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà chẳng còn bụng dạ để ý đến gã, mượn ánh lửa chạy thẳng đến phòng Cảnh Dục thì thấy Trương Hàng Anh đã ở đó, trong phòng sặc sụa mùi khói. Mọi người trong quán trọ cũng ùn ùn chạy ra, đổ xô về phía giếng trời.

    “Lửa… Lửa lớn quá!” Mặt tiền quán trọ đã chìm trong lửa, khói bốc lên mù mịt, cuồn cuộn bay về phía các phòng.

    Lúc đi dạo phố đêm Thành Đô, Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà từng thảo luận, cho rằng biện pháp hay nhất của kẻ địch là đốt quán trọ. Họ cũng đã quan sát quán trọ này, thấy rằng nếu có cháy thì rất dễ chạy thoát, muốn ám sát, trừ phi…

    Hoàng Tử Hà đứng phắt dậy xách ghế đập vào cửa sổ. Chấn song rơi ra, ngoài cửa khói lửa rợp trời, dường như bốn bề đồng thời bén lửa, vây lấy bọn họ vào giữa.

    Quả nhiên, để giết hại bọn họ, kẻ địch chẳng nề đốt trụi cả nhà cửa xung quanh, biến cả góc phố thành tro tàn.

    Giữa bốn bề lửa đỏ, chỉ còn chỗ bọn họ chưa bén lửa, song đã mù mịt khói, chừng như không còn đường thoát.

    Lý Thư bạch nhíu mày, ra hiệu cho Trương Hàng Anh đỡ Cảnh Dục: “Đi thôi.”

    Chưa dứt câu, đã nghe bên ngoài la toáng lên, thì ra một căn nhà sát vách lâu ngày cũ kỹ sập xuống. Toàn bộ rui mè kèo cột cháy phừng phực đổ ập vào quán trọ, người trong dãy phòng phía trước vừa nháo nhào chạy ra đang ùn lại ở đây, lập tức có mấy người bị giẫm đạp kêu la oai oái.

    Quán trọ này nằm trong ngõ vắng, xung quanh toàn những căn nhà cũ kỹ, lúc này bị cháy rừng rực, lửa lớn từ bốn phương tám hướng ập đến, khói đen mù mịt chụp xuống quán trọ.

    Ở giếng trời, rất nhiều người đã sặc sụa vì khói, thậm chí có người già, phụ nữ và trẻ em ngất lịm.

    Lý Thư Bạch xé tấm chăn trên giường ra, Hoàng Tử Hà chẳng đợi y nhắc, nhanh nhẹn vẩy nước trà thấm ướt rồi chia cho mỗi người một dải vải.

    Họ dùng vải ướt bịt mặt, xông ra khỏi phòng. Thế lửa rất mạnh, song đáng sợ hơn là khói đen mù mịt.

    “Khói bốc lên trên, nên cúi người xuống mà đi, phía dưới đỡ hơn đấy.” Hoàng Tử Hà lom khom dẫn cả bọn chạy ra cửa.

    Khói dày đến nỗi không mở nổi mắt, phải lần tường mà đi, nhưng tường cũng bị hun đến nóng giãy lên, không sao chạm vào được, đành mò mẫm đi trong bóng tối.

    “Ối ôi…” Chu Tử Tần vấp phải một thân người dưới đất, ngã lăn ra rồi lại lồm cồm bò dậy, cũng chẳng biết đối phương còn sống hay đã chết, hốt hoảng xoa xoa chỗ mình vừa vấp vào, xin lỗi rối rít: “Xin lỗi, xin lỗi nhé.”

    Hoàng Tử Hà định nhắc gã nhưng vừa há miệng đã thấy họng đau rát, đầu cũng choáng váng. Đầu gối cô nhũn ra, suýt ngã khuỵu xuống đất. May sao có người nắm lấy cánh tay, đỡ cô dậy.

    “Theo ta.” Giữa một trời tối tăm mù mịt, nghe thấy giọng Lý Thư Bạch ngay bên cạnh, cô bỗng vững dạ hẳn. Cô không cần nhìn cần nghĩ gì nữa, chỉ cần y dẫn dắt là đủ.

    Dường như tấm lưng y chính là nơi nương náu an toàn nhất.

    Đang đi, Lý Thư Bạch bỗng dừng lại. Họ đã đi hết chiều dài bức tường, cảm nhận về phương hướng của y rất nhạy, nhanh chóng tìm được cổng sau.

    Trương Hàng Anh đang định tung chân đạp cửa thì Lý Thư Bạch đã nắm lấy vai gã nói khẽ: “Ngoài đó có người.”

    Trăng lu gió lộng, ngọn lửa rừng rực đuổi sát sau lưng, ba mặt là lửa, chỉ có một con đường ra duy nhất lặng phắc như tờ.

    Trương Hàng Anh dỏng tai lắng nghe rồi ngạc nhiên thì thào: “Đâu… Đâu có tiếng người?”

    “Lửa lớn như thế, chỉ chừa một lối thoát duy nhất, lẽ nào không có mai phục?” Giọng Lý Thư Bạch cũng hơi xao động: “Nhưng bên ngoài chẳng nghe động tĩnh gì cả?”

    “Có người bao vây bên ngoài cánh cửa này ư?” Chu Tử Tần buột miệng hỏi, “Lẽ nào chúng ta xông ra sẽ gặp phải mưa tên?”

    “Đang ở trong phủ Thành Đô, bên ngoài không có nhiều chỗ ẩn náu, không thể sắp xếp nhiều tay cung được. Nhưng nhất định có người mai phục, hễ ta xông ra sẽ bị chém giết.”


    Mọi người nghe nói đều vã mồ hôi lạnh.

    Đúng lúc này, người phía sau bắt đầu ùn ùn chạy đến, có kẻ la to: “Cửa kia kìa! Nhanh lên…”

    Giữa lúc hỗn loạn, dòng người chen chúc ùa đến, cướp đường nhau mà chạy, đột nhiên nghe ầm một tiếng, lửa bắn tứ tung.

    Căn gác cạnh đó cháy rụi, đổ sập xuống, khiến cả đám người giẫm đạp lên nhau tránh né, kẻ ngã, người bị thương, kẻ bén lửa, người bị bỏng, kêu la thảm thiết.

    Năm người bọn họ bị vây trong lửa, ngọn lửa hừng hực bao phủ xung quanh, quần áo đầu tóc cháy sém, đường thoát duy nhất là cánh cửa trước mặt. Tường vách hai bên đã bị hun nóng giãy, cây cối cạnh đó cũng cháy rừng rực, tình cảnh hết sức nguy cấp.

    Giữa màn khói mịt mùng, Hoàng Tử Hà ngẩng đầu trông thấy trên bức tường đầu hồi có người đang lén lút nhìn về phía họ, vung tay ra hiệu với bên dưới.

    Cô quay sang bảo Lý Thư Bạch: “Chúng phát hiện ra chúng ta rồi, chỉ đợi ta đâm đầu vào rọ đấy thôi.”

    Lý Thư Bạch khẽ gật đầu, lại liếc về phía cánh cửa.

    Cảnh Dục được Trương Hàng Anh dìu đỡ, vốn đang bịt mũi miệng loạng choạng chạy theo họ, đột nhiên gỡ miếng vải ướt xuống, đẩy Trương Hàng Anh ra, đi đến trước cửa nói: “Gia… nô tài từ biệt ở đây thôi.”

    Trương Hàng Anh ngạc nhiên buột miệng: “Công công định đi đâu?”

    “Chỉ cần ta xông ra, sẽ không thể hình thành thế bao vây nữa.” Cảnh Dục khàn khàn đáp.

    Lý Thư Bạch phía sau quát lớn: “Cảnh Dục, không được làm bậy!” Song Cảnh Dục chỉ ngoái lại mỉm cười rồi quay phắt đi, xô thẳng ra cửa.

    Cánh cửa đã bị lửa thiêu gần rụi lập tức long ra, đổ sập xuống, kéo theo cả khóa. Cả người lẫn cửa đập mạnh xuống nền đá xanh bên ngoài.

    Trong khoảnh khắc Cảnh Dục ngã xuống, mấy ngọn đao loang loáng vung ra chém vào người y.

    Đúng như họ đoán, bên ngoài có mai phục.

    Khi đao kiếm chém xuống thân thể, Cảnh Dục chợt cười to. Giữa đêm khuya, tiếng cười the thé xuyên qua màn khói mù mịt cùng tiếng kêu khóc nhốn nháo, khơi lên một cơn hoang mang khắp xung quanh.

    Ngay lập tức, mọi người trong quán trọ xộc ra, đem theo khói lửa mù mịt, đám người mai phục chỉ kịp tấn công kẻ xông ra đầu tiên là Cảnh Dục thì Lý Thư Bạch, Trương Hàng Anh và Chu Tử Tần đã tung mình nhảy ra, tránh được ngọn đao đón đầu, nhanh nhẹn lợi dụng khói mù, đoạt binh khí đối phương.

    Lý Thư Bạch chặn địch, Hoàng Tử Hà kéo Cảnh Dục dậy, đỡ y chạy đến đầu hẻm. Những kẻ mai phục trong ngõ xông lên ngăn cản đều bị Lý Thư Bạch thẳng tay chém chết.

    Thế lửa càng thêm dữ dội. Trước ánh lửa rừng rực, muôn sao trên trời cũng thành ra lu mờ, ảm đạm.

    Cô chợt trông thấy mấy bóng người nhanh chóng áp sát, xông thẳng vào giữa đám thích khách chém giết.

    Là quân tinh duệ của vương phủ. Mấy ngày nay cô đi khắp nơi tra án thì họ đã âm thầm tập kết ở phủ Thành Đô, hơn nữa còn tụ lại bên người Lý Thư Bạch. Tiếng cười của Cảnh Dục khi nãy đã ám vị cho họ biết vị trí của Quỳ vương trong đám cháy hỗn loạn này, giờ bọn Hoàng Tử Hà chẳng còn gì phải lo nữa.

    Cô cúi đầu, giao tất cả lại cho Lý Thư Bạch, còn mình chỉ gắng sức đem Cảnh Dục đi càng xa đám cháy và chém giết càng tốt, để khỏi bị vạ lây.

    Ngoài hẻm có người la lớn: “Đằng này có người chạy ra rồi, mau mau cứu hỏa!” Dân chúng quanh đó tức thì xách thùng nước lũ lượt chạy đến, những kẻ mai phục đã không còn cơ hội lợi dụng đám cháy sát hại Quỳ vương, thấy tình thế không ổn bèn vứt mấy cái xác lại bỏ chạy.

    Lý Thư Bạch ngăn bọn họ đuổi theo, cứ để đám quân tinh duệ làm là đủ. Dù sao mấy người họ đã mệt lử, lại vừa thoát khỏi đại nạn, làm gì còn lòng dạ tiêu diệt thích khách nữa.

    Bốn người xúm lại quanh Cảnh Dục, thấy vết thương đã cầm máu của y vỡ ra, lại thêm mấy vết đao chém lúc xông ra cửa, cả người bê bết máu me, chẳng còn hy vọng gì nữa.

    Hoàng Tử Hà vội giao y cho Trương Hành Anh đỡ: “Mau mau, tôi chạy đi tìm thầy thuốc…”

    Mới chạy được hai bước, chợt nghe tiếng Lý Thư Bạch gọi với đằng sau: “Không cần đâu.”

    Cô sững sờ, ngoái lại thì thấy Cảnh Dục nắm chặt tay Trương Hàng Anh, nhìn Lý Thư Bạch, thều thào: “Sau này bên cạnh gia… tạm thời… có lẽ không có ai hầu hạ nữa rồi…”

    Tuy các hộ vệ thất tán trên núi đã có rất nhiều người quay lại, nhưng Cảnh Dật và Cảnh Hữu vẫn chưa rõ tung tích, bên cạnh Lý Thư Bạch quả thật không có người hầu cận.

    Trương Hàng Anh siết chặt tay Cảnh Dục, rưng rưng nước mắt nói khẽ: “Còn tôi… tôi ở đây.”

    Cảnh Dục đưa mắt nhìn sang gã, mệt mỏi cười: “Tên nhóc bị khai trừ này… có được không đây…”

    Lý Thư Bạch ngồi xuống chăm chú nhìn y, dịu giọng: “Không phải lo cho ta, ngươi cứ yên tâm đi.”

    Song Cảnh Dục vẫn khư khư nắm lấy tay Trương Hàng Anh, cặp măt bắt đầu lạc thần hết nhìn Lý Thư Bạch lại nhìn sang Trương Hàng Anh.

    Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần vội ôm lấy y.

    Trương Hàng Anh rơm rớm nước mắt, quỳ xuống trước mặt Lý Thư Bạch.

    Ánh mắt Cảnh Dục không rời Lý Thư Bạch, mấp máy môi, song không thốt ra được lời nào.

    Lý Thư Bạch thoáng lưỡng lự rồi giơ tay đỡ Trương Hàng Anh đứng dậy: “Trước đây ngươi vốn là người trong đội nghi trượng, giờ quay lại bên ta, cũng coi như có đầu có cuối.” Trương Hàng Anh ngẩng nhìn y, nước mắt cuối cùng cũng đã lăn dài, run run đáp: “Đa tạ… vương gia.”

    Cảnh Dục thấy thế thì vui mừng ra mặt, dường như còn định mỉm cười, nhưng vừa hé miệng, cả gương mặt đã méo mó đi.

    Cánh cửa và bức tường bên cạnh thình lình sập xuống, người bên trong kẻ bị bỏng, kẻ bị ngã, kẻ bị giẫm đạp chen nhau ùa ra. Trong tiếng kêu gào náo loạn, cánh tay Cảnh Dục lặng lẽ rũ xuống.

    Lý Thư Bạch nắm chặt tay Cảnh Dục, đặt vào lòng Trương Hàng Anh.

    Thấy y bặm môi, hai hàng mi rung rung, cô lặng lẽ vươn tay đặt nhẹ lên mu bàn tay y.

    Lửa lớn cháy đến tảng sáng, chân trời cũng nhuốm hồng. Dân chúng Thành Đô bị kinh động, từ bốn phương tám hướng đến cứu hỏa.

    Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần tra xét mấy cái xác bị vứt lại hồi lâu, cuối cùng cũng phải tiu nghỉu bó tay. Đám thích khách phi tang vật chứng rất sạch sẽ, những cái xác bị bỏ lại đều mặc đồ thường dân, ngay cả vũ khí trong tay cũng mài hết dấu đúc đi.

    Đem theo hộ vệ đi lại trong thành rất không ổn, Lý Thư Bạch bèn lệnh cho các thị vệ giải tán, thỉnh thoảng âm thầm bám theo bảo vệ là đủ. Chỉ còn lại bốn người bọn họ hoang mang nhìn đống tro tàn trước mặt, lặng thinh. Để truy sát Lý Thư Bạch, kẻ địch chẳng những sát hại Kỳ Lạc quận chúa, mà còn không tiếc tay đốt trụi cả con phố, khiến dân chúng vô tội quanh đó vạ lây, số người bỏ mình trong lửa rất nhiều, kẻ nhà tan cửa nát còn nhiều hơn.

    “Khốn nạn thật… ta nhất định phải chính tay bắt kẻ phóng hỏa đền tội!” Chu Tử Tần nghiến răng căm hận.

    Hoàng Tử Hà nhíu mày: “Chúng gây ra đám cháy lớn thế này, lại phong tỏa toàn bộ mấy gian nhà xung quanh, chặn hết cửa trước cửa sau, luận cả quá trình hay từng chi tiết đều có chuẩn bị trước. E rằng hung thủ đứng phía sau màn nhắm vào gia có thế lực vô cùng lớn, vượt xa tưởng tượng của công tử.”


    Chu Tử Tần bĩu môi: “Bất kể chúng là ai, chỉ cần gây ra chuyện ở Thục thì tổng bổ đầu quận Thục là ta sẽ đấu với chúng đến cùng!”

    Họ rời khỏi con ngõ cháy rụi, chợt trông thấy một nữ tử hớt hải chen giữa đám đông đang nháo nhào túa ra, nhận mặt từng người vừa chạy thoát. Dáng dấp người nọ tha thướt, bước chân nhẹ nhàng, dù đang hốt hoảng tột độ, vẫn rất nổi bật giữa đám đông hỗn loạn.

    Chu Tử Tần vội bước đến chào: “Đại nương tìm ai vậy?”

    Công Tôn Diên ngoái lại trông thấy bọn họ thì sững sờ, rồi thở phào nhẹ nhõm chạy đến: “Tôi đang tìm các vị đây!”

    “Hả? Đại nương lo cho bọn ta ư?” Chu Tử Tần quên bẵng vừa rồi mình suýt sợ vỡ mật, tức thì vỗ ngực khoe khoang: “Đừng lo, bọn ta là ai chứ, đương nhiên không mất một cọng tóc rồi.”

    “Công tử bớt huênh hoang, nhìn lại mình đi.” Hoàng Tử Hà nhắc.

    Thấy bọn họ mặt mày lấm lem, lôi thôi lếch thếch, Công Tôn Diên bèn giúp Chu Tử Tần phủi bớt tro bụi trên người, “Tối rồi tốt rồi, không sao là tốt.”

    “Giờ đại nương trọ ở đâu? Chúng tôi đến quán trọ của đại nương nhé?” Hoàng Tử Hà đề nghị.

    Công Tôn Diên gật đầu: “Sau khi trị cho hai tên quấy rầy kia một trận, tôi đã thuê phòng ở quán trọ Vân Lai cách đây hai con đường, các vị cứ theo tôi.”

    Quán trọ Vân Lai khá yên tĩnh, tuy bề ngoài cũng bình thường không có gì nổi bật, song trong sân trồng đầy lan và trúc, còn dẫn một con suối, trong mắt những kẻ vừa thoát khỏi hỏa hoạn, nơi này thực hoàn mỹ vô cùng.

    “Các vị đây chuyển từ quán trọ bị cháy bên cạnh sang ư?” Chưởng quầy là kẻ lão luyện trong nghề, thoạt nhìn bọn họ đã hiểu ra ngay: “Có cứu được hành lý không? Còn đem theo tiền đấy chứ?”

    Trương Hàng Anh thẫn thờ từ nãy, giờ mới định thần lại, cảm động đáp: “Cám ơn ông chủ quan tâm…”

    Hoàng Tử Hà ngắt lời gã: “Yên tâm đi, chưa đến nỗi không trả nổi tiền phòng của ông đâu.”

    Công Tôn Diên nói ngay: “Để tôi trả.”

    Chu Tử Tần hào phóng vẫy tay: “Yên tâm, tất cả chi phí đều có nha môn trả hết.”

    Thấy bấy nhiêu người tranh nhau trả tiền, chưởng quầy mới yên dạ: “Thế thì tốt.”

    Vẻ cảm động trên mặt Trương Hành Anh cứng đờ, nét đau đớn cố nén lại hiện lên.

    Mấy người bọn họ về đến phòng, việc đầu tiên là gọi tiểu nhị lấy nước tắm rửa một lượt, sau đó mới tập trung ở quầy, chọn mấy món ăn lót dạ.


    “Ôi chao… Chưa bao giờ ăn bữa đêm khốn khổ thế này…” Chu Tử Tần nhìn ra bầu trời tang tảng sáng, xuýt xoa: “Cũng chưa ăn bữa sáng nào thịnh soạn thế này…”

    Vật lộn trong đám cháy lâu như thế, mấy người đàn ông còn đỡ, riêng Hoàng Tử Hà bị ngạt khói, cứ ôm ngực ho khan. May sao Chu Tử Tần đã bảo nhà bếp nấu một âu canh sơn trà hầm lê để mọi người uống trong lúc đợi đồ ăn, khửa bớt hỏa khí.

    “Sùng Cổ bị nặng nhất, phải uống nhiều vào!” Chu Tử Tần múc thật nhiều canh cho cô.

    Hoàng Tử Hà uống đầy một bụng canh, ấm ách khó chịu, đành viện cớ đi gọi Công Tôn Diên hòng tránh tấm thịnh tình của Chu công tử.

    Khi Công Tôn Diên và Hoàng Tử Hà quay lại, theo sau họ còn một nữ tử chừng ba mươi tuổi, vóc người nhỏ nhắn yêu kiều, đi phía sau Công Tôn đại nương phong tư tuyệt đại trông lại như một thị nữ bình thường.

    Mãi đến khi người nọ tới trước mặt bọn Chu Tử Tần thi lễ rồi ngẩng lên, mới phát hiện dung mạo người ấy ửng hồng dưới ánh đèn mờ ảo, như hải đường chớm hé, dù phảng phất ưu sầu, nhưng cũng mang nét phong tình rất riêng.

    “Đây là Tứ muội Ân Lộ Y, hôm nay vừa đến Thành Đô. Khi trước ta có để lại mảnh giấy ở cửa nhà A Nguyễn trên phố Tùng Hoa, Lộ Y hôm nay đến Thành Đô, bèn theo đó mà tìm tới đây.”

    Chu Tử Tần bấy giờ mới vỡ lẽ: “Ồ, thì ra mảnh giấy trên cửa là đại nương để lại cho các chị em ư? Ta còn ngỡ là cái gì khác cơ.”

    Công Tôn Diên gật đầu rồi kéo Ân Lộ Y ngồi xuống cạnh bọn Chu Tử Tần. Ân Lộ Y khá kiệm lời, mọi người cũng đang buồn vì cái chết của Cảnh Dục nên không khí bữa ăn rất trầm lặng. Mãi đến lúc gần xong, Chu Tử Tần mới hỏi Ân Lộ Y: “Chẳng hay tứ nương sở trường ngón nghề gì?”

    Ân Lộ Y không đáp, chỉ phất tay một cái, tức thì một bông thạch lựu hiện ra giữa hai ngón tay.

    “Ô? Hoa ở đâu ra thế này?” Chu Tử Tần ngạc nhiên với tay toan cầm lấy thì Ân Lộ Y một tay xoay còn một tay thu về, chắp vào nhau vò vò đóa hoa, đoạn lại xòe ra trước mặt gã. Chỉ thấy giữa lòng bàn tay Ân Lộ Y là một quả lựu vàng ửng đỏ, tròn tròn, vô cùng xinh xắn.

    Chu Tử Tần đoạt lấy quả lựu, kinh ngạc hỏi: “Thì ra tứ nương sở trường ảo thuật?”

    “Tiệc mừng ở Dương Châu nếu mời được Ân Lộ Y đến biểu diễn một màn ảo thuật, sẽ trở thành đại sự rúng động toàn thành đó.” Nói rồi Công Tôn Diên cầm lấy quả lựu từ tay Chu Tử Tần, bửa thành mấy mảnh chia cho mọi người cùng ăn.

    Quả lựu tươi ngon như vừa mới hái, chua chua ngòn ngọt. Chỉ mình Ân Lộ Y cầm phần lựu được chia, nước mắt rưng rưng, không nuốt trôi nổi.

    Công Tôn Diên thở dài: “Ta biết xưa nay muội đa sầu đa cảm, song người chết là hết, A Nguyễn có thể cùng tình lang ra đi, hẳn cũng ngậm cười, muội việc gì phải quá đau lòng.”

    “Vâng… là muội nghĩ không thông.” Ân Lộ Y đáp, song vẫn thẫn thờ.

    “Ta cảm thấy cái chết của A Nguyễn ắt có nội tình nên đã cậy Chu bổ đầu điều tra giùm.” Công Tôn Diên nhìn Chu Tử Tần tha thiết nói: “Giờ chị em tôi đều nhờ cả vào bổ đầu, cầu xin các vị tra rõ chân tướng việc A Nguyễn tự vẫn, dù sao… cũng cho chúng tôi biết hai người họ rốt cuộc gặp phải chuyện gì, tại sao không nhờ vả chúng tôi giúp đỡ, mà lại chọn con đường chết.”

    “Đại nương yên tâm đi.” Chu Tử Tần vỗ ngực bảo đảm: “Ta là tổng bổ đầu quận Thục được hoàng thượng khâm điểm, nhất định sẽ tra rõ tất cả các vụ án ở đây, không để lại bất cứ nghi vấn gì!” Ân Lộ Y ngước nhìn gã, định nói gì đó thì Công Tôn Diên đã cảm kích thưa: “Đa tạ Chu thiếu bổ đầu! Mối oan của tiểu muội tôi xin nhờ cả vào bổ đầu đấy!”

    Chu Tử Tần luôn miệng nhận lời, rồi sực nhớ ra một chuyện: “Ngày mai phủ nha Thành Đô bày tiệc, không biết các vị có thể tới giúp vui hay chăng?”

    Công Tôn Diên và Ân Lộ Y nhìn nhau rồi thưa: “Chu thiếu bổ đầu đã có lời, đương nhiên chúng tôi sẽ tới. Không rõ tiệc lần này mời người thế nào, muốn giúp vui ra sao?”

    “Thực chẳng dám giấu, ngày mai tiết độ sứ Phạm tướng quân giá lâm phủ quận thú, một là để thắt chặt tình thân với quận thú mới nhậm chức, hai là vì việc hôn nhân của Tề Đằng Tề phán quan phủ tiết độ với em gái ta. Tiết độ sứ là người học võ, hẳn thích xem múa kiếm, vừa khéo lại là sở trường của đại nương.”

    Công Tôn Diên gật đầu: “Đúng thế. Song tôi nghĩ… Lần này là tiệc mừng, có lẽ lệnh muội chưa chắc đã thích ánh đao bóng kiếm.”

    Chu Tử Tần nhíu mày: “Chuyện này… kệ nó vậy, dù sao cũng phải lấy khách làm trọng.”

    “Tôi có ý này. Trước đây A Nguyễn từng chỉnh lý lại điệu múa của tôi, sửa đổi mấy chỗ, tuy vẫn là Kiếm Khí Hồn Thoát, song những phân đoạn dịu dàng uyển chuyển trong đó hơn xa Lục Yêu*, có thể nói là đủ cả cương nhu. Vừa hay Lộ Y đến, có người chuẩn bị giúp, ngày mai tôi sẽ biểu diễn điệu mới, nhất định không làm các vị thất vọng.”

    *Một điệu múa của người Hán thời Đường, thuộc dòng mềm mại, tiết tấu chậm.

    Chu Tử Tần mừng ra mặt: “Đại nương đã nói vậy ắt là điệu múa tinh diệu tuyệt luân! Được, ngày mai chúng ta sẽ rửa mắt chờ xem!”

    “Còn chuyện này nữa, xin bổ đầu nhờ người giúp tôi chuẩn bị vài vật dụng cần thiết cho buổi diễn.” Đoạn Công Tôn Diên gọi tiểu nhị đưa giấy bút đến, viết một tờ danh sách đưa cho Chu Tử Tần.

    Chu Tử Tần lần lượt đọc lên những thứ được liệt kê: “Hai đôi đèn lồng sa châu, một giỏ cánh hoa, mười đôi bươm bướm…”

    Đến đây, gã ngạc nhiên hỏi: “Bươm bướm ư? Điệu múa này còn tiện thể phóng sinh nữa à?”

    Công Tôn Diên đang buồn nghe hỏi cũng phải che miệng cười đáp: “Cơ trời không thể lộ, tôi thì chẳng sao, nhưng mấu chốt trong màn này là ngón nghề kiếm cơm của Lộ Y, không thể tiết lộ với kẻ khác được.”

    Chu Tử Tần ngượng nghịu gãi đầu cười trừ: “Cả ngày ta giam mình trong phòng nghiên cứu thi thể, chẳng biết gì cả. Ta sẽ sai người chuẩn bị chu tất.”

    “Nhớ là bướm phải còn sống, chúng tôi mới đến đây lạ nước lạ cái, không sao bắt được bươm bướm sống.” Công Tôn Diên bổ sung.

    “Cam đoan sẽ còn sống cả! Cứ giao cho ta!” Nói rồi, gã nhìn phần lựu trong tay Ân Lộ Y đầy ngưỡng mộ: “Nói đi thì phải nói lại, sao trước đây tứ nương không đến kinh thành, thủ pháp của tứ nương tuyệt quá.”

    Ân Lộ Y nhỏ người, giọng nói cũng khẽ khàng uyển chuyển, liền đáp: “Mười mấy năm trước tôi cũng có theo các chị em vào kinh, bấy giờ chắc Chu bổ đầu đang là trẻ con. Mấy đệ tử do tôi dạy dỗ, cũng có vài kẻ đến kinh thành, nghe nói thường ở chợ Tây.”

    Chu Tử Tần vội hỏi: “Làm sao tìm được họ?”

    “Đại đệ tử và nhị đệ tử của tôi là một cặp vợ chồng, tuổi tác còn lớn hơn tôi. Năm xưa khi chia tay tôi từng tặng họ một con chim trắng đã được huấn luyện, có lẽ bổ đầu đi tìm sẽ thấy.”

    Hoàng Tử Hà sực nhớ ra: “Từng gặp cặp vợ chồng đó ở chợ Tây. Có điều tay nghề họ bình thường, con chim trắng ấy cũng bán đi cho người ta rồi.”

    Bấy giờ Vương Uẩn mua nó rồi biểu diễn một màn chim trong lồng biến mất ở chùa Tiên Du, dẫn tới bao chuyện bất trắc sau này.

    Ân Lộ Y gật đầu: “Chỉ chăm chăm cái lợi trước mắt sẽ khó mà luyện được tay nghề giỏi. Tôn Đại học được hai ngón đã thấy đủ đi lại giang hồ, bèn từ biệt tôi. Dung Nương khá hơn, học được mấy trò hay, có điều chồng cô ấy đã muốn đi, cô ấy đành đi theo.”

    Chu Tử Tần vội đề nghị: “Chi bằng buổi tiệc này mai tứ nương cũng biểu diễn vài ngón giúp vui cho chúng ta đi?”

    Ân Lộ Y cúi đầu đáp: “Không cần đâu. Màn biểu diễn của đại nương ngày mai tôi cũng góp phần, tới lúc đó các vị đều được xem cả.”

    Lúc giải tán, Hoàng Tử Hà cố ý đi tụt lại phía sau, hỏi nhỏ Trương Hàng Anh: “Trương nhị ca nãy giờ cứ rầu rĩ không nói, huynh lo lắng chuyện gì vậy?”

    “Không có gì, tôi chỉ là… nghĩ đến cái chết của Dục công công, lo không biết đám thích khách kia bao giờ lại ra tay nữa…”

    “Yên tâm đi, gia sẽ không để bọn chúng có cơ hội nữa đâu.” Hoàng Tử Hà an ủi, “Nếu chuyện như vậy mà gia không xử lý được, thì đã chẳng phải là Quỳ vương rồi.”

    Trương Hàng Anh gật đầu, vẻ mặt cũng dãn ra, “Vậy… tôi cũng yên tâm.”

    Thấy họ Trương đến đứng trước cửa phòng Lý Thư Bạch, vẻ như định đứng canh đến sáng bạch, Hoàng Tử Hà bất lực hỏi: “Chẳng phải huynh bảo yên tâm rồi ư?”


    “Ừm… yên tâm đứng canh ý mà.”

    Hoàng Tử Hà vừa tức vừa buồn cười, đành gõ cửa hỏi Lý Thư Bạch: “Gia nghĩ đêm nay thích khách có đến không?”

    Giọng lý Thư Bạch hờ hững vang lên: “Kẻ địch mỗi lần hành thích đều muốn một đòn đắc thủ, dồn ta vào chỗ chết, hiện giờ ta đột ngột đổi sang trọ ở đây, chúng chưa kịp lên kế hoạch, đâu thể nào ra tay.”

    Hoàng Tử Hà dõng dạc bảo Trương Hàng Anh: “Thế nên nơi nguy hiểm nhất là nơi an toàn nhất, nếu huynh tin lời chúng tôi thì về ngủ đi.”

    Trong phòng vang lên tiếng bước chân, là Lý Thư Bạch đứng dậy ra mở cửa.

    “Giờ các thị vệ bên cạnh ta đã tản đi hết, bản thân ta còn gặp nguy hiểm, vậy mà ngươi lại đi theo ta, đủ thấy đường dài mới biết ngựa hay.” Lý Thư Bạch vỗ vai Trương Hàng Anh khen ngợi, “Hôm nay ngươi về nghỉ ngơi cho khỏe, ngày sau ta còn cần ngươi giúp sức.”

    Trương Hàng Anh sợ sệt thưa: “Thuộc hạ nhất định sẽ dốc toàn lực, đến chết mới thôi!”

    “Không nghiêm trọng thế đâu!” Lý Thư Bạch thản nhiên: “Mấy con thiêu thân lao vào lửa ấy mà!”

    Tảng sáng đi ngủ, đến gần trưa mới dậy, quả là thư thái vô cùng, bình yên đến mức Hoàng Tử Hà mở mắt ra còn phải nghĩ ngợi một lúc mới nhớ mình đang ở đâu.

    Bên ngoài là rặng trúc rì rào, suối chảy róc rách. Cô khoác áo ngồi dậy, vừa đẩy cửa sổ đã thấy Lý Thư Bạch đang vận động gân cốt.

    Cô tựa vào song cửa, tay phải nắm lại che miệng ngăn tiếng ho khe khẽ. Trận lửa hôm qua khiến lồng ngực cô đến giờ vẫn còn khô rát: “Gia đỡ rồi ư?”

    Y dừng lại nhìn cô: “Ừm.”

    “Trưa nay muốn ăn gì? Để tôi đi bảo nhà bếp.”

    “Ngươi thích ăn gì thì gọi cái ấy.”

    “Không kén ăn, tốt quá.” Vừa dứt câu, cô chợt trông thấy Trương Hàng Anh đứng bên rặng trúc trợn tròn mắt nhìn họ. Nghĩ lại những lời đối đáp vô lễ vừa rồi, cô bất giác đỏ ửng mặt, hồi lâu mới quay sang hỏi gã: “Trương nhị ca muốn ăn gì?”

    “Tôi… tôi… tùy huynh chọn vậy.”

    Bọn Hoàng Tử Hà đang ăn mấy món giống hệt nhau thì Chu Tử Tần ngái ngủ đi đến: “Chào buổi sáng…”

    Hoàng Tử Hà hỏi ngay: “Sáng nay công tử không về ư?”

    “Thôi thôi, sáng ra mò về để cha ta biết được lại phải ăn mắng. Thà cứ nói ta ở bên ngoài điều tra cho xong.” Vừa nói gã vừa gãi đầu gãi tai vắt óc nhớ lại: “Ai da ngủ say quá, đầu óc ta trống trơn hết rồi… Hôm nay chúng ta phải làm gì ấy nhỉ, hình như có rất nhiều việc, lại hình như không có việc gì cả?”

    Hoàng Tử Hà nhắc nhờ: “Tiết độ sứ Phạm tướng quân sẽ đến nhà công tử, nên công tử phải giúp Công Tôn đại nương chuẩn bị vài món.”

    Chu Tử Tần vội lần tìm trên người, đến lúc sờ thấy mẩu giấy hôm qua mới thở phào.

    “Được rồi, công tử đi chuẩn bị đi.” Hoàng Tử Hà đứng dậy.


    Chu Tử Tần vội hỏi: “Dương huynh định đi đâu?”

    “Ra phố đi dạo.”

    Phố lớn ngõ nhỏ ở Thành Đô vẫn đông đúc náo nhiệt như cũ.

    Lý Thư bạch theo Hoàng Tử Hà len lỏi đi tới một tiệm cầm đồ. Chưởng quầy ngồi sau quầy hàng cao, nhướng mắt liếc họ hỏi: “Muốn cầm cái gì?”

    Hoàng Tử Hà lại hỏi: “Các vị có chi nhánh ở Long Châu không?”

    Hoàng Tử Hà lập tức giơ lệnh bài lấy từ chỗ Chu Tử Tần ra, gõ gõ lên mặt quầy: “Người của quan phủ tra án đây.”

    Chưởng quầy đưa mắt nhìn, bấy giờ mới lật đật rời khỏi quầy, mời họ ra sau, sai người bưng trà và điểm tâm tới: “Chẳng rõ các vị muốn… điều tra chuyện gì?”

    Trông thái độ của lão, Hoàng Tử Hà hiểu ngay, bèn trấn an: “Ông yên tâm, gần đây không có vụ án lớn nào cả, chúng ta không tới điều tra tang vật đâu.”

    Chưởng quầy bấy giờ mới thở phào nhẹ nhõm, ngồi xuống bên cạnh hỏi: “Chẳng hay ba vị đến có việc gì?”

    “Chúng ta muốn tìm một vật, có lẽ được cầm tại chi nhánh Long Châu của các vị. Theo ta biết nếu đồ cầm quá ngày chưa được chuộc lại sẽ đưa đến tiệm chính này, sau khi chưởng quầy xem qua thì đem bán, đúng chứ?”

    Chưởng quầy gật đầu: “Đúng thế.”

    “Ta muốn tìm một chiếc vòng bạch ngọc chạm đôi cá cắn đuôi nhau, ở giữa chạm rỗng, tạo hình rất đặc biệt, nếu chưởng quầy đã xem qua, hẳn khó mà quên được.”

    “À, tôi nhớ rồi! Đúng là có một chiếc vòng như thế, tháng Tư năm nay quá hạn, được cửa tiệm ở Long Châu gửi đến đây!”

    “Giờ nó đâu rồi!”

    Chưởng quầy hối hả lật tìm sổ sách, rồi chìa ra cho họ xem: “Cái vòng này bán rồi, không lâu sau khi được gửi đến. Người mua… không để lại tên.”

    Chỉ thấy bên trên viết: “Vòng ngọc chạm đôi cá, đã trả hết.”

    Hoàng Tử Hà hỏi: “Người bán chiếc vòng ấy, giờ vẫn ở đây chứ?”

    “Để tôi hỏi xem.” Nói rồi ông ta tất tả chạy ra sau gọi người đến gặng hỏi, song tất cả chưởng quầy và người làm đều lắc đầu, chỉ có một gã người làm lanh lợi thưa: “Cái vòng này… lúc ấy từ Long Châu đưa đến, có lẽ là người ở Long Châu viết, ngài xem nét chữ này đâu giống chữ chúng tôi, không rõ kẻ nào ở tiệm Long Châu viết nữa.”

    “Mau đi hỏi xem người ở Long Châu đưa đồ đến là ai, bấy giờ có bán chiếc vòng ấy không.” Nói đoạn, chưởng quầy quay lại cười xòa với họ: “Ba vị quan gia, chúng tôi lập tức phái người đến Long Châu hỏi han, một hai hôm nữa sẽ trả lời.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu, rồi viết cho ông ta mấy dòng, dặn dò: “Tới lúc đó nhớ dẫn người tới tìm Chu thiếu bổ đầu.”

    “Nhất định, nhất định rồi! Hễ người đến tôi sẽ dẫn tới ngay!”
     
  20. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 12 - Dạo quanh chốn cũ
    Rời khỏi tiệm cầm đồ, Hoàng Tử Hà hỏi Lý Thư Bạch: “Tiếp theo đây gia định đi đâu?”

    “Phủ tiết độ sứ. Kẻ địch đã ép ta lộ hành tung, chúng ta cũng phải nắm lấy cơ hội, khiêu chiến một phen.”

    “Hay lắm.” Hoàng Tử Hà reo lên, “có điều gia từ từ đã, tôi đoán công tử nhà Phạm tướng quân giờ vẫn chưa dậy đâu.”

    Nghe họ trò chuyện, mặt Trương Hàng Anh tái xanh: “Khiêu chiến một phen ư?”

    “Đi thôi.” Hoàng Tử Hà cười, “Tìm người giúp đỡ chứ đâu có ai lại tìm người gây sự cho vui?”

    Lý Thư Bạch tán thưởng nhìn cô: “Ngươi dám chắc hai tên hôm trước trêu chọc Công Tôn đại nương sau đó bị Trương Hàng Anh hạ gục là người hầu của Phạm Nguyên Long ư?”

    “Chắc chắn. Trước đây tôi thường giáo huấn chúng mà.” Nói đến đây, Hoàng Tử Hà lại thấy lồng ngực khô rát, ôm ngực ho húng hắng mấy tiếng rồi quay người đi về phía quán trọ Vân Lai: “Hẵng còn sớm, chúng ta đi xem Công Tôn đại nương còn ở quán trọ không? Nhờ bà ấy chút việc.”

    Chưa về đến quán trọ, họ đã trông thấy Công Tôn Diên và Ân Lộ Y đang mua kẹo ở một cửa tiệm.

    Công Tôn Diên mua hai phên mạch nha to, vì trời nóng nên phải nhờ người làm ở tiệm bọc bằng mấy lớp giấy hồ, lại dùng một tờ giấy bông to trắng muốt gói lại, xách trong tay.

    Hoàng Tử Hà cất tiếng chào rồi ngạc nhiên nhìn gói mạch nha trong tay Công Tôn Diên: “Đại nương thích ăn kẹo lắm ư?”

    Công Tôn Diên quay lại trông thấy bọn họ thì cũng kinh ngạc không kém, nhưng định thần ngay được, cười đáp: “Tôi không thích ăn kẹo, nhưng Lộ Y mắc chứng thiếu máu, hay bị chóng mặt hoa mắt, kẹo mang theo mấy hôm nay đã dùng hết nên phải đi mua.”

    Nghe Công Tôn Diên nhắc đến chứng thiếu máu, Hoàng Tử Hà lại nhớ đến hôm đó trên sườn núi, Lý Thư Bạch cũng ném cho cô một gói kẹo tuyết, bất giác đưa mắt nhìn sang y.

    Lý Thư Bạch cũng nhìn cô, khóe môi hơi cong lên.

    “Trời nóng thế này, hai phên mạch nha to đến một thước vuông như thế, nếu ăn không hết liệu có bị hỏng không?” Hoàng Tử Hà lại hỏi.

    Ân Lộ Y dịu dàng trầm tĩnh, chỉ cúi đầu không đáp.

    Lại là Công Tôn Diên trả lời thay: “Không sao, Lộ Y là ảo thuật gia biết nặn mạch nha thành đủ thứ hình thù mà, dù không ăn được nữa cũng có thể dùng luyện tay nghề.”

    “Ồ, nặn mạch nha có giống nặn đậu phụ không? Đúng là luyện tay rất tốt.” Hoàng Tử Hà tò mò hỏi.

    Ân Lộ Y cúi đầu che miệng, rốt cuộc cũng lên tiếng: “Tiện hơn dùng đậu phụ. Khi nào làm được, tôi sẽ biếu các vị một ít.”

    Ba người rời khỏi tiệm, mới nhận ra Lý Thư Bạch không đi theo. Hoàng Tử Hà ngoái lại nhìn thì thấy y bình thản dúi cái gói trong tay cho mình.

    Ngửi thấy mùi lê thoang thoảng, cô bèn mở ra xem, quả nhiên là một gói kẹo lê nhuận hầu thanh giọng.

    Hoàng Tử Hà bất giác thấy lòng ngọt ngào ấm áp, tựa hồ kẹo lê đang tan ra trong lồng ngực, khiến cô ôm ngực ho khẽ.


    Nghe tiếng ho, Lý Thư Bạch nghiêng đầu quay sang. Cô bèn giả bộ ngắm cảnh phố phường, rồi nhón một viên kẹo ngậm trong miệng. Lát sau quay sang nhìn, phát hiện Lý Thư Bạch đã đi được ba bốn bước, tựa như chưa hề ngoái lại.

    Họ cùng Công Tôn Diên, Ân Lộ Y đến cửa phủ tiết độ sứ, gặp đúng lúc cửa ngách phủ tiết độ sứ hé mở, một đoàn người dắt ngựa đi ra, vừa may có cả Phạm công tử.

    Trong nhà Tây Xuyên tiết độ sứ Phạm Ứng Tích có hai tiểu bá vương. Một là cháu trai ông ta Phạm Nguyên Hổ, năm ngoái vì tác oai tác quái, bị Hoàng Tử Hà bắt giữ. Quận thú Hoàng Mẫn phạt y năm mươi trượng, lưu đày hai ngàn dặm. Phạm Ứng Tích không dám chọc giận nhiều người, đành nghiến răng nhẫn nhịn. Bá vương thứ hai chính là con trai ông ta Phạm Nguyên Long, giờ vẫn đang giễu võ dương oai ở Thành Đô, trêu nam chọc nữ.

    Công Tôn Diên thoạt trông thấy hai kẻ theo sau Phạm Nguyên Long đã nhíu mày, đây chẳng phải hai gã buông lời cợt nhả trong quán trọ, sau đó bị Chu Tử Tần và Trương Hàng Anh đánh đuổi đi ư.

    Trương Hàng Anh cũng nhận ra, khựng lại.

    Hai kẻ đó nhìn sang phía họ rồi thì thào gì đó với Phạm Nguyên Long, cả đám người hùng hổ kéo sang. Trương Hàng Anh lùi lại một bước, thấy Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà cách đó không xa, vội hét lên bảo hai người: “Chạy mau…”

    Nào ngờ hành động ấy lại lọt mắt Phạm Nguyên Long, khiến tình hình càng thêm nguy ngập. “Hai tên kia cũng là đồng bọn. Hừm, giỡn mặt người bên cạnh ông cũng chính là giỡn mặt ông đây rồi, bay đâu, đánh chúng cho ta!”

    Đám người theo sau hắn nhơn nhơn đắc ý, xắn tay áo hỏi: “Đánh tới mức nào đây, công tử?”

    Phạm Nguyên Long nhìn Trương Hàng Anh đang mắt trước mắt sau bỏ chạy, bèn vung roi ra lệnh: “Đánh gãy chân bọn chúng cho ta!”

    “Cảm giác gãy chân thế nào?”

    Hoàng Tử Hà đá một gã du côn nằm dài dưới dất, cười hỏi.

    Tận mắt thấy đám tay chân lần lượt bị Lý Thư Bạch và Trương Hàng Anh hạ gục, chỉ còn lại một mình mình đứng trơ ra đó giữa tiếng xì xào cười cợt của mọi người, Phạm Nguyên Long cuống cuồng chạy thẳng vào phủ gọi toáng lên: “Chết hết rồi à? Tay chân của ta bị đánh như thế mà các ngươi còn đứng ì ra đấy?”

    Vừa rồi mọi chuyện xảy ra quá nhanh, đám tay sai họ Phạm đánh người không xong còn bị đánh lại, khiến đám canh cổng và vệ sĩ chưa kịp phản ứng, nghe hắn quát tháo mới sực tỉnh, hò nhau xách gậy gộc lao đến.

    Đám đông kéo ra xem náo nhiệt sau lưng Hoàng Tử Hà thấy thế vội dạt đi, có kẻ vừa chạy vừa la: “Các ngươi chết chắc rồi, còn không mau chạy đi!”

    Hoàng Tử Hà vội thu chân lại, chẳng đợi chúng ập đến đã rút lệnh bài trong ngực áo ra, dõng dạc hô: “Ai dám động đến sứ giả phủ Quỳ vương?”

    Câu này vừa thốt ra, tất cả mọi người như bị điểm huyệt, đờ ra tại chỗ. Thực ra họ cũng không nhìn rõ lệnh bài trong tay cô, song trước phong độ đường hoàng, khí thế hiên ngang, tất cả đều biết là chuyện quan trọng, người này nhìn người kia, rồi đồng loạt đổ dồn mắt vào Phạm Nguyên Long đứng phía sau.


    Phạm Nguyên Long cũng sững sờ trước uy thế của Hoàng Tử Hà, khúm núm chạy đến trước mặt cô, giơ tay đón lấy tấm lệnh bài nhìn kỹ, Hoàng Tử Hà lật tay áp lệnh bài vào mặt hắn, cười bảo: “Được rồi, đi mời Phạm tướng quân ra đi, Quỳ vương gia đến cửa mà tướng quân còn chưa ra nghênh đón, công tử bảo có coi được hay không?”

    Phạm Nguyên Long tiu nghỉu, tuy hắn không biết mặt Lý Thư Bạch, song trông thấy y khoanh tay đứng đó, phong thái cao quý đầy ngạo nghễ, lại nhớ ra gần đây quả thật Quỳ vương đã mất tích trên đường tới Thành Đô, tức thì sợ đến luống cuống chân tay, đang nghĩ xem phải làm sao để kiểm chứng thân phận đối phương thì đã nghe phía sau vang lên tiếng cười nói: “Ồ, Dương công công, lâu ngày không gặp, quả là uy thế ngất trời.”

    Hoàng Tử Hà ngẩng lên, thấy ngay một người tươi cười từ cửa ngách đi ra, sắc mặt hơi xanh xao, song vẻ trầm tĩnh dịu dàng, khí độ ung dung như gió xuân, như mặt trời mới mọc vẫn khiến người ta nhìn mà xao xuyến. Cô buột miệng: “Vương Uẩn…”

    Vương Uẩn gật đầu với cô rồi đi thẳng tới trước mặt Lý Thư Bạch, chắp tay thi lễ: “Tham kiến vương gia. Nghe nói vương gia gặp nguy hiểm trên đường, chúng tôi hết sức lo ngại. May mà trời cao phù hộ, vương gia vẫn bình yên vô sự đến được Thành Đô, đúng là phúc cho xã tắc, may cho muôn dân!”

    Lý Thư Bạch mỉm cười: “Hoàng thượng an khang mới là cái phúc của xã tắc, sao mới không gặp mấy ngày Uẩn Chi đã khác thế này. Lẽ nào cái đau da thịt lại ảnh hưởng đến cả miệng lưỡi ư?”

    Vương Uẩn thoáng sững sờ, vô thức liếc Hoàng Tử Hà, thấy cô vẫn đang giơ lệnh bài cho Phạm Nguyên Long xem, vẻ mặt không có gì khác lạ.

    Y lại cười đáp: “Vương gia mở thiên nhãn thật rồi, sao lại biết mấy hôm trước ty chức theo quân Tây Xuyên vào núi tìm kiếm bị thương vậy? Thực ra ty chức cũng là một lòng lo nghĩ cho gia thôi.”

    Hoàng Tử Hà bấy giờ mới ngoái lại, thấy mặt y xanh xao, bèn hỏi: “Xin hỏi Vương đô úy bị thương ở đâu, có nặng không?”

    “Không sao, chỉ như gai hoa hồng khẽ đâm vào tim thôi.” Vương Uẩn cười đáp.

    Hoàng Tử Hà mỉm cười, không truy hỏi mà lảng qua chuyện khác: “Gia và tôi đều hóa trang, thế mà Vương đô úy thoạt nhìn đã nhận ra ngay, thực tinh tường quá.”

    “Tinh tường gì đâu, ta nghe tiếng công công nên mới đi ra.” Y không hề che đậy, ánh mắt nhìn cô cũng thăm thẳm xa xôi: “Dọc đường đến Thục, ta đã nhiều lần nghĩ, biết đâu lại tình cờ gặp được công công… Vừa rồi thoáng nghe tiếng công công, còn tưởng mình lầm nữa chứ.”

    Hoàng Tử Hà cúi đầu nín lặng, thấy Lý Thư Bạch đã đi vượt lên, bèn lật đật chạy theo, lướt qua Vương Uẩn nãy giờ vẫn mỉm cười nhìn mình.

    Chu Tử Tần đang rầu rĩ hết sức.

    Đèn hoa đã thắp lên, Phạm tiết độ sứ cũng sắp đến, đúng lúc quan trọng thế này lại chẳng thấy tăm hơi bọn Hoàng Tử Hà? Hay là… Chẳng đợi gã đoán mò hết nguyên nhân, bên ngoài đã có người chạy đến bẩm: “Thiếu gia! Phạm tướng quân đến rồi, thân binh tùy tùng của tướng quân đã đến cửa phủ!”

    “Được rồi được rồi, mau theo cha ta ra ngoài nghênh đón đi.” Chu Tử Tần chỉnh trang lại bộ áo hồng tím lòe loẹt bằng gấm Thục rồi theo Chu Tường ra cửa đón. Phạm Ứng Tích xuống ngựa, trông thấy Chu Tường cũng chỉ chắp tay vái một cái, rồi chạy ngay đến thớt ngựa phía sau, khom lưng cung kính thưa: “Mời vương gia xuống ngựa.”

    Thoạt trông thấy người vừa bước xuống, Chu Tử Tần đã há hốc miệng, suýt nữa đánh rơi cả hàm dưới.

    Hoàng Tử Hà theo sau Lý Thư Bạch, trong lúc hành lễ, cô lén nháy mắt với Chu Tử Tần.

    Khóe môi Chu Tử Tần rần rật, gã tức tối trừng mắt với cô, mấp mấy miệng hỏi không ra tiếng: “Chuyện gì thế này?”

    Cô ném lại cho gã ánh mắt “công tử đoán xem”.

    Chu Tử Tần đành cứng họng, chợt nghe Phạm Ứng Tích phân bua với Chu Tường: “Bản tướng thực đáng chết! Chỉ chăm chăm tìm kiếm tung tích vương gia trong núi, nào ngờ gia được trời phù hộ, đã bình an vô sự đến tận đây. Đáng hận là thằng con trời đánh nhà ta hỗn xược, lại dám động vào vương gia, bản tướng đúng là chết ngàn lần cũng không hết tội…”

    “Bản vương không muốn người khác chú ý nên cố tình che giấu hành tung, lệnh lang làm sao biết được thân phận bản vương?” Lý Thư Bạch nói dối mà mặt không đổi sắc. “Chẳng qua đám thị vệ bên cạnh công tử giấu giếm gạt gẫm chủ nhân, nên bản vương mới uốn nắn chúng một chút, tin rằng ngày sau lệnh lang có thể xa tiểu nhân, gần quân tử, làm nên nghiệp lớn.”

    “Mạt tướng đáng chết, lát nữa về nhà nhất định sẽ đánh chết thằng súc sinh đó!”

    Phạm Ứng Tích nói như đinh đóng cột, khiến Phạm Nguyên Long đứng phía sau run như dẽ. Có điều mọi người đều biết giữa cha con xưa nay vẫn vậy, nên chỉ cười nói khuyên nhủ mấy câu rồi kéo nhau vào phủ.

    Hoàng Tử Hà theo sau Lý Thư Bạch bước vào cửa chính, đi thẳng đến đại sảnh. Ngang qua nhà sau chính là nơi ở của quận thú, đi hết ba dãy nhà ngang nữa là đến vườn hoa.

    Nền lát đá xanh, hàng đá giữa lối đi nhiều chỗ đã mòn vẹt dưới bước chân người qua kẻ lại. Trên những hàng đá đó, cô từng nhảy chân sáo qua, chạy vụt qua, thả bộ qua. Dường như, chúng vẫn còn lưu giữ giấu chân, cũng như một thời thiếu nữ đã vĩnh viễn trôi xa của cô.

    Đằng trước là hai bụi chuối, một rặng ngọc trâm. Ngoài vườn hoa, trên nền đá xanh kia, từng đặt thi thể của người thân cô. Dường như cô vẫn thấy rõ rành rành thi thể những người thân yêu nhất phủ vải trắng nằm đó, vậy mà giờ đây nơi này đã chăng đèn kết hoa, đàn sáo vang lừng, tiệc tùng xa hoa.

    Gia đình cô, thời thiếu nữ hoa mộng của cô, cùng hạnh phúc cả đời vĩnh viễn trôi đi không bao giờ trở lại.

    Cảnh xưa vẫn đó, người cũ nay đâu. Người từng tươi cười nhìn cô, nay đã mãi mãi tan biến trong ký ức.

    Nhìn cảnh sắc vẫn hệt như trong ký ức, mũi cô bất giác cay cay, khóe mắt cũng đỏ hoe.

    Đúng lúc này, bàn tay run rẩy của cô bỗng bị ai nắm lấy.

    Là Lý Thư Bạch. Khi ngang qua khúc quanh hành lang, khuất tầm mắt mọi người, y bèn nhẹ nhàng nắm lấy tay cô.

    Bàn tay thon dài mà rắn rỏi, ủ ấm tay cô.

    Khoảnh khắc ấy như ngưng đọng, lại như ngắn ngủi vô chừng. Cô ngước lên, trông thấy gương mặt y, thấy cả ánh mắt y tha thiết nhìn mình.

    Thấy người phía sau đi đến, y liền buông tay ra. Đôi bên lại kẻ trước người sau lặng lẽ đi như thế.

    Có điều, lòng cô đã thôi đau buồn sợ hãi. Cô biết mình vẫn còn một chỗ dựa cuối cùng. Giữa lúc tưởng chừng bị cả thế gian ruồng rẫy, vẫn có một người mãi mãi đứng bên cạnh cô, sẵn sàng nắm lấy tay mỗi lúc cô cần, trao cho cô sức mạnh lớn lao nhất.

    Đại sảnh đã bày mười hai chiếc ghế, Lý Thư Bạch ngồi trên, Phạm Ứng Tích và Chu Tường ngồi hai bên. Hoàng Tử Hà và Trương Hàng Anh ngồi phía dưới, vừa ngẩng lên nhìn sang hai bên, cô đã sững sờ.

    Bên trái chính là em rể tương lai của Chu Tử Tần, Tề Đằng.

    Còn bên phải ngồi lặng lẽ gập gối đó, là Vũ Tuyên.

    Trương Hàng Anh cũng rúng động, khe khẽ gọi Vũ Tuyên: “Sao ân công lại ở đây?”

    Vũ Tuyên nãy giờ lặng thinh, lúc này mới ngước lên nhìn gã, không hỏi ngạc nhiên: “Huynh là… người nhà của A Bảo ư?”

    “Đúng thế! A Bảo đến giờ vẫn nhắc ân công mãi đấy!”

    Vũ Tuyên mỉm cười, song lòng đương ngổn ngang trăm mối nên làm thinh không đáp. Trương Hàng Anh cũng đành ngậm miệng.

    Chu Tường là chủ nhà, bèn nâng chén kính Quỳ vương trước, Phạm Ứng Tích là Tây Xuyên tiết độ sứ, vừa kính Quỳ vương cũng là tự phạt một chén, Chu Tường là chủ, mọi người là khách nên tất cả cùng nâng chén kính ông ta! Phạm Ứng Tích là tiết độ sứ trong khi Chu Tường vừa chân ướt chân ráo đến nhậm chức, hai người lại cạn một chén…

    Yến tiệc vừa mở màn mọi người đã nhao nhao kính rượu, ông kính tôi tôi kính ông, khiến người ta không sao thoái thác. Chu Tử Tần đưa mắt ra hiệu cho Hoàng Tử Hà, cả hai len lén rời đại sảnh, chuồn sang sảnh bên ăn chè bơ.

    “Sùng Cổ mau khai thực đi! Sao thoáng cái các vị đã chạy đến chỗ Phạm tướng quân thế?”

    Hoàng Tử Hà vừa ăn vừa đáp: “Yên tâm đi, chúng tôi không nợ ân tình Phạm Ứng Tích, trái lại còn được lão ta thò thóp ra cho nắm kia. Nhờ cả vào thằng con tiếng thối đồn xa nhà đó đấy, hồi trước tôi rình bắt hắn bao lâu, đã hiểu rõ tính hắn như lòng bàn tay rồi.”

    “Công công rình ai cơ?”

    Hoàng Tử Hà vội lấp liếm: “Công tử không biết à? Thành Đô tiểu bá vương Phạm Nguyên Long cũng lừng danh kinh thành đấy chứ!”

    “Thế ư? Sao ta chẳng biết gì cả.” Rồi sực nhớ ra một chuyện, gã lại kéo cô dậy, giục giã: “Nào nào, chúng ta đi xem màn biểu diễn của Công Tôn đại nương chuẩn bị đến đâu rồi.”

    Công Tôn Diên và Ân Lộ Y đang ở hoa sảnh. Ghế đã bày sẵn ra mái hiên sát mép nước, cạnh bến thuyền phía trước. Bên trong nhà thủy tạ cũng được dọn dẹp bày biện lại, chăng một tấm màn che thêu hoa thật rộng làm phông nền, phía sau thắp đèn cho ánh sáng hắt lại, rực rỡ như hoa như gấm, mờ mờ ảo ảo phủ lên người Công Tôn Diên đứng trước màn, khiến toàn thân giai nhân lung linh như ngọc, không thể nhìn thẳng.

    Ân Lộ Y đang chấm ngáo mạch nha cạnh đó, thấy hai người đến bèn đứng dậy lấy giấy gói hai miếng mạch nha đưa cho họ.

    Hoàng Tử Hà cúi đầu nhìn miếng mạch nha trong tay, quả nhiên đã được nặn thành hình chim én, lông đuôi được cắt tỉa, hai cánh dang ra, sống động như thật. Cô không khỏi thán phục, lại nhìn sang Chu Tử Tần, trên tay gã là một con mèo đang lim dim, đầy vẻ biếng nhác, tiếc rằng đã bị gã cắn mất nửa đầu.

    Chu Tử Tần ngượng ngùng há miệng ra hỏi lại: “Cái đó… ta nhả ra được không?”

    Công Tôn Diên cười: “Nó vốn là đồ ăn mà, huống hồ chiều nay tứ muội đã nặn rất nhiều, bổ đầu cứ lấy thêm con nữa.”

    Chu Tử Tần vui vẻ chọn ngay một con hổ nhỏ: “Em gái ta dữ như con cái vậy, để ta tặng nó một con… Á, bên trên còn dính giấy này?” Miệng nói, tay gã xé ngay miếng giấy hồ bọc bên ngoài để các miếng mạch nha không dính vào nhau, nhai ngốn ngấu: “Ta thích ăn cái này lắm đấy.”

    Hoàng Tử Hà bó tay bất lực: “Vừa rồi ăn chưa đủ ư?”

    “Họ chúc qua chúc lại như thế, công công ăn được à?” Nói rồi, gã bỏ luôn con mèo mạch nha vào mồm nhai.

    Công Tôn Diên cười: “Thiếu bổ đầu rảnh rỗi thì treo đèn hộ tôi nhé, đèn lồng da trâu này nặng quá, tôi cầm hơi khó.”

    “Ồ, được thôi.” Chu Tử Tần gói con hổ mạch nha lại, nhét vào ngực áo rồi nhanh nhẹn giúp họ treo lồng đèn.


    Loại lồng đèn này có ưu điểm là bên ngoài căng một lớp da trâu dày, rất linh động, có thể dùng để che bớt một nửa hoặc một phần ánh đèn, điều chỉnh nguồn sáng.

    Công Tôn Diên nhờ họ treo hộ đèn lồng, che bớt ánh đèn rọi về phía người xem, khiến ánh sáng chỉ tập trung lên sân khấu.

    Hôm nay không có trăng, sắc trời đã tối, lại cho tắt hết đèn đuốc, chỉ để lại những lồng đèn soi sáng nhà thủy tạ, chiếu sáng bóng dáng Công Tôn Diên trước màn.

    Công Tôn Diên cầm hai thanh kiếm một dài một ngắn, đứng giữa nhà thủy tạ, dạo một vòng quen thuộc.

    Xưa nay Công Tôn Diên phục sức giản dị, hôm nay biểu diễn mới mặc vũ y lộng lẫy. Đó là một chiếc áo gấm Thục dày dặn rực rỡ như lấp lánh hào quang, xán lạn mê người. Lại búi tóc thành hình xoắn ốc thật cao, giắt ba đôi trâm vàng, hoa cài đầu thì vô số kể. Song bấy nhiêu trang sức lộng lẫy như thế, dường như cũng chỉ làm nền cho Công Tôn Diên, bởi dung mạo tuyệt mỹ ấy đủ khiến mọi kẻ chiêm ngưỡng quên hết phục sức hoa lệ, chỉ chăm chú vào nhan sắc giai nhân.

    Hoàng Tử Hà chạnh nhớ đến Vương hoàng hậu trong gác Bồng Lai cung Đại Minh mà mình từng ngưỡng mộ. Bất giác cô thở dài, mười mấy năm trước, giữa Dương Châu phồn hoa, sáu người con gái đương độ xuân thì ấy chẳng rõ còn xinh đẹp đến mức nào.

    Tiếc rằng tuổi xanh tàn tạ, tan tác đóm bay.

    Ngắm nhìn giai nhân trên đài, cô lại nghĩ, không hiểu tại sao Công Tôn Diên đến giờ vẫn chưa gả chồng? Năm xưa là ai dựng nên Vân Thiều Uyển tặng Công Tôn đại nương? Tại sao họ không ở bên nhau?

    Công Tôn Diên diễn thử mấy động tác trên đài, rồi nhìn Ân Lộ Y hỏi: “Thế này à?”

    Ân Lộ Y gật đầu, trỏ tấm màn sa phía sau nói: “Hình như sau khi xoay tròn hai lần thì lùi vào sau bức màn.”

    Công Tôn Diên gật đầu, xoay tròn theo nhịp phách của Ân Lộ Y, trong ánh kiếm lấp loáng, từ từ lùi vào sau màn.

    Hoàng Tử Hà hỏi Ân Lộ Y: “Sao Công Tôn đại nương lại quên động tác được?”

    “Điệu Kiếm Khí Hồn Thoát tối nay đại tỷ biểu diễn là do A Nguyễn cải biên lại mấy năm trước, dịu dàng, uyển chuyển, không phô bày quá nhiều kiếm khí, khá thích hợp với yến tiệc thế này.” Ân Lộ Y vừa nói vừa quan sát quang cảnh trong nhà thủy tạ, rồi cầm lồng đèn đi ra sau. Ánh đèn hắt bóng Công Tôn Diên lên tấm màn, mờ mờ ảo ảo, tư thế yểu điệu lại càng thêm phần mê ly tha thướt.

    Chu Tử Tần thì thào bảo Hoàng Tử Hà: “Thực ra ta cảm thấy nếu y phục của đại nương mỏng chút nữa thì còn đẹp hơn. Trong lúc xoay tròn, lại thêm vạt váy và tay áo tung bay, thực chẳng khác gì tiên nữ!”

    Hoàng Tử Hà khẽ đáp: “Họ là người chuyên nghề ca múa, làm gì có chuyện công tử nghĩ ra mà họ lại chưa nghĩ tới. Nhất định là còn nguyên nhân khác, ví như chất vải quá mỏng manh không hợp với điệu múa, hoặc tay áo bay bay sẽ gây vướng víu, chẳng hạn thế.”

    “Ừ phải, vẫn là công công nghĩ thấu đáo.” Chu Tử Tần phục sát đất.

    Thấy không còn sớm nữa, hai người đâm lo trốn đi quá lâu, trở về lại khó ăn nói, từ biệt bọn Công Tôn Diên, hối hả quay về.
     
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này