1. Thông báo

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan (Vui lòng click vào ảnh để xem chi tiết)

    Tuyển dịch giả cho truyện độc quyền của Tầm Hoan
    Dismiss Notice

Ngôn tình Trinh thám Trâm - Tác giả: Châu Văn Văn - Tình trạng: Full

Thảo luận trong 'Truyện dịch' bắt đầu bởi Vân Yên, 17/8/17.

Những người đang xem bài viết này (Thành viên: 0, Khách: 0)

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 13 - Môi thắm áo châu
    Quay lại chiếu rượu, không khí vẫn rất náo nhiệt, ai nấy thi nhau kẻ tung người hứng tỏ lòng trung. Thấy cha mình cũng hăng hái dự phần, Chu Tử Tần rầu rĩ bưng mặt ngoảnh đi, lẩm bẩm: “Thế nên ta mới ru rú trong nhà làm bạn với xác chết đấy!”

    Hoàng Tử Hà nhìn gã bằng ánh mắt cảm thông.

    Giữa đại sảnh ồn ào, chỉ mình Vũ Tuyên lặng lẽ ngồi đó, thản nhiên điềm đạm, như không thuộc về nơi này.

    Hoàng Tử Hà đổi chỗ với Trương Hàng Anh, sang ngồi kế bên Vũ Tuyên hỏi nhỏ: “Sao hôm nay huynh rảnh rỗi đến đây vậy?”

    Lẽ nào đã bị Tề Đằng thuyết phục, định vào phủ tiết độ sứ ư?

    Vũ Tuyên gật đầu, rồi cũng hạ giọng thật thấp, trong tiếng ồn ào chúc tụng, gần như không thể nghe thấy: “Chu quận thú sai người đến mời, ta vốn không định đi, song lại nghĩ… biết đâu gặp được muội.”

    Cô ngây người, bất giác liếc trộm Lý Thư Bạch, thấy y đang trò chuyện với Phạm Ứng Tích, mới chậm rãi hỏi: “Thế ư?”

    “Ừm…” Hắn có phần băn khoăn, phân vân cân nhắc hồi lâu mới lên tiếng hỏi, “Có chuyện này muốn hỏi muội, vụ án của cha mẹ nuôi tiến triển thế nào rồi?”

    Hoàng Tử Hà cúi đầu trầm ngâm giây lát rồi đáp: “Vừa khéo muội đang định hỏi huynh về chuyện Ôn Dương đây.”

    “Ôn Dương… có liên quan gì đến vụ đó ư?”

    Hoàng Tử Hà bình thản nhìn hắn, giọng nói cũng hết sức ôn tồn, chậm rãi, như bật ra từ lồng ngực: “Muội nghi ngờ kẻ hạ độc cả nhà mình, và hung thủ sát hại Ôn Dương, là một.”

    Vũ Tuyên run run: “Nhưng Ôn Dương chẳng có quan hệ gì với nhà họ Hoàng cả.”

    “Thế huynh nghĩ sao?” Cô nhìn sang hắn.

    Vũ Tuyên thẫn thờ quay đi, nhìn chằm chằm ly rượu trước mặt, rất lâu sau mới cụp mi nói khẽ: “Hai vụ án vốn không liên quan nhau, cuối cùng lại quy về một mối, ta thực sự chưa nghĩ ra được nguyên nhân bên trong.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu, lại hỏi: “Vậy huynh nghĩ thế nào về cái chết của Ôn Dương?”

    Cặp mắt hoang mang của Vũ Tuyên hơi ngước lên nhìn cô: “Có lẽ muội nên hỏi Tề Đằng thử xem.”

    Hoàng Tử Hà liếc Tề Đằng, hỏi khẽ: “Họ Tề thì liên quan gì đến Ôn Dương?”

    “Ta có vài lần bắt gặp họ cãi vã, Tề Đằng dường như rất khinh bỉ Ôn Dương, nói y là hạng ti tiện không có mặt mũi nào nhìn ai.”

    Hoàng Tử Hà nghĩ ngợi rồi hỏi: “Còn gì khác không?”

    Vũ Tuyên lặng thinh một lát rồi đáp: “Ta tình cờ đi ngang qua, không có ý hóng chuyện người khác nên loáng thoáng nghe đến thế là đi ngay, chỉ biết họ có cãi vã.”

    Câu chuyện không đầu không đuôi, nghe cũng như không khiến Hoàng Tử Hà chẳng biết làm sao. Cô đành thôi không hỏi nữa, quay sang ngó Tề Đằng thì thấy hắn đang nâng ly rượu, tươi cười nhìn mình, vẻ như đang suy tính.

    Hoàng Tử Hà biết, mình là người hầu cận Quỳ vương, lại đổi vị trí sang ngồi cạnh Vũ Tuyên thì thào to nhỏ như vậy, khiến Tề Đằng không vui. Bởi sáng sớm nay, hắn vừa giễu cợt Vũ Tuyên.

    Hoàng Tử Hà mỉm cười với họ Tề, rồi đổi lại chỗ cũ, ngồi xuống cạnh Tề Đằng, kính rượu hắn: “Tôi xin kính Tề phán quan một chén.”

    “Đâu dám đâu dám… Ty chức phải kính công công mới đúng.” Tề Đằng cạn chén rồi hỏi: “Công công quen Vũ Tuyên ư?”

    “Trước đây ở Trường An từng gặp Vũ học chính mấy lần.” Cô thuận miệng đáp.

    Tề Đằng cười ranh mãnh: “Cũng phải, nghe nói Vũ Tuyên huynh rất được lòng Đồng xương công chúa.”

    Hoàng Tử Hà cúi đầu nhếch mép: “Thế ư? Tôi không rõ lắm.”

    Tề Đằng vội làm bộ lỡ lời: “Ty chức cũng chỉ nghe nói thôi… Chẳng hay quý tính công công là gì?” Tuy lần trước hắn đã gặp cô một lần, song bấy giờ Hoàng Tử Hà cải trang, nên hắn không nhận ra.

    Hoàng Tử Hà đáp: “Tôi họ Dương.”

    Tề Đằng kinh ngạc ra mặt: “Chẳng lẽ công công chính là… Dương công công danh tiếng lẫy lừng, liên tục phá nhiều kỳ án bên cạnh Quỳ vương?”

    “Đâu dám.” Hoàng Tử Hà chẳng ưa gì kẻ này, song để dò hỏi tin tức Ôn Dương, đành tươi cười đáp: “Nói ra thì vụ án gần đây nhất còn liên quan đến Tề phán quan đấy.”

    Tề Đằng ngạc nhiên hỏi: “Vụ án nào cơ? Sao lại… dính dáng đến ty chức?”

    Hoàng Tử Hà quan sát nét mặt hắn, chỉ cười không đáp. Quả nhiên, Tề Đằng chột dạ hỏi: “Là… chuyện của Ôn Dương gần đây ư?”

    Hoàng Tử Hà gật đầu: “Đúng thế, nghe nói hai vị cùng tham gia một thi xã, hơn nữa từng có cãi cọ.”

    “Đúng là có cãi cọ, nhưng sau đó ty chức và y đã giảng hòa rồi. Huống hồ… huống hồ ty chức giết y làm gì chứ? Ty chức và y xưa nay không thù không oán, không liên quan gì tới nhau cả!”

    Hoàng Tử Hà gật đầu: “Vậy phán quan huynh thấy vụ án Ôn Dương và Phó Tân Nguyễn tự vẫn, có căn nguyên sâu xa gì không?”

    “Vụ đó ư…” Tề Đằng nhìn quanh rồi ghé tai cô thì thầm: “Nói thực nhé, công công hỏi tôi chuyện này là hỏi đúng người rồi đấy.”

    Hoàng Tử Hà vờ ngạc nhiên: “Thực ư? Tề phán quan biết nội tình à?”

    Tề Đằng thở hắt ra, đáp khẽ: “Phó Tân Nguyễn quả là đẹp.”

    Hoàng Tử Hà lại càng kinh ngạc: “Tề phán quan gặp cô ấy rồi ư?”

    “Mùa xuân năm nay tình cờ gặp trên núi Minh Nguyệt thôi. Bấy giờ trời ấm hoa nở, Ôn Dương và cô ấy đi đạp thanh về, ngù đỏ trên ngựa rơi ra, tôi tình cờ nhặt được đưa lại, nhác thấy dung nhan cô ấy thấp thoáng qua khe hở mạng che mặt…” Nói rồi Tề Đằng thở dài, lắc đầu: “Tiếc rằng, tiếc rằng gương mặt đẹp đẽ nhường ấy lại đầm đìa nước mắt, đương giữa ngày lành cảnh đẹp mà cô ấy khóc nức nở. Tôi cứ ngẩn ra, thầm nghĩ, người đẹp đẽ là thế, lại cùng tình lang ra ngoài đạp thanh, sao còn khóc lóc thương tâm? Nào ngờ… họ bị ngăn cản tình duyên cuối cùng… lại rơi vào kết cục bi thảm như thế.”

    Hoàng Tử Hà nhíu mày không nói.

    “Ôi, đường tình trắc trở, giai nhân lìa trần, thực đáng tiếc, đang tiếc!” Vừa nói, Tề Đằng vừa giơ chén kính cô.

    Hoàng Tử Hà mỉm cười, không nói gì thêm.

    Cũng không còn sớm nữa, sau khi nâng chén chúc phúc Quỳ vương, tất cả lũ lượt kéo đến nhà thủy tạ xem ca múa.

    Bên bờ nước, các nhạc công đã chờ sẵn, thấy họ đến liền đồng loạt nổi nhạc lên, tiếng tiêu, tiếng sênh, tiếng tỳ bà phá tan màn đêm yên tĩnh, náo nhiệt phi thường. Tất cả vừa ngồi vào chỗ thì buổi diễn bắt đầu, mở màn bằng điệu múa sen, hai mươi tư danh kỹ trẻ trung kiều diễm tay cầm đóa sen xoay tròn, đẹp đẽ khôn xiết.

    Lý Thư Bạch, Phạm Ứng Tích và Chu Tường ngồi hàng đầu tiên, Hoàng Tử Hà, Trương Hàng Anh ngồi sau lưng Lý Thư Bạch hầu hạ y, Chu Tử Tần và Phạm Nguyên Long ngồi sau Chu Tường và Phạm Ứng Tích, Vương Uẩn, Vũ Tuyên, Tề Đằng cùng mấy phó tướng của quân Tây Xuyên và mấy tham sự phủ quận thú ngồi hàng chót.

    Trong tiếng tiêu sáo tưng bừng cùng điệu múa sen rộn rã, Vương Uẩn chợt đứng dậy đi ra bờ nước đằng sau.

    Hoàng Tử Hà đang rót trà cho Lý Thư Bạch, thoáng thấy bóng y đứng lên, bèn liếc nhìn sang.

    Nào ngờ lại thấy Vũ Tuyên đứng dậy đi theo Vương Uẩn. Giữa buổi ca múa vui vẻ, hai người họ kẻ trước người sau bỏ ra ngoài, đứng sánh vai nhau bên bờ nước.

    Cô không khỏi sinh lòng nghi hoặc, tay rót nước cũng chậm lại.

    Lý Thư Bạch nghiêng đầu nhìn ra bờ nước rồi nói khẽ. “Đi đi.”

    Hoàng Tử Hà ngạc nhiên nhìn y.

    “Ta cũng tò mò, không biết hai người bọn họ nói gì với nhau.” Y ghé tai cô thì thầm.

    Một là chồng chưa cưới của cô, một là tình nhân tai tiếng lẫy lừng, sao hai người này lại chụm đầu trò chuyện cơ chứ?

    Hoàng Tử Hà nhẹ nhàng đặt ly trà trong tay xuống, rón rén đi đến gần bờ nước.

    Nói là bến thuyền, chẳng qua chỉ neo một con thuyền gỗ hải đường mô phỏng mà thôi. Vũ đài trước nhà thủy tạ rất rộng, mà mặt hồ lại nhỏ, mấy vại hoa to dưới đáy nước trồng đầy hoa súng, nước hồ xanh biếc lăn tăn, dưới ánh đèn lồng bên bờ, có thể thấy rõ những đường vân trên nền đá xanh dưới đáy hồ.

    Sóng gợn lăn tăn được ánh đèn hắt bóng lên mình hai người Vương Uẩn và Vũ Tuyên, khiến cơ thể bọn họ trông trong suốt như mặt nước giữa đêm đen.

    Bên bến chỉ có cây bụi lụp xụp, Hoàng Tử Hà khom người thì vừa đủ nấp. Cô không muốn lại quá gần sợ người ta trông thấy, nên đành dừng ở chỗ bụi cây. May mà hai người kia đứng ở đầu gió, gió đưa tiếng trò chuyện vẳng lại, tuy không nghe được đầy đủ, song vẫn lọt tai cô phần nhiều.

    Giọng Vương Uẩn chậm rãi theo gió đưa lại, vẫn ôn hòa như thế: “Hân hạnh được gặp.”

    “Vương đô úy, hân hạnh.” Giọng Vũ Tuyên lạnh lùng.

    Vương Uẩn vẫn thản nhiên cười, tựa lan can nói: “Vũ học chính sống ở đây cũng được hơn ba năm rồi nhỉ? Hẳn phải thông thuộc nơi này lắm?”

    Vũ Tuyên im lặng hồi lâu mới đáp gọn lỏn: “Phải.”

    “Tuy ta là vị hôn phu của Tử Hà, song trước nay chưa hề đến Thục, cũng chưa hề đặt chân đến phủ quận thú nàng từng sống, xưa nay vẫn lấy làm tiếc nuối.” Đoạn y quay sang hỏi hắn, “Nghe nói lúc xảy ra chuyện, nàng ở trong hoa viên, là ngôi lầu nhỏ bên kia chăng?”

    Y trỏ căn gác gần đó, thấy Vũ Tuyên gật đầu thì cười nói: “Tuy ta ở kinh thành nhưng vẫn nghe kể về nàng luôn, dù sao, nàng cũng là vị hôn thê ta chờ đợi đã nhiều năm, đương nhiên phải thường xuyên để mắt.”

    Nghe được lời này, cả Hoàng Tử Hà lẫn Vũ Tuyên đều hiểu, y không hề bỏ sót bất cứ lời đồn đại nào về quan hệ giữa họ.

    Vũ Tuyên vái y một vái, rồi xoay người toan đi.

    “Mấy hôm nay ở phủ tiết độ sứ, ta cũng được Tề phán quan kể về Vũ học chính. Tiết độ sứ Phạm tướng quân hình như cũng mộ tài học chính, còn hỏi ta có quen biết hay không.” Giọng Vương Uẩn ung dung chậm rãi cất lên sau lưng hắn.

    “Đâu dám.” Vũ Tuyên chỉ đáp cụt lủn.

    “Ta đành nói chưa có duyên quen biết, mới chỉ nghe danh ở kinh thành nên có chút ấn tượng mà thôi, không thể tiến cử được.” Vương Uẩn khẽ cười, “Có vẻ Phạm tướng quân muốn mời học chính vào phủ nhậm chức, chẳng hay học chính có đồng ý không?”

    “Đa tạ ý tốt của Vương đô úy. Sáng nay Tề phán quan gặp tôi cũng nhắc tới chuyện này, song tôi đã từ chối.”

    “Hửm? Vũ học chính không muốn ra làm quan ư?”

    “Lòng không màng phú quý, thôi đừng hẹn cung trời.” Vũ Tuyên nói rất nhỏ, cũng rất ngắn gọn, song lại toát lên vẻ kiên định vô cùng.

    Vương Uẩn cười nhẹ: “Có điều Vũ học chính đã bị cuốn vào vòng xoáy khổng lồ ấy rồi, còn muốn rút ra ư?”

    Vũ Tuyên không đáp, chừng như không hiểu ý y.

    “Vũ học chính có bao giờ thử nghĩ xem tại sao Tề Đằng lại giúp đỡ mình, tại sao Phạm tướng quân lại nhìn học chính bằng con mắt khác không? Có lúc không phải học chính bằng lòng hay không, mà là họ có cần học chính hay không, có lợi dụng được học chính hay không.” Giọng Vương Uẩn vốn ôn hòa, lúc này bỗng lạnh băng, giống như ánh nước lăn tăn gợn trên người họ vậy, thoạt trông thì lung linh ấm áp, kỳ thực lạnh buốt, chỉ da thịt mới cảm nhận được hơi lạnh.

    “Ta không hề biết, cũng chẳng quan tâm Vũ học chính thân phận thế nào, lai lịch ra sao. Ta chỉ biết Vũ học chính là người được chọn, xưa cũng thế, nay cũng vậy, có người đã vừa mắt học chính. Chỉ cần học chính gật đầu vinh hoa phú quý lập tức nằm gọn trong tay, dân chúng quận Thục ngày sau chẳng ai nhớ đến Tề Đằng người người ngưỡng mộ kia nữa, thay vào đó sẽ là học chính, há chẳng hay ư?”

    “Điều tôi muốn đã vĩnh viễn không bao giờ đạt được, dù có những thứ khác, thậm chí nắm trong tay mọi thứ trên đời, cũng còn ý nghĩa gì đâu?” Ngoài trời gió sương lạnh lẽo, giọng Vũ Tuyên cũng lạnh buốt, như nhuốm đẫm gió sương.

    Trái lại, Vương Uẩn chỉ cười: “Học chính như vậy để làm gì, muốn chứng minh mình trong sạch với ta ư? Có lúc việc giết người hết sức đơn giản, chẳng qua chỉ là ngực có thêm một cái lỗ thôi mà, phải không?”

    Hoàng Tử Hà vừa nghe vừa vắt óc đoán xem mấy câu không đầu không đuôi này có ý gì, song nghĩ mãi không ra. Có điều nghe họ trò chuyện, cô chợt thấy một luồng hơi lạnh từ gan bàn chân chầm chậm lan lên tận đỉnh đầu, giá buốt thấu xương, vô cùng đáng sợ, khiến cả người cô cứng đờ, khom lưng ngồi thần ra trong bụi cỏ, không thể cử động.


    Cô nghe thấy giọng Vũ Tuyên xa xăm như từ chân trời vẳng lại, không thể nhận rõ: “Vương đô úy không cần nói nữa, tôi cứ ngỡ đô úy sẽ nói chuyện gì đó phù hợp hơn, hóa ra đô úy chỉ muốn đi làm thuyết khách, nói mấy chuyện nhảm nhí ấy.”

    Vương Uẩn cười nhạt, nói toẹt ra: “Nhảm nhí à? Lẽ nào… Vũ học chính đã quên hết mọi chuyện lúc ở nhà Tề Đằng, quên cả Mộc Thiện đại sư cùng con cá A Già Thập Niết kia rồi ư?”

    Vũ Tuyên nín lặng, Hoàng Tử Hà nhìn qua kẽ lá, chỉ thấy được nửa gương mặt hắn, dưới ánh đèn chập chờn cùng ánh nước lăn tăn, gương mặt hoàn mỹ vô khuyết ấy đượm phần mơ hồ ảm đạm. Hắn nhìn Vương Uẩn, chậm rãi lặp lại: “Tôi không hiểu Vương đô úy đang nói gì. Tôi và Tề Đằng vốn không thân thiết, càng không hứng thú với mấy con cá huynh ấy nuôi.”

    Đằng trước chợt nghe văng vẳng tiếng tơ trúc, thì ra màn diễn của Công Tôn đại nương sắp bắt đầu.

    Hoàng Tử Hà từ từ lùi lại mấy bước, len lén rời khỏi bụi cây lẻn ra phía sau.

    Cô trông thấy Vương Uẩn đi về hướng Vũ Tuyên, ra hiệu cho hắn theo mình quay về chỗ ngồi, giọng điệu lại hòa hoãn như thường: “Có lúc không biết lại hay. Đi nào.”

    Đợi mọi người ngồi cả xuống, Công Tôn Diên mới bước lên trước tất cả, khom người hành lễ: “Hôm nay, ngày lành cảnh đẹp, Công Tôn bất tài, nguyện hiến một điệu múa gọi là Kiếm Khí Hồn Thoát cho các vị thưởng thức. Các vị ngồi đây có lẽ đã từng xem điệu mày rồi, song màn biểu diễn của tiểu nữ hôm nay nhất định khác hẳn màn trước đây các vị thưởng thức. Điệu múa hôm nay có hoa có bướm, không dính dáng đến ánh đao kiếm, chỉ có ong bay bướm lượn dưới nguyệt trước hoa, chư vị nếu ai có tình, có thể cùng người trong lòng thưởng thức điệu múa này, mới coi như không phụ thâm ý gửi gắm trong đó.”

    Mọi người nghe đều cười cười, vẻ hiểu ý.

    Lý Thư Bạch quay sang nhìn Hoàng Tử Hà, cô cũng mỉm cười nhìn y, rồi lại thấy không ổn, chần chừ một thoáng, cuối cùng vẫn nhìn về phía Vũ Tuyên, nhận ra hắn vừa mới ngồi xuống, nét mặt có phần gượng gạo. Thấy cô nhìn sang, hắn bèn ngoảnh mặt đi.

    Hoàng Tử Hà chợt chạnh lòng cảm khái. Vườn hoa này, thủy tạ này từng lưu dấu bao tiếng cười vui rộn rã, cả thời thiếu nữ của cô đều trôi qua ở nơi này, cùng với Vũ Tuyên.

    Cảnh cũ vẫn đây, chỉ có hai người bọn họ đã hoàn toàn thay đổi.


    Đương lúc trầm ngâm, cô chợt phát hiện Tề Đằng lặng lẽ đứng dậy, lùi đến hàng ghế sau cùng. Nơi ấy che màn buông trướng, có một thiếu nữ ngồi trong.

    Nghe tiếng Tề Đằng gõ nhẹ vào cửa bức màn, thiếu nữ quay đầu nhìn hắn mỉm cười.

    Đây ắt là em gái Chu Tử Tần, tuy trời tối không trông rõ mặt, song nhìn dáng vẻ ngẩng đầu, làn da trắng muốt như tỏa sáng, cũng đủ biết là người đẹp. Thực ra, có thiếu nữ nào ở tuổi trăng tròn mà không đẹp?

    Cô còn đang miên man nghĩ ngợi thì nghe thấy nhịp phách rộn ràng, Công Tôn đại nương đã bước vào nhà thủy tạ. Giai nhân đứng sau bức màn, bắt vào tư thế mở đầu, múa đôi kiếm một ngắn một dài loang loáng, hàn khí từ sau màn tỏa ra, như gợn sóng cách rèm.

    Chẳng để mọi người kịp định thần, đôi làn nước ấy đã xoay chuyển, dáng người nhỏ nhắn nhanh nhẹn từ sau màn lướt ra, những ngọn đèn lồng da trâu đằng trước đã che phía hướng về người xem, tất cả ánh sáng đều tập trung trên người Công Tôn Diên.

    Giai nhân đứng giữa vầng sáng ấy, vung kiếm bắt đầu múa. Mỗi khi xoay kiếm, ánh sáng lại vẽ nên từng hình tròn lung linh mờ ảo, tựa như thần tiên đem theo nhật nguyệt giáng hạ, vạch ra vô số vệt lưỡi liềm loang loáng giữa màn đêm. Những vệt lưỡi liềm ấy hết sức linh động, như sóng gợn, như mây trôi, phản chiếu ánh đèn, tạo thành một vầng hào quang rực rỡ bao quanh Công Tôn Diên.

    Rồi ánh trăng lưỡi liềm bỗng loang ra, cùng lúc Công Tôn Diên tung người nhảy lên, mũi kiếm rung rung điểm ra, ánh kiếm tạo thành muôn ngàn đốm sáng lấp lánh, như những vì sao quay quanh giai nhân, lung linh diễm lệ, kết hợp với bộ vũ y thêu kim tuyến hoa lệ, khiến mọi người không sao rời mắt.

    Vừa mở màn, Công Tôn đại nương đã trình diễn một màn múa kiếm uy dũng mà ảo diệu nhường ấy, khiến tất cả đờ ra. Chu Tử Tần ngạc nhiên đến nỗi đánh rơi cả hàm dưới, nắm hạt dưa trên tay cũng lả tả rơi xuống hết, song mọi người đang mải đổ dồn mắt vào Công Tôn Diên, chẳng ai để ý đến gã.

    Đúng vào khoảng khắc trời đất cũng rúng động ấy, Công Tôn Diên đột nhiên dừng lại, chập hai thanh kiếm vào nhau, ánh đèn rực rỡ thoáng chốc thành ra lập lòe u ám, thì ra Ân Lộ Y dưới vũ đài đang giơ tay chỉnh lại lớp da trâu trên lồng đèn, ánh đèn tức thì tối hẳn đi.

    Chỉ còn lại ngọn đèn sau màn hắt ánh sáng lại, Công Tôn Diên đứng bất động ngược sáng, động tác múa nổi bật trên bức màn thêu, lộng lẫy như chim công, rực rỡ như khoác lên cả ráng chiều. Đôi kiếm đã biến mất, chỉ thấy Công Tôn Diên xoay tròn như gió lốc, vạt váy, vạt áo, tay áo, dải lụa, tóc mai đều tung bay theo, vây quanh giai nhân như đóa mây dập dờn, lại như hào quang lưu chuyển. Cả bức màn phía sau cũng bay tung lên theo đà xoay của Công Tôn Diên, chẳng khác nào khói mây ngũ sắc vấn vít quanh mình.

    Công Tôn Diên xoay tròn lui vào màn sau, rồi dừng lại bất động.

    Ân Lộ Y liền ra hiệu cho các nhạc công cạnh đó, tức thì tiếng nhạc nhã cũng ngưng bặt. Giữa không khí im phăng phắc, chỉ có tiếng sáo nỉ non đưa lại, như khóc như than. Công Tôn Diên xuôi tay đứng lên, thân hình như cứng lại, đúng lúc này, hương thơm ngọt ngào lan ra, cánh hoa lả tả bay đầy vũ đài. Thì ra Ân Lộ Y đã giật sợi thừng bên tường nhà thủy tạ, mấy lồng trúc đựng đầy cánh hoa đặt trên mái hiên từ từ nghiêng đi, cánh hoa bên trong đổ xuống, bay tung trong gió, rơi đầy vũ đài.

    Mọi người thán phục nhìn những cánh hoa bay lả tả, trầm trồ không ngớt.

    Phạm Nguyên Long lố bịch nhất, nhảy dựng lên la lớn: “Ta phải lại gần xem đống cánh hoa kia là thật hay giả!”

    Nói là làm, hắn đứng phắt dậy chạy đến, suýt nữa là xô đổ mấy lồng đèn cạnh Ân Lộ Y, tóm chặt lấy tay họ Ân hét toáng lên: “Ôi chao, tỷ tỷ đỡ ta với…”

    Ân Lộ Y đang mải giúp Công Tôn Diên, thình lình bị hắn nắm lấy tay áo thì giật bắn mình, ngọn đèn trên tay cũng chao đảo đi.

    Ngoái lại trông thấy Phạm Nguyên Long mượn rượu cợt nhả mình, Ân Lộ Y giằng ra, nói khẽ: “Xin… quan khách tập trung xem múa, để khỏi làm người khác mất hứng.”

    Đừng nói mọi người ở đây, mà ngay cả Phạm Ứng Tích thấy con trai làm càn cũng giậm chân chửi thầm, định sai Tề Đằng lên lôi Phạm Nguyên Long xuống, song quay lại đã chẳng thấy ai, bấy giờ mới nhớ họ Tề đã đi xuống dưới bầu bạn với Chu tiểu thư.

    Chu Tử Tần toan chen lên, song đang ngồi ngay sau cha, nhất thời không dịch ghế đi được. Đúng lúc ấy, Vũ Tuyên ngồi ở hàng ghế thứ ba bên phải gã đã đứng dậy bước lên, đỡ lấy lưng Phạm Nguyên Long say khướt, thuyết phục: “Phạm thiếu gia say rồi đúng không? Đằng này gió mát, thiếu gia ra đây hít thở không khí chút đi.”

    Vũ Tuyên cao hơn Phạm Nguyên Long quá nửa cái đầu, họ Phạm lại đang say mèm, dù vùng vẫy cưỡng lại, song vẫn bị kéo đi.

    Ân Lộ Y cúi đầu với Vũ Tuyên, vẻ cảm kích, rồi lại quay sang nhìn lồng trúc cuối cùng.

    Phạm Ứng Tích hổ thẹn đứng lên tạ lỗi với mọi người, song tất cả chỉ cười xòa: “Thiếu gia say rượu thôi mà, không sao không sao.”

    Bấy giờ hoa đã thôi rơi, bóng dáng Công Tôn Diên in lên tấm màn sa thêu đầy hoa văn. Ánh đèn hắt lại, quanh giai nhân bắt đầu có một hai cánh bướm dập dờn bay ra. Rồi lần lượt một cánh, hai cánh, ba cánh xuất hiện trên bức màn.

    Hoa rơi đầy đất, bướm bay rợp trời, khiến ai nấy đều ngẩng lên trời trầm trồ thán phục. Hoàng Tử Hà ngước mắt ngắm bươm bướm, rồi theo cánh bướm cúi đầu nhìn sang Lý Thư Bạch.

    Một cánh hoa đỏ thắm vương trên tóc y.

    Cô thoáng lưỡng lự, cuối cùng vẫn giơ tay nhặt lấy cánh hoa. Y cảm giác được bèn quay lại thì thấy cô đang mỉm cười nhìn mình, giơ cánh hoa trong tay lên phân trần.

    Cặp mắt y long lanh trong đêm, chẳng khác nào hai vì sao sáng cuối trời Nam.

    Công Tôn Diên đứng bất động, tay áo phất phơ, mãi đến khi mười đôi bướm bay hết ra khỏi ống tay mới vung tay, chiếc áo gấm đỏ thêu chỉ vàng bên ngoài tức thì rơi xuống đất, chỉ còn một thân áo lụa trắng tinh, phấp phới múa lượn theo cánh bướm.

    Lần này động tác của Công Tôn Diên dịu dàng chậm rãi hẳn, như chắp cánh bay cùng bươm bướm, mũi chân bước nhẹ, áo lụa phất phơ, phía sau màn, ánh đèn hắt lại khiến tay áo gần như trong suốt, chẳng khác nào đôi cánh chuồn chuồn, mười ngón tay nõn nà vươn cao, muôn muốt như hoa lan.

    Chu Tử Tần nhìn Công Tôn Diên thướt tha xoay tròn theo bầy bươm bướm, hãnh diện khoe với Hoàng Tử Hà: “Sùng Cổ có biết ta bắt mười đôi bươm bướm kia vất vả thế nào không? Phải dẫn cả đám người hầu đi lùng sục suốt một buổi chiều đấy!”

    Hoàng Tử Hà phụ họa lấy lệ: “Công tử vất vả quá!” Song ánh mắt vẫn nhìn dán vào vũ đài. Đúng lúc này tiêu sáo nhất loạt rộ lên, nhịp phách dồn dập, Công Tôn Diên càng múa càng nhanh, Ân Lộ Y cũng nhanh nhẹn xoay đèn, tức thì ánh đèn sáng bừng lên, giữa vầng sáng rực rỡ, Công Tôn Diên hiện lên lộng lẫy như mặt trời ban sớm, áo lụa mỏng manh, bước chân gấp gáp, thân hình biến ảo, như nước xiết bắn tung, như băng rơi tuyết đổ, như sấm sét giữa trời.

    Rồi một tiếng khánh thánh thót vang lên, phá tan nhịp bước dồn dập khiến người ta nhìn mà hoa cả mắt, Công Tôn Diên ngừng múa, nằm rạp xuống vũ đài theo thế ngọa ngư.*

    *Ngọa ngư: một trong những động tác cơ bản của vũ công hoặc con hát. Bước sang phải, hai tay gập lại, xoay tay áo, tay phải giơ cao, tay trái để ngang bằng, chân phải đưa lên trước rồi lại vòng ra, quặt sau chân trái, đứng vững rồi từ từ ngồi xuống nằm ngả sang phải, lưng áp xuống đất, đè lên chân phải, tay trái để ra sau lưng, tay phải đặt lên ngực.

    Tất cả chìm đắm trong vũ điệu rúng động của giai nhân, không sao định thần lại được. Sau một khoảng lặng thật dài, mọi người mới ồ lên khen hay, phấn khích mãi không thôi.

    Công Tôn Diên yểu điệu đứng dậy như một đóa mây, mỉm cười khom người hành lễ, rồi nắm lấy tay Ân Lộ Y, ra hiệu với người đứng ngoài cánh gà.


    Lý Thư Bạch cười vỗ tay tán thưởng: “Xa cách bấy lâu, vũ nghệ của Công Tôn đại nương lại tiến bộ nữa rồi. Màn múa này khiến bản vương nhớ lại điệu Kiếm Khí Hồn Thoát được thưởng thức lần đầu ở cung Đại Minh, bấy giờ ta còn niên thiếu, lần đầu tiên hiểu được thế nào là tài hoa rực rỡ, kiếm khí tung hoành. Còn điệu múa hôm nay lại gộp đủ cả cương nhu, không trọng hùng hồn mà trọng đẹp đẽ, thực khó thấy lắm thay!”

    “Năm xưa khi vào cung Đại Minh, dân nữ mới hơn hai mươi tuổi, thể lực dồi dào, thân hình linh hoạt, đang ở đỉnh cao phong độ.” Công Tôn Diên vẫn thở gấp, lau mồ hôi lấm tấm trên trán cười đáp, “Giờ đây tuổi tác đã lớn, thân thể cũng kém dẻo dai, đành cải biên cho đoạn giữa chậm lại. Nói đi cũng phải nói lại, điệu múa này chính là do A Nguyễn cải biên cho dân nữ đó.”

    Hoàng Tử Hà cảm giác được nỗi tiếc nuối và cảm khái qua lời kể của Công tôn đại nương. Ân Lộ Y cũng vỗ nhẹ lên tay Công Tôn Diên như an ủi.

    Phạm Ứng Tích nào hiểu nổi câu chuyện bên trong, cặp mắt cứ đảo qua đảo lại giữa hai người, cười nói: “Công Tôn đại nương lừng danh thiên hạ hơn hai chục năm nay, quả nhiên tài hoa kinh người, dứt điệu múa mà người xem vẫn còn ngẩn ngơ. Chẳng hay đại nương có nhã hứng đến phủ tiết độ…”

    Mới nói đến đó, phía sau chợt vang lên một tiếng thét thê thảm, là giọng một thiếu nữ trẻ.

    Chu Tử Tần tức thì hét lên thất thanh: “Tử Yên!”

    Chu Tường cũng tái mặt, quay người cùng Chu Tử Tần chạy thẳng đến bức màn lụa xanh phía sau.

    Mấy kẻ hầu đứng gần đó xúm quanh chiếc ghế cạnh màn, Chu Tử Yên bên trong đã lao ra, co rúm lại bên mấy a hoàn, run bần bật.

    Chu Tử Tần chạy đến cuống quýt hỏi dồn: “Sao thế?” Đoạn ngẩng đầu nhìn sang bên cạnh, mặt lập tức xám ngoét.

    Cạnh nhà thủy tạ đèn đuốc sáng trưng, soi sáng cả bến thuyền. Trên chiếc ghế cạnh màn, Tề Đằng ngồi bất động, đầu gục xuống, cả người rũ ra. Ngực trái hắn thủng một lỗ, máu vẫn đang ồng ộc tuôn.

    Chu Tử Tần bước đến đặt tay lên mũi hắn thăm dò hơi thở, rồi lần tìm mạch đập trên cổ, cuối cùng đứng dậy nói khẽ: “Đã… tắt thở rồi.”

    Mọi người xung quanh nhất loạt la lên kinh hãi.

    Phán quan phủ tiết độ sứ đột tử tại phủ quận thú, Phạm Ứng Tích và Chu Tường đều biến sắc mặt. Chu Tường tuy biết là to chuyện, song dù sao cũng xuất thân quan văn, nhất thời chẳng biết phải làm sao, đành luống cuống đứng đờ ra đó.

    Phạm Ứng Tích vừa giận dữ vừa kinh hoảng, trợ thủ của ông ta đột nhiên lăn ra chết, ai mà biết được có phải kẻ địch nào đó định nhằm vào ông ta hay không? Hơn nữa, tại sao lại chết ở nơi này?

    Ông ta đương định trút giận thì sực nhớ Quỳ vương cũng ở đây, đành nén giận quay ra hỏi ý y: “Bẩm vương gia, phán quan phủ mạt tướng đột ngột chết ở đây, chẳng hay mạt tướng và Chu quận thú nên xử lý ra sao?”

    Lý Thư Bạch nhìn sang Hoàng Tử Hà, dịu giọng trấn an họ Phạm: “Hoạn quan Dương Sùng Cổ hầu cận ta từng phá được mấy vụ án trong kinh, cũng rất được việc. Nếu Phạm tướng quân cần thì cứ sai bảo hắn.”

    Phạm Ứng Tích vội thưa: “Mạt tướng nào dám! May có vương gia chỉ bảo, nếu Dương công công chịu rón tay giúp đỡ, ắt vụ này chỉ một mai sớm tối là phá được thôi!”

    Hoàng Tử Hà chẳng để tâm đến mấy lời đãi bôi khách sáo của họ, chỉ chắp tay vái Phạm Ứng Tích rồi xăm xăm đi đến cạnh thi thể, tra xét các dấu vết trên người.

    Nét mặt Tề Đằng vẫn bình thản, hẳn là sự việc xảy ra quá đột ngột, hắn chưa kịp phản ứng đã bị giết, nên gương mặt không co rúm ró lại vì kinh hoảng. Thân hình hắn vẫn còn mềm, chỉ rũ ra dựa vào lưng ghế, hai tay buông thõng, đầu gục xuống. Nếu không có lỗ máu trên ngực, người khác còn tưởng rằng hắn chỉ ngủ gật.

    Chu Tử Tần nói nhỏ vào tai cô: “Nhìn mu bàn tay trái kìa.”

    Hoàng Tử Hà cầm cả hai bàn tay họ Tề lên nhìn kỹ. Mu bàn tay phải hắn vẫn bình thường, nhưng ở tay trái lại có mấy đốm lấm tấm. Phải ghé mắt nhìn kỹ mới nhận ra đó là mấy vết thương nhỏ xíu như bị mèo cắn, hoặc bị dầu sôi bắn vào, rải rác trên vùng da nối giữa mu bàn tay với cổ tay.

    “Là vết thương từ mấy ngày trước, đã đóng vảy rồi. Mấy hôm nữa sau khi nhạt màu sẽ khỏi hẳn, chắc chỉ để lại vết sẹo khó thấy thôi.” Hoàng Tử Hà nhận xét.

    Chu Tử Tần gật đầu: “Đúng thế. Có điều chẳng biết mấy vết thương này từ đâu mà ra, có liên quan đến vụ án mạng này không.”

    “Vết thương nhỏ từ mấy ngày trước và cái chết hôm nay… có vẻ không liên quan gì đâu.” Vừa nói, Chu Tử Tần vừa lúi húi viết biên bản khám nghiệm.

    Thấy trên người Tề Đằng không có gì lạ nữa, Hoàng Tử Hà đứng dậy quan sát xung quanh.

    Tất cả mọi người xem múa đều tập trung lại khoảng đất trống trước nhà thủy tạ, nơi này ba mặt là nước, nếu muốn đột nhập, ngoại trừ băng qua nhà thủy tạ, thì chỉ còn cách đi từ dưới nước lên.

    Nhưng cô dạo một vòng quanh chẳng hề thấy dấu vết có người lội nước theo thềm đá đi lên. Đừng nói là bến nước, ngay dưới gốc cây bụi cỏ gần nhà thủy tạ hay phiến đá bên hồ cũng không hề có vết nước.

    Trong nhà thủy tạ đã dọn sẵn trà bánh, Chu Tường và Phạm Ứng Tích ngồi hầu trà Lý Thư Bạch. Có điều Phạm Ứng Tích thì mải nghĩ đến cái chết của thuộc hạ, còn Chu Tường lại chính mắt nhìn thấy con rể tương lai chết thảm, nên chẳng còn bụng dạ nào mà thưởng trà.

    Riêng Lý Thư Bạch vẫn thản nhiên uống trà, thấy cô lặng lẽ quay về bèn đặt chén xuống hỏi: “Không có dấu vết đột nhập ư?”

    “Vâng, hung thủ chỉ nằm trong số những người ở đây thôi. Các người hầu phục dịch tại đây tối nay, tôi, Chu bổ đầu, Trương Hàng Anh, Vũ Tuyên, Vương đô úy, Chu cô nương, Chu quận thú, Phạm tướng quân, thậm chí cả… gia, đều bị tình nghi.”

    Lý Thư Bạch nhíu mày đứng dậy cùng cô rời khỏi nhà thủy tạ, nhìn chằm chằm Chu Tử Yên vẫn run bần bật cạnh đám a hoàn.

    Hoàng Tử Hà hiểu ý y, bèn ghé tai nói nhỏ: “Đúng thế, lúc xảy ra chuyện, Công Tôn đại nương đang múa, thời gian ước chừng chưa đầy một nén nhang. Người xem múa đều ngồi phía trên, nếu lén lút lẻn ra sau giết người, dù đèn có tối, cũng sẽ bị người ta trông thấy bóng. Chỉ có bức màn kia, vì Chu cô nương ngồi bên trong, nên được đặt tít dưới cùng. Bốn a hoàn hầu cận cô ta thấy Tề Đằng đến cũng lui ra đứng dưới gốc cây cạnh đó. Bởi vậy, kẻ có khả năng ra tay mà không khiến người ra chú ý nhất, chính là người bên cạnh hắn, Chu Tử Yên.”

    Lý Thư Bạch rời mắt khỏi Chu Tử Yên, lạnh nhạt nhận xét: “Một cô gái sắp xuất giá lại nhẫn tâm xuống tay sát hại vị hôn phu ngay trước mặt mọi người, quả khiến người ta kinh hãi.”

    “Ngoài việc thẩm vấn Chu tiểu thư ra, còn một chuyện nữa, chính là phải mau khám người xem có thu được hung khí không. Nếu không thấy, chắc phải sai người lặn xuống hồ vớt thử.”
     
  2. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 14 - Bên ngoài màn lụa
    Bốn bổ khoái phủ Thành Đô ập đến ngay trong đêm, soát người tất cả những ai có mặt tại đó, kể cả Vũ Tuyên.

    Hắn lặng lẽ cởi áo ngoài ra để họ khám xét. Có điều mặt hắn đầy vẻ bực dọc cố nén.

    Vương Uẩn ở phía sau hào sảng đứng dậy ý bảo đám bộ khoái cứ việc soát người mình. Đợi họ khám xét xong xuôi, y mới cười bảo Vũ Tuyên: “Cảm giác bị nghi ngờ khó chịu lắm phải không?”

    Vốn chẳng quen thân gì với y nên Vũ Tuyên không đáp lời, chỉ đưa mắt nhìn.

    “Điều mình không muốn thì đừng làm với người khác, đúng không nào?” Y lại thong thả tiếp.

    Vũ Tuyên hiểu Vương Uẩn đang muốn nhắc tới việc mình trình thư tình của Hoàng Tử Hà lên cho tiết độ sứ Phạm Ứng Tích, khiến cô trở thành hung thủ hạ độc cả nhà, phải lưu lạc chân trời góc bể.

    Hắn lặng lẽ quay sang nhìn Hoàng Tử Hà.

    Cô đứng sau Quỳ vương, Quỳ vương đang ngoái đầu nói gì đó với cô. Xung quanh ồn ào nhốn nháo, cô không nghe rõ nên Quỳ vương phải cúi xuống ghé lại gần cô nói cho rõ.

    Gương mặt luôn lạnh băng nọ, giờ lại lộ vẻ ôn hòa hiếm thấy, trong đôi mắt không rời cô một khắc ấy tràn ngập dịu dàng, cơ hồ sắp sánh ra, không sao giấu nổi.

    Vũ Tuyên sầm mặt, song ngay lập tức nhìn sang Vương Uẩn, nói rất khẽ, chỉ đủ lọt tai y: “Cô ấy thì liên quan gì đến tôi? Tôi đâu có hôn ước với cô ấy?”

    Giọng hắn bình thản lạnh nhạt, song lại khiến vị hôn phu của cô là Vương Uẩn thấy lòng thắt lại.

    Nhưng xưa nay y rất giỏi kiềm chế, chỉ nén giận cười bảo Vũ Tuyên: “Đúng thế, có điều ta đến giờ vẫn không hiểu, rốt cuộc là có danh có phận thì hơn, hay không danh không phận lai lịch bất minh thì hơn, huynh thấy thế nào?”

    Vũ Tuyên lạnh lùng quay đi, không đáp.

    Đám bổ khoái đã khám xét rất nhiều người ở đây, song chưa thu được manh mối gì.

    “Bổ đầu, có… có phát hiện mới này…” Một tên bổ khoái lật đật chạy đến thì thào với Chu Tử Tần, nhưng cứ lúng búng mãi không nói ra câu.

    Chu Tử Tần bèn nhéo tai hắn: “Nói mau nói mau! Lúc này rồi còn gì mà không nói được chứ, ngươi định làm ta sốt ruột chết à?”

    “Là thế này… Vạt áo Phạm đại thiếu gia…” Hắn thì thầm.

    Chu Tử Tần nghe nói vội chạy ngay đến chỗ Phạm Nguyên Long. Tên khốn này vừa nãy bị Vũ Tuyên lôi đi, gục đầu vào bụi cây nôn mửa, rồi nằm lăn ra đó ngủ vùi, giờ bị xốc dậy, đang ngồi uống canh dã rượu, cả người bê bết bùn đất và chất nôn.

    Chu Tử Tần ngại bẩn, ngồi thụp xuống nắm ngay lấy vạt áo hắn xem xét, thì thấy hai vết máu đỏ tươi.

    Phạm Nguyên Long thấy thế bèn giật vạt áo lại, làu bàu: “Vén áo người ta nhìn cái gì? Ta với ngươi cũng là đàn ông, có gì mà xem…”

    Phạm Ứng Tích thấy tình hình không ổn, bèn chạy đến xách cổ con trai lên, vừa giận vừa cuống: “Thằng khốn nạn này, dưới vạt áo mày là gì đấy?”

    Phạm Nguyên Long đáp quấy quá cho qua chuyện: “Chẳng phải chỉ… dính cái gì thôi ư?”

    “Dính cái gì? Mày nhìn lại xem!” Phạm Ứng Tích quát lớn.

    Chu Tường thấy vậy bèn bước ra đóng vai người tốt: “Phạm tướng quân, mọi chuyện còn chưa rõ ràng, lệnh lang dường như vẫn chưa tỉnh rượu, tướng quân đừng làm cậu ấy sợ, đợi lát nữa rồi từ từ hỏi, có được không?”

    Phạm Ứng Tích cả giận, dằn phắt vạt áo vừa thối vừa bẩn của con mình ra, đẩy hắn ngã xuống đất: “Đồ súc sinh! Mày uống say làm ra trò gì đó hả? Muốn chết à!”

    Lý Thư Bạch cũng khuyên can: “Chưa hẳn đã là lệnh lang. Dù sao, dưới gầm trời này làm gì có hung thủ nào sau khi sát nhân lại lau hung khí vào người mình rồi quăng đi chứ?”

    Phạm Ứng Tích như trút được gánh nặng, vội quay sang vái Lý Thư Bạch: “Vương gia nói rất phải, mạt tướng quả là cả giận mất khôn rồi!”

    Chu Tường liền bảo Chu Tử Tần: “Mau tra xét cho rõ ràng! Nhất định phải tìm được hung thủ thật mau, xem kẻ nào dám vu vạ cho Phạm công tử!”

    Chu Tử Tần vâng dạ rối rít, rồi cùng Hoàng Tử Hà ngồi xuống xem xét vết máu trên người Phạm Nguyên Long.

    Vết máu vừa khô, vẫn còn tươi rói , kéo thành vệt dài, hai vệt không bằng nhau. Rõ ràng sau khi giết người, hung thủ đã tóm lấy vạt áo Phạm Nguyên Long, lau hung khí đầm đìa máu vào đó, còn cẩn thận lau cả hai mặt, nên mới tạo thành hai vệt dài.

    Chu Tử Yên nãy giờ co rúm người run lẩy bẩy, chợt trỏ Hoàng Tử Hà cao giọng: “Còn vị công công này chưa bị soát người?”

    Chu Tường nạt: “Láo toét! Dương công công là thần thám lừng danh thiên hạ, phá hàng loạt kỳ án ở Trường An, lại là người bên cạnh vương gia, không bị tình nghi!”


    Hoàng Tử Hà ngượng nghịu nhìn mấy bổ khoái phụ trách khám xét. Việc này vốn do cô và Chu Tử Tần đề nghị, tuy biết hung thủ gần như chắc chắn không giữ hung khí nữa, song theo lệ vẫn phải khám xét, ngờ đâu giờ lại thành ra gậy ông đập lưng ông.

    Chu Tử Tần đang kiểm tra thi thể Tề Đằng, lần tay theo miệng vết thương hòng suy đoán đặc điểm hung khí, nghe bọn họ nói chuyện thì đứng phắt dậy, hăng hái giơ hai tay bê bết máu lên, “Để ta khám để ta khám! Ta chưa khám người hoạn quan bao giờ, phải nghiên cứu xem tại sao thân hình Sùng Cổ lúc nào cũng đẹp đẽ hơn người ta, nhất định là xương cốt Sùng Cổ không giống người thường! Đừng hòng ai tranh với ta! Ai tranh ta sẽ cho kẻ đó biết tay!”

    Hoàng Tử Hà câm nín, đành ngoái lại nhìn Lý Thư Bạch cầu cứu.

    Lý Thư Bạch đứng phía sau bỗng đặt nhẹ tay lên vai cô: “Vừa rồi Chu quận thú cũng nói rồi đấy, hắn là người phủ Quỳ, mọi người nể mặt bản vương nên đều cho rằng khám người hắn là bất kính với Quỳ vương phủ. Song bản vương xưa nay công bằng liêm chính, hắn cũng có mặt ở hiện trường lúc xảy ra vụ án nên buộc phải khám người, hơn nữa sẽ do bản vương đích thân khám người, một là để các vị khỏi e ngại mạo phạm vương phủ, hai là để bảo đảm công bằng, chẳng hay các vị có ý gì khác không?”

    Tất cả liền thưa: “Đương nhiên không có! Vương gia công chính liêm minh!”

    Chỉ có Vương Uẩn cúi mặt cười, Vũ Tuyên đứng lẳng lặng dưới gốc cây, Chu Tử Tần xịu mặt ấm ức nhìn họ.

    Lý Thư Bạch lại nói: “Trương Hàng Anh giờ cũng thành người của ta rồi, Tử Tần chẳng phải tấm tắc khen hắn thân thủ xuất sắc ư? Thử xem.”

    “Hả? Giao Trương Hàng Anh cho tôi ư? Tốt quá!” Chu Tử Tần lập tức rửa sạch tay lao đến, nắn nắn cánh tay Trương Hàng Anh trầm trồ: “Bắp tay Trương nhị ca rắn chắc thật đấy, để tôi cảm nhận tí nào!”

    Chu Tường chẳng biết nói sao, đành đằng hắng một tiếng. Vừa xảy ra chuyện, phán quan hầu cận tiết độ sứ đột ngột qua đời, thằng con trời đánh có thể bớt phóng túng chút không?

    Chu Tử Tần lè lưỡi, rồi đành khám xét tử tế một lượt, kết luận: “Không tìm thấy hung khí.”

    Lý Thư Bạch cúi đầu nhìn Hoàng Tử Hà, hỏi khẽ: “Được không?”

    Hoàng Tử Hà khẽ gật đầu, rồi ngước lên nhìn y. Nhớ lại lúc nguy ngập, giữa rừng khuya lạnh lẽo, cô đã ôm y thật chặt, dùng thân mình sưởi ấm cho y. Rồi trong những lần thay thuốc, cô cũng đã nhìn thấy và chạm vào thân trên để trần của y.

    Vậy mà giờ đây hồi tưởng lại cứ như trong mộng. Da thịt từng dán chặt vào nhau, hơi thở từng vấn vít lấy nhau, những xao xuyến có lúc ngập lòng, dường như đã được giấu vào bóng đêm, trở thành bí mật của họ. Từ đó về sau, dù chẳng nói ra miệng, song giữa đôi bên đã khác hẳn khi trước.

    Thế nên cô chỉ cúi đầu, ngoan ngoãn giơ hai tay lên. Cô cảm giác được tay y đặt lên vai mình, rồi theo cánh tay trượt xuống đến cổ tay áo. Lúc sờ đến cổ tay, đầu ngón tay y khẽ chạm vào lòng bàn tay cô, cả hai đều cảm thấy máu trong huyết quản như chảy mạnh hẳn lên.

    Y buông tay cô ra, sờ một vòng quanh eo cô, xác nhận vòng eo mềm mại ấy quả thật không giắt vật cứng, rồi cuối xuống vuốt dọc hai bên đùi cô xuống đến tận gót chân.

    Như có một sợi dây leo dịu dàng quấn quanh thân cô vậy. Cô bỗng nghĩ, nếu bị trói thế này thì cũng chẳng có gì khó chịu.

    Cuối cùng y thu tay lại, đứng dậy nhìn cô, không nói không rằng.

    Thật lạ, kẻ khám xét là y lại thấy hơi căng thẳng, hơi thở có phần dồn dập. Trái lại, cô vẫn thản nhiên như không, mỉm cười nhìn y, thậm chí còn giơ mũi chân lên lúc lắc: “Trong giày cũng không có gì cả.”

    Nhìn cô cười, y chợt thấy lòng mình thắt lại, một luồng hơi nóng lạ lùng lan ra khắp toàn thân, khiến đôi tay va chạm vào cô bất giác siết chặt.

    Hồi lâu, y mới ngoái lại nhìn tất cả, kết luận: “Không có hung khí.”

    Thế là mọi người có mặt tại hiện trường đều đã bị khám người, không tìm thấy hung khí.

    Chu Tử Tần bèn phân công các bổ khoái lục soát khắp nơi một lượt, lại tìm mấy kẻ biết bơi đến, rút sạch nước dưới hồ, tìm hung khí.

    Trước nhà thủy tạ là một khoảng sân bằng phẳng lát đá xanh ngay hàng thẳng lối. Để tiếp đón khách quý, từ sáng đám người hầu đã nhổ sạch cỏ dại mọc giữa kẽ đá bên hồ, quả là sạch bóng như lau như li.

    Chu Tử Yên bị u già khám người, lòng rất khó chịu, thấy Chu Tử Tần chỉ mải phân công người xuống nước mò hung khí thì bực bội bảo: “Huynh đúng là ngớ ngẩn, đến giờ vẫn chưa nhận ra à? Công Tôn đại nương vừa biểu diễn kia, chẳng phải có hai thanh kiếm đấy thôi!”


    Chu Tử Tần bất lực nhìn em gái: “Trước khi Công Tôn đại nương lên đài, muội không nhìn thanh kiếm à? Đều là kiếm mũi tù đấy, được chưa hả?”

    Công Tôn Diên vừa rồi cũng bị khám người, lặng lẽ đứng đó. Lúc này nghe thấy, bèn đứng dậy đi đến cạnh lan can, rút hai thanh kiếm trình lên trước mặt mọi người.

    Quả nhiên hai thanh kiếm một dài một ngắn nọ đều tù, thân kiếm còn quét một lớp sơn bạc, hòng tăng hiệu ứng lấp lánh, song đừng nói giết người, e rằng đến cọng cỏ cứng còn không chém đứt nổi.

    Chu Tử Tần vừa cầm vào tay đã thấy khang khác, buột miệng ồ lên rồi búng nhẹ vào thân kiếm, chỉ nghe “bộp” một tiếng khe khẽ, thì ra hai thanh kiếm này chẳng những là kiếm tù, mà còn làm bằng gỗ. Chuôi kiếm thếp vàng chạm hoa, khảm đủ loại đá quý, song thân kiếm lại bằng gỗ.

    Công Tôn đại nương giải thích: “Tôi cũng lớn tuổi rồi, cầm kiếm sắt múa thì nhọc lắm. Hơn nữa tôi phải hay múa kiếm trước mặt quý nhân, dùng kiếm sắt càng không hay, lại thêm đi đường xa, đem theo không tiện, nên mấy năm trước đã chế ra hai thanh kiếm gỗ này, cốt chỉ cần đẹp mắt đấy thôi.”

    Chu Tử Tần tức cười liếc Chu Tử Yên, thấy em gái vẫn không chịu nhấn ai, bèn kéo Vương Uẩn đến: “Nào nào, Uẩn Chi huynh lại đây ngửi giùm tôi xem bên trên có mùi máu không.”

    Vương Uẩn phì cười: “Ta chỉ giỏi bình phẩm hương thơm thôi, sao lại bắt ta ngửi cái này.”

    “Ôi dào, dù gì cũng là mũi thính mà.” Chu Tử Tần gí luôn hai thanh kiếm gỗ vào mũi y.

    Vương Uẩn bất đắc dĩ đành hít hít mấy cái rồi lắc đầu: “Không có mùi máu, nhưng thoang thoảng mùi đất.”

    Hoàng Tử Hà đón lấy đôi kiếm xem xét, phát hiện chuôi thanh đoản kiếm dính ít bùn cát.

    Công Tôn Diên cũng trông thấy, bèn lo lắng phân trần: “Lúc chuyển màn, tôi đặt kiếm xuống đất rồi mải múa không để ý tới, hy vọng đá quý và hoa văn thếp vàng trên đó không bị tróc.”

    Hoàng Tử Hà liếc nhìn nền nhà thủy tạ, rồi lại nhìn bộ đồ sạch sẽ chỉnh tề của Công Tôn Diên, im lặng trả lại đôi kiếm.

    “Sùng Cổ mau lại đây xem vết thương này.” Thấy nước hồ trong chốc lát không thể rút cạn ngay được, Chu Tử Tần bèn kéo cô đến cạnh thi thể, trỏ vết thương nói: “Ta vừa kiểm tra vết thương, đoán rằng hung khí là một con dao găm bề rộng chừng một tấc, lưỡi mỏng như lá lúa. Hung thủ ra tay rất nhanh, xem ra là kẻ lão luyện, một dao đâm trúng ngay tim, khiến nạn nhân không kịp kêu la đã chết ngay.”

    Hoàng Tử Hà đang mải nhìn miệng vết thương thì Vương Uẩn đi đến, đứng phía sau nói: “Bấy nhiêu người chúng ta ngồi đây xem múa, tuy Tề phán quan ở hàng ghế sau cùng, song bên cạnh vẫn còn Chu tiểu thư, vậy mà hung thủ dám xuống tay ngay trước mặt mọi người chẳng phải gan to bằng trời ư?”

    Hoàng Tử Hà gật đầu, lại chăm chú quan sát nét mặt Tề phán quan, thấy má hắn có một vệt hồng. Cô soi đèn nhìn thật kỹ, ra là một vết đâm nho nhỏ.

    “Dấu móng tay.” Hoàng Tử Hà nhìn kỹ rồi nhận xét.

    Chu Tử Tần lật tay Tề Đằng lên xem, thấy móng tay hắn vừa cắt, hơn nữa còn cắt rất ngắn.

    “Hẳn là hung thủ đứng phía sau, tay trái bịt miệng Tề phán quan, tay phải đâm dao vào ngực. Móng tay hung thủ bấm vào má nạn nhân, tạo thành vệt máu.” Hoàng Tử Hà đoán.

    Chu Tử Tần tức thì nhảy dựng lên: “Kiểm tra móng tay! Xem những ai để móng tay?”.

    Kẻ để móng tay dài nhất là Chu Tử Yên, sau đó là bốn a hoàn, tiếp theo đến lượt Ân Lộ Y và Công Tôn Diên. Trừ mấy nữ tử, còn có mấy người hầu chưa kịp cắt móng tay.

    Chu Tử Tần nhắn nhó: “Phải… phải thẩm vấn em gái ta ư?”

    Hoàng Tử Hà ngồi xuống, rút cây trâm ngọc trên đầu ra: “Thì sao?”

    Chu Tử Tần ngồi xuống cạnh cô mếu máo: “Ai dám thẩm vấn con hổ cái ấy? Trừ phi chán sống rồi!”

    “Nhưng lệnh muội bị tình nghi nhiều nhất, đúng không nào?” Hoàng Tử Hà vạch ra vị trí của mọi người, “Bấy giờ lệnh muội ngồi phía dưới cùng, trong màn lụa, bốn a hoàn thì lánh ra đứng dưới gốc cây phía trước… Nói cách khác, nếu lệnh muội muốn giết người thì chẳng một ai phát hiện được, vì tất cả đều ở phía trước.”

    Chu Tử Tần gật đầu, rồi lại phản bác: “Nhưng… nó khó khăn lắm mới gả đi được, sao có thể giết vị hôn phu của mình chứ?”

    Hoàng Tử Hà quay sang nhìn Chu Tử Tần, thấy gã tuy cứng miệng nhưng đã lo lắng đến nỗi mồ hôi đầy mặt, bèn thở dài: “Lau mồ hôi đi, công tử đúng là người anh tốt.”

    Dứt lời, cô lại sực nhớ, mình cũng từng có một người anh trai như thế, lúc nào cũng chê bai em gái cả ngày chỉ biết vục mặt vào thi thể, nhưng mỗi khi cô gặp chuyện, anh cô luôn đứng chắn trước mặt, xắn tay áo gào lên: ai dám động vào em gái ta?

    Cô bất giác chạnh lòng, cũng không trêu gã nữa, chỉ nói giản dị: “Yên tâm đi, lệnh muội không phải hung thủ đâu.”

    Chu Tử Tần mừng rỡ gặng: “Sao lại nói thế?”

    “Vì bấy giờ lệnh muội ngồi trong màn lụa, còn Tề Đằng ngồi bên phải cô ấy.” Hoàng Tử Hà trỏ bức màn lụa bên cạnh. Đó vốn là cái khung bên trong kê chõng tre, ngoài phủ the lụa buông dài chấm đất dùng ngăn ruồi muỗi ngày hè, để khuê nữ ngồi trong cũng rất ổn. “Theo lý mà nói, lệnh muội đúng là có cơ hội vén màn lên rồi dùng dao găm đem theo người đâm chết Tề Đằng, song vết móng tay trên má Tề Đằng đã rửa sạch hiềm nghi cho cô ấy.”

    Nói đoạn cô ra hiệu cho Chu Tử Tần vào màn, ngồi lên chõng tre, thử mô phỏng động tác giết người với thi thể của Tề Đằng đang ngồi ở bên phải.

    Chu Tử Tần ra sức nghiêng người, nhưng làm thế nào cũng thấy không ổn.

    Hoàng Tử Hà giải thích: “Công tử xem, khi ngồi trên chõng tre rồi nghiêng người sang phải, tay trái bịt miệng Tề Đằng, tay phải vung dao lên, nhất định sẽ…”

    Chưa nói hết câu đã nghe bịch một tiếng, Chu Tử Tần mất thăng bằng, ngã lộn đầu khỏi chõng.

    “Ngã.” Đúng lúc ấy, Hoàng Tử Hà cũng buột ra tiếng cuối cùng.

    Chu Tử Tần vuốt mặt đứng dậy: “Thế nên em gái ta được rửa sạch nghi ngờ rồi hả?”

    “Ừm. Trong những kẻ ở đây, có mấy người rất khó có khả năng gây án.” Hoàng Tử Hà dùng mũi trâm chỉ địa thế vừa vẽ, rồi chấm vào bức màn lụa: “Một là lệnh muội, nếu cô ấy muốn giết người thì phải ra khỏi bức màn, vòng đến sau lưng Tề Đằng đâm chết Tề phán quan, song Tề Đằng nhất định không rời mắt khỏi cô ấy, làm sao ra tay mà không bị chú ý được?”

    “Còn ai nữa?” Chu Tử Tần hỏi dồn.

    Hoàng Tử Hà trỏ cây trâm vào nhà thủy tạ: “Công Tôn đại nương. Lúc xảy ra chuyện đại nương đang múa trên đài, tất cả ánh mắt đều đổ dồn vào bà ấy, nên không có thời gian và cơ hội gây án.”

    Chu Tử Tần gật đầu tác thành, sau đó cũng trở vào bên cạnh chiếc đèn lồng lớn trước nhà thủy tạ: “Còn cả Ân tứ nương phụ trách chỉnh đèn, rắc hoa và các đạo cụ khác nữa, tứ nương luôn đứng bên cạnh chiếc đèn của thủy tạ, nếu bỏ đi sẽ bị tất cả mọi người trông thấy.”

    “Đúng, thế nên Ân tứ nương cũng không có cơ hội. Ngoài ra còn Quỳ vương gia ngồi hàng đầu, lệnh tôn và Phạm tướng quân, ba người họ ngồi ở trung tâm chú ý, hễ đứng lên là bị phát hiện ngay, đừng nói lẻn xuống dưới giết người.” Hoàng Tử Hà dùng trâm gạch bỏ ba người này: “Ngoài ra còn những người đứng hầu bên cạnh họ là tôi, công tử và Trương nhị ca, nhưng khả năng gây án của chúng ta lớn hơn một chút, vì có thể nhân lúc đèn tối, hoa rơi, Công Tôn đại nương thả bươm bướm, mọi người còn đương kinh ngạc thì len lén lẻn ra sau rồi quay trở lại. Chỉ cần may mắn, biết đâu lại che mắt được đám người đằng sau?”

    “Vậy chẳng phải đám người Vương Uẩn, Vũ Tuyên, Phạm Nguyên Long còn đáng nghi hơn chúng ta ư? Nếu họ lẻn ra phía sau gây án thì khả năng thành công còn cao hơn nữa đấy.”

    “Đúng thế, trong vụ án này, kẻ càng ngồi phía sau càng đáng ngờ. Hơn nữa Phạm Nguyên Long và Vũ Tuyên giữa chừng còn bỏ ra ngoài, nên hàng ghế cuối chỉ còn mình Vương Uẩn.” Nói đến đây, Hoàng Tử Hà lau mũi trâm vào người Chu Tử Tần rồi cắm lại lên đầu: “Còn cả các nhạc công ngồi bên nhà thủy tạ diễn tấu, bốn a hoàn dưới gốc cây, sáu người hầu bưng bê phục vụ, tổng cộng mười người, đủ để công tử thẩm vấn một lượt tối nay rồi đó.”

    Song Chu Tử Tần chẳng để tâm mấy chuyện đó, mà kéo ống tay lên săm soi: “Sao công công lại lau trâm bẩn vào người ta?”

    “Vì tay áo công tử dính máu, đằng nào chẳng phải thay.”

    “Cũng đúng nhỉ.” Chu Tử Tần nói, rồi tiện thể cởi phắt áo ngoài ra vứt xuống đất.

    Thấy đã đến canh ba, Lý Thư Bạch và Phạm Ứng Tích bèn cáo từ vế trước. Lúc tiễn khách, Chu Tường còn dặn Chu Tử Tần phải tra xét vụ án cho kỹ.

    Gã vội vàng nắm ngay lấy cương ngựa của Lý Thư Bạch, vật nài: “Vương gia để Sùng Cổ ở lại đây đi, dù thế nào tôi cũng phải nhờ công công giúp đỡ, gia biết đấy tôi không có công công đâu có được!” Lý Thư Bạch quay sang Hoàng Tử Hà, cô bèn khẽ gật đầu với y, rồi theo Chu Tử Tần quay vào.

    Vườn hoa phủ quận thú thực ra không rộng lắm, nên bến thuyền cũng chỉ mô phỏng vậy thôi, chủ yếu vẫn là một bình đài lớn.

    Theo bậc thềm cạnh bình đài đi xuống là hồ nước. Giờ nước đã bị rút cạn, trơ đáy hồ lát đá xanh và bùn rác đọng lại, chỉ tội cho các bổ khoái phải thọc tay vào nước bùn bới tìm hung khí. Song đừng nói hung khí, đến thép mỏng cũng chẳng thấy mẫu nào.


    “Lẽ nào hung khí quá mỏng quá bé nên lúc rút nước cũng bị hút theo rồi?” Chu Tử Tần băn khoăn.

    Hoàng Tử Hà lắc đầu: “Khi rút nước người ta đã dùng lưới đồng bịt lỗ thoát nước, hung khí rộng một tấc không trôi qua được đâu.”

    Cuối cùng đám bổ khoái khốn khổ đành gọi người hầu trong phủ lại, giội từng thùng nước xuống hồ xối sạch bùn rác, hòng tìm cho ra hung khí.

    Đằng kia tìm hung khí, đằng này Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần cũng bận rộn chuẩn bị hồ sơ, bắt đầu thẩm vấn mọi người.

    Phạm Nguyên Long uống rất nhiều rượu, ban nãy sợ quá có tỉnh táo đôi chút, nhưng giờ lại bắt đầu gà gật, nên họ hỏi hắn trước.

    Hắn ngồi đối diện với Chu Tử Tần, ôm đầu làm bộ thương xót, nhưng hơi rượu vẫn phả ra nồng nặc, giọng nói có phần lè nhè: “Tề đại ca chết thảm quá! Ta nhất định phải báo thù cho huynh ấy! Chu thiếu bổ đầu phải bắt cho được hung thủ đấy! Bằng không… Bằng không chẳng phải uổng tình cảm giữa huynh đệ ta ư…”

    Chu Tử Tần rủa thầm, ta với ngươi lấy đâu ra tình huynh đệ?

    Kẻ say thường lắm lời, chẳng phải hỏi gì, Phạm Nguyên Long đã tông tốc khai ra: “Vụ án này khỏi cần tra nữa, chắc chắn là Vũ Tuyên làm, Vũ Tuyên ấy mà!”

    Vũ Tuyên chắp tay sau lưng đứng cách đó không xa, ngẩng đầu nhìn sao thưa trên trời, chẳng buồn phản bác.

    “Sao lại bảo là Vũ Tuyên ấy hả? Ta có chứng cứ! Nhớ lại năm đó, nghe đồn có một đại mỹ nhân mới giá lâm Thành Đô, ta… ta còn không tin… Nào ngờ, lại là thật… Gì hả? Ánh mắt các ngươi như thế là sao! Ta đang nói Phó Tân Nguyễn ấy! Là Phó nương tử ở phố Tùng Hoa!” Phạm Nguyên Long nói mà nước bọt văng tứ tung, nhưng Chu Tử Tần nhìn Hoàng Tử Hà, rồi lặng lẽ ghi lại toàn bộ.

    Hoàng Tử Hà thấy hắn nhất định không chịu nhắc đến chuyện mình từng si mê Phó Tân Nguyễn bèn hỏi: “Nghe nói thiếu gia có qua lại với Phó nương tử?”

    “Hình như… Hình như có đấy, nhưng về sau phát hiện cô ta đã có ý trung nhân, ta tức gần chết!” Phạm Nguyên Long đỡ mái đầu nặng trịch, lè nhè nói, phả ra hơi rượu nồng nặc: “Đúng là tiên nữ, đi từ đầu đến cuối đường Ngô Đồng cũng đừng hòng tìm được người đẹp như thế! Ta nói cho hai người biết nhé, có một lần ta lén… lén bám theo Phó nương tử, định tóm cổ gian phu của ả tẩn cho một trận. Kết quả các ngươi có biết ả đến đâu không? Ha ha ha… Chính là vườn Tình! Đúng lúc bọn Vũ Tuyên đang tụ họp làm thơ! Ả đứng xa xa nhìn lại, ta cũng nhìn theo, xúi quẩy làm sao hai con mắt của ả cứ dán chặt vào người hắn, cái gì Tề phán quan tuổi trẻ tài cao, Trần Văn Luân phong lưu nức tiếng, tứ đại tài tử, bát đại thi nhân đều thành rắm chó hết! Hừ, đúng là má mì tham tiền gái điếm tham sắc, mẹ nó chứ, đẹp trai thì báu lắm đấy à…”

    Chu Tử Tần nhìn đám trứng cá của Phạm Nguyên Long rồi cụp mắt xuống, lại liếc sang gương mặt nghiêng nghiêng tuấn mỹ thanh tú của Vũ Tuyên, nhủ bụng: đẹp đến thế này đương nhiên là báu vật rồi, ngươi đừng ấm ức làm gì.

    Kể đến đây thì Phạm Nguyên Long đã ngất ngư, chỉ toàn thốt ra những lời lảm nhảm vô nghĩa: “Bấy giờ ông tan nát cõi lòng, quyết định cắt đứt hoàn toàn với ả đó! Ông còn đến Dạ Vụ Viện tìm một gã kỹ nam! Ôi ôi, nhưng về sau vẫn quay về với đàn bà thôi, chuyện này kể ra thì bỉ mặt lắm, đừng nhắn nữa, vào chuyện chính đi…” Thấy Chu Tử Tần hai mắt lồi ra như sắp lọt tròng, ngần ngừ không biết có nên ghi lại chuyện công tử phủ tiết độ sứ tìm kỹ nam hay không, Hoàng Tử Hà liếc tờ giấy trên tay gã rồi nói: “Những việc không liên quan thì đừng ghi.”

    Chu Tử Tần im lặng gật đầu, lại nghe Hoàng Tử Hà hỏi: “Vậy tại sao vừa rồi công tử lại nói Vũ Tuyên sát hại Tề Đằng?”

    “Ta nghĩ, Vũ Tuyên rơi vào bước đường này, há chẳng hận Tề Đằng ư? Vốn hắn là tài tử danh vọng nhất Thành Đô, nào ngờ Tề Đằng lại được cha ta trọng dụng, lắc mình một cái đã cướp mất vị trí của hắn, cũng bởi thế mà làm Phó nương tử thất vọng, mới quay sang Ôn Dương, cuối cùng còn dây dưa tình cũ, nắm tay họ Ôn tự vẫn! Người bảo Vũ Tuyên sẽ trút giận lên ai? Tề Đằng chứ ai nữa…”

    Trước những suy luận vớ vẩn này, Chu Tử Tần đành bó tay dừng lại, bất lực quay sang Hoàng Tử Hà. Trái lại, Hoàng Tử Hà thản nhiên dựa vào lưng ghế, lại hỏi tiếp: “Tối nay Vũ Tuyên ngồi xa Tề Đằng như thế, công tử thấy hắn có cơ hội ra tay không?”

    “Có! Nhất định là có!” Phạm Nguyên Long hùng hồn khẳng định, “Chẳng phải lúc đó ta đi lên đài xem cánh hoa là thật hay giả ư, sau đó lại thấy tiểu nương tử kia… chính là nàng đứng cạnh cây đèn lồng đó khá đẹp, bèn nảy ý muốn làm thân, kết quả bị tên khốn Vũ Tuyên lôi đi! Này này ngươi nói xem, nếu không phải ả kia là chị em của Phó nương tử, nếu hắn không có tình với Phó nương tử thì việc gì phải lôi ta đi?”

    Lần này đến Hoàng Tử Hà cũng chẳng buồn đáp nữa, song họ Phạm lại hăng hái thao thao nói tiếp: “Chú ý này, điểm mấu chốt nằm ở đây cơ: lúc ấy, hắn lôi ta đi, ném vào bụi cây cạnh đó! Ta nằm bò ra đó, trúng phải gió lạnh, lúc thì đầu óc choáng váng, nôn ồng ộc vào bụi, đến khi ngoái đầu trông lại thì hắn đã biến đâu mất. Các ngươi bảo hắn đi đâu được hả? Nói không chừng hắn đi men theo bụi cây vòng ra sau, lẻn đến ngồi cạnh Tề đại ca bên màn lụa, rồi nhân lúc trời tối rút dao ra làm một nhát đánh phập… Ôi hu hu, Tề đại ca của ta, huynh chết thảm quá…”

    Hoàng Tử Hà chẳng thèm truy cứu Phạm Nguyên Long say rượu hay giả điên, thẳng thán chuyển đề tài: “Nôn xong thì sao?”

    “Bấy giờ ta hoa cả mắt, nôn mửa xong thì gục luôn xuống bụi cỏ, chẳng biết thiếp đi hay là ngất đi nữa. Khi tỉnh đã thấy mình bị lôi dậy ngồi cạnh lan can. Kẻ nào đó bưng cho ta một chén canh giải rượu, còn nói Tề đại ca chết rồi! Bấy giờ ta còn ngây ra…”

    “Nói vậy là thiếu gia cũng không biết vết máu trên người mình từ đâu ra?”

    “Sao ta biết được? Lúc ấy ta chẳng biết gì nữa rồi. Đã bảo các người là Vũ Tuyên mà!” Phạm Nguyên Long ghé sát lại gần họ, vẻ đã rõ chân tướng như lòng bàn tay, đảo mắt ghé sang Vũ Tuyên: “Hắn nhân lúc ta mê man, lẻn đến sát hại Tề đại ca! Sau đó lau dao vào người ta, vu oan cho ta, cuối cùng thì ném hung khí đi hòng bưng bít! Các người mau bắt hắn lại đi, chuyện này mười phần ta đã chắc đến tám chín rồi!”

    Hoàng Tử Hà bình thản đáp: “Ta biết Phạm công tử có thành kiến với Vũ Tuyên, việc em họ công tử phạm pháp bị lưu đầy, Vũ Tuyên không tránh khỏi liên quan. Song giờ chân tướng chưa rõ, công tử lại nói như đinh đóng cột là Vũ Tuyên giết người, liệu có ôn không?”

    Phạm Nguyên Long không ngờ vị Dương công công này lại tường tận ân oán giữa mình và Vũ Tuyên, bất giác há hốc miệng ra hồi lâu mới lắp bắp thề thốt: “Ý công công là ta vu cáo hắn à? Không có đâu! Cha ta còn định chiêu mộ hắn làm thuộc hạ, sao ta lại có thành kiến với hắn được?”

    Hoàng Tử Hà cũng chẳng buồn đôi co mấy chuyện vặt vãnh ngoài lề này làm gì, bèn giơ tay ra hiệu cho Vũ Tuyên đi đến, Phạm Nguyên Long đành hậm hực đứng dậy bước ra.

    Vũ Tuyên không muốn ngồi chiếc ghế họ Phạm đã ngồi, bèn bê một chiếc khác đến.

    Chu Tử Tần vừa ghi biên bản vừa hỏi: “Lúc xảy ra chuyện, Vũ huynh ở đâu?”

    Vũ Tuyên cúi đầu nhìn vân gỗ trên bàn, bình thản đáp: “Lúc đó tôi vốn ngồi phía sau, thấy Phạm công tử say rượu bám riết lấy người ta kiếm chuyện, mới kéo y ra chỗ bụi cây.”

    Chu Tử Tần hỏi dồn: “Sau đó thì sao? Huynh ở cạnh huynh ấy, hay bỏ đi?”

    Vũ Tuyên vẫn không ngẩng lên, đều đều đáp: “Tôi bỏ đi. Phạm công tử say rượu nôn mửa chua lòm, suýt dây cả ra áo tôi nên tôi bỏ mặt y ở đó, quay lại xem Công Tôn đại nương biểu diễn.”

    “Có chứng cứ gì không?” Chu Tử Tần lại hỏi.

    Vũ Tuyên nghĩ ngợi rồi đáp: “Tôi ngồi sau cùng, chắc không ai trông thấy. Nếu cần nhân chứng, thì tôi không có.”

    Chu Tử Tần gặng: “Lẽ nào có vật chứng ư?”

    Vũ Tuyên không đáp mà đứng dậy làm động tác. Hắn xoay tròn, nhảy lên, gập người, khom lưng, tuy động tác không mấy nhịp nhàng, cũng chẳng đẹp đẽ, chỉ mang tính chất mô phỏng, song thoáng trông đã nhận ra ngay, chính là nửa sau bài múa của Công Tôn đại nương.

    Khi hắn biểu diễn xong động tác ngọa ngư, bên cạnh chợt vang lên tiếng vỗ tay khe khẽ. Công Tôn đại nương vỗ tay tán thưởng: “Vũ công tử quả là trí nhớ phi phàm, điệu múa này sau khi A Nguyên cải biên, tôi mới biểu diễn lần này là đầu tiên, không ngờ công tử chỉ xem qua một lần đã nhớ được gần như tất cả động tác.”

    Vũ Tuyên đứng dậy phủ sạch bụi đất trên người rồi nhìn Hoàng Tử Hà: “Nếu bấy giờ tôi lẻn đi giết người, e rằng không thể thưởng thức động tác múa tuyệt diệu của Công Tôn đại nương.”

    Chứng cứ rành rành, ngay cả Phạm Nguyên Long nãy giờ vẫn ngồi chồm hổm cạnh đó đợi hắn sơ hở là nắm thóp cũng cứng họng.
     
    Chỉnh sửa cuối: 26/8/17
  3. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 15 - Tìm lại nơi đâu
    Công Tôn Diên và Ân Lộ Y cùng ngồi xuống trước mặt họ. Thấy Ân Lộ Y lộ vẻ căng thẳng pha lẫn bi ai, Công Tôn Diên bèn vỗ nhẹ lên tay an ủi: “Đừng lo, Chu bổ đầu và Dương công công nhất định sẽ tra rõ trắng đen mà.”

    Nói đoạn Công Tôn Diên quay sang nhìn Chu Tử Tần cười gượng: “Chẳng hay Chu bổ đầu và Dương công công thấy hai chúng tôi đáng nghi ở đâu?”

    Chu Tử Tần vội đáp: “Điểm này hai chúng ta đã thảo luận rồi, thực ra khả năng gây án của hai vị là thấp nhất. Bởi cả hai luôn ở trong nhà thủy tạ, trước bấy nhiên con mắt, sao có thể phân thân đi giết người?”

    Hoàng Tử Hà gật đầu tiếp: “Chúng ta chỉ thẩm vấn hai vị cho phải phép thôi, hai vị có qua lại gì với Tề phán quan không?”

    Công Tôn Diên và Ân Lộ Y đều lắc đầu. Công Tôn Diên đáp: “Trước đây tuy chúnh tôi đã đến Thục mấy lần, song đều là được người ta mời đến biểu diễn. Lần gần nhất tôi đến cách nay đã năm năm rồi, Lộ Y còn lâu hơn, bảy năm trước mới đến một lần, cũng chỉ đến Long Châu chứ chưa hề bước chân vào Thành Đô. Chúng tôi còn chưa bao giờ gặp mặt Tề phán quan, làm sao qua lại gì được?”

    Hoàng Tử Hà đáp: “Chuyện này chúng tôi sẽ sai người điều tra, xin hai vị chớ lo, quan phủ sẽ không làm liên lụy kẻ vô tội đâu.”

    “Đa tạ Chu bổ đầu, đa tạ Dương công công.” Nói rồi, Công Tôn Diên lại tha thiết nhìn bọn họ: “Chẳng hay vụ án của A Nguyên đến giờ đã có tiến triển gì chưa?”

    Chu Tử Tần bối rối đáp: “Đang điều tra… Có chút tiến triển rồi, xin đại nương đợi ít lâu nữa.”

    Công Tôn Diên không nói gì thêm, chỉ cùng Ân Lộ Y hành lễ với họ rồi lui ra.

    Chu Tử Yên có gương mặt trái xoan xinh xắn, nhang nhác giống anh trai, dáng dấp cũng nhỏ nhắn, song uy thế đủ đè cho ông anh chết gí.

    “Huynh bảo, vị hôn phu chết bất đắc kỳ tử như thế, sau này liệu muội có trở thành trò cười ở Thục không?” Chu Tử Yên đập bàn giận dữ hỏi.

    Chu Tử Tần ôm đầu rầu rĩ đáp: “Muội à, dù sao cũng đâu phải lần đầu… Trước đây ở trong kinh thành cũng thành trò cười rồi thôi…”

    “Vì không phải lần đầu, nên e rằng kiếp này muội không gả đi được nữa rồi! Thôi thôi, để muội về kinh tìm ý trung nhân đi!”

    Chu Tử Tần đưa mắt nài nỉ, chỉ mong em gái giữ lại cho chút thể diện: “Giờ quan phủ đang thẩm vấn, là việc công đó, muội ngồi ngay ngắn lại cho ta đi.”

    Song cô em bướng bỉnh chẳng buồn đếm xỉa đến gã, còn nghênh ngang vắt chân lên, ngả người ra ghế, vẻ bất cần: “Dựa vào huynh thì nên cơm cháo gì. Nếu huynh muốn phá được vụ này thì để muội hiến kế cho, bảo đảm không gì không phá được!”

    Nào ngờ Chu Tử Tần thật thà vươn cổ sang hỏi nhỏ: “Kế gì?”

    Hoàng Tử Hà ngán ngẩm cúi đầu, vờ chăm chú xem bản cung.

    “Huynh cho đăng cáo thị, nói rằng Hoàng Tử Hà vô tội, mời cô ấy mau trở về, cả đám ăn hại ở nha môn, đứng đầu là Chu thiếu bổ đầu, đang đợi cô ấy cứu mạng!”

    Khóe môi Chu Tử Tần rần rật: “Như vậy có được không?”

    Thấy gã còn tưởng thật, Hoàng Tử Hà bèn đằng hắng một tiếng.

    Bấy giờ gã mới sực tỉnh, bèn đập một cái vào gáy em gái: “Ngồi ngay ngắn lại! Quan phủ đang thẩm vấn!”

    Xem chừng không trông được vào Chu Tử Tần, Hoàng Tử Hà đành chấp bút vừa viết vừa hỏi: “Lúc xảy ra chuyện, Chu tiểu thư ở đâu?”

    Chu Tử Yên sầm mặt: “Ngồi trong màn lụa, chẳng đi đâu cả… Đúng là xúi quẩy, chẳng biết Tề Đằng chết từ lúc nào, ta đã ngồi cùng một cái xác bao lâu nữa, nhất định tối nay sẽ gặp ác mộng cho coi!”

    Hoàng Tử Hà lại hỏi: “Lúc Tề phán quan ngồi cạnh tiểu thư, có hành động gì khác thường không?”

    “Không có, Tề Đằng chỉ tán gẫu với ta về điệu múa của Công Tôn đại nương, còn đọc cho ta nghe một bài thơ của Đỗ Phủ nữa, chính là bài ‘Xưa người đẹp Công Tôn múa kiếm, khí tung hoành rung chuyển bốn phương’* ấy. Ai mà chẳng biết bài đó, ta bèn ngắt lời bảo ta đã đọc rồi, đừng làm ồn, để ta xem múa. Tề Đằng ngượng nghịu im bặt, ta cứ tưởng hắn không dám tỏ vẻ nữa, ai ngờ lại là bị người ta sát hại!”


    *Trích trong bài thơ “Xem đệ tử của Công Tôn đại nương múa điệu Kiếm Khí” của Đỗ Phủ. Bản dịch của Bất Giới.

    Hoàng Tử Hà cũng bó tay với vị tiểu thư không hiểu nhân tình thế thái này, đành hỏi tiếp: “Vậy trong lúc xem múa, tiểu thư có cảm giác được tiếng động gì xung quanh không?”

    “Tiếng động ấy à?” Chu Tử Yên dẩu môi, hồi tưởng lại rồi đáp: “Ta nhớ ra rồi, xem được nửa chừng, chính là lúc rắc hoa rồi chẳng hiểu sao lại nhốn nháo lên ấy, ta trông thấy ai đó lôi xềnh xệch một người ra bụi cây. Sau đó lại thấy mùi chua lòm nồng nặc theo gió đưa đến. Ta vội bịt mũi nghiêng đầu né tránh, bấy giờ hình như nghe thấy Tề phán quan ngồi cạnh phát ra một tiếng ‘ực’…”

    “Muội khẳng định là lúc đó chứ?” Chu Tử Tần kích động hỏi.

    “Chắc thế, vì muội còn nghĩ, ngồi trong màn đã thế này, Tề Đằng bên ngoài chắc phải chết vì mùi thôi mất.”

    “Lúc ấy muội nghiêng đầu qua nhìn à?”

    “Đâu có, hôi thối như thế, tránh còn không kịp, ai lại thò ra nhìn? Huống hồ đèn đuốc bên ngoài tắt cả, chỉ có mấy ngọn đèn lồng đằng trước rọi thẳng vào nhà thủy tạ, xung quanh muội tối om, lại thêm màn lụa ngăn cách, dù muốn nhìn cũng đâu nhìn rõ được!” Chu Tử Yên kê quạt dưới cằm, nhíu mày nghĩ ngợi rồi nói, “Có điều sau đó hình như Tề phán quan không cử động gì nữa, muội nghĩ chắc lúc ấy hung thủ đã ra tay.”

    “Không có tiếng động gì khác ư?”

    Chu tiểu thư quả quyết đáp: “Không hề, dù sao muội cũng không nghe thấy gì cả.”

    Chu Tử Tần đành nói: “Được rồi, muội lui xuống nghỉ ngơi đi… Tóm lại, chắc hẳn Tề phán quan đã chết vào lúc đó.”

    Chu Tử Yên đứng dậy, đi được hai bước thì ngoái lại nhìn Chu Tử Tần: “Muội bày cách cho này.”

    “Hả?” Chu Tử Tần ngẩng lên.

    “Huynh mau tìm Hoàng Tử Hà đi. Huynh xem, đồ bỏ như huynh còn muốn phá án, đúng là vọng tưởng.”

    Chu Tử Tần sững sỡ, rồi quay phắt sang Hoàng Tử Hà, hai mắt ầng ậng nước: “Sùng Cổ, ta xin công công một chuyện!”

    “Biết rồi.” Hoàng Tử Hà thản nhiên giở sang trang bên, “Tôi sẽ giúp công tử phá vụ này, để công tử lấy lại oai phong trước lệnh muội!”

    Vương Uẩn vẫn tiêu sái hào hoa như thế, tuy sắc mặt tái xanh tiều tụy, xong dưới ánh đèn mờ ảo ấm áp, càng nổi bật vẻ ôn nhuận như ngọc.

    Y ngồi ngay ngắn trước mặt họ, cười nhẹ: “Đã khuya rồi mà hai vị vẫn phải thẩm vấn, đúng là vất vả.”

    Chu Tử Tần rầu rỉ: “Phải phải, huống hồ còn là phản quan phủ tiết độ, không mau phá án thì không xong.”

    “Bấy giờ ta chỉ ngồi một chỗ xem múa, sau khi Vũ Tuyên và Phạm Nguyên Long đứng dậy, tuy bên cạnh không còn ai, song vẫn có mấy vị phó tướng và tham sự, chắc hẳn đều có thể làm chứng, chứng minh ta không hề rời ghế.” Vương Uẩn rất thong dong, vẻ như chẳng để tâm cái chết của Tề Đằng.


    Chu Tử Tần gật đầu: “Đương nhiên tôi tuyệt đối tin tưởng Vương đô úy, có điều mọi người lúc ấy đều đổ dồn mắt lên vũ đài, dưới các hàng ghế tối om, Vương đô úy lại ngồi ngoài cùng bên trái, đằng sau không có ai, Vũ huynh và Phạm công tử đều rời chỗ cả, chẳng rõ những kẻ ngồi cách đến ba ghế còn ai chú ý đến chuyện Vương đô úy ngồi đó hay đứng dậy không…”

    Vương Uẩn cười gượng: “Chuyện này cũng khó nói, mọi người đều mải nhìn lên phía trước xe múa, ai lại ngó sang bên quan sát ta ngồi hay đứng lên?”

    Chu Tử Tần bèn an ủi: “Không sao đâu, dù gì huynh cũng đâu có khúc mắc với Tề phán quan. Theo lẽ mà nói, Vương đô úy cũng không có động cơ gây án.”

    Họ Vương vốn không để tâm, lúc này giọng điệu càng hời hợt, như đang tán gẫu: “Chẳng rõ các vị đánh giá vụ này thế nào?”

    Chu Tử Tần ủ ê: “Trước mắ vẫn chưa tìm được ai có thời gian gây án, nên củ yếu chỉ đang tra xét động cơ gây án thôi.”

    “Phải đấy, hay là bắt tất cả những kẻ có lý do giết Tề Đằng lại thẩm vấn, chẳng phải là xong ư?” Ánh mắt Vương Uẩn vui vẻ liếc sang Hoàng Tử Hà: “Có điều hẳn ta là người đầu tiên được loại ra khỏi diện tình nghe nhỉ? Dù sao ta cũng mới từ kinh thành đến, có xích mích gì với Tề phán quan đâu.”

    Hoàng Tử Hà lạnh nhạt hỏi: “Không rõ Vương đô úy đến Thành Đô có việc gì?”

    “Ty Phòng vệ kinh thành muốn đề bạt mấy vị đô thống, trong đó có ba bốn người quê ở Thục, phải điều tra gia thế. Vốn cũng chẳng phải việc của ta, nhưng các vị đều đến Thục cả, một mình ta ở trong kinh buồn chán, bèn xin đến đây.” Y cười tươi tắn, song lời lẽ vẫn không hề lộ mảy may sơ hở.

    Chu Tử Tần cảm động đập bàn nói: “Vương huynh nhất định phải ở lại thêm mấy hôm đấy! Chờ dăm bữa nữa phá xong vụ này, mấy người chúng ta đi du ngoạn quay đây nửa tháng, thưởng thức phong cảnh nước non đất Thục chứ!”

    Hoàng Tử Hà vừa cúi đầu uống trà vừa nói: “Đa tạ tấm lòng của Vương đô úy! Không còn sớm nữa, chúng tôi phải hỏi mấy vị phó tướng vài câu.”

    Mấy vị phó tướng quân Tây Xuyên làm chứng cho lẫn nhau, quả quyết nói rằng bấy giờ họ đều ở đó, không có ai đứng dậy đi đâu cả.

    “Huống hồ chúng tôi là quan võ, Tề phán quan là quan văn, thường ngày tuy có qua lại, nhưng chỉ ở múc gật đầu chào nhau mà thôi, không có mâu thuẫn gì về lợi ích cả. Dù y chết đi, chúng tôi cũng chẳng trèo lên được, thì giết y làm gì?”

    Mấy vị tham quân phủ Thành Đô cũng làm chứng cho lẫn nhau, quan hệ giữa họ và họ Tề còn nhạt nhẽo hơn, đâu lý nào lại giết người.

    Các nhạc công bấy giờ ngồi một bên nhà thủy tạ, tấu nhạc dưới sự chỉ huy của Ân Lộ Y. Dù giữa màn múa có một đoạn chỉ thổi sáo, nhưng các nhạc công đều ngồi đó đợi, không ai đứng dậy cả.

    Người hầu kẻ hạ tập trung ở một phía khác của nhà thủy tạ, bao gồm cả mấy a hoàn tùy thân của Chu Tử Yên. Mười mấy người đứng đó, tuy hơi lộn xộn, nhưng khá chen chúc, nếu ai muốn chen ra, nhất định sẽ bị những người kia phát hiện.

    Xem ra không thể dựa vào nhân chứng, mà vật chứng cũng chẳng thấy tăm hơi. Dù họ đã bới lung tung đống rác dưới đáy hồ lên mấy lần, cũng chẳng tìm thấy thứ gì giống như hung khí cả.

    Hoàng Tử Hà quan sát kỹ thi thể Tề Đằng lần nữa, trầm tư không nói.

    Phạm Nguyên Long vẫn chưa đi, song dường như đã tỉnh táo ra đôi chút, lại lăng xăng xáp đến gần cô: “Dương công công nghe ta nói một câu đi, hung thủ chính là Vũ Tuyên mà! Hắn dựa vào bản mặt, định vấy bẩn thiên kim nhà Hoàng quận thú, nay lại chuyển mục tiêu sang Chu tiểu thư, giờ thấy Chu quận thú định gả con gái cho Tề phán quan, lửa giận từ lòng bốc lên, ý ác tại gan sinh, một là không làm hai là làm không thôi, lượng tiểu nhi quân tử, vô độc bất trượng phu! Vũ Tuyên ơi là Vũ Tuyên, ngươi đúng là chỉ nhắm vào tiểu thư nhà quận thú, càng lúc càng cao tay!”

    Vũ Tuyên lạnh lùng liếc Phạm Nguyên Long, rồi lại ngẩng lên nhìn trời, chẳng buồn cất lời.

    Thái độ cao ngạo lạnh nhạt của Vũ Tuyên khiến Phạm Nguyên Long lồng lên tức tối, nếu không bị người bên cạnh giữ chặt, nhất định đã động chân tay rồi.

    Thấy đêm đã khuya và vụ lộn xộn này trong chốc lát chưa thể kết thúc được, Chu Tử Tần đứng phía sau Hoàng Tử Hà bất lực than: “Vụ này nan giải quá! Biết rõ hung thủ là một trong số chúng ta, song không một ai có cơ hội gây án cả, hơn nữa tất cả đều ở trước bấy nhiêu con mắt quan sát, rốt cuộc vẫn không rõ là ai gây ra. Huống hồ, hung khí vẫn chưa tìm thấy!”

    Hoàng Tử Hà gật đầu: “Lạ thật đấy…”

    Sau lưng có người đưa cho cô một ly trà: ‘Uống hớp trà rồi từ từ tìm. Bằng vào tài trí của Dương công công, ta tin chỉ dăm ba ngày, vụ này sẽ rõ ràng thôi.” Hoàng Tử Hà đỡ lấy ly trà, quay đầu lại thì thấy Vương Uẩn cười hiền đứng đó, vụ án mạng cùng những tiếng ồn ào nhốn nháo xung quanh dường như chẳng mảy may ảnh hưởng đến y.

    Thấy cô thoáng lưỡng lự, Vương Uẩn lại rót cho Chu Tử Tần một chén, cười hỏi gã: “Tử Tần bảo có phải không? Dương công công đã ra tay, thiên hạ này còn ai hơn được nữa chứ?”

    “Không biết nếu Hoàng Tử Hà ở đây… sẽ đánh giá thế nào.” Chu Tử Tần nắm chặt ly trà trong tay, trầm ngâm đáp.

    Vương Uẩn cười: “Ta tin rằng cách nhĩ cách làm của Hoàng tiểu thư ắt cũng như Dương công công thôi.”

    Hoàng Tử Hà ngượng nghịu nhìn Vương Uẩn, rồi cúi đầu uống trà, nói lảng đi: “Vương đô úy chưa về ư?”

    “Chưa tra rõ chân tướng, có về cũng chẳng ngủ được.” Y ngồi xuống thành lan can, mỉm cười nhìn cô.

    Hoàng Tử Hà cũng hết cách, đành bảo Chu Tử Tần: “Chúng ta về nghỉ ngơi thôi, xem ra tối nay không có tiến triển gì đâu.”

    “Công công muốn về ư?” Vương Uẩn ung dung đứng dậy, phủi sạch bụi đất trên người rồi đề nghị: “Ta cũng đang định về phủ tiết độ, chúng ta có thể cùng về.”

    Hoàng Tử Hà im lặng nhìn y, thấy y vẫn ôn hòa bình thản thì không tiện từ chối, đành theo y rời phủ quận thú.

    Sau khi được cứu về, Na Phất Sa vẫn chưa khỏi hẳn nên khi cô cưỡi luôn hết sức cẩn thận, thong thả.

    Ngựa của Vương Uẩn cũng đi rất chậm, hai người sánh vai nhau mà đi, tiếng vó ngựa lộp cộp gõ xuống mặt đường văng vẳng.

    Trời không trăng, đêm lặng phắc. Vương Uẩn ngoái lại nhìn Hoàng Tử Hà, song trời tối quá nên khó trông rõ gương mặt cúi gằm của cô, chỉ khi cô đảo mắt ngước lên, đôi mắt như gợn sóng lăn tăn trong đêm tối, y mới nhận ra cô đang nhìn mình.

    Hoàng Tử Hà quan sát gương mặt chìm trong bóng tối của Vương Uẩn, chợt thấy lòng rúng động, điều gì đó trong ký ức thình lình cuộn lên, chẳng khác nào những con sóng đen kịt, nỗi kinh hoàng đặc quánh trào dâng trong tâm trí.

    Cô phân vân một thoáng, rồi buột la lên khe khẽ.

    “Sao thế?” Vương Uẩn giục ngựa đến bên cô, ân cần hỏi.

    Hoàng Tử Hà nhảy xuống, xem xét vết thương trên mình Na Phất Sa: “Hình như vết thương của Na Phất Sa vẫn chưa lành hẳn, tôi mới cưới một chốc mà nó đã run rẩy, chắc phải cho nghỉ thôi.”

    “Muốn về phủ quận thú đổi ngựa không?”

    Hoàng Tử Hà lắc đầu: “Đi xa thế này rồi, chỉ còn một quãng nữa là tới phủ tiết độ thôi.”

    Thấy cô đi phía dưới, tay dắt ngựa, Vương Uẩn lại nhớ lúc ở Trường An, cô đi bộ còn mình cưỡi ngựa đưa về. Y bất giác mim cười, cúi xuống chìa tay cho cô, hỏi đùa: “Hay là… lên ngựa ngồi cùng ta?”

    Cô ngẩng đầu lên, rồi thình lình nắm lấy tay Vương Uẩn, tung người nhảy lên lưng ngựa, ngồi phía sau y.

    Lần này đến lượt Vương Uẩn sững sờ, kinh ngạc ngoái lại nhìn cô, song chỉ thấy đôi mi khẽ lay động, gương mặt khuất sau màn đêm, nói khẽ: “Gần đây liên tục xảy ra chuyện, tôi quả thật cũng mệt rồi.”


    “Vậy… để ta đưa về nhé.”

    Hoàng Tử Hà im lặng, y cảm thấy hình như có có gật đầu, rồi khẽ khàng vòng tay quanh eo mình.

    Trong đêm im lặng này, mơ màng như giấc mộng. Người con gái bấy lâu y chỉ lặng lẽ ngóng vọng từ xa, nay lại ngồi ngay sau lưng y, dịu dàng ôm lấy y, để y đưa cô về nhà. Những điều này dường như đều không thật, mà chỉ như một ảo giác về đêm.

    Nhưng cánh tay cô rõ ràng vẫn quàng quanh eo y, qua làn áo mỏng, hơi ấm da thịt cô cơ hồ lan cả sang người y. Hơi thở của cô thật nhẹ, khẽ lay động mấy sợi tóc xõa của y, lướt nhẹ qua gáy y…

    Đương lúc y mơ màn, thân thể Hoàng Tử Hà chợt nghiêng sang một bên, cô hốt hoảng quờ tay, ấn mạnh vào sườn trái y.

    Vương Uẩn khẽ rên lên. Tuy y ra sức kiềm nèn, chỉ buột ra một âm thanh khe khẽ, song rõ ràng cô đã nghe thấy, giọng nói cũng lạnh hẳn đi: “Vương đô úy bị thương ử? Ở sườn trái à?”

    Vương Uẩn nghiến răng nói nhỏ: “Mấy hôm trước theo quân Tây Xuyên vào núi tìm tung tích Quỳ vương, không may gặp phải thích khách đang lẩn trốn, bị thương nhẹ.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu: “Ra là thế…”

    Chưa dứt lời, cô đã vung chân đá ra, trúng ngay vào vết thương khác ở chân họ Vương, khiến y run bắn lên vì đau, buột miệng rên rỉ.

    Nhân lúc y gập người xuống nén đau, Hoàng Tử Hà buông tay ra tụt xuống, rồi tung mình nhảy lên Na Phất Sa, kéo cương quay đi, lùi ra xa khỏi y.

    Đôi bên ghìm cương đứng ở hai bên đường. Ngọn đèn khúc quẹo rắc ánh vàng ấm áp lên mình họ, song đứng giữa gió đêm, nhìn người trước mặt, Hoàng Tử Hà lại thấy ớn lạnh.

    Vương Uẩn nghiến răng mỉm cười, thoạt trông thì thản nhiên, song thực ra lại hết sức gượng gạo: “Sao thế?”

    Hoàng Tử Hà nhìn y chòng chọc, giữa đêm khuya thanh vắng, ngọn gió thổi qua người họ cũng khiến người ta chẳng rét mà run.

    Giọng cô rất khẽ, nhưng rành rọt từng chữ: “Thì ra… là ngươi.”

    Vương Uẩn nhìn vào mắt cô, nụ cười lại trở nên ung dung bình thản: “Phải, là ta.”

    Hoàng Tử Hà sực nghĩ đến ánh mắt phức tạp mà sâu xa của y khi thấy mình thân mật với Lý Thư Bạch trong rừng sâu núi thẳm giữa đêm khuya; vẻ mặt y lúc được đút cả và hỏi tại sao mình lại đối tốt với y; nghĩ đến lúc mình bị uy hiếp, y từng nói, sao một cô gái xinh đẹp nhường này lại cải trang thành hoạn quan…

    Lòng cô rối như tơ vò, gió đêm hè lồng lộng thổi qua khắp phố lớn ngõ nhỏ Thành Đô, trở đi trở lại quanh họ tựa hồ không bao giờ dừng lại.

    Vương Uẩn chi đăm đăm nhìn Hoàng Tử Hà, nụ cười nhạt dần lên gương mặt ôn hòa, ánh mắt y thăm thẳm xa xôi, như găm thấu tim cô.

    Cô cắn môi hỏi: “Tại sao? Ai ra lệnh cho đô úy đuổi giết chúng tôi? Sao đô úy lại nhận nhiệm vụ này?”


    Vương Uẩn giục ngựa đi về phía cô, giọng nói dường như cũng lạnh cứng vì gió: “Con ngựa này không chạy xa được nữa, cô trốn không thoát đâu, tốt nhất nên ngoan ngoan khoanh tay chịu trói đi.”

    Hoàng Tử Hà kéo cương ngựa lùi lại, cảnh giác nhìn y: “Tôi còn một câu muốn hỏi.”

    “Hỏi đi.” Y lạnh lùng ghìm cương, đứng cách cô chừng một trượng.

    “Lúc ở trong núi, Quỳ vương đã nhận ra, song lại che giấu giúp đô úy, còn đô úy cuối cùng cũng giúp chúng tôi chạy thoát. Tại sao về sau còn ám sát chúng tôi thêm lần nữa ở quán trọ? Thân phận đã bại lộ còn cố tình tổ chức ám sát lần nữa, rõ ràng không phải hành động khôn ngoan.”

    Vương Uẩn cười nhạt hỏi: “Vậy cô nghĩ sao?”

    “Tôi cho rằng, kẻ bày ra vụ ám sát lần hai, không phải là đô úy. Nói cách khác là có hai thế lực nhúng tay vào.” Cô nhìn y bằng cặp mắt trong suốt lạnh lùng, như thấu hiểu, lại cũng như thương xót, “Mà người đứng phía sau đô úy, tuy biết Quỳ vương đã nhận ra thân phận của đô úy, vẫn bày ra lần ám sát thứ hai, nếu thành công thì tốt, lỡ như chẳng may thất bại thế nào cũng rung đùi hưởng lợi…”

    “Không cần cô đặt điều ly gián.” Y lạnh lùng ngắt lời, “Chẳng qua lúc đó ta bị thương nên tạm thời không can dự vào nữa. Còn những kẻ khác chấp hành ra sao, chẳng liên quan gì tới ta.”

    “Lúc ở trong núi gia hành xử như thế, là đã chừa đường sống cho đô úy. Huống hồ đô úy chỉ làm theo lệnh trên, nếu tiết lộ hung thủ thật sự đằng sau, thì sẽ không bị truy cứu…”

    “Cô đừng kéo dài thời gian nữa!” Vương Uẩn thúc ngựa chạy đến, lao thẳng vào cô, “Hoàng Tử Hà, ta sẽ không để cô quay về bên y nữa đâu! Thà ta hủy hoại cô, còn hơn phải trơ mắt nhìn cô sống vui vẻ cạnh người khác!”

    Hoàng Tử Hà vội kéo cương ngựa lùi lại rồi quay người chạy thẳng.

    Hai thớt ngựa chỉ cách nhau một trượng, Na Phất Sa là ngựa quý Đại Uyển vạn con chọn một, song trọng thương mới đỡ, phản ứng hơi chậm. Ngựa của Vương Uẩn tuy không bì được, song cũng là hạng ngày phi ngàn dặm, chỉ một cú nhún mình đã nhảy lên chắn ngay trước mặt, chặn đứng đường chạy của Na Phất Sa.

    Hoàng Tử Hà một lần nữa kéo ngựa quay đầu bỏ chạy.

    Vương Uẩn lại thúc ngựa đuổi theo, nhưng chỉ nghe “soạt”, rồi “bịch” một tiếng, yên ngựa đã lệch sang một bên, khiến y ngã nhào xuống đất.

    May sao họ Vương phản ứng cực nhanh, lăn tròn dưới đất để giảm đà rơi mới khỏi bị trọng thương. Song vết thương cũ bị va quệt đã vỡ toác ra, mảng áo trước ngực thì lấm tấm vết máu.

    Y đưa mắt nhìn sang thớt ngựa của mình thì thấy yên ngựa đã bị xẻ làm đôi, vết cắt bằng chẳn chặn, mới hay vừa nãy trong lúc cùng cưỡi, cô đã âm thầm ra tay.

    Chẳng đợi y đứng dậy, Hoàng Tử Hà đã nhảy xuống, kề thanh Ngư Trường lên cổ y. Cô đã gài sẵn thanh kiếm này trên mình Na Phất Sa từ trước bữa tiệc, lúc nhảy xuống bèn lấy cớ kiểm tra ngựa, len lén giấu vào tay áo.

    Y nằm ngửa dưới đất, ngực đau buốt, bải hoải nhìn người con gái trước mặt.

    Dường như tình cảnh trong núi lại tái diễn, giữa con đường vắng ngắt, cô một lần nữa khống chế y.

    “Hoàng Tử Hà… rốt cuộc ta không phải đối thủ của cô.” Y lẩm bẩm, ánh mắt nhìn cô vừa căm hận vừa bất lực.

    Hoàng Tử Hà hơi dịch mũi kiếm đi, để tránh đâm vào da thịt y: “Lúc ở trong núi, tình thế bức bách nên chúng tôi mới thả đô úy. Giờ đô úy lại rơi vào tay tôi lần nữa, chi bằng khai ra kẻ đứng đằng sau đi?”

    “Không có kẻ đằng sau nào cả. Ta chỉ nghe theo tiếng lòng mình.” Ánh mắt Vương Uẩn nhìn xoáy vào cô, lạnh lẽo như đao. Phong độ ôn hòa dịu dàng tựa gió xuân của y đã biến mất, thay vào đó là vẻ lạnh băng như tiết trời đông giá. Giọng y cũng lạnh ngắt, hơi giá buốt như thấm vào tận đáy lòng cô: “Lần này rời kinh, có người muốn giành lấy mà cuối cùng lại lọt vào tay người khác, chi bằng hủy phứt đi cho nhẹ gánh.”

    Hoàng Tử Hà siết chặt cán kiếm đến nỗi đốt ngón tay trắng bệch ra, song cô chẳng hề cảm thấy. Cô chỉ nhìn chằm chằm Vương Uẩn, như nhìn một kẻ hoàn toàn xa lạ, lại giống như nhìn một vườn hoa nở rộ nháy mắt rơi vào binh lửa, tất cả những gì tốt đẹp tan tành không sót mảy may.

    “Ngươi có biết ta hận ngươi nhường nào không.” Giọng y trầm thấp mà chậm rãi, ngữ điệu cũng lạnh lùng không chút biểu cảm: “Ngươi làm nhục ta, làm nhục cả họ Vương Lang Gia, khiến cả ta và gia tộc thành trò cười cho thiên hạ, ngươi bảo ta sao có thể khoanh tay để cho ngươi sống yên?”

    Hoàng Tử Hà vặn lại: “Để báo thù tôi, đô úy kéo cả Quỳ vương vào ư?”

    “Hừ…” Y không buồn đáp, chỉ lạnh lùng ngước nhìn trời.

    “Dù đô úy thực sự căm hận muốn giết chết tôi, thì mục tiêu hàng đầu của đô úy vẫn là Quỳ vương. Tôi chỉ là kẻ đô úy tiện tay muốn giết thêm thôi, đúng không nào? Thế lực đằng sau đô úy mới là ke mở màn vụ ám sát này.”

    “Ta muốn giết ngươi, Kỳ Lạc quận chúa cũng muốn giết ngươi, hai chúng ta phối hợp với nhau, thế thôi.” Y vẫn khăng khăng.

    Hoàng Tử Hà còn muốn căn vặn thêm, thì phía sau chợt vang lên một giọng nói bình thản: “Sùng Cổ.”

    Hoàng Tử Hà ngoái lại, trông thấy một bóng dáng phong nhã hào hoa mà cao lớn rắn rỏi đứng dưới trời sao lấp lánh.

    Cô vẫn cầm chắc kiếm kề vào cổ Vương Uẩn, chỉ gọi khẽ: “Vương gia…”

    “Ngươi đừng đoán bừa.” Lý Thư Bạch đứng ngược sáng nên co không trông rõ nét mặt y, chỉ thấy đôi mắt phản chiếu ánh sao trời, lờ mờ sáng lên trong đêm: “Uẩn Chi là bạn ta, cũng là cháu đích tôn nhà họ Vương, em họ hoàng hậu nương nương, đô úy ngự lâm quân, không lý nào lại hành thích ta.”

    Hoàng Tử Hà định cãi, song bắt gặp ánh mắt y thì sực hiểu ra, bèn thu kiếm tra vào vỏ nhét lại ngực áo, đáp khẽ: “Vâng, là nô tài đa nghi… Xin Vương đô úy đừng để bụng, cũng đừng trách tôi đường đột gây chuyện.”

    Vương Uẩn thong thả ngồi dậy, nhìn cô không nói. Thật lâu, y mới đưa mắt nhìn sang Lý Thư Bạch.

    Lý Thư Bạch bình tĩnh tiếp lời: “Uẩn Chi, Sùng Cổ đơn thuần vô tri, chưa hiểu việc đời, ngươi đừng trách hắn.”

    Vương Uẩn giơ tay ôm ngực, hồi lâu mới đáp: “Ty chức không dám.”

    Lý Thư Bạch cũng chẳng nói thêm, bước đến chìa tay ra cho y.

    Vương Uẩn nắm lấy tay y, từ từ đứng dậy, nhìn sang Hoàng Tử Hà.

    Hoàng Tử Hà đành nén giận cúi đầu tạ tội: “Xin Vương đô úy thứ tội, nô tài quá lo cho an nguy của gia, thành ra trách lầm đô úy.”

    Vương Uẩn giơ tay ngăn cô nói tiếp, rồi thong thả đi vượt lên, nhằm hướng phủ tiết độ.

    Hoàng Tử Hà theo Lý Thư Bạch về phòng.

    Khu nhà phía Tây của phủ tiết độ mới được quét tước lại, Lý Thư Bạch ngụ ở nhà chính, hai gian hai bên là của Hoàng Tử Hà và Trương Hàng Anh.

    “Khuya lắm rồi, ngươi vất vả cả ngày nay, cũng nên nghỉ sớm đi.”

    Hoàng Tử Hà vẫn đứng yên tại chỗ, ngập ngừng giây lát rồi thưa: “Xin gia giáng tội.”

    Y thản nhiên ngoái lại: “Ngươi có tội gì?”

    Hoàng Tử Hà ấp úng: “Hiện giờ cục diện chưa rõ, nô tài… không nên vạch trần mọi chuyện.”

    Nhìn vẻ nơm nớp lo sợ của cô, khóe môi Lý Thư Bạch cong lên: “Ngươi lo ta gặp phải đợt ám sát thứ ba, nên mới nôn nóng, phải không nào?”

    Hoàng Tử Hà gật đầu: “Nhưng lúc trước, tôi thực không ngờ là Vương Uẩn…”

    “Chính vì là Vương Uẩn mới phiền.” Lý Thư Bạch nghĩ ngợi, rồi ra hiệu bảo cô vào phòng mình.

    Hai người gập gói ngồi xuống chiếc sập trước giường. Lý Thư Bạch rút trong người ra mộ túi giấy, lại lấy lá bùa trong túi ra đẩy tới trước mặt cô.

    Trên mảnh giấy vàng, ngoại trừ chữ “côi” ra, khuyên tròn quanh những chữ khác đều đã biết mất.

    Cô săm soi kỹ chữ “tàn”, song chỉ thấy mặt giấy như thường, nào còn khuyên tròn đỏ rực như máu nữa.

    Lý Thư Bạch ung dung nói: “Sau khi gặp nguy ở quán trọ, ta đã lấy ra xem một lần, bấy giờ chữ “tàn” vẫn bị khoanh.”

    “Nói vậy là chỉ trong ngày chuyển vào phủ tiết độ, mới có thay đổi ư?” Hoàng Tử Hà trả lá bùa lại cho y, nhíu mày hỏi.

    “Chẳng lạ lùng lắm ư?”

    Thảo luận chuyện quái gở như vậy, nhưng giọng điệu cả hai vẫn hết sức bình thản. Y nhét lá bùa vào túi rồi nói: “Đi đường không tiện cất trong hộp, nên ta vẫn luôn đeo nó trong mình. Vào đây quân Tây Xuyên đưa đến các vật dụng tùy thân, ta mới cất lại trong cái hộp tròn có khóa, nào ngờ đã có chuyện này.”

    Hoàng Tử Hà cúi đầu nghĩ ngợi, hồi lâu không đáp.

    Thấy trà trong ấm còn nóng, Lý Thư Bạch đích thân rót cho cô một chén, sau khi ngửi hương nhìn sắc, mới đưa cho cô: “Trà phủ tiết độ quả không tồi.”

    Hoàng Tử Hà bưng ly trà, bỗng chạnh lòng cảm khái. Kể từ khi đưa vai thay vị hoàng đế ham vui tiếp quản triều chính, e rằng y lúc nào cũng phải đề phòng, đối mặt với vô số khúc quanh sinh tử.

    Thấy cô lộ vẻ thương cảm, Lý Thư Bạch mỉm cười an ủi, rồi tự rót cho mình một chén: “Thực ra cũng không hề gì, lẽ nào Phạm Ứng Tích không sợ xảy ra chuyện trong phủ hắn? Ta đã ở đây, tất hắn phải chịu trách nhiệm.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu, đương mải nghĩ gì đó thì lại nghe y nói: “Có lúc ta từng nghĩ, có lẽ khoảng thời gian bình yên nhàn nhã nhất trong đời này, là mấy ngày lẩn lút dưỡng thương trong núi cùng ngươi.”

    Hoàng Tử Hà tròn mắt ngạc nhiên nhìn y.

    “Tuy khổ cực thiếu thốn, tính mạng như trứng để đầu đằng, song tất cả đau đớn và nghi kỵ trên đời đều tiêu tan, quá khứ và tương lai của ta cũng chẳng còn gì quan trọng. Chỉ có hai ta mải miết đi dưới bóng cây, ánh mặt trời xuyên qua kẽ lá rọi xuống người thành từng đốm sáng rực, hoa lệ lộng lẫy, tung tăng nhảy nhót…”


    Y chăm chú nhìn cô, ngọn đèn lồng khẽ đung đưa trong gió, tỏa sáng lập lòe mờ ảo, tạo cảm giác mơ màng như ảo mộng. Song giọng Lý Thư Bạch rủ rỉ bên tai cô dường như còn mơ hồ hơn ánh đèn.

    “Năm ta mười ba, phụ hoàng qua đời, sau khi hoàng thượng đăng cơ, ta luôn phải sống trong sợ hãi. Các hoàng huynh lớn tuổi đều đột tử, trừ ba hoàng đệ non nớt, chỉ còn lại mình ta. Lúc ấy ngày ngày ta đều nghĩ, tiếp theo liệu có phải là mình không.” Vừa rủ rỉ kể, y vừa chăm chú nhìn ngọn lửa lập lòe, một vầng vàng cam ấm áp bọc lấy tâm đèn xanh xám, chậm rãi lay động, Ánh đèn dịu dàng bao quanh chiếc bình lưu ly, con A Già Thập Niết thất lạc trên xe ngựa giờ lặng lẽ lặn dưới đáy bình, chẳng biết đang thức hay ngủ.

    “Hơn ba năm trước, Bàng Huân nổi dậy ở Từ Châu, ta tự xin đi dẹp loạn. Bấy giờ triều đình chỉ cho ta đem theo mấy ngàn tên lính già nua bệnh tật, song ta không sợ, mà nghĩ rằng, biết đâu đây chính là cơ hội để thoát thân…”

    Nghe đến đây, Hoàng Tử Hà sực nhớ câu chuyện y từng kể, về lần đầu gặp Tuyết Sắc và Tiểu Thi. Bấy giờ y một thân một mình xông vào hang cọp, tiêu diệt tàn quân của Bàng huân. Cô nghe kể còn thủ nhầm, như vậy chẳng phải quá liều lĩnh bất cẩn hay sao. Giờ nhớ lại mới hiểu ra tâm tình y khi ấy.

    Thực ra, trước khi đến Từ Châu, y không hề có ý tìm cơ hội vùng dậy, mà chỉ muốn tự chọn lấy cách chết.

    Nào ngờ y lại chiến thắng vang dội, thần phục được sáu đại tiết độ sứ, khải hoàn quay về, từ đây bắt đầu những ngày quyền nghiêng thiện hạ.

    “Sau khi trở về, ta lại được phong làm Quỳ vương, vinh hiển một dạo, nhưng từ ấy cũng không được sống yên. Ta luôn phải đối đầu với hai thế lực, trở thành vật hy sinh của phe này, cũng là mục tiêu của phe kia. Vô số người mong ta biến mất khỏi cõi đời này.” Y nói mà ánh mắt tối sầm, giơ tay búng khẽ vào bình lưu ly. Tức thì bên trong gợn sóng lăn tăn, con cá nhỏ cũng vây đuôi nhè nhẹ, rồi lại nằm im dưới đáy bất động. “Bên cạnh ta xuất hiện vô vàn bí ẩn, bất cứ lúc nòa cũng rình rập đề phòng ta, chẳng ai hay lòng ta nóng như lửa đốt, hoang mang rối loạn. Ta cứ ngỡ đời này kiếp này mình sẽ phải sống mãi trong nơm nớp lo sợ vô cùng vô tận như thế, cho đến ngày… ngươi xuất hiện.”

    Nói đoạn, y rời tay khỏi bình lưu ly, đôi mắt tối thẫm chẳng biết lúc nào đã ứng được vài đốm sao sa, phản chiếu ánh đèn lay động. Y chăm chú nhìn cô không chớp, in bóng cô vào đáy mắt mình, chặp chờn lay động theo ngọn đen.

    Hoàng Tử Hà căng thẳng cực độ, như sợ mình bị những ngôi sao sáng rực kia hút lấy, từ nay về sau chẳng còn cớ nào mà tồn tại nữa; lại sợ rời khỏi ánh mắt y, từ nay về sau sẽ lạc lối, không tìm được đường sáng nữa.

    Thế nên, cô đành để mặc cho tim đập dữ dội, mãi đến khi cả người nóng bừng lên, không sao khống chế nổi nỗi xao xuyên trong lòng, mới hít một hơi thật sâu, khẽ đáp: “Tôi… thực lấy làm hổ thẹn, chưa sẻ bớt được gánh nặng cho gia, mãi đến giờ vẫn chưa vạch rõ được những bí mật bên cạnh gia…”

    “Bí mật đó đủ để khuynh đảo triều đình, sao có thể phá giải trong sớm tối?” Y chậm rãi lắc đầu nói khẽ, “Ta mất bao nhiêu thời gian cũng chưa thu được gì, huống hồ ngươi vừa tiếp xúc không lâu.”

    “Nhưng tôi…” Cô chăm chú nhìn y, rồi đột ngột quyết định. Có lẽ gió đêm và ánh đèn đã xua tan thận trọng, cô chìa ta ea ấp nhẹ lên mu bàn tay y, nói rất chân thành, “Tôi sẽ ở bên cạnh gia, vạch trần bí mật này. Tôi sẽ xua tan hết mây mù che phủ, để gia khỏi lạc lối, tận mắt nhìn rõ vận mệnh của mình.”

    Chân thành quả quyết đến thế, gần như đã lập lời thề.

    Cô không hề nói, trong cái đêm y hôn mê nguy cấp, cô từng nghĩ, nếu kẻ mà mình dốc hết mọi thứ đánh cuộc đi theo vĩnh viễn biến mất khỏi thế gian, từ nay mình chẳng còn chỗ dựa, cũng chẳng còn cơ hội lật án minh oan nữa… thì sống còn ý nghĩa gì đây?

    Song cô nghĩ, có những việc chẳng cần nói ra, y cũng hiểu.

    Lý Thư Bạch đăm đăm nhìn cô dưới ánh đèn, gương mặt vẫn bình lặng như nước, chỉ có vô số tình cảm phức tạp thoáng qua trong mắt, có hân hoan, có buồn bã, có cảm thương, thậm chí có phần chần chừ e sợ.

    Hoàng Tử Hà cảm giác được tay y hơi nhúc nhích, dường như bất giác siết chặt. Bấy giờ cô mới cúi đầu, sực nhận ra vừa rồi mình quá mức kích động, lại dám lạm quyền ấp tay lên tay y, vừa căng thẳng vừa bối rối, vội nhấc tay lên toan rụt về.

    Nhưng đúng lúc này, cô vừa nhích ngón tay, y đã lật tay nắm chặt lấy tay cô.

    Ánh đèn sáng rực chảy tràn quanh họ, giữa đêm khuya thanh vắng, bên con cá nhỏ đã ngủ yên, chỉ còn tiếng gió lao xao ngoài cửa sổ, và nhịp đập phập phồng trong huyết quản đôi bên, gấp gáp mà hòa hợp
     
  4. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 16 - Trà mi tàn úa
    Hoàng Tử Hà cả đêm thao thức, bao suy nghĩ rối rắm cứ trở đi trở lại trong đầu, ùn lên rối mù, khiến cô không thể gạt bỏ, cũng không thể nhìn thấu.

    Chẳng biết là ngọt ngào hay bi ai.

    Mãi đến gần sáng, cô mới mơ màng thiếp đi, cho tới khi bị tiếng ồn ào bên ngoài đánh thức. Cô giơ tay che mắt, cả người bải hoải rã rời, trở mình một cái rồi thần mặt ra, tiếp tục ngẫm nghĩ những sự việc quấy nhiễu mình.

    Người bên ngoài đập cửa rầm rầm:” Sùng Cổ mau dậy đi! Ta có phát hiện mới này!” Đương nhiên là Chu Tử Tần. Có lẽ đợi ở nha môn sốt ruột quá, nên gã chạy thẳng đến đây lôi cô dậy.

    Nhìn trời cõ lẽ đã sắp đến giờ Ngọ. Sáng đến nỗi khiến người ta không mở nổi mắt. Hoàng Tử Hà day day huyệt thái dương, ậm ừ đáp lời, rồi chỉnh trang tử tế, mặc quần áo chỉnh tề, cuối cùng mới mở cửa: “Phát hiện gì cơ?”

    Chu Tử Tần giơ cao chiếc vòng ngọc chạm đôi cá vẫn trân quý như của báu, hồ hỏi kể: “Sáng sớm nay người ở tiệm cầm đồ đến tìm ta, nói vì nha sai đến hỏi nên y đi suốt đếm từ Long Châu về đây. Vừa trông thấy chếc vòng này, y nhớ ra ngay người mua là…”

    Hoàng Tử Hà sáng mắt lên, thấy gã cố ý lần khân chỉ nói một nửa thì hỏi dồn: “Là ai?”

    “Ha ha, ta biết ngay Sùng Cổ là người đi dò hỏi tiệm cầm đồ mà!” Chu Tử Tần dương dương tự đắc, có vẻ rất tự tin vào khả năng phán đoán của mình: “Sùng Cổ hỏi từ khi nào vậy? Nếu không sao người ta lại tìm đến ta?”

    Hoàng Tử Hà gật đầu: “Chiếc vòng đó quả thật được người của cửa tiệm ở Long Châu bán ra sao? Là ai mua về?”

    Chu Tử Tần nhìn quanh một vòng để tránh bị người quen trông thấy rồi kéo cô vào phòng, ghé tai thì thào: “Công công không đoán ra được đâu! Kẻ mua chiếc vòng này không phải Ôn Dương, mà là… phủ tiết độ Tây Xuyên!”

    Hoàng Tử Hà kinh ngạc, vô vàn manh mối và suy nghĩ chồng chéo đồng loạt ập đến, dường như mọi thứ bắt đầu lộ dấu tích từ đây, lại cũng dường như vì thế mà càng thêm rối loạn.

    “Nghe nói bấy giờ là tết, lão chưởng quầy ở tiệm cầm đồ chuẩn bị một đống đồ tốt rồi mời quản sự các phủ đến. Đương nhiên phủ tiết độ phải xếp hàng đầu, lựa chọn trước một lượt xem có món gì lọt mắt. Trong đống đồ trình lên, có chiếc vòng này do người từ Long Châu đưa đến, người phủ tiết độ bèn nói, cái vòng này chất ngọc bình thường, nhưng chạm trỗ rất khéo, chi bằng dâng cho chúng ta làm lễ vật đi? Tiệm cầm đồ dĩ nhiên bằng lòng, nên không ghi vào sổ nữa mà dâng luôn cho họ.”

    Hoàng Tử Hà chậm rãi hỏi: “Người nào của phủ tiết độ đến đó lựa đồ?”

    “Kẻ kia vốn ở Long Châu, chỉ tạm thời đến phụ giúp nên không biết. Vì không ghi sổ nên giờ muốn tra cũng khó. Có điều, như người ở tiệm còn nhớ, thì trong đám có Tề Đằng.”

    Nói vậy là chiếc vòng từng rơi vào tay Tề Đằng.

    Quan hệ giữa Tề Đằng và Ôn Dương rốt cuộc thế nào? Giữa Tề Đằng và Vũ Tuyên thì sao? Mối tình giữa Phó Tân Nguyễn và ôn Dương cuối cùng thế nào? Sao chiếc vòng Tề Đằng mua lại đến tay Phó Tân Nguyên? Cái chết của Thang Châu Nương là tình cờ hay có lẻ có ý hãm hại? Nếu là mưu sát thì nguyên nhân là gì?

    Cái chết của Tề Đằng liên quan đến ai? Là Chu Tử Yên không muốn gả cho hắn, nên dùng cách nào đó mà cô chưa khám phá được giết hại, hoặc bày mưu cho kẻ khác ra tay? Ôn Dương? Thậm chí, Phạm tướng quân?

    Lại nói đến Vũ Tuyên, rốt cuộc hắn đã gặp phải chuyện gì? Là ký ức của hắn gặp vấn đề, nên xuất hiện cảnh tượng liên quan tới việc cô giết hại cha mẹ, hay có kẻ muốn vu hãm cô với hắn, bày ra cảnh tượng đó, khiến hắn hiểu lầm cô?

    Đến giờ vụ án của gia đình cô mới chỉ tra được chuyện trẩm độc. Bấy giờ rốt cuộc là kẻ nào vừa có cơ hội ra tay, lại vừa có thể lấy được trẩm độc? Phó Tân Nguyên chết vì trẩm độc, có liên quan gì tới người thân của cô chẳng? Suy cho cùng, có phải họ bị cùng một hung thủ hại chết? Giữa một quận thú như cha cô và một nhạc kỹ như Phó Tân Nguyễn, có quan hệ gì?

    Sắp xếp lại tất cả manh mối thật nhanh, cuối cùng Hoàng Tử Hà cũng nắm được điểm quan trong: họ cùng tham gia một thi xã.

    Vừa khéo hôm nay thi xã ấy lại họp mặt bên bờ Thanh Khê, mọi thành viên đều nhận được thiếp mời.

    “Đi thôi, vừa hay họ đến đông đủ, chi bằng ta cũng tới xe thử.” Chu Tử Tần dẫn Hoàng Tử Hà thúc ngựa chạy ra ngoài thành: “Phong cảnh Thanh Khê đẹp lắm, tiện thể dẫn Sùng Cổ đi tham quan luôn.”

    Thanh Khê ở ngoại ô, nằm trên con đường dẫn tới Hán Châu và Long Châu.


    Chu Tử Tần và Hoàng Tử Hà mỗi người một ngựa, ra khỏi cổng thành, đi thêm mười mấy dặm ngoài ngoại ô thì tới một con đường núi.

    Bên đường đặt một trạm gác, vừa kết thúc đợt tìm kiếm Quỳ vương, giờ cũng chưa xác nhận được công văn nào quan trọng nên mấy tên lính Tây Xuyên nhàn nhã ngồi đó quan sát người qua kẻ lại.

    Chu Tử Tần giao du rất rộng, ngang qua trạm giác còn gỡ làn hoa quả mới mua được đưa cho mấy tên lính: “Lần trước Lưu đại ca than rằng canh gác ở đây vừa mệt vừa khát, ta nghĩ đi nghĩ lại, thấy nếu tặng rượu thì lại sợ ảnh hưởng việc công, đành biếu các vị ít hoa quả vậy.”

    Đám lính thấy gã tốt bụng như thế thì luôn miệng thiếu bổ đầu thế này, thiếu bổ đầu thế kia, khăng khăng giữ gã ngồi lại, rót cho họ hai ly trà giải khát.

    Nhìn người ngựa qua lại, Hoàng Tử Hà thuận miệng hỏi: “Mấy hôm nay chắc nhiều người qua đây lắm nhỉ? Các vị vất vả quá.”

    Một tên lính trẻ gật đầu: “Đúng vậy, mấy hôm trước phong tỏa núi, rất nhiều người không qua được, giờ Quỳ vương bình an vô sự mới bỏ lệnh phong tỏa, quả là đông đúc.”

    “Nghe nói lúc tìm kiếm vương gia, trừ quân lính Tây Xuyên, không cho ai cưỡi ngựa ra vào nữa ư?” Hoàng Tử Hà lại hỏi.

    Mấy tên lính gác vừa ăn hoa quả vừa cười nói: “Chính thế, lỡ Quỳ vương xảu ra chuyện thì đừng nói chúng tôi, mà cả quân Tây Xuyên lẫn quận Thục đều không gánh vác nổi đâu! Ai dám cho người lạ ra vào chứ.”

    “Mấy hôm đó phải chia làm ba ca, luân phiên canh gác không phải quân Tây Xuyên không cho vào.”

    “Vất vả quá…” Hoàng Tử Hà sực nhớ ra một chuyện: “À phải, Tề phán quan là quan văn, sao lại vào núi?” Chu Tử Tần giật mình kinh ngạc nhìn cô, không hiểu sao cô tự dưng nhắc tới Tề Đằng, còn hỏi chuyện hắn vào núi. Quan trọng nhất là, sao cô biết lúc ấy Tề Đằng từng vào núi.

    “Đúng đúng, chúng tôi cũng lấy làm lạ, cho rằng Tề phán quan không cần vào, nhưng hôm ấy Tề phán quan cưỡi ngựa đến, nói là không yên tâm, phải đích thân đi tuần một chuyến.”

    “Phải phải, bấy giờ tôi vội vàng thắng ngựa định đi theo, song phán quan nói mình chỉ vào một chút sẽ ra ngay, tôi vừa lên ngựa thì phán quan đã thúc ngựa chạy thẳng, tôi chẳng biết làm sao, đành ở lại…”

    “Ha ha, đúng là ngươi vỗ mông ngựa cũng chẳng nên thân, người ta đâu thèm đếm xỉa đến ngươi…” Đám lính đứng đó cười rộ lên.

    Kẻ khác sực nhớ ra, liền hỏi Chu Tử Tần: “Thiếu bổ đầu này, có phải Tề phán quan chết rồi không?”

    Chu Tử Tần gật đầu: “Đúng đấy, còn chết rất kỳ quặc, ta và Dương công công vẫn chưa tìm ra manh mối.”

    “Thế ư? Thiếu bổ đầu anh minh thần võ còn không điều tra ra được thì đúng là quái lại.”

    “Tề phán quan hằng ngày rất tốt bụng, niềm nở với bọn lính thối tha này, thực không ngờ lại bị người ta giết.”


    Mọi người nhao nhao bàn tán về cái chết của Tề Đằng, chỉ riêng một tên lính khá trẻ trong đám chẳng nói chẳng rằng, trầm ngâm nắm chặt quả chín trong tay, lộ vẻ phân vân.

    Hoàng Tử Hà liền bắt chuyện: “Đại ca có qua lại gì với Tề phán quan không? Huynh nghĩ thế nào về chuyện này?”

    “Không có…” Bị hỏi đột ngột, tên lính vội cắn luôn nửa quả, song không nhai mà lúng túng đáp: “Tôi đang nghĩ, nương tử của Tề phán quan… chẳng biết biết sẽ ra sao.”

    Nương tử. Hoàng Tử Hà tóm ngay được chữ này, bèn liếc măt ra hiệu cho Chu Tử Tần. Chu Tử Tần hiểu ý, liền vươn tay phải ra khoác vai kẻ nọ: “Làm người có tứ khoái, chỗ các vị có nhà xí không đấy? Mau dẫn ta đi với.”

    Không lâu sau, Chu Tử Tần quay lại, cười hì hì từ biệt mọi người.

    Hai người lên ngựa, nhằm hướng Thanh Khê.

    Qua một chỗ ngoặt, thấy trước sau không có bóng người, Chu Tử Tần lập tức làm bộ thần bí thúc ngựa sán lại gần Hoàng Tử Hà, nháy mắt: “Sùng Cổ này! Đúng là phát hiện lớn! Quỷ khóc thần sầu đấy nhé!” Hoàng Tử Hà vội hỏi: “Gì cơ?”

    “Nhiều ngày trước, trong lúc canh phòng, đám lính đó từng thấy Tề phán quan đi lên núi Minh Nguyệt!” Hoàng Tử Hà vốn biết Tề Đằng không đáng tin, song không ngờ lại đáng ngờ đến mức này, đành nhẫn nại chờ Chu Tử Tần kể tiếp.

    Thấy Hoàng Tử Hà không đáp lời, cũng chẳng nài nỉ mình kể tiếp, Chu Tử Tần cụt hứng hậm hực nói: “Bấy giờ họ Tề không đi một mình, mà có ca một cô gái, tuy cô ta đội mũ có mạng che, song vẫn thấp thoáng nhận ra là mỹ nhân cực phẩm.”

    Hoàng Tử Hà trầm tư gật đầu, nhưng Chu Tử Tần lại tức tối ra mặt: “Tên khốn Tề Đằng chết là đánh kiếp! Hơn ba mươi tuổi còn phóng đãng như thế, vợ trước của hắn không chừng bị chọc cho tức chết cũng nên!”

    Hoàng Tử Hà hiểu gã đang chửi thay cho em gái, nên chỉ cười trừ.

    Quả nhiên, Chu Tử Tần tiếp: “May mà Tử Yên chưa gả cho hắn! Bằng không với tính tình nó, gặp phải kẻ như thế chẳng phải một đao đâm chết hắn ư?”

    Hoàng Tử Hà nhướng mày không đáp.

    Chu Tử Tần nói ra mồm mới thấy mình lỡ lời, sau phút ngẩn ngơ bèn vội vã lấp liếm: “Bập bập! Không phải không phải! Ta không có ý nói con bé giết người! Dù… dù nó không muốn gả cho Tề Đằng, thì cũng chỉ khóc lóc ăn vạ ở nhà thôi, nhất định không âm thầm giết người đâu!”

    “Tôi hiểu mà.” Hoàng Tử Hà hỏi sang chuyện khác: “Có manh mối gì về cô gái đi đạp thanh cùng Tề Đằng chưa? Liệu có liên quan gì tới vụ án không?”

    Chu Tử Tần vỗ trán đáp: “Suýt nữa thì quên! Bấy giờ hai người họ cưỡi ngựa lên núi, lúc ngang qua trạm gác, A Lư nhận ra tua đỏ trên ngựa cô gái kia bị rơi, bèn nhặt lên trả lại. Trong khi cúi xuống nhặt rồi ngước lên, y thoáng nhìn qua lớp mạng che, trông thấy mặt cô ta. Nghe nói nhan sắc sau tấm mạng đẹp như tiên trên trời, khiến y đờ đẫn cả ra, tới khi họ đi khuất vẫn chưa định thần lại được!”

    Hoàng Tử Hà ghìm cương ngẫm nhĩ giây lát rồi hỏi: “Có nhớ được đặc điểm gì không?”

    “Đặc điểm trên mặt thì không, huống hồ bấy giờ A Lư đã thẫn thờ, hồi tưởng cũng chỉ nhớ được cảm giác kinh diễm ấy, chứ làm sao nhớ nổi tiểu tiết? Từ sau khi gặp cô ta, y cứ xao xuyến không nguôi, về sau lại nghe tin Tề phán quan sắp cưới vọ, nên cứ đinh ninh đó là Tử Yên, vị hôm thê của Tề Đằng… Lần này gặp ta, y bèn vòng vo dò hỏi về con bé, chẳng thèm nhìn lại bản thân, đũa mốc muốn chòi mâm son, cha ta mà chịu gả con cho một tên lính canh ư.” Kể đến đây, Chu Tử Tần lại chột dạ: “Dù sao người y gặp cũng không phải em gái ta đâu. Con bé đó khó mà theo người khác ra ngoài, cũng chẳng nghiêng nước nghiêng thành đến thế. Huống hồ tính tình nó ngang ngạnh, hôn sự lại trắc trở đến hai lần, muốn gả vào nhà tử tế cũng khó lắm.”

    Hoàng Tử Hà lặng lẽ ngẩng đầu nhìn vòm trời bị tán đại thụ che khất, sau lớp lá ken dày, vẫn lấp ló đâu đó sắc lam thăm thẳm, thở hắt ra, lẩm bẩm: “Ra là thế…”

    Chu Tử Tần ngồi trên ngựa vội ghé sát người lại hỏi gặng: “Gì cơ gì cơ? Ra thế cái gì?”

    Hoàng Tử Hà quay sang bảo gã: “Thay mận đổi đào, cũng có thể gọi là ve sầu lột xác. Chúng ta sắp đến Thanh Khê, có thể chứng thực vài điều rồi.”

    “Thực ra cũng không phải lập thi xã chính thức gì. Chỉ la mấy người ở Thành Đô hay tụ họp cùng nhau, thỉnh thoảng nổi hứng lôi bạn kéo bè đến mở hội thơ, lâu lâu gặp gỡ, hằng tháng hẹn ở vườn Tình lấy thơ kết bạn, bàn luận đàm đạo, cũng không có ngày cố đinh…”

    Các thành viên thi xã tụ tập bên bờ Thanh Khê thấy Chu thiểu bổ đầu đích thân tới thăm hỏi đều lộ vẻ sợ sệt và bất an. Người mào đầu thi xã, một kẻ sĩ tên gọi Trần Luân Vân thì thào hỏi những người khác: “Có phải mấy bài thơ chúng ta làm lúc du ngoạn miếu Thần Nữ năm nay quá vô lễ, nên… bị thần linh giáng tội, chẳng bao lâu đã chết mất hai người không…”

    “Có nhẽ đâu thế? Nếu nói là vô lễ thì không đến lượt Ôn Dương đâu. Xưa nay chẳng phải ôn huynh không bàn đến ái tình ư! Thậm chí lúc chúng ta bình thẩm tượng Thần Nữ, Ôn huynh chỉ mải miết nghiên cứu đề thi trên tường, không hề hùa theo.”

    Cả đám đang lao xao, đã bị Chu Tử Tần chen ngang: “Nhưn ta nghe nói Ôn Dương thường lui tới đường hoa ngõ liễu, có thể thấy vẫn thích gái đẹp.”

    “Thế ư? Chuyện… chuyện này, chúng tôi chưa từng nghe nói.” Trần Luân Vân hỏi người bên cạnh: “Huống hồ Ôn Dương bản tính lạnh lùng lại tự vẫn cùng một nhạc kỹ, khiến chúng tôi vô cùng sửng sốt. Lẽ nào Ôn huynh lại là hạng đa tình cố chấp thế ư?”

    “Nói là đa tình cố chấp, nghĩ thế nào cũng lạ nhỉ? Cha mẹ Ôn huynh đã tạ thế, họ hàng gần chẳng còn ai, thậm chí vợ cũng qua đời rồi, dù Ôn huynh lấy một nhạc kỹ cũng chẳng ai ngăn cản, sao phải tự vẫn?”

    Có người lại nói: “Năm ngoái Hà Đại chẳng phải cũng tục huyền với nhạc kỹ Liễu Thư Nhi đấy ư? Sau khi Liễu Thư Nhi xé giấy hoàng lương, mọi người chỉ thích kéo đến nhà họ hà, vì vợ Hà huynh vừa dí dỏm lại phóng khoáng, ngón gì cũng chiều, thỉnh thoảng còn cải trang làm nam nhi cùng chúntg ta ra ngoài du ngoạn, ai cũng phải khen là vợ tốt, ngấm ngầm ngưỡng mộ Hà huynh. Lẽ nào lại chê bai Ôn huynh lấy mộ cô gái xuất thân ca múa?”

    “Huống hồ nếu là Tề Đằng, không chừng còn phải cân nhắc xem cưới một nhạc kỹ có ảnh hưởng gì tới bước đường làm quan, tổn hại thanh danh hay không. Chứ Ôn Dương xưa nay không thích ra làm quan, thì con lỗ nỗi gì?”

    Hoàng Tử Tà im lặng lắng nghe họ bàn tán, đến giờ mới hỏi: “Quan hệ giữa Tề Đằng và Ôn Dương thế nào?”

    Trần Luân Vân đáp: “Vì Tề Đằng tên chữ là Hàm Việt, tính tình tiêu sái lại ôn hòa, nên chúng tôi đặt cho biệt danh là Hàn Nguyệt côngg tử, vừa khéo hợp thành mộ đôi với Ôn Dương, thường lôi cả hai ra trêu chọc. Song Tề Đằng thích náo nhiệt còn Ôn Dương ưa tĩnh, đôi bên hình như không thân thiết gì, chỉ gật đầu chào hỏi xã giao thôi.”

    Hoàng Tử Hà lại hỏi: “Vậy những ai thường qua lại với Tề Đằng và Ôn Dương?”

    Hai ba người đồng thanh đáp ngay: “Vũ Tuyên.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu làm thinh.

    Chu Tử Tần vẫn chưa hiểu ra, ngạc nhiên hỏi lại: “Các vị muốn nói Vũ Tuyên qua lại với ai trong hai người kia?”

    “Qua lại với cả hai!” Họ khẳng định.

    Thấy Chu Tử Tần vẫn chưa tin, Trần Luân Vân bèn giải thích: “Ôn Dương ưa tĩnh, thích thư pháp, mà Vũ Tuyên lại là danh gia thư pháp ở Thành Đô, nên Ôn huynh thường mượn cớ tiếp cận, tìm đủ cách để kết thân. Các vị có nhớ chuyện bức thủ bút của Chung Hội lần trước không? Có phải từ đó họ bắt đầu trở mặt không nhỉ?”


    “Đúng đúng, chuyện này tôi nhớ!” Một người trẻ tuổi đáp ngay, “Là mùa thu năm ngoái, bấy giờ Ôn Dương khoe mình mới tìm được một bức thư tay của Chung Hội, mời Vũ Tuyên đến bình phẩm. Vũ Tuyên vui vẻ đi, nhưng sau khi trở về thì không thèm nhìn mặt Ôn Dương nữa, người khác có hỏi đến cũng không buồn nhắc tên. Tôi từng hò hỏi Vũ huynh thấy bức thủ bút ấy thế nào, có phải đồ thật hay không.”

    Chu Tử Tần hỏi dồn: “Vũ Tuyên bảo sao?”

    “Bấy giờ thái độ Vũ huynh rất lạ, các vị không mấy thân thiết nên không biết chứ, Vũ Tuyên là người xuất sắc nhất thi xã chúng tôi, thần thái cử chỉ phong nhãn thoát tục, không ai sánh kịp. Tôi quen Vũ Tuyên mấy năm nay, chưa từng thấy Vũ huynh nổi giận bao giờ. Thế mà hôm ấy mặt Vũ huynh lạnh băng, giọng điệu cũng rất hờ hững nới, bức thư viết tháng Mười hai năm Gia Bình thứ nhất, Chung Hội tự xưng là thượng thư Lang, sao có thể là thật được.”

    Trần Luân Vân gật đầu: “Đúng thế, thoạt đầu chúng tôi cũng không hiêu, về giở sách ra mới biết, thì ra năm Gia Bình thứ nhất, Chung Hội đã chuyển sang làm trung thư thị lang rồi, Vũ huynh chỉ nhìn qua đã biết là đồ giả.”

    Chu Tử Tần phản bác: “Dù là đồ giả, cũng chỉ có Ôn Dương bị lừa mua mà thôi, sao lại xích mích?”

    “Đúng vậy, nhưng từ đó trở đi, Vũ Tuyên không qua lại gì với Ôn Dương nữa, khi gặp nhau ở thi xã, Ôn Dương vẫn vồn vã niềm nở song Vũ Tuyên đều tránh xa ba bước, thậm chí vì thế mà bỏ cả mấy kỳ không đến.”

    Hoàng Tử Hà nhìn sang Chu Tử Tần, thấy gã vẫn chưa hiểu bèn chuyển chủ đề: “Quan hệ giữa Tề Đằng và Vũ Tuyên thì sao?”

    Trần Luân Vân đáp: “Chuyện này tôi biết rõ hơn. Trước đây họ cũng chỉ xã giao thôi, nhưng từ sau lần Vũ Tuyên tự sát không thành, họ lại đâm thân thiết, thậm chí có thời gian còn qua lại thường xuyên.”

    Hoàng Tử Hà trước đây từng nghe Vũ Tuyên nhắc đến chuyện này, nhưng không nói rõ. Giờ Trần Luân Vân lại kể ra, cô chợt thấy tim đập rộn lên, buột miệng hỏi: “Tự sát không thành ư?”

    “Đúng thế, là sau khi nhà Hoàng quận thú xảy ra chuyện, Hoàng tiểu thư bỏ trốn. Người Thành Đô ai ai cũng biết Hoàng tiểu thư thân thiết với Vũ Tuyên, song chẳng ai nhờ gia đình Hoàng quận thú vừa xảy ra chuyện, Vũ Tuyên lại đứng ra tố cáo Hoàng tiểu thư; cũng chẳng ai nghĩ, sau khi Hoàng tiểu thư bỏ trốn, không rõ tung tích, Vũ Tuyên lại tự vẫn ngay trước mộ Hoàng quận thú vào đúng ngày đưa tang. Cũng không ai nghĩ, kẻ cứu Vũ Tuyen lại là Tề Đằng, hằng ngày chẳng có qua lại gì.” Trần Luân Vân thở dài, “Chuyện này chỉ mấy người trong thi xã biết thôi, vì Vũ Tuyên và Tề Đằng đều là bạn, nên mấy người chúng tôi tuy biết, cũng chẳng nói ra.”

    Hoàng Tử Hà thấy ngực đau âm ỉ, thẫn thờ dựa vào lưng ghế, im lặng.

    “Vũ Tuyên nằm liệt giường, hôn mê mấy ngày mới tỉnh lại, chẳng biết có phải tổn thương chỗ nào không, ma… các vị có thấy tính tình Vũ huynh thay đổi hẳn không?”

    Nghe những người khác nói vậy, Trần Luân Vân gật đầu: “Đúng đúng, Vũ huynh vốn là người tiêu sái thoát tục, song sau biến cố ấy lại trở nên ngơ ngẩn, dường như chẳng để tâm đến bất cứ thứ gì, lại dường như dè chừng tất cả mọi người. Hơn nữa còn nói trước quên sau, chuyện hôm trước nói với chúng tôi, hôm sau đã quên bẵng…”

    “Mỗi khi chúng tôi lỡ lời nhắc gì đó về phủ quận thú, Vũ huynh lại đau đầu, thoạt tiên tôi ngỡ huynh ấy đau đớn về cái chết của Hoàng quận thú, nào ngờ đau đến nỗi toàn thân vã mồ hôi lạnh, cả người mềm nhũn, suýt nữa mất mạng, nên chúng tôi… trước mặt Vũ huynh phải hết sức cẩn trọng lời nói, chỉ e động đến chuyện đau lòng của huynh ấy.” Mấy người khác cũng xôn xao phụ họa, tỏ vẻ nghi hoặc.


    “Thực ra cũng có loại bệnh như thế đấy. Ví như sai khi bị tổn thương quá lớn, hễ nhắc lại một vài chuyện gì đó, cảm thấy không thể chịu đựng nổi, cơ thể sẽ vô thức phản kháng, tạo thành phản ứng mạnh như vậy.” Chu Tử Tần chen vào phân tích rành lạch đâu ra đấy: “Còn một khả năng nữa, là trong lúc Vũ Tuyên tự sát, sợi dây nào đó trong cơ thể bị tổn thương, từ ấy sinh ra thay đổi tâm tính cũng nên, ví như một chuyện năm xưa ta đọc được trong sách cổ…”

    Mọi người xúm lại cùng Chu Tử Tần nghiên cứu đủ lời đồn đại cùng các vị tính tình thay đổi sau khi chết đi sống lại hoặc gặp tổn thương lớn, Hoàng Tử Hà ngòi bên lắng nghe hồi lâu, cũng chẳng thu được gì có ích, cứ vào tai này lại trôi sang tai kia, đành ngồi yên trên ghế, thầm rà soát lại những manh mối liên quan trong vụ án này.

    Thấy mọi người cũng chẳng còn gì đề nói, ngượng ngập ngồi đó, Chu Tử Tần bèn kết thúc câu chuyện: “Đa tạ các vị giải đáp nghi vẫn giùm ta, hôm nay ta phải đi trước, ngày sau các vị tụ hội nhớ báo cho ta một tiếng, ta sẽ tời hầu phong nhã.”

    “Ôi thiếu bổ đầu từ Trường An đến đây, lời lẽ dí dỏm, kiến thức bất phàm, chịu ghé măt xanh tới đám quê mùa thô kệch húng tôi là vinh hạnh lắm rồi!” “Vâng vâng, được thiếu bổ đầu nể mặt như thế, đúng là phúc nhận của chúng tôi!” Chu Tử Tần lại một lần nữa phát huy năng khiếu kết bạn khắp thiên hạ, sau một phen chuyện gẫu trên trời dưới bể, đã trở thành bạn thân của tất cả mọi người trong thi xã.

    Mấy người tiễn gã đến tận lối vào Thanh Khê, quyến luyến không rời.

    Thanh Khê vốn là một thung lũng rộng lớn, xung quanh toàn thông, một dòng suối trong vắt từ cua thung lũng đổ vào bị thế nui chia thành ba bốn nhánh suối con, rồi tụ lại ở cuối thung lũng, cuồn cuộn chảy tiếp.

    Họ cưỡi ngựa men theo dòng nước ra khỏi thung lũng, chợt phát hiện có một người đang lặng lẽ đi trên bờ bên kia.

    Chính là Vũ Tuyên. Nghe tiếng vó ngựa, hắn quay đầu nhin sang. Cách con suối chảy xiết, một mình hắn đứng dưới bóng râm trong rừng, mặc cho hơi nước thổi tung vạt áo, lặng lẽ nhìn cô.

    Hoàng Tử Hà thoáng lưỡng lự, thấy Chu Tử Tần đằng trước ngoái lại nhìn mình bèn bảo gã: “Công tử đi trước đi, hình như tôi đánh rơi đồ, phải vòng lại tìm.”

    Chu Tử Tần ừm một tiếng, nghiêng ngó nhìn quanh quất, song cạnh gã là một tảng đá lớn, che khuất bóng dáng Vũ Tuyên ở bờ bên kia, gã chỉ thấy rừng sâu thăm thẳm, khe suối róc rách, không có gì khác thường, bèn dặn dò: “Sùng Cổ nhanh lên nhé.”

    Đợi gã ra khỏi cánh rừng, nhằm thẳng hướng đường cái quan, Hoàng Tử Hà mới giực ngựa lội qua suối, đi đến bên Vũ Tuyên rồi nhảy xuống ngựa.

    Cô nghe thấy giọng hắn, rất khẽ, đượm vẻ khàn khàn mệt mỏi, chẳng biết hắn đã đứng đó bao lâu: “A Hà…”

    Cô lại nghe thấy cách gọi này, nhưng, dường như đã cách cả một đời.

    Hồi còn ở phủ quận thú, hắn từng rất nhiều lần khe khẽ gọi cô như thế.

    Hắn trách móc, A Hà lại mải tra án, quên ăn cơm hả?

    Sau đó cười khì khì chìa ra gói đồ ăn còn ấm.

    Hắn mừng rõ, A Hà, hôm qua ta lục lại tất cả sổ sách liên quan tới vụ án, cuối cùng cũng tìm được một chỗ không bình thường.

    Hắn lo lắng, A Hà, ta rất lo cho đứa bé con nạn nhân, chúng ta tới cô nhi viện thăm nó, cho nó ít đồ ăn được không?

    Chuyện cũ trùng trùng dâng lên trong đầu cô, nghiêng trời rợp đất. Nhưng dặn dò đinh ninh mà cô từng lấy làm phiền hà, những tiểu tiết nhỏ nhặt mà cô cứ ngỡ là vô nghĩa, giờ đây, đối diện với hắn, hồi tưởng lại từng chút mội, điều khiến cô xót xa.

    Hắn hỏi khẽ: “Muội đã có manh mối gì vế cái chết của Tề Đằng hôm qua chưa?”

    Giọng điệu quen thuộc như thế, giống như hắn vẫn quen miệng hỏi han tất cả những vụ án trước đây.

    Hoàng Tử Hà cụp mắt, cố ý không nhìn vẻ mặt Vũ Tuyên: “Vẫn chưa biết được. Nhìn bề ngoài, Tề Đằng chẳng có lý do gì mà phải chết. Tính Tình Tề đại nhân hòa nhã, lại là phán quan phủ tiết độ, quan hệ với mọi người rất tốt.”

    Vũ Tuyên ngơ ngẩn nhíu mày, thuận miệng nói theo: “Đúng thế… Ai lại giết Tề huynh chứ?”

    “Đúng vậy, nhìn bề ngoài thì mọi người đều quý mến Tề phán quan, nhưng sự thật ai mà biết được… Có lẽ rất nhiều người có lý do giết họ Tề, chỉ là vẫn chưa tra rõ đấy thôi.” Nói rồi, Hoàng Tử Hà ngước nhìn Vũ Tuyên, chậm rãi nói thật khẽ: “Ví như không bằng lòng về việc hôn nhân của Tề phán quan, không muốn Tề phán quan lấy Chu tiểu thư; hoặc là họ Tề vô tình trở thành hòn đá ngáng chân ai đó trên đường công danh. Hay là… Tề phán quan từng đắc tội với ai đó, tỷ dụ làm khó kẻ ấy trước mặt nhiều người chẳng hạn.”

    Nghe đến đây, Vũ Tuyên bỗng tái mặt, mở to mắt nhìn cô chằm chằm đầy kinh ngạc, hồi lâu mới cười buồn: “Muội trông thấy ư?”

    “Vâng… Lúc ấy, muội ở ngay cạnh đó.” Hoàng Tử Hà đáp khẽ.

    Vũ Tuyên nhìn cô hồi lâu, lại hỏi: “Nêu muội nghĩ ta là hung thủ?”

    “Giờ chân tướng chưa rõ, huynh có khả năng, nhưng Chu Tử Tần, Trương Hàng Anh, thậm chí cả muội cũng có… Vẫn khó kết luận lắm.”

    Vũ Tuyên chăm chú quan sát nét mặt cô, ngõ hầu tìm ra mảy may biểu cảm liên quan đến mình, song chỉ bắt gặp ve lạnh nhạt bình thản, không có gì khác lạ. Cuối cùng, hắn thở dài: “Đúng, sáng hôm kia Tề Đằng có nói mấy câu, ta không rõ lắm, nhưng cũng cảm thấy đó là việc có liên quan mật thiết đến mình. Vốn định tan tiệc sẽ gặng hỏi Tề huynh kỹ hơn, nào ngờ… Huynh ấy lại chết giữa màn múa.”

    Hoàng Tử Hà thấy gương mặt nghiêng nghiêng tuấn tú của Vũ Tuyên đượm phần buồn rầu, thì thầm nghĩ, có lẽ cái chết của Tề Đằng cũng ảnh hưởng tới hắn không ít. Cô thở dài hỏi lảng đi: “Sau khi cha mẹ muội qua đời, sao huynh lại nghĩ quẩn?”

    Mặt Vũ Tuyên tái mét, thấp thoáng bi ai. Hắn ngoảnh mặt đi không nhìn cô, nghèn nghẹn đáp: “Không liên quan tới muội… Ta chỉ muốn đi theo cha mẹ nuôi thôi.”

    Hoàng Tử Hà khẽ gật đầu, lại hỏi: “Nghe nói là Tề Đằng cứu huynh?”

    “Ừ…”

    “Thế thì Tề phán quán là ân nhân cứu mạng huynh, vậy mà huynh không hiểu gì về họ Tề ư?’

    Vũ Tuyên lạnh nhạt đáp: “Chỉ là trùng hợp thôi, Tề huynh cứu mạng ta, song lòng ta đã nguội lạnh, không muốn sống tiếp nữa, nên huynh ấy với ta, cũng chẳng tính là ơn nghĩa.”

    Vẻ mặt hắn hết sức xa cách và lạnh nhạt, dường như chẳng hề coi Tề Đằng vào đâu. Hoàng Tử Hà thở hắt ra: “Huynh nghĩ không thông, muội cùng đành chịu… Dù sao muội cũng sẽ tra rõ mọi chuyện, phô bày chứng cứ cho người đời thấy, để tất cả biết được bộ mặt của hung thủ giết hại cha mẹ muội.”

    Vũ Tuyên nhìn cô chằm chằm, “Muội đã điều tra về bức thư thứ hai của mình chưa?”

    Hoàng Tử Hà cụp mắt, né tránh câu hỏi, chỉ đứng dậy đáp ngắn ngọn: “Muội khẳng định không hề viết bức thư đó.”

    Thấy cô nói tránh đi, Vũ Tuyên cũng đổi giọng lạnh băng: “Hoàng Tử Hà, đến giờ muội vẫn chưa rửa sạch hiềm nghi, lại chỉ chăm chăm điều tra một vụ án không liên quan, khiến ta không khỏi nghi ngờ độ chính xác của kết luận cuối cùng mà muội đưa ra…”

    Thấy hắn nghi ngờ, giọng Hoàng Tử Hà cũng cao hẳn lên: “Huynh ngờ rằng muội quay về là để mượn cớ điều tra, tìm một kẻ vô tội chết thay, còn mình tiêu dao ngoài vòng pháp luật phải không?”

    Vũ Tuyên lắc đầu, ngẩn ngơ một lát mới nói: “Ta biết muội không có ý ấy. Chỉ là… chỉ là ta lo, liệu muội có ký ức mà bản thân cũng không nhận thức được, vì đủ thứ nguyên do, nên mới chọn cách trốn tránh không…”

    “Ký ức của muội và huynh không khớp nhau, điều này khiến muội suy nghĩ rất nhiều. Có lẽ hung thủ thực sự đang ẩn nấp giữa hai chúng ta. Trong khoảng ký ức không khớp ấy, nhất định đã xảy ra chuyện gì đó.” Cô đưa mắt nhìn hắn.

    Giữa cánh rừng tậm, dưới ánh mặt trời, cô nhìn rõ dáng người gầy gò cùng đôi mắt trong veo trên gương mặt tuấn tú quen thuộc. Kẻ trước mặt cô từng nhẫn tâm cắt đứt những kỷ niệm giữa đôi bên, thậm chí trình bức thư tình của cô lên cho tiết độ sứ Phạm Ứng Tích làm tội chứng. Lúc này đây, dẫu vẫn nhìn cô bằng đôi mắt của chàng thiếu niên tiêu sái thoát tục thuở ban đầu, song lòng hắn rõ hơn ai hết, hai người bọn họ đã cách nhau góc biển chân trời, không thể nắm tay sánh bước được nữa.

    Trước mặt cô bỗng hiện ra cảnh tượng đêm qua, dưới ánh đèn lập lòe, cô đã nói với Lý Thư Bạch như chém đinh chặt sắt.

    Đến giờ cô vẫn chưa thôi kinh ngạc, chẳng hiểu sao trong khoảnh khắc ấy mình lại bị tình cảm kích động dẫn dắt, nắm lấy tay y.

    Còn y, lúc lật tay lại nắm tay cô, không rõ đã nghĩ gì?

    Cô lắc đầu mạnh, gạt những ý nghĩ miên man khỏi tâm trí, lạ nghe thấy giọng Vũ Tuyên: “Ta luôn cảm thấy, khoảng thời gian không khớp đó… rất quan trọng.”

    Vừa nói hắn vừa giơ tay lên day day huyệt thái dương, gân xanh gồ lên nơi mu bàn tay.


    Hắn xem trọng vụ án này đến thế, cũng sợ hãi đáp án biết bao.

    Giống như cô, trong long hắn luôn cảm thấy những chuyện bất thường quanh mình sẽ khiến chính hắn hoặc cô tan xương nát thịt, dù có chết cũng chẳng mặt mũi nào gặp lại những người dưới suối vàng kia nữa.

    Nhưng, rốt cuộc đó là ai? Kẻ có vấn đề giữa hai người, là cô, hay là hắn?

    Hoàng Tử Hà thở dài, quay đi: “Muội đi đây, huynh… nhớ giữ gìn.”

    Thấy cô quay lưng toan đi, hắn sốt ruột giơ tay nắm lấy tay cô, gọi khẽ: “A Hà…”

    Bàn tay Vũ Tuyên lạnh ngắt, run rẩy, mồ hôi dâm dấp dính cả sang ngón tay cô.

    Hoàng Tử Hà ngoái lại lắc đầu với hắn rồi từ từ rút tay về, dịu giọng: “Vũ Tuyên, mọi chuyện cuối cùng sẽ có kết quả thôi.”

    “Kết quả cuối cùng có phải muội vẫn sẽ ở bên Vương Uẩn không?” Hắn nghiến răng im lặng giấy lát, rồi đột ngột hỏi một câu.

    Hoàng Tử Hà ngạc nhiên ngoái lại nhìn Vũ Tuyên, thấy hắn thu tay lại, đứng lặng dưới bóng cây nhìn cô hồi lâu mới nói: “Việc đã đến nước này, ta cũng chẳng có tư cách gì mà nói muội. Nhưng… tối qua ta đi theo muội rời phủ quận thú, trông thấy…”

    Trông thấy gì kia? Thấy cô sánh vai đi cùng Vương Uẩn? Thấy cô nhảy lên cưỡic hung một ngựa với họ Vương? Thấy cô ôm eo Vương Uẩn?

    Chắc chắn hắn không thấy cảnh cô chĩa kiếm vào Vương Uẩn.

    Song Hoàng Tử Hà chỉ bật cười tự giễu: “Có những lúc mắt thấy chưa chắc đã là thực đâu.”

    Rồi, chẳng buồn giải thích hay nói thêm nửa lời, cô tung người nhảy lên ngựa đi thẳng, tiếng vó ngựa lộp cộp xa dần.

    Gió lồng lộng thổi, vòm không xanh ngắt, chỉ còn lại Vũ Tuyên đứng trơ trọi trước gió, nhìn rõ mồn một dáng cô lao vút đi không hề ngoái đầu.

    Chu Tử Tần đang ngồi vắt vẻo trên lan can ngôi đình bên đường, đưng đưa hai chân, đợi cô trở ra. Thoạt nhác thấy cô, gã đã nhảy phắt xuống hỏi: “Về ăn cơm đã nhe? Chiều nay mình đi đâu?”

    Hoàng Tử Hà dẫn gã vào thành: “Đến nhà Tề Đằng.”

    Chu Tử Tàn nhảy cẫng lên: “Hay quá! Ta thích nhất là đi điều tra cùng Sùng Cổ đấy. À phải, có đến chỗ Vũ Tuyên không? Ta cũng muốn tra xét thử.”

    Bàn tay nắm dây cương hơi lỏng ra, Hoàng Tử Hà hỏi lại: “Tra xét Vũ Tuyên làm gì?”

    Chu Tử Tàn ngượng nghịu gãi đầu: “Ừm… ta cũng không biết nữa… Hoàng Tử Hà yêu Vũ huynh, giữa Vũ huynh và Đồng Xương công chúa lại có quan hệ mập mờ không thể nói rõ, chưa kể mấy người trong thi xã ũng bình luận về huynh ấy… khiến ta cứ muốn gặp thử một lần xem sao.”

    Hoàng Tử Hà im lặng cúi đầu, dọc đường ngang qua khóm trà mi nở rộ, cô ngẩng lên, nhìn những dây leo xoắn xuýt đã rụng hết hoa, buột miệng thì thào hai tiếng, thật nhỏ, thật khẽ: “Đã từng.”

    Chu Tử Tần ngơ ngác hỏi lại: “Đã từng gì cơ?”

    Cô gật đầu, rối dưới bụi trà mi, giữa cơn gió hầm hập cuối hạ, cô dịu giọng lặp lại: “Hoàng Tử Hà, đã từng yêu Vũ Tuyên.”

    Mặc cho Chu Tử Tần suốt dọc đường cứ nhằng nhẵng hỏi, “Sao Sùng Cổ dám chắc bây giờ Hoàng Tử Hà không còn yêu Vũ Tuyên”, cô thản nhiên cưỡi ngựa vào thành, qua về phủ quận thú.

    Hoàng Tử Hà thông thuộc nha môn như lòng bàn tay,s au khi qua cửa, cô bằng qua hàng đá xanh đã mòn vẹt, qua sây cơn trà trước sân, qua cánh cửa nhỏ đã có vết nứt, chẳng cần nhìn đường vẫn đi xăm xăm, không mảy may lúng túng.

    Chu Tử Tần chạy đi bưng hai bát canh sen đến, ân cần so đũa cho cô, rồi vung vẩy đôi đũa trên tay hỏi dò: “Sùng Cổ kể cho ta biết đi, có phải công công biết Hoàng Tử Hà không? Đúng rồi, sao ta lại không nghĩ ra nhỉ? Hai người đều là thần thám, nhất định đã từng giao lưu, đúng không nào?”


    Hoàng Tử Hà không muốn nhiều lời với gã, chỉ mải miết ăn, đáp quấy quá cho qua chuyện: “Không, tôi linh cảm thế thôi.”

    “Thế à…” Bàn tay đang cầm đũa đờ ra, Chu Tử Tần lẩm bẩm: “ Chẳng biết bây giờ cô ấy ở đâu nữa? Có phải vẫn chạy đôn chạy đáo khắp nơi trốn tránh truy nã, hay đang ăn cơm ở đâu đó như chúng ta? Cô ấy đang ăn gì nhỉ?”

    Hoàng Tử Hà bất lực uống một hớp anh, rồi đảo đầu đũa gõ vào bát gã: “Ăn mau lên, không là tôi đến nhà Tề Đằng trước đấy.”

    “Ừ ừ…” Chu Tử Tần hối hả ăn.

    Hoàng Tử Hà nhìn gã, thở dài nói: “Yên tâm đi… Tôi nghĩ nhất định Hoàng Tử Hà cũng đang uống canh hạt sen ngọt mát như chúng ta bấy giờ.”

    Chu Tử Tần gật đầu, vẻ mặt còn quả quyết hơn cả cô.

    Họ còn chưa ăn xong, con chó lần trước Hoàng Tử Hà nhặt ngoài đường về thử độc đã chui xuống gầm ghế, đánh hơi khìn khịt rồi nhểu dãi.

    Chu Tử Tần liền ném cho nó hai miếng thịt dê to nhất, “Phú Quý ăn cho mau lớn, nha môn còn đang đợi ngươi thể hiện bản lĩnh, thuận gió đánh hơi mười dặm, ngược gió đánh hơi năm dặm, rảnh rõ mùi của đám vô lại phủ Thành Đô rồi bắt hết chúng kìa!”

    Hoàng Tử Hà nhìn con chó mừng rỡ ăn, khóe môi hơi rần rật hỏi lại: “Phú Quý ư?”

    “Đúng rồi, nó tên là Phú Quý.”

    Cô câm nín nhìn con chó loang lổ xấu xí, sực nhớ ra một chuyện: “Tử Tần, cho tôi xem cái vòng chạm đôi cá.”

    Chu Tử Tần vội rút trong ngực áo ra đưa cho cô, không quên lải nhải: “Cẩn thận đấy, đây là vật của Hoàng Tử Hà…”

    Hoàng Tử Hà lờ gã đi, xoay xoay ngắm nghía hoa văn trên vòng. Hai con cái nhỏ ngậm đuoi nhau, mắt khảm hai hột ngọc trai lóng lánh vừa bằng hạt gạo.

    Cô giơ chiếc vòng lên trước nắng săm soi, chất ngọc trong suốt trắng muốt chẳng khác nào một miếng băng tròn, bên trong trống rỗng, ánh sáng rọi vào, khúc xạ thành vo vàn tia sáng lung linh.

    Cô trả lại vòng cho Chu Tử Tần, rồi xuôi tay vuốt đầu Phú Quý.

    Con chó vừa được ăn hai miếng thịt dê, vô cùng vui vẻ, không hề do dự thè lưỡi liếm tay cô, vẫy đuôi lia lịa.

    Cô để nó liếm vài cái rồi đứng dậy ra giếng rửa tay, sau đó lai ngồi xuống bàn quán sát nó.

    Thấy cô rửa tay, Chu Tử Tần liền nói: “Hôm qua thím nấu bêos đã tắm rửa cho Phú Quý rồi, không bẩn đến thế đâu.”

    “Ừm, tôi biết.” Cô ậm ừ, rồi thấy Chu Tử Tần vẫn chưa xong bữa, bèn rút cây trâm trên đầu vạch vạch lên bàn, tiện thể sắp xếp lại các manh mối: “À phải, chẳng phải Tề Đằng từng nói sẽ tới chỗ Mộc Thiện đại sư xin ít tịnh thủy thanh tẩy cái vòng cho công tử đấy ư? Về sau đã làm chưa?”

    “Chưa, làm gì có thời gian, ta cũng đâu ngờ Tề Đằng lại chết đột ngột như thế.” Chu Tử Tần buồn rầu, “Chỉ tội Tẻ Yên, cứ tưởng lần này gả đi được, hơn nữa còn chọn được tấm chồng tương đôi… Ai ngờ lại thành công cốc.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu, tiếp tục cắm cúi vạch vạch lên bàn. Chu Tử Tần ăn xong, thấy cô vẫn đang vạch thì cũng không quấy rầy, chỉ nằm bò ra bàn, chăm chú nhìn cô.

    Hoàng Tử Hà bị gã nhìn đến phát ngượng, bèn cắm trâm lên đầu giục: “Đi thôi chứ?”

    Chu Tử Tần gật đầu đứng dậy: “Sùng Cổ, trước đây… ý ta là trước khi thành hoạn quan ấy, trông thế nào? Có phải được rất nhiều cô gái thích không?”

    Hoàng Tử Hà bình thản đáp: “Không, không có cô gái nào thích tôi cả.”

    Chu Tử Tần bất giác hít vào một hơi khí lạnh: “Lẽ nào… có rất nhiều đàn ông thích ư?”

    Hoàng Tử Hà ném cho gã cái nhìn “đừng có nghĩ bậy” rồi đứng phắt dậy đi thẳng.
     
  5. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 17 - Đào hồng mận thắm
    Cha mẹ Tề Đằng đều đã qua đời, tuy còn họ hàng nhưng đều rất xa, lại chẳng có thế lực gì, nên khi Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần đến, chỉ thấy mấy người họ xa đang tranh giành gì đó, xem chừng rất gay gắt dữ dội, tựa hồ ai nấy đều coi đồ vật trong nhà hắn là của mình.

    Chu Tử Tần tròn mắt kinh ngạc, lao vào giữa đám tranh chấp quát lên: “Ai là quản gia ở đây? Mau bước ra cho quan phủ hỏi chuyện!”

    Mấy người kia thoáng sững lại, rồi không hẹn mà cùng quay ngoắt đi, thoăn thoắt thu nhật đồ đạc.

    Hoàng Tử Hà bước ra giữa giếng trời, quát lớn: “Các ngươi nghe đây! Vụ án của Tề Đằng hết sức nghiêm trọng, hiện giờ quan phủ đã niêm phong hết mọi vật trong nhà! Kẻ nào dám đem đồ đạc đi, tức là tự ý chiếm đoạt của công, cản trở quan phủ tra án! Nhẹ thì phạt trượng, nặng thì phạt tù, ai dám thu gom nữa?”

    Đám người kia nghe vậy thì giật bắn mình, hối hả bỏ những thứ trong tay xuống, ngoan ngoãn lùi lại dưới hành lang, còn xòe hai tay ra, tỏ ý mình không giấu giếm gì cả.

    Hoàng Tử Hà lại thét: “Quản gia đâu? Ai quản chỗ này?” Một ông già đứng cạnh cửa cũng đang xòa tay ra hớt hải chạy đến, khom người thưa: “Tiểu nhân Tê Phúc, thường ngày cai quản mọi chuyện trong ngoài ở đây, tham kiến hai vị quan gia!”

    “Lão quản gia, mời qua đây nói chuyện.” Hoàng Tử Hà ra hiệu cho lão theo mình sang sảnh bên.

    Sảnh nhỏ này bài trí rất đặc biệt, trước mặt là một hòn giả sơn nhỏ, dưới giả sơn có nước chảy, rêu bám xanh mặt đá, còn trồng một gốc quế xanh um.

    Tề Phúc rót trà cho hai người rồi than vãn: “Tiểu nhân và Tề phán quan là họ hàng xa, năm ngoái đại nhân về quê, gặp tiểu nhân, thấy tiểu nhân cũng thông hiểu nhân tình, bèn nói sau khi mình nhậm chức phán quan, cần một người có năng lực bên cạnh, nên đưa tiểu nhân tới đây giúp đại nhân thu xếp công chuyện. Lúc tiểu nhân tới, thấy trong phủ ngoài mấy người họ hàng cùng đến với mình ra thì chẳng có ai cả. Té ra viên quản gia trước đây có tính tắt mắt nên đã bị đuổi đi cùng mấy tên nô bộc. À, đám người ở đằng trước, đều là người trong họ tiểu nhân dắt từ quê lên đấy.”

    Chu Tử Tần liền hỏi: “Là người một họ, sao hôm qua Tề phán quan vừa chết, hôm nay các ngươi đã hùa vào xâu xé của cải?”

    Tề Phúc cười gượng: “Chuyện này... Dù sao Tề phán quan cũng không có họ hàng gần, đợi những người khác trong tộc đến, chẳng phải vẫn chia hết ư... Chúng tôi hằng ngày hầu hạ đại nhân, không có công cũng có sức, lấy nhiều một ít cũng là hợp lẽ thôi mà, hà hà...”

    Trước thái độ ngang nhiên của lão, Chu Tử Tần cũng đành bó tay.

    Hoàng Tử Hà lại hỏi: “Chẳng hay hằng ngày Tề Đằng hay qua lại với ai?”

    “Hằng ngày đại nhân rất bận, sáng sớm ra đi tối mịt mới về, thời gian còn lại đều ở phủ tiết độ. Còn trẻ như vậy đã làm đến phán quan, chẳng phải rất tài giỏi ư? Họ Tề chúng tôi bao nhiêu năm nay mới có một người làm quan to thế đấy...”

    Hoàng Tử Hà khăng khăng lái câu chuyện lại chủ đề cũ: “Lão nghĩ kỹ lại xem, hằng ngày trừ người phủ tiết độ, Tề đại nhân có giao du với ai nữa không? Chuyện này liên quan mật thiết đến vụ án mạng của Tề phán quan, mong lão giúp cho.”

    Tề Phúc bấy giờ mới nghĩ ngợi rất lung, rồi đáp: “Đại nhân thường đi gặp Mộc Thiện đại sư đàm luận Phật pháp, Mộc Thiện đại sư cũng từng đến phủ dùng cơm, chuyện này... có tính không?” Lại là Mộc Thiện đại sư. Hoàng Tử Hà liền hỏi: “Tề phán quan cũng say mê Phật pháp?”

    Tề Phúc bối rối đáp: “Tiểu nhân không rõ lắm, đến Mộc Thiện đại sư ở chùa nào tiểu nhân còn không biết nữa là.”

    “Ngoài Mộc Thiện đại sư ra còn ai không?”

    Tề Phúc lộ vẻ phân vân, chừng như không mấy am hiểu về các mối quan hệ hằng ngày của Tề Đằng.

    Hoàng Tử Hà đành hỏi sang câu khác: “Lão có ấn tượng gì về người tên Vũ Tuyên không?”

    Tề Phúc ồ lên rồi đáp: “Có, đúng là có! Người này từng ở lại đây hai ba hôm, hình như là tự sát, được đại nhân cứu về. Bấy giờ Mộc Thiện đại sư cũng tới thăm, hôm ấy ba người họ ở trong phòng trò chuyện, chẳng rõ xảy ra chuyện gì, đại nhân thình lình đập vỡ cả bình sứ nuôi cá, còn đòi Vũ thiếu gia trả cá cho mình!”

    Cá. Hoàng Tử Hà nhạy bén tóm ngay lấy điểm này, hỏi dồn: “Nghe nói Tề phán quan thích nuôi cá?”

    “Thích ư? Tiểu nhân thấy cũng không hẳn. Có điều đại nhân rất tự hào về con cá mình nuôi, thường khoe là do Mộc Thiện đại sư tình cờ tìm được ở kinh thành, đem về tặng cho, có xuất xứ từ Tây Vực, rất hiếm thấy ở Trung Thổ.”

    “Tề đại nhân đòi Vũ Tuyên trả cá, chẳng lẽ trước đó đã tặng cho Vũ Tuyên hay sao? Con cá quý như thế mà đành lòng đem tặng kẻ khác ư?”

    “Đúng thế, xem ra quan hệ giữa đại nhân và Vũ công tử chưa thân tới mức đó, mà tiểu nhân cũng cảm thấy đại nhân quý con cá kia như vậy, khó lòng đem tặng người khác được. Đại nhân từng khoe với bọn tiểu nhân rằng giống cá này có thể sống đến trăm tuổi, khi nào chết đi sẽ đặt một vò nước trong mộ, thả nó vào để nó đi theo đại nhân... Giờ nghĩ lại mới thấy câu này đúng là nói gở, thảo nào...” Tề Phúc than thở, ra vẻ buồn rầu đau xót, song mắt lại lấm lét liếc các đồ bày biện trong sảnh, đặc biệt là những món khảm ngọc, nạm bạc, dát vàng, chỉ thiếu điều chưa rỏ dãi mà thôi.

    Hoàng Tử Hà hỏi thêm vài chuyện về Vũ Tuyên, song Tề Phúc chỉ nhớ láng máng, kể rằng họ Vũ tạm trú lại mấy ngày, cứ nằm dài bất động, y như người chết, đến khi hơi tỉnh táo thì được người hầu ở nhà tới đón về. Từ lúc đến tới khi về, lão không nghe thấy Vũ Tuyên hé răng nửa lời.

    Thấy lời kể của lão cũng chẳng có manh mối gì, Hoàng Tử Hà liền hỏi: “Thường ngày Tề phán quan làm việc ở đâu? Có để lại giấy tờ gì không?”

    “Đều ở cả trong thư phòng, xin các vị theo tiểu nhân.” Tề Phúc quay người dắt họ tới một gian gác nhỏ ở phía sau. Bên trong có giá sách, trên tường treo mấy bức họa vẽ nguyệt quế, đỗ quyên, thủy tiên và thông xanh.

    Hoàng Tử Hà đứng trước bức họa thông, thấy bên dưới ba bốn cội thông xanh biếc, cong cong đầy khí thế, có một người đang ngồi đàn. Kẻ đó đặt đàn lên đầu gối, mười ngón khẽ đưa, bên cạnh viết hai câu “Vì ta gảy một bận, như nghe muôn suối thông.”*

    *Trích trong bài “Nghe nhà sư Tuấn ở đất Thục gảy đàn” của Lý Bạch

    Chu Tử Tần đứng phía sau quan sát bức tranh rồi nhận xét: “Hình như... hơi kỳ quái.”

    “Đúng là hơi kỳ lạ, nếu treo một bức họa tú cầu ở đây có lẽ hợp lý hơn.”

    Tề Phúc đứng bên nghe vậy bèn chen vào: “Đúng thế, lúc trước ở đây từng treo một bức họa tú cầu.”


    “Giờ nó ở đâu?” Chu Tử Tần hỏi.

    “Tiểu nhân không biết... chẳng biết từ lúc nào bức họa tú cầu đã đổi thành cội thông. Hai vị đợi cho một lát.” Nói rồi, Tề Phúc ra cửa gọi to: “A Quý, A Quý lại đây!”

    Một thiếu niên chừng mười bốn mười lăm chạy đến: “Bác Phúc, sao thế ạ?”

    “Ngươi lo dọn dẹp thư phòng của đại nhân đúng không? Bức tranh tú cầu treo ở đó đâu rồi?”

    Thiếu niên nghiêng đầu ngạc nhiên nhìn bức tranh thông: “Cháu nào có biết? Không chừng đại nhân thích bức thông hơn nên đổi đó.”

    “Được rồi, biến đi!” Tề Phúc xua tay đuổi thiếu niên đi rồi quay sang cười trừ với họ: “Xem ra là đại nhân tự đổi, bọn người hầu chúng tôi phải thuận theo thôi.”

    Xem chừng Tề Đằng quản lý không nghiêm, người vừa nằm xuống trong nhà đã loạn lên, chẳng có cách nào tra xét cả.

    Hoàng Tử Hà đành ra hiệu bảo Tề Phúc lui ra, để mình và Chu Tử Tần ở lại trong phòng lục soát. Thoạt tiên, Chu Tử Tần chạy ngay đến lục lọi giá sách và ngăn tủ, còn Hoàng Tử Hà đi lòng vòng, tình cờ trông thấy một thứ trong sọt giấy vụn, bèn tiện tay nhặt lên.

    Là một túi tiền màu lam thẫm. Kiểu dáng cũ kỹ, màu sắc đã phai, đóa thanh anh thêu bên trên khá cứng, trông chẳng mấy sinh động, thoạt trông đã biết là người thêu vụng.

    Hoàng Tử Hà giơ cái túi lên săm soi. Chu Tử Tần cũng sán lại nhìn ngó rồi nhận xét: “Chắc là túi cũ, phai màu nên Tề Đằng vứt đi.”

    Hoàng Tử Hà lắc đầu: “Chỉ phụ nữ mới thêu hoa thanh anh lên túi, ngụ ý mong cho con đàn cháu đống. Công tử nghĩ Tề phán quan chịu dùng loại hoa văn này sao?”

    Chu Tử Tần ngượng nghịu gãi đầu: “Nhưng các cô nương đời nào chịu dùng màu già thế này?”

    “Các cô nương chê, nhưng phụ nữ đứng tuổi ắt sẽ dùng, phải không nào?”

    Chu Tử Tần há hốc miệng: “Nói vậy đây là... di vật của mẹ Tề Đằng ư?”

    Hoàng Tử Hà ngán ngẩm: “Vứt di vật của mẹ vào sọt giấy vụn sao? Huống hồ Tề phán quan là con nhà gia thế, Tề phu nhân lại dùng loại túi thêu vụng thế này ư? Nhất định phải coi thứ này là di vật à?”

    Chu Tử Tần chớp mắt hỏi: “Thế thì...”

    “Công tử không nhớ ư, Thang Thăng, cháu ruột Thang Châu Nương từng kể rằng bà ta lôi túi tiền ra nửa chừng thì nhét trở vào, nói là để về đánh một đôi trâm bạc. Nhưng sau khi bà ta chết, liệt kê các đồ vật đem theo người thì không thấy túi tiền đâu cả, đúng không?”

    Chu Tử Tần tức thì vỡ lẽ: “Hung thủ đẩy Thang Châu Nương xuống núi, lấy mất túi tiền!”

    “Rất có khả năng đó chính là cái túi này.” Hoàng Tử Hà cầm cái túi rỗng không nhận xét.

    “Nhưng Tề phán quan thiếu gì tiền, sao phải cướp của một u già?” Nghĩ đoạn, Chu Tử Tần lại nói: “... Có lẽ là kẻ khác thấy tiền nổi lòng tham, cướp của giết người rồi vứt túi lại, Tề phán quan vô tình nhặt được.”

    “Nếu bị cướp, nhất định tay nải sẽ bị lục tung, sao quần áo bên trong vẫn gấp ngay ngắn như thế được? Rõ ràng kẻ ấy nhắm vào cái túi này, sau khi khống chế Thang Châu Nương thì lấy đi túi tiền trong tay nải, rồi xô bà ta xuống vực.”

    Chu Tử Tần vọt miệng: “Là Thang Thăng!”

    Hoàng Tử Hà rầu rĩ: “Nếu Thang Thăng hung tàn thì lúc ở ngõ Song Hỉ, thấy bà ta nhét túi tiền vào người đã cướp luôn rồi, cần gì phải bám theo bà ta đi xa như thế để giết người cướp của?”

    “Nhưng tại sao Tề phán quan phải cướp túi tiền của Thang Châu Nương? Cướp được rồi vì sao lại vứt đi?”

    “Đương nhiên cái túi chẳng có gì quan trọng, nhưng vật bên trong thì khác... Nói không chừng, sẽ vạch trần thân phận của mình.”

    Nói rồi, Hoàng Tử Hà nhét cái túi vào tay gã.

    Chu Tử Tần lẹ làng cất đi, vừa ngẩng đầu nhìn ra ngoài đã kéo áo cô, rối rít: “Sùng Cổ, trông kìa.”

    Hoàng Tử Hà thấy bọn Tề Phúc lại đang len lén giấu mấy món đồ đáng giá đi, thì thuận miệng nói: “Được rồi, tìm thứ chúng ta cần trước đã.”

    “Nhưng chúng ta cần cái gì cơ?” Chu Tử Tần hoang mang theo cô lật tìm.

    Hoàng Tử Hà rút từ chồng giấy ra một tờ đã ngả vàng đặt xuống trước mặt gã: “Ví như cái này.”

    Chu Tử Tần vừa trông thấy đã sáng mắt lên: “Thủ bút của Chung Hội sao?”

    “Hơn nữa còn được viết vào mùng chín tháng Mười hai năm Gia Bình thứ nhất, lạc khoản đề ‘thượng thư lang Chung Hội’.” Hoàng Tử Hà đặt tờ giấy lên bàn, “Hẳn là Ôn Dương đã mời Vũ Tuyên đến xem thứ này.”

    “Lạ thật... vật này đáng lẽ của Ôn Dương kia mà? Sao lại ở đây?” Chu Tử Tần cầm tờ giấy lên xem, rồi ngó sang mấy tờ giấy viết thư trong tay cô: “Gì nữa đấy?”

    Hoàng Tử Hà tiện tay trải chúng ra trước mặt gã: “Giấy kim nhũ, giấy hoa tiên Tiết Đào, phong bì đào hoa, công tử thử nói xem?”

    Chu Tử Tần châu đầu lại xem xét thì thấy mùi son phấn xộc vào mũi. Gã bối rối hỏi: “Đây có phải... thư tình không?”

    “Đúng thế, hơn nữa còn là thư của gái lầu xanh.” Hoàng Tử Hà rút một bức ra xem, thấy viết:

    Bên gối nghe chim khách, lười trở dậy ngó ra. Cả ngày điềm lành đến, người thương thấy đâu mà.

    Thủ bút của Quyên Quyên ở Trường Xuân Uyển mùa Đông.

    Chu Tử Tần lộ vẻ cảm động: “Tuy thơ không hay, nhưng tình ý bên trong rất tha thiết...”

    “Loại thơ này do họ thuê một người võ vẽ biết ít chữ làm cho mỗi cô một bài, khi nào gặp khách phong nhã, các cô sẽ đem ra dùng, vớt vát lấy cái danh tài nữ.” Nói rồi Hoàng Tử Hà lại rút mấy tờ khác ra xem, quả nhiên đều là những câu sáo, nhớ chàng oán chàng đợi chàng mong chàng vân vân, lạc khoản đằng sau toàn là “Lan Lan viết lúc nửa đêm tỉnh mộng”, “Nguyên Nguyên thử bút dưới nến hồng”, “Tiểu Ngọc họa vần sau khi trang điểm”, bức sau tha thiết chân thành hơn bức trước, quả là rung động lòng người.

    Chu Tử Tần xem một lúc thì ngừng, vừa mừng vừa sợ: “May mà Tử Yên chưa gả cho hạng người này, bằng không chẳng tức mà chết ư.”

    Hoàng Tử Hà tò mò hỏi: “Vị hôn phu đã qua đời, giờ chắc lệnh muội đau lòng lắm nhỉ?”

    “Không đâu, nó đang xem xét chọn người khác ấy.” Chu Tử Tần đang nói thì ngừng lại, rút trong xấp thư ra một tờ giấy tuyết tiên trắng, “Ồ... bức này có vẻ lạ.”

    Hoàng Tử Hà cầm lên xem, thấy trên nền giấy tuyết tiên lờ mờ hoa văn kỷ hà màu lam rất trang nhã, toát lên vẻ thanh tao khác hẳn mấy loại giấy in hoa liễu vấn vít kia.

    Bài thơ trên đó cũng không giống những bài trước.

    Từng oán nỗi chia đào*, từng vui tình cắt áo**, võng lọng rợp kinh thành, công tử ai bì nổi.

    * Thời Xuân Thu Chiến Quốc, vua Vệ Linh Công đã từng say mê và sủng ái Di Tử Hà, một thanh niên thông minh, khôi ngô, tuấn tú. Di Tử Hà đã từng lấy xe của vua đi thăm mẹ bệnh mà chưa được sự đồng ý của vua và từng chia cho vua quả đào mình cắn dở. Vua không những không phạt anh ta mà còn khen hiếu thuận với mẹ và yêu quý vua.

    ** Hán Ai Đế cũng từng sủng ái và phong chức rất cao trong triều cho Đổng Hiền, một viên quan đẹp nổi tiếng. Có một lần ngu trưa, Đổng Hiền gối lên cánh tay áo của nhà vua ngủ. Ai Đế muốn trở mình nhưng ngại làm tỉnh giấc của Đổng Hiền, bèn tự cắt tay áo đi. Người ta sau gọi mối tình đồng tính nam là mối tình cắt tay áo cũng là có nguồn gốc từ điển tích này.

    Chu Tử Tần bưng mặt, không giấu thái độ khinh miệt: “Câu cú rõ là chắp vá, viết cũng xấu nữa... Sao không tìm kẻ nào chữ đẹp viết hộ cho.”

    Hoàng Tử Hà trỏ dòng lạc khoản bên dưới: “Đừng bình thơ, nhìn đây này.”

    Chu Tử Tần nhìn kỹ, nhưng chẳng thấy gì khác lạ: “Tùng Phong ở Dạ Du Viện ngưỡng mộ áo xanh.”*

    *Lấy ý từ câu: “Xanh xanh áo ai, lòng ta bồi hồi” trong Kinh Thi, tả nỗi lòng nhung nhớ người yêu. Ở đây “áo xanh” cũng có ý phiếm chỉ người yêu

    “Tùng Phong... ở Dạ Du Viện ư?” Chu Tử Tần vẫn đang vắt óc suy nghĩ.

    “Có nhớ lần trước Phạm Nguyên Long kể chuyện tới Dạ Du Viện tìm kỹ nam không?”

    Chu Tử Tần há hốc miệng, mặt mày rạng rỡ: “Nói vậy là chúng ta có thể mượn việc công tới đó tham quan một chuyến, đúng không? Còn... còn là kỹ nam cơ à? Cha mẹ ở nhà cai quản rất nghiêm nên ta chưa tới những nơi như thế bao giờ, mới nghĩ đã căng thẳng rồi, làm sao đây?”

    Nói là nói vậy, nhưng vẻ mặt Chu Tử Tần chỉ có háo hức và tò mò, lấy đâu ra căng thẳng. Hoàng Tử Hà nghĩ ngợi giây lát rồi đặt bức thư xuống đi thẳng ra cửa: “Tôi về đã.”

    Chu Tử Tần hớt hải chạy theo: “Về làm gì?”

    Cô chột dạ cúi đầu đáp: “Phải bẩm lại với gia một tiếng.”

    Chu Tử Tần trầm tư gật đầu: “Không sai, hoạn quan như công công, nếu đi đến chốn gió trăng mà không xin phép bề trên, về sau làm sao báo công quỹ thanh toán được?”

    Nghĩ một lát, gã lại rảo chân chạy đến: “Ấy ấy, Sùng Cổ Sùng Cổ! Nha môn bỏ tiền cơ mà, sao phải bẩm với Quỳ vương?”

    Đến chỗ Lý Thư Bạch, cô gặp phải một cảnh hết sức khó xử.

    Một lão quản gia phủ tiết độ đang dẫn mấy mỹ nhân đi ra, trông thấy hai người bèn niềm nở bước lên đón: “Ôi chao, Dương công công về rồi đấy ư?”

    Hoàng Tử Hà nhìn đám mỹ nữ phía sau là biết ngay đầu đuôi câu chuyện, gật đầu không đáp.

    “Phạm tiết độ lo vương gia đi xa cô quạnh, không có ai ôm cầm thêm hương, nên mua mấy cô gái nhà lành giỏi dắn dâng lên, nhưng hình như không hợp nhãn gia.”

    Hoàng Tử Hà giải thích: “Gia xưa nay ưa sạch sẽ, thích yên tĩnh, không thích người khác bên cạnh, lúc ở phủ Quỳ cũng thế, Lưu quản gia không cần tuyển thị nữ đâu.”

    Lưu quản gia bấy giờ mới vỡ lẽ: “Ra là thế. Vậy mấy hôm nữa tiểu nhân sẽ tìm vài thiếu niên mặt mũi đàng hoàng tới.”

    “Ôi, ta không có ý ấy...” Hoàng Tử Hà chưa kịp ngăn thì Lưu quản gia đã mừng rỡ dắt đám thiếu nữ đi thẳng, mặt mày hớn hở như vừa biết được một bí mật.

    Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần chỉ biết nhăn nhó nhìn nhau.

    Nghe hai người bẩm lại, Lý Thư Bạch lộ vẻ bất lực: “Mặc họ đi, dù sao muốn cài cắm người bên cạnh ta cũng không dễ đâu.”

    Trương Hàng Anh nghiêm nghị nói: “Tuy thuộc hạ chỉ có một mình, cũng xin liều chết bảo vệ gia chu toàn!”

    Lý Thư Bạch liếc Trương Hàng Anh, thản nhiên đáp: “Mấy tiết độ sứ quanh đây cũng đến rồi, hôm nay ta sẽ tiếp kiến họ. Trong số đó có vài người năm xưa từng quy phục ta ở Từ Châu, tự khắc biết chọn mấy kẻ hiểu rõ ngọn ngành cử đến, ngươi không đến nỗi phải một mình gánh vác đâu.”

    “Thuộc hạ...” Trương Hàng Anh bối rối gãi đầu, không biết phải đáp thế nào.

    Hoàng Tử Hà biết họ Trương là người thực thà, hằng ngày nói chyện còn lắp ba lắp bắp, huống hồ câu này của Lý Thư Bạch lời ít ý nhiều, làm sao gã hiểu nổi, bèn lên tiếng lèo lái câu chuyện: “Chiều nay nô tài xin nghỉ, cùng Chu bổ đầu đến phố Ngô Đồng.”

    Bất ngờ là Lý Thư Bạch không hề phản ứng, chỉ xua tay: “Đi đi.”

    Cô còn đang do dự thì Chu Tử Tần chỉ sợ Lý Thư Bạch chưa biết phố Ngô Đồng là nơi nào, lập tức chen vào giải thích: “Đó là... chốn gió trăng nổi tiếng nhất Thành Đô.”

    Lý Thư Bạch gật đầu đứng dậy chuẩn bị ra ngoài: “Ừm.”

    Hoàng Tử Hà thắc mắc, hồi hộp quan sát nét mặt họ Lý, chỉ thấy y thản nhiên hỏi lại: “Đã có manh mối gì về cái chết của Tề Đằng chưa?”

    “Thưa, mới có một ít, song chưa đầy đủ.” Rồi sực nhớ ra mình vẫn đem theo khẩu cung của mọi người lúc trước, cô bèn lấy ra trình lên: “Hôm ấy sau khi gia đi khỏi, bọn nô tài đã thẩm vấn tất cả mọi người ở đó, ghi hết vào đây.”

    Lý Thư Bạch cầm lấy, lật xem rất nhanh, tựa hồ mỗi trang chỉ liếc qua một lượt, rồi dừng lại ở trang của Vũ Tuyên.

    Hoàng Tử Hà ghé lại gần cúi đầu ngó vào bản cung, song chẳng thấy có gì sơ hở, trầm tư giây lát rồi nhìn sang Lý Thư Bạch, phát hiện ánh mắt y đang dán vào phía cuối tờ giấy, trên dấu tay của Vũ Tuyên.

    Ngón tay Vũ Tuyên thon dài, khớp xương cân xứng, dấu tay cũng rất đẹp.

    Cô đang ngẩn ra nhìn thì nghe giọng Lý Thư Bạch rất khẽ, gần như than thở: “Ta từng trông thấy dấu tay này.”

    Hoàng Tử Hà ngạc nhiên hỏi lại: “Gia từng thấy... dấu tay của huynh ấy ư?”

    “Có gì lạ đâu, ta kiêm nhiệm Đại Lý Tự khanh, tuy hằng ngày đẩy hết mọi việc cho Thuần Trạm, không mấy khi hỏi đến, nhưng tất cả văn kiện kết án đều phải đọc qua.” Y liếc cô rồi lạnh nhạt tiếp, “Dấu tay mỗi người không giống nhau, ba đường vân chính trên ngón tay và vô số các vân nhỏ đều có từ khi sinh ra, khó mà thay đổi. Thế nên luật pháp mới có lệ điểm chỉ, để phòng những kẻ lợi dụng sơ hở kiếm chuyện sinh sự.”

    “Nhưng... bấy nhiêu dấu tay, gia chỉ nhìn qua một lượt, cũng... ghi nhớ cả ư?” Hoàng Tử Hà sững sờ.


    Chu Tử Tần đang hớn hở vì sắp được đi thăm chốn gió trăng, vội chạy đến ve vẩy đuôi nịnh hót: “Vương gia tài trí bằng trời, đương nhiên là nhớ rồi, không tin để ta chứng minh cho công công xem!” Nói rồi, hắn rút trong tập khẩu cung Lý Thư Bạch vừa xem một tờ, che hết phần trên đi chỉ để lộ dấu tay, hỏi: “Gia có nhớ dấu tay này của ai không?”

    Lý Thư Bạch liếc qua liền đáp ngay: “Ngô Cát Anh, người hầu trong phủ quận thú, phụ trách quét tước vườn Tây và vun xới tỉa tót cây cối.”

    Hoàng Tử Hà thiếu điều quỳ sụp xuống vái lạy kẻ trước mặt. Chỉ liếc qua một lượt mà y nhớ được rành rọt như vậy, đúng là thần chứ không phải người.

    Cuối cùng ánh mắt cô cũng dừng ở bản cung của Vũ Tuyên, ngần ngừ hỏi: “Gia từng thấy... dấu tay Vũ huynh ở đâu?”

    Lý Thư Bạch nhíu mày trầm ngâm suy nghĩ. Mãi đến khi Trương Hàng Anh thay đồ xong chạy đến đứng trước cửa đợi sẵn, y mới ồ lên một tiếng rồi đáp: “Hai năm trước, lúc ta vừa kiêm nhiệm Đại Lý Tự khanh, để làm quen với công việc, đã bỏ công ra đọc hết hồ sơ về các vụ án trong vòng mười năm trở lại. Dấu tay họ Vũ xuất hiện trong hồ sơ về một vụ án ở phường Hưng Đức Trường An từ năm năm trước.”

    Hoàng Tử Hà lại hỏi: “Rồi sao?”

    “Hình như y không phải phạm nhân, nhưng... bấy giờ ta không để ý, nên cũng chẳng nhớ rõ nữa.” Y nhìn cô, chậm rãi đáp.

    Hoàng Tử Hà trầm tư, môi mấp máy định nói gì đó, nhưng rồi lại thôi.

    Y cũng quay đi, thả cho con cá đỏ hai viên thức ăn, chờ nó ăn xong, ngoan ngoãn ở yên, mới buông một câu: “Ta đi trước, nếu có manh mối gì mới, sẽ bảo ngươi sau.”

    Hoàng Tử Hà cảm thấy không phải y không nhớ, song y đã chẳng muốn nói ra, ắt có nguyên nhân khác.

    Còn đang suy tính thì một ý nghĩ thình lình loé lên trong đầu, cô buột miệng gọi: “Vương gia...”

    Lý Thư Bạch ngoái lại. “Khi gặp nhau lần đầu, ở trong xe ngựa...” Cuối cùng cô cũng hiểu ra điều mình canh cánh trong lòng bấy lâu, tim không khỏi đập rộn lên, “Bấy giờ gia chỉ xem tay mà đoán ra ngay thân phận của tôi...”

    Lý Thư Bạch cười cười gật đầu: “Dấu tay ngươi xuất hiện trên rất nhiều hồ sơ.”

    Hoàng Tử Hà cũng cúi đầu tủm tỉm cười: “Tôi đã nói rồi... sao có thể từ đường chỉ tay mà nhìn ra cuộc đời một con người chứ?”

    Thấy Trương Hàng Anh và Chu Tử Tần đều đã đi ra cửa, chỉ còn Hoàng Tử Hà đứng ngay bên cạnh, Lý Thư Bạch tươi cười nhìn cô. Rồi chẳng biết có phải bị rung động mãnh liệt trong lòng thôi thúc hay không, y giơ tay búng nhẹ lên trán cô: “Thông minh cả đời, hồ đồ một chốc.”

    “Úi chao!” Cô vừa kêu vừa cười, lấy tay che trán.

    Hai người cười với nhau, rồi như cùng vỡ lẽ, đều lộ vẻ ngượng ngùng.

    Cuối cùng y ngoảnh mặt đi, vội vàng buông một câu: “Ta đi đây.”

    “Vâng...” Cô cũng cúi gằm mặt, không dám ngẩng lên.

    Chu Tử Tần không mảy may băn khoăn tại sao từ phủ tiết độ sứ đi ra, mặt Dương Sùng Cổ lại ửng hồng. Gã đang mải nghĩ đến thế giới đầy hấp dẫn mình sắp đặt chân tới, hào hứng huyên thuyên: “Thấy chưa, ta nghĩ vương gia không để ý chuyện Sùng Cổ đến mấy chỗ gió trăng đâu, dù sao công công cũng chỉ đi theo ta mở mang tầm mắt thôi mà.”

    Đến phố Ngô Đồng thì đã sắp tới giờ cơm tối, trời bắt đầu chạng vạng.

    Chu Tử Tần đứng giữa phố, nhìn những lầu Tần quán Sở trải dài ngút mắt, đèn hồng rượu lục nhan nhản đầy đường thì mừng rỡ thốt lên: “Sùng Cổ ơi, ta hồi hộp quá đi mất!”

    Hoàng Tử Hà lườm gã: “Đi thôi.”

    Các kỹ viện ở phố Ngô Đồng đều có hồ sơ lưu ở nha môn, cũng coi như mở tiệm làm ăn. Mấy tú bà và quy nô* đứng trên phố, thoạt nhác thấy họ đã niềm nở chạy lại chèo kéo, luôn miệng khoe khoang nhan sắc của các cô nương nhà mình.

    *Quy nô: Đầy tớ trai ở kỹ viện

    Chu Tử Tần đàng hoàng giơ tay ngăn họ lại: “Hôm nay chúng ta đến Dạ Du Viện.”

    “Ối chà...” Mặt họ tức thì nhăn như bị rách, “Trông mặt mũi thế kia mà lại ưa cái trò đó... Hừ, chỗ hai cây đào già ở con hẻm cuối đường ấy.”

    Thực không ngờ, Dạ Du Viện làm ăn rất khá. Lúc họ bước vào, rất nhiều phòng đã có người đàn ca chuốc chén, có mấy kẻ hát rất hay, Chu Tử Tần còn phải dừng lại nghe, mặt đầy vẻ thoả mãn “coi như cũng được mở mang tầm mắt rồi”.


    Chỉ mỗi Hoàng Tử Hà giữ được bình tĩnh, thấy quy nô chạy tới nghênh đón bèn hỏi ngay: “Tùng Phong có ở đây không?”

    Quy nô nhanh nhảu đáp: “Có có, ra ngay đây, hai vị... chỉ gọi một người thôi à?”

    Thấy Hoàng Tử Hà im lặng, Chu Tử Tần bèn hùng dũng vỗ ngực đứng ra: “Đúng thế, chúng ta... chỉ thích gọi một người thôi.”

    Thấy hai người đầy vẻ ngang ngược, quy nô vội vã chạy vào thông báo, chẳng mấy chốc Tùng Phong đi ra, ân cần bưng trà rót nước, đốt hương so dây hầu hạ họ. Đang định hát khúc Tương Tư thì Hoàng Tử Hà ngăn lại: “Chắc Phong huynh ở đây nhiều năm rồi nhỉ? Hằng ngày hay tiếp những khách nào?”

    Tùng Phong thỏ thẻ: “Tùng Phong bất hạnh, lưu lạc phong trần sáu năm nay rồi. Hằng ngày khách quen không ít, song kẻ tướng đẹp đẽ như hai vị thực là hiếm thấy.” Vừa nói y vừa dựa sát vào người cô. Hoàng Tử Hà tuy cao ráo, song Tùng Phong dù sao cũng là nam, vẫn cao hơn cô nửa cái đầu, lúc này lại ngoan ngoãn như chim non ép vào lòng cô, nhìn rất tức cười.

    Chu Tử Tần nghiêm nghị vươn tay kéo Tùng Phong dậy, ý bảo y ngồi ngay ngắn lên. Tùng Phong ấm ức hỏi: “Các vị còn định dằng dai đến bao giờ?”

    Chu Tử Tần hùng hồn nạt: “Ta dằng dai với ngươi lúc nào, ta định hỏi ngươi, cái đó... ờ...”

    Nói đến đây, gã mới nhớ ra, nãy giờ vì mải tỏ ra sành sỏi, đã quên bẵng lý do đến đây, đành đưa mắt cầu cứu Hoàng Tử Hà. Cô bất đắc dĩ lên tiếng: “Thật ra chúng ta không đến đây tìm vui, gần đây một người bạn xảy ra chuyện, nên phải đến nghe ngóng vài điều. Chẳng rõ trong số khách quen của huynh, có vị nào nổi danh ở Thành Đô chăng?”

    Tùng Phong thở phào, uể oải dựa vào bàn chống cằm nhìn họ: “Nói nhảm, người ta tiếng tăm lừng lẫy, kẻ mê mệt ở Thành Đô nhiều không đếm xuể! Kẻ khác chẳng kể, ngay trong phủ tiết độ, cũng có người để mắt đấy...”

    Chu Tử Tần buột miệng hỏi: “Tề phán quan ở phủ tiết độ ư?”

    Tùng Phong lườm gã: “Tề phán quan là ai? Người ta đang nói là...”

    Y hạ giọng thật thấp, vẻ đắc ý lồ lộ: “Các vị đừng kể với ai nhé, công tử của tiết độ sứ Phạm đại nhân ấy, từng đến thăm người ta một lần...”

    Hoàng Tử Hà nín lặng hồi tưởng lại hình ảnh Phạm Nguyên Long, rồi chìa bức thư thu được từ thư phòng Tề Đằng ra trước mặt y: “Đây là huynh viết ư?”

    Tùng Phong liếc qua, gật đầu: “Đúng thế.”

    “Có nhớ viết cho ai không?”

    Tùng Phong nhăn mặt: “Làm sao mà biết được? Bài thơ này vốn nhờ Lưu sinh gì đó làm, đã phân phát cho khoảng năm sáu chục người rồi, khách khứa nhiều vị ưa ra vẻ phong nhã, cứ như chơi kẻ biết làm thơ thì cao quý hơn ấy.”

    Chu Tử Tần lại hỏi: “Có nhớ tên mấy người đó không?”

    Tùng Phong khinh miệt nhìn gã như nhìn một kẻ ngớ ngẩn: “Khách quan nghĩ tôi nhớ được ư? Khách khứa của chúng ta, trừ người nơi khác đến, những người ở đây đều chờ đến tối mịt mới tới, còn giấu giếm tên họ, thường chỉ tự xưng là 'Lý Giáp', 'Vương Đại', 'Lưu Nhị' mà thôi, phải là khách quen, qua lại nhiều mới biết được tên thật. Công tử nhà họ Phạm tiết độ sứ cũng được người khác dẫn đến, nghe họ trò chuyện thì đoán được đấy thôi.”

    Hoàng Tử Hà hỏi thẳng: “Nên chính huynh cũng không biết mình đã gửi cho những ai ư?”

    “Nếu khách quan muốn thì người ta sẽ viết cho một tờ.” Tùng Phong cười nói.

    Chu Tử Tần bị lườm nguýt từ nãy, vẫn trơ mặt nói tiếp: “Nghĩ kỹ xem, có phải quên mất rồi không...”

    “Vậy có biết Ôn Dương không?” Hoàng Tử Hà hỏi.

    Tùng Phong khẽ ồ lên đáp ngay: “Người này thì biết, là khách quen của chúng tôi ba bốn năm nay rồi. Đúng rồi, Ôn huynh thích nhất là tên của Tùng Phong này, nói cái gì 'gió tùng lay dải áo, trăng núi chiều người đàn'. Ngón đàn của Tùng Phong cũng không tồi, các vị muốn nghe không?”

    Hoàng Tử Hà lắc đầu hỏi: “Nói vậy là Ôn Dương cũng có bài thơ này?”

    Tùng Phong che miệng cười đáp: “Đúng đúng, tôi cũng có viết cho Ôn huynh một bức. Bấy giờ huynh ấy đọc xong thì lắc đầu than rằng, đều là con người mà lại kém xa nhau. Tôi hậm hực hỏi mình kém ai, thì Ôn huynh chỉ xoa đầu tiểu nhân đáp, đến ta cũng chỉ có thể đứng dưới nhìn lên người đó, Tùng Phong làm sao sánh nổi.”

    Nhắc lại chuyện đó, Tùng Phong không hề bực bội, trái lại còn cười hì hì: “Tùng Phong nghĩ cũng phải, mình đã là kẻ ở dưới muôn người, còn đòi hơn ai được nữa. Ôn huynh cũng chẳng phải người đứng trên muôn người, biết đâu kẻ kia có người trong lòng rồi thì sao?”

    Hoàng Tử Hà lặng lẽ cúi đầu trầm tư hồi lâu rồi quay sang Chu Tử Tần đang há hốc miệng suýt rơi mất cằm, buông gọn lỏn: “Đi thôi"
    Chu Tử Tần còn đang kinh ngạc, thấy cô đứng dậy bước ra thì hấp tấp đuổi theo, kéo tay áo hỏi: “Sao Sùng Cổ chẳng ngạc nhiên gì cả? Có nghe thấy không? Tay Ôn Dương tự vẫn vì tình kia thích đàn ông đấy!”

    “Ừ, tôi biết rồi!” Hoàng Tử Hà gật đầu.

    Chu Tử Tần bực bội: “Công công bình thản như thế, rõ ràng đã biết trước đúng không! Chẳng bao giờ chịu nói cho ta cả, có xem ta là bạn không đấy?”

    Hoàng Tử Hà lạnh nhạt đáp: “Lúc nghe người ở thi xã kể, công tử phải đoán ra rồi chứ.”

    “Gì cơ? Họ nói gì, sao ta không biết?” Hoàng Tử Hà cũng bó tay với Chu Tử Tần, đang nghĩ ngợi thì Tùng Phong từ phía sau chạy đến, tóm lấy tay áo cả hai, la lên: “Đừng có đi mà...”

    Chu Tử Tần thấy y ôm lấy cánh tay mình thì vội giãy ra: “Làm cái gì đấy?”

    Không ngờ Tùng Phong yếu ớt gió thổi cũng bay, bị họ Chu hất một cái ngã đập ngay đầu xuống đất, trán chảy máu ròng ròng, gào toáng lên: “Người đâu, người đâu rồi! Hai tên này uống trà quỵt tiền, đang định bỏ trốn bị ta ngăn lại thì ra tay đánh người!”

    Đám bảo kê được Dạ Du Viện nuôi xách gậy ùa ra, Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần rối rít xin lỗi: “Xin lỗi xin lỗi, chúng tôi không biết ở đây uống trà cũng phải trả tiền...”

    Chưa nói dứt câu, mấy cây gậy đã giáng xuống.

    Chu Tử Tần vội giơ người đỡ một gậy cho Hoàng Tử Hà, đau đến nghiến răng nghiến lợi: “Gay rồi, liệu hôm nay chúng ta có chết ở đây không?”

    “Công tử còn không mau bộc lộ thân phận đi!” Hoàng Tử Hà ré lên.

    “Bộc lộ cái gì? Nếu để cha mẹ biết chuyện ta mượn việc công đi chơi kỹ viện thì thà chết ở đây còn hơn!” Chẳng đợi họ nói xong, lại đã có thêm mấy người xách gậy chạy đến, cái khó ló cái khôn, Chu Tử Tần tức thì la lớn: “Ta có tiền mà! Ta trả tiền được chưa nào?”

    “Tiền phải trả, nhưng ngươi đánh người nhà chúng ta thì tính thế nào đây? Nếu thả cho các ngươi đi, Dạ Du Viện về sau làm sao còn mặt mũi làm ăn ở đây nữa?” Quy nô gào lên, đám bảo kê cũng vây lại vung gậy đập xuống.

    Giữa lúc ngàn cân treo sợi tóc, cả hai ngồi thụp xuống ôm đầu chịu đòn, chợt một người từ ngoài cửa lao vào, vung chân quét một cái, tức thì phân nửa số gậy trên tay đám bảo kê văng ra, những kẻ còn lại sợ đến nỗi đánh rơi cả gậy.

    Người nọ đứng chắn trước mặt bọn họ, thân hình cao lớn khôi ngô, uy phong lẫm liệt.

    Chu Tử Tần mừng quá gọi toáng lên: “Trương nhị ca! Sao huynh lại ở đây?”

    Trương Hàng Anh quay lại nhìn họ: “Gia nói gần đây xảy ra nhiều chuyện, nơi này lại rồng rắn hỗn tạp, e rằng không an toàn, nên sai tôi âm thầm đi theo bảo vệ hai người!”

    Miệng nói, tay họ Trương vẫn không hề ngừng, tóm ngay mấy tên bảo kê vừa xúm lại ném ra xa.

    Hoàng Tử Hà thấy gã bộc lộ thân thủ, vội đứng lên phủi đất bụi bám trên người.

    Chu Tử Tần vẫn chưa hết kinh ngạc: “Chẳng phải vương gia không có ý kiến gì ư? Cứ tưởng là không quản chúng tôi nữa chứ? May mà còn sai huynh đi bảo vệ...”

    Gã chưa nói dứt câu, đám người quanh đó đã hoảng hốt nép sát vào góc tường, không dám động đậy.

    Chỉ riêng Tùng Phong vẫn bù lu bù loa: “Lũ khốn vô lương tâm! Đã ăn quỵt uống quỵt còn định chơi quỵt! Bọn ta làm nghề này, tiền kiếm được đều là mồ hôi nước mắt, các người có biết bán thân đau khổ thế nào không hả...”

    Nghe y khóc lóc kể lể, Chu Tử Tần bỗng thấy mắt cay cay, vội móc tiền ra trả, không quên tự mắng mình: “Được rồi, là ta khốn nạn, tồi tệ...”

    Hoàng Tử Hà cũng hết cách, đành kéo Trương Hàng Anh lếch thếch rời khỏi đó, vừa đi vừa hỏi: “Vương gia đâu rồi? Gia đi một mình à?”

    “Phải, gia nói mình không sao, đằng Dương công công cần kíp hơn.” Trương Hàng Anh lại bổ sung: “Có điều ta vẫn lén theo gia đến tận hoa sảnh, thấy các tiết độ sứ quanh đó đến cả, mới dám đi.”

    Chu Tử Tần bấy giờ mới hớt hải đuổi đến hỏi: “Chúng ta về chứ?”

    “Chưa, còn phải tới các kỹ viện khác hỏi han đã.” Nói rồi, Hoàng Tử Hà dẫn họ đến một trong các kỹ viện gần đó hỏi han. Có điều lúc trước còn ngu ngơ chưa biết, giờ thì đã hiểu đến đây uống trà nói chuyện cũng phải trả tiền, khi gặp các cô nương phải xoè bạc ra trước, có vậy mới dễ lân la dò hỏi.

    Quyên Quyên ở Trường Xuân Uyển: “Tề Đằng ư? Chao ôi, làm gì có vị khách nào như thế... Ôn Dương công tử hả? Có có, Ôn công tử rất dễ gần, lại rộng rãi, khéo ăn khéo nói, các chị em ai cũng quý mến! Các vị hỏi bài thơ này ấy à? Đáng ghét, năm nay người ta viết đến vài chục bài phân phát hết rồi, đương nhiên cũng gửi cho cả Ôn Dương công tử! Phó Tân Nguyễn Phó nương tử ấy à? Phó nương tử lừng danh, cả phố Ngô Đồng có ai mà không biết! Mấy chị em tôi phải đến mời mọc gãy lưỡi, mới được Phó nương tử chỉ vẽ cho dựng vở 'Lụa trắng', giờ thành ra thương hiệu của nhà này rồi, các vị không muốn xem ư?”

    Lan Lan ở Hồng Hương Lâu: “Ôn Dương công tử ấy à? Rõ ghét, các chị em đều biết, Ôn công tử giao du bên ngoài với cả đống người! Lần trước còn hứa mua son của Mãn Xuân Ký cho tôi, thế mà cũng quên! Nếu không phải huynh ấy đem một cây trâm đến xin xỏ, thì đừng hòng tôi nhìn mặt! Bài thơ ấy à? Tôi chép gửi cho nhiều người lắm, hay không thì tôi không biết, dù sao ai cũng khen hay cả. Phó Tân Nguyễn Phó nương tử ấy à? Tôi biết, Thuý Thuý bạn tôi giỏi đàn, ôm đàn đến nhờ Phó nương tử chỉ bảo, giờ chỉ dựa vào một khúc ấy mà tha hồ nâng giá!”

    Nguyên Nguyên ở Chương Đài Các: “Đúng đúng, bài thơ ấy do chính tôi làm đấy, đừng so với đám người văn thuê chữ mướn kia. Ôn Dương công tử ấy à, thích làm thơ, nhưng xưa nay chẳng để lại bút tích bao giờ. À để tôi đọc cho các vị nghe một bài thơ họ Ôn tặng tôi nhé: Đài Phù Dung nhẹ buông dải áo, trướng Tiêu Kim khẽ duỗi tay ngà, song đỏ từ nay nhạn bặt tiếng, lan xạ ngày nao được gửi hương... Tôi lưu lạc phong trần mười mấy năm nay, chưa từng thấy kẻ nào làm thơ hạ lưu ghê tởm đến thế! Phó Tân Nguyễn ấy à, tôi biết tôi biết, nghe nói được rất nhiều người tìm đến thỉnh giáo về ca múa, năm ngoái Quyên Quyên ở Trường Xuân Uyển được Phó nương tử giúp dựng một vở múa mà mở mày mở mặt, đoạt cả hoa khôi đấy.”

    Tiểu Ngọc ở Dao Đài Quán: “Ôn Dương công tử rất biết cách săn sóc, tuy không đến thường, nhưng mỗi lần đến là ân cần hỏi han. Con người cũng rất tốt, năm ngoái tôi ốm mấy tháng, công tử còn cho ít tiền, nếu không phải tôi đã có nơi có chốn thì cũng nguyện để công tử chuộc thân... À phải, Phó nương tử từng viết cho chúng tôi một bài hát, rất được khách khứa ưa thích, các vị không chọn bài nào nghe thử ư?”

    “Đi lầu xanh cũng mệt thật đấy.” Đến giờ Tý, Chu Tử Tần mới về đến nha môn, mệt đến nỗi ngã vật ra công đường, chỉ thốt lên được đúng một câu.

    Đám bổ khoái trực ban ngồi cạnh đó nhìn nhau rồi len lén cười khì. A Trác cười hề hề chạy đến cạnh họ, thì thào: “Đi đến tận nửa đêm, có thu được gì không?”


    Hoàng Tử Hà đang mải sắp xếp các lời khai thu được tối nay, đáp mà chẳng buồn ngẩng lên: “Cũng tàm tạm.”

    Chu Tử Tần đang thoi thóp thở tức thì giật nảy mình ngồi phắt dậy: “Tàm tạm ấy à? Cái gì tàm tạm?”

    “Vụ án.” Cô lạnh nhạt đáp.

    Chu Tử Tần la toáng lên: “Ta còn chưa biết đầu cua tai nheo gì hết! Công công bảo là tàm tạm rồi ấy à? Rốt cuộc là thế nào?”

    Thấy gã vã cả mồ hôi, Hoàng Tử Hà liền trấn an: “Thực ra vẫn chưa, tôi mới suy đoán áng chừng thôi, còn phải tìm thêm chứng cứ đã.”

    Chu Tử Tần há hốc miệng: “Công công đoán là ai, nói cho ta biết đi?”

    Hoàng Tử Hà không đáp mà quay ra cửa gọi: “Phú Quý!”

    Con chó xấu xí gầy gò lập tức chạy vào, vừa ve vẩy đuôi vừa sủa mừng cô.

    Hoàng Tử Hà im lặng quan sát nó, thấy không có gì lạ mới ngoái lại nhìn Chu Tử Tần thở dài: “Bởi mới nói, suy đoán chỉ là suy đoán thôi, rốt cuộc vẫn có chỗ không thể đoán được.”

    Chu Tử Tần nhìn chằm chằm Phú Quý hồi lâu mới vỡ lẽ: “Công công nghi ngờ... trên cái vòng có độc ư?”

    “Ừm, thế nên khi công tử dùng tay cầm vòng cầm bánh gạo ăn, Tề Đằng bèn khuyên ngăn, thậm chí vứt cả bánh đi.” Hoàng Tử Hà nhíu mày, “Nhưng giờ xem ra, hình như... không sao cả, có lẽ họ Tề chỉ nói vậy thôi.”

    “Ta phải tra rõ mới được!” Chu Tử Tần móc chiếc vòng trong ngực áo ra, lật đi lật lại săm soi, còn giơ lên trước đèn ngắm nghía.

    Hoa văn chạm rỗng phản chiếu lên mặt gã, tạo thành những đốm sáng nho nhỏ, đẹp đến dị thường.

    “Được rồi, tôi về trước đây.” Cả ngày chạy đi chạy lại, còn hỏi han mọi người ở phố Ngô Đồng đến nửa đêm, Hoàng Tử Hà đã thấm mệt. Vừa đứng dậy, cô liền thấy đầu váng mắt hoa, hẳn là lao lực quá sức, bèn ngồi phệt ngay xuống ghế, lấy hai viên kẹo lê trong tay áo ra ăn, đợi một lúc cho cơn choáng váng qua đi.

    Chu Tử Tần lo lắng hỏi: “Sùng Cổ không sao chứ?”

    “Không sao, thầy thuốc đã bảo rồi, tôi mắc chứng thiếu máu, nếu lao lực quá độ sẽ bị choáng váng.” Nói rồi, cô chìa túi kẹo cho gã, “Ăn không?”

    Chu Tử Tần vội đi rửa tay thật sạch rồi nhón một viên cho vào miệng, “Chẳng phải chỉ có con gái mới hay bị thiếu máu ư? Ta nhớ Ân Lộ Y Ân tứ nương kia cũng bị thiếu máu, hình như cũng phải ăn kẹo, có điều ta thấy mạch nha không ngon bằng, lại không tiện mang theo, hơi tí là chảy ra dính vào quần áo.”

    “Đúng thế, còn phải dùng giấy hồ gói lại để khỏi dính nữa chứ.” Hoàng Tử Hà thuận miệng nói theo.

    Chu Tử Tần vừa nhai kẹo vừa nói: “Nhưng Ân tứ nương khéo tay ghê, nặn mạch nha sinh động như thật, đến giờ em gái ta vẫn giữ con hổ mạch nha ấy đấy.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu, rồi bỗng sững sờ ngồi đờ ra bất động, đôi mắt mở to đầy kinh ngạc.

    Chu Tử Tần huơ huơ tay trước mặt cô: “Sùng Cổ đang nghĩ gì thế?”

    Hoàng Tử Hà gạt tay gã ra: “Để yên cho tôi suy nghĩ.”

    Thấy cô tỏ vẻ nghiêm túc, Chu Tử Tần lè lưỡi rụt đầu, ngồi bên chờ đợi.

    Cuối cùng Hoàng Tử Hà ấn vào cây trâm trên đầu, rút thân ngọc ra, chậm rãi vạch lên mặt bàn.

    Chu Tử Tần chống cằm ngồi xem, thoạt tiên thấy cô vẽ một bụi hoa, sau đó lại vẽ thêm thân cây và cành nhánh đâm ngang, cuối cùng vẽ một bộ đồ phía ngoài cây hoa.

    Gã đang ngỡ ngàng thì thấy mũi trâm vạch một vệt trắng khá nông lên mặt bàn, tạo thành một bộ đồ chiết eo tay rộng, phấp phới trong gió, nhìn kỳ dị hết sức, không khỏi buột miệng: “Đây là gì thế?”

    “Là mấu chốt của vụ án này.” Vừa nói vô vừa thong thả gài trâm lên đầu, nhíu mày, “Nhưng... không đúng, nếu là vậy thì hung khí đi đằng nào?”

    Chu Tử Tần gật đầu: “Đúng thế, đến giờ vẫn chưa tìm thấy hung khí trong vụ Tề phán quan, các bổ khoái sắp xới tung cả cái hồ lên, lùm cây bụi xung quanh cũng bị nhổ sạch, khám xét tất cả cành nhánh mà vẫn bặt tăm.”

    “Bấy giờ có khám xét các đạo cụ của Công Tôn đại nương và nhạc cụ của các nhạc công không?”

    Chu Tử Tần nói chắc như đinh đóng cột: “Khám ngay từ đầu ấy! Không vấn đề gì cả! Kể cả những thứ lận vào người chúng tôi cũng khám rồi, song chẳng thấy gì!”

    Hoàng Tử Hà dựa vào lưng ghế, thở hắt ra, lâu thật lâu mới nói: “Sáng mai đi. Đợi đến mai sáng sủa, chúng ta lại ra xem hiện trường lần nữa.”

    Chu Tử Tần nghĩ ngợi rồi đề nghị: “Hay là hôm nay công công ở lại phủ quận thú đi, đừng về phủ tiết độ nữa.”

    Hoàng Tử Hà nhíu mày: “Như thế... hình như không tiện?”

    “Có gì không tiện? Sùng Cổ đêm hôm lặn lội đi về mệt lắm. Sáng ra ta lại phải chạy đến phủ tiết độ tìm cũng mệt nữa. Cứ thế đi, Trương nhị ca...” Chu Tử Tần quay sang bảo Trương Hàng Anh, “Huynh về trước bẩm với vương gia một tiếng, bảo rằng hôm nay muộn quá rồi, ngày mai lại phải tra án, xin cho Sùng Cổ ở lại đây. Khi nào tra rõ chân tướng sẽ quay về ngay để gia sai khiến.”

    Trương Hàng Anh lưỡng lự nhìn Chu Tử Tần, rồi lại nhìn sang Hoàng Tử Hà: “Chuyện này... Dương công công thấy thế nào?”

    Hoàng Tử Hà thản nhiên gật đầu: “Ừm, tôi nghỉ lại đây vậy. Khỏi phải đi qua đi lại phiền phức.” Nghe cô nói thế, Trương Hàng Anh cũng ậm ừ rồi quay người ra về.

    Chu Tử Tần cũng đã mệt lử, lảo đảo đứng dậy đi về chỗ ở của mình, “Sùng Cổ ngủ cùng ta nhé?”

    Mí mắt Hoàng Tử Hà rần rật, cô suýt nữa vấp vào bậu cửa: “Không!”

    “Hả? Ta tưởng chúng ta sẽ ngủ chung một giường, trò chuyện thâu đêm chứ?” Chu Tử Tần tức tối, “Từ nhỏ ta đã mong có được một người bạn như thế, nhưng đến giờ vẫn chẳng tìm được ai chịu ngủ cùng mình cả... Chi bằng Sùng Cổ hoàn thành tâm nguyện cho ta đi!”

    “Chuyện này tôi không thể giúp công tử hoàn thành được!” Hoàng Tử Hà nghiến răng, khăng khăng từ chối, “Tôi ngủ rất xấu, nào nghiến răng nào đạp chăn nào trở mình nào gác chân nào mộng du, thói nào cũng có, nếu không sợ bị tôi bóp chết trong lúc ngủ thì cứ việc ngủ cùng.”

    “Gì cơ... Không ngờ Sùng Cổ ngủ lại đáng sợ như thế...” Chu Tử Tần gãi đầu, rồi tiu nghỉu nói, “Thôi được, chỗ ta còn nhiều phòng trống lắm, Sùng Cổ ở gian phía Đông đi, tuy cửa sổ quay vào tường nhưng giờ dây leo bắt đầu mọc lan ra, buông rủ trước song, nhìn hay lắm.”

    Hoàng Tử Hà thông thuộc phủ quận thú, đã biết Chu Tử Tần ở nhà Tây.

    Phía sau nhà Tây là hồ nước ở vườn hoa, trồng đầy hoa sen. Dây leo và tử đằng bò kín mặt tường. Năm xưa cô rất thích ngồi ở đây đọc sách, mỗi khi chiều xuống, cô chân trần ngồi bó gối dưới hàng lang, khuất sau đám dây leo, rồi một trận mưa rào trút xuống, cuốn tung lá sen, vùi dập dây leo.

    Mưa rào đổ xéo tường dây quấn

    Gió lộng loang dài vạt sóng sen.*

    *Hai câu trong bài “ Lên lầu thành Liễu Châu, viết gửi bốn thứ sử các châu Chương, Đinh, Phong Liên” của Liễu Tông Nguyên.

    Bấy giờ Vũ Tuyên thường ngồi bên cạnh cô, cùng nhặt những nhánh dây leo rơi rụng chơi đùa, nói những câu vu vơ mà vui vẻ, thấm thoắt hết cả buổi chiều.

    Đây là nơi yên tĩnh nhất trong phủ, chỗ ở của Vũ Tuyên.

    Cũng là nơi cô từng yêu thích nhất.
     
  6. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 18 - Gió táp mưa sa
    Hoàng Tử Hà theo sau Chu Tử Tần, đi dọc hành lang rủ đầy dây leo, đến trước cửa phòng phía Đông. Chu Tử Tần lôi cả A Nghiễn đến đây hầu hạ cô, còn dặn: “Các việc chuẩn bị chăn gối với bưng nước rửa chân tối nay, rửa mặt chải đầu sáng mai, Sùng Cổ cứ sai bảo nó, nếu nó làm không tốt thì cứ cho biết tay!”

    Hoàng Tử Hà nhớ lúc trước Chu Tử Tần từng bị hai người đồng đè cho suýt chết bẹp mà A Bút A Nghiễn vẫn thản nhiên ngồi ngoài sân chơi móc dây, thầm nghĩ, công tử cho biết tay bấy nhiêu năm đã bao giờ A Nghiễn thèm sợ chưa?

    May mà cô thông thuộc nơi này như lòng bàn tay, bèn sai A Nghiễn lấy chăn đệm trong tủ ra trải, rồi chọn hai chiếc khăn mới, bảo nó xuống nhà bếp xách một thùng nước lên.

    A Nghiễn quen lười nhác, song dù sao cô cũng là người bên cạnh Quỳ vương nên nó không dám sơ suất, bèn tay năm tay mười bưng trà rót nước, trải đệm xếp chăn, săn sóc ân cần hơn Chu Tử Tần nhiều.

    Hoàng Tử Hà đóng cửa rửa mặt rửa chân, lau qua người xong xuôi, bấy giờ mới thấy mệt mỏi vô hạn. Cô ngả người nằm xuống giường, còn nghĩ không biết quay lại chốn cũ có thao thức mất ngủ hay không. Nào ngờ cơn buồn ngủ ập tới, chẳng bao lâu cô đã thiếp đi.

    Chẳng biết bao lâu sau, cô trông thấy cha, mẹ và huynh trưởng vẫy gọi mình.

    Hoàng Tử Hà vội chạy lại, nhưng vừa đi được hai bước, bỗng thấy khang khác, bèn cúi đầu nhìn, thì ra mình đang mặc váy dài xếp nếp thêu hoa hải đường chứ không phải quần áo hoạn quan, vừa rồi vô ý suýt nữa thì vấp phải gấu váy.

    Hoàng Tử Hà mừng rỡ nhấc gấu váy chạy về phía người nhà, cả nhà vui vẻ ngồi xuống bên nhau. Bốn bề mờ mịt, cô không trông thấy gì cả, trong vòng một trượng xung quanh chỉ có bốn người họ quây quần quanh chiếc bàn đá, trên đầu là tán hoa quế nở rộ, hương thơm ngào ngạt bao trùm lên họ.

    Ai nấy đều vui vẻ cười nói, song Hoàng Tử Hà nghe không hiểu gì cả. Cô chỉ ôm khư khư cánh tay mẹ, nũng nịu áp mặt vào, hệt như hồi còn bé, mỉm cười nhìn tất cả.

    Tuy không biết mọi người nói gì, song thấy họ vui vẻ, nên cô cũng cười theo. Hoa quế lả tả rụng xuống đầu, xuống vai họ, xuống cả mặt bàn, càng lúc càng nhiều, vàng rực lộng lẫy.

    Có lẽ vì hương hoa quế quá nồng, nỗi vui mừng quá mê mẩn, khiến Hoàng Tử Hà tuy đang vui vẻ dựa vào người mẹ, cũng dần dần cảm thấy mơ màng. Cô mỉm cười nhắm mắt lại, mặc cho hoa quế và ánh dương rọi lên mình.

    Chẳng biết lại qua bao lâu, ánh dương ấm áp cùng mùi hoa quế ngọt ngào đều biến mất. Cô chẳng biết mình đang ở đâu, bèn mở mắt nhìn quanh.

    Xung quanh vẫn mờ mịt trắng xóa, chỉ nhìn rõ được cảnh vật trong vòng một trượng vuông. Cha mẹ và anh trai cô đang nằm trên ván giường, phủ vải trắng, đặt trên nền đá xanh.

    Không còn một hơi thở, mọi thứ xung quanh cô đông cứng lại.

    Cô đang đứng ở một nơi không biết là gần hay xa, đờ đẫn nhìn thi thể người nhà đến quên cả thở, tim cũng ngừng đập. Chẳng biết bản thân cứ đứng bất động như thế bao lâu, rồi cô sực nghĩ, ra là mơ, thì ra mình lại rơi vào giấc mơ này.

    Nghĩ tới đó, cô mở bừng mắt, như vừa được giải lời nguyền.

    Cảnh mộng vỡ tan. Chẳng còn gì, trừ trái tim đau thắt vì đập dồn đến gần nghẹt thở.

    Cô ôm ngực hít thở khó nhọc, mở to mắt nhìn quanh.

    Cách bày biện quen thuộc này hệt như những gì cô còn nhớ. Ngay cả hình chạm trổ trên xà nhà, cũng giống y như cũ.

    Cô đã quay về, về phủ quận thú Xuyên Thục, nơi cô từng sống những ngày tươi đẹp nhất trong đời, cũng là nơi khiến cô đau đớn nhất.

    Hoàng Tử Hà nắm chặt mép chăn, cả tay lẫn người run bần bật, tựa hồ cơ thịt toàn thân đều co rút lại. Cô há to miệng ra gắng hớp lấy từng ngụm không khí, cuối cùng màn đen trước mặt cũng dần tan đi, tiếng ong ong bên tai ngớt hẳn, rốt cuộc cô cũng sống lại.

    Loang loáng nghe thấy tiếng chim sâu nhảy nhót hót líu lo trên cành.

    Cô đờ đẫn ngồi dậy, đẩy cửa sổ nhìn ra ngoài. Mặt trời đã lên đến ba con sào, nhưng những giọt sương long lanh vẫn treo trên hàng dây leo rủ dài trước song, phản chiếu ánh nắng lung linh. Từ đây có thể trông ra một góc hồ, vẫn còn lác đác mấy đóa sen cuối mùa.

    Hoàng Tử Hà thẫn thờ nhìn khung cảnh ngoài cửa sổ, vừa ngắm nhìn cảnh vật phủ quận thú, đồng thời cũng nhìn lại những năm tháng tuổi hoa từng đẹp đẽ vô ngần, nhìn lại cả một thời thiếu nhữ đã một đi không trở lại.

    Hồi lâu, cô mới lắc đầu, tạm thời gạt bỏ tất cả ra khỏi tâm trí, thầm nhủ: “Hoàng Tử Hà, nhất định không được trở thành hạng người thiếu ý chí mà ngươi vẫn coi thường. Giờ đây, việc ngươi có thể làm chỉ có một. Trước mắt hiện thời, chỉ có một con đường. Đích có thể đến, cũng chỉ có một thôi.”

    Cô rửa mặt chải đầu qua loa bằng chỗ nước còn thừa hôm qua, rồi mở cửa ra ngoài.


    Đứng dưới hành lang khu nhà phía Đông, trước mặt là ánh nắng chói chang lóa mắt. Thoạt nhìn cô đã trông thấy ba người đang ngồi ăn sáng trong hoa sảnh phía Tây đối diện, cửa sổ bốn bề mở toang.

    Chu Tử Tần quay mặt ra ngoài nên trông thấy cô ngay, vội giơ tay cầm bánh bao lên vẫy lia lịa: “Sùng Cổ mau lại đây, đói chưa?”

    Hai người ngồi hai bên gã, nhìn nghiêng hết sức quen thuộc, chính là Lý Thư Bạch và Trương Hàng Anh.

    Cô vội băng qua sân, đi tới tham kiến Lý Thư Bạch: “Sáng sớm gia đã đến đây, chẳng hay có việc gì?”

    “Nghe nói các món điểm tâm của phủ quận thú rất xuất sắc nên ta bỏ bữa sáng ở phủ tiết độ, sang đây nếm thử.” Lý Thư Bạch bưng một chén cháo nhỏ lên đáp.

    Hoàng Tử Hà gật đầu với y rồi ngồi xuống chỗ trống còn lại, vừa múc canh trứng cho mình vừa đáp: “Thưa phải, đầu bếp phủ quận thú có mấy người nức tiếng trong vùng. Nhất là Trịnh nương tử chuyên lo điểm tâm, bà ấy và hai tay phụ việc đều là trăm người chọn một.”

    Chu Tử Tần thắc mắc: “Sao Sùng Cổ biết? Đến ta cũng mới nghe lần đầu đấy...”

    “Tử Tần quên lần trước chúng ta đã điều tra tất cả người trong phủ ư?” Lý Thư Bạch thản nhiên giải thích.

    Chu Tử Tần phục sát đất: “Trí nhớ hai vị tốt quá!”

    Trương Hàng Anh cắm cúi ăn cháo và màn thầu, vờ như không nghe thấy.

    Lý Thư Bạch lại hỏi Hoàng Tử Hà: “Mấy hôm nay các ngươi chạy đôn chạy đáo, đến giờ vụ án thế nào rồi?”

    Hoàng Tử Hà đặt bát canh trứng xuống thưa: “Trước mắt xem ra cái chết của Tề Đằng có liên quan đến vụ tự vẫn của Ôn Dương và Phó Tân Nguyễn, cũng dính dáng đến cả cái chết của Thang Châu Nương.”

    Lý Thư Bạch liếc Chu Tử Tần: “Còn vụ án nhà Hoàng quận thú?”

    Hoàng Tử Hà thoáng nghĩ ngợi rồi đáp: “Có lẽ không liên quan.”

    “Ta lại thấy có.” Lý Thư Bạch thong thả phản bác, mặc cho Chu Tử Tần ngơ ngác tròn mắt ngạc nhiên, “Nghe nói Vũ Tuyên cũng liên quan tới vụ này. Chẳng phải thế là mấy vụ án đã được cùng một mắt xích xâu lại rồi ư?”

    Hoàng Tử Hà gật đầu: “Đúng thế, quan hệ giữa Vũ Tuyên và tất cả nạn nhân, tất cả các vụ án, là không thể phủ nhận.”

    “Giờ ngươi định làm gì?” Y lại hỏi.

    Hoàng Tử Hà ngả người ra lưng ghế, lặng lẽ suy nghĩ một hồi rồi kiên quyết đáp: “Tôi sẽ đến thăm Vũ huynh.”

    Chu Tử Tần rủ ngay: “Hôm nay chúng ta cùng tới đi.”

    “Ừm.” Hoàng Tử Hà đáp, rồi sực nhớ ra gì đó, lại quay sang hỏi Trương Hàng Anh: “Trương nhị ca, tôi nhớ hôm huynh gặp nguy và tìm thấy Cảnh Dục công công, là bị một người cưỡi ngựa húc phải, ngã lăn xuống núi phải không?”

    “Cũng không phải húc, chỉ là kẻ đó đột nhiên từ chỗ ngoặt xông ra, lại không ghìm cương ngựa. Thấy thớt ngựa thình lình xuất hiện, lao thẳng về phía mình, tôi giật nảy người, sảy chân rơi xuống núi.” Trương Hàng Anh nhét cả nửa cái màn thầu vào miệng ngồm ngoàm nhai hết rồi nói tiếp, “Thế nên, có lẽ người ấy cũng không cố ý, nhưng đúng là tôi bị hắn làm ngã xuống núi.”

    Chu Tử Tần ngơ ngác hỏi: “Cái chết của Thang Châu Nương thì liên quan gì đến việc Trương nhị ca bị ngã?”

    “Mấy hôm ấy quân Tây Xuyên đang tìm kiếm Quỳ vương trong núi, nên đã phong tỏa hai lối ra vào, không cho xe ngựa vào núi. Bởi thế Thang Châu Nương không thuê được xe về quê, đành phải đi bộ, Trương nhị ca cũng đi bộ trên đường mòn, mới bị người ta va phải.”

    Chu Tử Tần trừng mắt: “Ý Sùng Cổ là... kẻ ra lệnh phong tỏa đường núi có vấn đề ư?”

    “Ai không dưng lại phong tỏa đường núi, bày ra một cái bẫy lớn thế?” Hoàng Tử Hà ngán ngẩm giải thích, “Ý tôi là, bấy giờ quân Tây Xuyên cấm chỉ ngựa và xe ra vào, vậy thì kẻ va phải Trương nhị ca làm sao có thể cưỡi ngựa từ trên núi lao xuống được?”

    Chu Tử Tần vỡ lẽ, đập bàn đánh chát: “Thích khách! Nhất định là đám thích khách hành thích vương gia, bị mắc kẹt trong núi mấy ngày, nên mới cưỡi ngựa đi lại trên đường mòn!”

    Lần này đến Lý Thư Bạch cũng không chịu nổi, phải ngán ngẩm quay đi.

    Hoàng Tử Hà dù sao cũng thân thiết với gã, bấm bụng cố nhịn, lại hỏi: “Trên đường luôn có quân Tây Xuyên sục sạo tìm kiếm, sao y dám thúc ngựa phi nhanh như thế được? Huống hồ về sau cũng không nghe ai nói là bắt được thích khách?”

    Chu Tử Tần tức thì hít vào một hơi khí lạnh, thận trọng nhìn quanh, rồi ghé sát lại hỏi: “Ý các vị là... thích khách là người quen của quân Tây Xuyên?”

    Hoàng Tử Hà không nhịn nổi nữa, đành lấy tay đỡ trán, tì khuỷu tay lên bàn, sổ toẹt ra: “Tử Tần, ý tôi là, kẻ thúc ngựa chạy như bay trên đường ấy, rất có thể là người của quân Tây Xuyên, hay ít ra cũng là chỗ quen biết với họ.”

    Chu Tử Tần tròn xoe mắt ngơ ngác nhìn họ, chẳng hiểu chuyện này có liên quan gì tới vụ án.

    Hoàng Tử Hà lại hỏi Trương Hàng Anh: “Huynh có nhớ dáng vẻ kẻ cưỡi ngựa đó không?”

    “Ừm... Ngựa lao đến quá nhanh, bấy giờ tôi lại sẩy chân ngã xuống, nên không trông rõ.” Trương Hàng Anh thực thà đáp.

    “Thân hình kẻ đó có giống Vũ Tuyên không?”

    Trương Hàng Anh lắc đầu ngay: “Vũ học chính là ân nhân nhà tôi, tôi cũng đã gặp mấy lần. Chẳng có điểm nào giống kẻ kia cả.”

    Hoàng Tử Hà quay sang Lý Thư Bạch: “Bởi vậy, tuy Vũ Tuyên có liên quan tới mấy vụ án này, song huynh ấy không quen quân lính Tây Xuyên, nên rất khó có thể cưỡi ngựa ra vào. Xem ra cái chết của Thang Châu Nương không liên quan đến Vũ Tuyên đâu.”

    Lý Thư Bạch nhíu mày: “Dù không dính đến vụ Thang Châu Nương, thì y vẫn là nhân vật quan trọng trong các vụ án mạng của Phó Tân Nguyễn, Tề Đằng và... Hoàng quận thú, điểm này ngươi không thể phủ nhận.”

    Hoàng Tử Hà lặng thinh hồi lâu rồi gật đầu: “Vâng, nô tài sẽ hết sức lưu ý đến Vũ Tuyên.”

    Lý Thư Bạch không nói gì thêm, tiếp tục ăn điểm tâm.

    Cảm thấy không khí có phần gượng gạo, Chu Tử Tần liền bóp bóp chiếc bánh bao trong tay, cười ha hả: “Ha ha, nhặt ngay được cái nhân đậu này! Là ta may mắn hay cô phụ bếp để ý ta nhỉ!”

    Chẳng ai phụ họa, tiếng cười của gã vang vọng trong sảnh đầy lạc lõng. Chu Tử Tần tiu nghỉu cắn một miếng bánh, rồi hỏi Hoàng Tử Hà: “Sùng Cổ, hôm nay chúng ta đi đâu đây?”

    Hoàng Tử Hà ngập ngừng, ngước lên nhìn Lý Thư Bạch, thấy y vẫn thản nhiên như không thì thầm thở dài đáp: “Công tử lại đằng Vũ Tuyên, còn tôi tới chỗ Công Tôn đại nương.”

    Chu Tử Tần ngạc nhiên: “Hả? Sao lại chia đường thế? Hai ta cùng tới tìm Vũ Tuyên đi! Chẳng phải Sùng Cổ vẫn khen Vũ Tuyên dung mạo tuấn tú, phẩm cách thanh cao, tính tình lại hòa nhã ư? Đi mau đi mai, gặp được Vũ Tuyên hẳn là vui lắm!”

    “Ơ... tôi nói thế bao giờ?” Đúng là chuyện không nên nói Chu Tử Tần lại bô bô nói ra, Hoàng Tử Hà sởn cả gai ốc, phải bái phục tài thọc dao trúng điểm yếu của gã.

    Trương Hàng Anh đằng hắng liên tục, như bị sặc sữa đậu nành. Đến kẻ chất phác như họ Trương còn nhận ra, vậy mà Chu Tử Tần vẫn vô tâm vô tư, chẳng biết gì hết!

    Hoàng Tử Hà len lén liếc trộm Lý Thư Bạch, thấy y cũng đang nhìn mình, song không hề tỏ vẻ giận dữ như cô tưởng tượng, trái lại chỉ mỉm cười bình thản bảo: “Tử Tần cùng ngươi hỗ trợ, dĩ nhiên ngươi phải phối hợp. Có những việc cũng không cần để ý quá. Ngươi cùng Tử Tần đến chỗ Vũ Tuyên có gì mà không được?”

    “... Vâng.” Cô đáp khẽ.

    “Hôm nay ta được mời tới thị sát quân Tây Xuyên, lát nữa sẽ lên đường. Ngươi đi cùng Tử Tần đi, nhớ đừng gắng sức quá đấy.” Nói đoạn, y cầm ly trà từ tay người hầu đứng sau, súc miệng rồi đứng dậy đi thẳng ra ngoài.

    Trương Hàng Anh vội đứng dậy theo hầu. Chu Tử Tần và Hoàng Tử Hà cũng đứng dậy tiễn.

    Lúc đi ngang qua Hoàng Tử Hà, y bỗng cúi đầu ghé tai cô nói khẽ: “Ta vẫn nhớ, ngươi đã nói sẽ ở bên cạnh ta.”

    Nghe thấy câu nói nhẹ nhàng bình thản của y, tảng đá nặng trịch trong lòng cô thoắt chốc được bẩy đi, khóe môi bất giác cũng cong lên: “Vâng, tôi cũng vẫn nhớ.”

    Hoàng Tử Hà dẫn Chu Tử Tần theo đường tắt đi đến cầu Hàm Nguyên, cạnh nhà Vũ Tuyên.

    Chu Tử Tần chỉ mong mau mau gặp được họ Vũ, háo hức bước ngay đến đập cửa, người ta bình thường chỉ gõ hai ba tiếng, gã đập cho một tràng đến mười bảy mười tám tiếng, suýt nữa giật đứt cả vòng đập cửa.

    Ầm ĩ như thế, mà bên trong vẫn lặng phắc như tờ.

    Hai người đang đứng đợi thì một bà cụ ngồi cạnh đó nhổ cỏ ngẩng đầu lên bảo: “Hình như Vũ cử nhân không có nhà đâu, đừng gõ nữa.”

    “Hả...” Chu Tử Tần cụt hứng dừng lại: “Chẳng hay Vũ huynh đi đâu rồi?”

    Bà lão dĩ nhiên không biết, cũng chẳng buồn đáp lời, cúi xuống tiếp tục nhổ cỏ.

    Hoàng Tử Hà bèn hỏi: “Bà tìm gì thế ạ?”

    “Dào ôi, lưng tự nhiên lại mọc mấy hột mụn cơm, nên phải tìm mấy búi cỏ nhọ nồi để kỳ.” Bào lão vừa nói vừa nhổ một búi cỏ lên săm soi rồi nhét vào ngực áo.

    Hoàng Tử Hà biết loại cỏ này tên gọi cỏ mực, thường gọi là cỏ nhọ nồi, có tác dụng cầm máu tiêu sưng, xát vào nốt mụn cơm, mấy ngày sau cái mụn sẽ teo đi rồi rụng, bèn nói: “Cỏ này tốt thì tốt thực, nhưng vắt ra nước lại hay làm đen tay, rửa mãi không sạch, phải dùng thêm ít bồ kết.”

    “Tôi già rồi, da dẻ cũng đen sạm, nhìn không ra đâu, lo gì.”

    Vài cảnh tượng thoáng lướt qua đầu Hoàng Tử Hà.

    Vết đen trên ngón tay Phó Tân Nguyễn. Công Tôn Diên trầm tư nhìn bàn tay Tề Đằng. Mấy vết sẹo nhỏ trên tay họ Tề khi chết.

    Cô đứng lặng dưới gốc liễu, lòng bâng khuâng thương cảm.


    Thấy cô thẫn thờ im lặng, Chu Tử Tần liền hỏi: “Nghĩ gì thế?”

    “Tôi đang nghĩ...” Cô chậm rãi đáp, “Nếu công tử đem thứ mình trân quý nhất dâng tặng người ta, mà người ấy lại căm ghét chỉ muốn vứt bỏ thật mau, thì thật là không đáng.”

    Chu Tử Tần ngỡ ngàng, ngẩn ra nghĩ ngợi thì cánh cửa sau lưng cuối cùng cũng mở ra, Vũ Tuyên đứng phía sau, chỉ vận tấm áo xanh bình thường, song lại càng tôn lên phong thái tao nhã cứng cỏi.

    Sau lưng hắn, còn một người nữa. Khoác cà sa, mặt nhăn nheo, dáng gầy guộc, song ánh mắt thì sáng quắc, chính là Mộc Thiện đại sư ở chùa Quảng Độ.

    Không ngờ Mộc Thiện đại sư lại ở nhà Vũ Tuyên, Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần hết sức kinh ngạc, vội chắp tay cúi chào.

    Mộc Thiện đại sư cười nói: “Khách đến trước nhường khách đến sau, lão nạp cáo từ trước.”

    Hoàng Tử Hà nói ngay: “Xin đại sư dừng bước, chúng tôi đang có việc muốn hỏi.”

    Mộc Thiện đại sư “ồ” lên khe khẽ, nhìn sang Chu Tử Tần.

    Họ Chu liền xưng danh: “Chu Tử Tần, bổ đầu phủ Thành Đô.”

    Mộc Thiện đại sư sầm mặt, nhưng rồi lại cười ngay: “Chẳng hay người của quan phủ tìm kẻ tu hành như lão nạp có việc gì?”

    “Mời đại sư.” Hoàng Tử Hà giơ tay mời Mộc Thiện đại sư vào trong.

    Bốn người vòng qua bức chiếu bích quét vôi trắng, liền trông thấy hoa súng tím biếc nở rộ đầy giếng trời. Cả bốn vào đại sảnh ngồi, vừa hay nhìn thẳng ra hồ súng.

    Vũ Tuyên ra nhà sau pha trà, để lại ba người ngồi trong đại sảnh, không khí có phần gượng gạo.

    Hoàng Tử Hà lên tiếng trước tiên: “Hôm nay đại sư quá bộ ghé thăm Vũ Tuyên luận bàn Phật pháp ư?”

    Mộc Thiện đại sư gật đầu chắp tay cười: “Vũ thí chủ thường có kiến giải độc đáo về Phật pháp nên lão nạp hay tới cùng nhau đàm luận, cảm thấy lòng sáng tính hòa. Ngày mai lão nạp lại phải vào kinh, song thấy Vũ thí chủ dường như có tâm sự, hôm nay bèn tới từ biệt.”

    “Đại sư quả là có lòng.” Nói rồi, Hoàng Tử Hà lại hỏi: “Chẳng hay hai vị quen biết nhau thế nào?”

    “Cuối năm kia, Vũ thí chủ thi đỗ chưa lâu, vườn Tình mở hội thơ, Trần thí chủ Trần Luân Vân cơ mời lão nạp. Bấy giờ tuy có mười mấy người, song Vũ thí chủ phong tư xuất chúng, lão nạp vừ trông thấy đã có ấn tượng sâu sắc.” Mộc Thiện đại sư tấm tắc, “Về sau nhà ân nhân của Vũ thí chủ là Hoàng quận thú xảy ra chuyện, Vũ thí chủ đau khổ khôn nguôi, rồi nghĩ quẩn. Tuy Tề phán quan cứu được, song thấy lòng Vũ thí chủ đã nguội lạnh, bèn mời lão nạp tới giảng pháp an ủi, từ ấy đôi bên dần dần năng qua lại.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu thở dài: “Tôi nghe nói Tề phán quan cũng thường qua lại với đại sư.”

    Mộc Thiện đại sư gật đầu: “A di đà Phật, Tề thí chủ nói năng dí dỏm, tươi cười hiền hòa, cũng thường tới chỗ lão nạp. Tiếc rằng tuổi còn trẻ đã qua đời, làm phủ Thành Đô thiếu mất một người tài...”

    Chu Tử Tần xen vào: “Đại sư đúng là đại đức phổ độ chúng sinh, Vũ huynh hôm ấy định tự vẫn, cũng may nhờ đại sư dập tắt ý nghĩ quẩn ấy đi.”

    Mộc Thiện đại sư tuy vẫn tươi cười, song ánh mắt lại đảo quanh: “Đúng thế, người phàm nào ai rũ bỏ được vạn trượng hồng trần. Vũ thí chủ muốn mượn cái chết để thoát khỏi phiền não, đúng là đơm đó ngọn tre.”

    Hoàng Tử Hà liền gặng: “Nói vậy là đại sư cũng biết chuyện phiền não của Vũ Tuyên ư?”

    “Đương nhiên là biết. Vũ thí chủ thân là con nuôi Hoàng quận thú, song ai cũng biết Hoàng tiểu thư lại vì Vũ thí chủ mà đầu độc cả nhà. Vũ thí chủ căm hận bản thân, cho rằng chính mình đã hại chết cả nhà ân nhân, hổ thẹn vô cùng, bèn tự quy hết tội lỗi cho mình, tâm ma ăn sâu, nhất thời quá khích...”

    “Tôi thấy Vũ huynh gần đây hay bị đau đầu, chẳng hay đó là tâm bệnh, hay là di chứng sau khi tự sát để lại?” Hoàng Tử Hà lại hỏi.

    “Theo lão nạp thấy thì chắc là cả hai.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu: “Xin đại sư đừng trách tôi tò mò, nghe quản gia nhà họ Tề kể rằng, đại sư từng đến kinh thành du ngoạn, còn đem một con A Già Thập Niết về Thục tặng cho Tề phán quan?”

    “Đúng thế, lão nạp vào kinh, tình cờ được quý nhân tặng cho, bèn đem về Thành Đô. Nào ngờ về sau đọc kinh sách mới biết giống cá này thích máu, không lành, e rằng không hợp với cửa Phật thanh tịnh, đang định phóng sinh thì Tề thí chủ đến chơi, thấy Tề thí chủ có vẻ thích nó, lão nạp đã nỏi rõ mọi chuyện, song Tề thí chủ chẳng để tâm, vẫn xin nó về. Ôi chao, e rằng chính lão nạp đã đem đến họa sát thân, làm hại Tề thí chủ rồi.”

    “Đại sư cả nghĩ quá. Chẳng qua chỉ là một con cá, lấy đâu ra điềm gở? Lẽ nào đại sư không nghe nói Quỳ vương vẫn thường đem một con cá bên người ư? Cũng là giống A Già Thập Niết đấy.” Hoàng Tử Hà nói.

    Nghe cô nhắc tới Quỳ vương, Mộc Thiện đại sư liền chắp tay niệm Phật: “A di đà Phật, Quỳ vương gia là thân ngàn vàng, được trời cao phù hộ, một con cá nhãi nhép đương nhiên đâu thể làm hại nổi.”

    “Hơn nữa nghe nói con cá ấy của Tề phán quan mất rồi mà?”

    Nét mặt Mộc Thiện đại sư thoáng đờ ra, nhưng lập tức cười đáp: “Không thẹn với lòng, chẳng ngại sóng gió, vật ngoại thân làm sao ảnh hưởng nổi? Chỉ cần giữ vững lòng mình thì dù có hay không có con cá, cũng có khác gì đâu.”

    Thấy đại sư bắt đầu đánh trống lảng, Hoàng Tử Hà khăng khăng hỏi tiếp: “Tề phán quan thích con cá ấy như thế, chẳng biết có chăm sóc đúng cách hay không? Không rõ giờ nó ở đâu rồi? Tôi từng hỏi Vũ huynh chuyện này, song hình như huynh ấy không biết gì cả, trong nhà cũng không thấy. Quản gia Tề Phúc kể rằng, lão từng nghe Tề phán quan nói chuyện này với đại sư, chẳng hay có không?”

    Khóe mắt cụp xuống của Mộc Thiện đại sư hơi rần rật, song giọng nói càng chậm rãi hơn: “Quả có chuyện này. Con cá ấy... bị Vũ thí chủ làm chết.”

    Lần này đến lượt Chu Tử Tần ngạc nhiên: “Nghe nói A Già Thập Niết sống rất dai, có thể thọ cả trăm tuổi. Vũ Tuyên vô duyên vô cớ, sao lại làm chết nó?”

    “Có lẽ là lên cơn đau đầu, không cẩn thận làm vỡ bể cá. Dù A Già Thập Niết sống dai mấy chăng nữa, cũng không thể sống mà không có nước.”

    Thấy đại sư đối đáp kín kẽ, không để lộ mảy may sơ hở, Hoàng Tử Hà đành gật đầu: “Ra là thế... Về con cá này, đệ tử còn một chuyện muốn thỉnh giáo, mong đại sư chỉ bảo.”

    Mộc Thiện đại sư tỏ vẻ đồng ý, cô mới hỏi: “Chẳng hay đại sư có thể kể cho chúng tôi nghe về nguồn gốc con A Già Thập Niết, đại sư có nó từ đâu, được ai biếu tặng hay không?”

    “Chuyện này ấy à...” Mộc Thiện đại sư tần ngần hồi lâu mới gật đầu đáp: “Từ sau khi lão nạp xuất gia, đã cắt đứt trần duyên, chẳng tham vàng bạc. Bởi thế lần trước vào kinh, Vương công công mới tặng lão nạp mấy cuốn kinh Huyền Trang pháp sư chép tay, và con A Già Thập Niết này. Nghe nói con cá này là do Long Nữ khi quỳ trước Phật Tổ, nhất thời lờ đãng mà hóa thành, bẩm sinh đã có Phật tính. Lão nạp đem về Thành Đô, thấy Tề thí chủ ưa thích, nhỏ lời xin mấy lần, cảm thấy mình là kẻ xuất gia, cũng chẳng cần nuôi làm gì, nên mới tặng cho.”

    Nhắc đến cá, Chu Tử Tần sực nhớ ra, vội lấy chiếc vòng chạm đôi cá trong ngực áo đặt xuống bàn: “Đại sư, vật này...”

    Chưa nói dứt câu, Mộc Thiện đại sư đã rụt phắt tay lại, tựa hồ không dám chạm vào. Lão hoà thượng đã già, cử động chậm chạp, vậy mà lại rụt tay về nhanh như thế, khiến Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần đều giật mình, thầm lấy làm lạ.

    Ngay bản thân Mộc Thiện đại sư cũng cảm thấy luống cuống, nhưng nhất thời không biết lấp liếm thế nào, đành lắp bắp hỏi: “Đây... đây là gì vậy?”

    Hoàng Tử Hà cướp lời Chu Tử Tần: “Đại sư từng thấy vật này rồi ư?”

    Mộc Thiện đại sư chần chừ giây lát, tự biết phản ứng vừa rồi của mình không thể qua mắt người ta, đành đáp: “Phải, đây là vật của Tề thí chủ, lão nạp từng trông thấy.”

    “Ồ? Thì ra đại sư cũng biết vật này ư?” Chu Tử Tần liền nói, “Đây là vật chứng chúng tôi tìm được, lúc Tề phán quan còn sống, từng nói đồ vật của người chết thường không được sạch sẽ, còn khuyên chúng tôi nên đem tới chỗ đại sư để thanh tẩy. Hôm nay gặp được đại sư ở đây thì thật tiện quá.”

    Mộc Thiện đại sư nhìn gã, rồi lại nhìn chiếc vòng, tỏ vẻ ngập ngừng.

    Hoàng Tử Hà hỏi: “Đại sư có thể thanh tẩy chiếc vòng này được không?”

    Mộc Thiện đại sư lắc đầu: “Chiếc vòng này từng thuộc về tội phạm đầu độc cả nhà, là vật không lành, có thanh tẩy cũng vô ích. Chi bằng đem chôn cạnh mộ Hoàng quận thú phu nhân, cũng là một cách giải quyết tốt.”

    Chu Tử Tần còn đang ngơ ngác, Hoàng Tử Hà đã chậm rãi hỏi: “Thì ra đại sư đã biết vật này vốn của Hoàng Tử Hà? Là Tề phán quan kể với đại sư ư?”

    Mộc Thiện đại sư do dự đáp: “Vừa rồi Chu bổ đầu nói là có liên quan đến vụ án này...”

    “Ta nói là vụ tự sát ở phố Tùng Hoa, chúng ta đang thắc mắc việc Tề phán quan mua chiếc vòng này...” Chu Tử Tần ngỡ ngàng hỏi, “Sao đại sư biết nó là của Hoàng Tử Hà? Lẽ nào vụ án nhà Hoàng quận thú có liên quan tới nó ư?”

    “Chuyện này...” Mộc Thiện đại sư cứng họng, nói không ra lời.

    Hoàng Tử Hà nghiêm mặt: “Đại sư tuy là người trong cửa Phật, song người của nha môn đang tra án, mong đại sư thành thật trả lời cho chúng tôi mấy điểm nghi vấn này, bằng không, e rằng chúng tôi lại lầm lẫn, làm liên luỵ cả đại sư cũng nên.”

    Đôi mày chữ bát của Mộc Thiện đại sư càng cụp xuống thêm, vẻ mặt rầu rĩ: “Cũng phải... Lão nạp là người xuất gia, không nói dối đâu, xin hai vị cứ hỏi.”

    Hoàng Tử Hà hỏi trước: “Chẳng hay đại sư trông thấy chiếc vòng này khi nào? Sao lại biết nó có liên quan đến gia đình Hoàng quận thú?”

    “Đầu năm nay, khi Vũ thí chủ tự sát, lão nạp đến Tề phủ thăm, khi Vũ thí chủ trông thấy chiếc vòng này đã phản ứng rất mạnh. Tề thí chủ kể với lão nạp rằng, đó là vật của Hoàng tiểu thư, Vũ Tuyên năm xưa chính tay tặng cho cô ấy, nên giờ trông thấy lại nghĩ tới chuyện xưa, phát điên phát cuồng, không thể kiềm chế.”

    “Cuối cùng Tề phán quan xử lý chiếc vòng ấy thế nào?”

    “Chuyện đó lão nạp không rõ... Cũng chẳng rõ chiếc vòng này làm sao lại rơi vào tay Chu thiếu bổ đầu, rồi lại liên quan tới vụ án ở phố Tùng Hoa nữa.” Mộc Thiện đại sư nheo mắt ngắm nghía chiếc vòng, vẻ trầm tư, “Lão nạp nhớ được vật này vì nó chạm trổ độc đáo thôi...”

    Chưa dứt câu, chợt nghe “xoảng” một tiếng ở cửa. Ba người lập tức quay ra nhìn, thấy Vũ Tuyên đang đứng đó, bộ đồ trà đã rơi xuống đất vỡ tan tành, trà nóng còn bốc khói nghi ngút, song hắn chỉ đờ đẫn nhìn chằm chằm vào chiếc vòng, mặt xám như tro.

    Hoàng Tử Hà chậm rãi đứng dậy.

    Chu Tử Tần không hiểu đầu đuôi gì, bèn cầm chiếc vòng lên săm soi, rồi lại nhìn sang Vũ Tuyên: “Vũ huynh đang nhìn cái này ư?”

    Miệng Vũ Tuyên mấp máy, song không thốt ra được một lời, rồi như vừa sực tỉnh, hắn ngồi thụp xuống vội vã nhặt mảnh chén vỡ dưới sàn.

    Hoàng Tử Hà bước đến, ngồi xuống nhặt cùng, hỏi nhỏ: “Huynh sao thế?”

    “Tự nhiên ta hơi chóng mặt.” Nói rồi, hắn cúi gằm mặt xuống, chỉ thấy hàng mi dày run run, như đôi cánh chuồn chuồn bị gió tạt gãy.

    Hoàng Tử Hà từ từ quay lại, đưa mắt nhìn từ chiếc vòng trên tay Chu Tử Tần đến Mộc Thiện đại sư.

    Hoà thượng cúi đầu lẩm nhẩm niệm kinh, gương mặt già nua đầy nếp nhăn, chỉ có đôi mắt bình thản không để lộ bất cứ thái độ gì là còn chút ánh sáng.

    Sau khi uống hết ly trà, Mộc Thiện đại sư đứng dậy cáo từ.

    Vũ Tuyên và Hoàng Tử Hà, Chu Tử Tần tiễn Mộc Thiện đại sư đến cửa rồi quay lại đại sảnh ngồi xuống. Cuối hạ nóng nực, ao nước ở giếng trời lại khá bé, chẳng làm mát được là bao, vừa mở nắp chén để khói trà bốc lên, Hoàng Tử Hà đã thấy quần áo lót ướt sũng mồ hôi.

    Vũ Tuyên chìa cho cô cây quạt, cô bèn cầm lấy quạt liền tay. Chu Tử Tần miệng nói “tĩnh tâm tự mát”, song phát hiện ra không còn cây quạt nào nữa, đành nhăn nhó quệt mồ hôi, nhìn sang cô nài nỉ: “Sùng Cổ, cho ta mượn quạt một tí đi?”

    Hoàng Tử Hà lắc đầu: “Không được, tôi đang hoá trang, nếu ra mồ hôi trôi mất lớp hoá trang thì gay.”

    Chu Tử Tần bĩu môi: “Hừ, vương gia không hoá trang nữa rồi, Sùng Cổ là hoạn quan hầu cận còn hoá trang làm gì?”

    Hoàng Tử Hà xoè quạt che mặt, bình thản đáp: “Ở đây có người biết tôi.”

    “Biết thì sao, đất khách gặp người quen chẳng tốt ư...” Nói đến đó, Chu Tử Tần như vỡ lẽ, liền hỏi dồn: “Sùng Cổ mau khai thật đi, có phải công công nợ tiền ai ở đây, sợ bị tính cả lãi không?”

    Hoàng Tử Hà đã quen với lối tư duy kỳ quặc của gã, nên chỉ chăm chăm quạt mát, chẳng buồn đếm xỉa.

    Chu Tử Tần hậm hực níu tay cô lại: “Này, năn nỉ ta đi, rồi ta trả tiền hộ cho?”

    Hoàng Tử Hà giãy ra: “Nhiều lắm, công tử không trả nổi đâu.”

    Chu Tử Tần trợn mắt: “Không thể nào, hèn chi công công phải bán thân vào làm nô tài... xem ra đành nhờ Quỳ vương trả hộ vậy.”

    Hoàng Tử Hà cúi đầu phẩy quạt, tiện miệng đáp lấy lệ: “Phải phải, đời này tôi quyết định trông cậy vào vương gia thôi.”

    Vũ Tuyên lặng lẽ đưa mắt nhìn cô, bàn tay vô thức siết chặt lấy ly trà, lộ cả gân xanh. Song cuối cùng, hắn chỉ cúi đầu nín thinh, rót thêm trà cho hai người.

    Hoàng Tử Hà bưng ly trà sóng sánh Vũ Tuyên rót, ngước lên nhìn hắn: “Mộc Thiện đại sư ở chùa Quảng Độ nhiều năm, nhưng trước đây tôi lại chẳng mấy để ý.”

    Vũ Tuyên thản nhiên đáp: “Có lẽ là vì công công không tin thần Phật.”

    Hắn còn nhớ, mẹ cô trước đây cứ mồng một ngày rằm lại tới ngôi chùa gần phủ quận thú thắp hương lễ Phật, song cô không bao giờ đi theo, huống hồ chùa Quảng Độ ở tít trên núi Minh Nguyệt ngoài ngoại ô, lại càng ít đến.

    Hoàng Tử Hà gật đầu, nghe hắn nói tiếp: “Mộc Thiệc đại sư trước đây thường vân du khắp nơi, không mấy khi ở chùa Quảng Độ, sau vụ việc của Phạm Nguyên Long con trai Phạm tiết độ mới vang danh. Bấy giờ Sùng Cổ đã rời Thành Đô.”

    Chu Tử Tần ngồi bên nghe hai người nói chuyện, sực vỡ lẽ: “Ta... Ta biết rồi nhé!”

    Hoàng Tử Hà quay sang gã, nhướng mày: “Biết gì?”

    “Sùng Cổ, thì ra... thì ra công công...” Chu Tử Tần trỏ cô, miệng tròn vo, mắt tròn xoe.

    Hoàng Tử Hà ngỡ gã đã đoán ra thân phận mình, cũng hơi ngạc nhiên: “Tôi làm sao?”

    “Hai người không lừa được ta đâu! Linh cảm của ta nhạy lắm!” Chu Tử Tần nghiêm mặt nói rành rọt rừng chữ: “Ta phát hiện ra rồi! Thì ra Dương Sùng Cổ công công quen thân với Vũ Tuyên như thế! Món nợ của công công, hẳn là nợ Vũ huynh rồi!”

    Hoàng Tử Hà chống trán thở dài ngao ngán: “Tử Tần quả là nhạy bén!”

    Cô nợ Vũ Tuyên hay Vũ Tuyên nợ cô, hình như đều có lý cả. Xét về điểm này thì Chu Tử Tần đúng.

    Chu Tử Tần đắc ý vỗ ngực nhìn cô: “Thấy chưa? Chuyện gì ta cũng biết hết!”

    Hoàng Tử Hà bất giác quơ quạt che miệng phì cười.

    Vũ Tuyên lặng lẽ nhìn ra ao súng, chẳng nói chẳng rằng.

    Hoàng Tử Hà ngoái lại nhìn gương mặt nghiêng của hắn, đường nét thanh tú đến mức gần như không giống người phàm, đẹp đẽ mà thân thuộc.

    Lòng thoáng xao động, cô cụp mắt gọi khẽ: “Vũ Tuyên...”

    Hắn hơi khựng lại, rồi ngoái đầu nhìn cô.

    Hoàng Tử Hà hỏi: “Mộc Thiện đại sư nói ngày mai khởi hành, huynh có biết đại sư đi đâu không?”

    “Đến Trường An.”

    Hoàng Tử Hà bất giác ghé lại hỏi nhỏ: “Làm gì vậy?”

    “Nghe nói có người bạn cũ tinh thần hoang mang bất định, nên đại sư tới khuyên nhủ.”

    “Mộc Thiện đại sư đã từng ấy tuổi mà còn lặn lội ngàn dặm tới tận kinh thành, xem ra bạn cũ này không phải người thường.”

    Nghe cô nói vậy, Vũ Tuyên gật đầu: “Ta không hứng thú với người đại sư gặp gỡ nên không hỏi kỹ. Nếu Sùng Cổ cần biết, ngày mai ta đi tiễn sẽ hỏi cho.”

    “Ừm, phiền huynh vậy.” Hoàng Tử Hà lại bưng ly trà quay sang Chu Tử Tần: “Hôm nay chúng ta tới đây, vẫn là vì vụ của Tề Đằng. Nhưng tôi chẳng có gì để hỏi cả, Tử Tần có hỏi gì không?”

    “Dĩ nhiên là có!” Chu Tử Tần nghiêm túc rút một cuốn sổ trong ngực áo, lật ra hỏi lần lượt từng câu: “Thứ nhất, chúng tôi tìm được thủ bút của Chung Hội tại nhà họ Tề, Vũ huynh xem có phải đây là bức huynh từng thấy ở nhà Ôn Dương không?”

    Vũ Tuyên đón lấy tờ giấy Chu Tử Tần đưa nhìn qua rồi gật đầu xác nhận: “Chính là nó.”

    “Huynh khẳng định chứ?”

    “Ừm, bấy giờ tôi nói thủ bút này là giả, Ôn Dương còn làm bộ định xé bỏ, nhưng sau cùng lại thôi, bổ đầu xem...” Hắn trỏ một vết rách nhỏ: “Vẫn còn dấu vết đây.”

    Chu Tử Tần gật đầu, đánh một dấu chéo sau câu hỏi đầu tiên, rồi nhìn xuống câu thứ hai: “Hoàng Tử Hà là người thế nào, huynh hãy miêu tả rõ một chút.”

    Mí mắt Hoàng Tử Hà rần rật, cô bất giác giơ tay bưng lấy quai hàm, như bị đau răng.

    Vũ Tuyên đang ngẩn ngơ nghĩ ngợi, thấy Chu Tử Tần thình lình hỏi câu này thì ngớ ra vì ngạc nhiên, hoang mang hỏi lại: “Gì cơ?”

    “Ừm, thì là... Ta nghe nói trước đây huynh ở phủ quận thú, rất thân thiết với Hoàng Tử Hà... nên muốn hỏi huynh vài việc về cô ấy, bởi, bởi...” Chu Tử Tần ngượng ngập nắm lấy dái tai, lúng túng tiếp: “Ta rất ngưỡng mộ Hoàng Tử Hà.”

    Hoàng Tử Hà ngán ngẩm quay đi, đứng dậy ra ao ngắm hoa súng. Vũ Tuyên chăm chú nhìn theo, đăm đăm ngắm bóng cô bên bờ nước hồi lâu, rồi chậm rãi trả lời: “Cô ấy... có phần giống Dương công công.”

    Chu Tử Tần gật đầu: “Phải, hai người đều rất giỏi phá án, không ai kém ai!”

    Vũ Tuyên chẳng biết phải nói tiếp thế nào, đành mím môi lặng thinh.

    Chu Tử Tần ngước cặp mắt long lanh nhìn hắn, vừa nài nỉ vừa trông đợi, chỉ thiếu điều chưa vẫy đuôi.

    Hoàng Tử Hà ngồi xuống bờ ao, vươn tay sờ đóa hoa súng e ấp chớm hé, những cánh hoa tím biếc khẽ chạm vào bàn tay trắng muốt của cô, rực lên dưới nắng, khiến mắt cô bất giác mờ đi, không sao trông rõ.

    Ngoái lại, bắt gặp hắn đang chăm chú nhìn mình, cô bèn buông đoá hoa ra đứng dậy: “Tử Tần đã không còn hỏi gì thì chúng ta về thôi.”

    Chu Tử Tần bỉu môi, tỏ vẻ lưu luyến: “Ở đây trà thơm hoa đẹp, ngồi thêm lúc nữa cũng được mà.”

    Hoàng Tử Hà lắc đầu: “Vậy tôi về trước.”

    Chu Tử Tần bất đắc dĩ đứng dậy theo, miệng vẫn chưa thôi phàn nàn: “Về ngồi ở nha môn có gì hay đâu...”

    Vũ Tuyên đứng dậy, lúc đi đến bờ ao, hắn chợt dừng bước gọi khẽ: “Dương công công...”

    Hoàng Tử Hà ngoảnh lại, đợi hắn nói tiếp.

    Song Vũ Tuyên chỉ lặng lẽ nhìn cô, thật lâu sau mới gượng cười: “Để tôi tiễn công công.”

    Hoàng Tử Hà im lặng nhìn nam tử tuấn tú đã chiếu sáng bừng cả thời thiếu nữ của mình, gắng nén xao động trong lòng, mỉm cười với hắn: “Khỏi cần, cáo từ ở đây thôi.”
     
  7. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 19 - Đôi cá trong veo
    Trở vào thành, vừa đến con phố có phủ tiết độ sứ, họ đã thấy quân Tây Xuyên dàn hàng nghiêm chỉnh, hộ tống Lý Thư Bạch và Phạm Ứng Tích đi đến.

    Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần vội tránh sang bên đường.

    Lý Thư Bạch đang trò chuyện với Phạm Ứng Tích, thoáng trông thấy cô, còn chưa kịp phản ứng thì Địch Ác đã lao ra khỏi hàng ngũ, chạy về phía Na Phất Sa, hí lên khe khẽ rồi cọ cọ vào cổ nó.

    Hai người vì thế cũng gần nhau đến nỗi nghe được cả hơi thở của người kia.

    Y mỉm cười cúi đầu nhìn cô, lúc đi sượt qua nhau bèn hạ giọng hỏi: “Hôm nay có thu hoạch gì không?”

    Hoàng Tử Hà ngước lên nhìn y, khẽ gật đầu: “Còn vài tình tiết nữa, đợi tra xét rõ ràng thì có thể kết thúc vụ án được rồi.”

    Vương Uẩn cũng có mặt trong đội hình phía sau, thấy hai người đi sát lại gần nhau song không nghe rõ họ nói gì, đành ngoảnh mặt đi nhìn mấy lá cờ bay phần phật trong gió.

    Chu Tử Tần đang ghìm cương đi phía sau Hoàng Tử Hà nghe được câu này thì suýt rớt cả hàm dưới, vội tóm lấy dây cương Na Phất Sa, kéo cô quay lại đối diện với mình, cuống quýt hỏi toáng lên: “Gì cơ gì cơ? Vụ án chỉ còn mắc vài tình tiết nữa thôi á? Thế là thế nào? Rốt cuộc là làm sao? Công công mau giải thích cho ta đi!”

    Đang lúc hấp tấp gặng hỏi, hắn phun cả nước bọt vào mặt Hoàng Tử Hà, khiến cô phải giơ tay che mặt đáp: “Chưa chưa, tôi bảo rồi mà, mọi thứ sẵn sàng, chỉ thiếu gió Đông. Còn một vài việc có tính quyết định vẫn phải trông vào Chu thiếu bổ đầu đây, công tử chính là trụ cột của chúng tôi trong lúc mấu chốt đấy...”

    Chu Tử Tần nghe thế thì như mở cờ trong bụng, vỗ ngực bồm bộp: “Cứ việc! Thân là tổng bổ đầu quận Thục, bất kể hai vị nhờ việc gì, ta cũng không từ chối!”

    “Thế thì tốt, hai ta đến phủ quận thú xem lại hiện trường vụ án đi, tôi muốn tìm hung khí.”

    Chu Tử Tần tròn mắt: “Sùng Cổ vẫn chưa nản lòng ư? Hiện trường đã bị chúng ta quần thảo giẫm đạt đến trũng xuống cả thước rồi, mấy chục người ngày ngày sục sạo còn chưa thấy, công công dám chắc mình tìm thấy được à?”

    Hoàng Tử Hà không đáp, chỉ kéo cương ngựa, đứng từ xa hành lễ với bọn Phạm Ứng Tích đằng sau, rồi đi thẳng về phía phủ quận thú, ném lại một câu: “Công tử không tin à?”

    “Tin chứ! Dưới gầm trời này, người ta tin nhất là Hoàng Tử Hà, thứ hai là Sùng Cổ đấy!” Chu Tử Tần cười hì hì ra roi thúc ngựa, giục Tiểu Hà bám theo.

    Lý Thư Bạch quay sang bảo Phạm Ứng Tích bấy giờ đã đi đến: “Phạm tướng quân, ta muốn tới phủ quận thú một chuyến, tướng quân cứ về phủ trước đi.”

    “Vâng, cung tiễn vương gia!” Phạm Ứng Tích vội hành lễ, đám người đằng sau cũng hành lễ theo.

    “Hôm nay ở bãi huấn luyện, bản vương đã gặp được Tiết độ sứ các trấn cùng sĩ tốt các đội thuộc quân Tây Xuyên, cũng chọn được mấy người làm thị vệ rồi.”

    Dọc đường đến phủ quận thú, Lý Thư Bạch kể với cô.

    Hoàng Tử Hà gật đầu, nhìn sang Trương Hàng Anh.

    Trương Hàng Anh lộ vẻ sợ hãi, còn đang nơm nớp thì nghe Quỳ vương nói: “Hàng Anh vẫn sẽ ở lại bên cạnh ta. Giờ Cảnh Hữu, Cảnh Dục đều đã qua đời, bọn Cảnh Dật lại chưa đến, ta chẳng còn kẻ nào quen tay quen việc bên cạnh cả.”

    Trương Hàng Anh thở phào, vội thúc ngựa theo sát Lý Thư Bạch.

    Hoàng Tử Hà lặng lẽ đi theo, không nói nửa lời. Chẳng hiểu sao, lòng cô bỗng thấy xót xa vô hạn, niềm cảm khái cứ trào dâng không sao nén nổi.

    Đúng như lời Chu Tử Tần, hiện trường vụ án Tề Đằng đã bị càn quét đến mức như trũng xuống một tấc.

    Trên bình đài lát đá xanh, cỏ dại đã bị nhổ sạch, hoa cũng bị giày xéo đến nỗi không còn nổi một cánh nguyên vẹn, hồ bị rút cạn nước, vét sạch bùn rác, rừng cây trụ chống nhà thủy tạ cũng bị nạo sạch.

    Không có hung khí, quả thật không có.

    Hai bổ khoái phụng lệnh ở lại tìm kiếm khổ không kể xiết, ngồi gục đầu như hai con gà chọi bị thua. Lúc chạy đến tham kiến Quỳ vương, họ vẫn không giấu nổi vẻ rầu rĩ: “Xin vương gia thứ cho bọn tiểu nhân bất tài... Mấy hôm nay chúng tiểu nhân gần như lật cả chỗ này lên mà vẫn không tìm thấy.”

    “Đừng nói là hung khí bề rộng một tấc, dù chỉ là một cây kim độc, thì cũng phải thấy rồi mới đúng.”

    Thấy hai bổ khoái dãi nắng tìm hung khí, kẻ nào kẻ nấy mồ hôi đầm đìa, lưng áo ướt sũng, Lý Thư Bạch cũng chẳng nỡ trách, chỉ nói: “Việc này liên quan đến phủ tiết độ và phủ quận thú, hai ngươi vất vả như vậy, kể như cũng đổ công đổ sức rồi. Bản vương hôm nay chỉ tới đây xem xét chút thôi, có việc gì các ngươi cứ bẩm với Chu bổ đầu và Dương công công là được.”

    Hai gã vâng dạ rối rít, rồi ủ rũ đi đến chỗ Chu Tử Tần.

    Trông thấy A Trác, bổ khoái nhỏ tuổi nhất, thân hình cũng thấp bé nhất đứng cạnh mình, cúi gằm mặt, Chu Tử Tần bèn giơ tay vò đầu A Trác, rồi quay sang bảo Hoàng Tử Hà: “Này Sùng Cổ, có thật là tìm được không? Nhanh nhanh lên đi, công công nhìn mà xem, hai tên này nóng lòng đến nỗi sắp bứt trụi cả tóc rồi.”

    Hoàng Tử Hà vẫy tay ra hiệu cho Chu Tử Tần theo mình đi men bụi cỏ đến sát mép nước rồi ngoái lại nhìn về phía thủy tạ hỏi: “Bức màn sa kia của lệnh muội đâu rồi?”

    Chu Tử Tần huơ tay ra dấu, chỉ vào một chỗ gần bụi cây: “Ở đây này.”

    “Ừm.” Hoàng Tử Hà đi quanh chỗ đó một vòng, rồi cúi xuống săm soi mặt đất.

    Chu Tử Tần theo sau, thấy cô giẫm lên đá xanh mà đi thì ngơ ngác hỏi: “Sùng Cổ phát hiện được gì rồi ư?”


    “Phát hiện được... hai con ruồi.” Hoàng Tử Hà trỏ xuống đất.

    Chu Tử Tần nhìn theo tay cô, quả nhiên thấy hai con ruồi đang bâu lại bên kẽ hở của hai viên đá, bèn thắc mắc: “Ruồi thì sao cơ?”

    Lý Thư Bạch đứng cách đó không xa, nghe gã hỏi bèn giải thích: “Tử Tần chẳng nghe câu tục ngữ, thớt có tanh tao ruồi mới đến ư?”

    Chu Tử Tần càng thêm bối rối, hết há miệng chớp mắt, hồi lâu mới quay sang nhìn Hoàng Tử Hà.

    Dưới ánh nắng, Hoàng Tử Hà đứng dậy khoan khoái thở hắt ra, nhìn bóng mình đổ dài trên mặt đất, thốt lên: “Xong rồi, vụ Phó Tân Nguyễn đã kết thúc.”

    “...” Chu Tử Tần lại cảm thấy bản thân là kẻ tội nghiệp nhất trên đời. Lần nào gã cũng cùng Hoàng Tử Hà chạy đôn chạy đáo, cùng nhau nghiệm thi, cùng xem vật chứng, vậy mà khi có kết quả, lại luôn là người cuối cùng được biết?

    Lòng đầy ai oán, gã quay sang hỏi Lý Thư Bạch: “Có phải vương gia cũng biết rồi không?”

    Lý Thư Bạch thuận miệng đáp: “Biết được đại khái, song còn vài điểm chưa rõ, phải chờ Sùng Cổ giải thích.”

    Chu Tử Tần liền ngồi thụp xuống đất, nhìn hai con ruồi, rồi lại nhìn sang hai người, uất ức gào lên: “Rõ ràng là coi thường tôi! Lúc nào cũng gạt tôi ra ngoài, sau này tôi không đi cùng hai người nữa!”

    Hoàng Tử Hà vội xoa dịu: “Đâu có đâu có! Manh mối quan trọng vẫn còn nằm trong tay công tử, phải đợi công tử ra tay mới phá giải được mọi chuyện mà!”

    Chu Tử Tần ngước nhìn trời, làm bộ bắc bậc kiêu kỳ: “Muốn ngỗ tác đệ nhất thiên hạ là ta ra tay ư? Công công tưởng ai cũng vời được ta ấy à? Trừ khi...”

    Hoàng Tử Hà vội ghé sát lại: “Xin Chu thiếu bổ đầu sai bảo!”

    “Trừ khi công công giải thích hết mọi chuyện cho ta rõ, ngay ở đây!” Chu Tử Tần bĩu môi, bắt đầu hạch sách.

    Hoàng Tử Hà đành cười hùa theo: “Dào ôi, được rồi, để tôi gợi ý nhé. Mấu chốt của vụ này, nằm ở hai chữ 'thời cơ'.”

    “Thời cơ?”

    “Đúng thế, trong lúc Công Tôn đại nương múa, tất cả mọi người ở đó ai có thể nắm bắt thời cơ vòng ra phía sau giết người nào?”

    Chu Tử Tần trầm tư: “Việc này... Mọi người ở đó hình như chẳng ai có thể...”

    “Công tử nghĩ kỹ lại xem? Nhớ lại khẩu cung của họ cùng tình cảnh lúc đó. Thật ra có một người hoàn toàn có thể lẻn ra sau, trước ánh mắt của tất cả mọi người. Người khác không có cách, song kẻ ấy lại nghĩ được cách.”

    Chu Tử Tần ôm đầu, vắt óc suy nghĩ: “Rốt cuộc kẻ nào có thể xuống tay giết người trước bấy nhiêu con mắt nhỉ? Khẩu cung của mọi người ở đó dường như không có vấn đề gì cả, ai lại có cơ hội...”

    Thấy Chu Tử Tần vắt kiệt trí óc quá khổ sở, Lý Thư Bạch đành xuống nước nói giúp cho hắn: “Sùng Cổ đừng làm khó Tử Tần nữa, về mặt này Tử Tần không thạo, song ta biết có một việc, Tử Tần nhất định là thiên hạ vô song, không ai bì kịp.”

    “Chính là tay nghề khám nghiệm!” Chu Tử Tần giơ ngón cái trỏ vào mũi, ưỡn ngực khoe khoang.

    Hoàng Tử Hà gật đầu tán thưởng cho họ Chu vui lòng, thấy gã cười tít mắt mới chỉ chỉ vào ngực áo: “Vụ án này còn một điểm mấu chốt, có lẽ liên quan đến chiếc vòng công tử đang giữ.”

    Chu Tử Tần ngẩng người, vội móc chiếc vòng trong áo ra đưa cho cô.

    “Trừ thời điểm gây án, thì vụ này còn một mấu chốt quan trọng nữa là nguồn gốc của chất độc.” Hoàng Tử Hà giơ tay nhận lấy rồi nghiêm mặt chậm rãi nói tiếp: “Hai vụ án trẩm độc hại chết người đều có chiếc vòng này xuất hiện, chẳng biết có phải tình cờ hay không?”

    Nói rồi, cô chăm chú quan sát chiếc vòng trong tay. Biết bao lần cô đã miết ngón tay vuốt ve hai con cá ngậm đuôi nhau chạm bằng ngọc ấy, đến nỗi thuộc lòng từng đường nét như lòng bàn tay, tựa hồ chỉ cần cô chạm nhẹ, những đường nét ấy sẽ lan dài ra đến chỉ tay cô, lặn vào trong số mệnh của cô.


    Cô giờ vòng lên soi ra nắng nhìn cho rõ, chất ngọc chạm rỗng, dưới ánh nắng càng lung linh đẹp mắt. Trên đầu hai con cá khắc một hàng chữ.

    Vạn mộc chi trường, hà phương vi hà.

    Nét chữ của Vũ Tuyên. Nhìn hàng chữ hắn chính tay khắc từng nét một, cô bỗng mở to mắt.

    Một luồng sáng sắc lạnh thình lình bổ trúng đầu cô, khiến cô sực nghĩ đến một khả năng vô cùng đáng sợ.

    Vầng dương đã ngả về Tây, ráng chiều nhuốm màu máu đỏ. Tịch dương đỏ như máu thấm qua những lỗ rỗng bằng mũi kim, bằng hạt vừng, bằng hạt gạo trên thân vòng, lấp loáng ánh lên mặt cô, xoáy vào mắt cô.

    Chất ngọc trắng nhạt, trong suốt nên cái bóng lờ mờ kia cũng như có như không.

    Hoàng Tử Hà chỉ thấy đầu ong lên, thế giới trước mắt nhòa đi thành lớp lớp bóng hình, biến ảo không ngừng, hợp rồi lại phân, phân rồi lại hợp, chập chờn mờ mịt.

    Thứ gì đó sắc nhọn trong tim vươn ra, từng sợi chọc thẳng vào lồng ngực, khiến cô đau đến nghẹt thở, chỉ biết siết chặt lấy chiếc vòng, cố kéo nó rời khỏi tầm mắt mình.

    Chu Tử Tần kinh ngạc mấp máy môi hỏi gì đó. Song Hoàng Tử Hà không nghe thấy gì cả. Trước mắt cô đỏ lòe màu máu, ấy chính là màu của ráng chiều hôm cô gặp Vũ Tuyên lần đầu, cũng như ráng chiều ngay lúc này, nhuốm đỏ đất trời, cả thế giời dường như chỉ còn một màu đỏ, vạn vật chỉ thấy lờ mờ đường nét, méo mó chập chờn trước mắt cô.

    Đau đớn và uất ức, cay đắng và nhẫn nhục vẫn đè nặng lòng Hoàng Tử Hà hơn nửa năm nay, giờ bỗng ùa ra như vỡ đê Hoàng Hà, nỗi đau không sao kìm nén nổi lập tức nhấn chìm cô, khiến cả người cô run lên bần bật.

    Thì ra... là thế.

    Cái chết của cả nhà cô, khúc ngoặt quan trọng trong đời cô, tất cả mọi thứ cô bất chấp danh tiết, bất chấp thân phận trả giá, thì ra đã bị người ta gạt bỏ như thế.

    Cô nắm lấy tay Chu Tử Tần, thở hổn hển, song không cách nào thốt nổi một chữ.

    Thấy mặt cô xám ngoét, cả người run lên lẩy bẩy, Chu Tử Tần lo lắng hỏi: “Sùng Cổ... không sao chứ?”

    Chưa nói dứt câu, Lý Thư Bạch đứng phía sau đã dang tay ra, ôm lấy Hoàng Tử Hà đang run bần bật, gần như ngất xỉu, để cô tựa vào cánh tay mình, khỏi ngã ngồi xuống đất.

    Hai tay cô hoang mang giơ lên như muốn nắm bắt thứ gì đó, chẳng khác nào đôi cánh chim bay mỏi trời đã ngả chiều vẫn chưa tìm được chốn dừng chân. Cánh tay Lý Thư Bạch đang vòng qua vai Hoàng Tử Hà cũng xuôi xuống theo tay cô, nắm chặt lấy bàn tay, mười ngón đan nhau.

    Hơi ấm từ y thấm qua lớp áo mỏng trên mình, áp lên da cô, khiến tâm trí cô đang rối bời cũng hơi bình tĩnh lại.

    Y ôm lấy cô, thì thầm vào tai: “Đừng sợ... Ngươi đã trải qua chuyện kinh khủng nhất trên đời rồi, còn gì đáng sợ nữa đâu?”

    Tai cô đang ù đặc, chỉ nghe thấy tiếng máu trong mình sôi lên ùng ục, song giọng nói dịu dàng của y văng vẳng bên tai, như một sợi dây ném xuống cho kẻ đang chới với giữa dòng, cô vội tóm ngay lấy, mặc cho tâm trí trống rỗng, không cảm không nghĩ được gì, cô vẫn biết mình đã được cứu, nhất quyết không chịu buông tay.

    Biết y đang ở ngay phía sau, biết y sẽ che chở cho mình, cô bèn buông xuôi tất cả, không nghĩ ngợi gì nữa, chỉ lặng lẽ dựa vào y. Bởi cô biết, người này có thể cho mình tất cả sức mạnh, dẫu trời sập xuống cũng có thể thay cô chống lên.

    Lý Thư Bạch đỡ cô đi vào nhà thủy tạ ngồi.

    Chu Tử Tần ngơ ngác không hiểu sao Hoàng Tử Hà bỗng dưng lại thành ra như vậy, nhìn gương mặt cắt không ra giọt máu của cô, gã lắp bắp hỏi: “Cái... cái vòng đó quan trọng lắm à?”

    Hoàng Tử Hà gật gật rồi ôm đầu không nói gì.

    Lý Thư Bạch ngồi bên cạnh giải thích: “Ta nghĩ, có lẽ Sùng Cổ nghi ngờ chiếc vòng này đã bị người ta hạ độc.”

    Sực nhớ Hoàng Tử Hà từng nhắc đến, Chu Tử Tần nói ngay: “Là chuyện này ư, Sùng Cổ đã nói với ta một lần rồi. Nhưng lần trước chúng tôi đã thử lên Phú Quý, có vẻ không có độc. Huống hồ Phó Tân Nguyễn đeo chiếc vòng bấy lâu, nếu trên vòng có độc thì sao đến gần đây mới trúng?”

    Hoàng Tử Hà giơ tay nắm tay áo Chu Tử Tần, khàn khàn nặn ra từng tiếng: “Công tử... đưa cho ta”

    Chu Tử Tần gật đầu lia lịa, đưa ngay chiếc vòng cho cô, vẻ nghi hoặc.

    Hoàng Tử Hà run rẩy đón lấy, vuốt ve hai con cá ngậm đuôi nhau quấn quýt.

    Thật lâu, cô mới lặng lẽ giơ vòng lên, khều móng tay vào trong rồi bôi lên cổ tay trái. Ánh mặt trời chiếu lên chiếc vòng trong suốt, long lanh lưu chuyển. Hai con cá như sống lại, khẽ cựa quậy trên cổ tay cô.

    Chu Tử Tần ngẩng ra ngắm cổ tay trắng muốt như rực lên dưới ánh dương của cô, chẳng hiểu sao lại thấy căng thẳng, lúng túng hỏi: “Chẳng phải Sùng Cổ nói chiếc vòng này có thể có độc ư?”

    Hoàng Tử Hà cúi đầu, dùng tay phải xoay chiếc vòng, ngực khẽ phập phồng, nhưng không nói năng gì.

    Lý Thư Bạch đứng dậy đáp thay: “Yên tâm, tay Sùng Cổ không có vết thương, dù là chất độc gì cũng không thấm vào được, phải không nào?”

    Chu Tử Tần gật đầu, nhưng vẫn cảm thấy có gì đó không ổn.

    Hoàng Tử Hà và Lý Thư Bạch chẳng nói chẳng rằng, xăm xăm đi thẳng ra ngoài. Chu Tử Tần thoáng ngớ ra rồi cũng chạy theo hỏi: “Hai người đi đâu thế?”

    Lý Thư Bạch ngoái lại: “Tử Tần đến hoa sảnh đợi chúng ta một lát.”

    Chu Tử Tần vâng dạ, song vẫn cẩn thận hỏi lại: “Có cần tìm thầy thuốc đến khám cho Sùng Cổ không?”

    Lý Thư Bạch lắc đầu: “Ngươi đi chẩun bị kiểm nghiệm cái vòng này. Việc của Sùng Cổ cứ để ta lo.”

    Nhà bếp phủ quận thú nằm ở góc Tây Nam, ngay sát nha môn, cách hoa sảnh đặt bàn ăn không xa.

    Lúc Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà xuống bếp thì bữa trưa đã qua, bữa tối lại quá sớm, mấy bà già và người giúp việc đang ngồi bóc gương sen và củ ấu, rôm rả tán gẫu. Thấy họ đến, Lộ Đại Nương cai quản nhà bếp vội đứng dậy hỏi: “Hai vị có muốn dùng điểm tâm không?”

    Thấy Hoàng Tử Hà im lặng, Lý Thư Bạch đành hỏi thay: “Có canh móng dê không?”

    “Thưa, không có canh móng dê, nhưng hôm nay có canh hạ sen.”

    “Vậy cho ta một bát cạnh hạt sen.” Nói rồi, y quay sang nhìn Hoàng Tử Hà.

    Cô bước vào bếp, chọn một chiếc bát tô to như lúc trước, chính tay rửa qua rồi đặt lên bệ bếp.

    Tuy cô là con nhà quan, song từ năm mười hai tuổi đã cải trang nam nhi theo cha ra ngoài tra án, thường ở chung với đám bổ khoái nha dịch nên cử chỉ cũng chẳng e lệ rụt rè như con gái khuê các, mấy chuyện rửa bát rửa chén lại càng thành thạo.

    Múc đầy tô canh, cô định giơ hai tay bưng, nghĩ ngợi thế nào lại xắn tay áo lên hệt như lúc trước, rồi mới bưng lên.

    Bát tô làm bừng xứ men xanh Việt, xanh biếc màu núi. Vì quá to nên hai bên có hai cái tai, cô bừng tô bằng hai tay, thong thả ra khỏi bếp, đi về phía hoa sảnh.

    Con đường quen thuộc biết bao.

    Ra khỏi nhà bếp, bằng qua gốc tỳ bà trước sân, qua cánh cửa nhỏ đã nứt, trước mắt là hành lang dài dằng dặc lát đá xanh đã mòn vẹt dưới chân người.

    Cô mên theo hành lang mà đi, cũng như lúc ấy.

    Lúc ấy cô đang bực bội nên cứ xăm xăm bê tô canh to sóng ánh. A hoàn Mi Vu hớt hải chạy theo sau nài nỉ: “Để em bưng cho, tiểu thư bưng thế nặng quá!” saong cô mặc kệ Mi Vu, cứ thể đi thẳng. Cánh tay giơ mãi cũng mỏi nhừ, cô bèn nắm lấy hai cái tai, hạ hai tay xuống. Chiếc vòng ngọc theo cổ tay từ từ trượt xuống, chạm vào thành tô canh đánh “keng”, như băng tan ngọc vỡ.

    Tiếng “keng” ấy, hôm nay lại vang lên, không sai một mảy, tựa hồ ngày ấy đang tái hiện.

    Cô bưng tô canh cúi đầu lặng lẽ đếm bước.

    Lý Thư Bạch đi phía sau, cùng cô đến hoa sảnh, nơi cả nhà cô trước đây quầy quần đầm ấm dùng cơm.

    Canh hạt sen vừa múc ra hẵng còn bốc khói nghi ngút. Hơi nước đọng trên đôi mi cúi thấp, thấm ướt mắt cô.

    Nhớ lại ngày hè năm mười bốn tuổi ấy, chuồn chuồn bay thấp, sen hồng vừa đơm. Giữa bóng tà dương như máu phủ ngập trời đất, cô trông thấy ánh mắt hắn nhìn mình, dịu dàng mà trong vắt, không giống như nhìn mộ cô bé, mà như đang nhìn một người mình sẽ che chở cả đời.

    Lúc ẵm một đứa bé mồ côi cha mẹ đến cô nhi viện, hắn rơm rớm nước mắt nói, A Hà, có lẽ ta là kẻ hiểu rõ nỗi đau này nhất. Nỗi đau đớn ầng ậng trong mắt hắn, phải đến khi cả nhà qua đời, cô mới hiểu được.

    Hai người họ ngồi quay lưng vào nhau, cách nhau nửa thước, dưới hành lang đầy dây leo đầu thu. Hắn lật từng trang sách chăm chú đọc, cô mải miết bóc từng hạt sen. Thỉnh thoảng được cái gương sen ngọt mát, cô lại bóc một hạt đưa cho, hắn chỉ lặng lẽ ăn, không nói câu nào. Cô tức tối ngắt một đoạn dây leo quật vào đầu hắn. Hắn ngỡ ngàng ôm đầu nhìn cô, đầy ngạc nhiên.

    Đêm hôm trước hắn dọn đi thì tảng sáng hôm sau trời đổ tuyết. Cô dậy sớm định sang tìm hắn, nào ngờ vừa mở cửa đã thấy hắn đứng ngay ngoài thềm, mái hiên không che xuể, tuyết rụng đầy đầu hắn, cả người lạnh cứng. Tuyết bám trên vai hắn tan đi, rồi lại kết lại thành băng, khiến bờ vai đông cứng lại. Hắn đờ đẫn nhìn cô phủi tuyết trên người, hắn mới đăm đăm nhìn cô, thì thào thật khẽ, khẽ đến nỗi cơ hồ không nghe rõ, ta chẳng còn cách nào cả, rời khỏi phủ quận thú, ta không biết… phải làm sao nữa.

    Phải làm sao? Phải làm sao? Làm sao đây…

    Thân hình cô bắt đầu run lên.

    Cuối cùng cô cũng đi hết con đường, đến được hoa sảnh, đặt tô xuống bàn.

    Chu Tử Tần đã đợi sẵn, đang muốn hỏi cô bao nhiêu chuyện, song thấy Lý Thư Bạch đi phía sau, lại thẩy vẻ mặt cô nặng nề căng thẳng, bèn đứng ngẩn bên bàn, không bước đến quầy rầy nữa.

    Lý Thư Bạch bừng một chồng bát con đã rửa sạch, lần lượt bày ra từng chiếc ra bàn.

    Hoàng Tử Hà lặng lẽ hít sâu một hơi, xắc lại tay áo cho thật gọn, bắt đầu múc canh ra.

    Tay trái cô cầm bát giơ trên tô canh nghi ngút khói, tay phải dùng muôi gỗ múc canh, mỗi khi múc xong một bát lại bỏ muôi gỗ vào tô canh, hai tay đặt bát xuống, rồi lại cầm chiếc bát tiếp theo lên múc canh vào…

    Mặt cô xám ngoét như tro tàn, cả người run lẩy bẩy không thể kìm nén, ánh mắt ngập tràn đau đớn. Song dù vậy, cô vẫn cố chấp lê từng bước đến cái kết quả mà mình sợ nhất, bi ai khôn xiết, tuyệt vọng khôn tả, cũng kiên quyết khôn cùng.


    Lý Thư Bạch khẽ đặt tay lên vai cô. Thân hình cô đang run rẩy, nhưng vẫn cảm giác được bàn tay y đặt lên vai mình, sức mạnh từ tay y truyền sang vai cô, đồng thời cũng truyền cho cô vô vàn dũng khí, giữ vững thân hình yếu ớt mảnh mai của cô.

    Y cúi đầu, ghé tai cô nói nhỏ: “Đừng sợ, có ta đẩy rồi.”

    Nghe y nói, hơi thở của cô bỗng dồn dập hẳn lên. Gánh nặng vẫn đè trĩu lên cô, kết quả kinh khủng mà cô không dám đối diện, hung thủ khiến cô đau đến xé gan xé ruột, trong nháy mắt đều không còn quan trọng nữa.

    Điều quan trọng là phải khôi phục hoàn chỉnh tất cả trình tự và tình tiết của vụ án, bóc trần hết thảy tội ác không bỏ sót mảy may, phơi bày sự thật ra ánh sáng.

    Bất luận sự thật thế nào, thì sau lưng cô giờ đây cũng đã có chỗ dựa vững vàng nhất, y sẽ cho cô sức mạnh lớn nhất, không một ai tước đoạt nổi.

    Cô ngoái lại nhìn Lý Thư bạch, gật nhẹ đầu với y: “Không sao đâu, tôi làm được mà.”

    Lý Thư Bạch chăm chú nhìn cô, thấy ánh mắt cô đầy kiên nghị, mới yên tâm buông vai cô ra.

    Nghĩ đã thông, cánh tay cô cũng thôi run, múc đầy năm bát canh hạt sen thơm nức, đặt lên bàn rồi lần lượt sắp xếp theo đúng chỗ ngồi của mọi người trong nhà khi trước.

    Cuối cùng cô từ từ ngồi xuống, như vừa bị rút cạn sức lực, chằm chằm nhìn năm bát canh hồi lâu mới lên tiếng: “Tử Tần, kiểm nghiệm năm bát canh này giùm tôi.”

    “Nghiệm cái gì?” Chu Tử Tần hỏi lại.

    “Độc… Trẩm độc.” Hoàng Tử Hà đáp, chậm rãi mà rành rọt.

    Chu Tử Tần kinh ngạc la lên: “Sao có độc được? Sùng Cổ đích thân bừng từ nhà bếp lên, lạ có Quỳ vương hộ tống, còn chính tay míc ra bát mà! Huống hồ… huống hồ công công lấy đâu ta trẩm độc?”

    “Nghiệm đi.” Hoàng Tử Hà nghiến răng rít lên hai tiếng.

    Chu Tử Tần há hốc miệng, nhưng cuôi cùng vẫn đặt mấy bát canh vào khay bừng về chỗ mình ở.

    Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà đi theo gã, nhưng chỉ đứng đợi ở ngoài cửa, không vào trong.

    Cả hai đều nín lặng. Sắc trời chạng vạng bao phủ hành lang dài đầy dây lêp buông rủ, mấy đóa sen cuối mùa lẻ loi vươn cao trên nền lá xanh biếc như những chếc lọng xanh, tươi đẹp rực rỡ dị thường.

    Gió đem theo cái nóng hầm hập cuối hạ cuốn qua mặt hồ, phả đến Hoàng Tử Hà, phủ trùm lên cô.

    Mồ hôi rịn ra như những mũi kim châm chích vào da. Rồi ngay lập tức lại bị gió nóng làm bốc hơi, để lại cảm giác nhoi nhói.

    Hoàng Tử Hà dựa lan can, lặng lẽ nhìn Lý Thư Bạch thật lâu, cho đến khi trấn tĩnh lại.

    Lý Thư Bạch cũng chăm chú nhìn cô không nói.

    Bóng chiều trùm lên họ, cả phủ quận thú lặng phắc như tờ.

    Tịch dương như những vảy vàng rắc đầy mặt nước, khi xa khi gần, sóng gợn dập dềnh, lấp lánh chói mắt.

    Bốn năm.

    Ở đây, cô đã từ một cô bé ngây thơ không hiểu việc đời, lột xác trở thành thiếu nữ bất chấp tất cả, cũng chính tại đây, cô đã từ tài nữ được người người ngưỡng mộ, biến thành hung thủ bị người người nguyền rủa.

    Cô từng nghĩ mình đã trải qua tình cảnh đau đớn khổ sở nhất trên đời, nếm nổi đắng cay tột độ, như xé gan xé ruột, đau thấm tâm can, cô cũng nghĩ có lẽ chẳng còn gì đáng sợ hơn thể nữa.

    Nhưng thực không ngờ, khi sự thật tìm đến, còn khủng khiếp hơn tất cả những gì cô tưởng tượng.

    Cả người Hoàng Tử Hà run lên, mới cuối hạ đầu thu mà cô thấy buốt giá đến tận xương tủy, mồ hôi lạnh túa ra khắp đầu mình nhoi nhói như kim đâm.

    Cô chới với nắm lấy tay Lý Thư Bạch, nghẹn ngào hỏi y: “Lẽ nào đúng là tôi… đích thân bứng tô canh độc ấy lên,đưa cả nhà vào chỗ chết ư?”

    Lý Thư Bạch lặng lẽ nhìn cô, thấy cặp mắt cô mở to đầy kinh sợ, ánh mắt u tối, chẳng có lấy một tia sáng.

    Ngọn lửa vẫn rực cháy trong mắt cô thiếu nữ bôn ba ngàn dặm, quần áo nhếch nhác, bị y tóm được trong xe còn cố chấp nói mình phải giải oan cho cả nhà, giờ đã tắt lịm.

    Niềm tin dìu đỡ cô bấy lâu nay, giờ đã tan biến.

    Lý Thư Bạch nắm lấy tay cô, thất lạnh buốt tận xương. Hơi lạnh từ cô khiến y cũng dâng lên một nỗi thê lương đau xót. Y từ từ giơ tay ôm cô vào lòng, gắng nén run rẩy hạ giọng thì thầm: “Không, không phải ngươi đâu.”

    “Chính là tôi! Là tôi bưng tô canh ấy lên, cũng là tôi chính tay múc canh cho cả nhà, mời mọi người uống, tất cả… đều là tôi.!”

    Cô gào lên đau đớn, tuy thân hình bị Lý Thư Bạch ôm chặt, không thể giãy giụa, nhưng cơ thịt trên mặt vẫn giật dữ dội, nhìn rất đáng sợ.

    Thấy cô như phát điên, Lý Thư Bạch vội đè nghiến cô vào lan can, nhìn vào mắt cô quát khẽ: “Hoàng Tử Hà, bình tĩnh lại đi!”

    Cô tóm lấy tay y, ráng sức vùng ra. Nhưng cô sao có thể là đối thủ của y, chỉ thoáng chốc đã bị y khống chế, càng cố vùng vẫy chỉ càng làm rối bù đầu tóc, chẳng tác dụng gì.

    Cô nghe thấy y ghé tai nói khẽ: “Đó không phải lỗi của ngươi. Ngươi chỉ là một mắt xích trong kế hoạch mượn đao giết người của chúng, bị chúng lợi dụng mà thôi. Người ngươi nên căm hận, không phải bản thân, mà chính là kẻ đứng đằng sau tất cả.”

    Bấy giờ cô mới thôi vùng vẫy, đờ đẫn nhìn y.

    Y nhìn sâu vào mắt cô, nói rành rọt từng chữ: “Ngươi vượt qua bao khó khăn trắc trở, cuối cùng mới đi đến được kết quả này, giờ đây lại ăn năn tự trách, chi bằng xốc lại tinh thần, vạch trần âm mưu của đối phương, lật lại bản án, rửa oan cho mình, đồng thời bắt giữ hung thủ thật sự, để cả gia đình ngươi được ngậm cười nơi chín suối, có phải hơn không!”

    Hoàng Tử Hà trừng trừng nhìn y, một lúc lâu mới mấp máy môi, khó nhọc nặn ra từ cổ họng mấy chữ khàn khàn vỡ vụn: “Lý do... tôi phải tìm ra lý do của hắn...”

    “Phải, đó mới là việc quan trọng tiếp theo ngươi phải làm, chứ không phải ở đây dằn vặt bản thân!”

    Nghe y khuyên nhủ, cô từ từ bình tĩnh lại, thật lâu sau, đôi mắy xám xịt như tro tàn mờ đi, rồi từng giọt nước mắt ứa ra, lăn dài trên má, nhỏ xuống tay y đau nhói.

    Y cúi đầu nhìn, thì ra vừa rồi trong lúc vùng vẫy, cô đã cào xước mấy vết trên tay y, nước mắt thấm vào miệng vết thương, làm y thấy nhoi nhói.

    Y lặng lẽ giơ tay lên lau nước mắt cho cô, rồi lại giúp cô vén mái tóc xoã tung ra sau tai. Đôi mắt y xưa nay vốn lạnh lùng, vậy mà giờ đây dịu dàng khôn tả, không một ai hay, trong đó có một hồ nước thăm thẳm, y phô bày trước mặt cô, cũng đồng thời ôm cả cô vào đó, vĩnh viễn chẳng lo gió táp mưa sa nữa.

    “Nếu mệt thì nghỉ một lát đi. Mọi chuyện đã có ta đây.”

    Cô nhạt nhoà nước mắt, nhào vào lòng y khóc nức lên.

    Thật lâu sau, cuối cùng y nghe thấy cô nghẹn ngào thốt lên, khó nhọc mà kiên cường khôn tả: “Không, gia nói đúng... Tôi trải qua bao sóng gió mới đi đến được ngày hôm nay, thời khắc cuối cùng này, tôi sẽ gắng sức hoàn thành... tôi sẽ... chính tay kết thúc tất cả!”

    Chẳng biết bao lâu sau, cửa phòng đột ngột mở tung, Chu Tử Tần tái mét mặt, trợn tròn mắt lao ra, há miệng thở hồng hộc, lắp bắp mãi không thốt nổi một tiếng.

    Lý Thư Bạch đã buông Hoàng Tử Hà ra, hai người ngồi trên thành lanh xan, cách nhau nửa thước, không gần không xa.

    Hoàng Tử Hà không dựa vào cột nhà nữa mà thẳng lưng đứng lên trước mặt Chu Tử Tần.

    Lý Thư Bạch hỏi trước: “Kết quả thế nào?”

    Chu Tử Tần thở gấp, phải gắng gượng lắm mới nén được lồng ngực đang phập phồng dữ dội, thốt ra bốn chữ: “Trẩm độc! Năm bát!”

    Thân người Hoàng Tử Hà đang cứng đờ chợt mềm nhũn ra. Lý Thư Bạch vội đỡ lấy, dìu cô ngồi xuống, rồi vuốt lưng cô cho xuôi. Một lúc sau, khí uất trong lồng ngực tan dần, mắt cô từ từ trông rõ, tai cũng bớt ù đi.

    Cô tựa đầu vào cột, nhắm nghiền mắt nói khẽ: “Kết án thôi.”

    Chu Tử Tần há hốc miệng, sững sờ nhìn cô: “Kết án á? Án nào? Án Phó Tân Nguyễn hay án Tề Đằng? Hay là Thang Châu Nương?”

    “Tất cả. Luôn cả vụ án nhà Hoàng quận thú.” Cô dốc nốt sức tàn, nói rành rọt từng chữ: “Ba vụ án này, được xâu lại bằng một sợi dây vô hình. Giờ chúng ta đã nắm được đầu dây, chỉ cần kéo một cái, tấm màn che đậy tất cả sẽ rơi xuống, vụ án này cũng kết thúc.”

    “Kết thúc rồi à?” Chu Tử Tần nghiền ngẫm lời cô nói, bi ai khôn xiết. Hắn chưa nắm được bất cứ manh mối gì, vậy mà đối phương đã phá giải được toàn bộ rồi ư?

    “Đúng thế, vụ án này, không, là ba vụ án này, kết thúc rồi.”
     
  8. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 20 - Dấu hồng trên tuyết
    Trời đã tối, bóng tối bao trùm cả phủ Thành Đô. Nhưng Quỳ vương chỉ cần nói một tiếng, lập tức những kẻ liên quan đã tề tựu trước giờ lên đèn. Tuy không hiểu xảy ra chuyện gì, nhưng cả tiết độ sứ Tây Xuyên Phạm Ứng Tích cũng dẫn con trai hối hả đến phủ quận thú.

    Vương Uẩn cũng theo đến. Y vận áo lụa tím nhạt, lúc trông thấy Hoàng Tử Hà, gương mặt vẫn lộ vẻ tươi cười ôn hòa, song nhìn kỹ là thấy khí sắc không được tốt lắm.

    Quận thú Chu Tường đã bày sẵn ghế trong nhà thủy tạ cạnh hồ nước, rồi cho con gái dùng quạt che mặt, đi vào màn lụa ngồi.

    Công Tôn Diên và Ân Lộ Y cùng đến, thấy tất cả những người có mặt ở hiện trường khi Tề Đằng bị sát hại đều tới đông đủ, bèn gật đầu chào Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần rồi bước vào nhà thủy tạ ngồi.

    Vũ Tuyên cũng tới, mặc một chiếc áo dài màu thanh thiên, lặng lẽ ngồi xuống một góc, vẫn khiêm nhường như mọi lúc.

    Khó hiểu nhất là Mộc Thiện đại sư ở chùa Quảng Độ cũng được mời đến, ngồi trên bồ đoàn đặt sẵn bên ngoài thủy tạ, dù lần trước khi Tề Đằng chết, Mộc Thiện đại sư không hề có mặt.

    Tất cả nhạc công, nô bộc, a hoàn có mặt hôm đó, thậm chí cả Thang Thăng, đứa cháu lêu lổng của Thang Châu Nương cũng bị gọi tới.

    Đợi cho ai vào chỗ nấy, Lý Thư Bạch nhìn Hoàng Tử Hà gật đầu. Cô bèn đứng dậy cao giọng bảo mọi người: “Hôm nay mời các vị đến đây, là vì vụ án Tề Đằng Tề phán quan của phủ tiết độ sứ bị giết tại phủ quận thú mấy hôm trước.”

    Lời này vừa nói ra, tất cả đều lặng phắc. Phạm Ứng Tích vuốt râu trầm ngâm, Chu Tường nhíu mày nghĩ ngợi, Công Tôn Diên ôm lấy vai Ân Lộ Y an ủi, chỉ có Phạm Nguyên Long lên tiếng đầu tiên: “Gì cơ? Vụ Tề Đằng ấy à? Dương công công đã có manh mối rồi ư?”

    “Ta đã biết thân phận hung thủ, cách hắn giết chết Tề phán quan ngay trước mặt mọi người và phi tang hung khí ra sao rồi.”

    Phạm Ứng Tích nhìn sang thấy Lý Thư Bạch im lặng ngồi sau lưng Hoàng Tử Hà, biết y đã nắm rõ sự tình, lập tức phụ họa theo: “Dương công công, việc này không thể coi thường được! Kẻ muốn đối đầu với phán quan phủ tiết độ, ắt là có thù với ta, hoặc ôm lòng bất mãn với quận thú, với vương gia, hay với triều đình, nhất định phải trừng trị thật nghiêm!”

    “Phạm tướng quân có lòng lo cho vương gia và triều đình, thực là hiếm có, song căn nguyên sâu xa của vụ này chẳng liên quan gì tới quốc gia đại sự, mà chỉ ở một chữ 'tình' đấy thôi.” Hoàng Tử Hà bình thản đáp.

    Phạm Ứng Tích nghe vậy thì ngạc nhiên ra mặt, nhưng Lý Thư Bạch tinh ý nhìn ra, ánh mắt họ Phạm đã nhẹ nhõm đi nhiều. Dù sao, nếu vụ việc không liên quan tới Quỳ vương và triều đình thì Phạm tiết độ sứ chẳng phải gánh vác trách nhiệm. Còn về cái chết của thuộc hạ, Phạm Ứng Tích vốn chẳng mấy để tâm.

    “Lúc Tề phán quan qua đời, trừ Mộc Thiện đại sư ra, mọi người ở đây đều có mặt.” Hoàng Tử Hà nhìn lướt qua bọn họ, thấy có kẻ căng thẳng, có người chăm chú, có người kinh ngạc, người lại ngẩn ra. Phớt lờ tất cả, cô chậm rãi trỏ nhà thủy tạ nói tiếp: “Trong vụ này, có hai điểm mấu chốt cản trở chúng ta phá án, bắt giữ hung thủ. Điểm thứ nhất là thời gian.”

    Mọi người gật đầu tán đồng.

    “Hung thủ ra tay giết Tề phán quan trong khoảng thời gian ngắn ngủi điệu múa diễn ra. Bởi trước khi Công Tôn đại nương biểu diễn, mọi người phân vai vế ngồi vào chỗ, bấy giờ Tề phán quan còn bê ghế tròn đến ngồi cạnh màn lụa trò chuyện với Chu tiểu thư. Thậm chí sau khi điệu múa bắt đầu, phán quan vẫn nói chuyện cùng Chu tiểu thư, mãi tới khi Phạm thiếu gia chạy ra bụi cây nôn mửa mới thôi, từ đó về sau không nói thêm gì nữa.”

    Chu Tử Tần gật đầu, “Bởi thế, thời điểm Tề phán quan tử vong là từ sau khi Phạm thiếu gia nôn mửa trở đi, cũng chính là lúc Công Tôn đại nương đi ra sau màn, cánh hoa từ trên lả tả trút xuống, bươm bướm cũng dập dờn bay ra.”

    “Nhưng lúc đó tất cả đều không thể ra tay, bởi gần như mỗi người đều có vô vàn ánh mắt nhìn vào, Quỳ vương cho đến Phạm tiết độ, Chu quận thú... Thậm chí a hoàn và người hầu tướng phủ cũng không thể lẻn ra phía sau giết người được. Các chứng cứ ở hiện trường đều cho thấy không có dấu hiệu kẻ gian đột nhập từ bên ngoài, cũng tức là hung thủ ở ngay đó, là một trong số chúng ta ở đây.”

    Phạm Nguyên Long là hạng nhỏ mọn, oán hận bằng móng tay cũng chăm chăm tính sổ, bèn lạnh lùng lên tiếng: “Lúc trước ta cho rằng hung thủ là Vũ Tuyên, song giờ lại thấy Chu tiểu thư cũng có khả năng, dù sao bấy giờ hai người họ ngồi tít phía sau đám dông, cô ấy là người duy nhất có thể gây án mà không bị kẻ khác trông thấy.”

    Chu Tường tái mặt, trừng mắt nhìn Phạm Nguyên Long, song trước mặt Quỳ vương và Phạm tiết độ, ông ta không tiện tranh cãi, đành cắn răng nén giận.

    Chu Tường nhịn nhưng Chu Tử Tần không nhịn, bước lên vặc lại: “Thiếu gia tưởng suy đoán ngớ ngẩn đó chúng ta chưa nghĩ đến sao? Tiếc rằng khả năng này đã được các chứng cứ thực tế bác bỏ rồi! Bấy giờ hung thủ một tay bịt miệng Tề phán quan, một tay cầm hung khí đâm vào ngực, để lại dấu móng tay trên mặt Tề phán quan. Chiếu theo dấu vết đó, nếu em gái ta ra tay thì sẽ ngã ra khỏi màn lụa, không thể giữ thăng bằng được!”

    “Nhưng em gái ngươi có thể lẻn ra khỏi màn vòng tới sau lưng Tề phán quan rồi xuống tay mà!”


    “Đúng, nhưng thứ nhất là, nếu vợ chưa cưới đi tới sau lưng, lẽ nào Tề phán quan vẫn ngồi yên tại chỗ như thế ư; thứ hai là, a hoàn hầu cận Tử Yên tuy đã lánh ra xa, nhưng vẫn thường nhìn sang, phòng khi tiểu thư cần sai bảo. Nên chỉ cần có chút trí tuệ, nó sẽ biết không thể ra khỏi màn lụa, vòng tới sau lưng Tề phán quan giết người được.”

    Phạm Nguyên Long mới nói mấy câu đã bị Chu Tử Tần lườm và Phạm Ứng Tích mắng át đi, đành tiu nghỉu rụt đầu ngồi yên tại chỗ.

    Thấy đám đông kẻ trầm ngâm, người kinh sợ, nhất thời không ai lên tiếng, Lý Thư Bạch bèn hỏi: “Vậy theo ngươi thì kẻ nào có thể tìm được phương pháp giết Tề phán quan ngay trước mắt bấy nhiêu người, còn không bị ai phát giác?”

    Hoàng Tử Hà gật đầu thưa: “Vâng, mỗi người ở đây đều nằm trong tầm mắt người khác, nhưng bấy giờ tất cả mọi người đều nhất trí rằng, người ít bị tình nghi nhất, ít khả năng ra tay nhất, chính là Công Tôn đại nương đang múa trên đài, đúng không?”

    Tất cả đều gật đầu. Phạm Nguyên Long thì sốt ruột giục giã: “Bỏ qua Công Tôn đại nương đi, ngươi mau nói xem những người ngồi bên dưới làm sao tìm được cơ hội ra tay?”

    “Không, tôi không thể bỏ qua Công Tôn đại nương được.” Hoàng Tử Hà đưa mắt lạnh nhạt nhìn Công Tôn Diên đang ngồi trên thành lan can, “Chẳng hay các vị biết cái gọi là 'chân đèn tối' không?”

    Tiếng xì xào bàn tán rộ lên, ai nấy đều nhìn Hoàng Tử Hà, rồi lại nhìn sang Công Tôn Diên, vẻ kinh ngạc.

    Công Tôn Diên lặng thinh, chậm rãi đứng dậy.

    Hoàng Tử Hà khẽ nói: “Trong vụ án này, người ít khả năng gây án nhất lại có cơ hội sắp xếp mọi thứ thật hoàn mỹ, chỉ cần nắm bắt được thời gian, hoàn toàn có thể nhân lúc mọi người chăm chú xem múa, ung dung lẻn từ trên đài xuống phía dưới giết Tề phán quan, rồi thong thả bỏ đi.”

    Giữa tiếng xôn xao, Công Tôn Diên đứng trong nhà thủy tạ, mấy chục ngọn đèn sáng bừng xung quanh, ánh đèn vàng cam phủ lên người giai nhân một vầng hào quang huyền ảo, dáng người dong dỏng ấy cũng thướt tha yểu điệu chẳng khác nào bóng hoa rung rinh dưới đèn, khiến người ta không sao nhìn rõ.

    Công Tôn Diên đưa mắt nhìn khắp lượt, vẻ mặt bi ai khôn xiết, nhưng ánh mắt lại trong veo, bằng dáng vẻ thuần khiết nhất, giai nhân quay sang nhìn Hoàng Tử Hà, hạ giọng cực thấp nhưng vừa đủ lọt tai tất cả mọi người: “Nghe Dương công công nói, hình như có ý nghi ngờ tôi?”

    “Không phải nghi ngờ. Ý ta là, Công Tôn đại nương đã giết Tề Đằng.” Hoàng Tử Hà chậm rãi đáp, giọng nghiêm trang, rất rành rọt. “Chứng cứ rành rành, không thể chối cãi.”

    Công Tôn Diên cụp mắt xuống, chưa kịp phản bác thì Ân Lộ Y phía sau đã đứng phắt dậy, hốt hoảng nói: “Dương công công và chúng tôi từng là chỗ quen biết, trước đây công công còn nhận lời giúp chúng ta điều tra cái chết của A Nguyễn, sao bây giờ... vì không tìm được hung thủ trong vụ Tề phán quan, lại đổ hết tội lên đầu chúng tôi?”

    “Đúng vậy. Tôi cũng muốn biết, chứng cứ rành rành, là rành rành thế nào? Không thể chối cãi, là vì sao không thể chối cãi?” Công Tôn Diên cũng nhìn thẳng vào cô, ánh mắt sáng rực mà kiên quyết, giọng nói điềm tĩnh, không mảy may dao động: “Dương công công nói Tề phán quan chết vào lúc tôi biểu diễn, nhưng lúc ấy tôi đứng trên đài, trước con mắt của bấy nhiêu người, không rời nửa bước, làm sao giết được Tề phán quan ở tít phía cuối hàng?”

    Chu Tử Tần có thói bênh vực người đẹp hết lòng, tuy xưa nay luôn nghe lời Hoàng Tử Hà, nhưng lúc này cũng không cầm lòng được mà hỏi nhỏ: “Sùng Cổ này, không thể nào đâu... Bấy giờ ta cũng dán mắt vào vũ đài mà. Ta dám cam đoan Công Tôn đại nương và Ân tứ nương không rời khỏi đó nửa bước!”


    “Đúng, thoạt nhìn thì dường như không rời nửa bước, nhưng giữa chừng chẳng phải có một lúc chỉ thấy thấp thoáng bóng dáng Công Tôn đại nương thôi ư?”

    Nghe đến đây, mọi người mới vỡ lẽ. Phạm Nguyên Long la lên đầu tiên: “Ý công công chẳng lẽ là lúc Công Tôn đại nương lui ra sau màn thả bươm bướm à?”

    Chu Tường thấy Hoàng Tử Hà gật đầu, lại thấy Quỳ vương bên cạnh chỉ im lặng uống trà, thì không nhịn nổi đành lên tiếng thắc mắc: “Công công lúc ấy không thấy bóng Công Tôn đại nương sau màn ư? Tấm màn đó tuy rực rỡ, lại thêu vô số hoa lá, nhưng chất vải rất mỏng, tất cả đều trông thấy bóng người in lên màn, quả thật không rời một khắc.”

    Chu Tử Tần cũng gật đầu phụ họa: “Chính xác! Bấy giờ tứ nương đang giằng co với Phạm thiếu gia ở ngoài nhà thủy tạ, bên trong không có ai thế chỗ cho Công Tôn đại nương cả. Ta dám đảm bảo, từ đầu đến cuối đại nương chỉ đứng trong nhà thủy tạ thôi!”

    “Đây chính là kế ve sầu lột xác đầu tiên trong vụ án này. Tứ nương là bậc thầy về ảo thuật, đương nhiên biết cách khiến một người trên sân khấu biến mất trong nháy mắt. Đạo cụ cần thiết cũng rất đơn giản, chỉ cần một tấm màn sa, một bộ áo gấm mà thôi.”

    Nói đến đây, Hoàng Tử Hà nhìn sang Chu Tử Tần: “Chẳng hay Công Tôn đại nương và Ân tứ nương có đem tất cả đạo cụ hôm ấy đến đây như yêu cầu không?”

    Ân Lộ Y len lén liếc Công Tôn Diên, thấy Công Tôn Diên vẫn bình thản gật đầu, bước tới mở nắp rương đồ, lấy vũ y, đôi kiếm và bức màn sa ra: “Mời công công kiểm tra.”

    Lúc xảy ra án mạng, bàn ghế trong nhà thủy tạ đã phải dọn hết đi, nhường chỗ cho Công Tôn Diên biểu diễn. Chu Tử Tần vội sai người khiêng một chiếc bàn cao đến, đặt tất cả lên đó.

    Hoàng Tử Hà ra hiệu cho Chu Tử Tần trải rộng màn ra. Dưới ánh đèn, trên tấm màn mỏng thêu đầy những hoa cỏ rung rinh phấp phới, cành nhánh vấn vít vươn cao như dây leo, cứ cách nửa thước lại đâm ra hai cành cây đối xứng nhau, hơi rủ xuống, nở đầy hoa, đẹp vô ngần.

    Hoàng Tử Hà lại bảo Chu Tử Tần thả cho màn buông xuống đất, sau đó tìm một vị trí trên bức màn ngang với vai mình. Dáng cô dong dỏng, cao xấp xỉ Công Tôn Diên, chẳng mất chốc đã tìm thấy hai cành cây ngang bằng vai.

    Cô săm soi thật kỹ quanh hai cành cây nọ, quả nhiên tìm thấy bên trái có ba lỗ kim châm sắp thành hàng ngang, rõ ràng từng bị đính cái gì đó vào, sau khi gỡ ra đã dùng móng tay cạo qua, nhưng không xóa được những dấu vết nhỏ.

    Hoàng Tử Hà để Chu Tử Tần chìa ba lỗ kim ra cho tất cả cùng xem rồi nhận xét: “Theo vết kim châm mà suy thì trên hai cành cây này từng đính một thứ có dạng dài... như tôi đoán, hẳn là giá treo quần áo.”

    Chu Tử Tần liền hỏi: “Ý công công là, khi Công Tôn đại nương lùi ra sau, đã lẳng lặng cởi bộ áo gấm khoác ngoài ra, treo lên bức màn, vờ như mình vẫn đang ở đó, rồi... men theo bụi cây ven hồ, lẻn tới giết Tề phán quan ư?”

    Trong tiếng xì xào nghi hoặc, Công Tôn Diên chỉ lặng thinh đứng đó, không đáp.

    Hoàng Tử Hà trỏ một vật trên bàn: “Muốn dùng cách này, cần ba điều. Thứ nhất là một bộ đồ dày, ánh đèn không rọi qua được.”

    Cô đặt lên tay bộ áo gấm dày dặn Công Tôn Diên từng mặc, thong thả tiếp: “Bấy giờ chúng ta từng nói riêng với nhau rằng, bộ đồ này thật không bì được bộ vũ y mỏng nhẹ bên trong, hơn nữa rõ ràng sẽ làm vướng tay vướng chân, thậm chí còn ảnh hưởng đến vài động tác nhỏ, che mất vài chi tiết tinh tế, vậy mà sao Công Tôn đại nương lại chọn mặc múa mở màn, mãi tới khi thả bươm bướm mới chịu thay ra?”

    Ân Lộ Y tái mặt, từ từ giơ tay khoác tay Công Tôn Diên. Cảm giác được bàn tay Ân Lộ Y lạnh ngắt, nhưng Công Tôn Diên chỉ đặt nhẹ tay lên mu bàn tay họ Ân, ánh mắt vẫn không rời Hoàng Tử Hà.

    Hoàng Tử Hà lại đặt tay lên cổ áo gấm: “Thứ hai là một tấm vải đen cắt thành hình đầu của đại nương, giấu trong áo, khi cần thì rút ra. Hẳn vật này dã bị các vị gỡ khỏi cổ áo rồi, nhưng đợi lát nữa chúng ta tìm kỹ, ắt sẽ thấy dấu vết để lại thôi.”

    Đoạn cô đặt bộ đồ xuống, nói tiếp: “Thứ ba là ánh đèn, sau khi Công Tôn đại nương lui ra sau màn, ánh đèn đột nhiên tối hẳn. Mà người điều chỉnh ánh sáng, chính là Ân tứ nương. Tứ nương đã dành khoảng thời gian này để Công Tôn đại nương cởi áo, treo lên giá, gắn chiếc đầu giả lên cổ áo, rồi rời khỏi vũ đài. Đồng thời, tứ nương cũng rải hoa để đánh lạc hướng mọi người, thu hút tất cả ánh mắt hướng lên vũ đài, không ai chú ý đến động tĩnh sau bụi cây nữa. Đúng lúc này, Phạm thiếu gia lại vô tình giúp họ một tay, thiếu gia thấy Ân tứ nương xinh đẹp, bèn cợt nhả, khiến mọi người chỉ mải theo dõi vụ giằng co, Công Tôn đại nương hết sức an toàn.”

    Nghe tới đây, Công Tôn Diên nhếch môi mỉm cười như tự giễu: “Nếu đúng như công công nói, thì tôi mạn phép được hỏi, thời gian tôi lui ra sau màn đứng bất động có lâu không? Chẳng qua chỉ đủ rải hết mấy lồng cánh hoa mà thôi, khoảng thời gian ngắn như thế, lẽ nào có thể đi rồi lại về, còn lẻn ra được sau lưng giết chết Tề phán quan ư?”

    “Đúng vậy, thời gian ngắn như thế, dù Công Tôn đại nương có chạy hết tốc lực, cũng không kịp cả đi lẫn về đâu...” Phạm Nguyên Long chất vấn.

    “Phải phải, sau khi rắc hết cánh hoa, Công Tôn đại nương lại tiếp tục biểu diễn, lần lượt thả từng cánh bướm trong tay áo, bướm bay ra càng lúc càng nhanh, đến cuối cùng mới bay ra hết. Nếu bấy giờ đại nương không ở đó, thì bầy bướm đã tán loạn ùa ra rồi, sao có thể khống chế để chúng lần lượt bay ra từ từ như thế sao được?” Đến đây Chu Tử Tần bắt đầu suy tưởng hão huyền, “Lẽ nào Công Tôn đại nương có cách tức tốc quay về ngay trước khi rắc hết cánh hoa? Là phép rút đất, hay là một bước sải mười trượng?”

    “Đương nhiên không phải. Phép rút đất hay một bước sải mười trượng, đều là truyền thuyết thôi. Công tử không thử nghĩ theo cách khác xem? Thật ra Công Tôn đại nương không thể trở lại nhanh như vậy, lúc đàn bướm bay ra, đại nương cũng chẳng cần quay lại, bởi có một thứ có thể thao túng bầy bướm, khiến chúng không thể ùa ra cùng lúc, mà chỉ từng con một dập dờn bay ra, thậm chí dần dần càng lúc càng nhanh, càng lúc càng nhiều...”

    Chu Tử Tần chớp chớp cặp mắt long lanh nước, nghi hoặc nhìn cô, “Lẽ nào... có máy móc gì đó kéo dài thời gian? Sau khi đại nương đi khỏi, mới từ từ khởi động?”

    “Không phải, bấy giờ trên đài chỉ có một tấm màn lụa, một chiếc áo gấm, làm sao đặt loại máy đó được, mà cũng chẳng cần phiền phức như thế. Thứ được họ dùng lúc đó, chính công tử còn giúp một tay phi tang đấy.”

    Chu Tử Tần há hốc miệng: “Thật... thật à? Không thể nào, ta có giúp họ lúc nào đâu... Ta đâu có tiếp xúc nhiều với Công Tôn đại nương, cũng chẳng làm gì cả!”

    “Từ đầu chí cuối công tử sơ sót không nghĩ đến đấy thôi.” Nói rồi, Hoàng Tử Hà rút ra một túi mạch nha nhỏ, giơ lên cho mọi người xem. “Theo ta biết, Ân tứ nương mắc chứng thiếu máu, nên thường đem theo một túi kẹo. Tứ nương không dùng loại kẹo cứng như kẹo gừng hay kẹo tuyết mà dùng loại mạch nha dẻo.”

    Lúc này Ân Lộ Y buộc lòng phải lên tiếng ngắt lời cô, giọng nói đầy sợ sệt, song vẫn ngầm giấu vẻ đanh thép: “Ta thích ăn mạch nha, lẽ nào... cũng là sai ư?”

    “Dĩ nhiên là không, có người thích kẹo cứng thì cũng có kẻ thích kẹo dẻo. Nhưng ta chưa thấy ai mua cả phên mạch nha như tứ nương cả.” Hoàng Tử Hà lần lượt chia mạch nha cho mọi người ở đó, rồi tiếp tục giải thích, “Huống hồ, sau khi mua cả phên mạch nha về, tứ nương không cắt ra, mà chỉ véo từng mẩu để nặn các con giống, đó cũng là ý thích của tứ nương, người khác không tiện bình luận. Nhưng ta có một việc muốn hỏi, tờ giấy hồ chủ tiệm dùng để bọc cả hai mặt trên dưới của phên mạch nha đề phòng mạch nha chảy hoặc dính vào nhau, giờ đâu rồi?”

    Những miếng mạch nha trong tay mọi người đều được lót giấy hồ, loại giấy này rất mỏng, xé nhẹ là rách, vốn dùng hồ quấy thành, là thứ giấy không thể thiếu để gói mạch nha.

    Công Tôn Diên và Ân Lộ Y giờ mới tái mặt, đôi mắt kiên quyết trong veo của Công Tôn Diên cũng lóe lên.

    Hoàng Tử Hà rời mắt khỏi bà ta, nói tiếp: “Lồng nhốt bướm đã chuẩn bị sẵn, sau khi mở ra cho bướm vào thì phết giấy hồ lên, đặt sau màn. Lúc đại nương cởi đồ, chỉ cần dấp chút nước bọt bôi lên, giấy hồ gặp nước sẽ rã ra, cuối cùng thành một lỗ hổng đủ cho bướm bay lọt. Bầy bướm bên trong sẽ bay ra lần lượt từng con một, bất kể đại nương có ở đó hay không thì lỗ thủng trên mặt giấy cũng sẽ từ từ lan rộng ra, đám bướm cũng sẽ càng lúc càng bay ra nhanh hơn...”

    Nói tới đây, cô giơ tay trỏ khoảng cách từ nhà thủy tạ đến bến thuyền hỏi: “Khoảng thời gian từ khi cánh hoa bắt đầu rơi xuống, đến khi bầy bướm bay ra hết, có đủ để đại nương đi về và giết người không?”

    Tất cả mọi người ở đó đều sững sờ kinh ngạc trước phương pháp không sao tưởng tượng nổi và cách nắm bắt thời gian chuẩn xác đến từng khắc ấy, nhất thời cả nhà thủy tạ lặng phắc, không một ai lên tiếng.

    Rốt cuộc Công Tôn Diên thong thả cất tiếng, giọng điệu vẫn bình thản ung dung: “Dương công công bày ra cho tôi bấy nhiêu phương pháp phức tạp như thế, không thể nói là không xảo diệu, cũng không thể chê là không dốc lòng. Chỉ là tôi thật không ngờ, có mỗi việc tứ muội ta thiếu máu phải ăn mạch nha, công công cũng suy luận xa như thế; bộ vũ y của tôi hơi dày, cũng thành công cụ gây án; thậm chí tôi tuổi tác đã lớn, giữa màn phải nghỉ một lát, cũng bị cho là thừa cơ lẻn đi giết người...”

    Nói đến đây, khóe môi Công Tôn Diên cong lên, quyến rũ bội phần: “Vậy xin hỏi công công, có chứng cứ gì không? Tôi có thời gian trống, tức là tôi giết người à? Không có động cơ không có hung khí, chỉ bằng vào lời nói của công công mà chứng minh được tôi giết người ư?”


    “Thứ nhất, trong tất cả mọi người ở đây hôm ấy, chỉ mình đại nương có thời gian gây án.” Hoàng Tử Hà chẳng buồn đếm xỉa đến nụ cười giễu cợt của Công Tôn Diên, còn lạnh lùng bình tĩnh hơn cả bà ta: “Thứ hai, dĩ nhiên ta đã tìm thấy hung khí, hơn nữa hung khí càng khẳng định đại nương là hung thủ.”

    Chu Tử Tần không dằn lòng được hỏi ngay: “Nhưng các bổ khoái ở nha môn đã lùng sục tìm kiếm mà có thấy gì đâu? Rốt cuộc hung khí bị giấu ở đâu vậy?”

    “Điểm này vẫn phải nhờ công tử hỗ trợ.” Nói rồi cô ghé tai hắn thì thào mấy câu, Chu tử Tần lập tức đứng bật dậy vỗ trán kêu lên: “Sao ta không nghĩ ra nhỉ? Đúng là đồ ngốc!” Đoạn gã quay mình vụt chạy đi, nhìn hướng thì là chạy về nha môn.

    Chu Tường ngượng ngập cáo lỗi với Lý Thư Bạch: “Thằng nghịch tử ấy chẳng ấy có phép tắc gì cả, chạy đi cũng không cáo từ một câu...”

    Lý Thư Bạch đặt ly trà xuống mỉm cười đáp: “Bản vương thích nhất tính khí hồn nhiên vô tư, không câu nệ phép tắc của Tử Tần đấy.”

    Chu Tường lộ vẻ kinh hãi, ấp a ấp úng mãi chỉ nói được mấy câu đâu dám, đâu dám.

    Phạm Ứng Tích đưa mắt nhìn sang con trai, tuy ngoài mặt thản nhiên, nhưng rõ ràng ông ta đã hơi quay nghiêng mặt đi nửa tấc, để hình ảnh đứa con lọt khỏi mắt mình.

    Lát sau Chu Tử Tần quay lại, dắt theo một con chó cỏ gầy nhom xấu xí, tay còn ôm một bộ đồ, chính là bộ Phạm Nguyên Long mặc hôm ấy, về sau bị vấy máu, lại lấm vết rượu, họ Phạm đã cởi ra vứt đi, ai ngờ nha môn còn giữ lại.

    Chu Tử Tần ngồi xuống, gí vết máu khô trên áo vào mũi con chó, xoa đầu nó bảo: “Phú Quý ngửi đi, rồi tìm thử xem! Tìm được sẽ cho mày ăn sườn.”

    Con chó khịt khịt mũi đánh hơi, song không hiểu Chu Tử Tần nói gì, còn tưởng gã định cho nó ăn, bèn há miệng ngoạm ngay miếng vải nhay nhay.

    “Đồ ngu ngốc này...” Chu Tử Tần giật phắt tấm áo lại, tức tối nhìn hai vết răng to tướng trên đó.

    “Công tử để tôi.” Hoàng Tử Hà ngán ngẩm bước đến, cầm sợi dây buộc chó từ tay gã, xoa đầu Phú Quý rồi dắt nó đi dọc theo bụi cỏ, về phía đặt bức màn lụa khi trước.

    Đi đến một chỗ, cô chợt dừng bước, Phú Quý quẩn quanh chân cô mấy vòng, thấy cô vẫn đứng yên thì cắm mặt xuống đất đánh hơi, cào chỗ này ủi chỗ kia, cuối cùng phấn khởi nhằm vào kẽ hở giữa hai phiến đá sủa ầm lên.

    Hoàng Tử Hà ghì chặt nó rồi quay lại bảo: “Bẩy tảng đá này lên đi.”

    Chu Tử Tần ngớ ra: “Sùng Cổ nghĩ gì lạ thế? Phiến đá nặng thế, hung thủ giết người xong lấy đâu ra thời gian vần nó lên để giấu hung khí xuống? Huống hồ hung thủ cũng chẳng có sức làm thế.”


    Hoàng Tử Hà lắc đầu: “Hung thủ đâu phải ở dưới phiến đá.”

    “Thế thì bẩy nó lên làm gì?”

    “Nếu không bẩy nó lên thì không tìm được chỗ giấu hung khí đâu.”

    Nghe vậy, Chu Tử Tần nhanh nhảu gọi ngay hai bổ khoái đem xẻng và xà beng đến, đoạn ngồi thụp xuống săm soi hai phiến đá, hỏi Hoàng Tử Hà: “Bẩy phiến nào lên?”

    “Tuỳ, chọn phiến nhỏ hơn ấy.”

    “Tuỳ à...” Khoé môi Chu Tử Tần rần rật, song cũng trỏ bên nhỏ hơn, ra hiệu cho hai bổ khoái ra tay.

    Bên này bẩy, bên kia mọi người ngồi xem.

    Công Tôn Diên và Ân Lộ Y mặt tái xanh, ngồi bất động tại chỗ. Trái lại, không khí đằng Lý Thư Bạch khá vui vẻ, Phạm Ứng Tích đang kéo cả Mộc Thiện đại sư đến trò chuyện cùng Quỳ vương. Lần trước đến chùa Quảng Độ, Lý Thư Bạch đã cải trang, nên coi như đây mới là lần đầu gặp Mộc Thiện đại sư. Mặc cho Phạm Ứng Tích ca tụng Mộc Thiện đại se lên chín tầng mây, y chỉ thản nhiên nói lúc ở kinh từng nghe tiếng Mộc Thiện đại sư, hôm nay vốn không cần mời đại sư tới, nhưng nghe nói sớm mai đại sư lại lên đường vân du, sợ không kịp gặp mặt, nên mới vin vào mối giao hảo giữa đại sư và Tề phán quan, mạo muội mời tới, quả là pháp tướng trang nghiêm, không giống người thường.

    Phạm Ứng Tích và Mộc Thiện đại sư mừng khôn xiết, bấy giờ mới buông được tảng đá lớn vẫn đè nặng trong lòng xuống, đôi bên trò chuyện vui vẻ hết sức.

    Chu Tường thì hỏi han Vương Uẩn về mấy người quen cũ trong kinh, rồi lan man hỏi sang cả chú, bác, anh em họ hàng của y, tổng cộng đến mười mấy người, đủ để giết thời gian một hai canh giờ.

    Phạm Nguyên Long đến bên cạnh Chu Tử Tần, vừa xem bẩy đá, vừa than vãn với họ Chu, nếu hai mỹ nhân kia là hung thủ thì thực đáng tiếc, giá nào cũng phải tìm cơ hội chiếm đoạt trong nhà lao rồi tính - bèn bị Chu Tử Tần trừng mắt lườm cho phải chạy về chỗ. Tuy Chu Tử Tần đem lòng ngưỡng mộ giai nhân, song rất khinh bỉ hạng háo sắc như Phạm Nguyên Long. Huống hồ cùng xuất thân nhà quan, tính quen lêu lổng, nhưng Chu Tử Tần chỉ mê mẩn thi thể, khác hẳn Phạm Nguyên Long, nên chẳng buồn đếm xỉa đến hắn.

    Bẩy phiến đá nhỏ quả nhiên đỡ tốn sức hơn nhiều, chẳng mấy chốc họ đã nạy được nó lên, để lộ ra một vết lõm, chỉ thấy vết bùn đất từ kẽ đá rơi ra.

    Chu Tử Tần gọi Hoàng Tử Hà lại, trỏ nền đất hỏi: “Có cần đào xuống không?”

    “Khỏi cần.” Nói rồi cô mượn Chu Tử Tần đôi găng tay, ngồi xuống lần tìm lớp đất quanh phiến đá, quả nhiên rút ra được một vật, bèn lau vào chiếc áo của Phạm Nguyên Long vứt cạnh đó.

    Lớp đất bên ngoài được lau đi, Chu Tử Tần buột miệng kêu lên: “Hung khí đây rồi!” Rộng một tấc, dài bốn tấc, nhìn như một lá sắt dài, song phần lưỡi lại mảnh như giấy, đủ nhét vừa khe hở giữa hai phiến đá. Lá sắt này sắc bén vô cùng, lấp loáng sáng lên dưới đèn, khiến người ta trông mà loá mắt, đúng là thép rèn trăm bận, lưỡi lạnh như sương, nhìn mà lạnh cả gáy.

    Hoàng Tử Hà bèn ướm thử vào vết máu trên áo Phạm Nguyên Long, quả nhiên trùng khớp.

    Cô bèn cầm lấy nó bằng bàn tay đeo găng, trình lên cho mọi người xem: “Năm xưa Thái Tông hoàng đế từng ban cho Võ tài nhân ba vũ khí để thuần phục con Sư Tử Thông là roi sắt, búa sắt và đoản kiếm. Thanh đoản kiếm nọ vốn là vật tuỳ thân của Thái Tông, bấy giờ hải ngoại tiến cống sắt tốt, đúc thành hai mươi tư thanh, thanh này là tốt nhất nên được Thái Tông chọn mang bên người. Tương truyền sắt của hải ngoại không bao giờ han gỉ, dù trải trăm năm vẫn sắc bén như ban đầu, không thể nhìn gần.”

    Đợi mọi người xem xong, cô mới đặt nó xuống chiếc bàn trong nhà thuỷ tạ, thản nhiên đáp: “Về sau, vào năm Khai Nguyên, thanh đoản kiếm này trở thành vật tuỳ thân của Công Tôn đại nương. Bấy giờ mỗi khi biểu diễn, Công Tôn đại nương đều cầm hai thanh kiếm một dài một ngắn, trường kiếm là Thừa Ảnh, nay đã thất lạc, còn đoản kiếm chính là thanh này. Về Thừa Ảnh cũng có một truyền thuyết, chẳng rõ mọi người có nhớ không?”

    Nói đến đây, cô nhìn sang Lý Thư Bạch. Quỳ vương học rộng nhớ lâu, sách vở đọc qua là nhớ như in, bèn tiếp lời: “Trong Liệt Tử Thang Vấn có nói, Khổng Chu có ba thanh kiếm, một là Hàm Quang, nhìn mà không thể thấy, dùng mà không biết có. Chạm vào vật không để lại dấu vết, đâm xuyên người người chẳng hay. Hai là Thừa Ảnh, mỗi khi tờ mờ sáng hay chạng vạng tối, quay về hướng Bắc mà nhìn thì chỉ thấy bóng mờ như khói, không biết được hình dạng. Chạm vào vật thành tiếng khe khẽ, đâm xuyên vật vật cũng không đau. Nhưng sau đó có lời đồn, Hàm Quang nằm bên trong Thừa Ảnh, là thanh kiếm vô hình vô ảnh, Thừa Ảnh chỉ là bao kiếm thôi.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu: “Thế nên nô tài đã suy nghĩ rất lâu. Một cô nương như Công Tôn đại nương đi lại trên giang hồ, hiểm nguy trùng trùng, lẽ nào chỉ đem theo một thanh kiếm gỗ? Hơn nữa sau khi điệu múa kết thúc, vì Phạm thiếu gia chỉ trích, Vương đô uý đã ngửi thử chuôi kiếm gỗ, nói rằng có mùi đất.”

    Thấy cô nhìn sang, Vương Uẩn tựa vào lưng ghế, mỉm cười với cô rồi gật đầu: “Quả là có chuyện này.”

    “Tôi cũng đã kiểm tra chuôi kiếm, thấy ở phần đốc kiếm gắn với thân kiếm có dính ít bùn đất. Nếu như lời Công Tôn đại nương nói, chỉ đặt kiếm xuống đất cho rảnh tay, thì bùn đất sẽ chỉ dính vào mặt bên của chuôi kiếm thôi, sao lại dính vào thân kiếm được? Huống hồ sàn vũ đài bấy giờ rất sạch, đến cuối cùng đại nương còn nằm dài ra sàn, vậy mà quần áo vẫn sạch sẽ, sao chuôi kiếm lại dính đất?” Nói rồi Hoàng Tử Hà lại cầm lưỡi kiếm sáng loáng lên, chúc mũi kiếm xuống, rồi trỏ vào mặt cắt của lưỡi: “Mời các vị xem, lưỡi kiếm có rãnh ở đây, lại có lỗ nhỏ thế này, tôi nghĩ, hẳn thanh kiếm này cũng giống chiếc trâm của tôi đây.”

    Đoạn cô đưa tay lên đầu, ấn vào hoa văn cỏ lá cuốn, rồi rút cây trâm ngọc nhỏ hơn bên trong ra, chỉ để lại cây trâm bạc bên ngoài gài trên búi tóc, sau khi cho mọi người xem lại cắm về chỗ cũ, cầm thanh kiếm gỗ của Công Tôn đại nương quan sát một lát, rồi ấn vào một mảng hoa văn có vẻ bóng hơn, quả nhiên, cạch một tiếng, thân kiếm và chuôi kiếm đã rời ra, đúng là bên trong không đặc mà vẫn chừa ra một khe hẹp. Chuôi kiếm lại có mấu, Hoàng Tử Hà đặt lưỡi kiếm trong tay nằm ngay ngắn vào đúng mấu, rồi xoay thân và chuôi kiếm, cuối cùng lắp lại được.

    Sắc mặt Công Tôn đại nương xám ngoét như tro. Công Tôn đại nương dựa vào Ân Lộ Y, mềm nhũn người ra, cả hai phải từ từ ngả người dựa vào lan can. Môi bà ta mấp máy, song không thốt nổi lời nào.

    “Chẳng hay... trước đây đại nương đã giết người bao giờ chưa? Ta thấy đại nương rất can đảm, cũng rất thông minh đấy. Chọn thời điểm nhốn nháo nhất, đồng thời cũng an toàn nhất, khéo léo lợi dụng vũ đạo, chuẩn bị đầy đủ dụng cụ gây án. Đương nhiên, tứ nương sở trường ảo thuật có thể sắp xếp mọi việc thay đại nương. Nhưng trước bấy nhiêu con mắt ở đó, biết rõ chỉ cần một người ngoái lại là sẽ lộ tẩy, vậy mà đại nương vẫn chấp nhận đánh cược một phen. Huống hồ đại nương ra tay vừa chuẩn vừa hiểm, thời gian gấp gáp như thế mà có thể một kiếm đâm trúng tim Tề phán quan, không để nạn nhân la lên nửa tiếng, cũng không bị kẹt lưỡi kiếm vào xương sườn. Thậm chí, lúc đâm kiếm vào, đại nương còn xoay kiếm xoáy sâu vào tim, khiến Tề phán quan không kịp phản ứng đã chết ngay. Đến nỗi Chu tiểu thư ngồi trong màn lụa bên cạnh cũng không nghe thấy động tĩnh gì.” Giọng Hoàng Tử Hà bình thản chậm rãi, không bộc lộ mảy may cảm xúc, thậm chí có phần lạnh lùng, “Tất nhiên, đại nương cũng rất may mắn. Lúc mở màn, Tề phán quan vốn ngồi phía trên, đại nương không có cơ hội tiếp cận, nhưng bấy giờ đại nương lại nói, điệu múa này có thể cùng thưởng thức với người trong lòng. Tề phán quan muốn lấy lòng Chu tiểu thư, bèn bê ghế chạy đến ngồi tít phía dưới, cạnh Chu tiểu thư. Khi đại nương giết người, Phạm thiếu gia lại đang nôn mửa, mùi rượu nồng nặc theo gió đưa đến, át hết mùi máu tanh, khiến Chu tiểu thư phải bịt mũi quay đi, vừa khéo không trông thấy đại nương.”

    Công Tôn Diên đứng dưới đèn, như một nhánh lan hắt hiu trước gió, mảnh mai mà quạnh quẽ vô cùng.

    “Sau khi giết người, đáng lẽ đại nương phải lắp ngay lưỡi kiếm vào chuôi, nhưng muốn lắp lại cũng mất chút thời gian, chứ không dễ như tháo ra, hơn nữa trong bóng tối muốn tìm đúng chỗ mà lắp vào thật không dễ, lỡ sơ sảy lại lộ ra là trong thanh kiếm gỗ có máu, nên đại nương đành vứt bỏ lưỡi kiếm. Nhưng nếu cứ thế cắm vào khe giữa hai phiến đá, hẳn sẽ có vết máu dính lên mặt đá hoặc thấm ra nền đất, ắt bị người ta phát hiện. Đúng lúc ấy Phạm thiếu gia nôn xong nằm lăn ra đó. Đại nương đã sẵn ghét Phạm thiếu gia buông tuồng cợt nhả, bèn lau sạch máu vào áo hắn, sau đó nhét lưỡi kiếm vào khe đó, cuối cùng cầm chuôi kiếm lên ráp vào thân gỗ, thế là kín như bưng, đúng không nào?”

    Ai nấy đều im phăng phắc. Công Tôn Diên cắn vào môi thật mạnh, ngăn đôi môi run bắn, thật lâu sau mới khó nhọc thốt lên bằng giọng khàn khàn: “Tề phán quan và ta không thù không oán... sao ta phải ra tay giết người?”

    “Không thù không oán ư?” Hoàng Tử Hà vừa nói vừa xếp tất cả đồ đạc của Công Tôn đại nương lại, rồi quay sang gật đầu ra hiệu cho Chu Tử Tần.

    Họ Chu hiểu ý, lập tức tới bên cạnh lấy ra vài thứ, đặt lên bàn.

    Thôi thì đủ thứ hỗn tạp.


    Nào là túi tiền màu lam thẫm; nào là một tờ thủ bút Chung Hội; một bức trang gảy đàn dưới gốc thông; một xấp những tờ thơ trăng gió đủ màu đủ kiểu...

    Trong ánh mắt ngạc nhiên của mọi người, Hoàng Tử Hà lần lượt bày từng thứ một ra: “Đây là những thứ ta tìm được ở nhà Tề phán quan có liên quan tới vụ án. Thứ nhất là xấp thơ này. Những tờ thơ này được gửi từ ngõ Ngô Đồng, gần như đều từ những cô nương phong trần, tên người nhận là Ôn Dương.”

    Phạm Nguyên Long lên tiếng đầu tiên: “Ôn Dương ư? Chẳng phải là kẻ tự vẫn cùng Phó Tân Nguyễn đấy ư? Thư từ của họ Ôn, sao lại ở nhà Tề phán quan?”

    “Đúng thế, hơn nữa khi chúng tôi tìm đến đường Ngô Đồng, gặp những người viết ra những bài thơ này, họ đều kể rằng có một vị khách tên Ôn Dương, dịu dàng tươi cười, ân cần chu đáo, lại giỏi làm thơ viết nhạc lả lơi. Dường như khác xa Ôn Dương lạnh lùng kia.”

    “Lẽ nào...” Mọi người không hẹn mà cùng nghĩ đến một khả năng, tức thì cả nhà thuỷ tạ im phăng phắc như tờ.

    “Đâu chỉ có vậy. Mời các vị xem, bức gảy đàn dưới gốc thông này, chất giấy, nét vẽ và ý cảnh hoàn toàn khác những bức hoạ ở nhà Tề phán quan. Mà theo chúng tôi được biết, trong thư phòng Ôn Dương vốn treo một bức tranh thế này, nhưng sau khi họ Ôn qua đời thì không thấy đâu nữa.”

    Đoạn cô lại lấy ra một bức khác: “Bức hồ điệp tú cầu này, chúng tôi lấy được từ thư phòng Ôn Dương. Người hầu nhà họ Ôn kể rằng, trước đây trong thư phòng Ôn Dương treo một bức tranh thông, chẳng hiểu đã thay sang bức này từ khi nào. Nhưng chúng ta tìm khắp nhà họ Ôn, không hề thấy bức tranh thông nọ.”

    “Nên thật ra, bên nhà Tề phán quan, vốn treo bức tranh tú cầu!” Chu Tử Tần gật đầu tiếp: “Từ chuyện đó, chúng tôi đã khẳng định hai bức tranh trong nhà họ Tề và họ Ôn bị tráo đổi!”

    Chu Tường liền hỏi: “Tráo đổi hai bức tranh để làm gì vậy?”

    “Vấn đề thật ra chỉ nằm trong một bức hoạ thôi.” Nói rồi, Hoàng Tử Hà rút bức thư của Phó Tân Nguyễn tìm được tại nhà họ Ôn ra, đọc cho mọi người nghe.

    “... Mưa dầm nhiều ngày, nước ngập phố xá, không thể lặn lội. Nghĩ đến hoa quế trước sân, chỉ còn đôi ba phần, thương tiếc hương ấy nên gom lại, chưng nước quế hoa cho chàng.


    Đất Thục nắng ít mây nhiều. Hôm nay mở hộp phấn chàng tặng khi trước, hương thơm thoang thoảng, màu sắc tươi đẹp, chẳng khác bức tranh bướm vờn tú cầu trước án thư của chàng...”

    Đọc tới đó, cô đặt bức thư xuống than thở: “Kẻ qua lại với Phó Tân Nguyễn, thường ngày rất cẩn thận, mỗi khi lui tới đường hoa ngõ liễu, đều mạo xưng là người khác. Phó Tân Nguyễn cũng bị hắn gạt, luôn miệng gọi hắn là 'Ôn lang', lúc viết thư kể cho các chị em nghe, cũng chỉ nhắc tới 'Ôn Dương', nên tên 'Ôn Dương' giả mạo này, phải ra sức giấu giếm hành tung của mình, không bao giờ để lại một câu nửa chữ ở kỹ viện, cũng rất hiếm khi thư từ với Phó Tân Nguyễn, bức này có thể là một trong số ít thư từ giữa đôi bên. Bèn bị hắn đem ra làm chứng cứ, để ở chỗ Ôn Dương, nhằm chứng thực quan hệ giữa Phó Tân Nguyễn và Ôn Dương, đồng thời đánh lạc hướng điều tra, khiến chúng ta cho rằng bọn họ trúng độc chết là tự tử vì tình.”

    Phạm Nguyên Long nhổm dậy lắp bắp hỏi: “Công công... Ý công công là, Ôn Dương này không phải Ôn Dương thật à... Không, phải nói là Ôn Dương thật không phải Ôn Dương trong bức thư này?”

    Tuy Phạm Nguyên Long nói năng lộn xộn, nhưng mọi người ở đó đều hiểu, nhất tề ngẩn cả ra.

    Hoàng Tử Hà gật đầu: “Đúng thế, 'Ôn Dương' trong thư, cả 'Ôn Dương' mà Phó Tân Nguyễn gặp, đều không phải Ôn Dương, Ôn Tịnh Tế thật sự. Nhưng có một người, tên của hắn và Ôn Dương ghép lại thành một cặp đối, nên thường lấy cái tên giả này để lui tới chốn gió trăng. Tất cả những kẻ viết thư cho hắn đều gọi hắn là 'Ôn Dương', không một ai hay, tên thật của hắn là Tề Đằng, Tề Hàm Việt, ngoại hiệu Hàn Nguyệt công tử.”

    Nhớ đến Tề Đằng ôn hoà ung dung, mọi người thật không sao tưởng tượng nổi dáng điệu buông tuồng lơi lả của hắn lúc chơi bời phóng đãng. Phạm Nguyên Long lại hỏi: “Nếu theo lời công công nói, Tề Đằng ngang nhiên mạo danh Ôn Dương đi tìm kỹ nữ, lẽ nào không sợ có ngày bị người khác phát hiện, hoặc chạm mặt Ôn Dương thật ư?”

    Hoàng Tử Hà lắc đầu: “Không, Tề phán quan có một kế sách vẹn toàn. Thật ra hắn mạo danh Ôn Dương, không chỉ vì tên họ hai người vô tình tạo thành một cặp đối, cũng không chỉ vì họ đều mất hết cha mẹ và goá vợ, mà bởi họ Tề nắm chắc, mình sẽ không thể chạm mặt Ôn Dương ở kỹ viện được.”

    Chu Tử Tần thì thào: “Nhưng người hầu nhà họ Ôn kể rằng Ôn Dương thỉnh thoảng cũng đi tìm hoa hỏi liễu mà...”

    “Chỗ Ôn Dương đến, không giống chỗ Tề phán quan đến.” Hoàng Tử Hà rút trong xấp thơ ra một tờ giấy màu lam có hoa văn kỷ hà, “Đây là tờ đặc biệt nhất trong đống này, bởi nó được gửi tới từ một nam kỹ viện, nơi những người chuộng kỹ nam lui tới.”

    Mọi người lúc này mới vỡ lẽ, song đều cảm thấy chuyện này không thể nói ra miệng, đành giương mắt nhìn nhau nín lặng.

    “Thế nên Ôn Dương không thể tự tử vì tình cùng Phó Tân Nguyễn được, vì họ Ôn không thích nữ nhân. Sau khi vợ qua đời, Ôn Dương cũng chẳng muốn cưới vợ mới, thường nhân lúc đêm tối lẻn tới kỹ viện nam, gần sáng lại lẳng lặng quay về. Người như thế sao có thể khăng khít yêu đương Phó Tân Nguyễn suốt mấy năm, còn tặng cả hoa quế, phấn son, ân cần chu đáo đến mức Phó nương tử được muôn vàn người ngưỡng mộ phải xiêu lòng?” Hoàng Tử Hà bình tĩnh phân tích từng điểm một, hồ như cô thật sự là một hoạn quan chẳng dính dáng gì tới chuyện này, “Tề phán quan cũng biết, Ôn Dương từng dùng một tờ thủ bút giả của Chung Hội, hòng lấy lòng... một nam tử khác. Kẻ khác có lẽ sẽ không để ý tới, nhưng hạng người thường xuyên lui tới làng chơi như họ Tề, thoạt nhìn là nhận ra ngay. Từ đó, chẳng những Tề phán quan thả sức mạo danh Ôn Dương đi chơi bời, mà khi muốn rũ bỏ Phó Tân Nguyễn, hắn bèn lôi luôn Ôn Dương thật vào làm kẻ thế thân, thay mình kết thúc mối tình ấy. Đương nhiên, họ Tề cũng phải phi tang tất cả các vật chứng có thể tiết lộ bí mật ở chỗ Ôn Dương, kể cả bức thủ bút giả của Chung Hội, cùng bài thơ tình kỹ nam gửi Ôn Dương. Đồng thời hắn còn tìm trăm phương nghìn kế đánh tráo bức hoạ, hòng khiến người khác tin rằng, Ôn Dương quả thật rất thắm thiết với Phó Tân Nguyễn.

    Chu Tường nghe nói không khỏi đau lòng than: “Thay mận đổi đào, giấu trời qua biển, tên Tề phán quan này đúng là lòng dạ hiểm độc! May mà...”

    May mà tiểu thư của Chu quận thú chưa gả cho hạng người này. Mọi người thầm nghĩ. Song nghĩ lại thì Tề Đằng qua lại với Phó Tân Nguyễn đã mấy năm, ân tình thắm thiết, lần này họ Tề nhẫn tâm hạ sát Phó Tân Nguyễn, há chẳng phải vì muốn vin cành cao phủ quận thú, cưới thiên kim nhà quận thú ư?

    “Song nếu dùng bức thư của Phó Tân Nguyễn gửi làm vật chứng, lại có một điểm sơ hở, chính là bức tranh 'bướm vờn tú cầu' nhắc tới trong thư. Bởi vậy Tề Đằng, chủ nhân thật sự của bức tranh, phải nghĩ cách đem bức tranh này tới nhà Ôn Dương, mượn cớ bạn bè cùng thi xã tới viếng Ôn Dương chẳng hạn. Người nhà họ Ôn lại mù chữ, đương nhiên chẳng hiểu gì về hội hoạ, thế nên khi tôi hỏi, họ còn chẳng biết bức tranh này có từ lúc nào nữa. Sau khi đánh tráo hai bức tranh, Tề Đằng mới phát hiện bộ tứ hoạ trong thư phòng mình giờ lại thiếu mất một, thật không cân đối, vừa may bức tranh gảy đàn dưới thông kích thước cũng tương tự, lại cùng chủ đề cây cỏ, bèn treo tạm lên. Ai ngờ, cho tới lúc chết, họ Tề cũng chưa kịp mua bức mới, vô tình để lại dấu vết.” Nói đoạn, Hoàng Tử Hà lại đặt hai xấp kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật lên bàn. “Để nguỵ tạo chứng cứ về mối quan hệ giữa Ôn Dương và Phó Tân Nguyễn, Tề Đằng còn bày ra nhiều trò. Ví dụ lén đánh cắp một phần thủ bút của Ôn Dương, giấu ở nhà Phó Tân Nguyễn, như dăm bức thư trao đổi thường ngày. Nhưng lúc lấy cắp có lẽ quá hoảng hốt, nên cũng cầm nhầm cả những thứ không nên lấy. Ví như nửa bộ kinh Kim Cương bên trái đây, là chúng tôi tìm được ở nhà Ôn Dương, còn nửa bộ bên phải là tìm được ở nhà Phó Tân Nguyễn. Tề Đằng làm thế hẳn là muốn chứng minh hai người họ qua lại trao đổi với nhau thường xuyên. Tiếc rằng họ Tề không biết, Ôn Dương chép bộ kinh Kim Cương này nhằm mục đích khác.”

    Mọi người còn đang xem xét bộ kinh Kim Cương thì Mộc Thiện đại sư đã lên tiếng: “Mấy trang kinh này, để lề rất rộng, có phần giống cách đóng kiểu bướm thịnh hành gần đây.”

    “Đúng thế. Ôn Dương xưa nay rất tự hào về thư pháp bản thân, chép bộ kinh này hẳn là muốn đóng thành sách đem tặng, sao lại chia ra một nửa đưa cho người khác? Rõ là bất thường.”

    Chu Tử Tần nhìn Công Tôn Diên và Ân Lộ Y, đang định sai người bắt lại thì sực nhớ ra một chuyện: “Ta còn một điểm thắc mắc, mong Sùng Cổ giải thích cho.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu vớ gã.

    “Có khả năng kẻ khác mạo danh Ôn Dương, giết Phó Tân Nguyễn rồi cố ý đổ vạ cho Tề phán quan không?”

    “Nếu vậy thì giải thích thế nào về bức tranh tú cầu Phó Tân Nguyễn nhắc đến trong thư, và câu 'chưng nước quế hoa cho chàng'? Công tử có nhớ trước sảnh đường nhà họ Tề trồng một gốc quế chăng?” Hoàng Tử Hà im lặng giây lát, cuối cùng vẫn nói, “Trước đây khi người của phủ tiết độ được mời tới tiệm cầm đồ chọn hàng, từng có một chiếc vòng ngọc chạm đôi cá, chưa kịp ghi vào sổ đã được tiệm tặng cho ai đó. Bấy giờ Tề Đằng mới nhậm chức phán quan chưa lâu, nhất định cũng tới. Những kẻ dưới quyền họ Tề sao dám vòi chủ tiệm cái vòng ấy ngay trước mặt quan trên, còn nghênh ngang cầm đi? Nên tôi cho rằng, người lấy chiếc vòng ấy, nhất định là Tề phán quan.”

    Nhắc tới chiếc vòng, cô lại thấy tim mình đau thắt như bị dao cùn cắt xẻ, cơn đau từ từ lan ra khắp người. Bất giác, cô đưa mắt nhìn Vũ Tuyên ngồi tít sau đám đông, thấy hắn cũng đang nhìn về phía mình, ánh mắt thoáng vẻ gì đó, xa xăm u ám.

    Cô chậm rãi quay đi, rồi giơ túi tiền màu lam thẫm trên bàn lên nói: “Đây chính là chứng cứ xác thực nhất, chứng minh Tề Đằng là tình nhân của Phó Tân Nguyễn.”

    Túi tiền cũ kỹ, trông chẳng có gì đặc biệt, kém xa những tranh vẽ, tờ thơ tinh xảo đẹp đẽ kia.

    “Chúng tôi tìm được cái túi này trong sọt giấy vụn ở thư phòng Tề Đằng, bên trong không có gì cả.” Nói rồi, cô giơ cái túi lên ra hiệu cho một kẻ đứng cuối đám đông: “Thang Thăng, ngươi có nhớ lúc gặp Thang Châu Nương ở ngõ Song Hỉ, bà ta đã rút túi tiền từ trong tay nải ra không?”

    Thang Thăng nãy giờ vẫn đứng tít phía dưới, vì cao lêu đêu, mặt mũi thô lậu nên chẳng ai để ý tới. Lúc này Hoàng Tử Hà lại đột ngột hỏi đến, khiến mọi người đổ dồn mắt nhìn sang, làm hắn cuống cả lên: “Ơ? Túi... túi tiền ư?”

    Hoàng Tử Hà gật đầu: “Hôm đó ngươi khai rằng bà cô vốn định móc hầu bao ra cho tiền ngươi, nhưng nghĩ thế nào lại cất trở vào, đúng không?”

    “Vâng vâng, bà ấy mới móc ra nửa chừng thì lại nhét vào, còn bảo cái gì mà: 'Để đem về Hán Châu đánh cho vợ chưa cưới của cháu đôi trâm bạc', kết quả đi giữa đường bị ngã xuống núi chết, cũng chẳng còn trâm vòng gì sất!” Thang Thăng hậm hực kể, lại nhìn kỹ chiếc túi trong tay cô, ngạc nhiên thốt lên: “Ơ, công công... cái túi trong tay công công... hình như chính là của cô tôi!”


    Hoàng Tử Hà hỏi lại: “Ngươi có chắc không? Không nhìn lầm đấy chứ?”

    “Không lầm đâu, chắc chắn đấy! Bấy giờ tôi còn tưởng bà ấy cho mình thứ quý hoá nên cứ nhìn chằm chằm vào nó, tôi nhớ rõ mà!”

    “Tốt lắm, chúng ta có thể khẳng định cái túi tìm được trong sọt giấy vụn ở nhà Tề phán quan, chính là túi tiền của Thang Châu Nương, đã biến mất sau khi bà ta rơi xuống núi.” Đoạn Hoàng Tử Hà nhìn sang Công Tôn Diên, “Sau khi Phó nương tử qua đời, Công Tôn đại nương có thể dấm dúi tiền cho Thang Châu Nương, nhờ bà ta lấy trong hộp trang sức của họ Phó một chiếc vòng thì Tề phán quan cũng có thể sai Thang Châu Nương bỏ vài thứ vào nhà họ Phó trước khi quan phủ niêm phong nhà, ví như những thư từ Tề Đằng lấy được từ chỗ Ôn Dương vậy. Đồng thời, Thang Châu Nương là người hầu cận duy nhất của Phó Tân Nguyễn, dẫu Phó nương tử cả ngày đóng cửa ở nhà, dẫu Tề phán quan thận trọng kín kẽ đến đâu chăng nữa, cũng không qua mặt bà ta được. Bởi vậy, muốn giấu giếm hành tung, nguỵ tạo thành vụ án tự vẫn vì tình hòng che tai mắt người khác, Tề Đằng phải mua chuộc Thang Châu Nương trước nhất. Thang Châu Nương sau khi nhận tiền của Tề phán quan, liền gói ghém hành lý về quê sống, nhưng Tề phán quan đương nhiên muốn nhổ cỏ tận gốc, bèn rình lúc bà ta đang trên đường về quê, xô xuống vực!”

    Phạm Nguyên Long và Tề Đằng thường ngày khá thân thiết, trước sự thật rành rành không thể chối cãi, vẫn cố chen vào một câu: “Dương công công, có khi nào... Thang Châu Nương sẩy chân ngã không? Hay gặp phải kẻ cướp chẳng hạn?”

    “Nếu sẩy chân ngã thì tại sao túi tiền của bà ta lại ở trong sọt giấy vụn nhà họ Tề? Nếu gặp cướp, sao tay nải vẫn còn nguyên vẹn, chỉ thiếu túi tiền? Huống hồ Phạm thiếu gia đừng quên, lúc ấy quân Tây Xuyên đang phong toả núi tìm kiếm Quỳ vương gia, cấm ngựa xe ra vào. Cũng chính hôm ấy, áng chừng vào lúc Thang Châu Nương ngã xuống núi thì Trương nhị ca, thị vệ bên cạnh Quỳ vương bị một kẻ cưỡi ngựa xô xuống vách núi. Bấy giờ quân Tây Xuyên vào núi tìm kiếm đa phần đều phải đi bộ, kẻ có thể cưỡi ngựa ra vào núi, hẳn phải là quan trên, mà có lẽ phán quan phủ tiết độ Tây Xuyên là một trong số đó.”

    Tiết độ sứ sa sầm mặt, vội quay sang nhận tội với Quỳ vương, rồi chắp tay xá Trương Hàng Anh đứng phía sau.

    Trương Hàng Anh vội đáp lễ, không dám nhận.

    “Tôi cứ nghĩ mãi không hiểu sao hung thủ sau khi sát hại Thang Châu Nương, lại phải lấy túi tiền đi? Về sau nhớ tới lời khai của Thang Thăng, mới vỡ lẽ.” Hoàng Tử Hà lại hỏi Thang Thăng, “Bấy giờ Thang Châu Nương nhét túi tiền vào tay nải, nói rằng 'Để ta đem về Hán Châu, đánh cho vợ chưa cưới của cháu một đôi trâm bạc nhé', đúng không nào?”

    Thang Thăng gật đầu: “Không sai một chữ!”

    “‘Đem’ về Hán Châu, 'đánh' đôi trâm bạc. Tề phán quan cho Thang Châu Nương bạc, chứ không phải tiền.” Hoàng Tử Hà trỏ chiếc túi, “Cái túi bé thế này, không nhét nổi nửa quan tiền, nhưng nếu là bạc thì có thể đựng một hai đĩnh. Tề phán quan mua chuộc Thang Châu Nương, ắt phải tốn kém kha khá. Thường ngày Tề phán quan lo liệu các việc lớn bé trong phủ tiết độ, đương nhiên có thể tiếp xúc với bạc trong kho, dấm dúi đem cho Thang Châu Nương mấy quan tiền cũng bất tiện, họ Tề bèn cho luôn bà ta bạc. Nhưng mỗi đĩnh bạc đều khắc rõ nguồn gốc xuất xứ, nếu không lấy lại, để người ta phát hiện trong người Thang Châu Nương có bạc đóng dấu phủ tiết độ, không chừng lại thành gậy ông đập lưng ông, nên Tề phán quan phải thu về cho bằng được, không thể để nó lọt ra ngoài.”

    Thấy chứng cứ rành rành trước mắt, việc Tề Đằng gây án đã không thể phản bác, Phạm Ứng Tích thở hắt ra giận dữ mắng: “Đáng chết! Đáng giận! Ta nuôi hạng lòng lang dạ sói này trong phủ bấy nhiêu năm, thực không ngờ hắn lại thâm độc âm hiểm đến thế, đã giết người vu vạ không buồn chớp mắt, còn điềm nhiên nhổ cỏ tận gốc!”


    Chu Tử Tần nhìn sang bức màn lụa có em gái ngồi trong, thở dài lẩm bẩm: “May mà Tử Yên chưa gả cho hắn.”

    Mọi người nhao nhao chửi rủa họ Tề, rồi mừng thay cho Chu quận thú, quên bẵng Công Tôn Diên và Ân Lộ Y. Hoàng Tử Hà quay sang, thấy cả hai mặt mày nhợt nhạt, cắt không ra máu, nhưng sau vẻ kinh hoàng vẫn thấp thoáng nét đắc ý, không khỏi than thầm rồi nói: “Công Tôn đại nương, khi mở tủ quần áo của Phó nương tử, ta đã cảm thấy cô ấy không thể tự vẫn được. Trong tủ có rất nhiều quần áo màu sắc tươi sáng, vậy mà lúc chết, cô ấy lại mặc chiếc áo xám cũ kỹ... Bấy giờ ta nghĩ bất luận là ai, đã quyết cùng tình nhân bước lên con đường không thể quay đầu, hẳn đều phải trang điểm cho mình xinh đẹp nhất rồi mới uống thuốc độc, đâu có lẽ lại qua quýt xuề xoà như thế.”

    “Đúng vậy... A Nguyễn thường ngày thích nhất là phục sức hoa lệ lộng lẫy.” Công Tôn Diên chậm rãi lên tiếng, giọng khản đặc nghẹn ngào, thân hình gầy yếu run lên, chẳng thấy đâu vẻ thướt tha thoát tục hằng ngày nữa. Bà ta ôm ngực, khó nhọc hít thở, cuối cùng vẫn gắng gượng thốt ra những điều ấp ủ trong lòng: “A Nguyễn... tính khí như trẻ con vậy, chẳng biết đề phòng hay kiêng nể gì cả... Muội ấy thẳng thừng cự tuyệt một chỗ tử tế hơn ngàn vạn lần, khước từ hết thảy vinh hoa phú quý trong tầm tay, chỉ vì một kẻ chúng tôi chưa từng biết mặt, ngay cả muội ấy cũng mới gặp vài lần là Ôn Dương... không, là Tề Đằng. A Nguyễn ngây ngô cứ ngỡ hắn là tơ duyên vấn vít, ngàn dặm không lìa, có ngờ đâu kẻ ấy lại là con rắn độc trên tay, thường ngày mềm dẻo, quấn chặt lấy mình, đợi khi sơ hở, sẽ nhe nanh độc ra...”

    Hoàng Tử Hà lặng lẽ nhìn Công Tôn Diên, không đáp. Chu Tử Tần không dằn lòng được lại hỏi: “Dường như đại nương chỉ gặp mặt Tề Đằng mỗi một lần, sao đã nhận ra chân tướng để lên kế hoạch trả thù?”

    “A Nguyễn từng kể trong thư rằng, mu bàn tay trái của Ôn Dương có 6 nốt mụn cơm, rất khó coi... Tôi bèn mách cho cách vắt cỏ nhọ nồi lấy nước xát lên, làm mấy lần là khỏi, nhưng cỏ nhọ nồi dính vào da sẽ để lại vệt đen, phải vài bữa mới phai.” Công Tôn Diên dựa vào lan can, hít một hơi thật sâu, tuy giọng nói vẫn nghẹn ngào, thân hình chưa thôi run rẩy, song rốt cuộc cũng bình tĩnh lại một chút, “Lúc ở nghĩa trang, tôi đã thấy vết đen trên đầu ngón tay A Nguyễn, nhưng khi đọc lén biên bản nghiệm thi, lại không thấy đề cập đến nốt mụn cơm trên tay Ôn Dương. Về sau đến nha môn hỏi han tiến triển vụ án, tôi tình cờ phát hiện trên mu bàn tay của Tề phán quan, kẻ sắp cưới thiên kim tiểu thư nhà Chu quận thú, có sáu vết sẹo nhỏ, trông như vết mụn cơm vừa khỏi. Tôi âm thầm dò hỏi gia thế Tề Đằng, thấy giống hệt những gì A Nguyễn kể trong thư, hơn nữa, chúng tôi cũng là người lưu lạc phong trần, thừa biết có rất nhiều kẻ lấy tên giả đi tìm hoa hỏi liễu, bèn kiếm cớ hỏi thẳng họ Tề...”

    Kể đến đây, Công Tôn Diên không ngăn nổi cơn thịnh nộ, lồng ngực phập phồng dữ dội, hồi lâu mới nén giận nghiến răng tiếp: “Chẳng những hắn thừa nhận, còn chế nhạo A Nguyễn ngu xuẩn, hắn ở ngoài quen biết với mười mấy người nữa mà A Nguyễn chẳng hề hay biết, cứ ngỡ hắn đã thề không chơi bời gió trăng gió nữa, nên không có chút nghi ngờ...”

    Công Tôn Diên xúc động gục đầu vào cột, nước mắt lã chã: “Tiểu muội A Nguyễn mười hai tuổi đã lừng danh thiên hạ, tài soạn nhạc soạn vở không ai bì kịp, đến các nhạc sư già ở giáo phường Trường An cũng phải đến thỉnh giáo, còn phải gọi một tiếng 'Lục cô nương' mới mời mọc được! Người thông minh như thế, sao có thể không nhận ra Tề Đằng có chuyện giấu giếm? Chẳng qua A Nguyễn vẫn nhẫn nhịn bấy lâu, lý do thì ai cũng hiểu cả, vậy mà tên khốn đó lại dám chê muội ấy ngu xuẩn... Thật đáng băm vằm thành trăm mảnh...”

    Ân Lộ Y ôm lấy tay Công Tôn Diên, áp mặt vào vai bà ta, lặng lẽ nhắm nghiền mắt lại, nước mắt loang ra thấm đẫm một mảng áo Công Tôn.

    Hoàng Tử Hà khẽ nói: “Tôi hiểu tâm trạng các vị, nhưng dù sao cũng không thể giết người báo thù như thế, quan phủ sẽ giúp các vị rửa sạch oan khuất mà...”

    “Hừ, Tề Đằng là người của quan phủ, dù các ngươi điều tra ra sự thật, lẽ nào lại nghiêm trị hắn ư?” Công Tôn Diên hất cằm, mặt tái mét, song vẫn quật cường tiếp, “Giết người đền mạng, thiếu nợ trả tiền, đó là đạo lý! A Nguyễn bị hắn giết, kẻ là chị như ta phải tìm hắn tính sổ! Dẫu có phải đền mạng cho hắn, ta cũng chẳng nề hà, Công Tôn Diên này sống trên đời bấy nhiêu năm chưa từng hổ thẹn với lòng, chết không hối hận!”

    Hoàng Tử Hà lặng thinh lùi lại sau lưng Lý Thư Bạch, thì thào: “Tôi chỉ vạch rõ sự tình, còn những việc khác, thật không thể can thiệp được!”
     
  9. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 21 - Sen hồng lóa mắt
    Chân tướng đã lộ, song mọi người vẫn im phăng phắc.

    Chu Tường là quận thú, đành hắng giọng lên tiếng: “Công Tôn Diên tuy đã giết Tề phán quan, nhưng... Tề phán quan tay vấy máu ba người, thậm chí để đổ vạ cho kẻ khác, dám xuống tay giết cả người đã đổ tú tài* như Ôn Dương, thật không thể tha thứ được.”

    * Thời xưa người thi đỗ tú tài trở lên đã coi như là có công danh địa vị, Nên Vũ Tuyên đỗ cử nhân bèn được quận Thục cấp nhà.

    Ông ta đang mừng thầm vì con gái chưa gả cho hạng lang sói này, nên có phần đồng tình với Công Tôn Diên.

    Vương Uẩn biết Công Tôn Diên là chị em với Vương hoàng hậu, cũng cười nói: “Công Tôn đại nương cũng coi như báo thù cho tiểu muội, nhiệt tình hào sảng như thế, quả có mấy phần phong thái của hiệp khách ngày xưa.”

    Thấy hai người nói đỡ cho họ Công Tôn, Phạm Ứng Tích giận dữ: “Từ xưa tới nay, đúng là giết người phải đền mạng, nhưng muốn đền mạng cũng phải do quan phủ đứng ra, nếu kẻ nào âm thầm giết người báo thù riêng thì luật pháp để làm gì, quan uy có còn nữa hay không?”

    Thấy họ Phạm ăn nói hùng hồn đanh thép, câu nào cũng nhắc đến luật pháp, đến triều đình, mọi người ở đó cứng họng, đành nghe ông ta khảng khái nói tiếp: “Huống hồ Tề Đằng là phán quan trong phủ ta, bị bỏ mạng ngay trước mặt bấy nhiêu người, há chẳng phải là không coi quân Tây Xuyên vào đâu ư?”

    Dẫu biết Phạm Ứng Tích giận dữ như vậy, quá nửa là vì Công Tôn Diên đã lau lưỡi kiếm vào áo Phạm Nguyên Long, giá họa cho hắn, nhưng vừa nhắc đến quân Tây Xuyên, mọi người đều nín lặng.

    Lý Thư Bạch chỉ làm thinh không nói, cúi xuống ngắm ly trà trong tay.

    Thấy tất cả im phăng phắc đợi mình định đoạt, Lý Thư Bạch mới đặt ly trà xuống bàn, hờ hững nói: “Theo lời Phạm tiết độ, vụ này quả là liên can rất rộng, phải đợi nha môn phủ Thành Đô sơ thẩm xong mới định đoạt được. Bản vương tuy kiêm Đại Lý Tự khanh, san sẻ ưu tư cho thánh thượng, song không thông thạo các sự vụ ở địa phương, không tiện nhúng tay vào.”

    Thấy y nói kín kẽ như thế, mọi người đành cúi đầu khen phải.

    Công Tôn Diên và Ân Lộ Y tạm thời bị dẫn vào nhà lao giam lại. Chu Tử Tần chu đáo dặn người chọn cho họ một phòng giam sạch sẽ, lại sai cất tất cả vật chứng vào kho niêm phong.

    “Hôm nay Sùng Cổ suy luận phá án thật chặt chẽ sắc sảo. Nhanh như vậy đã phán được vụ kỳ án này, đủ thấy tài trí thần diệu phi thường.” Đêm đã khuya song Lý Thư Bạch vẫn ngồi yên chưa đứng dậy, lặng lẽ quay sang hỏi Hoàng Tử Hà, “Không biết tiếp theo còn tiết mục gì hay không?”

    Chu Tường nhăn mặt. Sắp đến canh ba, đèn lồng đã phải thay nến một lượt, hai vụ án rối rắm phức tạp cũng đã phá xong, sao Quỳ vương vẫn chưa chịu đi nghỉ, còn muốn xem trò nữa?

    “Việc này... xin gia đợi cho một lát, ty chức sẽ lập tức cho truyền ca kỹ tới ca hát giúp vui...”

    Lý Thư Bạch giơ tay lên ngăn Chu Tường, đứng dậy nói: “Từ khi đến Thành Đô, bản vương đã quấy rầy Phạm tiết độ và Chu quận thú nhiều rồi. Hôm nay Chu quận thú chưa kịp chuẩn bị, chi bằng để bản vương thay các vị sắp xếp một màn, mời các vị rời gót tới thưởng thức.”

    Mọi người hết sức ngạc nhiên, không ngờ Quỳ vương lại chuẩn bị một tiết mục, mời Chu quận thú và Phạm tiết độ xem. Nhưng khi đến nơi biểu diễn, mọi người còn kinh ngạc hơn, bởi địa điểm chính là khu nhà phía Tây, nơi ở của Chu Tử Tần.

    Lý Thư Bạch dẫn mọi người thả bộ đến nhà Tây, ngoái lại quan sát những kẻ theo sau.

    Phạm Ứng Tích nhìn quanh một lượt, đánh giá khu vườn nhỏ; Chu Tường lộ vẻ nghi hoặc; Mộc Thiện đại sư ủ rũ song vẫn gượng cười; Vương Uẩn kéo một nhánh dây leo mới nhú ngắm nghía; Vũ Tuyên trở về chốn cũ, trầm lặng mà bình thản.

    Hoàng Tử Hà đi cuối cùng, thong thả bước vào vườn, nhìn những phiến lá sen sáng lên lờ mờ trong bóng tối. Các thị nữ giơ cao nến đỏ, thắp sáng chùm nến ngàn nhánh trong góc, chiếu sáng cả sảnh đường. Lý Thư Bạch ngồi xuống, ngước nhìn Chu Tử Tần, họ Chu vội gật đầu, tuy chưa hiểu rõ đầu đuôi, song vẫn thưa: “Đã chuẩn bị xong cả rồi.”

    Chỉ thấy hai ngọn đèn treo lơ lửng ngoài hành lang trên hồ sen bị gỡ xuống, chùm nến ngàn nhánh cũng được dời ra hành lang, đằng trước đặt một bình phong lụa.

    Theo lệnh Quỳ vương, mọi người lần lượt ngồi xuống ghế được đám người hầu bày ra, hướng về phía bình phong. Đang lúc ngơ ngác chưa hiểu chuyện gì thì một nghệ nhân già ngồi xuống bên cạnh bình phong, tay cầm cái trống nhỏ gõ thùng thùng hai tiếng. Dưới ánh nến sáng choang, lão giở cuốn sách trong tay ra, bắt đầu cao giọng hát:

    “Chuyện cũ Trường An luống ngổn ngang

    Hôm nay rảnh rỗi kể rõ ràng

    Có phường Hưng Đức thành Tây ấy

    Án lạ khó lòng tỏ ngay gian.”


    Vừa hát, ông ta vừa phô bày hình ảnh các phường ở Trường An lên tấm bình phong lụa trắng, rồi nháy mắt đã lật sang hoa đỏ liễu xanh, cầu nhỏ cửa con, một toán người ngựa lộp cộp phi qua cầu, đến trước một gian nhà.

    Bấy giờ mọi người mới nhận ra đây là một nghệ nhân rối bóng, đang diễn vở cho họ xem.

    Phạm Ứng Tích và Chu Tường không ngờ Quỳ vương lại thích món này, nửa đêm còn mời họ tới xem, bất giác phì cười, rồi chợt nghĩ bên trong biết đâu còn dụng ý khác, lại định thần chăm chú xem.

    Cửa mở ra, đám sai nha xuống ngựa ùa vào. Lại chuyển sang cảnh trong nhà, bóng một người phụ nữ lủng lẳng trên xà ngang.

    “Rằng phường Hưng Đức có nàng dâu

    Nghỉ quẩn lo quanh tự tủi sầu

    Tiếng lại lời qua thành cãi cọ

    Ma xui quỷ khiến mạng còn đâu

    Một dây treo cổ âu đành phận

    Ngàn dặm âm tào dứt buồn đau

    Ngỗ tác sai nha cùng nghiệm xác

    Rành rành chứng cứ án quyết mau.”


    Một viên quan mặc áo đỏ ung dung bước vào phòng ngồi xuống. Theo sau là một bé gái chừng mười một mượi hai tuổi, vận áo thêu hoa, búi tóc hai bên, đáng yêu hết sức.

    Giọng ông lão đã già, lại nhại tiếng đứa trẻ, mà vẫn toát lên vẻ ngây thơ: “Cha, cha, chờ con với.”


    Viên quan áo đỏ ngoái lại nhìn rồi phẩy tay áo: “Con bé này, đến đây làm gì? Cha là thị lang bộ Hình, phải đến nghe thẩm vấn rồi kết án!”

    Xem đến đây, Vũ Tuyên chợt “à” lên khe khẽ.

    Vương Uẩn liếc hắn, bấy giờ mới vỡ lẽ, gõ nhẹ vào trán: “Thì ra... là vụ án ấy.”

    Nghệ nhân rối bóng lật sang trang, miệng lẩm nhẩm đọc lên. Cô bé trong tay cũng đi một vòng trên bình phong:

    “Cha ơi,

    Đọc sách thêu thùa con chẳng ham

    Chỉ mong phá giải những hàm oan

    Nhìn thông sinh tử cùng manh mối

    Đen trắng âm dương nhận rõ ràng!”


    “Haha con bé này ăn to nói lớn quá nhỉ!” Theo tiếng trống, vị quan phất phất tay áo liền ba lần, “Đi, đi, đi! Đi chơi với bọn trẻ con ngoài đường kia kìa! Đợi cha kết án xong, sẽ đưa con về nhà!”

    Ông lão hết sức tài tình, chỉ chớp mắt đã thấy thêm mấy người kéo đến xem náo nhiệt, mỗi người một giọng khác nhau, xôn xao xúm lại.

    Một thương nhân tay ôm cuốn lụa bô bô:

    “Không ngại nói cho các vị hay,

    Lúc xưa áo cưới cô nàng may,

    Chẳng mua vải tiệm ta cho đúng,

    Màu áo không tươi, rõ chẳng may!”


    Chủ tiệm trang sức cầm một chuỗi nữ trang hỏi khổ chủ:

    “Này huynh đệ,

    Chiều qua vợ cậu ghé đằng ta

    Trâm bạc cô nàng chọn một đôi

    Chưa kịp lấy thì đà tự vẫn

    Cậu còn muốn lấy nữa hay thôi?”


    Thầy bói tay cầm lá phướn vuốt chòm râu dê nhận xét:

    “Thiên cơ không thể tiết lộ a!

    Năm nay nhà ấy lão tính ra,

    Đủ cả việc mừng lẫn tang ma,

    Không biết mà tìm đến lão sớm,

    Quả nhiên họa lớn ập vào nhà...”


    Bấy giờ, ngay cả đám người Chu Tử Tần cũng nhận ra, lão nghệ nhân đang diễn vở rối bóng về vụ án đầu tiên Hoàng Tử Hà phá được năm mười hai tuổi.


    Quả nhiên, đợi đám người xốn xáo lui xuống, viên quan áo đỏ cầm bút nói: “Xem ra vụ này đã kết thúc, hẳn là tự vẫn không còn nghi ngờ gì nữa!”

    Chưa nói dứt câu, cô bé áo hoa lại chạy ra gọi: “Cha, từ từ đã!”

    Viên quan khựng lại, quay sang nhìn con: “Con gái ngoan đói rồi ư?”

    “Thưa, chưa.”

    “Hay là khát nước?”

    “Cũng không ạ.”

    “Muốn về nhà à?”

    “Không ạ.”

    “Bực quá đi mất, mau ra ngoài chơi cho khuất, đừng ở đây vướng cha kết án theo luật!”

    “Cha à, cô nương ấy không phải tự tử, mà bị người ta giết rồi ngụy trang thành tự tử đó!”

    Viên quan run bắn lên: “Con gái! Tuổi mới chừng ấy, sao dám nói bậy? Vụ này điều tra vòng vèo phức tạp, đứa bé như con, há lại biết rõ sự thật?”

    “Cha ơi, cha ơi, chẳng lẽ cha chưa nghe người kia khai?” Cô bé trỏ sang bên cạnh, lập tức tay chủ tiệm trang sức ló ra, “Cha ơi, có lần chuyện vãn với đồng liêu ở nhà ta, cha từng nói người khi sắp chết, lòng lạnh như tro tàn. Vậy cha có thấy kẻ nào lòng đã như tro tàn mà trước khi tự vẫn còn đến tiệm trang sức đặt đánh trâm bạc hay không? Huống hồ chỉ mới chọn kiểu, chưa lấy về nữa chứ.”

    “Ối chà!” Viên quan áo đỏ giật bắn mình đầy khoa trương, lão nghệ nhân cũng cất cao giọng hát:

    “Một lời kịp nhắc nhở cha mình

    Sáng suốt giải ngay mối oan tình

    Đất Bắc trời Nam cùng nức tiếng

    Tử Hà nhà họ Hoàng thông minh.”


    Lão nghệ nhân xoay tay, thoắt cái bé gái đã trở thành thiếu nữ, băng qua trăm sông nghìn núi, đến phủ Thành Đô đầy phù dung và thục quỳ nở rộ.

    Câu chuyện khép lại trong lớp hoa tươi. Ông lão đặt con rối bóng trong tay xuống, đứng lên chắp tay hành lễ với mọi người: “Các vị, vở rối bóng này mấy năm trước khá phổ biến ở Trường An, nay vì rất nhiều nguyên do, đã thôi không diễn nữa. Được Chu bổ đầu mời tới, lão phải đọc vội vở rồi diễn lại, nếu có chỗ nào chưa toàn vẹn, xin các vị bỏ qua cho!”

    “Đâu có, lão diễn hay lắm!” Chu Tường cười khen.

    Ngọn nến chùm ngàn nhánh lại được khiêng vào phòng, giữa căn phòng sáng trưng, Lý Thư Bạch ngoái đầu lạnh lùng quan sát nét mặt mọi người. Vở rối được đích thân Quỳ vương chọn, ai dám bảo không hay, duy có Vũ Tuyên ngồi bất động trên ghế, thẫn thờ nhìn ra hành lang, giờ đã chẳng còn bình phong lụa, chỉ có bóng tối sâu hút mênh mang, khiến người ta sởn tóc gáy.

    Mặt hắn tái đến dị thường, thậm chí còn lờ mờ tím đen, rất đáng sợ, khiến khuôn mặt tuấn tú trở nên cứng đờ, vô hồn như tượng tạc.

    Mọi người đều nhận ra hắn có vẻ khang khác. Mộc Thiện đại sư ngồi gần nhất đứng dậy vỗ vai hắn gọi khẽ: “Vũ thí chủ, kịch hạ màn rồi, sao chưa tỉnh lại?”

    Vũ Tuyên ngơ ngác từ từ ngẩng lên, đang định nhìn Mộc Thiện đại sư thì nghe thấy Hoàng Tử Hà ngắt lời: “Đại sư, kịch còn chưa hết, sao đại sư không ngồi yên xem? Lại cản trở tiết mục vương gia đang muốn thưởng thức?”

    Mộc Thiện đại sư giật thót, nhận ra dụng ý của mình đã bị cô phát hiện, bèn lẩm bẩm niệm Phật rồi lui ra.

    Lý Thư Bạch gật đầu ra hiệu cho Hoàng Tử Hà.

    Cô nhìn Vũ Tuyên ngồi dưới ngọn đèn sáng rực, ánh đèn vàng ấm áp như vàng lỏng chảy tràn trên gương mặt tuấn tú tái nhợt, đẹp đẽ đến quái dị.

    Cùng lúc ấy, cơn đau không sao tả xiết cũng ập tới, khiến cô gần như nghẹt thở. Nỗi đau đớn pha lẫn kinh sợ, hoang mang, oán hận và thất vọng, thiêu đốt lồng ngực, tưởng chừng cô không còn sức mà lên tiếng nữa.

    Nhưng cuối cùng cô vẫn lên tiếng, dùng hết sức lực, mở miệng cất lời.

    Thật lạ, sau khi lên tiếng, dường như có một dòng sông ngân cuồn cuộn từ trong tim cô tuôn ra, lạnh lẽo chảy qua cổ họng, cơn đau thiêu đốt lồng ngực cũng tan biết, thay vào đó là cảm giác phấn khởi lạ thường, một nguồn năng lượng như mầm non giấu mình trong đất suốt cả mùa đông đằng đẵng cuối cùng cũng nhú lên, khiến cô bất chấp tất cả, thẳng thắn nhìn vào sự thật đãm máu phơi bày trước mặt, giống như nhìn thẳng vào vầng mặt trời chính ngọ, chẳng quản mù mắt.

    “Các vị, đó là vụ án đầu tiên Hoàng Tử Hà phá được. Một vụ án khép lại, một kẻ phạm tội bị trừng phạt, nhưng một câu chuyện mới lại khởi đầu.” Giọng cô hơi nghèn nghẹn, song hết sức bình thản, điềm tĩnh đến mức gần như lạnh lùng, “Nếu không phải Quỳ vương năm xưa từng đọc qua hồ sơ, kể cho ta nghe những chuyện về sau, hẳn ta không thể biết được, thì ra người chồng nhất thời nổi giận thắt cổ vợ đến chết nọ từ nhỏ đã mồ côi cha, bên dưới còn một em trai. Người mẹ không nơi nương tựa, ngày ngày lưng cõng con nhỏ, tay dắt con lớn, dệt vải đem bán, mới ba mươi mấy tuổi đã võ vàng gầy quắt, tóc bạc đầy đầu. Một quả phụ bìu ríu nuôi hai con trưởng thành, chẳng nói cũng biết đã phải nếm trải bao nhiêu cực khổ, đến năm con trai cả mười tám tuổi thì gặp vận. Con trưởng của bà ta rất mực thông minh, lăn lộn bán rong khắp phố lớn ngõ nhỏ cũng dành dụm được chút tiền, bèn mở quán rượu. Nhờ tài tháo vát, anh ta làm ăn phát đạt, chẳng mấy chốc đã phất lên, rồi mối mai tìm đến, lại cưới một cô vợ xinh đẹp. Cả nhà già trẻ cứ ngỡ thế là đến lúc khổ tận cam lai, đâu ngờ tai bay vạ gió lại ập đến, sau một trận cãi vã, anh con trai đã thắt cổ vợ đến chết, rồi ngụy trang thành tự vẫn, mọi chuyện bại lộ, bị xử trảm giữa phố. Chủ nợ lũ lượt kéo đến quán rượu đòi tiền, phải bán quán đi vẫn chưa trả hết nợ, đồ đạc trong nhà cũng bị vơ vét sạch. Quả phụ nọ vất vả nhẫn nhục mười mấy năm, mới được sung sướng mấy ngày thì trong một đêm con trai con dâu đều chết cả, không chịu đựng nổi, đúng hôm con trai bị xử trảm đã hóa điên...”

    Kể đến đây, dù đã cố kìm nén, nhưng cô vẫn không dằn lòng được, quay sang nhìn Vũ Tuyên.

    Thấy hắn đang run lên bần bật, huyệt thái dương của cô cũng nhói lên rần rật, như cảm nhận được nỗi tuyệt vọng chảy tràn trong huyết mạch ấy.

    Nhưng cuối cùng cô vẫn nghiến răng quay đi, tàn nhẫn kể tiếp: “Sau khi phát điên, một hôm, bà ta treo cổ lên xà nhà, đúng chỗ cô con dâu khi trước từng bị treo lên. Đứa con trai út bấy giờ mới mười bốn tuổi, sáng sớm trở dậy, thấy xác mẹ đã lủng lẳng trên xà nhà. Chẳng biết là sợ quá hay tại sao, nó bèn đỡ thi thể mẹ xuống, ngồi bên trông giữ suốt ba ngày ba đêm, không nói không rằng. Nếu không phải là hàng xóm thấy lạ, phá cửa xông vào, có lẽ nó đã lặng lẽ chết đi bên cạnh bà mẹ rồi.”

    Mộc Thiện đại sư khẽ niệm “A di đà Phật” rồi lặng lẽ đứng dậy, như không đành lòng nghe tiếp, muốn bỏ đi.

    Nào ngờ Chư Tử Tần ngồi phía trước giơ tay ngăn lại: “Đại sư, đã đến đây thì, xin ở lại nghe xong hẵng đi?”

    Mộc Thiện đại sư bất đắc dĩ đành cụp mắt ngồi xuống.

    Hoàng Tử Hà chẳng buồn để tâm đến mọi chuyện bên dưới, vẫn chậm rãi kể bằng giọng gần như tàn khốc: “Láng giềng khiêng thằng bé đã mê man đến tiệm thuốc, rồi chung tay chôn mẹ nó bên cạnh đứa con lớn. Cuối cùng, thầy thuốc cũng cứu được mạng thằng bé, nhưng lúc trước nó đã hấp hối, nên sau khi tỉnh lại cứ ngơ ngẩn bần thần, như mất trí, rồi một hôm nó trốn khỏi tiệm thuốc, đi đâu không biết. Có lẽ đã trở thành một trong ngàn vạn kẻ ăn mày lê la khắp đầu đường xó chợ.”

    Kể đến đây, cô ngừng lại thật lâu mới tiếp: “Đây là tất cả những gì ghi lại trong hồ sơ lưu ở Đại Lý Tự mà Quỳ vương gia đọc được. Nhưng, gần đây sau khi đến Thành Đô, gặp mấy vụ án khác, tôi tình cờ chắp ghép được đoạn sau của câu chuyện này.”

    Cả phòng im phăng phắc, Phạm Ứng Tích và Chu Tường tuy vẫn chưa rõ tại sao cô lại nhắc tới vụ án nhiều năm trước, nhưng thấy Lý Thư Bạch vẫn ngồi yên trên ghế, chăm chú lắng nghe, cả hai cũng chẳng dám động cựa, đành ngoan ngoãn ngồi hai bên họ Lý, nghe thật kỹ.

    “Những điều tôi nói sau đây đều là suy đoán, không có chứng cứ xác thực, nên các vị cứ nghe cho vui vậy thôi.” Tuy Hoàng Tử Hà nói là “suy đoán” và “chỉ nghe cho vui”, song nhìn nét mặt cô, mọi người đều hiểu những gì cô sắp nói có liên quan rất rộng, quan trọng vô cùng. Thế nên, ai nấy đều nín thở ngồi nghe, chẳng dám thở mạnh.

    “Đứa con út nọ, trong nạn đói mấy năm trước, có lẽ đã theo dân đói lưu lạc đến phía Nam. Bấy giờ rất nhiều người lưu lạc ở phủ Thành Đô. Thời gian thấm thoắt, nó cũng dần tỉnh táo lại, nhưng lưu lạc tha phương, bơ vơ trôi dạt, chẳng còn cách nào trở về Trường An, đành ở lại Thành Đô lần hồi đầu đường xó chợ ăn xin qua ngày. Song nó thông tuệ hơn người, dốc lòng cầu học, lúc ở nhà đã học vỡ lòng, bèn đến trường tư nhặt mấy cuốn sách cũ người ta vứt đi, rồi ngồi nép dưới gõ tường nghe lén thầy giáo giảng bài, chẳng bao lâu đã vượt cả đám học trò được học hành tử tế, khiến các thầy giáo tấm tắc khen ngợi không thôi, còn được xưng tụng là thần đồng, đến nỗi...” Kể đến đây, giọng cô không kìm được run lên, “Ngay Hoàng sứ quân vừa nhậm chức quận thú Xuyên Thục cũng nghe danh, sau khi tìm gặp hỏi han, kinh ngạc trước tài năng lỗi lạc, bèn nhận làm con nuôi, đưa về phủ.”

    Nghe tới đó, Chu Tường và Phạm Ứng Tích đều hít sâu một hơi. Trương Hành Anh vẫn đứng thẳng tắp sau lưng Lý Thư Bạch như một cây thương, lúc này không kìm được buột lòng “ồ” lên khe khẽ.

    Song Lý Thư Bạch chỉ lặng lẽ ngồi nghe, mắt nhìn chăm chăm vào bóng sen ngoài cửa sổ.

    Vương Uẩn đã buông quạt xuống từ lâu, đăm đăm nhìn Hoàng Tử Hà đến quên cả chớp mắt.

    Chỉ riêng Vũ Tuyên vẫn ngồi yên tại chỗ, bất động. Ánh nến bập bùng hắt lên mặt hắn khi tỏ khi mờ, khiến nét mặt trở nên âm u vô hạn, cũng đáng sợ vô cùng.

    “Một kẻ mồ côi, được quận thú dốc lòng nuôi dạy, từ đó cuộc đời cũng thay đổi hoàn toàn. Vào Hoàng phủ, được thầy giáo giỏi nhất hết lòng chỉ dạy, chẳng bao lâu đã trở thành tài tử lừng danh quận Thục, được người người ngưỡng mộ; lại thêm tính tình hiền hoà chu đáo, luôn chăm sóc cho con gái Hoàng quận thú, khiến cô ta đem lòng si mê quên hết mọi thứ; ba năm sau thì thi đỗ cử nhân, gió xuân đắc ý, rộng bước đường mây. Kẻ đó biết, mình không cần lợi dụng kẻ thù nữa, bèn dọn ra khỏi phủ quận thú, rồi tặng cho Hoàng Tử Hà một chiếc vòng ngọc chạm đôi cá.”


    Nghe nhắc đến vòng, Chu Tử Tần thoáng ngây ra rồi chạy sang phòng bên lấy vòng đặt xuống bàn, không quên dặn: “Cẩn thận, bên trên có thể có độc đấy.”

    “Một chiếc vòng chứa kịch độc.” Hoàng Tử Hà không mảy may sợ hãi, thản nhiên cầm nó bằng tay không, rồi chìa ra cho mọi người xem. Chiếc vòng lấp lánh trong suốt, ngàn vạn tia sáng rọi vào theo những lỗ rỗng trên vòng, rồi lại từ lỗ rỗng phản xạ ra, tạo thành một vầng hào quang lung linh mỹ lệ, đẹp không tả xiết.

    Cô hít sâu một hơi, trỏ vào tám chữ viết trên đó, “Vạn mộc chi trường, hà phương vi hà. Chiếc vòng này được thiết kế dựa theo đường vân của miếng ngọc, hàng chữ này cũng do kẻ nọ chính tay khắc lên, có thể nói là độc nhất vô nhị, thiên hạ vô song. Sau khi Hoàng Tử Hà bỏ trốn, chúng tôi tìm thấy nó ở nhà Phó Tân Nguyễn. Chu bổ đầu kiểm nghiệm phát hiện, chất độc mà Phó Tân Nguyễn và Ôn Dương dùng khi tự vẫn, không phải tỳ sương như ngỗ tác báo cáo ban đầu, mà là trẩm độc cực kỳ hiếm gặp, từ trong cung truyền ra.”

    Lần này, chẳng những Chu Tường và Phạm Ứng Tích buột miệng “à” lên khe khẽ, mà đến Vương Uẩn cũng tái mặt, nhíu mày.

    “Nhờ vậy, tôi nghĩ tới một chuyện. Phó Tân Nguyễn trước khi qua đời, thường đeo chiếc vòng này. Mà khi cả nhà Hoàng quận thú gặp nạn, Hoàng Tử Hà cũng đeo chiếc vòng Vũ Tuyên tặng, không rời một khắc. Nạn nhân trong cả hai vụ án, đều có triệu chứng trúng độc tỳ sương. Hai vụ này, liệu có liên quan gì tới nhau không?” Cô thong thả đặt chiếc vòng xuống, dịu giọng kể: “Chu bổ đầu sinh lòng nghi ngờ, bèn đi đào mộ cả nhà Hoàng quận thú lên, cắt tóc của ba người đem về kiểm nghiệm, quả nhiên, họ đều chết vì trẩm độc!”

    Ánh mắt cô xuyên qua đám đông sững sờ, nhìn xoáy vào Vũ Tuyên, kể rành rọt từng câu: “Người nhà Hoàng quận thú và Phó Tân Nguyễn thuộc hai loại người hoàn toàn khác nhau, chẳng có liên quan gì, vậy mà lại cùng bỏ mạng bởi một loại độc hiếm thấy. Bởi thế, rất có khả năng trẩm độc đến từ chiếc vòng này, điểm chung duy nhất giữa hai vụ án. Mà nó lại do Vũ Tuyên, con nuôi Hoàng quận thú chính tay vẽ mẫu, giao cho thợ khéo làm, rồi tặng cho Hoàng Tử Hà.”

    Thân hình Vũ Tuyên run lên bần bật, rồi bất giác co rúm lại, hắn giơ tay day mạnh vào huyệt thái dương, gắng hết sức giữ tư thế ngồi nhưng vô ích. Gân xanh gồ lên trên huyệt thái dương và mu bàn tay Vũ Tuyên, hắn cắn thật mạnh vào môi đến tái ngắt, song vẫn không kìm nổi tiếng rên rỉ.

    Hoàng Tử Hà lặng lẽ nhìn hắn quằn quại đau đớn như sắp hấp hối, gắng hít thở thật sâu, hòng tiết hết căm hận và đau đớn kìm nén trong lòng bấy lâu ra ngoài qua hơi thở run rẩy, bằng không, e rằng ý thức của cô sẽ bị những thứ đó xâu xé.

    Hoang mang rối loạn âm thầm cuộn lên.

    Chu Tử Tần đột ngột lên tiếng, phá tan bầu không khí ngột ngạt: “Sùng Cổ, ta có điều này không hiểu. Có lần công công cầm chiếc vòng đó, rồi lại cho Phú Quý liếm tay, ta cũng từng kiểm nghiệm trong ngoài cái vòng, khẳng định nó không có độc. Huống hồ chuyện Vũ Tuyên tặng vòng cho Hoàng Tử Hà, Tề Đằng tặng cho Phó Tân Nguyễn, đều là trước khi xảy ra chuyện cả mấy tháng. Nếu chiếc vòng này bị hạ độc, chẳng lẽ chất độc trên đó lúc có lúc không ư? Hay là có thể điều chỉnh thời gian hạ độc?”

    “Đúng thế, độc trên vòng này đúng là có thể điều chỉnh, chỉ cần một động tác nhỏ thôi.” Nói rồi Hoàng Tử Hà ung dung cầm chiếc vòng giơ lên trước mắt, ngắm nhìn hai con cá nhỏ, nhẹ giọng nói: “Chất ngọc không tốt, nên phải chạm rỗng để tăng độ trong trẻo. Trên cái vòng này có vô số lỗ hổng và nét khắc, không thể tra xét từng cái một được. Hung thủ chỉ cần giấu một giọt trẩm độc vào lỗ hổng trên vòng, đợi nó khô đi thì nhỏ sáp mỏng bọc ngoài là ổn. Nếu không có gì bất ngờ, có lẽ cả đời, giọt kịch độc ấy cũng sẽ ở bên bầu bạn với chủ nhân, không ai hay biết.”

    Đoạn cô cụp mi, rời mắt nhìn đi chỗ khác. Cái gai nhức nhối trong tim hơn nửa năm nay, khiến cô đau đớn như lóc da xẻ thịt, nhưng cũng giúp tâm trí cô càng lúc càng sáng suốt, thậm chí trở nên lạnh lẽo thê lương, mặc cho người cứng lại vì sợ hãi, cô vẫn đứng vững vàng, lưng thẳng tắp.


    “Nhà Hoàng quận thú xảy ra chuyện vào một hôm trời đổ tuyết, hoa mai nở rộ.”

    Sáng ấy Vũ Tuyên đến tìm, tặng cho cô một cành mai lục ngạc. Vào lúc cô tươi cười nhận lấy, hoặc cùng hắn ra vườn hái hoa mai, hoặc cũng có thể là khi cả hai ôm hoa nắm tay nhau quay về, hắn đã dùng móng tay hoặc cành hoa khảy nhẹ vào chiếc vòng của cô, làm lớp sáp bọc ngoài bong tróc, trẩm độc giấu bên trong lộ ra.

    Sau đó, Vũ Tuyên ra về, người nhà họ Hoàng quây quần bên bàn dùng bữa. Là cháu gái được chiều chuộng nhất trong dòng họ, cô thường múc canh ra các bát, rồi lần lượt bưng từng bát tới trước mặt mọi người.

    Nhưng hôm ấy, vì cô cãi lời gây rối, nên phải nghe lời mẹ dặn, xuống bếp bưng tô canh móng dê lên phòng ăn.

    Ra khỏi cửa nhà bếp, băng qua gốc tỳ bà trước sân, qua cánh cửa nhỏ đã nứt nẻ, trước mặt là hành lang dài lát đá xanh đã mòn vẹt, nhẵn bóng.

    Tô canh rất nặng, nếu đậy cả nắp lên thì không thể bưng nổi, cô bèn bỏ nắp ra.

    Nước canh nóng bốc khói nghi ngút giữa ngày đông, hơi nước đọng đầy chiếc vòng trên tay cô. Thỉnh thoảng nó lại va vào miệng tô, thành tiếng leng keng khe khẽ.

    Hơi nước đọng trên vòng nhỏ xuống, đem theo cả trẩm độc không ai cứu nổi, hoà vào tô canh.

    Như ý hắn, cô ân cần múc canh xin lỗi từng người, cũng chia trẩm độc tới từng người một.

    Điều duy nhất chưa được như ý hắn là, cô ấm ức trong lòng, lại không thích canh móng dê tanh, nên không ăn.

    Hắn biến cô thành lưỡi dao, mượn tay cô trả mối thù nhà tan cửa nát, cũng khiến cô rơi vào cảnh ngộ nhà tan cửa nát như hắn năm đó, phải một thân một mìn lưu lạc khắp nơi.

    Hoàng Tử Hà kể đến đây, cả phòng im phăng phắc, mọi ánh mắt đều đổ dồn vào Vũ Tuyên.

    Mồ hôi lạnh đã túa ra đầm đìa, ướt đẫm vạt áo hắn, vì day huyệt thái dương quá mạnh, mấy sợi tóc rối bù rủ xuống trán hắn cũng bết mồ hôi, dính vào gương mặt tái nhợt, càng làm nổi bật sắc mặt trắng bệch.

    Song Hoàng Tử Hà không hề nhìn hắn. Cô vẫn nhìn chằm chằm vào khoảng không, giọng nói nhẹ nhàng chậm rãi, song hết sức chắc chắn: “Trên vòng nhiều lỗ hổng như thế, để đề phòng bất trắc, sợ nhất thời không tìm được chỗ giấu chất độc, ngươi đã giấu làm nhiều chỗ. Hôm ấy, có lẽ ngươi đã nạy một hoặc hai chỗ ra, nhưng hẳn vẫn còn một hai chỗ khác. Sau khi Tề Đằng cứu sống ngươi, rất có thể đã nghe ngóng được chuyện này. Lúc quyết tâm diệt trừ Phó Tân Nguyễn để cưới Chu tiểu thư, hắn nhớ đến phương pháp này, bèn đòi tiệm cầm đồ chiếc vòng, rồi lừa Ôn Dương đến nhà họ Phó, nạy một mảng sáp ra, để Phó Tân Nguyễn chính tay nấu một nồi canh độc rồi chết oan. Còn ta, trong lúc dựng lại hiện trường, đã nạy nốt mảng sáp cuối cùng rồi.”

    Chu Tử Tần gật đầu, bấy giờ mới vỡ lẽ: “Đúng thật! Hèn chi bấy giờ ta thấy công công dùng móng tay nạy ra. Nếu không phải vừa rồi công công giải thích, ta còn không biết lúc ấy công công làm gì nữa!”

    Vũ Tuyên khó nhọc hít thở, nhìn trừng trừng Hoàng Tử Hà, rất lâu sau mới chậm rãi nặn ra mấy tiếng khàn đặc: “Không thể nào...”

    Hoàng Tử Hà hếch cằm, đợi hắn phân trần.

    Vũ Tuyên cắn môi, hỏi khẽ bằng giọng khàn khàn: “Nếu... Nếu tôi là kẻ giết người, vậy bức thư sám hối xuất hiện trong thư phòng tôi là sao đây?”

    Mọi người không hiểu thư sám hối hắn nhắc tới là gì, song thấy vẻ đau đớn và hoang mang của hắn, cũng cảm thấy có lẽ hắn không biết gì cả, bèn chụm đầu lại xì xào bàn tán.

    Lý Thư Bạch giơ tay ra hiệu cho tất cả im lặng rồi nói: “Ta nhớ nội dung bức thư ấy.”

    Đoạn y cầm giấy bút lên, viết lại bức thư đó, dùng đúng thể chữ khải trâm hoa của Vệ phu nhân.

    Mười mấy năm vui vầy, qua một đêm sóng gió bất ngờ, cả nhà chỉ còn một thân côi cút giữa đời, cũng chẳng muốn hai tay vấy máu sống nốt kiếp tàn. Yêu mà chẳng được, việc đời thường trái ý, muôn mối nghiệt duyên, vận mệnh hay đùa cợt. Kiếp sau chẳng biết, kiếp này đành thôi, hạ bút thành thư, cùng người từ biệt, trời xanh mưa gió, lìa bỏ thế gian.

    Nét chữ như đúc một khuôn, ngay hai nét ngang bộ “hiệt” cũng giống y bức thư gốc, một nét ngàn choán mất nửa ô, nét kia chiếm nốt nửa ô còn lại, nhìn như viết thêm vào.

    Y chìa bức thư ra cho mọi người xem, Phạm Ứng Tích nói ngay: “Đây... Đây là nét chữ của con gái Hoàng quận thú! Lẽ nào là thư sám hối của ả?”

    Chu Tường gật đầu: “Đúng đấy, Phạm tướng đọc nội dung mà xem, cha mẹ nuôi nấng mười mấy năm, chỉ trong một đêm cả nhà chỉ còn mình cô ta, tay vấy máu tanh, đều vì chuyện tình ái mà ra. Còn chẳng phải thư tự sám hối của Hoàng Tử Hà ư?”

    Vũ Tuyên cũng gật đầu xác nhận: “Tôi và Hoàng Tử Hà quen biết đã lâu, đã quen với nét chữ cô ấy, đây... quả thật là thủ bút của Hoàng Tử Hà, không còn nghi ngờ gì nữa?”

    “Ngươi dám chắc không?” Hoàng Tử Hà hít một hơi thật sâu, cầm lấy tờ thư, “Xin hỏi ngươi tìm thấy lá thư này vào lúc nào?”

    Nhìn vào cặp mắt kiên định mà bình tĩnh của cô, Vũ Tuyên chợt thấy suy nghĩ mình vẫn khẳng định lâu nay bắt đầu dao động: “Vào... ngày mười sáu tháng Tư năm nay, hôm xây xong mộ Hoàng quận thú.”

    “Có phải ngươi tìm thấy phong thư sám hối này vào lúc tự vẫn trước mộ, rồi được Tề Đằng cứu không?” Cô vặn lại.

    Vũ Tuyên gật đầu. Nghe hai tiếng “tự vẫn” từ miệng cô, hắn bỗng thấy lưng cứng lại, cơn đau buốt lan ra theo cột sống, rồi xoáy sâu vào não.

    Nỗi kinh hoàng chưa từng thấy khiến hơi thở của hắn dồn dập hẳn lên.

    “Bức thư đó xuất hiện thế nào? Ngươi nói sau khi ngươi được đưa về nhà, thì thấy nó ở trên bàn. Nhưng trong nhà không suy chuyển gì, rốt cuộc là kẻ nào lẻn vào, chỉ đưa bức thư nọ cho ngươi rồi lại chuồn đi?”

    Hơi thở của Vũ Tuyên nặng nề mà khó nhọc, như một con thú đang hấp hối. Hắn trông thấy thứ mình sợ nhất đang từng bước áp sát lại gần, không mảy may nương tình, chỉ chực ập xuống, huỷ hoại hắn hoàn toàn.

    Giọng Hoàng Tử Hà trong trẻo mà quả quyết, từng câu từng chữ, truyền vào tai hắn: “Từ khi Hoàng Tử Hà trốn khỏi phủ Thành Đô, tháng ba thì tới kinh thành, tháng Tư cô ta còn đang mai danh ẩn tích, hỗ trợ vương gia phá án vương phi mất tích, lấy đâu ra cơ hội đưa thư cho ngươi?”

    Đoạn cô chậm rãi nhìn sang Mộc Thiện đại sư, bình thản nói: “Danh tiếng đại sư, cả Thành Đô ai cũng xưng tụng. Người người đều biết đại sư Phập pháp vô biên, có thể xoay chuyển tâm tư kẻ khác. Bởi thế tôi nghĩ, Vũ Tuyên bấy giờ vì sao lại tự vẫn, Tề Đằng vì sao lại mời đại sư đến thăm Vũ Tuyên vừa được cứu sống, thậm chí đại sư đã làm gì với Vũ Tuyên, tôi cũng đoán được đôi phần.”

    Mộc Thiện đại sư chắp tay nhìn sắc mặt Quỳ vương, đôi mày rũ xuống vẻ buồn rầu: “A di đà Phật... Tề thí chủ hôm ấy mời lão nạp tới, chỉ nói là có người bạn nghĩ quẩn, nhờ lão nạp cứu giúp. Lúc lão nạp đến thì Vũ Tuyên đang kích động, không thể kìm chế, cứu một mạng người hơn xây toà tháp bảy tầng, lão nạp há có thể khoanh tay đứng nhìn, đành phải giúp Vũ thí chủ quên hết những chuyện đáng sợ nhất trong quá khứ.”


    Chùm nến ngàn nhánh sáng rực, ánh lửa lập loè tạo thành vô số những cái bóng mờ lắc lư theo gió.

    Ánh mắt mọi người đổ dồn vào Vũ Tuyên, nhưng chẳng một ai nói gì. Còn hắn chỉ nhìn chằm chằm Mộc Thiện đại sư, chút hy vọng nhỏ nhoi còn lại cũng từ từ tan biến như tuyết mùa xuân, tuyệt vọng và đau đớn dần dần ăn mòn tất cả khí sắc trên mặt hắn, để lại một màu trắng bệch.

    Hắn đi theo Hoàng Tử Hà, từng bước lần theo dấu chân hung thủ đến tận bây giờ, song có nằm mơ vạn lần hắn cũng không ngờ, mình chính là tên hung thủ ấy.

    Giữa không khí im lặng chết chóc, Hoàng Tử Hà nhìn Vũ Tuyên, thấy lòng hoang mang đau đớn, hoang mang căm hận, song trên hết thảy hoang mang, là tuyệt vọng.

    Cô đăm đăm nhìn nam tử mình từng yêu hơn hết thảy, bỗng dưng nỗi tuyệt vọng và đau đớn oà lên trong lòng, khiến cô gần như cuồng loạn, vớ lá thư sám hối trên tay Lý Thư Bạch, ném thẳng vào Vũ Tuyên: “Đúng thế, ngươi quên rồi, quên hết cả những việc ác độc mình đã làm rồi!”

    Cả người cô run bắn, tâm tư rối loạn, chỉ biết nấc lên nức nở, cơ hồ không nói nổi thành lời: “Ngươi tự viết thư sám hối, đặt sẵn trong phòng rồi tự vẫn, song vẫn muốn giữ thanh danh, nên phải giả nét chữ Hoàng Tử Hà! Rõ ràng là thư sám hối ngươi viết, nhưng khi quên hết mọi thứ, ngươi lại khăng khăng cho rằng đó là do Hoàng Tử Hà viết, coi như một tội chứng khác của cô ấy!”

    Mọi người không thể hiểu tại sao cô lại kích động đến thế, nhất thời đều kinh hoàng.

    Lý Thư Bạch bèn đứng dậy, vỗ nhẹ vào vai cô, rồi quay sang bảo tất cả: “Hoàng quận thú và phu nhân có ơn lớn với Sùng Cổ.”

    Mọi người lũ lượt gật đầu, đua nhau than thở.

    Chỉ riêng Vũ Tuyên vẫn nhìn sững Hoàng Tử Hà, trên gương mặt tái nhợt, đôi con ngươi như hai miệng hang đen ngòm, không có mảy may ánh sáng. Một hồi lâu sau, hắn mới chậm rãi lắc đầu, nghẹn ngào nói: “Không phải.”

    Hoàng Tử Hà nghe thấy hơi thở run rẩy của mình, cô há miệng định nói gì đó, song không thốt ra nổi một chữ, đành căm hận trừng mắt nhìn hắn, thở dồn dập.

    “Tôi không cố ý giả nét chữ của Hoàng Tử Hà... Bấy giờ tôi chỉ muốn chết theo cả nhà quận thú, tâm tình kích động, chẳng biết mình đã làm gì nữa... Chữ viết ra giống Tử Hà, hoàn toàn là vô thức... Cũng có lẽ, bấy giờ trong lòng tôi, luôn nhớ tới... cô ấy. Trên đời này chẳng ai quen thuộc nét chữ của cô ấy hơn tôi, tôi từng chép sách hộ cô ấy vô số lần, ngay cả chữ thiếu nét cũng giống nhau...” Giọng hắn khản đặc đầy khó nhọc, nhưng càng nói càng rành rọt. “Còn nữa, lúc trước công công nói, tôi đã đủ lông đủ cánh, không cần lợi dụng kẻ thù, nên mới dọn ra khỏi phủ quận thú... Thật ra không phải. Bấy giờ tôi không biết... bé gái chỉ nói một câu mà làm ta tan nát nhà cửa ấy, chính là Hoàng Tử Hà...”

    Hắn trốn khỏi hiệu thuốc, trở thành ăn mày, theo dòng người chạy nạn xuống phía Nam, cuối cùng ở lại phủ Thành Đô, được mấy thầy giáo tư thục nâng đỡ, giới thiệu với quận thú Hoàng Mẫn.

    Hoàng Mẫn rất quý mến hắn, thấy hắn trôi dạt lênh đênh đến quên cả tên thật, bèn đặt tên cho hắn là Vũ Tuyên, dẫn về nhà.

    Hôm ấy, dưới bóng chiều đỏ như máu, lần đầu tiên hắn gặp Hoàng Tử Hà.

    Mảng rêu ở chỗ tối tăm ẩm thấp lần đầu tiên trông thấy một đoá hoa nở rộ dưới ánh dương. Hắn loá cả mắt trước hào quang của Hoàng Tử Hà thơ ấu, gần như không dám nhìn thẳng vào cô. Hắn quỳ xuống giúp cô nhặt những bông sen rơi, vô tình chạm phải gấu váy vấy bùn của cô, không kìm được bèn nắm chặt lấy, đánh bạo ngước lên nhìn cô, liền trông thấy dung mạo mình in trong đáy mắt cô, rõ mồn một như soi gương. Từ ấy, hắn đã quyết suốt đời sống trong đôi mắt đắm đuối ấy.

    Khoảng thời gian hạnh phúc nhất trong đời hắn chỉ vẻn vẹn ba năm. Tuy hình ảnh mẹ treo cổ tự tử thỉnh thoảng vẫn trở về trong mộng, song hắn đã có cha mẹ và huynh trưởng mới, có cuộc sống cơm no áo ấm, có một mái hiên che mưa chắn gió, một khu nhà rủ đầy dây leo.


    Còn cả một thiếu nữ hắn hết dạ si mê.

    Ba năm sau hắn đỗ cử nhân, đắc ý quay về, thầm nghĩ có lẽ đã đến lúc, bèn âm thầm tính cách thưa với cha mẹ nuôi xin được cưới Hoàng Tử Hà.

    Nhưng hắn chẳng ngờ, chỉ trong một đêm, cha mẹ nuôi đã ra quyết định để hắn dọn khỏi phủ quận thú, sang căn nhà quận Thục cấp cho.

    Hoàng Tử Hà cãi vã kịch liệt với cha mẹ, song hắn đối với hai người vừa kính trọng lại vừa cảm kích, không tiện chống đối, đành dọn ra khỏi phủ.

    Hôm tân gia nhà mới, đám người quen hẹn hắn ra ngoài uống rượu đến tận nửa đêm. Trời đổ tuyết lác đác, hắn từ biệt đám bạn bè say khướt, một mình đạp tuyết quay về.

    Hắn cố ý đi đường vòng qua phủ quận thú, đứng giữa phố ngước lên nhìn ngôi lầu nhỏ Hoàng Tử Hà ở, thấy đèn trên lầu đã tắt.

    Thiếu nữ hắn hết dạ si mê, đang nghỉ ngơi.

    Hắn mỉm cười đứng giữa trời tuyết, ngoái lại nhìn quanh phố xá. Đêm tuyết lạnh căm, rất ít người ra đường, các sạp hàng cũng hối hả thu dọn. Bên đường chỉ có một ông lão diễn rối bóng vẫn đang ngồi trước bình phong lụa diễn một vở ngắn.

    Hắn vốn đã đi qua, nghĩ thế nào lại động lòng thương ông lão, vòng lại đặt ít tiền xuống trước bình phong. Nghe ông lão hát đến câu “phường Hưng Đức Trường An”, dường như chạm tới thứ gì đó xa xôi trong ký ức.

    Hắn dừng chân, đứng xem trọn vở diễn.

    Tuyết lã chã rơi đậu lên tóc, lên vai, hắn thẫn thờ đứng đó.

    Trơ mắt nhìn thảm cảnh đầy máu và nước mắt khiến mình tan cửa nát nhà, trở thành vở kịch phô diễn ngoài phố, thành câu chuyện phiếm của kẻ khác, cuối cùng tất cả chỉ tấm tắc một câu: “Hoàng Tử Hà nhỏ tuổi mà thông tuệ.”

    Hoàng Tử Hà.

    Đoá hoa nở bừng rực rỡ dưới ánh dương.

    Vụ án giết vợ của huynh trưởng hắn vốn đã sắp kết án. Cả nhà hắn khổ tận cam lai, cuối cùng cũng có ngày nhìn thấy ánh sáng.

    Vậy mà tại sao, cô bé mười hai tuổi ấy lại đứng bên gọi một tiếng “cha”.

    Xác mẹ lủng lẳng trên xà nhà, dường như vẫn đung đưa nhè nhẹ. Ánh nắng mai theo song cửa rọi vào, nhuốm đỏ cả người mẹ hắn, đỏ cả căn nhà xập xệ, cả đất trời đều nhuộm một màu đỏ thắm.

    Hắn vừa tỉnh giấc, còn đang mơ màng, tâm trí trống rỗng, đứng trước mặt mẹ, thẫn thờ ôm lấy chân bà, phát hiện cả người bà đã lạnh ngắt cứng đờ.


    Sau khi cha qua đời, mẹ hắn không quản ngày đêm dệt vải kiếm tiền, trải bao khổ nhọc mới nuôi hai anh em hắn lớn đến chừng ấy tuổi; tuy cảnh nhà nghèo khó, nhưng mỗi khi ra ngoài về, bà lại dúi cho hắn quả đào trái táo. Mẹ từng cười bảo hắn rằng, từ nay về sau cả nhà ta sẽ được quây quần ấm no, vui vẻ sống qua ngày. Ngờ đâu sau khi anh trai hắn bị xử chém, mẹ đã phát điên phát dại, cuối cùng lặng lẽ treo cổ tự vẫn trong lúc hắn đang say ngủ.

    Hắn không còn gia đình nữa.

    Hắn đỡ mẹ xuống, đặt lên giường, đắp lại chăn cho bà rồi nhắm mắt nằm xuống bên cạnh thầm nhủ, cứ thế này mà chết đi, giống như ngủ vậy, mãi mãi không bao giờ mở mắt nữa.

    Tuyết dồn dập đổ xuống nặng trĩu trên vai hắn, khiến hắn lờ mờ cảm giác được máu huyết toàn thân như đông cứng lại.

    Hắn chẳng biết mình đã đứng trước cửa phủ quận thú bao lâu. Mãi tới khi trời sáng, có người mở cửa đi ra, thấy hắn thì giật bắn mình, cuống quýt phủi tuyết trên người cho hắn, phát hiện lớp tuyết bên dưới đã tan ra, rồi đông lại thành băng, kết dính quần áo vào da thịt hắn.

    Bóng tối mờ mịt trước mắt tan dần, hắn thấp thoáng trông thấy gương mặt cô.

    Thiếu nữ hắn si mê, đoá hoa rực rỡ trong cuộc đời hoang vu quạnh quẽ của hắn, Hoàng Tử Hà của hắn.

    Người hắn hận nhất, thù nhất, yêu nhất.

    Cái lạnh đêm đó làm hắn đổ bệnh nằm liệt.

    Hắn không muốn gặp lại Hoàng Tử Hà nữa. Cô đến thăm bệnh, hắn bèn đậy sách lên mặt, mặc cho cô ríu rít hỏi han gợi chuyện, hắn cũng chẳng nói nửa câu.

    Đương nhiên cô cũng nhận ra, rầu rĩ ngồi xuống bên sập gặng hỏi, tại sao vừa chuyển ra đã xa cách phớt lờ cô như thế.

    Hắn nhắm nghiền mắt, trầm giọng nói, A Hà, nếu muội không biết phá án có phải tốt không.

    Câu nói này đã xoá sạch niềm kiêu hãnh bấy lâu nay của Hoàng Tử Hà, làm cô đùng đùng nổi giận bỏ về. Lần đầu tiên, hắn không giữ cô lại, mặc cho tình cảm đôi bên rạn nứt.

    Bởi hắn nghĩ, đời này kiếp này, có lẽ chỉ có thể thế này thôi.

    Bệnh vừa đỡ, hắn bèn lên chùa Quảng Độ núi Minh Nguyệt để nghe giảng pháp.

    Ở đó, hắn gặp Tề Đằng, rồi được giới thiệu với Mộc Thiện đại sư. Đại sư nhìn hắn cười. Chẳng hiểu sao, hắn lại thổ lộ hết ra những ẩn ức chồng chất những tưởng sẽ để cho mục rữa trong lòng bấy lâu. Hắn kể về Hoàng Tử Hà, về Hoàng quận thú, về người mẹ ruột của mình.

    Cuối cùng Mộc Thiện đại sư hỏi: “Trong lòng thí chủ có một con rồng dữ, đã chẳng thể kiềm chế, sao không để nó bay ra, trổ hết oai phong cho nhẹ lòng?”

    Hắn ngơ ngẩn đứng dậy, ra khỏi thiền phòng, ngang qua tường vôi, qua hành lang.

    Trông thấy hai câu thơ khắc rành rành trên bia.

    Chiều buông đầm quạnh vắng

    Thiền định trị rồng dữ.

    *Hai câu thơ trong bài “Qua chùa Hương Tích” của Vương Duy đời Đường.

    Nhưng, hắn chẳng có cách nào cả. Con rồng dữ trong lòng đã quẫy mình vọt ra khỏi thân thể hắn, gầm rít vang trời khiến máu toàn thân hắn sôi lên, chỉ muốn bước lên đón nhận khoái cảm tanh mùi máu ấy.

    Vũ Tuyên kể đến đó, ánh mắt mọi người không hẹn mà cùng đổ dồn vào Mộc Thiện đại sư.

    “A di đà Phật... Vũ thí chủ tâm trí không ổn định, lão nạp vốn muốn lấy độc trị độc, phá huỷ tâm ma của thí chủ, ngờ đâu thí chủ lại hiểu lầm, gây ra đại hoạ thế này!” Mộc Thiện đại sư cúi đầu chắp tay nói, “Hôm đó gặp thí chủ tại nhà họ Tề, lão nạp cứ ngỡ thí chủ chưa quên hết cừu hận khi trước nên mới nghĩ quẩn, chứ đâu có ngờ thí chủ lại nảy sát tâm, giết chết cha mẹ nuôi mang ơn nặng như núi!”

    Mộc Thiện đại sư thản nhiên phủi sạch tội trạng, hẳn là đã chuẩn bị từ trước, nhất định bên trong có nội tình. Song giờ đây vụ án Vũ Tuyên còn chưa kết thúc nên Lý Thư Bạch cũng chẳng tiện vạch trần, chỉ lạnh lùng ngồi xem.


    Vũ Tuyên thấy lồng ngực lạnh thấu xương, rồi lại nóng như sôi, bị hai thái cực nóng lạnh giày vò, hắn đã gần như suy sụp, nhìn chằm chằm Mộc Thiện đại sư trước mặt thật lâu, cuối cùng mỉm cười tuyệt vọng, đôi môi thâm tím vẫn đẹp hoàn mỹ, khiến mọi người nhìn hắn chỉ thấy thê lương vô hạn.

    “Đã đến nước này, liên luỵ kẻ khác cũng chẳng để làm gì... Chẳng qua ta không thắng được hận thù, ra tay hạ sát cả nhà Hoàng quận thú có ơn nặng như núi với ta mà thôi...”

    Rời chùa Quảng Độ, hắn mua một miếng ngọc, tìm đến dỗ dành cô. Trong lúc đôi bên bàn bạc vẽ mẫu vòng, trước mắt hắn bỗng hiện lên con cá Tề Đằng thường mang theo bên người.

    Đỏ thắm như máu, phiêu hốt như khói.

    A Già Thập Niết do Long Nữ lơ đãng hoá thành, thường xuất hiện bên cạnh những kẻ chết oan.

    “Chạm đôi cá đi.” Hắn cầm bút vẽ ra giấy, “Hai chúng ra cũng giống như đôi cá, con này ngậm đuôi con kia thành một vòng tròn, muội không thoát được ta, ta cũng không thoát được muội, đời đời kiếp kiếp, quấn quýt bên nhau.”

    Đời đời kiếp kiếp.

    Hắn lấy trẩm độc từ chỗ Tề Đằng, nhỏ vào ba hốc lõm trong thân vòng, rồi dùng sáp nến, chuốt phẳng, thành ba đốm vàng nhạt như có như không, lẫn vào sắc trắng ngà như chiếc vòng.

    Chiếc vòng mang điềm gở, từ ấy đeo lên cổ tay cô.

    Nghe nhà họ Hoàng nhắc đến việc đính hôn giữa cô và Vương Uẩn, hắn bèn đánh cuộc với cô như mọi khi, dụ cô đi mua một gói tỳ sương. Mấy hôm sau, tuyết tạnh mai nở, thấy bà nội và chú cô đến thăm, đoán rằng họ nhất định sẽ giục giã việc thành hôn, nhân lúc giúp cô ôm một ôm hoa mai, hắn tiện thể nắn nắn chiếc vòng trên tay cô, lần tay tìm đến mắt cá, chọc cành hoa vào một cục sáp bên trong.

    Cô nắm tay bà nội đi vào nhà, thân thiết ân cần, cười tươi như hoa.

    Còn hắn ôm hoa mai ra khỏi vườn nhà cô, băng qua căn gác nhỏ nơi cô ở mà biết bao lần hắn từng đứng dưới nhìn lên, băng qua hồ sen tàn héo nơi họ gặp nhau lần đầu, rời phủ quận thú.

    Đi đến con hẻm nhỏ vắng vẻ phía sau phủ, hắn dừng bước, đứng ngẩn ra. Gió tuyết đầu xuân thốc vào người lạnh cóng, song hắn cứ đứng đờ bất động, ngẩng đầu nhìn trời.

    Sau cùng hắn buông thõng hai tay, bó hoa mai hai người cùng hái rớt xuống, rơi tung toé ra đất. Nào đỏ nào hồng, máu tươi và son phấn đều rơi xuống bùn lầy, hương thầm tan tác.

    Tựa như thời gian quay ngược về ngày đó, hắn nằm xuống bên thi thể lạnh cứng của mẹ, bất động.

    Hắn đến vườn Tình dự hội thơ, lại bắt đầu nói cười chuốc chén, cảm thấy mình cơ hồ không gắng gượng nổi nữa, song thật lạ là chẳng ai nhận ra cả. Thật ra hắn không say, hắn chỉ giả vờ say để thoát khỏi bọn họ, quay về nhà đờ đẫn nằm xuống, đợi tin tang tóc truyền đến.

    Sáng sớm hôm sau, cha mẹ nuôi của hắn đã qua đời, Hoàng Tử Hà trở thành người duy nhất còn sống sót ở nhà họ Hoàng.

    Hắn bèn đem bức thư cô gửi mấy hôm trước đến phủ tiết độ, trình lên Phạm Ứng Tích vốn có hiềm khích với Hoàng Tử Hà. Con trai Phạm Ứng Tích đã mấy lần bị cô vạch trần, Phạm tướng phải ra sức che chở mới thoát nạn, nhưng cháu trai lão, vì Hoàng Tử Hà mà bị đày đến xứ khỉ ho cò gáy, chẳng biết bao giờ mới được trở về.

    Quả như dự tính, Phạm Ứng Tích có thể tuỳ ý định đoạt mọi việc ở Xuyên Thục không cần trình lên triều đình, lập tức định tội Hoàng Tử Hà đầu độc cả nhà, sau khi cô bỏ trốn còn bẩm báo lên trên, xin lệnh truy nã toàn quốc.

    Tâm nguyện đã thành, hắn gom góp tiền bạc, tu sửa phần mộ cho cả nhà Hoàng quận thú rồi để lại di thư, tự vẫn trước mộ.

    “Bức di thư ấy, chính là bức thư thứ hai, mà ngươi cho là thư nhận tội của Hoàng Tử Hà ư?”

    Hoàng Tử Hà khàn khàn hỏi.

    Vũ Tuyên nhắm nghiền mắt, gật đầu: “Phải. Tôi nghĩ lần này mình ắt sẽ chết, nào ngờ lại được Tề Đằng cứu. Hắn khuyên tôi đã diệt trừ cả nhà Hoàng quận thú rồi thì dốc sức cho Phạm tiết độ đi, ngày sau sẽ được nở mày nở mặt, nhưng tôi từ chối, chỉ một lòng muốn chết. Sau đó tôi ngất đi, đến khi tỉnh lại đã quên hết những việc ác độc mình làm khi trước. Có lẽ đó là bản năng tự vệ của ý thức, khiến tôi không ngừng thuyết phục bản thân rằng tất cả đều do Hoàng Tử Hà gây ra, chứng cứ rành rành. Càng ngày tôi càng quả quyết rằng cô ấy đã giết chết cha mẹ, thậm chí còn cảm thấy mình từng chính mắt nhìn thấy cô ấy cầm gói tỳ sương, còn ví như...”

    Hắn nghiến răng khó nhọc tiếp: “Tôi về nhà, trông thấy bức di thư đặt trên bàn. Nội dung trong đó cũng khiến tôi ngỡ là do cô ấy viết.”

    Mười mấy năm vui vầy, qua một đêm sóng gió bất ngờ, cả nhà chỉ còn một thân côi cút giữa đời, cũng chẳng muốn hai tay vấy máu sống nốt kiếp tàn. Yêu mà chẳng được, việc đời thường trái ý, muôn mối nghiệt duyên...

    Là hắn, cũng là cô.

    Vận mệnh giống nhau, cảnh ngộ giống nhau, luân hồi tuần hoàn, như hai con cá trên chiếc vòng kia, ngậm đuôi nhau quấn quýt, không bao giờ chia lìa.

    Giọng hắn dần xa xăm, đã chẳng màng che đậy thân phận cô trước mặt bấy nhiêu người nữa, chỉ đăm đăm nhìn cô, tha thiết nói: “Ta đã quên hết những việc mình làm, không nhận ra được bức thư ấy là muội viết cho ta, hay ta viết cho muội nữa. Nào ngờ chúng ta đều tập theo thư pháp của Vệ phu nhân, xưa nay ta luôn giúp muội chép bài, bắt chước nét chữ muội thành quen, đến chữ thiếu nét cũng viết giống nhau...”

    Giọng hắn giờ đây khàn đặc nghẹn ngào, không còn dịu dàng thanh nhã như mọi ngày. Hắn từ từ đứng dậy, rưng rưng nhìn cô.

    Trên gương mặt trắng bệch như tuyết, chỉ còn đôi mắt đen thẫm và bờ môi tím ngắt là còn chút màu sắc. Giống như một người vẽ trên bức tường vôi vậy, dẫu đường nét hoàn mỹ, song không có thần thái của người sống.

    Hắn đắm đuối nhìn cô, như nhiều năm trước họ gặp nhau lần đầu, khi hắn quỳ xuống giúp cô nhặt hoa sen, thình lình ngẩng lên, bỗng hoa cả mắt.

    Những cánh chuồn la đà bên tai họ bấy giờ đều đã chết, sen hồng khắp hồ cũng chẳng thể nở lại, chỉ có đôi mắt này, cùng những điều ẩn chứa trong ánh mắt, là không bao giờ thay đổi.

    Thời gian bồi đắp cho kẻ ăn mày lang thang thành nam tử tài hoa lừng danh thiên hạ, cho cô bé ngây thơ thành thiếu nữ xinh đẹp thông minh.

    Song vận mệnh tàn khốc lại xui khiến hai người họ đời này kiếp này trở thành kẻ thù lớn nhất của nhau.

    “A Hà...” Hắn khe khẽ gọi, vươn tay về phía cô.

    Lý Thư Bạch và Vương Uẩn đều biết rõ sự tình, chỉ riêng Chu Tử Tần chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì, thấy Vũ Tuyên đột ngột gọi Dương Sùng Cổ là A Hà thì kinh ngạc hết sức.

    Hoàng Tử Hà đứng trước mặt hắn, bất động, cũng không giơ tay chạm vào bàn tay đang chìa ra.

    Thấy vậy, hắn chỉ yếu ớt mỉm cười, nói khẽ: “Phải, ta vĩnh viễn... cũng không chạm được đến muội.”
     
  10. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 22 - Đời đời kiếp kiếp
    Tinh mơ hôm ấy, Vũ Tuyên qua đời.

    Vì là trọng phạm, nên trước khi giam vào ngục, sai dịch giải hắn về nhà thu dọn đồ đạc.

    Đã nhớ ra tất cả, dĩ nhiên hắn cũng nhớ được chỗ cất thuốc độc. Hắn thản nhiên lấy trẩm độc ra uống, rồi lặng lẽ theo đám sai dịch vào nhà lao.

    Ngồi trong nhà lao tăm tối, hắn âm thầm đợi cái chết đau đớn như cả nhà họ Hoàng, cảm nhận kịch độc không thể cứu chữa ăn mòn thân thể.

    Ngàn vạn lưỡi dao cào xé trong bụng hắn, lục phủ ngũ tạng xoắn lại, đau đớn tột độ, muốn động đậy đầu ngón tay cũng chẳng còn hơi sức, muốn kêu gào cũng chẳng thốt nổi ra tiếng.

    Nhưng chỉ trong nháy mắt, hắn đã mất hết ý thức. Cái chết ập đến, như làn nước mùa xuân ấm áp, lại như hoa tuyết dịu dàng, bao bọc lấy hắn. Giữa màn máu đỏ lòe trước mắt, hắn co quắp trong nhà lao, ngơ ngác ngẩng lên, trông thấy một ảo ảnh.

    Chính là đóa hoa kiêu hãnh nở rộ, lần đầu tiên hắn được thấy năm xưa.

    Trăng sáng len qua song sắt hẹp, rọi lên gương mặt tươi cười nhợt nhạt của hắn, cũng len qua song cửa chạm năm con dơi*, rọi lên người Hoàng Tử Hà.

    *Trong tiếng Hán, năm con dơi (ngũ bức) đồng âm với ngũ phúc, ý chỉ điềm lành, may mắn

    Gánh nặng trên vai hơn nửa năm nay cuối cùng cũng được trút bỏ, tâm trí căng thẳng từng giờ từng phút cuối cùng cũng được thả lỏng. Hoàng Tử Hà thiêm thiếp bên song, hơi thở nhè nhẹ, chậm rãi mà thư thả.

    Cô đang nằm mộng.

    Trong mơ, cô trông thấy cha mẹ, anh trai, chú và bà nội. Mọi người ngồi dưới gốc quế uống rượu quế hoa, tươi cười vẫy tay cô lại.

    Cô xách gấu váy lên, băng qua thảm cỏ xanh mượt như tớ, chạy về phía họ.

    Ánh dương rực rỡ như rắc vàng. Hoa quế rụng đầy, thành một lớp dày trên mặt bàn. Hương thơm ngọt ngào như mật vấn vít quanh tất cả, như một dòng suối róc rách chảy qua, cô đứng bên trong nhìn nụ cười của mọi người, bỗng thấy hoa cả mắt, rồi lại cảm thấy mình chưa bao giờ được vui sướng như lúc này.

    Cô ngạc nhiên thầm nhủ, còn chưa uống rượu, sao đã say rồi.

    Có điều cũng chẳng sao, ánh dương ấm áp như thế, hương hoa ngọt ngào như thế, gió nhẹ dịu dàng như thế kia mà. Cô chống cằm ngồi nhìn ngắm người thân trò chuyện, tuy chẳng hiểu họ nói gì, song chỉ cần mọi người vui vẻ thế này là tốt rồi.

    Hoàng Tử Hà, vẫn là thiếu nữ mười sáu tuổi. Vận áo lụa mỏng tay chẽn, xuất thân danh môn, dung nhan mỹ lệ, lừng danh thiên hạ, cuộc sống hoàn mỹ.

    Đang cùng cả nhà quây quần trò chuyện giữa ánh dương ấm áp, trong hương hoa ngào ngạt, đột nhiên cô lại chạnh lòng, cảm thấy quạnh quẽ khôn tả.

    Hoàng Tử Hà bỗng từ từ đứng dậy đi thẳng. Rời khỏi chốn ngào ngạt hương hoa, khỏi khung trời ấm áp chan hòa.

    Giữa lồng lộng gió sen, cô trông thấy Vũ Tuyên. Gió lay lá sen xào xạc, bóng nước hắt lên người hắn lung linh.

    Ánh bạc chan hòa, dịu dàng trong trẻo. Vũ Tuyên như cây trúc mùa xuân vừa trút vỏ măng, toàn thân phủ một lớp phấn trắng, cao mà thẳng tắp, không vướng bụi trần.

    Vũ Tuyên mỉm cười chìa tay ra trước mặt cô, khẽ gọi: “A Hà.”

    Gió mát thổi tung chéo áo hắn, cũng thổi tung mái tóc cô.

    Đây là góc nhỏ trong hồn, ngưng kết giấc mộng của cô, nơi gió mưa vĩnh viễn không thể chạm tới, tương lai dường như cũng không bao giờ đến.

    Khóe môi cô cong lên, thành một nụ cười.

    Cô chìa tay ra, nắm lấy bàn tay trước mặt.

    Mười ngón tay đan nhau, lòng buộc lấy lòng.

    Cô cúi đầu, ngắm nhìn bàn tay hắn.

    Bàn tay thon dài, đốt xương cân xứng, cảm giác khi nắm lấy tay cô cũng rất thân thuộc. Dịu dàng mà không buông lơi, bao dung song không dùng lực.

    Cô ngước lên mỉm cười với hắn, ngắm nam nhân đã chiếu sáng cả thời thiếu nữ đẹp đẽ như hoa của mình, chậm rãi lắc đầu.

    Cuối cùng, cô buông tay hắn ra, từ từ siết chặt nắm tay lại.

    Cô nói: “Hẹn gặp lại.”

    Trước hồ sen giữa gió lộng, cô ngước lên nhìn Vũ Tuyên, rưng rưng cười: “Mà không, đời đời kiếp kiếp, đừng bao giờ gặp lại!”

    Tỉnh giấc đã quá trưa, vầng dương chênh chếch về Tây, ánh nắng len qua cửa sổ chiếu lên người cô, cuối hạ vẫn còn nồng nực, nhưng gió mát đã hây hẩy thổi tới.

    Cả thế giới trong trẻo quang đãng, tràn ngập ánh nắng. Cô vẫn ở trong ngôi lầu nằm giữa vườn hoa phủ quận thú như xưa.

    Cô trở dậy bước đến bên song, đẩy cửa nhìn ra ngoài.

    Hồ sen vẫn đây, dây leo xanh mướt. Cây quế đã lác đác trổ hoa sớm. Hương hoa theo gió đưa lại, thoang thoảng ngọt ngào, không nồng nàn như trong mơ.

    Cô chau mày nghĩ ngợi, song không nhớ ra được ngày này năm ngoái mình đang làm gì. Ngôi lầu nhỏ này bị niêm phong suốt nửa năm, tất cả vật dụng bên trong vẫn ở nguyên chỗ cũ, không hề suy suyển.

    Cô lấy ít nước còn lại trong bình từ hôm qua rửa mặt rồi mở tủ quần áo, chọn một bộ đồ trắng, xỏ giày trắng, ăn mặc giản dị. Bó ngực lâu ngày đã quen, giờ cởi ra, cô thấy ngài ngại.


    Lại ngồi xuống trước bàn trang điểm, cầm chiếc gương đồng đã hơi lu mờ hoen gỉ lên, vấn kiểu tóc đơn giản nhất. Không có bọn Mi Vu, cô cũng không biết cách trang điểm nào khác. Trước đây mỗi lúc ra ngoài, cô đều đóng giả nam, bớt được bao nhiêu phiền phức.

    Ngón tay cô lướt trên hàng trâm cài xếp ngay ngắn trong hộp nữ trang, dừng lại hồi lâu trên cây trâm bạc Lý Thư Bạch tặng, cuối cùng vẫn chọn một đôi trâm bạch ngọc cài lên mái tóc, lại đeo thêm một đôi hoa tai trân châu Nam Hải nho nhỏ.

    Cô xuống lầu, theo thói quen cũ, đứng trên bình đài trước cửa, nhìn ra khu vườn nhỏ.

    Vườn hoa sau phủ quận thú là nơi cô ở nhiều năm, quen thuộc đến từng nhành cây ngọn cỏ. Chỉ là giờ đây, chẳng còn ai nắm tay cô cùng đi nữa.

    Cô bước ra hành lang, mải miết đi xuôi xuống giữa cơn gió đầu thu. Vạt áo mỏng manh bay tung theo gió, như sóng biếc lăn tăn, như tơ liễu buông mành.

    Qua khúc ngoặt, cô trông thấy Lý Thư Bạch đang một mình ngồi trước bàn cờ bày trong ngôi đình nhỏ trên hòn núi giả. Trương Hàng Anh đứng hầu bên cạnh, còn Chu Tử Tần rầu rĩ nhoài người nằm bò ra lan can, rõ ràng không phải là đối thủ của Lý Thư Bạch, đã bỏ hẳn ý tưởng đánh cờ với y.

    Chợt ánh mắt gã bắt gặp cô, rồi không sao rời nổi nữa.

    Miệng gã càng lúc càng há hốc, cặp mắt cũng càng lúc càng trợn to ra, gã ngây ngô bước tới gần, mãi tới khi cô đặt chân lên giả sơn, thướt tha hành lễ với họ, vẫn chưa ngậm được miệng lại.

    Ánh mắt Lý Thư Bạch dừng ở cô, nét mặt vẫn thản nhiên, chỉ có khóe môi hơi cong lên. Tựa như đang đi giữa rừng hoang, ngoặt qua một khúc quanh, đột nhiên trông thấy một đóa hoa vừa hé nở.

    Chu Tử Tần giơ tay đỡ để cằm khỏi rớt xuống, lắp bắp hỏi: “Sùng... Sùng Cổ đấy ư?”

    Hoàng Tử Hà hơi nghiêng mặt, mỉm cười gật đầu với hắn.

    “Công công, công công... đường đường là một hoạn quan, sao lại mặc quần áo nữ nhân?” Chu Tử Tần nắm tay lại đặt lên ngực, vẻ kinh ngạc quá độ khiến tim đập thình thịch, mặt cũng đỏ bừng lên: “Đừng... đừng đến gần ta! Công công... mặc đồ nữ đẹp quá, ta... ta không chịu nổi...”

    “Hôm qua Vũ Tuyên gọi tôi là ‘A Hà’, công tử không nghe thấy ư?”

    “Ta... Ta tưởng hắn bị ảo giác, chìa tay ra với ảo ảnh của Hoàng Tử Hà... Huống hồ, bấy giờ chẳng phải Sùng Cổ không thèm... giơ tay ra với hắn ư?”

    Hoàng Tử Hà đành bỏ ý nghĩ giải thích cho Chu Tử Tần, xách gấu váy bước vào đình, đến bên bàn cờ.

    Lý Thư Bạch nắm chặt quân cờ trong tay, ngước lên nhìn cô hồi lâu rồi với tay lấy hộp gom cờ vào, ra hiệu cho cô ngồi xuống: “Ngủ ngon không?”

    “Vâng... ngủ ngon ạ.” Cô ngồi xuống trước mặt y, khẽ đáp.

    Chu Tử Tần mon men lại gần, vẻ mặt vẫn chưa hết kinh ngạc, nhìn cô chằm chằm từ trên xuống dưới từ trái sang phải, chỉ thiếu điều chưa dùng ngón tay chọt chọt xem có phải người sống hay không.

    Hoàng Tử Hà chán nản thở hắt ra: “Công tử đừng nhìn nữa. Dương Sùng Cổ chính là Hoàng Tử Hà.”

    Nghe thấy câu này, Chu Tử Tần ngẩng phắt lên nhìn Lý Thư Bạch điềm nhiên như không, rồi lại quay sang nhìn Trương Hàng Anh vẻ mặt quái dị, bĩu môi ấm ức hét lên: “Các vị lúc nào cũng gạt tôi ra ngoài! Ai cũng biết hết, cả Trương nhị ca cũng biết, chỉ giấu một mình tôi thôi! Thế này mà gọi là bạn bè à!”

    “Xin lỗi, Tử Tần!” Hoàng Tử Hà thở dài: “Vì tôi bị truy nã khắp nơi, gia mới phải giúp tôi mai danh ẩn tích, giả làm hoạn quan. Thực ra tôi cũng sợ tiết lộ thân phận lại làm liên lụy đến công tử, chứ không có ý giấu giếm đâu!”

    “Đúng là... đúng là...” Chu Tử Tần lẩm bẩm, rồi thình lình nhảy cẫng lên, thoắt cái đã gạt hết giận dỗi, mừng rỡ reo to: “Tốt quá rồi!”

    Ba người còn lại đều câm nín nhìn gã nhảy tưng tưng, vui mừng như phát cuồng: “Tốt quá, tốt quá! Phiền não lớn nhất đời ta cuối cùng cũng được giải quyết rồi!”

    Trương Hàng Anh buột miệng hỏi: “Phiền não lớn nhất đời huynh là gì?”

    “Ta cứ nghĩ mãi, trong thiên hạ Đại Đường này, rốt cuộc là Hoàng Tử Hà hay Dương Sùng Cổ phá án giỏi hơn? Nếu một ngày hai người họ gặp nhau thì ai thắng ai bại?” Chu Tử Tần sáng mắt lên nhìn Hoàng Tử Hà, như vừa trút được gánh nặng, “Câu hỏi này cứ đeo đẳng ta, nghĩ nát óc cũng không ra, ăn không ngon ngủ không yên! Giờ biết được hai người là một, ta lại thấy có thể ăn ba bát cơm đầy, ngủ đến giữa trưa rồi!”

    Hoàng Tử Hà nín lặng nhìn Lý Thư Bạch, như cũng vừa trút được gánh nặng.

    “Có điều, dù cô không tiết lộ thân phận là vì muốn tốt cho ta, nhưng có một chuyện...” Chu Tử Tần định thần lại, bắt đầu lẵng nhẵng cằn nhằn, “Việc khác chẳng nói, riêng vụ án của Vũ Tuyên năm xưa, lần trước Quỳ vương chỉ nói là nhớ được dấu tay hắn thôi, sao cô phát hiện ra thân phận hắn vậy, chắc chắn hai vị phải trao đổi bàn bạc với nhau nhiều lắm, chẳng qua gạt ta ra thôi!”

    “Không trao đổi gì thêm thật mà, còn cần bàn bạc nữa ư?” Hoàng Tử Hà thở dài, “Năm năm trước tôi phá vụ án đầu tiên ở phường Hưng Đức, đương nhiên tôi phải nhớ rõ. Kẻ liên quan đến vụ án không phải Vũ Tuyên, hắn cũng không bị phán tội, vậy mà lại có dấu tay lưu trong hồ sơ. Nếu là nhân chứng, thì sẽ không lưu lại trong hồ sơ cuối cùng trình lên, nên chắc chắn là người nhà phạm nhân. Chỉ cần hồi tưởng lại người nhà hung thủ năm đó là rõ cả thôi.”

    “... Sao cứ đến lúc cô giải thích thì chuyện gì cũng thành đơn giản thế nhỉ?” Chu Tử Tần rầu rĩ ngồi xuống cạnh họ, nghĩ ngợi một lát, lại hỏi Lý Thư Bạch: “Vương gia, chúng ta bàn xem Công Tôn đại nương và Ân tứ nương giải quyết thế nào đây?”


    Lý Thư Bạch bình thản đáp: “Chuyện này phải hỏi lệnh tôn. Mọi chuyện đã có pháp luật triều đình phán xử, cần gì chúng ta bàn bạc?”

    “Nhưng, nhưng họ giết người là có nguyên do, hơn nữa lại xuất sắc xinh đẹp như thế. Nếu họ chết đi, không chừng điệu Kiếm Khí Hồn Thoát sẽ thất truyền mất...”

    “Công tử chưa nghe nói đến chuyện năm xưa tiên hoàng giết La Trình ư?”

    “Thôi... thôi được...” Chu Tử Tần buồn bã cúi đầu, “Nhưng... nhưng thật sự phải xử nghiêm theo luật ư?”

    “Ta sẽ nhắc nhở Phạm tướng quân không thúc giục ép uổng lệnh tôn, để mọi chuyện xử theo phép công. Nhưng những việc còn lại thì phải trông vào luật pháp thôi.”

    “Luật pháp... chẳng phải cũng dựa trên tình người ư...” Chu Tử Tần lẩm bẩm.

    Thấy thái độ của hắn, Hoàng Tử Hà hỏi ngay: “Có phải công tử lại làm chuyện gì trái lẽ rồi không?”

    “Hừm... Chẳng phải là nghĩ cho cô ư.” Nói rồi hắn lấm lét nhìn quanh, thấy không có ai, mới móc trong ngực áo ra một vật vừa tròn vừa dẹt bọc vải trắng, lén lút đưa cho cô, đầy vẻ tâng công.

    Hoàng Tử Hà thoạt nhìn đã đoán ra ngay. Cô từ từ giơ tay nhận lấy, mở lớp vải bọc ngoài ra. Bên trong là một chiếc vòng, trong veo nhẵn bóng, chạm hai con cá cắn đuôi nhau, quấn quýt thân mật, ngọt ngào xinh xắn.

    Cô nắm chặt nó trong tay, lặng người đi.

    “Theo thông lệ, phải nhập vào kho niêm phong... Nhưng tối qua ta nghĩ đây là vật của Hoàng Tử Hà, không chừng về sau ta lại tìm được Hoàng Tử Hà ở Thục, đến lúc ấy sẽ đem nó làm quà ra mắt, nên...” Hắn đưa ngón tay lên miệng, dè dặt nói, “Dù sao cất vào kho mấy chục năm nữa cũng chẳng ai kiểm tra, chắc không phát hiện ra đâu!”

    Hoàng Tử Hà xoay xoay chiếc vòng, để ánh sáng từ nó hắt lên mặt cô.

    Thấy cô lặng thinh, Lý Thư Bạch bèn lên tiếng: “Tối qua Vũ Tuyên đã uống trẩm độc, tự vẫn trong ngục tối.”

    Cô chỉ ậm ừ, vẻ thản nhiên, như chẳng hề nghe thấy.

    Có điều, mắt cô bỗng tối sầm lại, mây trôi đằng xa, cội hoa phía trước thình lình mờ hẳn đi, không sao trông rõ nữa. Chỉ có chiếc vòng nọ, dưới ánh mặt trời vẫn lấp lánh chói ngời, xói vào mắt cô cay xé.

    Hoàng Tử Hà giơ cánh tay chắn trước mắt, đề màn nước vừa dâng lên thấm cả vào tay áo. Cô gắng nén hơi thở dồn dập, “ừm” một tiếng.

    Lý Thư Bạch ngồi đối diện lặng lẽ nhìn cô, không nói thêm lời nào.

    Cô đang che mắt, không để ai nhìn thấy nét mặt mình. Ngay cả Lý Thư Bạch gần trong gang tấc, cũng chỉ nghe thấy tiếng thở của cô, kìm nén mà gắng gượng.

    Chẳng biết bao lâu sau, cô bỏ tay xuống, vẻ mặt đã bình tĩnh lại, ngay cả đôi mắt cũng chỉ hơi hoe đỏ. Cô nhìn Lý Thư Bạch, chậm rãi nói bằng giọng khàn khàn: “Ta muốn đi viếng mộ người thân.”

    “Ta đi cùng ngươi.” Lý Thư Bạch đứng dậy, thản nhiên như không.

    Cô bước ra khỏi đình, đứng trên chỗ cao nhất của giả sơn, từ từ chìa tay ra.

    Năm ngón vừa buông, leng keng khe khẽ. Chiếc vòng ngọc cô nắm chặt trong tay nãy giờ, rơi xuống hòn đá bên dưới, vỡ nát.

    Hai con cá chạm rỗng cũng vỡ tan, thành vô vàn mảnh vụn lóng láng.

    Chu Tử Tần lao đến nhìn xuống dưới, suýt nữa thì bật khóc: “Sùng Cổ... ta phải lén lấy trộm ra đấy...”

    Lý Thư Bạch vỗ vai hắn: “Nếu có ai hỏi thì cứ bảo là ta lấy.”

    Chu Tử Tần nghe vậy mới thở phào, nghĩ ngợi một lát rồi nói: “Có điều như vậy cũng tốt, cái vòng này cũng chẳng quý giá gì. Ở chỗ Phó Tân Nguyễn chẳng phải có một cái tuyệt đẹp ư? Cái đó cũng bị niêm phong lại rồi, ai hỏi thì lấy nó ra lấp liếm là xong chuyện.”

    Lý Thư Bạch trầm ngâm: “Lấy một cái là lấy, lấy hai cái cũng là lấy, chi bằng ngươi lấy nó ra nốt đi.”

    Chu Tử Tần sững người: “Tại sao?”

    “Di nguyện của Phó Tân Nguyễn là muốn trả nó về cho chũ cũ.” Lý Thư Bạch thản nhiên đáp: “Mà ta lại quen người chủ cũ ấy.”

    Phó Tân Nguyễn khước từ vinh hoa phú quý trong tầm tay, toan gột sạch phong trần, gả vào một nhà bình dân. Tiếc rằng, mộng tưởng thực tế ấy cũng không thể đạt được.

    Nghe Lý Thư Bạch nói vậy, Chu Tử Tần gật đầu: “Không vấn đề, cứ giao cho tôi. Có điều, nếu gia muốn, chỉ cần bảo cha tôi một câu là được mà...”

    Lý Thư Bạch lắc đầu: “Chuyện này càng ít người biết càng tốt.”

    Chu Tử Tần buồn rầu nhìn y: “Được thôi... Nếu lộ ra, cha tôi đánh tôi chết, gia nhớ nhặt xác cho tôi đấy...”

    “Yên tâm đi.” Lý Thư Bạch vẫn điềm nhiên, “Ta sẽ đích thân viết điếu văn cho ngươi.”

    Giữa rừng hoang, lưng quay hướng Bắc, mặt ngoảnh phương Nam, ánh tà dương ấm áp chiếu lên khu mộ.

    Phần mộ rất sạch sẽ, trừ mấy chiếc lá rụng lác đác ra thì chẳng khác nào mảnh sân nhà người ta. Trong bát hương đá vẫn còn tro hương, đỉnh đá đầy ắp tịnh thủy.

    Vũ Tuyên chăm chút phần mộ rất chu đáo, nên họ cũng chỉ quét mộ làm vì, rồi bày đồ cúng ra bàn.

    Hoàng Tử Hà dập đầu trước mộ cha mẹ, lầm rầm khấn vái.

    Lý Thư Bạch đứng phía sau, chăm chú ngắm gương mặt cúi thấp của cô.

    Thật ra, công không phải giai nhân nghiêng nước nghiêng thành, song lại toát lên vẻ thanh tao lanh lợi, quật cường cố chấp rất riêng, khác hẳn những nữ tử y từng gặp.

    Trên đời này có ngàn vạn kiểu nữ tử. Nhưng khi nhìn cô, y chợt nhủ thầm, có lẽ cả đời này cũng chẳng thể gặp được ai giống như thiếu nữ này nữa.

    Đợi cô đứng dậy, y bèn hỏi: “Tiếp theo ngươi định thế nào?”

    Cô nhìn bia mộ cha mẹ, còn chưa kịp đáp thì Chu Tử Tần đã chen vào: “Đương nhiên là đến nha môn, làm tổng bổ đầu quận Thục rồi! Sùng Cổ... À không, Hoàng tiểu thư! Miễn cô chịu đến, tôi sẽ nhường ngay chức tổng bổ đầu cho cô, về sau tôi đi theo cô, tất cả vụ án ở đây giao hết cho cô, giống như khi trước vậy, dân chúng quận Thục cần cô mà!”

    Hoàng Tử Hà lắc đầu: “Trên đời làm gì có nữ bổ đầu chứ.”

    “Dào ôi, cô làm sao biết được? Tắc Thiên hoàng đế là nữ mà còn đăng cơ xưng đế được đấy thôi, cô làm nữ bổ đầu thì có hề gì?” Nói rồi, gã kéo luôn Lý Thư Bạch vào, “Huống hồ có Quỳ vương ở đây, đặt thêm một chức nữ bổ đầu quận Thục chẳng phải dễ như trở bàn tay ư? Không vấn đề gì đâu.”

    Lý Thư Bạch không đáp lời gã.

    Hoàng Tử Hà cũng lặng thinh, quay sang nhìn y.

    Lý Thư Bạch cũng nhìn cô, ánh mắt đôi bên gặp nhau, đều nhận ra vẻ lưỡng lự của người kia.

    Thiên hạ Đại Đường mênh mông là vậy, song tương lai của một nữ tử vẫn chẳng biết gửi gắm vào đâu.

    Chu Tử Tần lại hỏi: “Giờ chân tướng đã rõ, lẽ nào cô còn muốn về phủ Quỳ vương làm một hoạn quan hạng bét ư?”

    “Tôi...” Cô tần ngần, muốn nói lại thôi.

    Chợt nghe thấy tiếng bước chân tiến lại, mấy ông lão đang đi về phía này.

    Hoàng Tử Hà nhận ra mấy bậc bề trên dòng khác ở Xuyên Thục, thuộc hàng cha chú với mình, vội bước đến chào hỏi. Sau khi tham kiến Quỳ vương, họ bảo với cô: “Cha mẹ con đều đã qua đời, huynh trưởng cũng chẳng còn, giờ chỉ có một thân một mình. Con gái con đứa, dù sao cũng không thể nương tựa người ngoài, chi bằng quay về với tộc họ Hoàng đi. Có rất nhiều việc con không tiện ra mặt, người lớn trong tộc sẽ sắp xếp thay con.”

    Hoàng Tử Hà im lặng cúi đầu.

    Thấy cô không đáp, một vị vai vế cao nhất bèn nói: “Con là đứa xuất sắc nhất trong hàng con cháu họ Hoàng, người trong tộc không xử tệ với con đâu. Cha con làm quan nhiều năm, gia tộc đã kiểm kê gia sản của ông ấy, con cũng lớn tuổi rồi, khi nào gả đi sẽ cho đem cả về nhà chồng.”

    Hoàng Tử Hà lẩm bẩm: “Nhà chồng ư?”

    “Đúng thế, chẳng phải con có hôn ước với nhà họ Vương Lang Gia ư? Trước đây con hàm oan, bị truy nã toàn quốc, may mà nhà họ chân tình, không hề nhắc tới việc hối hôn. Sáng sớm nay, chồng chưa cưới của con là Vương Uẩn còn đích thân tìm đến, báo rằng con đã rửa sạch oan khuất, nhờ chúng ta mau mau sắp xếp ổn thỏa cho con, hai nhà Vương, Hoàng, vĩnh viễn kết thân.”

    Hoàng Tử Hà sực nhớ ra hôn ước giữa cô và Vương Uẩn vẫn chưa hề xóa bỏ. Tính ra thì, họ vẫn là vợ chồng chưa cưới.

    Vương Uẩn ra tay thật nhanh, khiến người ta phục sát đất.

    “Giờ Chu quận thú đã vào ở phủ quận thú, con thân gái một mình lưu lạc bên ngoài thật không ổn, chi bằng mau thu dọn đồ đạc, quay về với gia tộc đi.”

    Hoàng Tử Hà yếu thế đành gật bừa, chỉ thấy lòng rối như tơ, chẳng biết làm sao mới phải.

    Các bậc bề trên trong tộc lại ùn ùn quay sang hàn huyên cùng LýThư Bạch, tiện thể chiêm ngưỡng phong thái hoàng thân quốc thích, ai nấy cười tươi như hoa.

    Hoàng Tử Hà lặng lẽ đi đến bên mộ, ngồi xuống một phiến đá, ngơ ngác nhìn Lý Thư Bạch bị cả đám người vây quanh.

    Giữa hai người họ, rốt cuộc là quan hệ gì đây?

    Cô từng là hoạn quan trong vương phủ, song giờ đã bộc lộ thân phận, không thể quay về làm một hoạn quan hạng bét, ngày ngày ở bên y nữa.

    Y cũng từng hứa, sau khi cô phá được vụ án Vương Nhược, sẽ giúp cô rửa sạch oan khiên. Giờ đây cô đã gột hết tiếng xấu, quan hệ hợp tác giữa đôi bên cũng kết thúc.

    Họ từng nương tựa vào nhau lúc đêm khuya trong rừng thẳm, từng ôm nhau ngủ thiếp đi, cũng từng nắm tay đi dưới ánh dương.

    Y từng nói với cô, trên trời dưới đất, đều quá xa xôi.

    Cô từng nói với y, nhất định sẽ ở bên cạnh gia.

    Nhưng những lời đã nói đều như mây tan tác giữa trời; những việc đã làm cũng như nước trôi đi là hết, có thể tính là thật được ư?

    Đợi mọi người trong tộc cáo từ, cô cũng từ biệt người thân, cưỡi Na Phất Sa thong thả đi theo đường mòn đi vào thành.


    Lý Thư Bạch sánh vai đi ngang hàng với cô, chợt quay đầu nhìn.

    “Tử Hà...” Y khẽ gọi tên cô.

    Hình như, đây là lần đầu tiên y gọi cô như thế.

    Hoàng Tử Hà quay sang nhìn y.

    Chẳng đợi y lên tiếng, Địch Ác đã đi sát vào Na Phất Sa, tức thì hai người trên lưng ngựa cũng chỉ còn cách nhau chưa đầy nửa thước.

    Nghe được cả hơi thở của người kia.

    Hoàng Tử Hà bối rối quay đi, song y đã kịp ghé tai cô nói nhỏ: “Đừng lo, mọi chuyện đã có ta đây.”

    Lòng cô, bỗng nhiên xao động.

    Bao phiền não ưu sầu như phù vân, nhờ câu này của y, đã hoàn toàn tiêu tan.

    Cô cúi đầu, nhớ lại trước đây khi mới làm tiểu hoạn quan bên cạnh y, cũng từng nơm nớp lo sợ bị người ta nghi ngờ, bấy giờ y nói, ta sẽ giải quyết giúp ngươi.

    Quả nhiên, ngoại trừ Vương Uẩn, không một ai nghi ngờ thân phận cô.

    Cô chẳng rõ y dùng cách nào. Nhưng cô tin, y đã nói được là sẽ làm được. Bởi y là Quỳ vương Lý Thư Bạch.

    Chu Tử Tần ở phía sau, cưỡi Tiểu Hà đuổi đến hỏi: “Sùng Cổ cười gì với gia thế?”

    Hoàng Tử Hà quay đi, chẳng buồn đáp lời.

    “Ôi ôi... ta vẫn chưa quen, cứ nhầm là Sùng Cổ.” Chu Tử Tần vừa nói vừa đi lòng vòng quanh cô, “Cô xem, giờ cả cây trâm khi trước cũng không cài, đổi thành cây khác rồi, đúng là ta vẫn chưa quen mà.”

    Hoàng Tử Hà lặng lẽ giơ tay lên vuốt tóc mai, rồi quay sang nhìn Lý Thư Bạch, thong thả rút trong ngực áo ra một cây trâm.

    Cây trâm nhẵn bóng, trên đầu là hoa văn cỏ lá cuốn, bên dưới là thân trâm bằng bạc. Ấn vào hình cỏ lá cuốn là rút được trâm ngọc bên trong ra mà không bị xổ tóc.

    Cô khẽ phân trần: “Để trong quận thú sợ đánh mất, nên ta đem theo bên người.”

    Lý Thư Bạch mỉm cười. Chu Tử Tần càng không hiểu sao hai người lại cười, đành nói sang chuyện khác: “Được rồi, Sùng Cổ... Nếu cô thật sự là Hoàng Tử Hà, thì ta vừa nghĩ ra chuyện này, gay go rồi đây!”

    Hoàng Tử Hà nhìn hắn dò hỏi.

    Chu Tử Tần đầy vẻ lo lắng: “Cô là vợ chưa cưới của Vương Uẩn, song cũng là tiểu hoạn quan bên cạnh vương gia, chuyện này... sau khi về kinh nếu có ai hỏi ta Dương Sùng Cổ đâu rồi, ta đáp rằng Dương Sùng Cổ gả cho Vương Uẩn rồi, cháu đích tôn nhà họ Vương Lang Gia lại lấy một tiểu hoạn quan, không hiểu mọi người sẽ nghĩ sao?”

    Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà sững sờ trước suy nghĩ quái dị của hắn, nhất thời đều nín lặng không đáp.

    “Đúng không nào? Nghĩ việc gì phải nghĩ cho toàn vẹn, ta thấy cách giải quyết vấn đề này rất quan trọng, trước mắt chúng ta phải tổ chức một đại hội kể rõ thân phận Dương Sùng Cổ ở Trường An...”

    “Tử Tần.” Lý Thư Bạch không dằn được hỏi, “Có biết gần đây lệnh tôn lại cậy người mai mối cho ngươi không?”

    “Ô? Thật à? Là con gái nhà nào thế?” Chu Tử Tần tức thì vứt ngay đại hội nhảm nhí kia lên tít chín tầng mây, “Có giống Hoàng Tử... à quên, không nhắc chuyện này nữa. Đẹp không? Thông minh không? Tính tình thế nào?”

    “Không biết. Nhưng nghe nói lại bị từ chối rồi.”

    “Hahaha... Tôi quen rồi.” Chu Tử Tần vung tay, “Chẳng hiểu sao tôi mới đến quận Thục ít lâu mà ai cũng biết tôi thích bầu bạn với thi thể! Có kẻ còn đồn rằng đêm đêm tôi nằm ngủ cạnh đống xác đấy. Thật ra tôi nghĩ cũng có thể, rất tiện nghiệm thi, nhưng nghĩa trang Thành Đô lạnh quá, chắc không ngủ nổi, đúng không? Lạ nhất là ai cũng tin cả, cha tôi muốn đi lừa con gái nhà người ta, nhất định không lừa được đâu...”

    Tuy Chu Tử Tần cứ huyên thuyên luôn miệng, nhưng dù sao cũng chẳng liên quan gì đến mình, Hoàng Tử Hà và Lý Thư Bạch đành mặc kệ gã.

    Sau khi vào thành, họ đi dọc theo con đường rải đá, Chu Tử Tần thoạt nhìn đã trông thấy Nhị cô nương lại nghênh ngang bày sạp thịt dê ngay giữa đường.

    “Quá lắm rồi! Nhị cô nương, ta đã bảo bao nhiêu lần, đẩy xe thịt dẹp vào lề đường đi!” Chu Tử Tần nhảy xuống ngựa, đứng chống nạnh giữa phố, quát lên.

    Nhị cô nương vung con dao bầu thái thịt, lườm Chu Tử Tần một cái sắc lẻm, thản nhiên đáp: “Ô, bổ đầu đụt đấy à, dạo này chẳng phải ít đi tuần ư, sao tự dưng lại chường mặt ra rồi?”


    Chẳng hiểu sao, Chu Tử Tần bỗng lộ vẻ căng thẳng pha lẫn hí hửng: “Gần đây... gần đây phá được một vụ án lớn, cô chưa nghe tin à?”

    “Nghe rồi, Dương công công hầu cận Quỳ vương cũng theo vương gia đến Thành Đô, sau nhiều ngày điều tra, chỉ trong một đêm đã phá liền ba vụ án. Ba vụ án này vừa liên quan đến nhau, lại vừa rời rạc tản mác, quả là án trong án, mê trong mê, muôn phần rối rắm, phức tạp kinh người. Bổ đầu quận Thục chúng ta bó tay tắc tị, đành trông cả vào người ta.”

    Vừa nói Nhị cô nương vừa đẩy xe vào lề đường, lại băm bổ luôn tay chặt sườn.

    Chu Tử Tần tiu nghỉu lên ngựa, quát nốt một câu vớt vát: “Được lắm! Xem ra vẫn chưa quên chỗ ta sắp cho cô! Về sau bày sạp thịt ở đấy, cấm được lấn ra đường đấy!”

    Nhị cô nương tủm tỉm, nguýt gã: “Biết rồi, bổ đầu đụt!”

    Chu Tử Tần lại có vẻ vừa căng thẳng vừa hí hửng, giúc ngựa đi tiếp. Nhìn vẻ mặt hắn, Hoàng Tử Hà không nén nổi tò mò: “Sao thế?”

    Chu Tử Tần đỏ bừng mặt, ấp úng đáp: “Cô ấy... cô ấy gọi ta là bổ đầu tốt trước mặt bấy nhiêu người, cách gọi này nghe ngường ngượng nhỉ...”

    Hoàng Tử Hà không nhịn được ôm trán phá lên cười: “Bổ đầu đụt!”

    “Gì cơ... Không phải bổ đầu tốt à?” Chu Tử Tần giờ mới nghe thủng, ngẩn người ra. Thấy Hoàng Tử Hà vẫn cười ngặt nghẽo, gã bèn tóm lấy dây dương ngựa của cô, vặn hỏi: “Bổ đầu đụt là sao?”

    Hoàng Tử Hà chưa dứt cơn cười, đang định đáp thì một bà thím đi ngang qua chen vào: “Người Xuyên Thục chúng tôi nói 'đụt' có nghĩa là đần độn.”

    Nghe câu này, ngay Lý Thư Bạch cũng phải phì cười. Chu Tử Tần thẹn quá hoá giận, buông một câu: “Các vị đi trước đi!” rồi thúc A Hà quay ngoắt lại, xông thẳng đến chỗ Nhị cô nương.

    Hoàng Tử Hà và Lý Thư Bạch dừng ngựa ngoảnh lại, thấy Chu Tử Tần hung hăng xông đến, bị Nhị cô nương mắng cho té tát, ỉu xìu ngồi thụp xuống góc tường thì bật cười nhìn nhau.

    Hoàng Tử Hà nhận xét: “Nhị cô nương dữ thế kia, xem ra không sợ thi thể đâu.”

    Lý Thư Bạch gật đầu.

    “Làm gì? Định gây chuyện với tôi hả? Đàn ông đàn ang, đã đi xa thế rồi mà còn vòng lại gây gổ với đàn bà con gái vì một câu nói à?” Giọng Nhị cô nương lanh lảnh vang xa.

    Chu Tử Tần gầm lên: “Ai bảo thế! Ta... Ta quay lại mua cá!”

    Rồi để chứng minh, gã trỏ ngay sạp cá bên cạnh, hùng hổ: “Ông chủ, ta mua hết, đưa đến nha môn nhé!”

    Nhìn chủ hàng cá mừng như bắt được vàng, hối hả trút đủ thứ cá, Hoàng Tử Hà lộ vẻ lo lắng.

    Lý Thư Bạch hỏi: “Lại nhớ đến con cá của Tề Đằng ư?”

    “Vâng...” Hoàng Tử Hà trầm ngâm, “Theo những gì tra được thì khi Vũ Tuyên bị Mộc Thiện đại sư xúi giục giết hại người nhà ta, con cá ấy vẫn còn. Nhưng đến khi Vũ Tuyên tự vẫn trước mộ rồi quên hết mọi chuyện, nó lại biến mất.”

    “Ta nghĩ nhất định đã xảy ra chuyện gì đó, bằng không khi Tề Đằng nhắc tới, sắc mặt Vũ Tuyên sẽ không khó coi như thế. Dù Vũ Tuyên không nhớ ra được, nhưng rõ ràng vẫn có ấn tượng rất mạnh với nó.”

    “Còn nữa, Tề Đằng lấy đâu ra trẩm độc? Cả Mộc Thiện đại sư nữa? Chúng ta có nên tới gặp ông ta hỏi thử không?”

    “Viên tịch rồi.” Lý Thư Bạch đáp.

    Cô tròn mắt ngạc nhiên.

    “Sáng sớm nay, quân Tây Xuyên đưa ông ta về đến cửa chùa Quảng Độ. Thiền phòng của ông ta ở trên núi, phải lần theo bậc thềm đi lên. Tảng sáng bậc thềm còn ướt sương đêm, ông ta lại cao tuổi, sơ ý trượt chân ngã, qua đời rồi.” Lý Thư Bạch nhíu mày, “Sáng sớm nay ta sai người đến tìm mới hay tin.”

    Hoàng Tử Hà nói khẽ: “Chẳng biết con cá của Tề Đằng có liên quan gì tới con của gia không? Còn cả con của Vương Tông Thực nữa?”

    “Tất cả vẫn nằm trong vòng bí ẩn, mà những đầu mối tìm được lại đứt hết rồi. Khiến người ta không khỏi hoài nghi, phải chăng có một bàn tay khổng lồ mà chúng ta chưa thấy đứng sau thao túng tất cả? Chúng ta không nhìn thấy, nhưng rõ ràng có thể cảm nhận được sự tồn tại của nó.”

    Y quay sang nhìn cô, cuối cùng vẫn giấu không nói, lá bùa trong hộp của mình, lại biến đổi.

    Họ ghìm cương đứng giữa đường, ngắm cảnh phố xá phồn hoa ngựa xe như nước.

    Phù dung khắp thành đã nở rộ như gấm thêu, từng cụm từng đoá, rải khắp vạn nhà. Phong cảnh thế tục lần lượt trôi qua trước mắt, cuộc sống mới mẻ, quá khứ quỷ dị, vận mệnh gập ghềnh, họ chẳng cách nào tránh né, đành đối diện với tất cả.

    Con cá nhỏ trong bình lưu ly nhẹ nhàng nổi lên mặt nước, làm loang ra vô vàn đợt sóng.
     
  11. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Quyển 4 - Chim liền cánh

    [​IMG]
    Vụ án gia đình đã sáng tỏ, "Tiểu thái giám" Dương Sùng Cổ đã quang minh chính đại lấy lại tên Hoàng Tử Hà, nhưng kèm theo đó là danh phận cô không hề mong muốn: Vị hôn thê của Vương Uẩn. Mối quan hệ giữa ba người Hoàng Tử Hà - Lý Thư Bạch - Vương Uẩn bỗng trở nên khó xử lạ lùng.

    Cùng lúc thế lực giấu mặt mà họ phải đối đầu ngày càng gia tăng áp lực, Quỳ vương bị vu cáo bắt giam, Hoàng Tử Hà đành cầu đến sức mạnh nhà họ Vương trợ giúp, món nợ với Vương Uẩn càng thêm nặng.

    Bí ẩn về loài cá thích máu người A Già Thập Niết, lá bùa quỷ dị đã theo Lý Thư Bạch bấy nhiêu năm, bức tranh với ba vệt mực đen do tiên hoàng để lại, những bí mật không lời giải ấy lại là manh mối duy nhất để Hoàng Tử Hà phá giải câu đố lớn nhất trong đời của Quỳ vương Lý Thư Bạch, cũng để giải cứu người cô yêu thương nhất trên đời này.
     
  12. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 1 - Nghê thường vũ y
    Trăng trung thu sáng vằng vặc.

    Bóng quế đung đưa, hương thơm ngan ngát. Trời vừa chạng vạng, vô vàn ngọn đèn lồng bọc sa mỏng đã được thắp trên cây quế, soi bóng xuống mặt nước lung linh, điện ngọc lầu quỳnh, bóng hoa gió lộng, nhất thời chẳng biết là cảnh nhân gian hay tiên cảnh.

    Trong ngôi đình nhỏ bên bờ nước, tiếng đồng ca của các ca nữ nghe còn rõ hơn tiếng trúc tơ. Trên vũ đài, ba mươi thiếu nữ vận áo gấm nắm tay nhau cùng múa. Đeo châu giắt ngọc, áo khăn lộng lẫy, hoa lệ vô vàn.

    Hoàng Tử Hà ngồi sau bức rèm ở nhà thủy tạ cùng nữ quyến, nghe tiếng ca theo gió đưa tới. Đây là vườn hoa phủ tiết độ sứ Tây Xuyên, hôm nay là Trung thu, tiết độ sự Phạm Ứng bày tiệc tại phủ mời Quỳ vương Lý Thư Bạch. Về phần Hoàng Tử Hà thì được Phạm phu nhân đưa thiếp mời, cùng mấy cô nương họ Hoàng tới thưởng thức điệu Nghê Thường.

    Sau loạn An Sử, điệu múa này đã thất truyền, nhưng giờ kỹ viện ở Dương Châu tham khảo các nghệ nhân lão thành tại giáo phường rồi dựng lại, nghe nói đã đạt đến tuyệt đỉnh tinh hoa.

    Khách nam được tiếp đãi ngoài đại sảnh, còn Hoàng Tử Hà cùng nữ quyến thì ở phía sau. Giữa nhà thủy tạ treo bức rèm trúc, sau rèm trúc lại buông một lớp màn the, nên ngồi bên trong nhìn ra, các vũ nữ phía ngoài cũng mờ mờ ảo ảo, như ngắm hoa trong mây mù.

    Các phu nhân tiểu thư vừa thưởng thức vừa tranh thủ tán gẫu, câu được câu chăng.

    "Tử Hà tỷ, đại ca muội cứ luôn miệng nhắc đến tỷ, hôm qua còn huênh hoang rằng tỷ và huynh ấy thông minh ngang nhau, bị muội mắng cho một trận. Hừ, huynh ấy mà đòi sánh với tỷ ư?" Chu Tử Yên ngồi bên cạnh chống cằm nhìn cô cười, "Theo muội thấy, tỷ nhất định là cô gái hoàn mỹ nhất trên đời.!"

    Hoàng Tử Hà ngượng nghịu cúi đầu: "Đâu có."

    Chu Tử Yên giống hệt Chu Tử Tần, rất giỏi tự nói tự nghe, chẳng buồn quan tâm người khác ra sao, cứ thế thao thao bất tuyệt: "Rõ là thế mà! Tỷ tỷ xinh đẹp, dòng dõi thế gia, lại là tài nữ lừng danh thiên hạ. Chồng chưa cưới là đích tôn chi trưởng họ Vương Lang Gia, sau này tỷ gả vào đó khỏi cần nghĩ cũng biết là mỹ mãn một đời."

    Hoàng Tử Hà lặng lẽ cúi đầu, chẳng biết trả lời ra sao, chỉ nhìn qua lớp rèm, dõi mắt về phía Vương Uẩn. Tuy chỉ thấy thấp thoáng bóng hình, song phong tư xuất chúng nọ cũng đủ khiến muôn ngàn thiếu nữ xiêu lòng.

    Vị hôn phu của cô đã đính hôn từ nhỏ xuất thân con nhà gia thế, phong nhã hào hoa, lời nói cử chỉ đều khiến người ta như được tắm gió xuân. Vậy mà, dù biết là không nên không phải, cô vẫn không thể kìm lòng nảy sinh tình cảm với Vũ Tuyên, kẻ mồ côi được cha mẹ cô nhận nuôi.

    Bức thư tình cô gửi Vũ Tuyên đã trở thành chứng cứ khép tội cô hạ độc giết cả nhà, trong lúc chạy trốn lên kinh tìm cách minh oan, cô gặp được bước ngoặt quan trọng nhất trong đời.

    Ánh mắt cô vượt qua Vương Uẩn, dừng lại ở một bóng người xa hơn.

    Giữa đám người xúm xít ton hót lấy lòng, y càng lộ rõ vẻ thanh cao ngạo nghễ, tao nhã hào hoa. Quỳ vương Lý Thư Bạch, kỳ tích trong đời cô, cứu tinh giữa lúc tuyệt vọng của cô, người đã khiến cô gạt bỏ tất cả dự định ban đầu, tiếp nhận vụ án đầu tiên bên cạnh y, đổi lấy lời hứa y giúp cô quay về Thục, lật lại bản án gia đình, minh oan cho chính bản thân mình.

    Giờ đây, y đã đưa cô về phủ Thành Đô, vụ án nhà cô cũng đã sáng tỏ, song Vương Uẩn, chồng chưa cưới của cô lại âm thầm đuổi theo truy sát Lý Thư Bạch đến tận đây. Bất ngờ hơn là, sau khi mối tình đầu của cô và Vũ Tuyên đã tai tiếng khắp nơi, ngay cả khi bị cô thẳng thừng vạch trần âm mưu ám sát Lý Thư Bạch, Vương Uẩn vẫn tìm tới gia tộc cô, nhắc lại chuyện hôn nhân.

    Hai người bọn họ còn có kết quả sao? Cuộc hôn nhân đính ước từ bao nhiêu năm trước, giờ đã vật đổi sao dời, lẽ nào cô vẫn phải tuân thủ ư?

    Giữa lúc Hoàng Tử Hà thẫn thờ suy nghĩ, chợt nghe bên tai vang lên tiếng ồn ào. Cô ngoái đầu trông lại thì thấy tất cả vũ nữ có mặt đều đã lùi lại làm nền cho một nữ tử ăn vận lộng lẫy đang xoay tròn, hai tay buông nhẹ như giờ vờn tuyết. Tơ lụa khoác trên người nàng bay tung, như mây như khói, vẫn vít quanh gương mặt, như tiên nơi cung quế tỏa ánh hòa quang. Mọi người xung quanh trầm trồ không ngớt, mãi tới khi mây màu che mờ cả vầng trăng, bóng giai nhân đã chìm khuất giữa đám người, mới định thần lại được.

    Có người thắc mắc: "Là ai múa mở màn vậy?"

    "Còn ai nữa? Là vũ nữ từ Dương Châu đến đó…… Cũng có người nói là từ Bồ Châu. Tóm lại đó là chị em với hung thủ giết người Công Tôn đại nương hôm trước, bà ta ra sức ton hót lấy lòng Phạm Tiết Độ, nghe nói Phạm Tiết Độ đã nhận lời tha cho hai nữ phạm nhân kia rồi."

    Hoàng Tử Hà sực nghĩ đến một người, thất thanh buột miệng: "Là Lan Đại ư?" "Đúng đúng, hình như chính là cái tên này!"

    Hoàng Tử Hà nhìn theo bóng Lan Đại thấp thoáng giữa đám người, không khỏi chạnh lòng cảm khái. Lan Đại đứng thứ ba trong Vân Thiều Lục Nữ, sở trường là những điệu múa uyển chuyển, cũng là người nghĩa khí nhất trong mấy chị em. Sau khi Mai Vãn Trí mất tích, chính Lan Đại đã tìm đủ mọi cách đưa Tuyết Sắc về nuôi nấng; Giờ Công Tôn đại nương và Phó Tân Nguyễn xảy ra chuyện, cũng là Lan Đại bôn ba ngàn dặm đến cứu.

    Người bên cạnh lại nói thêm: "Nghe nói cũng có chồng con rồi, thế mà còn không biết tự trọng, đi tô son điểm phấn mua hát mua vui cho người ta, chồng ả không bận lòng ư?"

    Kẻ khác cười khẩy: "Vũ nữ bán nghệ, biết gì liêm sỉ? Đàn ông cưới hạng gái này về nhà, cũng rặt một phường hạ lưu thôi."

    Mấy vị phu nhân cuối cùng cũng tìm được chủ đề chung, rạng rỡ mặt mày lại xì xầm tán gẫu. Còn mấy tiểu cô nương như Chu Tử Yên lại vừa tò mò vừa e sợ, nhìn Lan Đại đến ngây ra.

    Hoàng Tử Hà bất giác thở dài, giữa tiếng sênh ca văng vẳng làm nền cho điệu Nghê Thường, cô thẫn thờ đi đến bên lan can, nhìn ra vầng trăng tròn soi đáy nước.

    Gió thu dìu dịu, sóng gợn lăn tăn, kéo dài bóng trăng ra rồi thu ngắn lại, xao động không ngừng. Cô tựa lan can, chợt nghe một giọng lành lạnh khẽ vang lên bên tai: "Hoa thơm trăng sáng, cớ gì rầu rĩ chẳng vui?"

    Cô ngoái lại, nhìn Lý Thư Bạch qua bức màn the. Mọi người ngoài đó đang mải thưởng thức điệu múa của Lan Đại, chỉ mình y để ý thấy cô lẳng lặng lẻn ra đây.

    Hoàng Tử Hà cúi đầu dựa lan can, hơi ghé lại gần y đáp khẽ: "Nhớ người nhà thôi."

    Lý Thư Bạch lặng lẽ quay sang nhìn cô. Ánh trăng vằng vặc soi rõ đường nét gương mặt y, đôi mắt đăm đắm còn long lanh in sóng gợn, tưởng như sao trời lấp lánh mới sa vào. Giọng y trầm thấp mà từ tốn: "Người chết đã chết rồi, người còn sống phải gắng gỏi lên. Người nhà cô nhất định cũng mong cô sống vui vẻ, chứ đâu muốn thấy cô chìm trong đau khổ thế này."

    Cô chậm rãi gật đầu, cõi lòng cũng xao động theo bức màn the phơ phất giữa gió thu. Trên vai trái y là vầng trăng tròn vành vạnh, hắt chiếc bóng cao lớn rắn rỏi của y lên cô, vững vàng tin cậy.

    Cô chỉ cảm thấy một cảm xúc khó tả dâng ngập lòng, hơi mù như mây lan khắp lồng ngực, thế giới trước mắt mờ mịt hẳn đi, còn xa xăm mơ hồ hơn khúc nhạc theo gió đưa lại.

    Hai người cùng ngắm vầng trăng nhô lên từ mái lầu phía đằng đông, tỏa ánh dìu dịu khắp mặt đất. Bên tai là tiếng tơ tiếng trúc, nhịp phách dồn dập, ba mươi vũ nữ càng múa càng nhanh, chẳng khác nào ba mươi đóa hoa gấm xoay tròn trên mặt nước, như gió như mây.

    Bóng người loang loáng, tiêu sáo thổi dồn, song Lý Thư Bạch đang nghe lại hơi nhíu mày, khẽ ồ lên một tiếng.

    Hoàng Tử Hà liền hỏi: "Sao thế?" Y trầm tư đáp: "Cây không hầu thứ hai dường như có lẫn tạp âm kim loại." Điệu Nghê Thường Vũ Y phải dùng đến rất nhiều nhạc cụ, lần này gần như là huy động tất cả nghệ nhân ở phủ Thành Đô, thôi thì đủ cả, hai tỳ bà, hai cổ cầm, hai không hầu, một đàn sắt, một đàn tranh, một đàn nguyễn. Còn có hai tất lật, hai sáo, hai sênh, một tiêu, chuông, trống, thanh la, não bạt, khánh, v.v… cả ban hát hơn hai mươi người, theo lệ ngồi bên góc vũ đài diễn tấu.

    Hoàng Tử Hà còn chẳng nhìn rõ người bên ấy, càng không hiểu tạp âm kim loại mà y nói là gì, chỉ liếc qua rồi đáp bừa: "Chắc là gảy sai đấy thôi."

    Lý Thư Bạch quay sang cười với cô, không nói thêm gì nữa.

    Hai người tựa vào lan can, cách một bức màn, cùng xem ca múa. Phía trên là đình đài lầu gác thắp đèn sáng choang, bên dưới là mặt hồ in bóng vũ nữ xoay tròn như gió, đôi đàng đều lộng lẫy xa hoa. Sóng gợn lăn tăn, ngạt ngào hương quế.

    Đúng lúc ấy, chợt nghe loáng thoáng bên hồ có người hô hoán: "Không hay! Xảy ra chuyện rồi!" Hoàng Tử Hà vội nhìn theo, thấy tiếng động phát ra rừ phía bụi xương bồ. Một tên đầy tớ hộc tốc chạy tới, vừa chạy vừa la: "Cứu mạng, cứu mạng! Có người chết!"

    Vừa nghe hai tiếng "người chết", Chu Tử Tần phản ứng nhanh nhất, lập tức chạy đến bên hồ.

    Nữ quyến trong nhà thủy tạ sợ đến hồn phi phách tán, hốt hoảng ôm ngực, chỉ trừ Hoàng Tử Hà và Chu Tử Yên. Hoàng Tử Hà đứng dậy, nhìn qua bức màn ra ngoài, chợt nghe thấy giọng Lý Thư Bạch bình thản mà chậm rãi: "Đi thôi, qua xem thế nào."

    Cô gật đầu, vén rèm bước xuống thềm.

    Bà mợ đi cùng cô đương hoảng sợ, thấy thế cuống quýt hỏi với theo: "Tử Hà, con đi đâu đấy?"

    "Con đi xem người chết." Hoàng Tử Hà cúi mình thi lễ với bà ta, rồi nhanh nhẹn quay người xăm xăm đi về phía bụi xương bồ.

    Chỉ nghe tiếng bà mợ giậm chân đằng sau: "Con gái con đứa đi xem xác chết gì chứ…."

    Hoàng Tử Hà lờ đi, hối hả chạy đến hiện trường.

    Chu Tử Tần đang ngồi chồm hỗm giữa bụi xương bồ, xem xét thi thể nữ nằm sấp. Phần đầu chìm trong nước, vai và lưng nửa ẩn nửa hiện, từ eo trở xuống nằm trên nền đất bùn, hai tay vươn ra đằng trước, cắm vào bùn lầy, chết dưới nước trong một tư thế kỳ quái.

    "Sùng Cổ! Mau lại đây xem cái xác này!" Chu Tử Tần đang bí, thấy cô đến thì vẫy tay lia lịa. Gã vẫn quen miệng gọi cô là Sùng Cổ, xem chừng không thể chấp nhận việc cô là con gái.

    Hoàng Tử Hà đi đến gần, nhận ra phía trước là bùn lầy mà mình lại đang đi giày tơ, vận váy xếp nếp, không tiện lội xuống, bèn dừng lại, cầm lấy một chiếc đèn lồng từ tay bổ khoái bên cạnh, giơ sang soi thi thể.

    Người chết là nữ, hơi đẫy đà, tóc vấn theo lối hoa huệ bê bết bùn, quần áo dính đầy bùn đất, không sao nhận ra kiểu dáng ban đầu nữa.

    Chu Tử Tần lật cái xác lại, kéo đôi tay lúc sâu dưới bùn ra, vốc nước rửa sạch.

    Người này áng chừng mười tám mười chín, da dẻ trắng nõn, mặt mũi đoan trang, cũng coi như có nhan sắc. Đôi tay thon dài nhỏ nhắn, song khi cắm xuống bùn đã bị xây xước vô số chỗ, chưa kể một vết xước dài từ mu bàn tay kéo đến tận dưới đốt xương ngón giữa.

    Hoàng Tử Hà chậm rãi giơ ngọn đèn lồng lên, xem xét mặt mũi tử thi, thấy vẫn còn vết phấn lem luốc bèn bảo: "Tử Tần, đi gọi ông bầu gánh hát tới đây nhận mặt, xem có phải là người của họ không."

    "Ôi chao! Bích Đào à! Cô chết thảm quá!" Bầu gánh sụt sùi mếu máo, khiến người ta không nỡ nhìn.

    Chu Tử Thần hỏi: "Là người của gánh các vị ư?"

    "Thưa vâng, Bích Đào là người của chúng tôi, lúc đến đây hẵng còn sớm nên cô ấy nói muốn đi dạo trong vườn, đợi mãi tới giờ diễn vẫn chẳng thấy về. May mà Úc Lý đi theo cô ấy cũng đã tập qua khúc Nghê Thường Vũ Y, chúng tôi đành để Úc Lý thay vào."

    Hoàng Tử Hà nhìn sang Úc Lý, thấy cô ta vóc người nhỏ nhắn, đang bưng mặt khóc gào: "Sư phụ, sư phụ ơi…"

    Còn đương trầm ngâm, Chu Tử Tần đã ghé tai thì thào: "Vụ này khó quá!"

    Hoàng Tử Hà liếc gã: "Sao vậy?"

    "Sùng Cổ xem, có rất nhiều điểm lạ lùng! Thứ nhất, người chết nằm úp mặt xuống bùn, nằm ngay bên mép nước, đáng lý phải là bị người ta túm tóc ấn xuống nước cho chết sặc, nhưng đầu tóc người này tuy hơi rối song không có dấu vết bị lôi túm." Hoàng Tử Hà gật đầu.

    Thấy cô không phản đối, Chu Tử Tần phấn chấn nói tiếp: "Thứ hai là, hung thủ ấn đầu nạn nhân xuống nước, như vậy phải ngồi hoặc quỳ bên cạnh, nhưng cạnh cái xác không có dấu chân, lẽ nào hung thủ ngồi lên trên người nạn nhân ư? Như thế làm sao vận sức được?"

    Hoàng Tử Hà nghĩ ngợi rồi hỏi: "Vậy công tử thấy tiếp theo phải bắt tay từ đâu?"

    "Ta cho rằng, đầu tiên phải kiểm tra giày và quần áo tất cả mọi người, hễ thấy giày hay áo ai dính bùn hoặc bị ướt thì bứt đi thẩm vấn, đặc biệt là đàn ông khỏe mạnh."

    Hoàng Tử Hà vặn lại: "Công tử chẳng nói hiện trường không có dấu chân ư?"

    "Cái đó…có lẽ hung thủ dùng cách gì đó xóa dấu vết rồi."

    Hoàng Tử Hà ngồi xuống, soi đèn vào thi thể Bích Đào rồi vén tay áo nạn nhân lên, trỏ cổ tay hỏi: "Công tử thấy những vết thương này chứ?" Chu Tử Tần gật đầu:

    "Chắc là bị đá dăm lẫn trong bùn cứa phải."

    "Trừ vết bị đất đá cào xước thì còn gì nữa?"

    Chu Tử Thần nhìn kỹ lại, rồi trỏ vết thương dài từ mu bàn tay đén tận gốc ngón giữa: "Cái này….Hình như hơi khác."

    Hoàng Tử Hà nghiêng đầu nhìn sang, ý bảo gã nghĩ tiếp: "Công tử đoán xem, tại sao lại có vết thương này, bị cào xước như thế nào?"

    Chu Tử Tần bấy giờ mới à lên: "Có kẻ đã giật thứ gì đó từ tay Bích Đào! Cào xước luôn tay cô ta!"

    "Ừm…" Hoàng Tử Hà gật đầu, lại hỏi: "Bích Đào có phải là người gảy không hầu thứ hai trong ban hát của các vị không?" Bầu gánh gật đầu thưa: "Đúng thế."

    "Vậy người tấu không hầu thay chân Bích Đào hôm nay là Úc Lý ư?"

    "Thưa phải, khúc Nghê Thường Vũ Y cần hai cây không hầu, Bích Đào là cây thứ hai. Không phải độc tấu, chỉ hòa tấu, nên chúng tôi mới dám để Úc Lý thay vào."

    Hoàng Tử Hà đưa mắt nhin Úc Lý đang khóc lóc, thong thả nói: "Thế thì, tôi nghĩ Úc Lý cô nương nên giải thích đôi lời về lý do giết sư phụ, các vị thấy thế nào?"

    Câu này đột ngột buông ra khiến tất cả mọi người trong ban hát sững sờ, Úc Lý bưng mặt khóc òa lên: "Tôi… Sao lại là tôi? Oan cho tôi quá…"

    Chu Tử Tần kinh ngạc ngoái lại, thấy Hoàng Tử Hà đầy vẻ đoan chắc mới nghi hoặc đi một vòng quanh Úc Lý rồi vòng lại ghé tai hỏi Hoàng Tử Hà: "Sủng Cổ có lầm không đấy? Quần áo cô ta sạch bong, giày cũng không lấm bùn, chỉ có ống tay áo hơi lem luốc thôi. Huống hồ cô ta nhỏ người hơn hẳn Bích Đào, trông tay cũng chẳng lấy gì làm khỏe, sao có thể dìm đầu nạn nhân xuống nước được?"

    Hoàng Tử Hà không đáp mà đi thẳng đến chỗ Úc Ly vén tay áo cô ta lên.

    Dưới ống tay áo là một xâu vòng vàng phải đến năm sáu chiếc, ôm lấy cổ tay.

    Mấy nhạc công bên cạnh ồ lên: "Đây là xâu vòng của Bích Đào mà! Mấy hôm trước cô ấy còn khoe với chúng tôi, nói là tài tử Trần Luân Vân tặng."

    Úc Lý vô thức giấu cánh tay đeo vòng vào ngực, song thấy mọi người vẫn đổ dồn ánh mắt nhìn mình thì hoảng sợ khóc nức nở lên: "Đây…Đây là sư phụ cho tôi mượn…"

    "Thật sự? Sư phụ cô tốt thật đấy, không chỉ mất tích đúng lúc quan trọng để cô thế chỗ, còn tặng cả xâu vòng vàng cho cô nữa. Tiếc rằng cô ấy quên mất một chuyện."


    Đoạn Hoàng Tử Hà quay sang bầu gánh: "Ban hát nhà các người bình thường kỷ luật lỏng lẻo thế à? Lúc diễn tấu còn cho đeo trang sức ư?"

    Bầu gánh vội vàng đáp: "Chuyện đó… Chúng tôi quản rất nghiêm, từ khi bắt đầu truyền nghề đã dạy, trong lúc gảy đàn không được đeo vòng nhẫn, khi thổi tiêu sáo không cho đeo hoa tai dài hay vòng buông rũ. Trước khi lên sân khấu nhất loạt thu lại hết, để khỏi ảnh hưởng khi biểu diễn."

    "Đúng thế, nếu là một chiếc vòng hay cái lắc có thể lén dấu vào áo sẽ gồ lên, rất dẽ bị phát hiện. Huống hồ sư phụ vừa mất tích, xâu vòng đã rơi vào tay Úc Lý, chẳng phải càng chứng tỏ cô ta là hung thủ hay sao? Thế nên, chỉ còn một cách duy nhất là đeo vào cổ tay mình. Cũng may, chỉ cần đẩy lên một chút, để tay áo rủ xuống là che dấu được thôi." Nói đoạn, Hoàng Tử Hà bỏ tay cô ta xuống, "Bởi vậy, cô bất chấp quy củ không được đeo vòng nhẫn khi diễn tấu, vì chỉ có cách ấy mới giấu được xâu vòng này. Tiếc rằng cô xui xẻo, lại gặp phải Quỳ vương, hơn nữa trong khi diễn tấu không cẩn thận để xâu vòng chạm vào dây đàn, bị vương gia nghe được."

    Lý Thư Bạch và mọi người đã kéo đến nghe cô giảng giải, lúc này mới lên tiếng: "Đúng thế, bấy giờ đoạn giữa khúc Nghê Thường Vũ Y sắp kết thúc, ta chợt nghe thấy tiếng đàn từ cây không hầu thứ hai có lẫn tạp âm kim loại, có lẽ Hoàng tiểu thư cũng đoán ra từ điểm này."

    Ánh mắt mọi người nhìn Lý Thư Bạch bỗng tràn đầy ngưỡng mộ. Cây đàn thứ hai thường chỉ là hòa tấu, không phải chủ tấu, tiếng đàn cũng bị lẫn vào âm thanh của các nhạc cụ khác. Chẳng ai ngờ chỉ bằng một âm thanh ấy, y đã đoán ra cây đàn nọ có vấn đề.

    Cũng có người tỏ vẻ kính nể Hoàng Tử Hà, dựa vào manh mối nhỏ đó mà luận ra hung thủ.

    Trong ban hát có người nói: "Tôi nhớ ra rồi, bấy giờ khi tất cả vào chỗ mà chưa thấy Bích Đào, chính Úc Lý đã chạy đi tìm, rồi trở về bảo không tìm thấy. Có phải chính lúc đó cô ta đã dìm Bích Đào xuống nước không?"

    "Có nhẽ đâu thế." Bầu gánh nhăn mặt, "Úc Lý nhỏ nhắn như thế, làm sao đủ sức dìm được Bích Đào? Lẽ nào đúng là cô ta một mình giết hại Bích Đào, rồi lại bình thản quay về ư?"

    Úc Lý gật đầu lia lịa, kêu khóc thảm thiết: "Đúng vậy! Thấy tôi thích xâu vòng quá, cứ mê mẩn ngắm mãi, sự phụ bèn tháo ra cho đeo một lúc thế thôi, tôi… tôi chỉ đeo xâu vòng một lúc, sao đã thành hung thủ giết người được?"

    "Đúng thế, cô ta yếu đuối như vậy làm sao giết người được? Giết xong xóa dấu vết thế nào?" Chu Tử Tần cũng gật đầu tán đồng, "Sùng Cổ, hay là chúng ta tra xét kỹ lại lần nữa xem?"

    "Không cần đâu, tôi có thể diễn lại tình hình lúc đó ngay bây giờ." Nói rồi cô liếc Chu Tử Tần, "Phiền Chu bổ đầu tìm giúp tôi một người phối hợp."

    Chu Tử Tần tức thì vỗ ngực: "Không cần nhờ người khác, cứ để ta." Hoàng Tử Hà chớp mắt, nhìn lại gã một lượt từ trên xuống dưới. Hôm nay Chu Tử Tần không mặc đồ bổ đầu, mà vận thường phục. Chỉ thấy gã khoác một chiếc áo gấm Thục màu hồ thủy, trên thêu từng cụm hoa đỏ thắm, lưng thắt đai vàng rực, đeo túi hương tía, hầu bao lục, bao gương da các bạc… Từ trên xuống dưới phải đến cả chục màu.

    Cô cảm thấy người này có đem nhận nước ngay lập tức cũng đáng, nhỡ đâu tẩy sạch được đống màu mè lòe loẹt kia thì càng hay.

    "Đến đây." Hoàng Tử Hà vẫy tay gọi gã, rồi rút xâu vòng ra khỏi tay Úc Lý, dẫn Chu Tử Tần đến bụi xương bồ bên hồ.

    Cô ra hiệu cho Chu Tử Tần giơ tay lên, hỏi: "Trời hơi lạnh, giờ lội xuống nước không biết có lạnh không?"

    Chu Tử Tần vẫn chưa hiểu ý, ngu ngơ đáp: "Lần trước lặn xuống vớt thi thể ở Trường An giúp Sùng Cổ còn lạnh hơn… Nhưng giờ ta phải lội xuống tìm cái gì à?"

    "Công tử đợi chút." Nói rồi cô vứt luôn xâu vòng vàng trên tay xuống đáy nước nông. Tuy xâu vòng chìm lút một nửa vào bùn, nhưng mực nước sâu không tới nửa thước, dưới ánh đèn vẫn thấy lấp lánh ánh vàng.

    Chu Tử Tần ngạc nhiên hỏi: "Sùng Cổ làm gì thế?"

    "Công tử lội xuống vớt xem?"

    Bấy giờ gã mới hiểu ra, vội chen vào giữa bụi xương bồ, nhưng đi được nửa chừng lại nhận ra suýt nữa thì lún chân xuống bùn, nên hơi ngần ngừ không bước tiếp.

    Hoàng Tử Hà ngoái lại nhìn Lý Thư Bạch, y hiểu ý, bèn đi đến nắm lấy cổ tay Chu Tử Tần: "Để ta giữ cho."

    "Được!" Chu Tử Tần nắm lấy tay Lý Thư Bạch, giẫm chân xuống bùn, nhao người ra nhặt xâu vòng dưới nước.

    Hoàng Tử Hà đưa mắt cho Lý Thư Bạch, y nhìn Chu Tử Tần vô tội với vẻ cảm thông rồi thình lình thả tay. Chu Tử Tần đang vươn người ra, tức thì ngã nhào xuống nước.

    Đang định hét lên thì bùn đã xộc vào miệng. Thấy Chu Tử Tần hốt hoảng vùng vẫy, Lý Thư Bạch lại tóm vào mắt cá xách ngược gã lên, tức thì cả người gã nằm úp sấp giữa vũng bùn. Vì bị xách ngược mắt cá nên gã không có điểm tựa, hai tay cuống quýt quơ quào trong bùn mà không tóm được thứ gì để vận lực, dù biết bơi cũng vô dụng, từng chuỗi bong bóng thi nhau sủi lên òng ọc, tựa hồ đã sặc nước đến choáng váng.

    Lý Thư Bạch vội kéo gã dậy, Chu Tử Tần sặc sụa ngồi phệt giữa bụi xương bồ nôn ra toàn bùn với nước, như con cua móc trong bùn ra.

    Hoàng Tử Hà đưa khăn bông cho gã rồi ngồi xuống bên cạnh hỏi: "Tử Tần không sao chứ?"

    Chu Tử Tần vừa lau đầu tóc vừa hắt xì lia lịa, lắp bắp đáp: "Không… không sao." Làm gì có chuyện không sao? Quận thú Chu Tường nhìn con trai mà chỉ muốn khóc thét lên. Tiếc rằng người ra tay là Quỳ vương nên ông ta đành ngậm bồ hòn làm ngọt, gượng cười bảo kẻ hầu: "Mau lấy đồ đến để bổ đầu thay."

    Hoàng Tử Hà bấy giờ mới quay sang nhìn Úc Lý, thấy cô ta đã gục xuống đất, thì chậm rãi giải thích: "Nhìn vết bùn dính trên tay áo cô, tôi mới nghĩ đến cách giết người này. Tuy sau khi ra tay cô đã cố lau sạch bùn, nhưng vẫn còn một vệt lờ mờ, nếu so với đường viền giày của Bích Đào hẳn là vừa khéo. Thử nghĩ xem, nắm chân cô ta làm gì chứ?"

    Úc Lý mặt xám như tro, cổ họng khô rang, ấp úng mãi không thốt nên lời.

    Thấy vậy, Chu Tường bèn trút giận lên cô ta, thét gọi đám bổ khoái bắt lại: "Mau trói ả khi sư diệt tổ táng tận lương tâm này vào, để ta thẩm vấn!"

    Mấy chị em trong ban hát xót ca nhìn Úc Lý, nước mắt như mưa: "Sao cô lại nghĩ quẩn như thế…"

    "Là…trời không có mắt!" Úc Lý bị lôi đi, vẫn còn gào lên tuyệt vọng, "Tôi có chỗ nào không bằng ả? Ả ngu ngốc như thế, học mười mấy năm mới được là không hầu thứ hai! Tôi đứng bên học lỏm còn gảy hay hơn! Chẳng qua ả có chút nhan sắc mà thôi, dựa vào cái gì mà giẫm lên đầu lên cổ tôi…"

    Hoàng Tử Hà thở dài: "Nếu cô là ngọc sáng thì sớm muộn cũng có người phát hiện ra thôi, sao phải cố chấp như thế?"

    Có cô lên tiếng, đám bổ khoái đang lôi Úc Lý đi cũng dừng lại. Úc Lý nhìn chằm chằm vào thi thể Bích Đào, ròng ròng nước mắt, nghẹn ngào: "Ả…Ả ngày ngày lăng nhục tôi, tôi vẫn cố nhẫn nhịn, nhưng ả biết rõ tôi ngưỡng mộ Trần công tử, còn cố ý bám lấy tôi khoe khoang xâu vòng vàng y tặng…"

    Ánh mắt Úc Lý xám ngoét như tro tàn, lướt qua gương mặt Hoàng Tử Hà: "Tôi… Tôi đã ấp ủ kế hoạch này suốt mấy tháng, nghĩ đi nghĩ lại, bảo đảm không còn gì sơ hở… Thực không ngờ tiểu thư chỉ liếc qua là thấy đầy rẫy sơ sót…"

    Hoàng Tử hà lặng thinh, nhìn theo đám bổ khoái lôi Úc Lý đi.

    Chu Tử Tần phía sau vừa lau mái tóc mới gội sạch, vừa than thở: "Đúng là nghĩ quẩn."

    Hoàng Tử Hà ngoái lại nhìn gã, gật đầu nói khẽ: "Bích Đào, Úc Lý. Hai cái tên này rất giống nhau, hẳn là vào gánh hát cùng một lúc. Vậy mà giờ đây một người lọt mắt xanh bầu gánh, trở thành nghệ nhân, kẻ kia gọi là đệ tử, thực ra chỉ là tỳ nữ. Họ cùng đi cùng về, đương nhiên cũng cùng quen biết Trần Luân Vân nức tiếng phong lưu. Mối quan hệ tế nhị này, kéo dài đến giờ, sau đó…"

    "Xâu vòng vàng Trần Luân Vân tặng Bích Đào, cuối cùng đã trở thành giọt nước tràn ly."

    "Đủ thấy trên đời này, vướng mắc về tình cảm là thứ khiến người ta đau đớn nhất." Một giọng chậm rãi vang lên đằng sau, đủ lọt tai cô, nhưng lại không để kẻ khác nghe được.

    Giọng nói nhẹ nhàng ôn nhu như thế, khiến Hoàng Tử Hà ngẩn ra một thoáng mới ngoái lại.

    Vương Uẩn ở sau lưng cô, rõ ràng nãy giờ vẫn đứng đó, thấy cô phá án xong mới lên tiếng.

    Dưới ánh đèn leo lét, ánh mắt y nhìn cô sâu thăm thẳm, khiến Hoàng Tử Hà bối rối cúi đầu.

    Chỉ nghe y bình thản nói: "Sống trên đời mỗi người đều có duyên phận và chốn về riêng, việc gì phải chuốc thêm phiền phức? Cuối cùng lại rơi vào cảnh hại người hại mình."

    Tim Hoàng Tử hà thót lại, tuy hiểu ý y, song cô chẳng có cách nào phản bác, đành nín lặng cúi đầu.

    Trăng ngả về tây, đã quá canh ba.

    Yến tiệc kết thúc thế này khiến Phạm Ứng Tích không khỏi khó chịu. May mà Hoàng Tử Hà nhanh chóng vạch rõ chân tướng, nhưng mọi người cũng đã cụt hứng, quên bẵng cả điệu Nghê Thường Vũ Y điên đảo chúng sinh.

    Khách khứa lục tục cáo từ, ai về nhà nấy. Hoàng Tử Hà cùng mợ lên xe, chợt nghe thấy sau lưng có người gọi: "Tử Hà."

    Cô ngoảnh lại thấy Vương Uẩn tươi cười đứng dưới ngọn đèn lồng ngay trước cửa, ngẩng lên nhìn mình khẽ nói: "Sáng mai ta sẽ đến bàn bạc vài việc với trưởng bối trong tộc của cô. Nếu cô rỗi, có thể trò chuyện mấy câu thì tốt quá."

    Hoàng Tử Hà cứng người, cô cúi đầu hành lễ với y rồi im lặng quay đi buông rèm xe xuống.

    Tấm rèm vừa buông, nụ cười trên môi Vương Uẩn cũng tắt lịm. Y ngước lên nhìn bầu trời tối thẫm lồng lộng trên đầu, trăng đã xế, những vì sao lấp lánh đầy trời lại càng sáng rỡ.

    Những thứ xa xăm không thể với tới dường như luôn xán lạn hơn hết thảy. Cũng có thể là vì chói lọi quá mức, nên càng có vẻ khó với tới.

    Giống như người con gái y những tưởng chỉ với tay ra là chạm đến, giờ đã biến thành vì sao rực rỡ mà xa xăm nhất giữa ngân hà. Ánh sáng chói ngời ấy chẳng khác nào ngọn lửa thiêu đốt trong lòng, khiến y ngày đêm canh cánh, nhung nhớ chẳng quên, khó mà kìm nén.

    Vương Uẩn quay người lại lên ngựa, chuẩn bị về nhà họ Vương. Một chi của họ Vương Lang Gia dọn đến Xuyên Thục cũng có cơ ngơi, y là đích tôn dòng chính nhà họ Vương, đương nhiên không ai dám lơ là tiếp đãi.

    Con ngựa y cưỡi dường như cũng gà gạt buồn ngủ, cứ lê từng bước uể oải. Thoáng nghe tiếng chuông vàng leng keng, y chẳng cần ngoái lại cũng biết xe ngựa của Quỳ Vương đi qua, bèn kéo cương ngựa tránh sang bên đường.

    Đường phố ban đêm chỉ có một ngọn đèn leo lét ở chỗ ngoặt. Lý Thư Bạch vén rèm xe lên gọi: "Uẩn Chi."

    Vương Uẩn gật đầu chào y: "Vương gia."

    "Hôm nay Trung thu, dự tiệc ở phủ tiết độ xong ta vẫn chưa tận hứng. Vừa hay có ít trà ngon, Uẩn Chi có hứng cùng ta song đóm (1) nếm trà chăng?

    (1) Song đóm: Xưa kia thư sinh nghèo không có tiền mua dầu thắp đèn thường bắt đom đóm bỏ vào vỏ trứng làm đèn, ngồi bên song cửa đọc sách. Về sau "Song đóm" thường chỉ nơi đọc sách.

    Vương Uẩn ung dung mỉm cưởi đáp: "Ngày ngắn buồn đêm dài, sao chẳng thắp đuốc dạo. Gia đã có nhã hứng, ty chức nào không dám không tuân?"

    Lý Thư Bạch không nói gì thêm, chỉ ra hiệu cho y đi cùng. Chẳng bao lâu đã thấy gác Đôn Thuần, nơi tạm trú hiện giờ của Lý Thư Bạch phía trước.

    Gác Đôn Thuần vốn là hành cung năm xưa của Huyền Tông cho xây dựng trong lúc chạy loạn An Sử đến đây. Tiếc rằng chưa xây xong, ngài ngự đã được Túc Tông tôn làm Thái Thượng Hoàng, rước về Trường An, để lại cung Đôn Thuần đang thi công dở dang. Quan viên đất Thục liền thu nhỏ quy mô lại, sau khi xây xong đổi gọi là gác, trở thành vườn cảnh của quan phủ Xuyên Thục. Lần này Quỳ Vương giá lâm, quận Thục đã gấp rút tu sửa, để y ở tạm.


    Vương Uẩn theo Lý Thư Bạch vào hiên Xuân Hóa, sau khi dâng trà xong, tất cả người hầu lui ra, kể cả Trương Hàng Anh.

    Đèn đuốc sáng choang soi tỏ bóng hai người. Cả hai đều biết lòng dạ đối phương, nhưng không ai chịu nói toạc ra, chỉ đàm luận mấy chuyện vặt trong triều. Đồng Xương công chúa đã được an táng, đoàn đưa tang dài đến hai mươi dặm, trong triều cũng có kẻ bàn rằng tang lễ vượt quá quy củ, hoàng thượng bèn phong nàng làm Vệ Quốc Văn Ý công chúa, lại cùng Quách thục phi ra tận cửa cung khóc lóc tiễn đưa, từ bấy không ai dám can gián nữa.

    "Người nhà của các ngự y thì sao?" Vương Uẩn hỏi. Vì cái chết của Đồng Xương công chúa, hoàng đề đã trút giận sang các ngự y, cho rằng họ cứu chữa chậm trễ, sau khi giết hết hơn hai mươi người bọn Hàn Tông Thiệu, Khang Trọng Ân, còn toan hạ ngục tất cả họ hàng, lên đến hơn ba trăm người. Lý Thư Bạch nói thác rằng luật Đại Đường không có tiền lệ, Đại Lý Tự không thể xử lý, hoàng đế liền chuyển vụ này cho kinh triệu doãn Ôn Chương, khiến y chạy không thoát.

    "Ngự Sử Đài không dám can ngăn, thừa tướng Lưu Chiêm dâng tấu cầu xin thánh thượng thì bị đuổi ra, giờ đã bị bãi tướng, biếm đi Lĩnh Nam làm quan. Ôn Chương phán cho hơn ba trăm người kia phải lưu đày, gần đây bị tố cáo là ăn hối lộ nên xử nhẹ, ta thấy thánh thượng sẽ không nương tay đâu." Lý Thư Bạch nói mấy chuyện bâng quơ, tuy y ở Thục nhưng vẫn nắm rõ tình hình triều chính hơn ai hết.

    Vương Uẩn thở dài: "Chuyện lớn trong triều như gió mây biếm ảo, sóng dữ dồn dập thực khiến người ta không sao lường được."

    Lý Thư Bạch tiện tay cầm chén lên châm trà cho y, cười nói: "Trong triều giờ đây gió mây biến ảo, song đều nằm trong dự liệu của ta, riêng có một chuyện ta nghĩ mãi vẫn không hiểu nổi." Trong kinh, Lý Thư Bạch thú hứng nào cũng đứng đầu, châm trà, thúc cúc, mã cầu, thứ gì cùng là cao thủ, tăm trà nhỏ mà đều tăm tắp, mãi vẫn chưa tan. Vương Uẩn nâng chén bằng ba ngón tay, ngắm nhìn thật kỹ rồi hỏi: "Chẳng hay gia không hiểu chuyện gì?"

    "Ta còn nhớ, mùa thu ba năm trước, sau khi ta vang danh không lâu, chúng ta đã gặp nhau bên bờ Khúc Giang. Bấy giờ ta cứ ngõ Uẩn Chi sẽ dự thi năm sau, ai ngờ ngươi nghe tin ta sắp ra biên tái dẹp Sa Đà, lại muốn theo ta tòng quân."

    Nhà họ Vương Lang Gia xưa nay thanh cao tao nhã, thường theo nghiệp bút nghiêng, ra làm quan văn, Lý Thư Bạch lúc ấy cũng kinh ngạc hỏi Vương Uẩn: "Bằng vào gia thế và chỗ dựa của mình, ngươi ở trong triều ắt sẽ như cá gặp nước, sao lại phải tòng quân?"

    "Tôi không muốn đi con đường được người khác trải thảm sẵn, có lẽ chọn đường tổ tiên mình cố ý tránh né sẽ hay hơn."

    Dưới ánh nắng đầu mùa thu ấy, Vương Uẩn, bấy giờ còn là thiếu niên, từng nói đầy quả quyết, tựa như đã thấy bến bờ mà đời này mình sẽ cập.

    Vậy là, trong danh sách các hộ vệ đi cùng Lý Thư Bạch trình lên triều đình, có thêm tên Vương Uẩn. Giữa thu, họ đến ven rìa sa mạc, đứng trên đài Phong Hỏa phóng mắt nhìn ra biên ải ngút ngàn. Cỏ úa chiều tàn, sông dài uốn lượn, khói đùn thẳng tắp.

    Họ phóng ngựa hành quân giữa sa mạc, đuổi giết quân Sa Đà xâm phạm, có lần hăng hái còn đuổi theo đến tận lúc trăng lên, mấy chục kỵ mã giẫm lên bóng đêm tắm máu quay về. Đất Hồ tháng tám đã đổ tuyết, vầng trăng tàn vẫn còn treo cuối trời, những bông tuyết đã lả tả rơi xuống sa mạc, giáp sắt loang loáng, lạnh đến thấu xương. Lý Thư Bạch cưỡi ngựa dẫn đầu ngoái lại phóng mắt nhìn ra xa rồi ghìm cương, tháo túi rượu đeo bên hông ngựa quăng cho Vương Uẩn.

    Rượu nóng vừa vào miệng, máu trong người cũng bắt đầu sôi lên. Hơi lạnh bị xua tan, vì vừa thắng trận nên mọi người vô cùng hào hứng, gào lên hát ông ổng giữa đồng hoang.

    Vương Uẩn không hòa giọng được với đám người đó, chỉ cưỡi ngựa ngẩng nhìn trời, theo họ về doanh trại. Doanh Lũng Hữu đã ở ngay trước mắt, gốc bạch du trước cửa doanh thấp thoáng giữa màn mưa tuyết. Vương Uẩn phủi tuyết đọng trên mình, chợt sinh lòng cảm khoái đọc một câu: "Tuyết bay mờ biên ải, tắt khói Phong Hỏa đài."

    "Bởi vậy, sau lần đẩy lùi Sa Đà khải hoàn về kinh đó, ta không đem người ra trận nữa." Lý Thư Bạch chậm rãi nói, "Mỗi người đều có một nơi thuộc về mình, kiếp này, ngươi là đích tôn nhà họ Vương Lang Gia cao nhã hào hoa, sống giữa cảnh phồn hoa thịnh thế. Kiếm quý dù sắc bén đến đâu thì trên sa trường cũng chẳng bằng một thanh đao thường, gió cát và máu tanh chỉ tổ bào mòn lưỡi kiếm, thậm chí tàn hủy chất thép tốt của nó thôi."

    Vương Uẩn lặng lẽ nhìn xuống: "Nhưng khoảng thời gian đi theo Vương gia đã khai phong cho thanh kiếm (2). Từ đó tôi mới bước lên con đường này, từ Ly Phòng Vệ đến Tả Kim Ngô Vệ, ít nhất đã thoát được con đường cha tôi bày sẵn. Đời này kiếp này… Tôi phải cảm ân gia dìu dắt."

    (2) Theo quan điểm của người xưa, kiếm rèn ra, dù sắc bén tới đâu, nếu chưa thấm máu người thì tức là chưa được khai phong, không thể coi là kiếm quý.

    "Ta biết ngươi nói thật lòng, nhưng người sống trên đời lúc nào cũng có chuyện bất đắc dĩ. Ví như ngươi đã nhận lệnh giết ta thì phải dốc sức làm cho được, bằng mọi cách dồn ta vào chỗ chết." Lý Thư Bạch thản nhiên như đang bàn luận về bóng tối ngoài song vậy.

    Vương Uẩn thoáng sững ra, ngón tay nâng ly trà bất giác rụt lại. Cái chén hơi nghiêng, một hai tăm bọt bên trong chưa tan hết sánh ra ngoài.

    Y từ từ đặt chén xuống, ngẩng lên nhìn Lý Thư Bạch.

    Đêm khuya thanh vắng, hương quế thoảng qua. Lần đầu tiên gặp bên bờ Khúc Giang, y cũng đã hành lễ với Lý Thư Bạch giữa hương hoa quế ngan ngát thế này.

    "Vương Uẩn Lang Gia, tự là Uẩn Chi. Từ nay nguyện theo gia tung hoành thiên hạ, bảo vệ giang sơn Đại Đường." Lời còn văng vẳng bên tai, vậy mà giờ đây ngồi bên nhau giữa đêm khuya thanh vắng, lại là tình cảnh thế này.

    Vương Uẩn ngẩng lên nhìn Lý Thư Bạch, gượng cười: "Vương Uẩn là thần tử, phụng lệnh làm việc, không thể tự chủ, xin gia bỏ quá cho."

    Thấy y thẳng thắn thừa nhận, Lý Thư Bạch cũng cười đáp: "Nếu ta để bụng thì lần trước đâu có ngăn Tử Hà tiếp tục căn vặn? Ta hiểu tình cảnh của mình, cũng biết chỗ khó xử của Uẩn Chi. Điều mình không muốn, ắt không làm với người khác."

    Vương Uẩn lặng lẽ gật đầu. Y còn đang mải nghĩ về việc Quỳ vương thân thiết gọi thẳng tên vợ chưa cưới của mình như thế. Nhưng chẳng mấy chốc y đã nghĩ thông, người như Lý Thư Bạch lẽ nào lại nuốt lời.

    Như đi guốc trong bụng y, Lý Thư Bạch thản nhiên tiếp: "Ngươi nhận nhiệm vụ này, hẳn cũng biết đây là kế một mũi tên trúng hai con chim. Nếu ta chết, triều đình cũng coi như trừ được mối họa tiềm ẩn lớn nhất; Còn nếu mọi chuyện bại lộ thì nhà họ Vương không tránh khỏi liên can. Bất luận ra sao, kẻ bày kế vẫn có thể khoanh tay ngồi nhìn, tiện thể dọn sẵn một con đường bằng phẳng."

    "Thế nên gia… gác chuyện này lại, không muốn làm ầm ĩ lên, cũng tức là, không muốn đôi bên cùng tổn thất?"

    "Chẳng lẽ ngươi thì không ư?" Lý Thư Bạch ngừng môt lát mới tiếp: "Ta biết không phải ngươi phóng hỏa, hành vi kiểu đó không giống tác phong của ngươi."

    Vương Uẩn khẽ đáp: "Tôi biết việc đó… Chỉ là, không cách nào ngăn trở." "Ngươi ngăn không nổi đâu. Tất cả những kẻ vọng tưởng ngăn cản, đều sẽ bị nghiền nát. Lưu Chiêm đã vậy, Ôn Chương cũng thế, hai ta cũng vậy mà thôi." Gương mặt tưởng chừng luôn bình thản của Lý Thư Bạch, cuối cùng cũng thoáng vẻ mệt mỏi. Y chăm chú nhìn Vương Uẩn, hạ giọng: "Giờ ngươi vẫn chưa hoàn thành nhiệm vụ được giao, lại bị ta lột trần thân phận, e rằng nhà họ Vương cũng gặp rắc rối. Nhưng ta có thể giúp ngươi." Vương Uẩn chậm rãi gật đầu: "Vương gia một câu nặng tày chín đỉnh, ắt không nuốt lời. Nhưng… dám hỏi gia muốn nhà họ Vương làm việc gì?" Lý Thư Bạch làm thinh. Thật lâu.

    Đêm khuya thanh vắng, lặng phắc như tờ. Bóng tối như ngưng đọng lại, nuốt chửng tất thảy những dơ bẩn và đẹp đẽ.

    Chẳng biết bao lâu sau, Lý Thư Bạch mới hạ quyết tâm, lên tiếng: "Từ bỏ hôn ước năm xưa."

    Hôn ước năm xưa.

    Năm mười sáu tuổi, vì ngượng nghịu, Vương Uẩn mới rủ Lý Nhuận cùng đi nhìn trộm thiếu nữ nọ, chỉ thoáng thấy gương mặt nghiêng của cô.

    Đó là hôn sự định sẵn từ khi y còn nhỏ. Một mảnh giấy, hai cái tên, từ một người xa lạ, cô đã trở thành người gần gũi nhất.

    Vậy mà giờ đây, Lý Thư Bạch lại bảo y, từ bỏ.

    Vương Uẩn cúi đầu, phì cười: "Quỳ vương gia quả rất giỏi cân nhắc tình hình, không hề sơ sẩy. Biết rõ sự tồn vong của nhà họ Vương đều trông cả vào một câu này, vậy mà vẫn bày ra vẻ khoan dung cho tôi lựa chọn."

    "Uẩn Chi, chuyện này ta không phải với ngươi." Lý Thư Bạch cúi xuống vô thức xoay xoay ly trà trong tay, chậm rãi thuyết phục: "Nhưng ngươi có nghĩ trước đây Tử Hà từng vạch trần chuyện cũ của Vương hoàng hậu, nếu gả vào nhà ngươi, thì ngày tháng sau này sẽ ra sao?"

    Vương Uẩn chi cười nhạt: "Nàng đã là vợ tôi, đương nhiên tôi sẽ dốc hết sức bảo vệ, không cần gia nhọc lòng."

    "Thế nếu sau khi ngươi ám sát thất bại, ta về kinh gặp thánh thượng thì sao?" Lý Thư Bạch thản nhiên hỏi tiếp, "Nhà họ Vương các người liệu có thoát nổi kiếp nạn này không? Dẫu ngươi muốn bảo vệ, thì phải làm thế nào mới bảo vệ được đây?"

    Vương Uẩn thong dong đáp: "Khả năng nhà họ Vương bị diệt, cũng không lớn bằng phủ Quỳ đâu."

    Lý Thư Bạch vẫn lạnh tanh: "Phủ Quỳ có khả năng phản kháng, còn nhà họ Vương thì không thể."

    Sảnh đường lại chìm vào im lặng, bóng đêm nặng nề trùm phủ lên họ, trong phòng sáng choang mà ngột ngạt, đôi bên đều nhìn thấy vẻ tăm tối sâu xa khó nắm bắt trong mắt người kia.

    Khói trà nghi ngút bốc lên, tạo thành vô vàn hình dáng mờ ảo giữa không trung, rồi lại tan vào hư vô.

    Thật lâu, Vương Uẩn mới nói khẽ: "Vương gia đã nắm được tất cả chân tướng thì tôi cũng không dấu giếm nữa. Gia cho rằng tại sao đúng lúc này kẻ đứng sau màn lại bất chấp tất cả, tìm đủ cách san bằng mọi thứ mình không thể thao túng?"

    Lý Thư Bạch cúi xuống, hờ hững đáp: "Có lẽ vì trong trận động đất ở Giang Nam khi trước, có người đã nói rằng triều đình sắp xảy ra biến cố. Ra tay lúc này, vừa khéo ứng với thiên thời địa lợi nhân hòa."

    "Vậy tiếp theo Gia định thế nào? Có bao giờ Gia nghĩ Hoàng Tử Hà ở bên cạnh mình sẽ gặp phải chuyện gì chăng? Gia cho rằng trong tình cảnh này vẫn có thể bảo vệ nàng bình yên vô sợ hay sao?" Vương Uẩn nhìn chòng chọc Lý Thư Bạch, nói rất khẽ, nhưng hết sức rành rọt, "Đương nhiên Vương gia tài ba xuất chúng, tính toán như thần, nhưng trước mệnh nhà vận nước, sinh mạng con người như cỏ rác, huống hồ là một thiếu nữ không nơi nương tựa. Có lúc chỉ sơ sẩy một ly, lại làm gãy cả bụi lan đấy."

    "Đây chính là… nguyên nhân ta không dám hứa hẹn với cô ấy." Lý Thư Bạch cúi đầu nhìn bình lưu ly trên bàn. Con cá đỏ đang trầm mình dưới đáy nước bất động, chẳng biết là đang ngủ hay đang nhìn bọn họ, hệt như một giọt máu chìm xuống đáy bình.

    "Có những việc ta nhất định phải kết thúc, tận mắt chứng kiến chân tướng. Nhưng có lẽ lần này một đi sẽ không còn cách nào trở lại, ta… không thể để cô ấy cùng mạo hiểm được."

    Dường như đây là lần đầu tiên trong đời, giọng y lộ vẻ hoang mang.

    Vương Uẩn ngập ngừng, cuối cùng vẫn không dằn được nói thẳng: "Nhưng Gia đã quyết, hơn nữa còn cho rằng mình sẽ không thua, nên ngay từ đầu đã đề nghị tôi từ bỏ hôn sự, bởi Gia nắm chắc phần thắng!"

    "Ngươi lầm rồi." Lý Thư Bạch khẽ nhúng ngón tay vào làn nước trong bình lưu ly, "Ta chỉ muốn để cô ấy được tự do."

    Con cá nhỏ giật mình, cuống quýt quẫy đuôi, toan trốn khỏi làn nước dập dờn mùi nguy hiểm. Nhưng sóng nước đập vào thành bình rồi dội lại, cá ở trong nước làm sao tránh nổi, chỉ còn cách cam chịu.

    Vương Uẩn đứng phát dậy, giọng cũng trở nên sắc lạnh: "Ý Gia là Tử Hà ở bên cạnh tôi sẽ không được hạnh phúc sao?"

    Lý Thư Bạch lặng lẽ ngước lên nhìn kẻ xưa nay luôn ôn hòa như gió xuân, lần này lại vì Hoàng Tử Hà mà mất bình tĩnh, bất giấc mỉm cười: "Uẩn Chi, đừng nóng."

    Thấy y nở nụ cười hiếm hoi, Vương Uẩn thoáng sững ra, đành nén giận ngồi xuống gượng gạo tạ lỗi: "Ty chức thất lễ… Xin Gia thứ tội."

    "Ngươi hiểu nhầm ý ta rồi, thực ra ta chỉ muốn cho Tử Hà một cơ hội tự do lựa chọn. Bất luận cô ấy chọn ngươi hay ta, ta cũng không muốn cô ấy bị ràng buộc. Đây cũng là công bằng cho cả hai chúng ta…" Ánh mắt tươi tắn của Lý Thư Bạch từ từ hướng ra ngoài song. Bóng cây trùng trùng đứng lặng trong đêm tối, như quái thú rập rình, như mộng mô (3) chỉ chực chờ nuốt chửng những cơn mộng đẹp. "Mấy ngày nữa ta về kinh, vụ ám sát sẽ được vén màn, dù ta không rõ là ai giật dây ai cầm đầu, nhà họ Vương cũng có thể dẹp tan cơn sóng gió này."

    (3) Mộng mô: Một loài quái thú trong truyền thuyết, chuyên ăn những giấc mơ của con người.

    Vương Uẩn lặng thinh cúi nhìn xuống, nhưng cằm lại hơi hếch lên.

    Lý Thư Bạch rót thêm cho Vương Uẩn một ly trà, nước trà màu lục sóng sánh trong chén sứ xanh lam, ánh đèn rọi lên ngón tay thon dài trắng trẻo của y, như sông xuân soi bóng hoa lê, ung dung tao nhã.

    Chỉ nghe y cười nói: "Uẩn Chi, lẽ nào ngươi không dám tin vào bản thân, cảm thấy nếu không có hôn ước ràng buộc, Tử Hà sẽ không chọn mình sao?"

    Thấy y thư nhàn tự đắc, Vương Uẩn chợt thấy lòng sôi lên, không thể kiềm chế, giơ tay đón lấy ly trà Lý Thư Bạch đưa: "Chúc Vương gia chuyến này thuận lợi, tôi sẽ xử lý thật nhanh những chuyện ở đây, để gia khỏi phải bận tâm về sau."


    [​IMG]
     
  13. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 2 - Muôn sông ngàn núi
    Vương Uẩn không hề đến nhà họ Hoàng.

    Sáng hôm sau, y cho người hầu đến nhà họ Hoàng báo tin, vì bận bịu việc công nên không thể giữ lời hẹn, mong được lượng thứ.

    "Xem ý tứ thì đáng lẽ hôm nay y sẽ đến bàn bạc chuyện hôn nhân, nghe nói còn có mấy bậc bề trên trong nhà họ Vương cũng tới…" Hoàng Dũng, bác họ Hoàng Tử Hà vốn triệu tập các bậc cao niên trong tộc lại, khấp khởi đợi Vương Uẩn đến, nào ngờ y lại cáo bận, khiến họ phấp phỏng không thôi.

    "Liệu có phải… nhà họ Vương cấn cá gì về hôn sự này không?"

    "Có nhẽ đâu thế, hôm qua Vương công tử còn sai người đến bàn bạc trình tự, xem phải đón Tử Hà vào kinh thành hôn thế nào cho thỏa đáng mà…"

    "Huống hồ dù nghe tin Tử Hà giết chết cả nhà rồi bỏ trốn, nhà họ Vương cũng chưa bao giờ tỏ ý hối hôn, theo tôi thấy, không thể có chuyện gì được."

    Mấy bậc bề trên trong họ xôn xao bàn tán, coi việc cô gả vào nhà họ Vương đã chắc mười mươi, không suy suyển vào đâu được. Đúng lúc họ cho rằng Vương Uẩn không đến, toan lục tục cáo từ thì lại có người từ bên ngoài hớt hải chạy vào, tay cầm một phong thư: "Lão gia, Lục tiểu thư có thư."

    Trong số các chị em họ, Hoàng Tử Hà đứng vai thứ sáu. Hoàng Dũng mững rỡ hỏi: "Là Vương công tử gửi ư?"

    "Thưa không." Người hầu lắc đầu đáp, "là Quỳ vương gửi đến."

    Mọi người nhìn nhau, bấy giờ mới nhớ ra, Hoàng Tử Hà trước đây làm hoạn quan bên cạnh Quỳ vương.

    "Nhưng… giờ Tử Hà đã khôi phục danh phận, là con gái nhà chúng ta, sao Quỳ vương còn viết thư gửi nó nữa?" Họ nghi hoặc cầm phong thư lên xem, chỉ thấy bì thư viết:

    Thủ tục cho hoạn quan Dương Sùng Cổ phủ Quỳ vương về Thục. Hoàng Tử Hà nhận và cất giữ.

    "Vẫn là người phủ Quỳ làm việc chu đáo, dù Tử Hà đã khôi phục thân phận nữ nhi, nhưng suy cho cùng muốn rời vương phủ vẫn phải tuân theo thủ tục." Mọi người lại tấm tắc cảm thán, song không ai dám bóc thư ra, vội sai người đưa sang cho Hoàng Tử Hà.

    "Cho hoạn quan phủ Quỳ vương về Thục ư?"

    Hoàng Tử Hà đọc qua rồi bóc phong bì, rút bức thư bên trong ra. Vừa mở thư, cô đã trông thấy ba chữ viết ngay ngắn trên đầu: Giấy từ hôn.

    Hoàng Tử Hà im lặng gập thư lại, cho người đưa thư lui ra, chốt cửa cẩn thận rồi mới mở tờ giấy ra đọc kỹ.

    Vương Uẩn Lang Gia, từ nhỏ đính hôn với Hoàng Tử Hà quận Thục. Về sau đôi bên trưởng thành, trời Nam đất Bắc, tình hình trái ngược nên viết thư này giải trừ hôn ước, từ nay về sau tùy ý cưới gả, không được tranh chấp.

    Hoàng Tử Hà sững sờ ngồi xuống bên song, nhìn bốn chữ Vương Uẩn Lang Gia, rồi lại cầm phong bì lên, nhìn nét chữ của Lý Thư Bạch bên ngoài.

    Tối qua y vừa hứa, vậy mà giờ đã thực sự giúp cô xóa bỏ cuộc hôn nhân này.

    Duyên phận giữa cô và Vương Uẩn, từ nay kết thúc.

    Cô gấp tờ giấy lại, nhét vào phong bì. Chợt chạm phải thứ gì bên trong, cô bèn dốc ra lòng bàn tay.

    Là hai hạt đậu đỏ thắm, óng ả long lanh, xâu lại bằng một sợi dây vàng. Cô lật đi lật lại, nhìn hai hạt đậu đỏ trôi dọc theo sợi dây, lúc thì sát lại, lúc thì tách ra, chẳng khác hai hạt sương trên nhụy hoa.

    Cô nắm chặt hai hạt đậu đỏ, dựa vào chiếc bàn nhỏ bên song, khẽ tì má lên cánh tay. Bên tai như nghe tiếng Lý Thư Bạch thầm thì, cô yên tâm, đã có ta đây.

    Khu vườn nhỏ ngoài song đã vào thu, lá vàng rơi rụng lả tả.

    Hoàng Tử Hà tựa người bên cửa sổ, nghe tiếng gió rì rào khi gần khi xa, hòa cùng tiếng lá rơi xào xạc, tiếng chim non ríu rít nhảy nhót trên cành, siết chặt hai hạt đậu đỏ trong tay.

    Chu Tử Tần ngày ngày đều bừng bừng hứng khởi.

    Có án thì đi điều tra, không thì đi loanh quanh trên phố, xem có kẻ nào trộm cắp hay cản trở đường đi lối lại không. Đối tượng bị sờ gáy nhiều nhất chính là Nhị cô nương ngang nhiên bày sạp hàng giữa đường.

    Tuy hôm qua vừa bị cho uống mấy ngụm nước, song Chu Tử Tần vẫn khỏe như vâm, hôm nay lại lăng xăng chạy khắp nơi. Theo lệ, gã tới chỗ Nhị cô nương dòm dỏ, đấu khẩu vài câu, đang phấn khởi quay đi thì bắt gặp Hoàng Tử Hà đứng ngay bên đường, ôm một túi quýt, tủm tỉm cười nhìn hai người.

    Nhìn nụ cuời rạng rõ của cô dưới nắng, Chu Tử Tần bất giác thấy mặt nóng bừng, bèn chạy đến bên cạnh, nhón một quả quýt vừa bóc vừa hỏi: "Sao hôm nay lại tới đây?"

    "Vào thu rồi, da dẻ hơi khô, tôi đi mua ít son môi và thuốc bôi tay."

    Gã hồ hởi: "Đừng mua nữa! Để ta làm cho! Son môi bên ngoài toàn làm bằng tủy bò, ta sẽ dùng tủy hươu, không có mùi hôi. Ta còn nghiên cứu được một phương pháp, chắt lọc tinh chất bạch chỉ, ngọc trúc, đinh hương, hoa đào, thơm ngát mà mịn màng, ngày kia sẽ đưa đến cho!"

    Hoàng Tử Hà gật đầu: "Tốt quá, cảm ơn công tử."


    Chu Tử Tần bấy giờ mới quay sang Nhị cô nương, có vẻ tần ngần.

    "Tiện thể làm thêm một ít, Nhị cô nương sáng nào cũng phải dậy từ tinh mơ, nhất định cũng sợ nẻ. Thuốc bôi tay cũng làm dôi ra một ít đi. Hơn nữa…" Hoàng Tử Hà nhìn Nhị cô nương cười nói, "Nếu công tử tặng cô ấy, về sau nhất định cô ấy sẽ thân thiết với công tử hơn, công tử nói gì cũng nghe theo, phải không nào?"

    "Cũng phải, vậy ta làm thêm một ít. Chẳng biết cô ấy thích mùi gì, hay hợp với loại gì nữa…"

    "Cô ấy thích hoa quế, người hơi nóng, công tử phải bỏ thêm chút hạt bí đao, bớt bạch chỉ và hoa đào đi." Ngắm Nhị cô nương thêm một lát, cô bổ sung, "Cô ấy không còn cha mẹ, bên dưới lại có mấy đứa em, công tử đừng cho vào lọ sứ, cho vào hộp gỗ sơn ấy. Trẻ con da dẻ còn non, bỏ thêm chút dầu chồn, cô ấy nhất định sẽ cho cả các em dùng."

    Chu Tử Tần ngạc nhiên ra mặt: "Sùng Cổ quen cô ấy à?"

    "Đâu có, quan sát mà đoán bừa vậy thôi."

    "Liệu có đúng không đây…" Chu Tử Tần lẩm bẩm.

    "Vậy ta cũng đoán thử xem." Phía sau có người nói chen vào. Hoàng Tử Hà chẳng cần ngoái lại cũng biết là ai, khóe môi bất giác lộ nụ cười.

    Chu Tử Tần ngoảnh đầu mừng rỡ reo lên: "Gia cũng biết xem tướng ư?"

    Lý Thư Bạch hôm nay vận một bộ đồ bằng lĩnh trọng lăng, thoạt nhìn chỉ thấy thuần một màu xanh, nhưng mỗi khi cử động, hoa văn hình nghê dệt chìm trên vải lại thấp thoáng ẩn hiện, càng tôn lên phong thái tuấn tú bất phàm, khiến những người xung quanh đều len lén liếc nhìn, song không ai dám nhìn thẳng.

    Trương Hàng Anh thực thà theo sau y, mỉm cười chắp tay chào Chu Tử Tần.

    Chu Tử Tần níu ngay lấy Lý Thư Bạch gặng hỏi: "Gia mau đoán đi, để tôi xem gia lợi hại hay Sùng Cổ lợi hại hơn?"

    "Nhị cô nương chắc hẳn sinh vào mùa xuân, cha là đồ tể, mẹ nuôi tằm dệt lụa. Xem tướng mặt thì cô ta mồ côi cha mẹ từ nhỏ, anh trai cũng chết yểu, trong nhà chỉ còn cô ấy và ba đứa em, hai trai một gái. Nhị cô nương từng bị từ hôn, vì nhà chồng chưa cưới cũng khó khăn, cưới về lại phải nuôi thêm ba đứa em nheo nhóc, làm sao sống nổi, cô ta đành kế nghiệp cha, bán thịt dê trên phố này hơn bốn năm rồi, cũng đủ nuôi hai em trai đi học trường tư, học hành không tệ."

    Chu Tử Tần há hốc miệng, nhìn Lý Thư Bạch đầy kính phục: "Rõ…rõ ràng thế cơ à? Tài xem tướng của gia đúng là phi phàm!"

    Khóe môi Lý Thư Bạch hơi cong lên, thấp thoáng ý cười, y chỉ đáp: "Quan trọng nhất là giữa hai chân mày cô ta rất sáng sửa, mày mắt rạng rỡ, ta dám chắc mấy hôm nữa cô ta sẽ một bước lên mây, bay lên cành cao."

    Chu Tử Tần nửa tin nửa ngờ nhìn đầu mày Nhị cô nương rồi lẩm bẩm: "Thật hay đùa đây…"

    Lý Thư Bạch mỉm cười nhìn Hoàng Tử Hà, chưa kịp nói gì thì nghe thấy bên cạnh nhốn nháo cả lên. Ba bốn tên hầu ăn vận chỉnh tề xúm xít vây quanh một gã đàn ông bụng phệ, cả người nần nẫn mỡ, vừa nhác thấy Nhị cô nương bán thịt dê bên đường, cơ thịt trên mặt ông ta bỗng rần rật rồi nhào tới nắm lấy tay áo cô, bất chấp phản thịt nhầy nhụa mỡ: "Đây…đây chẳng phải là Nhị nha đầu ư?"

    Nhị cô nương ngẩn ra rồi hỏi lại: "Vị này là ai vậy?"

    "Tứ thúc của con đây! Ông nội con là chú họ của ta! Năm xưa cha con còn nhỏ, ông nội con đến nhà ta giúp việc tế lễ từng dắt cha con theo, nên ta cũng đã gặp một lần! Con giống cha con hồi nhỏ như đúc!"

    "Ồ…ra là Tứ thúc." Nét mặt Nhị cô nương rành rành mấy chữ: Tứ thúc thật tinh mắt, trí nhớ cũng tốt quá.

    Song ông chú này chẳng buồn để tâm đến ánh mắt cô, nhanh nhẹn rút gia phả đem theo người, giở ra cho cô xem: "Đây, con nhìn xem, ông nội con là Lưu Lương Thượng, sau khi ra ở riêng thì chuyển đến phủ Thành Đô làm đồ tể kiếm sống, sinh được con trai là Lưu Gia Hổ, chính là cha con, đúng không nào? Con nhìn sang bên này này…" Ngón tay ông ta di theo đường nối dài, qua vô số cái tên lạ hoắc, cuối cùng dừng lại trỏ vào một cái, "Lưu Hỉ Anh, chính là ta, theo vai vế chẳng phải là chú họ con ư?"

    Nhị cô nương ngỡ ngàng, chẳng biết ông chú họ xa lơ xa lắc từ trên trời rơi xuống này muốn thế nào, đành quấy quá đáp: "Con ngu ngốc, không nhận ra Tứ thúc, mong Tứ thúc bỏ qua."

    "Ôi chao, họ hàng xa ít qua lại thì vậy thôi, không sao không sao." Lưu Hỉ Anh gỡ con dao phay khỏi tay cô, đặt lên phản thịt, "Nhị nha đầu, Tứ thúc hiện giờ là ty thương Miên Châu, sao có thể để cháu gái phơi mặt ngoài đường bán thịt dê được? Mau theo ta về nhà, ta sẽ nuôi con, rồi làm lễ thật to ghi tên con vào gia phả, về sau con chính là con gái ta!"

    Nhị cô nương chớp mắt, còn chưa nghĩ ra nên làm gì thì người đằng sau đã dắt một cỗ xe mui xanh tới, giục cô lên.


    "Khoan đã, đợi con bán xong thịt dê hôm nay…" Nhị cô nương nhìn Lưu Hỉ Anh, rồi lại cầm dao lên. Lưu Hỉ Anh vội sai người hầu: "Đem tất cả thịt về nhà bếp luôn đi. Con thích ăn thịt dê à?"

    "Không, bình thường thịt ế con đều phải ăn cả." Nhị cô nương miệng nói, tay cầm một sợi thừng rơm nhanh nhẹn buộc thịt lại, ném cho họ: "Coi như đây là quà ra mắt Tứ thúc vậy, con phải về nhà đây, còn nấu cơm cho mấy đứa em nữa."

    "Đừng mà Nhị nha đầu, đến nhà ta đi…"

    "Thôi thôi, con chỉ là một người bán thịt, sao có thể đến nhà Tứ thúc được? Huống hồ dưới con còn mấy đứa em phải nuôi…"

    "Thì gọi cả bọn chúng đến…"

    Chu Tử Tần đứng xem hài kịch mà suýt đánh rơi cả hàm dưới. Ngoái lại thấy Lý Thư Bạch vẫn thản nhiên như không, gã thiếu điều muốn quỳ sụp xuống vái lạy: "Vương gia đúng là người trời! Đoán việc như thần vậy!"

    Hoàng Tử Hà cười tinh quái: "Tra đến tông ty mấy đời thì ai mà chẳng có họ với một nhân vật vai vế, phải không nào?"

    "Nhưng có mấy ai hăm hở tới tìm một người họ hàng xa lơ xa lắc như thế đâu, sao Nhị cô nương tự nhiên lại có cái phúc ấy?"

    Hoàng Tử Hà cười cười nhìn Lý Thư Bạch, y cũng mỉm cười đáp trả, cúi đầu thì thầm vào tai cô: "Lưu Hỉ Anh tình cờ nghe được tin đồn rằng Nhị cô nương bữa trước từng giúp đỡ Quỳ vương trong lúc gặp nguy ở ngoại ô. Sau khi lén lút đến gác Đôn Thuần nghe ngóng, lão ta bèn hối hả chạy đến đây."

    Thấy Chu Tử Tần lật đật chạy đi hóng hớt, Hoàng Tử Hà không nén được nụ cười: "Quỳ vương quả là nhiệt tình."

    Lý Thư Bạch cúi đầu chăm chú nhìn cô hồi lâu mới hỡ hững đáp: "Chẳng qua không muốn thêm một đối thủ đấy thôi."

    Hoàng Tử Hà thoáng ngạc nhiên, không hiểu Chu Tử Tần đối địch với Quỳ vương lúc nào, song thấy y đã quay lưng đi thẳng, bèn vẫy tay với Chu Tử Tần rồi nhanh nhảu đi theo y.

    Đã qua trung thu, khí trời ngày một lạnh dần, bên con đường vắng, lá vàng lả tả rơi xuống thành một lớp dày dưới chân họ, mỗi bước đều nghe lạo xạo. Đất Thục xưa nay nắng ít mù nhiều, sắc trời âm u, nay có lá vàng lại càng thêm phần quạnh quẽ.

    Giọng Lý Thư Bạch khẽ khàng mà chậm rãi bên tai cô: "Tối qua ta đã nói chuyện với Vương Uẩn."

    Hoàng Tử Hà cúi đầu không đáp. Hôn ước cũ với Vương Uẩn khiến cô và Lý Thư Bạch muốn ở bên nhau cũng khó mà qua được ải của y. Giờ đây quan hệ giữa ba người vô cùng phức tạp, tình cảnh khó xử khiến người ta chẳng biết phải xử trí ra sao nữa.

    Thấy cô làm thinh, Lý Thư Bạch lại nói tiếp: "Phong thư ta nhờ người đưa tới, cô đã nhận được chưa?"

    Hoàng Tử Hà khẽ gật đầu, lí nhí đáp: "Việc này quả là không phải với nhà họ Vương."

    Lý Thư Bạch gật đầu: "Ta biết. Thế nên mấy ngày nữa ta sẽ về kinh, xử lý cho xong việc cần giải quyết. Có lẽ sẽ xảy ra rất nhiều chuyện, hoặc phải mất rất nhiều thời gian, nhưng ta nhất định quay lại."

    "Tôi chờ." Giọng Hoàng Tử Hà rất khẽ, mặt bất giác cũng đỏ ửng lên, nhưng ánh mắt nhìn y không mảy may dao động.

    Lý Thư Bạch cúi đầu đắm đuối nhìn cô, thấy làn da trắng tái dưới ánh sáng lờ mờ ngày thu hơi ửng hồng, kiều diễm không bút nào tả xiết. Y chỉ thấy lòng xao xuyến khôn cùng, máu nóng chảy rần rật dưới từng tấc da, mọi mạch máu từ lồng ngực đến tận ngón tay đều như sôi lên, khiến y thoáng ngây người.

    Rồi dường như bị dòng máu nóng trong tim dẫn dụ, y thình lình đưa tay ôm cô vào lòng, siết chặt.

    Hoàng Tử Hà đột ngột bị y ôm lấy, thân thể bất giác run lên. Hai tay cô chắn ở giữa, toan đẩy y ra, nhưng vừa chạm vào lồng ngực y, cả người cô đã mềm nhũn. Nhìn trên cánh tay mình, cô trông thấy hai hạt đậu đỏ xâu bằng dây vàng đã trượt xuống tận khửu tay, nhẹ nhàng chạm vào nhau.

    Hoàng Tử Hà bất giác ngẩn ngơ, rồi từ từ xuôi hai tay xuống, mặc cho y ôm lấy mình, tựa như hai người sẽ cứ thế dính chặt lấy nhau, từ nay không bao giờ chia lìa nữa.

    Lý Thư Bạch cúi đầu vùi mặt vào tóc Hoàng Tử Hà, hít thật sâu mùi hương thoang thoảng thanh mát mà xa xăm của cô, ý thức cũng từ từ tan ra như tuyết ngày xuân.

    Chẳng biết từ lúc nào, hai tay cô đã khẽ khàng giơ lên ôm lấy y. Vùi mặt vào ngực y, nghe tiếng hai trái tim đập dồn dập, mặt cô nóng bừng.

    Lâu thật lâu, y mới buông cô ra, dịu dọng dặn dò: "Bất luận nghe được tin gì cũng đừng sợ hãi, càng không cần lo lắng. Cứ yên lòng đợi ta về."

    Hoàng Tử Hà đỏ bừng hai má, lặng lẽ gật đầu, nhưng vẫn nhanh nhạy nhận ra có điều không ổn. Tuy lòng chưa thôi xao xuyến, song cô vẫn buột miệng hỏi: "Có thể xảy ra chuyện gì?" Nét cười dịu dàng thoáng qua gương mặt Lý Thư Bạch, y đắm đuối nhìn cô đáp khẽ: "Không có gì đâu, chẳng qua sợ cô đợi mãi phát chán lại quên khuấy mất ta thôi."

    Hoàng Tử Hà giơ tay đánh khẽ vào vai y: "Nói bậy."

    Y mỉm cười nắm lấy tay cô, đăm đăm lặng ngắm. Bàn tay y từ cổ tay cô trượt xuống, thong thả tách bàn tay cô ra, mười ngón đan vào nhau.

    Hai hạt đậu đỏ thắm nhẹ nhàng chạm vào đôi cổ tay sát lại.

    Hai người lặng thinh nắm tay nhau đi giữa một trời lá vàng rơi lả tả. Trên con đường vắng vẻ ngày thu, hướng tới một tương lai xa xăm mờ mịt.

    Chu Tử Tần đã nói là làm.

    Hôm sau gã đưa ngay son tới, ngoài một hộp to nhất cho Hoàng Tử Hà, còn chuẩn bị mười mấy hộp nhỏ để cô chia cho các chị em, riêng Mi Vu cũng có một hộp.

    Hoàng Tử Hà khều một ít bôi lên lòng bàn tay thử màu.

    Trông thấy hai hạt đậu đỏ xâu bằng dây vàng trên cổ tay trắng muốt của cô, tươi tắn đến chói mắt, Chu Tử Tần bất giác choáng váng cả đầu óc, cứ ngây ra ngắm nhìn hồi lâu.

    Hoàng Tử Hà kéo tay áo che đi rồi quay lưng lại, vừa thoa son vừa hỏi: "Nhị cô nương thích son hương hoa quế chứ?"

    Chu Tử Tần bấy giờ mới định thần, ủ rũ đáp: "Hôm nay cô ấy không dọn hàng. Ta vừa hỏi thăm được địa chỉ nhà, nhưng… ngại không dám đưa đến…"

    Hoàng Tử Hà cúi đầu cười, chỉ muốn hỏi lại: Công tử mà cũng biết ngại kia à?

    "À phải rồi, Sùng Cổ này, vụ hôm Trung thu đã kết án rồi. Ta cũng bàn bạc với cha, tuy xưa nay chưa từng có nữ bổ đầu, nhưng chúng ta vẫn muốn mời cô làm nữ bổ khoái ngoài biên chế, cô giúp chúng ta phá án, hàng tháng nha môn sẽ trả lương, thế nào?"

    "Chẳng thế nào cả!" Cô chưa kịp đáp đã thấy một người đùng đùng từ ngoài cửa đi vào, lớn tiếng cắt lời gã.

    Người đến là thím của Hoàng Tử Hà. Cô đứng dậy hành lễ, thấy mặt bà hầm hầm, bèn lễ phép hỏi: "Có chuyện gì sai bảo cháu ư?"

    Bà thím lườm Chu Tử Tần, rồi giận dữ phẩy tay ngồi xuống: "Cháu à, ta nào dám sai bảo gì cháu. Mặt mũi mấy mươi đời nhà họ Hoàng đều vì cháu mà mất cả rồi, mấy bậc bề trên như ta cũng đâu dám chõ miệng vào."

    Hoàng Tử Hà vờ như không hiểu, đứng yên đợi bà thím nói hết.

    "Con gái con đứa cả ngày đi theo đám bổ khoái nha dịch, trước đây còn nói cha cháu, mọi người cũng nể cháu là thiên kim nhà quận thú nên mắt nhắm mắt mở cho xong. Nhưng bây giờ cha mẹ cháu đã qua đời, cháu chỉ là dân thường, lại là con dâu chưa gả của nhà họ Vương, ngoan ngoãn ở nhà chờ kiệu hoa đến rước chẳng phải hay hơn ư, việc gì phải vấy vào vũng nước đục? Chẳng phải… bên ngoài đã có lời tiếng ong tiếng ve, nói là Vương công tử về kinh bàn bạc việc hủy hôn với cha mẹ đấy!"

    "Là ai loan tin này ra vậy?" Hoàng Tử Hà thầm đoán, hẳn là Lý Thư Bạch, người này thực quá quyết tuyệt, để Vương Uẩn khỏi nuốt lời, bèn nhanh tay chặt đứt đường lui của y.

    Chu Tử Tần không hiểu đầu đuôi nhảy dựng lên: "Cái gì cơ? Tên khốn Vương Uẩn kia dám hủy hôn à? Hắn định về kinh bàn việc hủy hôn ấy hả? Để ta tóm cổ hắn tẩn cho hắn một trận!"

    "Nguồn cơn việc này chẳng phải vì Chu bổ đầu ư?" Bà thím hầm hầm trừng mắt lườm gã, "Dạo Tử Hà bị truy nã toàn quốc, nhà họ Vương cũng không hề đả động chuyện hủy hôn, sao giờ đã rửa sạch oan khiên lại sinh sự? Chẳng phải nhờ Chu thiếu bổ đầu cứ lôi kéo con bé đi phá án hay sao? Đường đường là khuê nữ, cả ngày theo bổ đầu hết bươi tử thi lại phá án mạng, nhà chồng nào chịu nổi?"

    Chu Tử Tần đương nhiên không chịu lép, độp lại ngay: "Đại nương không biết rồi! Lúc ở trong kinh, Vương công tử vô cùng thán phục Sùng… Hoàng tiểu thư tâm tư tinh tế, đoán án như thần. Huynh ấy cũng từng giúp chúng tôi đến hiện trường điều tra, sao có thể vì việc này mà hủy hôn! Rõ ràng là tin đồn bậy bạ, không thể tin tưởng được!"

    "Hừ!!! Nhưng rõ ràng Vương công tử đã rời Thành Đô, chuyện này không thể chối cái được! Lúc trước Vương công tử từng đến nhà họ Hoàng mấy lấn, dốc lòng thu xếp cho con bé, giờ thì sao, mấy hôm trước đã nói sẽ đến bàn bạc việc hôn nhân, kết quả sát giờ hẹn lại cáo bận, cả việc lớn như về kinh cũng không báo lấy một tiếng, bổ đầu bảo là vì sao?"

    Chu Tử Tần vẫn nói cứng: "Đương nhiên là vì Vương Uẩn sợ lúc chia tay lưu luyến, lại lo mình không nỡ xa Hoàng tiểu thư, nên phải nén nỗi khổ chia ly, chẳng từ mà biệt, để khỏi sụt sùi thương cảm."

    Bà thím Hoàng Tử Hà chỉ là người thường, sao địch lại công phu nói đen thành trắng vô địch Trường An của Chu Tử Tần, đành cười nhạt quay lưng đi thẳng, quẳng lại một câu: "Tử Hà à, nếu chuyện hủy hôn là thực, thì từ nay về sau, mong cháu thận trọng chút đi."

    Chu Tử Tần lè lưỡi làm mặt quỷ sau lưng bà ta, rồi quay lại nhìn Hoàng Tử Hà: "Kệ bà ấy, ta thường tới Tả Kim Ngô Vệ ăn chực, hiểu rõ tính tình Vương Uẩn, người ôn hòa như thế mà hủy hôn mới là lạ! Huống hồ vợ chưa cưới của huynh ấy lại là cô, dù ta có tha, Quỳ vương cũng chẳng chịu để yên, nhất định sẽ ra mặt thay cô!"

    Hoàng Tử Hà cười bất lực: "Đa tạ Tử Tần tặng son và thuốc bôi tay, sau này có vụ án lớn cứ gọi tôi, tôi sẽ giúp công tử coi như cảm tạ."

    "Chủ yếu phải nhờ Sùng Cổ dạy ta phá án, tuy tay nghề nghiệm thi của ta là thiên hạ vô địch, nhưng về phương diện suy đoán thì còn kém lắm, quả là lực bất tòng tâm." Gã gãi đầu, thở dài não nuột, "Đương nhiên, nếu có tài xem tướng như Quỳ vương thì càng tốt, đi ngang qua đường liếc mắt một cái đã biết kẻ kia khi nào phạm tội, đến lúc đó cứ theo dõi hắn là được…"


    Hoàng Tử Hà bật cười khúc khích: "Được rồi, về sau công tử cứ nhờ gia chỉ bảo thêm cho."

    "Chỉ bảo gì chứ, Quỳ vương cũng đi rồi, sáng sớm nay lên đường." Chu Tử Tần xị mặt, rồi như sực nhớ ra chuyện gì đó, thì thào bảo cô, "À phải, trước lúc lên đường Trương nhị ca có nhờ tôi giúp huynh ấy nghe ngóng tin tức Tích Thúy ở Thục. Sùng Cổ bảo Tích Thúy liệu có đến đây không?"

    Hoàng Tử Hà trầm tư đáp: "Cũng không biết được, có khi một ngày nào đó cô ấy lại đến thì sao?"

    "Đúng nhỉ, thiên hạ rộng lớn như thế, đâu cũng có thể đi, đâu cũng có thể không đi mà." Nói rồi, Chu Tử Tần lại liếc ra ngoài song, thấy không có ai mới hạ giọng, "Lúc ta đến, Trương nhị ca đang thu dọn hành lý. Lần này Quỳ vương về kinh, có các tiết độ sứ Đông Xuyên và Tây Xuyên hộ tống, một số thân binh trước đây cũng đã quay về, chắc không hề gì. Vậy mà ta lại thấy Trương nhị ca đầy vẻ lo lắng, cứ nơm nớp không yên."

    Hoàng Tử Hà "Ừm" một tiếng, nhớ lại lúc từ biệt hôm qua, Lý Thư Bạch đã dặn cô nghe được tin gì thì cũng không được kinh sợ, càng không cần lo lắng, cứ yên lòng đợi y về, bèn cúi đầu nhìn xuống, xoay xoay chiếc vòng mã não trên cổ tay, hồi lâu mới hỏi: "Trương nhị ca nói gì?"

    "Huynh ấy không dám nói, nhưng ta cứ bám riết không buông…"

    Tài đeo bám của Chu Tử Tần, cả cô cũng không phải là đối thủ, đương nhiên Trương Hàng Anh làm sao chống đỡ nổi, đành ấp úng nói: "Khuyên đỏ…"

    Vừa nghe Chu Tử Tần nhắc đến hai chữ "Khuyên đỏ", Hoàng Tử Hà đã thấy hơi lạnh từ cột sống xộc thẳng lên óc, vội gặng: "Chữ nào?"

    Chu Tử Tần ngơ ngác: "Chữ nào là gì cơ?" Bấy giờ cô mới nhận ra mình hơi quá khích, có lẽ Chu Tử Tần không biết chuyện này, đành miễn cưỡng trấn tĩnh lại, gắng lấy giọng bình thản hỏi: "Ý tôi là, trừ hai chữ đó ra, Trương nhị ca còn nói gì không?"

    Chu Tử Tần lắc đầu: "Không hề. Huynh ấy vừa lỡ mồm buột ra hai từ này đã hối hận khôn xiết, ngậm chặt miệng lại. Ta năm nỉ hết cả hơi, nhưng huynh ấy lại quay ra cầu xin ta, nói rằng lúc trước vì phạm quy mà bị đuổi khỏi đội nghi trượng, nếu ta không muốn huynh ấy phải về Đoan Thụy Đường phơi thuốc thì đừng hỏi thêm nữa. Trương nhị ca đã nói thế, ta còn biết làm sao nữa."

    Hoàng Tử Hà lặng thinh, hồi lâu mới gật gật đầu, song chẳng nói thêm gì.

    Chu Tử Tần bèn gặng: "Sùng Cổ cũng biết 'khuyên đỏ' nghĩa là gì đúng không? Vừa rồi Sùng Cổ nói 'chữ nào' là có ý gì? Các vị lại giấu ta chuyện gì phải không?"

    Hoàng Tử Hà thở dài: "Tử Tần à, có những chuyện thà không biết thì hơn đấy."

    "Một là biết cả, hai là mù tịt, chứ cứ biết nửa chừng thế này khó chịu lắm!" Chu Tử Tần nhăn mặt, tha thiết nhìn cô, "Sùng Cổ, tiết lộ cho ta một tí đi? Một tí thôi mà…"

    "Biết một tí còn khó chịu hơn biết nửa chừng đấy!" Hoàng Tử Hà từ chối thẳng thừng, "Có những việc, một khi bị cuốn vào thì chẳng hay ho gì đâu."

    "Nhưng Sùng Cổ đã biết rồi, chẳng phải là cũng bị cuốn vào rồi ư? Ta bất chấp, bạn bè với nhau phải có nghĩa khí, chúng ta có phúc cùng hưởng có họa cùng chịu!" Hoàng Tử Hà chậm rãi lắc đầu: "Phải, tôi đã bị cuốn vào, vậy mà giờ đây sóng gió ập đến, người ta lại đẩy tôi ra… Thực tình, tôi còn rút ra nổi ư?"

    Chu Tử Tần ngơ ngác, chẳng hiểu cô đang nói gì.

    Chỉ thấy Hoàng Tử Hà quay sang cười hỏi gã: "Tử Tần có vào được gác Đôn Thuần không?"

    Chu Tử Tần quen tư duy nhảy cóc, song cũng chẳng ngờ cô lại thình lình đổi chủ đề như vậy, há hốc mồm hồi lâu mới gật đầu: "Được."

    "Dẫn tôi vào được không, tôi muốn xem thử nơi ở của Quỳ vương."

    Khóe miệng Chu Tử Tần rần rật: "Sùng Cổ buồn cười nhỉ? Trước đây làm tiểu hoạn quan bên cạnh Quỳ vương, ngày nào chẳng ở phủ Quỳ, còn chưa thấy nơi ở của gia ư?"

    Hoàng Tử Hà đành viện cớ khác: "Được rồi, vậy dẫn tôi đi thăm quan hành cung nhé."


    "Không vấn đề, để ta mượn cho một bộ đồ cửa công. Đi nào."

    Chu Tử Tần giao du rộng rãi, chỉ trong mấy tháng , khắp trên dưới quận Thục đều nhớ mặt. Đám hộ vệ canh giữ gác Đôn Thuần vừa thấy gã đã nhao nhao: "Sao Chu bổ đầu lại đến? Sáng nay chẳng phải vừa tiễn Quỳ vương ư?"

    "Ta để quên đồ, phải vào tìm." Nói rồi, gã vẫy tay chào tất cả, thản nhiên dẫn Hoàng Tử Hà vào. Thấy Hoàng Tử Hà mặc đồ bổ khoái, mọi người cũng chẳng để ý, chỉ cười hì hì trêu: "Cậu chàng này cứ trắng nõn nà ấy nhỉ."

    Đến trước hiên Xuân Hóa, cô chỉ thấy tùng bách xanh ngắt một màu, che khuất cả sảnh đường phía sau. Đi lòng vòng trên nền gạch xanh trước hiên hồi lâu, cô chợt hỏi: "Lúc Quỳ vương đến đây, có những ai hầu hạ?"

    Một kẻ đang dọn vườn cạnh đó liền đáp: "Sau khi các thị vệ bên cạnh Quỳ vương lần lượt quay về, đều do họ hầu hạ gia."

    Cô lại hỏi: "Có để lại người nào không?"

    "Có một thị vệ bị thương phạm đến xương cốt, không thể đi theo gia nữa, tình cờ cũng là người Thục nên gia gửi gắm quận thú giữ người này lại phụ việc, giờ đã ghi tên vào danh sách ở gác rồi."

    Hoàng Tử Hà gật đầu, hỏi han thêm về người nọ rồi đến gặp, là nam tử khí khái, chừng hơn hai mươi tuổi, trước đây cô cũng đã từng gặp, hình như mọi người gọi hắn là Điền Ngũ, tiếc rằng giờ đã cụt tay phải, không thể làm lính được nữa.

    Người này đương nhiên cũng nhận ra Hoàng Tử Hà, liền chào: "Dương công công." Đôi bên vái chào nhau xong, Hoàng Tử Hà tiện miệng hỏi: "Thứ gia để lại cho ta đâu?"

    Điền Ngũ ngẩn ra, ấp úng: "Thứ…gì cơ?"

    "Chính là thứ trước khi đi gia đưa cho ngươi, dặn ngươi sau này chuyển lại cho ta đó." Hoàng Tử Hà bình thản nhìn hắn.

    Điền Ngũ há hốc miệng, lưỡng lự đáp: "Là…cái đó ư…"

    Nghe hai người đối đáp, Chu Tử Tần chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì hết, mà cũng chẳng hơi đâu đoán mò, điềm nhiên ngồi xuống bên cạnh cắn hạt dưa.

    "Nhưng gia đã dặn, phong thư ấy phải đến ngày này năm sau mới được giao cho Dương công công." Điền Ngũ bối rối gãi đầu, nghi hoặc hỏi: "Sao giờ công công đã đòi lấy rồi? Gia nói với công công rồi à?"

    Hoàng Tử Hà thản nhiên giải thích: "Ừm, gia dặn ta nếu có việc gấp thì cứ xem phong thư gia để lại."

    Điền Ngũ lắc đầu: "Nhưng gia dặn tôi là ngày này năm sau."

    "Sáng nay lúc tới tiễn gia xảy ra việc gấp. Giờ gia về kinh, nhất định sẽ gặp trùng trùng nguy hiểm, nên mới dặn có để lại một phong thư ở chỗ ngươi, vốn định một thời gian nữa mới giao cho ta, nhưng giờ thế cục nguy cấp, nên bảo ta mau chóng lấy về."

    Nghe cô nói vậy, Chu Tử Tần đang cầm nắm hạt dưa liền ngẩn ra: "Sùng Cổ cũng đi tiễn gia ư?"

    "Ừm, sớm hơn công tử." Cô ngoái lại nhìn gã, ý bảo "ngậm miệng".

    Chu Tử Tần lại cắm cúi cắn hạt dưa, không dám ho he gì nữa.

    Thấy cô có vẻ quả quyết, ánh mắt cũng hết sức bình tĩnh, không giống như nói dối, Điền Ngũ đành đáp: "Thôi được, xin Dương công công đợi cho một lát." Đoạn hắn quay về phòng, chẳng bao lâu thì quay lại, đưa một bức thư gắn xi kín cho cô: "Là bức này đây."

    Bì thư không đề tên người gửi người nhận. Hoàng Tử Hà đón lấy, bảo Điền Ngũ: "Đa tạ, làm phiền Điền Ngũ ca rồi." Đoạn quay người, vừa đi vừa mở phong thư.

    Tử Hà, thấy chữ như thấy người.

    Lúc cô mở thư này ra, hẳn là ta đã chết.

    Mưa gió trong triều, chẳng ai tránh được. Mấy năm nay dốc hết tâm huyết, như giẫm băng mỏng, cuối cùng cũng có lúc đổ vỡ khó cứu. Bóng ác non Tây, vương khí suy kiệt ta không thể cứu, nhưng có mối họa ta có thể trừ. Dựa vào mình ta, dẫu có dốc cạn sức lực cũng không ngăn nổi dòng chảy của triều đình giữa trời dài đất rộng.

    Lần này chịu chết, ta đã đợi suốt mười mấy năm. Tổ lật lấy đâu trứng lành, giấc kê vàng đã tỉnh, thà thẳng thắn đối mặt còn hơn nín thít sống mòn. Cả đời ta vốn không ràng không buộc, chỉ muốn vạch trần bí mật thân này, rồi chết cũng không tiếc. Nào ngờ chiều xuân ấy lại tình cờ gặp cô, rồi bước bước dấn sâu, đến nỗi quên cả bản thân mình. Tử Hà, cô là sai lầm lớn nhất, cũng là may mắn lớn nhất đời ta.

    Họ Vương Lang Gia không phải mối tốt, sau ta, chắc sẽ đến lượt họ sụp đổ. Giờ cô đã không còn dính líu gì với Vương Uẩn nữa, bằng tuệ nhãn của cô, ắt sẽ tìm được duyên lành nơi khác, như ý viên mãn...


    Hoàng Tử Hà chẳng kịp đọc hết đã thấy trước mắt tối sầm. Nét chữ sắc sảo của Lý Thư Bạch nhòa hẳn rồi tan đi như khói. Cô đứng lặng, hai chân mềm nhũn, phải dựa vào gốc bách cao ngất đằng sau mới trụ vững nổi.

    "... Sùng Cổ?"

    Là Chu Tử Tần đang cuống quýt gọi cô.

    Hoàng Tử Hà vội vã gấp phong thư lại, song trước mắt tối mò, chẳng thấy gì cả, đành nhét lá thư vào ngực áo, yếu ớt gọi: "Tử Tần..."

    "Hả? Ta đây."

    "Tôi... hơi chóng mặt." Nói đến đây, cô cũng định thần lại, vịn tường chầm chậm đi đến cạnh lan can rồi tựa cột ngồi xuống, giơ tay bóp trán, "Thiếu máu ấy mà, một lát là ổn thôi."

    Chu Tử Tần vỗ đầu, hớt hải chạy vào căn phòng cạnh đó, lấy hai viên kẹo vừng đưa cho cô: "Gia không ở đây, cô cũng đừng quên mang kẹo theo chứ."

    "Đâu đến nỗi yếu ớt thế, gần đây cũng không phải bôn ba cả ngày mà." Đoạn cô nhón một viên kẹo vừng chậm rãi nhai, thẫn thờ hồi lâu.

    Phóng mắt nhìn ra tùng bách xanh um phía trước, chỉ thấy cành cong uốn lượn tựa như rắn rồng vươn mình, tán lá rậm rì chẳng khác bóng đen thấp thoáng, vườn cảnh được cắt tỉa gọn gàng nay đã trở thành hành cung quạnh quẽ cả trăm năm.

    Trong nháy mắt, dường như cô đã hiểu được sự đáng sợ của triều đình.

    Chu Tử Tần ngồi bên nhìn cô đầy lo lắng: "Sùng Cổ không sao chứ?"

    "Không... Tôi không sao..." Cô co chân lên, áp mặt vào cánh tay, gục đầu xuống gối giây lát rồi hỏi: "Cùng tôi đến thăm mộ cha mẹ được không?"

    Trên mộ Hoàng quận thú đã lún phún cỏ xanh. Chỉ cần có đất thì ngọn cỏ ngoan cường sẽ không ngừng mọc ra suốt bốn mùa, chờ đến một ngày con người sơ ý, chúng sẽ có cơ hội vươn cao.

    Chu Tử Tần xe nhẹ đường quen, chạy thẳng đến nơi, vái một vái thật dài trước mộ rồi thành khẩn khấn khứa: "Kính thưa tất cả người nhà của Hoàng tiểu thư... Lần trước quấy nhiễu các vị thực là có lỗi, xin các vị bỏ quá cho, dù sao cuối cùng Hoàng tiểu thư đã giúp các vị bắt được hung thủ, coi như tôi cũng góp một tay..."

    Hoàng Tử Hà chẳng buồn để ý đến gã mà quỳ phục xuống, thẫn thờ nhìn hàng chữ trên bia mộ khắc rành rành tên cô: Hiếu nữ, Hoàng Tử Hà.

    Cả gia đình thuận hòa yên ấm làm vậy, giờ đây chỉ còn một mình cô.

    Ánh mắt cô vượt qua phần mộ trước mặt, nhìn ra ngôi mộ nhỏ giản dị đằng sau. Trước mộ chỉ có một tấm bia đá khắc mấy chữ đơn sơ: Vũ Tuyên chi mộ.

    Ngoài ra, không còn gì khác.

    Dưới nấm đất hoang vu ấy, là mối tình đầu đã vùi chôn của cô. Chẳng ai còn biết đến phong tư nho nhã của hắn, cũng chẳng ai hay câu chuyện của hắn. Càng không ai biết, hắn từng biến một thời thiếu nữ của cô thành giấc mộng đẹp nhất thế gian này.

    Tiếc rằng giờ đây mộng đẹp đã tan, hắn cũng rời xa cô mãi mãi. Trước mặt cô, chỉ có một con đường đầy rẫy hiểm nguy. Lý Thư Bạch mong cô ở lại đây đợi ngày y đạp bằng chông gai quay về, song cô tự biết, mình không thể ngồi một chỗ đợi định mệnh giáng xuống được.

    Người sống trên đời luôn phải đối mặt với muôn ngàn sóng gió. Bão táp trên triều nghiêng ngả thiên hạ. Nếu vào lúc gian nan hung hiểm nhất lại không thể kề vai sát cánh cùng người ấy thì cô cần gì sống uổng kiếp này, càng không thể nói là viên mãn như ý được.

    Cô cắn môi, khom người dập đầu ba cái trước mộ người nhà.

    Từ đầu đến cuối, cô đều lặng thinh không nói. Chu Tử Tần đi cũng chẳng hiểu nguyên do, chỉ biết nghi hoặc nhìn cô, cũng chẳng rõ tại sao mắt cô ầng ậng nước.

    Núi non trùng điệp, đường xa tít tắp.


    Con đường phía trước dường như không có điểm cuối, cứ trải dài ra lớp lớp. Lý Thư Bạch mải miết đi, càng gần kinh thành, y càng thấy bất an.

    Con cá nhỏ trong bình lưu ly dường như cũng mệt vì đường xa, lặng lẽ lặn xuống đáy bình, bất động thật lâu. Mặc cho y búng vào thành bình, nó cũng chỉ uể oải quẫy đuôi, chẳng buồn để ý.

    Ánh nắng rọi qua rèm xe càng lúc càng thêm ấm áp. Suốt, lá đỏ lá vàng rơi lả tả. Vén rèm trông ra, tình cờ một chiếc lá đỏ bay vào rơi xuống lòng mình. Y nhặt lên xem, lại nhớ đến lúc chia tay trên con đường vắng ở Thành Đô hôm ấy, một chiếc lá đỏ cũng rơi xuống tóc cô thế này.

    Hẳn cô không biết, khi ôm cô vào lòng, y đã âm thầm gỡ chiếc lá từ tóc cô, nắm chặt trong tay.

    Y lật cuốn sách trên bàn ra, đặt chiếc lá vừa nhặt xuống cạnh chiếc kẹp sẵn trong sách. Hai chiếc lá đỏ nằm bên nhau, nhìn thân thiết vô cùng.

    Giờ cô đang làm gì nhỉ? Chiều thu thế này, chắc là đang ngủ bên song? Liệu có phải đang chìm trong mộng đẹp?

    Nghĩ vậy, khóe môi y bất giác cong lên thành một nụ cười, thầm nhủ, một thời gian nữa, không thấy mình quay về, cuộc hôn nhân của cô với Vương Uẩn cũng bị chính mình phá hỏng, liệu cô có hận mình không nhỉ?

    Đi mải miết hết ngày này sang ngày khác, phong cảnh ngoài song cũng dần trở nên quen thuộc. Núi non ngoài ngoại ô kinh thành dường như cũng hùng vĩ nguy nga hơn nơi khác. Núi non trùng điệp, sông nước uốn quanh, non xanh nước biếc cùng bao bọc lấy tòa thành phồn hoa nhất dưới gầm trời này, trở thành nơi muôn vạn dân chúng hướng về.

    Nghỉ lại biệt phủ ngoài thành một đêm, quân Đông Tây Xuyên cũng dừng lại đóng trại ở đây, tảng sáng hôm sau chỉ có một mình xa giá Quỳ vương vào thành.

    Thấy cỗ xe ngựa quen thuộc, từ quan đến dân trong thành đều nháo nhào kháo nhau, Quỳ vương về kinh rồi. Quan viên các bộ xúc động rưng rưng, như nhìn thấy cảnh đống tấu chương chất cao như núi đang vợi đi nhanh chóng.

    Thế nên, xe ngựa còn chưa đến phường Vĩnh Gia, trước cửa phủ Quỳ đã có cả đám người xúm xít đứng đợi. Tới khi nghe tiếng chuông vàng quen thuộc, mọi người đều rộ lên hoan hô rồi nhao nhao chạy đến tham kiến. Thượng thư bộ Công Lý Dụng Hòa vung tay gạt tất cả ra, nước mắt nước mũi ròng ròng: "Vương gia cuối cùng cũng về kinh rồi! Hoàng thượng đang định xây một trăm hai mươi tòa tháp ở ngoài thành để rước cốt Phật từ chùa Pháp Môn, xin gia cho chỉ thị, chúng hạ quan phải xây thế nào đây?"

    Thôi Thuần Trạm đẩy phắt Lý Dụng Hòa ra, hối hả thưa: "Bẩm vương gia, vụ kinh triệu doãn Ôn Chương nhận hối lộ giờ đã giao cho Đại Lý Tự điều tra, gia xem..."

    "Đây là sổ thu thuế năm nay của bộ Hộ, mời gia xem qua..."

    ...

    Giữa tiếng ồn ào nhốn nháo, Lý Thư Bạch cuối cùng cũng bước xuống xe. Y vốn cao, nên chỉ cần nhìn quanh một lượt, mọi người đã cảm thấy y nhìn thấy mình, tức thì đám đông yên tĩnh hẳn, ai nấy vội vã dâng sổ sách của mình lên.

    Song Lý Thư Bạch không nhận lấy, chỉ ra hiệu cho đám tùy túng rẽ đám đông ra, đi thẳng vào phủ, miệng nói: "Bản vương đi tắm gội thay áo đã, các vị có thể vào sảnh đợi..."

    Vừa nói đến đây, y bỗng sững ra trước cửa.

    Đám người đằng sau không hiểu Quỳ vương trông thấy gì, nhưng thấy y đứng sững ở đó, đang nói nửa chừng thì im bặt, bèn lũ lượt vươn đầu ra ngó xem rốt cuộc là cái gì đã khiến Quỳ vương nổi danh lạnh lùng điềm tĩnh, dù núi lở trước mặt cũng không hề biến sắc lại phải thẫn thờ.

    Lý Thư Bạch nhanh chóng định thần, bước qua cửa rồi quay lại bảo tất cả mọi người: "Hôm nay ta mệt rồi, mời các vị về cho, mọi chuyện để mai hẵng bàn."

    "Bẩm vương gia, mạng người quan trọng mà! Việc của Ôn Chương rốt cuộc..."

    "Vương gia, một trăm hai mươi tòa tháp phải làm sao đây! Trên dưới bộ Công sắp bị lôi đi xử giảo hết rồi..."

    "Xin gia xem qua đi..."

    Lý Thư Bạch như không nghe thấy, chỉ đứng trên thềm, nhìn chằm chằm bóng dáng mảnh mai trước bức chiếu bích (1).

    (1) Một dạng bình phong, thường xây bằng gạch hoặc đá rất kiên cố, đặt ở giữa sân, sau cổng chính, chắn giữa cổng chính và cửa nhà để cản không cho tà khí vào nhà.

    Hoàng Tử Hà vận bộ váy vàng nhạt, mái tóc búi đơn giản, chỉ cài cây trâm y tặng, đứng trước chiếu bích quét vôi trắng, lúm đồng tiền ẩn hiện trên gương mặt tái xanh. Trong đôi mắt đắm đuối kia lấp lánh hai vì sao sáng nhất thế gian, phản chiếu bóng hình y, khiến mọi thứ trước mặt y bỗng sáng rực lên như có hào quang vạn trượng.

    Từng bước, từng bước, y thong thả bước xuống thềm, đi về phía cô.

    Hoàng Tử Hà đứng giữa gió lộng, tà áo bay bay, tóc tơ phấp phới, nhoẻn miệng cười thật tươi, ánh sao trong mắt cũng long lanh dao động.

    Ngực y như có cái gì trào lên rồi nghẹn lại, hơi thở cũng ngừng mất một nhịp. Máu trong tim y sôi lên, cả người lúc lạnh lúc nóng, chẳng biết là mừng rỡ hay là xót xa.

    Bước đến cách cô hai bước, y mới dừng chân, khẽ hỏi: "Sao lại đến đây?"

    Cô ngước nhìn y: "Gia thanh thế lớn quá, dọc đường đi có bao nhiêu người tiếp đón bày tiệc tẩy trần nên chậm hơn tôi nhiều. Tôi đến đây từ hôm trước, đã nghỉ ngơi được hai ngày rồi."

    Không để cô đánh trống lảng, y lại hỏi: "Chẳng phải bảo cô cứ yên tâm ở Thục đợi ta ư?"

    "Đợi thế nào đây? Đợi đến mùa thu năm sau đọc thư tuyệt mệnh của gia ư?" Cô hít một hơi thật sâu, mặt vẫn tươi cười song bờ môi đã run lên, hơi thở lẫn giọng nói đều nghèn nghẹn: "Tuy biết gia đã sắp xếp như thế thì nhất định sẽ bình yên quay về, nhưng... tôi làm sao chờ nổi, huống hồ, nếu cứ ngồi đợi chờ vô vọng, chi bằng tôi chính tay nắm giữ thứ mình có thể nắm giữ còn yên tâm hơn."

    Nụ cười của cô kiên cường mà rạng rỡ. Tia nắng cuối ngày rọi lên gương mặt tươi tắn, khiến cả thế giới thoắt mờ mịt hẳn đi. Gương mặt cô lấp lánh ánh hoàng hôn vàng rực, khiến Lý Thư Bạch lóa cả mắt, không dám nhìn thẳng.

    Dường như y có thể trông thấy cô một thân một mình cưỡi Na Phất Sa băng qua muôn sông ngàn núi, giữa một trời hoa vàng lá úa mùa thu, bất chấp mọi thứ chạy thẳng đến kinh thành.

    Cổ họng bỗng nghẹn lại, không thốt nổi lời nào, y chỉ biết giơ tay chạm nhẹ mặt cô, như chạm vào mộng ảo, cảm thấy tất cả đều mông lung, không dám tin là thật.

    Giọng nói vốn lạnh nhạt bình thản, lúc này cũng run lên: "Cô có biết… tình thế hiện giờ đối với ta nguy hiểm nhường nào không?"

    Đoạn y rút lá bùa trong tay áo, chìa ra trước mặt cô.

    Giữa tờ giấy ố vàng, trên nền hoa văn xà trùng quỷ dị, ba chữ "côi, tàn, góa" đều bị khuyên đỏ thắm. Vết mực đỏ như máu còn loang ra, thấm vào những hoa văn chìm bên dưới, lờ mờ tạo thành một chữ sau cùng: vong.

    Nhìn con chữ ẩn hiện giữa lớp, như có như không hoa văn chìm đầy quái gở song lại xoáy vào mắt, cô chỉ mỉm cười, vươn tay nắm lấy tay y. Rồi giống như lần trước, mười ngón tay đan vào nhau.

    Dưới ánh chiều vàng rực, cô nắm chặt tay y, cười dịu dàng: "Tôi đã nói sẽ vĩnh viễn ở bên gia mà."

    Dòng máu sôi sục trong tim cuối cùng cũng trào dâng như vỡ đê. Y chẳng còn sức xua đuổi cô nữa, đành bất chấp tất cả ôm chặt lấy cô, chặt đến gần như thô bạo. Cô cảm giác được cả người y run lên, hơi thở rối loạn dồn dập, luống cuống chẳng khác một gã thiếu niên chưa hiểu sự đời. Đang định cười trêu kẻ xưa nay quen thói làm mặt lạnh, nhưng vừa mở miệng ra, môi chưa kịp cong lên, nước mắt đã lăn dài.

    Cô lặng lẽ vùi mặt vào ngực Lý Thư Bạch, để nước mắt mình thấm vào vạt áo gấm trên người y.

    Trường An cuối thu, tà dương vàng rực. Trong phủ Quỳ hoa cúc nở rộ, mùi thuốc thoang thoảng bao phủ tất cả lầu gác.

    Khung cảnh êm đềm lúc này, có lẽ là ngày cuối cùng của họ.
     
  14. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 3 - Nghiêng ngả thiên hạ
    Trong cung Đại Minh, lầu gác nguy nga tráng lệ cũng đã trút sạch sắc thu theo những chiếc lá hòe rụng xuống.

    Hoàng Tử Hà theo sau Lý Thư Bạch, một lần nữa bước vào điện Tử Thần.

    Lý Thư Bạch tâu trình lại tình hình ở Thục, rồi dâng cống phẩm các nơi lên. Hoàng đế vẫn tươi cười ôn hòa như trước, chỉ là chiếc cằm vốn đầy đặn giờ đã tóp đi đôi chút. Sau khi Đồng Xương công chúa qua đời, ngài ngự và Quách thục phi đau lòng khôn xiết, gầy rộc hẳn đi.

    "Tết Trùng dương hôm trước, mấy anh em tề tựu trong cung dự tiệc, chỉ thiếu mỗi Tứ đệ, Thất đệ còn ngâm câu: 'Nay cắm thù du thiếu một người (1)'." Hoàng thượng lần chuỗi mười tám hạt (2), cười nói, "Cung khuyết trẫm mới tu sửa, đệ còn chưa thấy nhỉ?"

    (1) Trích từ bài "Mồng chín tháng Chín nhớ anh em ở Sơn Đông" của Vương Duy. Mùng chín tháng Chín là tết Trùng dương, hay Trùng cửu, người xưa thường hay ăn cua ngắm cúc, lên đài cao ngắm cảnh, cắm một cành thù du – loài cây có hoa rất đẹp – vào bình, tượng trưng cho tình anh em gắn bó.

    (2) Chuỗi mười tám hạt, được xâu thành từ mười tám loại hạt bồ đề khác nhau, chọn ra từ hơn trăm loại hạt bồ đề. Mười tám hạt ý chỉ mười tám giới, bao gồm: lục căn: mắt, mũi, tai, lưỡi, thân, ý; lục trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; lục thức: nhãn thức, nhĩ thức, nhĩ thức, tị thức, thiệt thức, thân thức, ý thức.


    "Cung khuyết ư?" Lý Thư Bạch đã nghe nói, song vẫn thản nhiên hỏi lại.

    "Đúng vậy, cửa phượng đế thành mờ mây phủ (3), qua cửa cung Đại Minh là thấy ngay hai tòa gác Tường Loan, Tê Phượng nằm trước điện Hàm Nguyên, giờ cả hai đều đã cũ nên trẫm sai người tu sửa lại, đẹp đẽ như mới, Tứ đệ mà trông thấy nhất định sẽ phải tán thưởng."

    (3) Trích từ "Vâng mệnh họa bài 'Từ điện Bồng Lai đến gác Hưng Khánh, giữa đường dừng lại ngắm xuân trong mưa xuân' của vua", tác giả Vương Duy.

    Lý Thư Bạch chỉ nín lặng gật đầu. Lúc ở Thục y đã được tin lần này hoàng thượng cho sửa sang lại điện Hàm Nguyên cùng hai gác Tường Loan, Tê Phượng nguy nga hơn xa thuở trước, lấy gỗ trầm làm xà, lim vàng làm cột, khắp nơi sơn son thiếp vàng, tổng cộng hết mấy ngàn lượng vàng, vài trăm hộc trân châu, chưa kể sừng tê, đá quý, vân vân. Hậu cục và bộ Công phải giật gấu vá vai đến giờ vẫn chưa đủ bù.

    Song ngài ngự nào hay những nông nỗi ấy, chỉ hào hứng kể: "Sau đại tế Đông chí năm nay, chúng ta sẽ uống rượu trên hai tòa gác mới sửa, xem ca múa từ xa, nhất định trở thành câu chuyện phong nhã nổi tiếng trong cung Đại Minh, lưu danh sử sách."

    Lý Thư Bạch lại tâu trình: "Lời bệ hạ rất có lý, có điều công trình này đã tiêu tốn rất nhiều, hôm qua bộ Công tới tìm thần đệ, nói rằng nếu bây giờ lại cho xây một trăm hai mươi tòa tháp để rước cốt Phật thì quả là nan giải." Hoàng đế nhíu mày, vuốt chòm râu lơ thơ nghĩ ngợi rồi phán, "Lý Dụng Hòa đúng là vô dụng, bộ Công nắm trong tay quyền điều động bao nhiêu tiền bạc như vậy mà có mỗi một trăm hai mươi tòa tháp cũng không xây nổi ư?"

    "Bẩm, năm nay xây dựng khá nhiều, đầu năm xây cung Kiến Bật, giữa năm xây mộ công chúa, giờ lại mới trùng tu cung khuyết, nếu xây thêm tháp, e rằng sẽ cạn kiệt quốc khố."

    Hoàng đế thở dài: "Tứ đệ, gần đây ta thấy rất bất an, nhớ năm xưa Linh Huy gặp phúc ắt thông, câu đầu tiên mở miệng ra nói là: 'Sống được', ai ngờ giờ đây lại đột ngột qua đời, để trẫm... người đầu bạc tiễn kẻ tóc xanh, như nến tàn trước gió, ai mà biết được ngày mai lại ở đâu?"

    Lý Thư Bạch an ủi : "Bệ hạ đương độ tráng niên, sao lại nói lời chán nản ấy rồi? Triều đình xã tắc còn phải trông vào bệ hạ, xin bệ hạ đừng nản lòng như thế. Theo thần đệ thấy, cốt Phật không rước cũng chẳng hề gì."

    "Cốt Phật nhất định phải rước về. Kiếp này ta được trông thấy thì có chết cũng không hối tiếc." Hoàng đế lắc đầu đầy cương quyết, rồi hỏi: "Vậy... Tứ đệ tinh thông sách sử, cảm thấy chín chín tám mươi mốt tòa tháp có được không?"

    "Cửu cửu quy nhất, con số này cũng rất tốt lành." Nói rồi, Lý Thư Bạch nhíu mày, "Nếu bệ hạ vẫn quyết rước cốt Phật về, thì thần đệ cho rằng, quan trọng nhất là tâm ý. Nhà Phật có thuyết thập nhị nhân duyên, bệ hạ xây mười hai tòa cũng đủ. Cũng có thể chỉ xây ba tòa thôi, tượng trưng cho Phật, pháp, tăng, vừa thanh tịnh lại phù hợp."

    "Tứ đệ không hiểu lòng thành của trẫm rồi, xây có mấy tòa như thế làm sao tỏ lòng được?" Hoàng đế không vui, xua tay cho y lui ra.

    Lý Thư Bạch đứng dậy cáo lui, ra đến cửa điện còn nghe hoàng đế nói: "Bảy mươi hai vậy, bên trong thờ phụng thất thập nhị hương nhà Phật cũng được."

    "Lần trước rước cốt Phật là năm Nguyên Hòa thứ mười bốn, cách đây năm mười năm rồi." Tại phủ Ngạc, Lý Nhuận phấn khởi rót trà cho Lý Thư Bạch, "Nghe nói lần đó náo nhiệt chưa từng thấy, dân chúng trong trành tranh nhau mua đèn nhang để cung nghênh cốt Phật, lần này chắc cũng thế."

    Lý Thư Bạch đón lấy chung trà Lý Nhuận vừa pha, chậm rãi hỏi: "Đệ có biết hôm cốt Phật được rước từ chùa Pháp Môn ra, có một bà lão dẫn theo cháu gái đứng đợi bên ngoài, cốt Phật vừa ra, bà ta liền dốc vào miệng đứa bé một lọ thủy ngân, dùng nhục thân của nó để cúng dường không?"

    Lý Nhuận hít vào một hơi khí lạnh, mở to mắt: "Nhưng... Phật pháp cao thâm, thiện nam tín nữ đông đảo, khó tránh có kẻ cuồng tín, chẳng qua cũng chỉ cầu được phù hộ đấy thôi."

    "Nếu chỉ dân chúng tin Phật thì đâu đến nông nỗi ấy, nhưng hoàng gia đi rước, triều đình làm gương, sẽ trở thành mầm họa. Dốc hết sức lực toàn quốc, khiến dân ngu cuồng loạn thì ích gì?" Lý Thư Bạch lắc đầu, "Năm ấy Hàn Dũ chỉ vì can gián việc rước cốt Phật mà bị biếm, giờ đây xem chừng cũng cần một người đứng ra khuyên ngăn."

    "Tứ ca đừng làm chuyện dại dột!" Lý Nhuận vội can, "Từ sau khi Đồng Xương công chúa qua đời, bệ hạ luôn gặp ác mộng, giờ chỉ một lòng muốn rước cốt Phật vào cung thờ phụng để tiêu tai giải nạn. Ý bệ hạ đã quyết, không ai khuyên nổi đâu!"

    Lý Thư Bạch gật đầu không đáp.

    Uống hết nửa ly trà, thấy Lý Thư Bạch không nói gì thêm, Lý Nhuận mới hơi yên lòng, ngẩng lên trông thấy Hoàng Tử Hà vận đồ nữ thì ồ lên hỏi: "Bên cạnh Tứ ca cuối cùng cũng có một thị nữ rồi ư?"

    Hoàng Tử Hà nâng vạt áo lên hành lễ, gật đầu với y.

    "Hình như ta đã thấy cô ở đâu rồi thì phải..." Vừa nói đến đó, y bỗng "à" lên rồi vỗ trán, "Dương Sùng Cổ! Gần đây trong kinh đồn ầm lên rằng, Hoàng Tử Hà cải trang thành tiểu hoạn quan, Quỳ vương xuôi Nam phá án, đám tiên sinh kể chuyện ngoài phố đã dựng thành chuyện kể khắp nơi rồi đấy!"

    Hoàng Tử Hà cúi đầu: "Khi trước tiểu nữ không dám tiết lộ thân phận, chứ không phải cố ý lừa gạt Ngạc vương gia, mong vương gia thứ tội."

    "Ba bốn năm trước ta và Vương Uẩn từng trông thấy cô trong cung một lần, vậy mà về sau gặp mấy lần vẫn không nhận ra, là ta không biết người tiên đấy thôi." Nói đoạn, y ra hiệu cho cô ngồi xuống, còn đích thân rót trà mời, xong xuôi mới thắc mắc, "Vương Uẩn chẳng phải cũng về kinh rồi ư? Sao Hoàng tiểu thư còn hầu hạ bên cạnh Tứ ca?"

    Hoàng Tử Hà nín lặng uống trà. Người lên tiếng là Lý Thư Bạch: "Dương Sùng Cổ là hoạn quan hạng bét ở phủ ta, đã điểm chỉ ký tên rõ ràng, bất luận thân phận thay đổi thế nào, hễ ta chưa có lời, thì cũng đừng hòng đi đâu được."

    Hoàng Tử Hà nhìn y như muốn mắng: "Vô sỉ", còn Lý Nhuận lần đầu tiên thấy một Lý Thư Bạch thế này thì sững cả người ra, quên bẵng rót thêm nước vào bình trà.

    Hoàng Tử Hà rút một túi gấm trong tay áo ra, đặt nhẹ lên bàn, đẩy về phía Lý Nhuận: "Thứ này xin trả lại cho Ngạc vương gia."

    "Gì vậy?" Lý Nhuận ngạc nhiên cầm lên, mở túi lấy vật bên trong ra.

    Vòng ngọc long lanh, phát ra ánh sáng mờ mờ, như có làn khói mỏng bao quanh. Y lặng lẽ nắm chặt nó trong tay, màu ngọc cũng long lanh biến đổi theo động tác của y, tạo ra vô vàn vầng sáng.

    Lý Nhuận thẫn thờ ngắm chiếc vòng hồi lâu, đoạn hỏi: "A Nguyễn... nhờ hai người trả lại ta ư?"

    Lý Thư Bạch chậm rãi gật đầu: "Trước khi qua đời, cô ấy nhờ Công Tôn đại nương trả lại cho đệ."

    "Qua đời à...?" Lý Nhuận ngẩng phắt lên, đôi mắt mơ màng mở to.

    "Đệ đã biết chuyện Hoàng Tử Hà phá án giải oan, hẳn cũng nghe được manh mối vụ này bắt nguồn từ cái chết của một ca kỹ chứ?"

    Lý Nhuận ngỡ ngàng nhìn Lý Thư Bạch, như vừa vỡ lẽ. Mặt y tái ngắt, nốt ruồi son đỏ thắm giữa mi tâm cũng nhạt hẳn đi, ly trà tuột tay rơi xuống nền gạch vỡ tan tành, vụn trà xanh lục loang đầy đất.

    Lý Thư Bạch thở dài: "Thất đệ cất đi. Dù sao cũng là di vật của thái phi, vẫn nên trả cho chủ cũ."


    "Vâng..." Y ngơ ngẩn đáp, tay vẫn nắm chặt chiếc vòng.

    Thấy y đờ đẫn, Lý Thư Bạch bèn đứng dậy từ biệt: "Ta vừa về kinh, còn rất nhiều việc, vòng đã trả lại đệ, ta cũng phải về đây."

    "Tứ ca..." Lý Nhuận vô thức giữ lấy tay y.

    Lý Thư Bạch ngoái lại. Lý Nhuận cắn môi nói khẽ: "Đệ muốn nhờ huynh giúp một việc." Lý Thư Bạch đành ngồi xuống hỏi: "Sao thế?"

    "Đệ nghi ngờ..." Lý Nhuận ngập ngừng, mấy ngón tay siết chặt chiếc vòng đến tái nhợt cả ra. Rồi đột nhiên y đứng phắt dậy, nhìn qua khung cửa sổ mở toang, thấy không có ai lảng vảng mới hít một hơi thật sâu, gắng trấn tĩnh nói tiếp, "Đệ nghi ngờ mẫu phi đệ bị người ta hãm hại."

    Lý Thư Bạch nhíu mày, quay sang nhìn Hoàng Tử Hà.

    Hoàng Tử Hà ngẫm nghĩ một lát, rồi bình thản hỏi: "Có phải vương gia phát hiện ra chuyện gì không, sao đột nhiên lại nói vậy?"

    Lý Nhuận cắn môi gật đầu: "Mời Tứ ca và Hoàng tiểu thư theo đệ."

    Trần thái phi là phi tần của tiên hoàng, theo lệ phải ở trong cung Thái Cực dưỡng già. Nhưng ngay trong đêm tiên hoàng băng hà, thái phi đau đớn quá độ đã hóa điên, cung nữ hầu hạ trong cung Thái Cực lại bỏ mặc không săn sóc, năm ấy Lý Nhuận mới hơn mười tuổi, đến thăm mẫu phi thì thấy bà đầu bù tóc rối, cơm không đủ no áo không đủ mặc, bèn quỳ trước điện Tử Thần thật lâu, cầu xin hoàng đế cho đón mẫu phi về vương phủ phụng dưỡng.

    Sau khi được đón về vương phủ, Trần thái phi tuy vẫn phát bệnh luôn, nhưng người ở vương phủ săn sóc chu đáo nên cũng coi như được tĩnh dưỡng. Lý Nhuận chăm nom mẹ rất cẩn thận, cho mở một gian điện nhỏ sau chính điện, để bà ở ngay gần mình. Giờ đây tuy mẫu phi đã qua đời, song y vẫn giữ gian điện nọ, bày biện bài trí hệt như lúc bà còn sống, không hề động đến.

    Lý Nhuận dẫn Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà vào, chỉ thấy bên trong thờ linh vị của Trần thái phi, trước án thờ bày hoa thơm và nhang đèn, khiến không khí hơi ngột ngạt.

    Sau khi thắp cho Trần thái phi nén nhang, Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà nhìn sang Lý Nhuận. Y đặt chiếc vòng lên trước linh vị mẫu phi, rồi chắp tay vái dài, đứng lặng hồi lâu mới quay lại bảo họ: "Mẫu phi đệ trước khi lâm chung đã có lúc tỉnh táo lại. Bà dặn đệ rằng, thiên hạ Đại Đường sắp mất rồi." Nghe vậy, cả Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà đều biết chuyện này không phải tầm thường, bèn chăm chú lắng nghe y nói tiếp.

    "Bấy giờ mẫu phi đã rất lâu không tỉnh, đệ cũng biết tình trạng của bà. Nhưng lần đó mẫu phi thực sự rất tỉnh táo, khác hẳn mọi khi." Nhớ lại tình cảnh lúc ấy, Lý Nhuận không khỏi thở dài, "Bởi vậy, những lời bà nói nhất định không phải lời của kẻ điên, đệ nghĩ, lúc phụ hoàng lâm chung, chắc mẫu phi đã biết được chuyện gì đó, nên mới hóa điên, ắt hẳn là một bí mật vô cùng quan trọng, bằng không sao mẫu phi lại nghĩ nó có liên quan đến giang sơn xã tắc, thiên hạ Đại Đường?"

    Hoàng Tử Hà hỏi: "Bấy giờ thái phi nói thế nào, vương gia có thể thuật lại cho chúng tôi nghe chăng?"

    Lý Nhuận mở ngăn tủ, lấy ra một hộp trang điểm sơn đen, khảm xà cừ hình hoa, trông khá cũ kỹ, thoạt nhìn đã biết là vật dùng lâu ngày. Lý Nhuận thận trọng mở hộp, gỡ tấm gương đồng mờ đục ra, để lộ khe hở đằng sau.

    Y lại mở một chiếc hộp nhỏ cạnh đó, lấy ra mẩu giấy bông vẽ ba mảng mực đen sì, gập lại ướm vào khe hở sau tấm kính: "Bấy giờ mẫu phi rút mảnh giấy này ra từ đây, chẳng biết bà đã giấu ở đó từ khi nào nữa. Bà đưa cho đệ nói rằng, đây là bà vất vả lắm mới vẽ được mà giấu đi, dặn đệ phải cất thật kỹ... liên quan đến chuyện tồn vong của cả thiên hạ."

    "Có thể thấy thái phi lúc đó rất tỉnh táo, quả thật không phải lú lẫn." Cô vừa ngẫm nghĩ về mấy chữ "tồn vong của cả thiên hạ", vừa nghiêng đầu nhìn sang Lý Thư Bạch.

    Lý Thư Bạch khẽ gật đầu với cô, rồi hỏi Lý Nhuận: "Còn gì nữa không?"

    "Mẫu phi còn nói một câu..." Lý Nhuận ngần ngừ, nhưng cuối cùng cũng thành thực kể, "Bà dặn đệ không được thân thiết với Tứ ca."

    Lý Thư Bạch cúi đầu im lặng nhìn ba mảng mực đen sì trên tờ giấy trong tay y.

    Hoàng Tử Hà lúng túng lên tiếng: "Vậy mà Ngạc vương gia vẫn kể chuyện này cho chúng tôi."

    "Ta và Tứ ca cùng lớn lên trong cung Đại Minh, lại cùng bị đưa ra khỏi cung, từ nhỏ đến giờ vẫn khăng khít. Ta... biết Tứ ca có ý nghĩa thế nào với thiên hạ Đại Đường mà." Lý Nhuận đặt tờ giấy bông lên bàn, cả người như bị rút cạn sức lực, khó khăn lắm mới đứng vững được trước án thờ, "Thế nên ta nghĩ, mẫu phi nhất định đã biết được gì đó, nên mới bị hãm hại đến hóa điên còn thốt ra lời này, mà kẻ hại mẫu phi nhất định có liên quan mật thiết đến việc phụ hoàng băng hà, cũng là kẻ thù của Tứ ca."

    Lý Thư Bạch chậm rãi gật đầu, song không nói gì thêm.

    Hoàng Tử Hà liền hỏi: "Thái phi sinh thời sống ở đây ư? Mọi thứ vẫn giữ nguyên như trước ạ?"

    Lý Nhuận gật đầu, ngồi xuống ghế chống tay vào trán nói khẽ: "Hoàng tiểu thư cứ việc tra soát thật kỹ, biết đâu lại thấy manh mối gì đó."

    Hoàng Tử Hà bèn đứng dậy đi qua vách ngăn, sang phòng ngủ của Trần thái phi cạnh đó. Phòng không rộng, mé trái là cửa sổ, đặt một chiếc sập nhỏ, bàn trang điểm và bàn ghế; mé phải là một chiếc giường gỗ trắc chạm trổ, buông màn gấm, treo mấy đồ trang trí bằng ngọc thạch và gỗ đào. Hoàng Tử Hà đi quanh bàn trang điểm một vòng, thấy mọi thứ đều đã được thu dọn, chẳng còn gì cả, vì thường xuyên quét tước nên trong phòng rất sạch, cô miết tay lên mép bàn, chợt khựng lại, cúi xuống nhìn kỹ. Lý Thư Bạch đứng trước cửa thấy vậy thì hỏi với vào: "Gì thế?"

    Cô quay lại đáp: "Hình như có vết móng tay khứa."

    Lý Thư Bạch nhặt trong hộp nữ trang Lý Nhuận vừa đem ra một mảnh chì kẻ mày hình xoắn ốc, đặt vào tay cô.

    Hoàng Tử Hà miết nhẹ mảnh chì đen vào mép bàn, tức thì những vết móng tay khứa hiện ra rõ mồn một, sắp thành hai chữ xiên xẹo: Quỳ vương.

    Lý Thư Bạch thản nhiên ra hiệu cho cô tiếp tục miết.

    Một hàng chữ xiêu vẹo dần dần hiện ra: họa từ Quỳ vương.


    Lý Nhuận cũng bước đến bức vách, trông thấy mẫy chữ nọ thì ngỡ ngàng hỏi: "Đây... là mẫu phi ta viết ư?"

    Hoàng Tử Hà gật đầu đáp: "Hình như vẫn còn nữa."

    Đoạn cô lại miết tay sang trái, mẩu than chì xanh đen mài lên nền gỗ trắc đen thẫm, dưới ánh mặt trời tạo thành một vệt dài với đủ sắc độ đen khác nhau. Trên đó là những vết khắc vừa nông vừa xiên xẹo, tổng cộng có mười hai chữ: Đại Đường sắp mất triều đình rối loạn họa từ Quỳ vương. Ngoài ra, không còn gì nữa.

    Hoàng Tử Hà lục tìm khắp giường tủ nhưng không phát hiện thêm gì.

    Cô trả mảnh than chì vào hộp trang điểm, nhìn lại hàng chữ kia một lượt rồi chầm chậm rút khăn tay của mình ra lau sạch đi.

    Lý Nhuận đứng trước cửa, lúng túng nhìn Lý Thư Bạch: "Tứ ca..."

    Trái lại, Lý Thư Bạch chỉ bình thản vỗ nhẹ vai y: "Ta biết. Ta sẽ bắt tay vào điều tra mọi chuyện năm xưa, để xem rốt cuộc là kẻ nào đứng sau thao túng tất cả."

    Dọc đường về, Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà ngồi trong xe nhìn quang cảnh phố phường trôi qua bên ngoài, đều trùng trùng tâm sự.

    "Ta không thân thiết với Trần thái phi." Lý Thư Bạch nhìn cô, cuối cùng cũng mở lời.

    Hoàng Tử Hà gật đầu: "Lúc tiên hoàng băng hà, thái phi phát điên, gia mới mười ba tuổi nhỉ?"

    "Ừm, tuy ta ở trong cung Đại Minh, nhưng đa phần là phụ hoàng tranh thủ ghé qua thăm, chứ ta ít khi tới chỗ phụ hoàng. Những ngày cuối cùng, bên cạnh phụ hoàng luôn có Trần thái phi hầu hạ, song ta cũng ít khi chạm mặt. Từ sau khi phụ hoàng qua đời, ta không hề gặp lại bà ấy nữa."

    Hoàng Tử Hà nhẹ nhàng vuốt ve mấy món trang trí bên cửa sổ, trầm ngâm đáp: "Tại sao Trần thái phi cứ đinh ninh ghi nhớ một hoàng tử mới mười ba tuổi, lại hiếm khi gặp mặt, hơn nữa lúc đã phát điên, còn cho rằng gia sẽ làm điên đảo thiên hạ nhỉ?"

    Lý Thư Bạch nhíu mày, gõ nhẹ lên bàn hỏi: "Cô nghĩ sao?"

    "Ngạc vương có nói một câu mà tôi hết sức tán đồng. Chính là nếu có kẻ làm Trần thái phi phát điên thì nhất định hắn rất muốn hại gia, nên mới dẫn dụ Trần thái phi sinh lòng căm ghét gia như vậy."

    Y đặt bàn tay trắng trẻo thon dài trên bàn, trầm ngâm thật lâu mới hỏi khẽ: "Tử Hà... có tin ta không?"

    Cô ngỡ ngàng nhìn Lý Thư Bạch, chẳng hiểu sao y lại đột nhiên hỏi vậy.

    "Trang Chu mộng bướm, tỉnh dậy chẳng biết mình là người hay bướm. Khi phát hiện ra hàng chữ Trần thái phi để lại, ta chợt nhớ đến Vũ Tuyên." Y không nhìn cô mà ngẩn ngơ nhìn quang cảnh đường phố quen thuộc trôi qua ngoài cửa sổ, "Sau khi giết hại cha mẹ cô, hắn cũng đã quên hết mọi chuyện, hơn nữa còn tin vào đủ thứ ám thị mà khăng khăng cho rằng cô mới là hung thủ."

    Hoàng Tử Hà tròn mắt nghi hoặc hỏi: "Ý gia là?"

    "Có lẽ hồi mười ba tuổi ta đã làm chuyện gì đó khiến Trần thái phi nhớ mãi không quên?" Đôi mày y nhíu lại, ánh mắt hướng ra ngoài cũng dao động theo nhịp rung lắc của xe, "Con cá đỏ thình lình xuất hiện trong đời ta và con cá đã biến mất cùng đoạn ký ức quan trọng kia của Vũ Tuyên, có quan hệ gì đây?"

    Mọi thứ thứ trước mắt bỗng chốc chìm vào sương mù, không sao trông rõ được.

    Hoàng Tử Hà bất giác sinh lòng nghi hoặc, liệu có phải cỗ xe đang lộc cộc lăn đi này, quang cảnh đường phố trôi qua ngoài cửa kia, cùng Lý Thư Bạch ngay trước mặt chỉ với tay ra là chạm đến, cũng là hư ảo không?

    Ký ức của họ rốt cuộc là giả hay thật? Cuộc đời của họ cho đến bây giờ liệu có từng bị bóp méo, thêm nếm thứ gì đó mà họ tin chắc, rồi lại xóa bỏ thứ gì đó mà họ khắc cốt ghi tâm chăng?

    Bên trong xe nhất thời rơi vào im lặng. Cả hai đều làm thinh, tựa hồ có một áp lực nặng nề khủng khiếp đang đè lên họ, đến hít thở cũng chậm chạp khó khăn.

    Một hồi lâu sau, Hoàng Tử Hà mới nhẹ nhàng giơ tay ra, ấp lên tay y: "Bất luận chân tướng cuối cùng ra sao, tôi chỉ biết, tất cả những gì chúng ta từng trải qua đều là chân thực... Ít nhất thì tình cảm giữa đôi bên hiện giờ là thực."

    Lý Thư Bạch lặng lẽ nâng hai bàn tay cô lên, vùi mặt vào. Hoàng Tử Hà cảm giác được hơi thở nặng nề mà rối loạn của y phả vào lòng bàn tay mình.

    Y từng dựa vào chỉ tay, những đường chỉ tượng trưng cho số mệnh cả đời mà nhận ra thân phận của cô, song giờ đây, hơi thở của y đã vương vào cuộc đời cô, để lại dấu ấn vĩnh cửu trong huyết mạch, đời đời kiếp kiếp, cô cũng không thể lãng quên.

    Chẳng biết bao lâu sau, xe ngựa dần chậm lại, bên ngoài có người bẩm: "Thưa gia, đã đến bộ Công."

    Lý Thư Bạch ngẩng lên, ấp tay cô trong hai bàn tay mình, im lặng một thoáng rồi nói: "Vào thôi." Giọng đã lại lạnh lùng trầm thấp. Ra khỏi xe ngựa, rời khỏi không gian chỉ có hai người, y vẫn chỉ có thể là Quỳ vương gia lạnh lùng cứng cỏi, không bao giờ biết sợ.

    Hoàng Tử Hà lặng lẽ theo sau y, bước qua cổng lớn.

    Trong lúc Lý Thư Bạch bàn luận với Lý Dụng Hòa, Hoàng Tử Hà ngồi trong đại sảnh. Giờ cô là nữ tử, ngồi được một lúc đã bị vô số quan viên xì xầm bàn tán, bèn đứng dậy ra mảnh vườn đằng trước ngắm hoa cúc.

    Đã sắp đến tháng Mười, hoa cúc nhuốm sương, bắt đầu tàn úa. Cô lơ đãng ngắm, thầm nghĩ đến hàm nghĩa bốn chữ "họa từ Quỳ vương" thì có người xăm xăm chạy đến gọi to: "Sùng Cổ! Quả nhiên là ở đây!"

    Hoàng Tử Hà ngoái lại. Đến giờ vẫn còn gọi cô bằng cái tên ấy, chỉ có Chu Tử Tần.

    Hôm nay gã mặc áo xanh lục, nom nhã nhặn hiếm thấy, tiếc rằng lại đeo thắt lưng vàng nghệ, thực chẳng khác gì bó mạ buộc cọng rơm. Nhưng Hoàng Tử Hà chẳng hơi đâu soi mói, trái lại còn mừng rỡ ra mặt: "Sao Tử Tần cũng vào kinh?"

    "Hẵng giải thích tại sao Sùng Cổ chẳng nói chẳng rằng bỏ lại ta chạy về kinh đã?" Gã chất vấn.

    Hoàng Tử Hà cười rầu rĩ, thuận miệng vin cớ: "Công tử biết đấy, cứ ở đó cả ngày bị các bề trên răn dạy, ai mà chịu nổi."

    "Nói cũng phải, ôi chao, chúng ta đều bị người trên bức ép cả, ta thì hơn gì, còn ở đó thì toi đời!" Chu Tử Tần vừa nói vừa giơ tay dụi mắt, nước mắt rưng rưng, "Kể ra đúng là gay go to! Cha ta ép ta lấy vợ!"

    Hoàng Tử Hà phì cười hỏi: "Là cô nương nhà nào vậy?"

    "Cháu gái dòng thứ của ty thương quận Thục, nghe nói là một con cọp cái, nghe danh ta ham mê thi thể cũng không sợ. Ta đã lân la đò hỏi đám người hầu nhà đó, kẻ nào cũng nói cô ta hung hãn vô cùng, chữ nghĩa chỉ biết lơ mơ nhưng hay tay cứ lăm lăm hai con dao bầu, thoăn thoắt chặt thịt, còn có thể vác cả nửa con heo lên vai nhẹ như không! Sùng Cổ bảo cưới hạng người đó về có còn sống được nữa không!"

    Hoàng Tử Hà ngẫm nghĩ rồi hỏi: "Cô ta tên gì?"

    Chu Tử Tần đã buồn còn thêm bực: "Tên quê một cục! Gọi là cái gì Lưu Nhị Nha! Nghe đã thấy khiếp rồi đúng không? Rõ ràng là cha ta thấy con gái nhà nào cũng sợ ta, nên vơ bừa lấy một con hổ cái, định chèn ép ta cả đời đây mà!"

    "Ồ..." Hoàng Tử Hà gật đầu, "Đúng thế, xem ra việc lớn không thành rồi. Tuy cô ta rất xinh đẹp, tính tình cũng dễ thương, nhưng cái tên Lưu Nhị Nha thực khó nghe quá..."

    "Sùng Cổ quen cô ả ư?" Chu Tử Tần sững người, rồi vỗ trán tự giải thích ngay, "À phải, đương nhiên là quen rồi. Trước đây Sùng Cổ là thiên kim nhà quận thú mà, nhất định đã gặp các tiểu thư nhà khác."

    Hoàng Tử Hà cười đáp: "Gặp thì gặp rồi, nhưng mới gần đây thôi."

    "Thôi thôi, không nói chuyện đó nữa, mau kể xem ả Lưu Nhị Nha kia có hung hãn đáng sợ như lời đồn không?"

    "Có chứ, hệt như lời đồn, giết heo mổ dê cái gì cũng dám làm, người bình thường đừng hòng bắt nạt được."

    Chu Tử Tần đau đớn đấm ngực: "Chết ta rồi..."

    "Không chỉ hung hãn, mà còn rất đanh đá, thích gọi người ta là bổ đầu đụt."

    "Hả? Mấy người đó sao giống nhau vậy, cứ thích bảo người ta đụt..." Nói đến đây, Chu Tử Tần mới định thần lại, ngây ra hồi lâu rồi lắp bắp: "Đụt... Bổ đầu đụt ư?"

    "Đúng thế, cô nương đó rất giỏi dùng dao bầu, vác nửa con heo lên vai phăm phăm, thích gọi người ta là bổ đầu đụt, là con thứ hai trong nhà." Hoàng Tử Hà cười cười nhìn gã.

    Chu Tử Tần trợn tròn mắt, há hốc miệng ra, đủ nhét lọt cả quả trứng gà: "Nhị... Nhị cô nương à?"

    "Công tử thử nói xem?"

    "Nhưng, nhưng chẳng phải cha mẹ cô ta mất cả rồi sao?"

    "Hôm đó chẳng phải công tử cũng thấy tay Lưu Hỉ Anh béo đó tới tìm cô ấy, nói là họ hàng xa muốn nhận nuôi cô ấy ư? Theo tôi biết thì Tào ty thương quận Thục vừa xin nghỉ, thay chân ông ta hình như chính là Lưu ty thương ở Miên Châu đó."

    "Ta nào biết! Có nghe nói ty thương đổi người mới, nhưng xưa nay ta không quan tâm chuyện đó!" Mặt Chu Tử Tần bỗng đỏ bừng lên, "Lẽ lẽ lẽ lẽ lẽ nào là..."

    "Công tử nói xem?" Hoàng Tử Hà vỗ vào lan can cạnh mình, "Công tử lặn lội ngàn dặm chạy trốn đến tận kinh thành, có phải định nhờ Quỳ vương nói giúp với lệnh tôn, hủy bỏ cuộc hôn nhân này không?"

    Chu Tử Tần chống trán nín lặng.

    Hoàng Tử Hà lại hỏi: "Vậy bây giờ có muốn nhờ Quỳ vương nữa không?"

    "Để... để ta nghĩ đã..." Lắp bắp một lúc, gã mới nặn ra được mấy chữ, "Dù sao... Tốt xấu gì... Nói thế nào cũng là người quen, nếu từ chối e là không ổn... Huống hồ Sùng Cổ cũng biết đấy, ít có cô nào không sợ thi thể lắm..."

    "Công tử cứ cân nhắc thêm đi." Hoàng Tử Hà cười đầy ẩn ý.

    Thấy cô cười, Chu Tử Tần chỉ muốn đào lỗ chui xuống đất: "Làm... Làm gì cơ?"


    "Chẳng làm gì cả." Cô thản nhiên ngẩng đầu ngắm trời.

    "Thực ra... Sùng Cổ thì cũng rất được..." Chu Tử Tần thở dài nói khẽ, "Chỉ là, chỉ là chúng ta gặp nhau không phải lúc, nên ta luôn coi Sùng Cổ là một tiểu hoạn quan, chúng ta cứ xưng huynh gọi đệ cùng quật mộ nghiệm thi là hay nhất."

    Hoàng Tử Hà lặng lẽ cúi đầu cười, chắp tay vái gã một vái rồi đứng thẳng dậy hỏi: "Bây giờ công tử sẽ về ngay Thành Đô, chấp thuận hôn sự chứ gì?"

    "Không vội... Dù sao, dù sao cũng đính hôn rồi." Gã bẽn lẽn nói, rồi lại sực nhớ ra một chuyện, "À phải, lá bùa của Quỳ vương là thực hả?"

    Hoàng Tử Hà ngạc nhiên hỏi: "Công tử cũng biết chuyện lá bùa ư?"

    "Chứ sao, ta thấy có lẽ bây giờ cả kinh thành đều đồn ầm lên rồi ấy chứ?" Chu Tử Tần nhìn quanh ngó quất, thấy không có ai, bèn kéo cô vào một góc thì thào, “Tối qua ta mới về kinh, liền chạy ngay đến chợ Tây ăn bánh nang của Mã A Đại, món ta thích nhất.... Sùng Cổ đoán xem kết quả thế nào? Ta nghe thấy hai người ngồi ngay bên cạnh thao thao nói chuyện phủ Quỳ!"

    Hoàng Tử Hà nhíu mày hỏi: "Họ nói sao?"

    "Nghe đồn... Lúc Quỳ vương ở Từ Châu, đã giết chết Bàng Huân!"

    "..." Hoàng Tử Hà ngán ngẩm, "Còn phải nghe đồn à? Chuyện này ai mà chẳng biết?"

    "Sai rồi!" Chu Tử Tần úp úp mở mở ghé tai cô thì thầm, "Nghe đồn sau khi giết Bàng Huân, oan hồn của hắn liền nhập vào người Quỳ vương, hiện giờ trên người Quỳ vương không phải hồn phách của gia nữa, mà là Bàng Huân!"

    Hoàng Tử Hà chẳng biết nói gì về tin đồn ma quái nhố nhăng này nữa.

    "Họ nói rằng, Quỳ vương anh minh thần võ tài năng xuất chúng như vậy, sao có thể là người phàm được? Nghe nói gia được quỷ thần giúp sức, nên mới mưu trí hơn người, đọc qua là nhớ như vậy đấy!"

    "Bằng chứng đâu?" Hoàng Tử Hà bực bội hỏi, "Lẽ nào gia thông minh hơn người là do quỷ thần giúp sức hay sao?"

    "Ờ thì..."

    "Huống hồ, lúc Quỳ vương còn niên thiếu, đã được tiên hoàng khen hết lời về trí tuệ thông minh. Tất cả các hoàng tử tròn mười tuổi đều được phong vương, ban phủ đệ rồi dọn ra khỏi cung, chỉ riêng Quỳ vương sau khi sắc phong vẫn được tiên hoàng giữ lại cung Đại Minh, đích thân dạy dỗ, bấy giờ Bàng Huân chẳng biết đang ở tận đâu kia!"

    Chu Tử Tần gãi đầu nhăn mặt: "Nói cũng phải..."

    Hoàng Tử Hà mím môi nghĩ ngợi giây lát rồi hỏi: "Còn gì nữa? Có ai nói gì nữa không?"

    "À, nghe nói khi Bàng Huân nhập xác Quỳ vương, còn để lại cho gia một lá bùa định mệnh! Trên đó dự báo trước vận mệnh của Quỳ vương, cuối cùng Quỳ vương sẽ đâm ra lú lẫn, bị Bàng Huân khống chế, rốt cuộc..." Gã lại làm bộ thần bí nhìn quanh một vòng, rồi ghé tai cô nói nhỏ: "Khi trên lá bùa xuất hiện chữ 'vong', gia sẽ bị Bàng Huân đoạt mất ý thức, khiến cả thiên hạ nghiêng ngả theo!"

    Hoàng Tử Hà đứng bật dậy, run rẩy hỏi: "Lời đồn ngoài phố... đã đến mức ấy rồi ư?"

    Thấy sắc mặt cô rất khó coi, Chu Tử Tần vội xua tay rồi ra dấu bảo cô im lặng:

    "Chẳng qua là đám người ngôi lê đôi mách nói bừa, việc gì phải cuống lên. Đừng... đừng nghiêm túc thế chứ..."


    "Công tử không biết đấy..." Cô ráng sức hít thở, trán lấm tấm mồ hôi.

    Kẻ loan tin về lá bùa, nhất định là người năm xưa đặt bẫy. Hiện giờ cả ba chữ đều bị khuyên tròn, hoa văn làm nền lờ mờ chữ "vong", tin đồn cũng đã lan truyền khắp thiên hạ, chứng tỏ hắn đã bức ép Quỳ vương đến đường cùng.

    Lời nhắn "họa từ Quỳ vương" ở phủ Ngạc, không hẹn mà lại phù hợp với giả thuyết giang sơn nghiêng ngả đang lan khắp phố lớn ngõ nhỏ một cách thần bí. Tấm lưới giăng sẵn từ ba năm trước, giờ đang từ từ thu hẹp lại, song kẻ thu lưới là ai thì họ vẫn chưa dám khẳng định.

    Không có cả cơ hội liều một phen cá chết lưới rách.

    Thấy mặt Hoàng Tử Hà tái nhợt đến đáng sợ, Chu Tử Tần cuống quýt kéo ao cô gọi khẽ: "Sùng Cổ.... làm sao thế? Ta chỉ nói bừa thôi... thật mà..."

    Hoàng Tử Hà tựa vào bức tường phía sau, cố gắng hít thở. Chỉ thấy ngực lạnh buốt như có vô số sợi dây rối tắc nghẽn bên trong, không sao gỡ nổi. Dù muốn tìm cho được một đầu mối, nhưng tai cứ ù đi, những âm thanh nhốn nháo như vô vàn lưỡi gươm đâm vào tim, khiến cô chẳng biết bắt tay từ đâu, đành sợ sệt đứng yên, mặc cho đầu ong lên.

    Chu Tử Tần đang sợ đến luống cuống tay chân thì nghe đằng sau có tiếng người, vội ngoái lại trông, thì ra mấy viên quan bộ Công đã bước ra, kẻ nào kẻ nấy mặt mày tươi tỉnh. Có mấy người quen trông tháy Chu Tử Tần thì mừng rỡ bước đến chào: "Tử Tần lại về kinh đấy à? Ở Thục không vui sao?"

    "Ôi, Tiền huynh, Lương huynh, Ngu huynh..." Gã vừa tươi cười chào họ vừa lo lấng giật giật tay áo Hoàng Tử Hà, dường như vẫn hối hận vì trót kể những lời đồn bậy bạ cho cô.

    "Đây chẳng phải là... Hoàng tiểu thư ư?" Mấy người kia đang vui vẻ nên cũng chào hỏi cả cô, "Vương gia ra ngay giờ đấy, tiểu thư đợi cho một lát."

    Hoàng Tử Hà gật đầu với họ.

    Thấy ai nấy đều mừng rỡ ra mặt, Chu Tử Tần liền hỏi: "Trong kinh đồn rằng bộ Công phải xây một trăm hai mươi tòa tháp, túng tiền đến mức chỉ muốn đâm đầu xuống sông đào ngoài thành, sao hôm nay ai cũng tươi hơn hớn thế?"

    "Vớ vẩn, mấy hôm nữa bộ Công chúng ta lại chẳng thừa tiền dựng thêm ba vòng lan can quanh sông đào ấy chứ!"

    Chu Tử Tần chớp mắt: "Các vị không định đi cướp bộ Hộ đấy chứ?"

    "Hừm, giờ bộ Hộ lấy đâu ra tiền? Còn chẳng phải nhờ Quỳ vương giải quyết giúp ư? Sáng mai sẽ ra cáo thị, triều đình rước cốt Phật vào kinh, dọc đường sẽ lập bảy mươi hai tòa tháp làm chỗ dừng chân cho cốt Phật. Thương nhân và kẻ sĩ trong thiên hạ nếu muốn rước cốt Phật tích công đức, có thể đấu giá nhận xây. Thử nghĩ mà xem, người lắm tiền đông như thế mà chỉ có bảy mươi hai suất, họ chẳng tranh nhau vỡ đầu ra ấy à?"

    Kẻ bên cạnh tiếp lời: "Thế nên lần này xây bảy mươi hai tòa tháp rước cốt Phật, chẳng những bộ Công không phải bỏ một đồng, mà còn thu được một món bẫm ấy chứ..."

    Chu Tử Tần bấy giờ mới vỡ lẽ, xoa cằm hỏi: "Đệ còn nghe nói, ngày cốt Phật vào kinh, người trong kinh phải chăng đèn kết hoa, dựng cổng chào dọc đường đám rước đi kia đấy..."

    "Đương nhiên cũng có thể áp dụng quyên tiền như xây tháp, gì chứ người giàu có muốn làm công đức đông như kiến ấy mà!"

    Nhìn người bộ Công hớn hở đi nghĩ công văn viết tấu chương, Chu Tử Tần đành ngoái lại bảo Hoàng Tử hà: "Hay thật... Quỳ vương vừa về, bao nhiêu vấn đề bèn được giải quyết hết!"

    Hoàng Tử Hà lặng lẽ đứng dưới bầu trời không, ngắm cảnh thu đìu hiu trước mắt, chậm rãi đáp: "Ích gì đâu..."

    "Hả?" Chu Tử Tần ngạc nhiên nhìn sang, song cô chẳng nói gì thêm, chỉ ngẩng đầu ngắm hoàng hôn cuối trời. Ánh vàng bao trùm cả Trường An, bóng chiều sắp phủ mờ Cửu Châu.

    Đại điện lung lay sắp đổ, triều đình đã mục nát từ tận gốc rễ. Quỳ vương Lý Thư Bạch dù có tài ba nghiêng trời lệch đất, cũng có ích gì đâu.

    Chẳng qua chỉ là bóng hoàng hôn phản chiếu cuối cùng thôi.
     
  15. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 4 - Đài hoa cùng sáng
    Lúc lời đồn rộ lên trong kinh, khí trời cũng dần chuyển lạnh, đã đến ngày Đông chí.

    Đại đường tế trời vào Đông chí, điển lễ rất rườm rà phức tạp. Hôm nay là lễ Đại Xạ (1) tế trời, vẫn là hoàng đế bắn trước, hoàng hậu bắn sau, rồi đến Quỳ vương, nên từ sáng Lý Thư Bạch đã thay đồ đến cung Đại Minh.

    (1) Phàm khi tế tổ, tế thần, sẽ lần lượt bắn tên theo thứ bậc, đầu tiên là hoàng đế tối cao, sau đó đến các vương hầu và công khanh, mỗi người bắn bốn mũi tên. Có đặt cả người ghi chép số mũi tên bắn trúng. Đây là một nghi thức tế lễ.

    Hoàng Tử Hà vừa tiễn y đi khỏi, đang nghĩ xem ở trong phủ một mình thì nên làm gì, Chu Tử Tần đã đến cửa gọi: "Sùng Cổ, hôm nay các đạo quán lớn trong kinh đều mở pháp hội, náo nhiệt lắm, nào nào, chúng ta cùng đi xem!"

    Hoàng Tử Hà thoáng lưỡng lự rồi thay đồ nam cùng gã ra ngoài. Chu Tử Tần cưỡi Tiểu Hà, Na Phất Sa và Tiểu Hà đã quen sẵn, tính tình đều ôn hòa, hai con cọ mũi vào nhau, hết sức thân mật.

    Khí trời rất lạnh, có dấu hiệu đổ tuyết. Các đạo quán lớn trong thành phố đều phô trương thanh thế, pháp sự làm cũng khác nhau. Có nơi huy động các tiểu đạo sĩ tuấn tú đọc kinh, nơi thì cầm kiếm phun lửa, suýt nữa làm cháy cả thanh kiếm gỗ đào, có nơi trong lúc đánh chiêng, hai người chém chũm chọe cho nhau, cứ ném qua ném lại vô cùng náo nhiệt...

    Hai người dạo quanh kinh thành một vòng, ăn bốn năm thứ quà vặt bên đường, thì cũng đến chiều.

    "Sùng Cổ muốn đi đâu chơi nữa nào? Để ta đưa đi... À phải, giờ Sùng Cổ vẫn là hoạn quan hạng bét đúng không? Nhận lương tháng này chưa?"

    Hoàng Tử Hà chán nản đáp: "Làm gì có, giờ đường quan chức của tôi gian nan lắm, mọi người đều biết tôi là con gái, xem ra không thể thăng cấp được, lương cũng không phát cho tôi, tôi chỉ ăn chực phủ Quỳ đấy thôi."

    "Đã nói rồi mà, đi theo ta có phải tốt không. Làm nữ bổ đầu quận Thục chúng ta, vừa oai phong vừa vui vẻ, còn có cơ hội bộc lộ giá trị bản thân, hằng tháng lại có tiền tiêu, lương cao gấp đôi người khác nhé, thế nào?"

    "Thôi khỏi, sản nghiệp cha mẹ tôi để lại cũng đủ sống cả đời rồi." Cô hà hơi vào hai bàn tay đã bắt đầu lành lạnh, nói khẽ, "Có Quỳ vương chống lưng, người trong tộc cũng không dám chiếm đoạt."

    Chu Tử Tần nghĩ ngợi, sực nhớ đến một chuyện hết sức quan trọng, vội hỏi: "À phải, ta hỏi chuyện này nhé, có thực là Vương Uẩn hủy hôn rồi không?"

    "Cứ coi là thế đi." Cô không muốn nhắc tới chuyện đó, bèn quay người đi thẳng.

    Chu Tử Tần lẵng nhẵng theo sau, hậm hực: "Tên khốn Vương Uẩn chẳng ra gì, tìm đâu được người tốt như Sùng Cổ cơ chứ? Vừa xinh đẹp, thông minh lại lương thiện, còn biết theo ta đi quật mồ nghiệm thi nữa! Để mất Sùng Cổ, lấy đâu ra người thứ hai như thế nữa?"

    Hoàng Tử Hà chẳng hiểu có phải gã đang khen mình hay không nữa, đành cười gượng. Đến lúc ngẩng lên, nhận ra mình đang đứng trước phường Hưng Đức, cô mới sững ra.

    Đây là nơi cô nhờ phá một vụ án mà nổi danh từ năm mười hai tuổi, cũng là, nhà của Vũ Tuyên.

    Hoàng Tử Hà chầm chậm đi đến cửa nhà Vũ Tuyên năm ấy, đứng bên ngoài bức tường thấp nhìn vào trong.

    Nơi này đã khác hẳn năm xưa, hàng kim ngân bò đầy bên trong tường chẳng thấy đâu nữa, trên bức tường đã tróc lở chỉ toàn rêu xanh. Cây thạch lựu trong sân cũng bị chặt, nền đá xanh phủ đầy bụi, con rạch nhỏ ngập ngụa rác rến. Trên sân ngổn ngang sọt tre giỏ trúc, nhìn qua cô còn tưởng mình lầm chỗ.

    Chu Tử Tần phía sau chẳng hiểu tại sao cô lại đứng ngây ra trước gian nhà này như thế, bèn hỏi: "Sùng Cổ đến đây tìm người ư?”

    Cô chậm rãi lắc đầu: "Không, tôi đến xem thử thôi."

    "Ở đây có gì mà xem?" Chu Tử Tần quay người ngồi xuống thành giếng gần đó, phủi sạch chỗ bên cạnh cho cô ngồi, rồi bóc quả quýt vừa mua chia cho cô một nửa: "Này, ngọt lắm." Hoàng Tử Hà ngồi xuống cạnh gã, nhận lấy quả quýt bỏ một múi vào miệng, nói khẽ: "Đây là nhà cũ của Vũ Tuyên."

    Chu Tử Tần á lên, há hốc miệng ra: "Sùng Cổ vẫn nhớ à?"

    Cô gật đầu: "Ừm, đó là lần đầu tôi giúp cha phá án."

    "Nếu..." Chu Tử Tần nhìn gian nhà nhỏ, rồi quay sang nhìn cô, ngập ngừng, "Ta chỉ nói là nếu thôi nhé, nếu Sùng Cổ quay lại năm mười hai tuổi, trở lại nơi này, vụ án kia lại bày ra trước mặt... Liệu Sùng Cổ có nhắc nhở Hoàng quận thú để ông ấy bắt anh trai của Vũ Tuyên, thay đổi cả cuộc đời Vũ Tuyên không?"

    "Có." Cô đáp ngay, không cần nghĩ ngợi.

    Chu Tử Tần hơi lúng túng, không ngờ cô lại đáp nhanh như vậy.

    "Dù tôi muốn thay đổi cuộc đời Vũ Tuyên, đồng thời cũng thay đổi số phận của gia đình mình, nhưng tội ác đã xảy ra, tôi lại biết rõ chân tướng, sao có thể vì chuyện tương lai mà cố tình bỏ qua, không vạch trần được?" Hoàng Tử Hà siết chặt nửa trái quýt trong tay, ngẩng lên nhìn bầu trời âm u như sắp đổ tuyết, chậm rãi nói, "Nhưng tôi nhất định sẽ sai người quan tâm tới gia đình họ, không để thảm kịch xảy ra thêm nữa. Ít ra cũng chăm sóc thật tốt cho mẹ Vũ Tuyên, để bà ấy khỏi phát điên vì cái chết của con trai cuối cùng dẫn đến tự sát."

    Chu Tử Tần gật đầu tán đồng: "Ừm, quan trọng hơn nữa là giúp đỡ Vũ Tuyên."

    Hoàng Tử Hà ngẩng đầu nhìn trời, thật lâu mới khe khẽ thở dài. Thời tiết quá lạnh, hơi thở của cô phả ra tạo thành một làn sương mờ, tan vào bầu không u ám.

    Cuối cùng cô nói thật chậm mà rành rọt: "Không, nếu được làm lại, tôi sẽ không bao giờ quen Vũ Tuyên nữa."

    Hết thảy quá khứ tươi đẹp, thời thiếu nữ như ảo mộng cùng thiếu niên nhoẻn cười rạng rỡ giữa bóng tà dương...

    Từ bỏ cả đi.

    "Nhưng... cuộc đời không thể làm lại được, phải không nào?" Như lẩm bẩm, lại như thì thầm, cô hít căng ngực thứ không khí lạnh buốt, rồi thong thả ép cục nghẹn trong lồng ngực ra, phả vào bầu không.

    "Đi thôi, chẳng có gì đáng lưu luyến hay cảm thương nữa." Nói rồi, cô chậm rãi đứng dậy.

    Chu Tử Tần nhìn cô đầy lo âu: "Sau này Sùng Cổ làm sao đây?"


    Hoàng Tử Hà ngoái lại.

    "Vương Uẩn đã hủy hôn, Vũ Tuyên lại chết rồi..." Gã rầu rĩ ăn quýt, vừa ăn vừa cau mày, chẳng biết vì quýt chua hay vì lo lắng, "Chi bằng đến chỗ ta đi, Sùng Cổ không nghĩ tới việc làm nữ bổ đầu ư?"

    Hoàng Tử Hà lắc đầu: "Có lẽ để sau đi, giờ tôi còn việc phải làm."

    "Hả, việc gì cơ?" Gã chớp mắt.

    "Lần này lật lại bản án đều nhờ Quỳ vương cả. Giờ bên cạnh gia xuất hiện lá bùa quái dị kia, tôi phải giúp gia tra rõ ngọn ngành mới được."

    Chu Tử Tần cũng vỗ ngực hiên ngang nói: "Phải phải, Quỳ vương giúp ta rất nhiều, bộ đồ nghề nghiệm thi ấy cũng là gia nhờ bộ Binh rèn cho ta. Vụ này ta nhất định phải giúp một tay, không cần bàn cãi gì nữa!"

    "Tốt quá, nếu có công tử giúp sức, nhất định sẽ làm rõ được trắng đen!" Hoàng Tử Hà gật đầu tán thưởng, "Tôi nghĩ có người đã dùng loại mực có thể bay màu với lá bùa kia, hòng gây bất lợi cho gia!"

    "Mực bay màu ta cũng biết, chẳng phải trước đây từng giúp Sùng Cổ phục hồi chữ viết từ mảnh tro tàn ư? Nguyên lý cũng gần giống nhau thôi, ta làm lại một ít là được."

    "Không giống, lần này là mực son." Hoàng Tử Hà nhíu mày, "Cách chế mực son khác mực đen, nước cải bó xôi của công tử không ích gì đâu. Huống hồ, kẻ nọ không để lại dấu vết gì trên giấy cả."

    "Đúng là cao thủ... Nhất định còn có cách nào đó mà ta chưa biết!" Đoạn Chu Tử Tần sáng mắt lên, đầy hào hứng, "Ta quyết phải học bằng được!"

    "Công tử định học ở đâu?"

    "Cứ theo ta!" Nói rồi, gã ném nửa quả quýt trong lòng vào chiếc rương nhỏ trên lưng Tiểu Hà, kéo cô đi thẳng đến chợ Tây.

    Đến một hiệu bồi tranh, Chu Tử Tần trỏ ông lão râu dê ngồi bên trong bảo cô: "Thấy ông già kia không?" Hoàng Tử Hà nhìn ông lão đang gà gật, hay tay đút vào túi áo bông, gật đầu.

    "Ông ấy là thợ bồi tranh nổi tiếng nhất kinh thành đấy, lần trước đọc được cách dùng nước cải bó xôi trong sách cổ, ta cũng đem đến cùng bàn bạc nghiên cứu với ông ấy, mới hoàn thiện được."

    Hoàng Tử Hà bỗng sinh lòng kính trọng: "Vì chuyện này mà công tử định theo ông ta học bồi tranh ư?"

    "Đúng thế, kẻ làm nghề ngỗ tác phải liên tục trau dồi kiến thức đến già. Sùng Cổ quên rồi hả, lần trước trong vụ Quỳ vương phi, để phân biệt sự khác nhau giữa bàn tay của Vương Nhược và Cẩm Nô, ta đã phải nghiên cứu về xương cốt, còn đến tận lò mổ quan sát bao nhiêu móng lợn nữa đấy."

    Nói đoạn, gã xăm xăm kéo cô bước vào. Ông lão he hé mắt liếc hai người rồi uể oải hỏi: "Chu thiếu gia có việc gì thế?"

    Chu Tử Tần liền cười nịnh nọt: "Dịch bá, ngày đông buồn chán nên tôi lại đến học nghề với bác đây.”

    Nghe vậy, ông lão tím mặt: "Cút đi! Lão không hơi đâu hầu cậu, vụ nước cải bó xôi lần trước cậu lèo nhèo mất hơn nửa năm, suýt nữa lấy mạng già của lão rồi!"

    "Đừng thế mà... Lẽ nào Dịch bá không muốn biết cách xóa dấu mực son ư?"

    "Cái đó việc gì phải nghiên cứu cùng cậu? Rất đơn giản, dấm có thể hòa tan màu son!" Ông lão lườm Chu Tử Tần.

    "Nhưng dấm có mùi mà?" Chu Tử Tần bày ra vẻ tha thiết cầu hiền.

    Ông lão ngạo nghễ ngẩng đầu cười ha hả: "Ha ha... bí quyết tổ truyền nhà lão, lẽ nào cũng phải mách cho cậu ư?"

    "Được rồi..." Chu Tử Tần buồn bã đi đến trước quầy hỏi: "Dịch bá, bí quyết gia truyền nhà bác thực sự tẩy sạch được mực son, không để lại dấu tích ư?"

    "Còn phải hỏi, sạch bong như mới ấy! Nhà họ Dịch mở tiệm bồi tranh ở kinh thành bấy nhiêu năm, nếu không có mấy món nghề này thì làm sao đứng vững?"


    "Thật chứ?"

    "Thật mà!" Ông lão rướn cao cổ, như một con gà chọi.

    "Vậy..." Kể thì chậm nhưng Chu Tử Tần hành động rất nhanh, chụp lấy một bức tranh đã bồi bên cạnh, giũ ra đánh soạt, rồi vơ đĩa mực son đã vơi một nửa, hắt ngay vào.

    Dịch lão đang ngồi tựa ghế nhảy dựng lên, giằng lấy bức họa bị vẩy mực son choe choét, giận đến run lên bần bật, suýt thì òa khóc: "Triển Tử Kiền... bức ngựa nằm của Triển Tử Kiền..."

    Hoàng Tử Hà bước đến xem, quả nhiên là bút tích của Triển Tử Kiền, con ngựa trong tranh tuy nằm giữa núi đá nhưng lại toát ra thần thái như muốn vọt dậy, cấu tứ sinh động, quả nhiên là thủ bút đại gia. Tiếc rằng đã bị Chu Tử Tần vẩy cả đĩa mực son vào, trông như bị thương, máu me ròng ròng, thực là thảm không nỡ nhìn.

    "Sao... sao công tử chọn khéo thế? Hả?" Dịch lão giận điên người, phùng mang trợn mắt như muốn ăn sống nuốt tươi Chu Tử Tần, "Mấy bức của Vương đại học sĩ, Lưu đại thượng thư cạnh đó, cậu có vẩy cả trăm bức cũng chẳng sao! Vậy mà cậu lại vẩy vào Triển Tử Kiền, cậu vẩy... tôi để cậu vẩy..."

    Nói đoạn, lão vớ ngay một cuốn tranh bên cạnh, đập xuống đầu Chu Tử Tần, gã hốt hoảng vừa lách vòng qua cột nhà né tránh, vừa ôm đầu hỏi: "Bác chẳng bảo có thể tẩy sạch bong không để lại dấu vết là gì?"

    "Lão... Cách đó của lão ít nhất phải mất ba ngày! Nhưng hôm nay người ta đã đến lấy tranh rồi!" Dịch lão vừa thở hồng hộc vừa gào lên cuồng loạn, "Huống hồ đây là Triển Tử Kiền! Nếu lúc làm bị hỏng một chỗ bằng móng tay thôi, thì có đánh chết một trăm tên khốn như cậu cũng không đền nổi đâu!"

    "Được rồi... Bức tranh này của ai vậy? Cùng lắm là ta ỷ thế hiếp người, bắt hắn lấy chậm lại mấy hôm chứ gì?"

    "Phì! Loại thiếu gia lêu lổng như cậu mà cũng đòi ỷ thế hiếp người ấy à? Người ta là vương gia kia đấy!"

    "... Cùng lắm ta quỳ trước cửa nhà người ta tạ lỗi là được chứ gì." Chu Tử Tần mặt dày nhơn nhơn tiếp, "À phải, vương gia nào thế?"

    "Chiêu vương!"

    "Chẳng nói sớm, Chiêu vương và ta cũng là chỗ quen biết, giờ để ta đi thuyết phục gia lấy tranh chậm lại hai hôm vậy." Chu Tử Tần đang dợm bước định đi, chợt ngoái lại hỏi: "Ba hôm nữa liệu có xong không? Đến lúc ấy ta lại tới tham quan nhé."

    "Cút!" Dịch lão sẵn cơn tức, vung ngay cuộn tranh đập xuống.

    Bưng cục u trên đầu, Chu Tử Tần tiu ngỉu chuồn khỏi tiệm bồi tranh.

    Hoàng Tử Hà theo sau, ngán ngẩm khuyên: "Tử Tần, về sau đừng lỗ mãng như thế."

    "Hừ, chẳng qua ta muốn giúp gia thôi." Chu Tử Tần hăng hái, "Sùng Cổ xem, giờ đã tìm hiểu được cách xóa dấu mực son, có phải giúp Sùng Cổ giải quyết được một vấn đề lớn rồi không?"

    "Không thể nào." Hoàng Tử Hà lắc đầu, "Nếu dùng cách của Dịch lão phải mất ba ngày, kẻ kia không thể mạo hiểm được, ngộ nhỡ mới được một hai ngày gia đã lấy ra xem, chẳng phải lộ tẩy rồi ư?"

    "... Lẽ nào ta ăn đòn vô ích ư?" Chu Tử Tần ấm ức càu nhàu.

    Hoàng Tử Hà vừa đi vừa miên man suy nghĩ, ngẩng lên đã đến tiệm nhang đèn nhà họ Lữ.

    Hôm nay Đông chí, khách khứa kéo đến mua nhang đèn nườm nượp. Họ đứng ngoài cửa, thấy anh trai chị dâu Trương Hàng Anh bận rộn luôn tay nên cũng không vào chào hỏi, chỉ nhìn một lúc rồi đi.

    "Nói ra thì... Tích Thúy số khổ, nhưng cuộc đời vẫn chưa đến nỗi tối tăm." Chu Tử Tần thở dài, "Cha cô ấy và người nhà họ Trương, đều thật lòng thương cô."

    Hoàng Tử Hà không đáp, chỉ ngoái lại nhìn tiệm nhang đèn phía sau.

    Giữa đám đông tấp nập như thoi đưa trước cửa tiệm, nhác thấy một bóng dáng nhỏ nhắn quen thuộc đứng bất động dưới gốc cây gần đó, cô tròn mắt ngạc nhiên, quay người toan chạy đến.

    Nhưng dòng người trên phố thoắt chốc đã chắn ngang đường, chen vai thích cánh đẩy cô lùi lại hai bước. Đến khi đứng vững, nhìn lại chỗ cũ thì người nọ đã bặt tăm.

    Cô nhớn nhác tìm kiếm bóng dáng người ấy, nhưng chẳng thấy gì nữa.

    Chu Tử Tần hỏi: "Sùng Cổ nhìn gì thế?"

    "Tích Thúy... Tôi thoáng thấy bóng một cô gái trước cửa tiệm nhang đèn, trông rất giống Tích Thúy!" Cô đáp khẽ.

    "Hả? Không phải chứ?" Chu Tử Tần kiễng chân nhìn quanh bốn phía, cuối cùng cũng phải tiu nghỉu bỏ cuộc: "Không thấy, chắc Sùng Cổ nhìn lầm rồi."

    "Chắc thế..." Cô buồn rầu đáp.

    Dù sao Tích Thúy vẫn là phạm nhân bị truy nã, sao dám về kinh?

    Thấy trời đã chập choạng, Chu Tử Tần đưa cô về phường Vĩnh Gia. Còn chưa đến phủ Quỳ, tuyết đã rơi lắc rắc. Thấy đường vắng, hai người càng giục ngựa phi nhanh, chạy đến trước cổng phủ.

    Cô chưa kịp xuống ngựa thì người hầu trước cổng đã hối hả chạy xuống thềm, giậm chân than: "Ôi chao, Hoàng tiểu thư, cuối cùng cô cũng về rồi!" Kẻ chạy đến là Lư Vân Trung, tiểu hoạn quan trong phủ, xưa nay quen thói ồn ào, liến thoắng luôn miệng, "Vương gia trong cung nhắn ra rằng, hôm nay phải dự yến ở cung Đại Minh. Năm ngoái trong cung bận bịu nhiều việc, đến nỗi Chiêu vương uống say ngủ thiếp đi ở cửa cung, sáng ra mới có người phát hiện, trở về bèn đổ bệnh liệt giường! Năm nay trời còn đổ tuyết nên trong cung ban chiếu, các phủ đều phải cử người vào cung hầu hạ, kẻo lúc các vương uống say, lại xảy ra chuyện như năm ngoái!"

    Hoàng Tử Hà xuống ngựa, chạy vào dưới hiên phủi tuyết: "Gia bảo tôi vào cung hầu hạ ư?"

    "Đúng thế, cô mau thay sang y phục hoạn quan trước đây đi... À phải, có áo lông mới may xong hôm trước, gia bảo để cô mặc đấy." Nói rồi, Lư Vân Trung dúi ngay bộ quần áo vào tay cô.

    Hoàng Tử Hà cười khổ não, tiễn Chu Tử Tần về rồi thay quần áo khoác áo lông, xong xuôi đã thấy xe ngựa đậu trước cửa. Lư Vân Trung vừa giục vừa đẩy cô lên xe.

    Hoàng Tử Hà nhìn trời lần lữa: "Hẵng còn sớm mà, chắc tiệc tối vừa bắt đầu thôi, tôi thấy chưa đến nửa đêm thì chưa xong đâu."

    "Vậy cũng vẫn phải mau mau vào cung, lỡ gia cần người hầu hạ thì sao?"

    Đã vậy, cô đành dầm sương đội tuyết đến cung Đại Minh. May sao phường Vĩnh Gia cách cung Đại Minh không xa, xe ngựa chạy chưa bao lâu đã trông thấy tường cung cao ngất.

    Như hoàng đế đã nói, tiệc tối nay được bày tại gác Tê Phượng, còn nhã nhạc biểu diễn trên gác Tường Loan cạnh đó. Hoàng Tử Hà xuống xe trước cửa Vọng Tiên, thấy tuyết đã ngừng rơi. Cô mừng thầm, vội theo hoạn quan cầm đèn lồng đỏ, băng qua kênh Long Thủ, vào cửa Chiêu Huấn, qua sảnh Đông Triều, đi dọc theo hành lang Long Vĩ dài dằng dặc, từng bước lên gác Tê Phượng cao đến năm trượng.

    Điện Hàm Nguyên nguy nga tráng lệ nằm chính giữa. Hai bên Đông Tây đặt gác Tê Phượng, Tường Loan như loan phượng khép cánh bao bọc lấy triều đường. Qua tu sửa, cả cung điện lẫn hai tòa gác đều vô cùng xa hoa lộng lẫy, sáng rực ánh đèn, tưởng như tiên cảnh.

    Hoàng Tử Hà cởi áo lông ra, vào bằng cửa ngách, thấy Quỳ vương ngồi ngay bên dưới hoàng đế, bèn nép tường lặng lẽ đi đến. Mọi người trong điện đang mải xem ca múa bên gác Tường Loan, không ai để ý, cô khẽ khàng ngồi xuống sau lưng Lý Thư Bạch, y ngoái lại nhìn rồi nhíu mày hỏi khẽ: "Chẳng phải đã dặn mặc thêm áo rồi ư?"

    Cô đón lấy bình rượu từ tay cung nữ, quỳ bên cạnh rót rượu cho y, đáp nhỏ: "Mặc rồi mà, vừa nãy vào đây nóng bức nên cởi ra thôi."

    Y cầm ly rượu, thản nhiên chạm tay vào mu bàn tay cô, thấy không quá lạnh mới hài lòng gật đầu.

    Hoàng Tử Hà đứng dậy lùi ra sau lưng y, cùng xem ca vũ.

    Từ gác Tê Phượng nhìn sang, gác Tường Loan, cách chừng trăm bước đèn đuốc sáng choang, mái ngói cong vút, tiếng ca văng vẳng vọng lại, uyển chuyển du dương, êm ái vừa độ. Bên trong phải thắp đến cả ngàn ngọn đèn nến, soi sáng những đồ trang trí và châu báu khảm trên tường. Tất cả chấn song trên gác đều được dỡ bỏ, giữa cung vàng điện ngọc, tiên nhạc du dương, cả trăm vũ cơ cùng múa giữa căn gác thông thống, như gió xuân Trường An giục mẫu đơn nở rộ, lộng lẫy chói mắt, rõ vẻ thịnh thế phồn hoa.

    Hoàng Tử Hà thong thả thưởng thức, cảm thấy tuy bày ra đủ vành đủ vẻ, song lại không đẹp mắt bằng điệu Nghê Thường Vũ Y do Lan Đại dựng. Cô đưa mắt nhìn quanh một vòng, dưới hoàng đế là Quỳ vương, đối diện bên kia là Ngạc vương Lý Nhuận và Chiêu vương Lý Nhuế, cũng đang ngoảnh nhìn ra ngoài.

    Ánh mắt cô dừng lại ở Lý Nhuận, thoáng ngạc nhiên. Quỳ vương, Ngạc vương và Chiêu vương cùng mặc áo gấm tím, song dưới ánh đèn, màu áo Ngạc vương lại có vẻ tối hơn những người khác.

    Cô lại đưa mắt nhìn sang Chiêu vương Lý Nhuế, mới phát hiện ra Lý Nhuế mặc áo đơn bằng sa trắng, còn Lý Nhuận mặc áo đơn đen, chỉ lộ ra cổ và tay áo, khiến màu tím càng tối hơn, ngay nốt ruồi son ở mi tâm cũng nhạt hẳn đi.

    Cuối cùng ánh mắt cô dừng ở Lý Thư Bạch, thấy y cũng mặc áo đơn sa trắng. Cùng một cách ăn mặc, khoác lên mình y lại như tuyết đầu mùa soi ráng chiều, khắp đại sảnh người đông như mây, song chẳng ai bì được. Bất giác, khóe môi cô lộ nụ cười, rời mắt nhìn sáng các ca kỹ đằng trước. Tuyết đã tạnh hẳn, màn múa cũng đến đoạn cuối cùng, tiêu dồn đàn gấp, vạt váy đồng loạt tung bay, đến nỗi ánh nến trong gác dường như cũng chập chờn lay động theo, tim nến lệch hắn sang một phía.

    Trong tiếng phách dồn dập, ca múa cũng dừng lại. Vũ cơ giáo phường yêu kiều vái chào, rồi đèn nền trong gác Tường Loan lần lượt tắt phụt từng ngọn, trong ánh sáng lờ mờ còn lại, các vũ cơ, ca nữ, ban nhạc nối nhau lui ra, cuối cùng, chỉ còn hai ba ngọn đèn lồng treo dưới mái hiên.

    Cửa sổ trên gác Tê Phượng cũng lần lượt khép lại, chẳng bao lâu sau, trong gác đã ấm áp như mùa xuân nhờ hơi nóng từ đèn và lò xông. Hơi ấm và men rượu khiến các hoàng thân quốc thích và quan lại trong triều hòa hứng hẳn, đua nhau nâng ly chúc thọ hoàng đế, trên dưới thuận hòa, quân thần vui vẻ.

    Hoàng Tử Hà đứng sau Lý Thư Bạch, bàng quan nhìn tất cả. Tuy chưa ăn tối, song chiều nay đi với Chu Tử Tần đã uống trà dùng điểm tâm đến ba lần nên cô không hề thấy đói, chỉ mong tiệc mau tan để về cho chóng. Nhìn lướt qua mọi người trong sảnh, sau ba tuần rượu, hầu như đều đã ngà ngà, chỉ riêng Ngạc vương Lý Nhuận thẫn thờ ngơ ngác, đang chuốc chén thù tạc lại ngây ra, có vẻ không bình thường.

    Lý Thư Bạch cũng nhận thấy, bèn giơ chén hướng về phía y. Lý Nhuận giơ chén lên đáp lễ, ánh mắt đờ đẫn, uống hớp rượu cũng có vẻ khó nhọc.

    Giữa sảnh đường huyên náo, Hoàng Tử Hà loáng thoáng nghe thấy tiếng gõ báo giờ từ bên ngoài vọng vào. Lý Nhuận cạn ly rượu trên tay, rồi đứng dậy thong thả bước ra ngoài.

    Người hầu phủ Ngạc đứng phía sau Lý Nhuận, hối hả bước lên định đi theo, song y giơ tay ngăn lại, một mình bước ra cửa. Hoàng Tử Hà đoán y đi thay áo, nên cũn bỏ qua, dồn chú ý vào Lý Thư Bạch.

    Tửu lượng Quỳ vương rất khá, trừ hoàng đế ra, y là người uống nhiều nhất, vậy mà vẫn bình thản như thường. Ngài ngự ngồi trên đã ngà ngà, mí mắt nặng trịch, song vẫn hồ hởi vẫy Lý Thư Bạch lại hỏi chuyện: "Tứ đệ, nghe nói đệ lo liệu xong việc bảy mươi hai tòa tháp rồi ư?"

    "Thưa vâng, hôm qua đã bàn bạc đâu vào đấy cả rồi, phú thương các châu huyện tranh nhau giành suất xây tháp rước cốt Phật, đấu giá ở bộ Công rất náo nhiệt."

    "Tốt lắm, triều đình đúng là không thể thiếu nhân tài như Tứ đệ!'' Hoàng đế vỗ vỗ cánh tay y tán thưởng, rồi lại sầm mặt tiếp: "Nhưng đệ có nghĩ bảy mươi hai tòa tháp này cũng là bảy mươi hai phần công đức vô lượng, giờ đệ làm vậy chẳng phải là trẫm mất phần công đức, mà đám thương nhân xây tháp kia lại được công đức sao? Là trẫm muốn rước cốt Phật vào kinh, sao công đức lại chia cho chúng được?"

    "Bệ hạ say rồi." Lý Thư Bạch bình thản đáp, "Thiên hạ là thiên hạ của bệ hạ, cốt Phật rước về cùng đặt tại Phật đường trong cung để bệ hạ lễ bái ngày ngày. Bệ hạ ban ơn mưa móc đến muôn dân, công đức của người thiên hạ cũng là công đức của bệ hạ, dù khó tránh vài ba hạt cát lọi qua kẽ tay nhưng tháp Phật của triều đình cũng là do muôn dân góp cát đắp thành, cớ gì còn phân biệt công đức của ai nữa?"

    Hoàng đế nghe vậy mới gật đầu, ngẫm nghĩ lời y tâu, nét mặt dần tươi lên: "Tứ đệ nói phải lắm, thiên hạ này là của trẫm, muôn dân chẳng qua như con sâu cái kiến dốc sức cho trẫm mà thôi, cần gì nhăc đến..."

    Chưa nói dứt câu, chợt nghe tiếng thét từ bên ngoài vọng vào.

    Người trong gác Tê Phượng sững ra, còn chưa hiểu xảy ra chuyện gì đã thấy bên ngoài náo loạn cả lên, có người hét lớn: "Ngạc vương gia!"

    Người khác lại gọi ẫm ĩ: "Mau, mau đến cứu với!"

    Một người cuống quýt chạy vào điện, quỳ sụp trước mặt ngài ngự hốt hoảng tâu: "Bẩm bệ hạ, Ngạc vương gia... ở gác Tường Loan..."

    Lý Thư Bạch thấy hoàng đế vẫn đang nửa mơ nửa tỉnh, ngơ ngác chưa hiểu chuyện gì, bèn nói: "Để thần đệ ra xem."

    Nói rồi, y đứng dậy rảo bước đi ra.

    Hoàng Tử Hà vội vã đi theo, lúc cô ra đến cửa đã thấy Lý Thư Bạch đứng trước lan can nhìn sang gác Tường Loan đối diện.

    Bất chấp gió rét, các hoạn quan và thị vệ đã cho mở toang cửa sổ gác Tê Phượng. Mọi người đều thấy rõ, Ngạc vương Lý Nhuận đang đứng trước lan can phía bên kia gác Tường Loan. Gió bấc lồng lộng thổi tung hoa tuyết, lốm đốm thấm vào tà áo tím, đậu cả lên tóc y.

    Cách hơn trăm bước, chỉ thấy gương mặt y tái nhợt, khó mà trông rõ nốt ruồi son giữa đôi lông mày, nhưng nhìn mặt mũi dáng dấp rõ ràng là Ngạc vương Lý Nhuận. Chẳng biết y lên gác Tường Loan tự lúc nào, đứng lặng giữa gió tuyết.

    Mọi người lên gác Tê Phượng nhốn nháo cả lên, có người gọi lớn: "Ngạc vương điện hạ, không được đâu!" "Điện hạ say rồi, phải hết sức cẩn trọng!" Song Lý Nhuận dường như không hề lọt tai những lời này, thản nhiên nhìn sang đám đông hỗn loạn bên này.

    Lý Thư Bạch quay lại, thấy Vương Uẩn đứng ngay bên cạnh bèn hỏi: "Bên gác Tường Loan còn ai không?"

    Vương Uẩn nhíu mày: "Không có, sau khi đoàn ca múa lui xuống, tất cả đều dồn sang bên này, chẳng ai ở bên ấy cả."

    Lý Thư Bạch cau mày: "Cả tòa lầu gác rộng như thế, sao lại không có ai canh giữ?"

    "Đa phần hộ vệ đều ở dưới, chỉ có mấy chục người lên, mà thánh thượng và các trọng thần đều ở bên này, nên mọi người tập trung cả sang đây, không ai để ý đến căn gác không bên kia." Nói rồi, y liếc Hoàng Tử Hà, vẻ phức tạp, dường như muốn nói gì đó nhưng lại thôi.

    Hoàng Tử Hà hơi ngượng ngịu, đương chẳng biết làm sao mới phải thì Lý Nhuận bên kia đã thét lên: "Không ai được qua đây! Các người tiến thêm một bước nữa, bản vương sẽ nhảy xuống đấy!" Các hộ vệ đang hối hả chạy sang đành dừng lại.

    Lý Nhuận đứng trên lan can phía bên kia gác Tường Loan, giơ tay chỉ thẳng vào Lý Thư Bạch, giọng hơi run, song hết sức rành rọt: "Tứ ca... Không! Quỳ vương Lý Tư, ngươi trăm phương nghìn cách náo loạn triều cương, hôm nay Lý Nhuận ta chết đi là vì bị ngươi bức ép, dồn vào đường cùng!"

    Nghe Lý Nhuận cao giọng mắng nhiếc, Lý Thư Bạch đứng lặng giữa gió đêm, nhìn không chớp.

    Gió thổi tung hoa tuyết bám vào tóc vào da y lạnh buốt như kim châm rồi tan ra, theo hơi lạnh thấu xương ngấm vào cơ thể, khiến y không cách nào động đậy.

    Những lời Lý Nhuận thốt ra khiến mọi người nhớ ngay đến tin đồn trong kinh thành. Tất cả đổ dồn mắt vào Lý Thư Bạch.

    Hoàng Tử Hà nhìn rõ sắc mặt thoắt tái đi cùng nỗi căm hờn tuyệt vọng bùng lên trong mắt y. Lòng cô bất giác thắt lại, hơi lạnh lan khắp lồng ngực.

    Thực không ngờ, đòn trí mạng lại đến từ Ngạc vương Lý Nhuận.

    Ngạc vương Lý Nhuận, vị vương gia trẻ tuổi ôn hòa tươi tắn hay lơ đãng, Thất đệ thân thiết với Lý Thư Bạch nhất, mấy ngày trước còn nhờ bọn họ điều tra sự thật về việc mẹ mình bị hại.

    Lý Thư Bạch đứng ngoài gác Tê Phượng, nhìn Lý Nhuận ở bên kia gác Tường Loan, giọng vẫn bình thản, song hơi thở hơi gấp: "Thất đệ, Tứ ca không rõ ngày thường có chỗ nào mạo phạm, để đệ nghi ngờ như vậy. Đệ cứ xuống đây đã, ta sẽ từ từ giải thích với đệ."

    "Giải thích ư? Ha ha ha ha..." Lý Nhuận ngẩng đầu cười ha hả như điên cuồng, "Ngươi tưởng ta không biết ngươi là hạng người gì sao? Từ sau khi chinh phạt Bàng Huân, ngươi đã hoàn toàn biến thành một con người khác rồi! Ngươi không còn là Quỳ vương Lý Tư nữa, mà là ác quỷ Bàng Huân nhập xác Quỳ vương! Hôm nay nếu ta không chon cái chết, để rơi vào tay ngươi, ắt còn khốn khổ hơn là chết!"

    Bàn tay đặt trên lan can của Lý Thư Bạch bất giác siết chặt, gân xanh lờ mờ nổi lên. Y gào lên với Lý Nhuận: "Bất luận ra sao, Thất đệ phải bình tĩnh lại... xuống đi đã!"

    "Quỳ vương Lý Tư! Không, ác quỷ Bàng Huân! Hôm nay ta sẽ hiến tế nắm xương tàn này cho Đại Đường! Nếu trời cao có linh, thi thể ta sẽ thăng thiên, có ta, hoàng tộc Lý thị sẽ trường tồn mãi mãi!" Nói đoạn, y rút một xấp giấy trắng trong ngực áo ra, nhìn từ xa chỉ thấy bên trên đầy những dòng chữ đen giống nhau, song không đọc được nội dung.

    Lý Nhuận vung tay ném cả xấp giấy lên không trung, gió đêm thốc tới, thổi tung những mảnh giấy bay tan tác, như một cơn bão tuyết.

    "Những thứ năm xưa ngươi tặng cho ta, hôm nay ta sẽ đốt hết trước mặt ngươi, để tế ân tình giữa đôi bên!"

    Mồi lửa trong tay bùng lên, Lý Nhuận nhìn Lý Thư Bạch lần cuối. Ánh lửa chiếu sáng nụ cười méo mó quái dị của y. Cuối cùng, Lý Nhuận thét lên: "Đại Đường sắp mất, giang sơn nghiêng ngả, triều đình rối loạn, họa từ Quỳ vương!"

    Hai chữ "Quỳ vương" vừa ra khỏi miệng, cả người y đã ngả ra sau, gieo mình từ lan can gác Tường Loan xuống, biến mất giữa trời đêm.

    Chỉ còn mồi lửa nọ chênh chao rơi xuống sàn rồi cháy bùng lên thành ngọn lửa.

    Trên gác Tường Loan, đã chẳng thấy bóng dáng Ngạc vương Lý Nhuận đâu nữa.

    Lý Thư Bạch điên cuồng chạy sang.

    Vương Uẩn lập tức lệnh cho Ngự Lâm quân xung quanh: "Mau xuống dưới gác Tường Loan!" Chẳng cần y nói tiếp, mọi người cũng hiểu ý, hai gác Tê Phượng, Tường Loan đều đặt trên đài cao đến năm trượng, Ngạc vương nhảy xuống ắt không giữ được mạng, Ngự Lâm quân kéo xuống chỉ có thể nhặt thi thể mà thôi.

    Hoàng Tử Hà theo sau Lý Thư Bạch, giẫm lên tuyết mỏng mà chạy. Lý Thư Bạch chạy rất nhanh, vượt qua các binh sĩ phía trước, xông thẳng sang gác Tường Loan.

    Ánh lửa bập bùng soi sáng rực cả gác, dưới sàn đổ sẵn dầu hỏa nên thế lửa rất mạnh, ngọn lửa lớn khác thường. Những thứ Lý Thư Bạch tặng Lý Nhuận năm xưa đều đã bị lửa thiêu thành tro bụi, chỉ còn một chuỗi tràng hạt bằng gỗ hoàng đàn Lý Thư Bạch lấy từ chỗ Hải Thanh vương của Hồi Hột tặng lại cho Lý Nhuận, chất gỗ cứng rắn nên chưa cháy hết, sáng rực lên giữa đám lửa.

    Hoàng Tử Hà chạy đến gác Tường Loan, thấy Lý Thư Bạch đứng lặng bên đống lửa, bèn bước tới bên lan can ngó xuống, thấy mọi người phía dưới đang hối hả tìm kiếm, bất giác nhíu mày. Ngoái lại thấy Lý Thư Bạch ngỡ ngàng đau đớn, nhìn chằm chằm vào chuỗi tràng bằng gỗ hoàng đàn nọ, cô bước tới bên y, dịu dọng khuyên nhủ: "Xin vương gia bớt đau thương, chuyện này có điều giả trá."

    Lý Thư Bạch rất thân với Lý Nhuận, lúc này đột ngột gặp biến cố lớn, dù hằng ngày bình tĩnh quyết đoán cũng không dễ dàng chấp nhận được ngay, nhất thời y ngây ra chẳng biết phải làm gì. Nghe Hoàng Tử Hà nói, y mới rùng mình trong gió lạnh, định thần lại, chậm rãi quay sang nhìn cô.

    Hoàng Tử Hà thì thầm: "Bên dưới không có thi thể Ngạc vương."

    Hàng mi Lý Thư Bạch rúng động, y quay ngoắt đi, rảo bước đến bên lan can trông xuống dưới.

    Bên dưới chỉ thấy một khoảng đất trống, Ngự Lâm quân đang lật từng phiến đá lên sục sạo, nhưng đừng nói là thi thể, đến một giọt máu cũng chẳng thấy.

    Hoàng Tử Hà và Lý Thư Bạch nhìn nhau, cả hai đều nhớ đến câu nói của Lý Nhuận trước khi nhảy xuống: Nếu trời cao có linh, thi thể ta sẽ thăng thiên, có ta, hoàng tộc Lý thị sẽ trường tồn mãi mãi!

    Theo hành lang Long Vĩ dài dằng dặc đi xuống, trước sau trái phải điện Hàm Nguyên đều là đất bằng rộng rãi, lát đá xanh nguyên khối mài nhẵn. Để làm nổi bật sự nguy nga tráng lệ của cung Đại Minh chỉ có hai hàng đèn đá dọc đường đi, ngoài ra không trang hoàng thêm gì khác.

    Nhưng, ngay chính giữa khoảnh đất bằng thênh thang không gì che chắn này, hơn trăm con mắt đã chứng kiến Ngạc vương Lý Nhuận rơi từ trên gác Tường Loan xuống mà không hề đáp đất.

    Dường như, y đã tan biến vào không trung, không tăm không tích, như một hạt bụi tiêu tán.

    Hoàng Tử Hà theo sau Lý Thư Bạch đi xuống, thấy đám đông đang xôn xao hoảng loạn.

    Trắng xóa mặt đất là những mảnh giấy Lý Nhuận vung ra, một số đã bị giẫm đạp lấm lem, nhưng cũng có một số được nhặt lên đọc. Có người nhìn được nội dung, nhưng lại hốt hoảng ném đi, không ai dám đọc ra miệng.

    Hoàng Tử Hà cúi xuống nhặt một tờ giấy lên, cầm trong tay, soi về phía ngọn đuốc canhfthoong đang bập bùng cạnh đó.

    Trên mảnh giấy dài là một hàng mười hai chữ san sát, xiêu vẹo: Đại Đường sắp mất, triều đình rối loạn, họa từ Quỳ vương!

    Chính là những chữ Trần thái phi khắc lên mép bàn gỗ đàn mà họ từng thấy trong gian điện nhỏ ở phủ Ngạc.

    Ngạc vương Lý Nhuận đã sao lại thành vô số bản, rải vung ra trong cung. Tim Hoàng Tử Hà đập thình thịch, bàn tay bất giác run bắn, ngoái lại nhìn Lý Thư Bạch phía sau, thấy y cũng đang nhìn chằm chằm tờ giấy nọ, vẻ mặt sa sầm, cô vội vã nhét bừa vào tay áo, bất lực nhìn những mảnh giấy khác bị gió thổi bay tứ tung khắp cung Đại Minh.

    Bên cạnh, có kẻ thì thào: "Lẽ nào, Ngạc vương xả thân vì xã tắc nên Thái Tổ Tông hiển linh phù hộ, vừa rơi xuống đã được phi thăng thành tiên đúng không?"

    Người bên cạnh vội huých nhẹ, kẻ kia lập tức nín bặt, không dám nói bừa.

    Vương Uẩn bước đến tham kiến Lý Thư Bạch, khi liếc qua Hoàng Tử Hà đứng sau lưng y, vẻ mặt hơi đanh lại, bẩm báo: "Ty chức không hề thấy tung tích Ngạc vương."

    Lý Thư Bạch nhìn quanh hỏi: "Ngự Lâm quân canh gác tại đây lúc ấy đâu?"

    "Lúc ấy tại đây... không có Ngự Lâm quân canh gác." Vương Uẩn nhíu mày, "Tuy theo luật vẫn phải gác, nhưng gác Tường Loan cách mặt đất đến năm trượng, lại không có đường lên xuống, không ai lên xuống được, thì còn gác bên dưới làm gì? Thế nên luật chỉ làm vì, mấy chục năm nay theo lệ không có ai gác ở đây cả. Tối nay Ngự Lâm quân cũng chỉ canh giữ dọc hành lang Long Vĩ cùng lối ra vào gác, không hề cắt người canh giữ dưới này."

    Lý Thư Bạch nhìn quanh rồi hỏi: "Ngươi là người đầu tiên chạy đến đây ư?"

    "Thưa vâng, lúc ty chức dẫn mọi người chạy đến, tuyết phủ trên đất vẫn phẳng phiu, đừng nói thi thể Ngạc vương, mà cả dấu chân cũng chẳng thấy."

    Đám Ngự Lâm quân theo sau Vương Uẩn cũng nhao nhao phụ họa, đảm bảo bấy giờ trên mặt tuyết không có dấu vết gì.

    Hoàng Tử Hà đứng dưới đài cao ngước nhìn lên, thấy trên gác Tường Loan đã thắp đèn sáng trưng, căn gác cao đến năm trượng, tường vây lại trơn, phủ một lớp tuyết mỏng, không hề có vết cọ xát.

    Hoàng đế đích thân đi đến, đứng ngay tại chỗ Ngạc vương Lý Nhuận nhảy, nhìn xuống bên dưới.

    Ánh mắt Lý Thư Bạch và ngài ngự giao nhau, ánh đèn xa tít trên cao soi sáng vẻ u ám trên mặt hoàng đế, ngọn lửa bập bùng làm méo mó gương mặt, khiến hoàng đế bỗng giống hệt một bóng ma âm trầm đáng sợ, đang cúi nhìn xuống cả cung đình.

    Tiếng trống điểm canh ba vang khắp thành Trường An.

    Đêm Đông chí đã qua, tang tảng sáng, tất cả xe ngựa lục tục rời cung Đại Minh.

    Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà ngồi trong xe, ngọn đèn lưu ly lắc lư chập chờn theo nhịp bánh lăn.

    Hoàng Tử Hà dựa vào thùng xe, nhìn Lý Thư Bạch. Đêm Trường An lặng phắc như tờ, chỉ nghe tiếng chuông vàng trên xe leng keng đều đều khe khẽ. Cô nghĩ mình nên nói gì đó phá vỡ không khí im lặng này, nhưng lại chẳng biết phải nói gì, đành lặng thinh nhìn Lý Thư Bạch, mặc cho ánh đèn đổ bóng đen đặc xuống cả hai.

    "Cái gì phải đến ắt sẽ đến, tránh cũng không được. Phải không nào?" Cuối cùng Lý Thư Bạch cũng khẽ khàng lên tiếng, vẫn giọng nói lạnh lùng đến gần như thờ ơ, trầm thấp mà bình thản, "Chỉ là, không sao ngờ được, đòn trí mạng lại là Thất đệ giáng xuống."

    "Tôi trộm nghĩ, có lẽ đây không phải ý của Ngạc vương." Hoàng Tử Hà lấy mảnh giấy nhặt được trong cung từ tay áo ra xem kỹ rồi chậm rãi nhận xét: "Mấy hôm trước Ngạc vương còn nhờ gia điều tra giùm vụ việc Trần thái phi, nếu ngay từ đầu đã định ra tay với gia, sao còn nhắc đến chuyện đó để đánh rắn động cỏ, làm chúng ta cảnh giác?"


    Lý Thư Bạch gật đầu: "Đúng vậy, có lẽ cô cũng nghĩ giống ta, cho rằng Thất đệ đã trúng phải thuật nhiếp hồn như Vũ Tuyên. Nhưng... ai dám mượn tay Ngạc vương công kích ta?"

    Hoàng Tử Hà nhìn y, không nói.

    Y cũng im lặng. Thực ra trong lòng cả hai đều đã có đáp án, chỉ là không muốn, cũng không thể nói ra lời.

    Ngọn đèn lưu ly chập chờn thoắt sáng thoắt tối.

    Ánh đèn dọc đường lờ mờ hắt vào qua song cửa, mông lung mờ ảo. Lý Thư Bạch chợt đổi chủ đề: "Thất đệ rốt cuộc ở đâu? Rõ ràng Thất đệ nhảy từ gác Tường Loan xuống ngay trước mắt chúng ta, sao giữa chừng lại biến mất?"

    Hoàng Tử Hà đáp khẽ: "Tôi nghĩ bên trong ắt có mánh khóe, chỉ là chúng ta chưa biết đấy thôi."

    "Lúc ấy chúng ta chính mắt thấy Thất đệ đứng ngoài lan can, đúng không?"

    "Phải, quả thật Ngạc vương đứng ngoài lan can." Hoàng Tử Hà giơ tay ấn vào hoa văn cỏ lá cuốn trên cây trâm cài tóc, rút trâm ngọc ra, vạch lên vạt áo một hình chữ "ao". Hai tòa gác cao chạy dài đối diện nhau trước điện Hàm Nguyên, như phượng hoàng dang cánh, cùng điện Hàm Nguyên hợp thành hình chữ "ao" 凹.

    Cô dùng mũi trâm trỏ vào điểm ngoài cùng, hồi tưởng lại tình cảnh bấy giờ, nhíu mày nói: "Gác Tê Phượng cũng giống gác Tường Loan, đều đặt trên đài cao năm trượng, có hàng lan can bao quanh. Ngạc vương lại đứng ở lan can phía bên kia gác, cách chúng ta khá xa. Đây là điểm đáng ngờ đầu tiên tôi nhìn ra khi Ngạc vương tự vẫn."

    "Nếu Thất đệ thực sự nhảy xuống sau khi mắng mỏ ta, thì đáng lẽ nên đứng ở lan can bên này, nơi gần gác Tê Phượng hơn mới phải. Vì ở đó đối diện ngay với gác Tê Phượng, khi Thất đệ nhảy xuống, tất cả sẽ tận mắt nhìn thấy đệ ấy rơi từ trên cao, từ đó dấy lên lòng căm hận và khiếp hãi ta, chứ sao lai chọn lan can bên kia, nhảy xuống là biến mất?"

    "Đúng thế, trừ phi Ngạc vương có lý do buộc phải diễn vở kịch này tại lan can phía ngoài. Hoặc là, ở lan can phía ngoài sẽ dễ giở trò hơn."

    "Không hề giở trò." Lý Thư Bạch lắc đầu, "Ngạc vương vừa nhảy xuống, chúng ta lập tức chạy sang, chỉ thấy mỗi dấu vết của Ngạc vương in trên lớp tuyết mỏng ở thành lan can, ngoài ra không còn gì khác."

    Hoàng Tử Hà lặng lẽ gật đầu, cây trâm trong tay lại vạch ra nghi vấn thứ hai: "Thứ hai là đống lửa Ngạc vương đốt lên trên gác Tường Loan."

    Lý Thư Bạch ngửa đầu thở hắt ra, ngả người vào thùng xe nói khẽ: "Trước khi tự vẫn còn đốt sạch những thứ ta tặng, dàn cảnh cắt đứt ân tình khéo lắm."

    "Tôi không tin Ngạc vương phẫn uất tự vẫn mà còn nghĩ đến chuyện bày ra màn kịch bi tình như thế đâu. Trừ phi nó giúp ích cho việc Ngạc vương biến mất."

    Trước mắt Lý Thư Bạch chập chờn hình ảnh chuỗi tràng bằng gỗ hoàng đàn sáng lên trong lửa. Lý Nhuận tính tình điềm tĩnh, một lòng tin Phật, thế nên khi có được chuỗi tràng hạt, y đã nghĩ ngay đến Thất đệ, bèn đem tặng lại, ngờ đâu giờ đây cả nó Thất đệ cũng không muốn giữ lại, quyết thiêu hủy bằng hết.

    Thẫn thờ lặng đi, hồi lâu y mới nói: "Huống hồ, những thứ đó nhất định phải cháy thật nhanh, nên Thất đệ đã đổ đầy dầu đen dưới sàn, chỉ trong nháy mắt chúng sẽ cháy thành tro bụi."

    "Thứ ba, còn một khả năng nữa, chính là Ngạc vương đã chết khi gieo mình xuống gác rồi. Chẳng qua thi thể được giấu đi, để tạo thành màn kịch 'thăng thiên'. Kẻ có thể làm việc này, chắc hẳn phải ở sẵn dưới gác Tường Loan, hay nói cách khác, bấy giờ tất cả mọi người bên dưới đều đã được điều đến trước điện Hàm Nguyên, không còn ai ở lại canh gác."

    Vương Uẩn. Kẻ phụ trách điều động và bố trí Ngự Lâm quân đêm nay.

    Cả hai không hẹn mà cùng nghĩ đến y.

    Tất cả Ngự Lâm quân canh gác trong cung Đại Minh đêm nay đều do Vương Uẩn chỉ huy, khi Ngạc vương Lý Nhuận gieo mình xuống, kẻ đầu tiên dẫn người chạy đến phía sau gác Tường Loan tìm kiếm thi thể cũng là y. Cũng chính y cho rằng lầu gác xây trên đài cao năm trượng không thể xảy ra chuyện gì, nên chỉ cắt người canh giữ dọc hành lang Long Vĩ và cửa ra vào gác. Hơn nữa sau khi ca múa dừng, lại điều toàn bộ thị vệ đi, để Ngạc vương Lý Nhuận thừa cơ một mình lẻn sang, dẫn đến thảm kịch.

    Sau khi vạch ra ba điểm nghi vẫn, Hoàng Tử Hà cắm cây trâm ngọc lại chỗ cũ, bình thản nhìn y, im lặng.

    Lý Thư Bạch trầm ngâm hồi lâu mới nói: "Thế nên vấn đề trước mắt ta hiện giờ không phải cái chết của Thất đệ, cũng không phải Thất đệ biến mất thế nào, sau khi biến mất đã đi đâu, mà là phải ứng phó ra sao với kẻ đứng sau Thất đệ."

    Hoàng Tử Hà gật đầu, cặp mắt lấp lánh phản chiếu ánh đèn lưu ly nhìn thẳng vào y không chớp.

    Song y chỉ hé cửa sổ xe, nghiêng tai lắng nghe tiếng vó ngựa đằng sau rồi chốt lại, chậm rãi quay sang bảo cô:"Giờ cô đi vẫn còn kịp đấy."

    "Không, muộn mất rồi." Cô khẽ lắc đầu, "Dù tôi đi, thì lòng vẫn ở lại bên gia, có đi đến đâu cũng vậy."

    Gương mặt y soi vào đáy mắt cô, rõ mồn một.


    Lý Thư Bạch nhìn cô, cũng nhìn vào chính mình trong đôi mắt trong veo của cô.

    Đến đây, có nói gì cũng là thừa thãi.

    Ánh đèn khúc xạ qua lớp lưu ly, loang ra như sóng, dập dềnh quanh họ. Mọi thứ bên ngoài giờ đây đều thành hư không, ít nhất họ vẫn đang ở bên nhau, sự êm đềm trong khoảnh khắc này đã ngăn cách họ khỏi tất cả gió mưa sắp ập xuống.

    Phủ Quỳ đã ở ngay trước mặt.

    Hai người xuống ngựa, đứng trước cửa phủ, đợi xe ngựa trong cung từ đằng sau đến.

    Người đến là Từ Phùng Hàn, hoạn quan được tin dùng nhất bên cạnh hoàng đế. Hắn tới truyền khẩu dụ hoàng thượng, hôm nay Quỳ vương vất vả, đêm khuya lại bị kinh hãi, cho ở nhà nghỉ ngơi mười ngày, mọi việc trong triều giao lại cho người khác, ngày sau sẽ sắp xếp lại.

    Chỉ một câu, đã tước hết chức vị của Lý Thư Bạch.

    Song y vẫn hết sức bình thản, sai Cảnh Hằng tiếp đãi Từ Phùng Hàn ở hoa sảnh, rồi cho người đến thư phòng lấy công văn các bộ gửi lên, niêm phong lại xếp vào phòng canh cửa, chuẩn bị sớm mai sẽ trả lại cho các bộ. Từ Phùng Hàn cầm phong bao được thưởng, nhìn đống công văn chồng chất như núi, thầm tặc lưỡi, nhưng cũng không dám nhiều lời, hối hả lên xe đi khỏi.

    Hoàng Tử Hà theo y băng qua lớp lớp cửa rả thâm nghiêm, về hiên Tịnh Dữu.

    Trước hiên trồng đầy tùng bách, tuyết mỏng giũa mất đôi phần sắc xanh, dưới đèn trông càng đẹp đẽ.

    Hoàng Tử Hà xiết nhẹ tay y: "Chưa hẳn là chuyện xấu, dù sao cũng được nghỉ ngơi ít lâu."

    Y nắm tay cô, trầm ngâm hồi lâu mới nói: "Đúng thế, chẳng qua là quay lại bốn năm trước mà thôi."

    Hoàng Tử Hà quan sát kỹ nét mặt của y rồi mỉm cười: "Tôi không tin đâu."

    Y cũng cười theo, tâm trạng căng thẳng đè nặng suốt đêm giờ mới vợi bớt đôi phần: "Vẫn là lưới trời vây bủa, vẫn là cá nằm trong lưới thôi. Tiếc rằng con cá này giờ đã béo lên, vây vảy cũng cứng hơn rồi." Thế nên, rốt cuộc là ngư phủ bắt cá, hay là cá quẫy lật thuyền, còn chưa biết được.

    Thân phận Hoàng Tử Hà hiện giờ, vẫn là tiểu hoạn quan trong vương phủ.

    Có điều mọi người đều biết Dương Sùng Cổ đã trở thành Hoàng tiểu thư, nên không tiện ở chỗ hoạn quan nữa, mà dọn đến một gian nhà gần hiên Tịnh Dữu.

    Về đến phòng thì đã canh năm. Thị nữ Trường Nghi canh đêm, trông thấy Hoàng Tử Hà vội múc nước giúp cô tắm rửa rồi nói: "Hôm qua Đông chí, trong phủ phát thưởng, có điều Hoàng tiểu thư theo lệ vẫn là hoạn quan hạng bét, nên phần được phát còn ít hơn cả tôi. Mai tiểu thư đến chỗ Cảnh Dực công công hỏi xem sao, kẻo sắp phát đồ Tết rồi, tới chừng đó phải lấy phần ít nhất!"

    Hoàng Tử Hà lắc đầu cười: "Thôi khỏi, ta chỉ có một thân một mình, lấy đồ Tết làm gì."

    Huống hồ, ai mà biết có qua được năm nay không.

    Thấy Hoàng Tử Hà mệt mỏi, Trường Nghi cũng không nói thêm nữa, chỉ đưa cô vào phòng nghỉ.

    Hoàng Tử Hà cả người mệt lử, nhưng nằm xuống lại không sao nhắm nổi mắt, cứ thao láo nhìn ra bầu trời sáng dần bên ngoài song cửa, vô vàn ảo ảnh thoáng qua trước mắt.

    Nốt ruồi son đỏ thắm trên gương mặt phiêu hốt như tiên của Ngạc vương Lý Nhuận.

    Dòng chữ xiên xẹo khắc trên mép bàn gỗ đàn, rồi được sao thành vô số bản, vung ra giữa không trung, bay tan tác khắp cung Đại Minh như tuyết.

    Bóng dáng Lý Nhuận đứng trước lan can rồi ngã ra sau gieo mình xuống, biến mất giữa bầu trời đêm.

    Không biết bắt đầu tìm manh mối từ đâu, không sao tra rõ được chân tướng, những thứ tan biến trong đống lửa, không biết rốt cuộc là gì...

    Hoàng Tử Hà day day huyệt thái dương rần rật, nằm thẳng đơ trên giường nhìn trời sáng dần lên ngoài song cửa, thở hắt ra.

    Dù những gì phải đến cũng sẽ đến, nhưng cô không thể ngồi yên chờ đợi, để những bí ẩn dày đặc kia nuốt chửng mình.
     
  16. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 5 - Thần Sách ngự lâm
    Nha cấm quân Bắc Trường An sau mấy phen thay đổi, giờ đã coi Thần Sách quân làm đầu, Ngự Lâm quân chỉ xếp thứ hai.

    Hoàng Tử Hà vận đồ hoạn quan, băng qua doanh trại Thần Sách quân, đến chỗ Ngự Lâm quân cầu kiến Vương Uẩn. Sau khi được điều đến Ngự Lâm quân, chẳng bao lâu Vương Uẩn đã được đề bạt làm hữu thống lĩnh, đường mây rộng mở, gió xuân đắc ý.

    Sau khi dâng danh thiếp cầu kiến, cách một lớp lều bạt, Hoàng Tử Hà quan sát các binh sĩ đang thao luyện, cứ ngỡ phải một lúc nữa Vương Uẩn mới ra, nào ngờ y nhanh chóng xuất hiện, trả lại danh thiếp cho cô: "Đừng dùng danh thiếp của Dương Sùng Cổ nữa, lần sau cứ nói cô là Hoàng Tử Hà rồi đi thẳng vào là đươc." Hoàng Tử Hà thoáng ngạc nhiên, không hiểu sao y lại nhanh đến vây.

    "Vừa từ chỗ Thần Sách quân về, quay qua quay lại đã thấy cô." Nói đoạn y ra hiệu cho cô cùng vào. Tên tùy tùng rất nhanh nhẹn, đã pha sẵn trà đưa đến.

    Vương Uẩn khơi to lò lửa trong phòng rồi nhìn chăm chăm vào hai quầng đen dưới mắt cô: "Biến cố hôm qua thực kinh khủng, ta cũng mất ngủ cả đêm."

    "Hôm nay tôi đến đây, cũng chính vì việc đó." Hoàng Tử Hà cúi đầu nhìn ly trà trong tay, nói khẽ, " Có chuyện cầu xin."

    Y nheo mắt, dò xét kỹ càng thái độ của cô, hồi lâu mới cười nói: "Quân tử không đứng vào chỗ nguy hiểm, cô thông minh như thế, hẳn phải biết làm thế nào là có lợi nhất cho mình."

    Hoàng Tử Hà mín môi đáp: " Phải, song có những việc trên đời, dù biết là châu chấu đá xe, dù có ngàn vạn người ngáng trở phía trước, tôi cũng không thể không dấn bước."

    Trà hơi chát, như nghẹn lại trong họng. Nhìn gương mặt u buồn mà cương quyết của cô, Vương Uẩn bỗng thấy nghèn nghẹn, lòng có vô vàn điều muốn tỏ mà không sao mở lời.

    " Tại vì sao?" Y đặt nhẹ ly trà xuống, hướng mắt ra ngoài cửa sổ, nhìn bầu trời vần vũ mây đen sau trận tuyết: "Y là gì của cô? Cô là gì của y?"

    Là gì đây? Y là gì của mình? Còn mình là gì của y?

    Chuyện cũ lướt qua trước mắt cô, vô số lát cắt gần đến nỗi tưởng chừng với tay ra là chạm được. Không hề hứa hẹn, song từ lâu đã chẳng thể nghi ngờ.

    Hoàng Tử Hà hít một hơi thật sâu, đáp bằng giọng trầm trầm mà bình thản: "Gia từng cùng tôi xuôi Nam về Thục, thay tôi rửa sạch oan khuất, còn giúp tôi tìm ra hung thủ giết hại cả nhà, kết thúc án oan. Đời này kiếp này cũng không đền hết ân nghĩa ấy."

    "Đời này kiếp này..." Vương Uẩn cười, nhưng không giấu được vẻ buồn thảm, "Suy cho cùng, ta chỉ thiếu một cơ hội như thế mà thôi." Hoàng Tử Hà cúi đầu lặng thinh.

    Vương Uẩn vẫn không cam tâm, lại hỏi: "Lúc lên kinh tìm cách giải oan, ngay từ đầu cô đã nhắm tới y ư? Nhà họ Hoàng cũng có người ở đây, còn ta... bấy giờ là chồng chưa cưới của cô, sao cô lại tìm đến y?"

    "Chỉ là trùng hợp thôi, Trương Hàng Anh giúp tôi trà trộn vào đội nghi trượng, bị gia phát hiện." Cô bưng ly trà lên vùi mặt vào đó. Có điều, trong lòng cô hiểu rõ, dù lúc ấy không nương nhờ Lý Thư Bạch, cô cũng không thể tới tìm Vương Uẩn. Bởi tội danh của cô là giết hại cả nhà vì tình lang.

    Vương Uẩn đương nhiên cũng nghĩ tới chuyện này, hai người đều lặng thinh. Cuối cùng vẫn là y với tay rót trà cho cô, mỉm cười xua tan không khí ngượng ngập: "Vậy thì ta không đoán được lý do hôm nay cô đến rồi."

    Hoàng Tử Hà ngẩng lên nhìn về phía doanh trại Thần Sách quân đối diện: "Trước đây, tôi từng có duyên gặp Vương công công một lần trong cung Thái Cực. May được công công chỉ cách nuôi A Già Thập Niết, tôi mới bắt lại được con cá nhỏ mình để sổng."

    Nghe cô nói, Vương Uẩn hiểu ra ngay: "Vương công công là trung úy hộ quân của Thần Sách quân nhiều năm nay, rất được hoàng thượng tin dùng, người cầu kiến nườm nượp không dứt nên công công thường ngày ít ra ngoài, cũng không mấy khi đến quân doanh, càng không dễ gặp mặt người khác."

    "Chính vì biết vậy nên tôi mới tìm Vương thống lĩnh, xin thống lĩnh viết cho tôi mấy chữ, biết đâu có thể gặp mặt được công công."

    Vương Uẩn nhíu mày: "Vương công công tuy cũng mang họ Vương, song không cùng một chi họ với ta. Trong triều ai cũng biết Vương công không mấy khi qua lại với nhà họ Vương Lang Gia, nếu cô muốn cầu kiến, sao lại tìm đến ta?"

    "Thế ư?" Đôi mắt trong veo của Hoàng Tử Hà nhìn thẳng vào y, giọng tuy khẽ khàng, nhưng đầy quả quyết: "Vậy mà Vương công công lại luôn ủng hộ Vương hoàng hậu, tôi cứ nghĩ ắt là có quan hệ với nhà họ Vương chứ. Ít ra, Vương thống lĩnh là nhân vật xuất chúng của nhà họ Vương, Vương công công nhất định rất thích thống lĩnh."

    Vương Uẩn phì cười, dáng vẻ y vô cùng tuấn tú, lúc cười lên càng đẹp hơn, như ban mai ló dạng, như gió ấm tan băng. Y chống cằm nhìn cô cười nói: "Không đâu, người Vương công công thích nhất là cô đấy."

    Vương Uẩn đột nhiên cười nói vui vẻ như thế khiến Hoàng Tử Hà không khỏi ngạc nhiên, cô mở to mắt, đợi xem y sẽ nói gì.

    Song Vương Uẩn chẳng nói gì thêm, chỉ đứng dậy bảo: "Cô đợi một lát, ta quay lại ngay." Quả nhiên, chỉ lát sau, Vương Uẩn đã thay quân phục, đổi sang áo lông màu đen, cùng cô bước ra ngoài.

    "Đi nào, chỗ ở của Vương công công ngay gần đây thôi."

    Mây đen mỗi lúc một thêm vần vũ trên nền trời xám xịt. Vương Uẩn và cô ai lên ngựa nấy, nhằm hướng cung Kiến Bật phía Bắc cung Đại Minh.

    Lớp tuyết mỏng hôm qua đã tan ra, rồi lại đông cứng thành băng vụn, Hoàng Tử Hà ngồi trên ngựa khom người nhìn xuống móng Na Phất Sa, rồi khẽ vuốt bờm dỗ dành nó.

    Vương Uẩn ngoái lại, thấy trong lúc cô cúi đầu, có mấy mảnh băng vụn vương lên tóc mai, nhưng chỉ có một thoáng đã tan ra, khiến đôi má cô thỉnh thoảng lại ánh lên lấp lánh, làm y phải quay sang nhìn, lỏng cương cho ngựa chạy ngang hàng với cô. Biết rõ chỉ cần giơ tay là lau đi được cho cô, song y không sao cất tay lên nổi.

    Lòng buồn bực khôn xiết mà chẳng hiểu vì sao, y ra roi thúc ngựa chạy vụt lên.

    Cây cối bên cung Kiến Bật đìu hiu, ven hồ là một dải tường thấp quanh co, trước cổng trồng hai cây hồng, không có cả tượng thú trấn trạch. Vương Uẩn giơ tay trỏ đằng xa nói: "Đến rồi." Hoàng Tử Hà cứ ngỡ Vương Tông Thực sẽ sống trong nhà cao cửa rộng canh gác nghiêm ngặt, nào ngờ nơi ở của y lại đơn sơ như vậy, khiến cô không khỏi ngạc nhiên.

    Vương Uẩn khẽ gõ cửa, thật lâu mới thấy một thiếu niên ra mở, trông thấy y bèn miễn cưỡng nói: "Sớm thế này, công công còn chưa dậy... Ồ, đây là ai vậy?"

    Vương Uẩn đáp: "Cô ấy là Hoàng Tử Hà."

    "À." Thiếu niên thuận miệng đáp rồi quay lưng đi vào. Không lâu sau lại chạy ra, đưa một nắm hạt thông cho Vương Uẩn: "Chúng ta ngồi đây nói chuyện đi, để một mình Hoàng tiểu thư vào được rồi."

    "Cô vào đi." Vương Uẩn gật đầu với cô, rồi ngồi dựa vào lan can, thản nhiên cắn hạt thông với thiếu niên nọ.


    Hoàng Tử Hà đành đẩy cửa chầm chậm bước vào.

    Sau cánh cổng là một dãy hành lang, cuối hành lang là hồ nước, trời tuyết vần vũ mà bèo tấm trên mặt hồ vẫn xanh biếc, thậm chí còn lơ thơ mấy chiếc lá sen, lác đác một hai đóa sen nhỏ nhô lên khỏi mặt nước.

    Cô băng qua cây cầu bắc ngang, đến trước căn gác bên kia hồ sen, trông thấy Vương Tông Thực đang ngồi đó, vận một bộ thường phục bằng gấm trắng, dáng dong dỏng cao. Chỉ khi đôi mắt sắc lạnh mà âm trầm ấy nhìn xoáy vào mình, cô mới giật nẩy người, bất giác thấy sờ sợ.

    Vương Tông Thực không nói gì, chỉ quay người dẫn cô vào.

    Vừa bước vào, đập vào mắt cô là một bể lưu ly cực lớn, bên trong cá đỏ cá đen thong dong bơi lội. Ánh mặt trời bên ngoài chiếu lên thành bể, mặt nước và vảy cá, khúc xạ bốn bề, lung linh mờ ảo, khiến cả gian gác như chìm trong vầng sáng mỹ lệ mà quỷ dị.

    Nhờ có suối nước nóng nên bên trong ấm áp như mùa xuân, Vương Tông Thực chỉ mặc áo gấm mỏng. Hoàng Tử Hà từ bên ngoài gió rét đi vào thấy nóng bừng lên. Vương Tông Thực bèn ra hiệu cho cô ra sau bình phong cởi bớt áo lông, lúc bước ra, cô thấy y đã rót sẵn hai ly trà,

    nước trà xanh biếc trong chén sứ xanh, hơi nóng lững lờ bốc lên từ chiếc lò nhỏ.

    Cô ngồi xuống đối diện Vương Tông Thực, cúi đầu với y.

    Làn da y trắng đến gần như trong suốt vì cớm nắng, sáng lên một cách quái dị dưới ánh phản chiếu từ những gợn sóng lăn tăn. Khí chất âm lãnh của y khiến Hoàng Tử Hà không dám nhìn thẳng, đành cúi đầu nhấm nháp ly trà.

    Chợt y cất tiếng, giọng lanh lảnh như băng mỏng va nhau: "Quỳ vương vẫn khỏe chứ?"

    Hoàng Tử Hà đáp khẽ: "Thưa vâng."

    "Ha." Y cười nhạt, đặt ly trà xuống bàn nhìn cô hỏi: "Vậy Hoàng tiểu thư hạ cố đến thăm, là vì việc gì?"

    Hoàng Tử Hà bình thản đáp:"Con A Già Thập Niết Quỳ vương nuôi gần đây có vẻ bồn chồn không yên, nên tôi tới đây xin Vương công công chỉ giáo cách vỗ yên nó."

    "Thời tiết thay đổi đột ngột, mưa tuyết mịt mù, cá không chịu nổi không khí lúc nóng lúc lạnh, có bồn chồn cũng chẳng lạ." Y nói chậm rãi, song giọng lại lạnh băng, như ẩn giấu một luồng hơi giá buốt không thể xua tan, "Chỉ cần nó còn ngoan ngoãn ở yên trong bể, không búng mình nhảy ra ngoài, thì sẽ bình yên vô sự thôi."

    Trước mắt bỗng thoáng hiện bóng Ngạc vương Lý Nhuận gieo mình từ gác Tường Loan xuống.

    Hoàng Tử Hà biết Vương Tông Thực có rất nhiều tai mắt trong triều, huống hồ thảm kịch tối qua đã lan truyền khắp kinh thành, đương nhiên y phải biết. Cô quay sang, nhìn bầy cá nhởn nhơ trong bể lưu ly trước mặt, sẽ thở dài:"Công công minh giám, tiểu nữ chỉ muốn biết vì sao đang yên đang lành con cá ấy lại nhất định muốn búng mình nhảy ra? Nó không tiếc tính mệnh, hay còn duyên do nào khác?"

    "Ta chưa từng trông thấy con cá của Quỳ vương, cũng chưa từng nuôi nấng nó, làm sao mà biết được?" Vương Tông Thực đứng dậy đi đến trước bể lưu ly, gõ nhẹ vào thành. Bầy cá bên trong lũ lượt tụ lại trước ngón tay y, thoạt nhìn chẳng khác một dòng tro tàn và một dòng máu đỏ đồng thời chảy ra từ đầu ngón tay. Qua lớp lưu ly, hình dạng mấy con cá cũng trở nên méo mó, toát ra vẻ quái dị.

    "Huống hồ cá của Quỳ vương thì liên quan gì đến ta?".

    Hoàng Tử Hà mỉm cười: "Cá của Quỳ vương cũng giống cá của công công thôi. Cá của gia đã nhảy ra, tôi nghĩ chưa chắc cá của công công đã chịu ngoan ngoãn ở yên trong bể. Công công biết đấy, gần đây thời tiết không được tốt, e rằng sẽ có nhiều thay đổi."

    Cặp mắt âm u của Vương Tông Thực nheo lại thành một đường chỉ mảnh. Quan sát cô hồi lâu, y chậm rãi hỏi: "Vậy ngươi làm sao biết ta không phải là thứ thời tiết quái dị khiến bầy cá bồn chồn ấy?"

    "Công công nuôi bấy nhiêu cá, lại bảo hộ một gia tộc lớn như thế, tiểu nữ tin rằng công công sẽ nghiêng về duy trì thời tiết vốn có, chứ không muốn làm tổn hại đến bầy cá mình nâng niu...có phải không?" Hoàng Tử cũng đứng dậy bước đến cạnh y, nhìn bầy cá lúc tụ lại lúc tản ra trong bể, khóe môi cong lên.

    Vương Tông Thực gõ nhẹ vào bể cá, trầm ngâm hồi lâu. Rồi y ngẩng lên nhìn Hoàng Tử Hà trước mặt, thấy cô đang đứng giữa vầng sáng lung linh do mặt nước khúc xạ, trầm tĩnh mà trong vắt, như châu ngọc sáng lòa.

    Vương Tông Thực chăm chú nhìn cô, ánh mắt vốn lạnh lẽo dường như cũng dịu đi đôi chút. Đoạn y lại ngồi xuống bên chiếc bàn cạnh cửa sổ, vươn tay rót cho cô một ly trà.

    Hoàng Tử Hà quỳ xuống trước mặt y, cúi đầu cung kính nhận lấy, ấp ly trà trong lòng bàn tay.

    Vương Tông Thực lại rót trà cho mình, rồi thản nhiên nói: "Nhưng ta quả thực không biết tại sao gần đây tiết trời lạ lùng như vậy, càng không rõ sau lần thay đổi này, sẽ có con cá nào bồn chồn không yên, và bồn chồn thế nào nữa?"

    "Ngay công công cũng không đoán trước được ư?" Hoàng Tử Hà nhìn y hỏi.


    Vương Uẩn truy kích hành thích Quỳ vương, tuy là việc cơ mật, song Vương Tông Thực sao có thể không biết?

    Y chỉ mỉm cười, dưới ánh nước lăn tăn gợn sóng, nụ cười càng thêm vẻ bí hiểm: "Dù có biết thì tại sao ta phải nói cho ngươi? Ngươi đã không còn là người nhà họ Vương nữa rồi."

    Hoàng Tử Hà trầm tư hồi lâu mới đáp: "Tôi cứ ngỡ, trước tình cảnh này, công công cũng phải lo bầy cá của mình bị vạ lây chứ."

    "Lo thì có lo, nhưng ta không muốn nhờ cậy người ngoài." Tay trái y bưng ly trà, tay phải chống má, chậm rãi tiếp: "So ra thì con dâu nhà họ Vương đáng tin hơn hoạn quan phủ Quỳ nhiều."

    Hoàng Tử Hà lặng lẽ nhìn ỵ

    Y cũng chăm chú quan sát nét mặt cô, lần đầu tiên gương mặt lạnh lùng thoáng nụ cười, tiếc rằng dưới ánh nước lăn tăn lại có phần méo mó, khiến cô càng cảm thấy sởn tóc gáy.

    "Cân nhắc lại về hôn ước với nhà họ Vương, ta sẽ cho cô nhúng tay vào điều tra vụ này."

    Lúc Hoàng Tử Hà về đến phủ Quỳ, đã gần giờ ngọ.

    Cô dắt Na Phất Sa vào chuồng ngựa, thêm cỏ khô và đậu cho nó, quay ra đã thấy Địch Ác hớn hở cọ lấy cọ để vào cổ Na Phất Sa.

    Cô xoa đầu Địch Ác, nhưng bị nó hung hăng hất ra, đành câm nín vỗ nhẹ lên đầu nó: "Đúng là, chúng ta cũng coi như cùng vào sinh ra tử, thế mà chẳng nể mặt người ta tí nào cả."

    "Nó với cô còn có thâm thù đại hận, đời nào lại nể mặt cô?" Có người nói sau lưng, "Sáng sớm ngày ra cô đã dong Na Phất Sa đi mất, làm nó buồn bực suốt đấy."

    Hoàng Tử Hà chẳng cần quay lại cũng biết là Lý Thư Bạch. Cô hơi căng thẳng, song vẫn ngoái lại nhìn y cười: "Nói vậy là tôi không phải với nó ư?"

    Lý Thư Bạch liếc nhìn vệt bùn trên mình Na Phất Sa, sai người lau sạch cho nó rồi bảo Hoàng Tử Hà: "Thay quần áo đi, đến giờ ăn trưa rồi."

    Hoàng Tử Hà ngoan ngoãn gật đầu, cun cút đi theo y được mấy bước, cuối cùng vẫn rụt rè giải thích: "Sáng nay...tôi đi bái kiến Vương Tông Thực Vương công công."

    "Ừm." Y bình thản, “Giờ ta đang rảnh rang, cũng nên ra ngoài như cô mới phải."

    Thấy y không để tâm, cô mới thở phào, lại tiếp: "Tôi đến nghe ngóng thử, nhưng dường như Vương công công không liên quan đến việc này. Có lẽ, vẫn có thể hỗ trợ gia."

    Lý Thư Bạch ngập ngừng giây lát rồi ngoái nhìn cô nói khẽ: "Ta và ông ta xưa nay không hề qua lại." Hoàng Tử Hà nhìn y ra ý hỏi.

    Nhìn vào đôi mắt trong suốt của cô, y lại thở dài: "Ta không muốn cô lo buồn vì ta." Trời lạnh buốt, hơi thở từ miệng y phả thành khói trắng, tản ra giữa không trung, hóa thành hư vô.

    "Cần gì phải lo buồn chứ?" Hoàng Tử Hà lặng lẽ nắm lấy tay y, dịu giọng, "Gia ở trong triều bấy nhiêu năm, bất kể là tu dưỡng hay xử lý công việc, đều không có gì để chỉ trích. Họ không cách nào nắm được thóp gia, đành bày ra mấy chuyện ma quỷ để mê hoặc người đời, hòng hãm hại gia đấy thôi. Những việc trí trá xằng bậy như thế ắt có duyên do, chúng ta có thể nhân cơ hội này lần ra kẻ đứng sau màn."

    Lý Thư Bạch cúi nhìn cô rồi lắc đầu: "Không chỉ thế này thôi đâu. Trước đây ở Thục, chúng ta từng bị hành thích, huống hồ giờ ta rơi vào cảnh này, chính là thời cơ tốt nhất để ra tay, cô nghĩ đối phương lại chịu bỏ qua hay sao?"

    Hoàng Tử Hà nhíu mày hỏi: "Ý gia là chúng sẽ còn..."

    Chưa nói dứt câu đã nghe bên cạnh có tiếng chân, rồi Cảnh Dực bước đến bẩm báo: "Vừa rồi Vương công công trung úy hộ quân của Thần Sách quân sai người đến báo, giờ Mùi sẽ đến bái phỏng gia, mong gia bớt chút thời giờ tiếp kiến."

    Lý Thư Bạch nhìn sang Hoàng Tử Hà, song cô chỉ chớp mắt: "Chẳng phải hai vị xưa nay không hề qua lại hay sao?"

    Lần đầu tiên, cô thấy Lý Thư Bạch bối rối: "Ta làm sao biết được? Cô có biết y đến làm gì không?"

    Hoàng Tử Hà trưng ra vẻ mặt vô tội, tỏ ý mình cũng không biết Vương công công đến làm gì. Song cùng lúc, cô nhớ ngay đến câu nói cuối cùng của Vương Tông Thực với mình, bèn lặng lẽ cúi đầu.

    Lý Thư Bạch thấy cô tự dưng im bặt thì cũng chẳng hỏi thêm, chỉ chậm rãi siết chặt tay cô: "Bấy nhiêu trọng thần trong triều mà thánh thượng lại chọn đúng Vương Tông Thực xưa nay không qua lại gì với ta để làm thuyết khách, đương nhiên chỉ có một lý do." Hoàng Tử Hà nhìn y dò hỏi.

    "Vì Vương Tông Thực là trung úy Tả hộ quân của Thần Sách quân, trong kinh nghiệm hiện giờ, binh lực của bộ Binh chẳng bằng một nửa y. Chắc hẳn cả kinh thành này cũng chỉ mình y có gan gây áp lực với ta thôi."

    Hoàng Tử Hà hiểu ngay: "Thánh thượng muốn đoạt binh quyền của gia ư?"

    "Ừm, giờ trong nha cấm quân phía Bắc, trừ Thần Sách quân và Ngự Lâm quân ra, chính là quân Thần Vũ, Thần Uy do ta lập ra từ những binh lính ở Lũng Hữu chuyển đến. Ngay cả mười sáu vệ quân Nha Nam vẫn kiềm chế tiết độ sứ các nơi, vốn dĩ sau loạn An Sử chỉ còn danh hão, cũng là ta đánh Từ Châu xong cùng các tiết độ sứ xây dựng lại, chỉ mình ta khống chế được thôi." Y nhíu mày nói khẽ, "Thế nên, tuy ta không có quân đội riêng, nhưng quả thật là cái gai trong mắt cái dằm trong tim triều đình."

    Hoàng Tử Hà không nhịn được phản bác: "Năm xưa khi gia gây dựng hai lực lượng này, tăng cường sức mạnh cho hoàng thất kiềm chế Vương Tông Thực, chắc hẳn hoàng thượng cũng phải ủng hộ chứ."

    "Đúng thế, nhưng giờ người hoàng thượng chọn không phải là ta." Y lặng lẽ cúi đầu nhìn bàn tay hai người đan chặt vào nhau, nét mặt thoáng buồn, "Giấu tài mới là đạo lập thân, nào phải ta không biết? Tiếc rằng hoàng tộc suy vi, nên mấy năm nay ta đành đứng ra chèo chống, việc gì cũng đến tay. Vậy mà giờ xem ra, vẫn là đi lầm đường."

    "Gia không lầm. Nếu không có gia chèo chống vãn hồi uy thế hoàng gia, thì dưới gầm trời này còn ai kiềm chế nổi Vương Tông Thực nữa? Thuận Tông, Hiến Tông, Kính Tông, có ai không mất mạng vào tay hoạn quan, thiên hạ chỉ biết có hoạn quan, chẳng biết đến hoàng thất, làm sao biết được bi kịch năm xưa có tái diễn hay không?"

    Thấy cô ra sức biện bác, y rốt cuộc cũng mỉm cười, khẽ vuốt tóc cô thì thầm: "Nếu thánh thượng cũng nghĩ như cô có phải tốt không."

    Vương Tông Thực đến, chỉ đem theo thiếu niên hầu cận nọ. Nhìn có vẻ rất ung dung thoải mái, như đi thăm nom bình thường. Song vừa ngồi xuống, câu đầu tiên y thốt ra đã khiến Hoàng Tử Hà đứng sau Lý Thư Bạch phải nhíu mày.

    Y nói: "Hạ quan lần này đến đây, là ý của thánh thượng."

    Lý Thư Bạch liền hỏi: "Chẳng hay thánh thượng có gì sai bảo?"

    Vương Tông Thực ngả người vào lưng ghế, khoé môi cong lên nửa cười nửa không: "Việc này vốn chẳng liên quan gì tới hạ quan, nhưng trong kinh ai dám tuỳ tiện mạo phạm vương gia? Cuối cùng việc khổ sai này lại rơi xuống đầu hạ quan."

    "Nói vậy hẳn là việc rất quan trọng rồi."

    "Vương gia biết đấy, chuyện hôm qua đã lan truyền khắp trong triều ngoài nội. Những lời ong tiếng ve này chẳng hay ho gì với gia, mà muốn bịt miệng đám dân đen cũng không phải dễ dàng. Dù sao, Ngạc vương đã chỉ mặt mắng gia náo loạn triều đình, làm nghiêng ngả thiên hạ trước bấy nhiêu người."

    Lý Thư Bạch chỉ im lặng lắng nghe, không nói nửa lời.

    Thấy y không đáp, Vương Tông Thực thản nhiên đứng dậy hành lễ: "Giờ đã đến kỳ ba năm đưa quân đi trấn thủ, mười sáu vệ nha Nam đang lần lượt thay tướng, nếu vương gia bằng lòng để triều đình điều phối các tướng, đồng thời giao trả binh quyền hai quân Thần Uy Thần Vũ, trong triều ngoài nội sẽ biết vương gia không có ý mưu phản, tin đồn nhảm ắt lắng xuống ngay, đám dân đem ngu muội kia cũng hiểu được tấm lòng trung quân ái quốc của gia..."

    "Vương công công cứ luôn miệng nói đến đám dân đen ngu muội, đã là ngu muội thì họ nghĩ thế nào có liên quan gì đến bản vương?" Lý Thư Bạch nở nụ cười hiếm hoi, thong dong cắt lời Vương Tông Thực.

    Khoé môi Vương Tông Thực cũng nhếch lên nửa cười nửa không: "Hạ quan biết vương gia sẽ không dễ dàng chấp thuận. Nhưng thánh ý khó trái, hiện giờ vương gia lại bị vô số người chỉ trích, nếu cứ án binh bất động, e rằng khó ăn nói với người thiên hạ."

    "Người thiên hạ có đến ngàn vạn, già trẻ trai gái hiền ngu đủ cả, bản vương làm sao quản nổi?" Lý Thư Bạch thản nhiên cười nói, "Huống hồ Vương công công hẳn cũng biết, gần đây bản vương liên tục bị hành thích, nếu ngay mấy người trong tay còn không nắm giữ được, e rằng sớm muộn cũng gặp nguy. Sống trên đời ai không tiếc thân chứ? Bản vương cũng chẳng còn cách nào, đành phụ lòng người trong thiên hạ vậy."

    "Nếu vương gia không gật đầu, hạ quan cũng đành bẩm báo tất cả với thánh thượng." Nói rồi Vương Tông Thực chắp tay hành lễ với y, "Còn chuyện này nữa, vì Đại Lý Tự không tiện can thiệp, nên thánh thượng đã phái hạ quan và bộ Hình cùng điều tra, xin vương gia vui lòng chỉ giáo để chúng hạ quan dễ bề làm việc."

    Lý Thư Bạch đương nhiên biết là chuyện gì, song cũng chẳng nói toạc ra, chỉ gật đầu: "Chuyện dó dĩ nhiên."

    "Cái chết của Ngạc vương điện hạ, có liên quan gì đến vương gia chăng?"

    "Bản vương cũng rất muốn biết việc đó. Dù sao bản vương cùng Ngạc vương lớn lên bên nhau, tình cảm cũng không thể nói là không thân thiết." Y vẫn bình thản, chỉ thoáng vẻ thương tiếc, "Bản vương tự thấy mình chưa từng làm việc gì không phải với Ngạc vương, ai ngờ trước lúc lìa trần Ngạc vương lại loan ra tin đồn như vậy, khiến người thiên hạ hiểu lầm bản vương, thực là khó hiểu."

    Nghe y bình thản thuật chuyện, lại nhớ đến nỗi đau đớn của y trong đêm Ngạc vương gieo mình từ gác Tường Loan xuống, Hoàng Tử Hà không khỏi chạnh lòng.

    Thực ra, y có lẽ là người quan tâm Ngạc vương nhất trên đời, vậy mà giờ đây chỉ có thể nói về Thất đệ của mình bằng thái độ thản nhiên như thế.

    Cặp mắt nheo nheo của Vương Tông Thực liếc qua gương mặt Lý Thư Bạch rồi lại cụp xuống, y hỏi: "Chẳng hay lần cuối cùng vương gia gặp Ngạc vương là khi nào?"

    "Đầu tháng này."

    "Bấy giờ thái độ Ngạc vương đối với vương gia có gì lạ không?"

    "Không hề."

    "Vương gia có thể thuật lại tình hình khi ấy cho hạ quan nghe không?"


    "Ta tìm được chiếc vòng tay của Trần thái phi thất lạc bên ngoài bèn đưa trả lại cho Thất đệ, Thất đệ cầm về cúng trước linh vị mẫu phi."

    Lý Thư Bạch không nói thừa một chữ, quả thật hết sức hợp lý, khiến Vương Tông Thực đành đứng dậy thi lễ: "Đa tạ vương gia, hạ quan sẽ đến phủ Ngạc ngay, xem có vật chứng nào hữu ích không, mong rằng sớm ngày trả lại được sự trong sạch cho vương gia." Lý Thư Bạch giơ tay lên, tỏ ý tiễn khách.

    Vương Tông Thực đứng thẳng dậy, nhìn lướt qua Hoàng Tử Hà, gương mặt xưa nay vốn lạnh băng bỗng lại thoáng nụ cười nhàn nhạt: "Chẳng biết Hoàng tiểu thư đã cân nhắc kỹ việc đó chưa?"

    Hoàng Tử Hà không ngờ y lại hỏi câu này ngay trước mặt Lý Thư Bạch, nhất thời giật nảy mình, không biết đáp thế nào.

    Vương Tông Thực tuy đã ngoài ba mươi, nhưng thường ngày dưỡng thân rất tốt, da dẻ trắng như ngọc, lúc này mỉm cười lại thấp thoáng phong thái liễu xuân phơ phất như Vương Uẩn, chỉ khác là đôi mắt vẫn sắc lạnh, khiến người ta sởn tóc gáy: "Nếu cô đã cân nhắc kỹ, thì cùng ta tới phủ Ngạc vương điều tra đi."

    Hoàng Tử Hà chần chừ nhìn sang Lý Thư Bạch.

    Lý Thư Bạc đương nhiên không biết Vương Tông Thực lúc trước đã nói gì với cô, y chỉ lặng lẽ nhìn cô, không hỏi han thêm, song đã đủ làm Hoàng Tử Hà chột dạ, sợ sệt cúi gằm mặt nhìn đầu ngón chân.

    Nét mặt Vương Tông Thực lại lộ ra nụ cười như có như không: "Mong vương gia bỏ qua cho, nếu Hoàng tiểu thư vẫn là tiểu hoạn quan phủ Quỳ, thì để tránh tai tiếng, không thể tiếp cận với vụ án này. Vì thế cô ấy tìm tới hạ quan, nhận lời sẽ cân nhắc về hôn sự với Vương Uẩn, nếu vậy cô ấy sẽ thành người nhà họ Vương, phu nhân hữu thống lĩnh Ngự Lâm quân, con dâu thượng thư bộ Hình, thân phận không có gì đáng ngờ, đương nhiên có thể cùng chúng ta điều tra phá án."

    "Khỏi cần." Lý Thư Bạch rời mắt khỏi Hoàng Tử Hà, hờ hững đáp, "Việc này đã có Vương công công và Vương thượng thư xử lý, phủ Quỳ lo lắng làm gì? Càng không cần một tiểu hoạn quan chen vào làm vướng tay vướng chân."

    "Đã vậy, mọi chuyện đều theo vương gia định đoạt." Vương Tông Thực hành lễ thêm lần nữa, rồi quay người thong dong đi khỏi.

    Trong phòng chỉ còn Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà, y chìa tay về phía chiếc ghế trước mặt, ý bảo cô ngồi xuống.

    Hoàng Tử Hà nơm nớp ngồi xuống ghế, lặng lẽ cúi đầu nhìn mấy ngón tay xoắn vào nhau. Lòng cô rối như tơ vò, lại chẳng biết phải giải thích ra sao, đang hoang mang lưỡng lự thì nghe Lý Thư Bạch hỏi: "Tại sao?"

    " Tôi... chưa hề nhận lời." Cô vội thanh minh, "Vương công công bảo tôi cân nhắc lại hôn sự với Vương Uẩn, thì sẽ cho tôi tham gia vụ này. Tôi đến cầu kiến là muốn thăm dò xem ông ta là địch hay là bạn, sao có thể thẳng thừng cự tuyệt được, đành tìm cách hoãn binh, nói rằng sẽ cân nhắc. Ai ngờ ông ta lại bóp méo lời tôi ngay trước mặt vương gia."

    "Vậy tại sao cô lại tự ý chạy đến tìm Vương Tông Thực?" Lý Thư Bạch nhíu mày, chợt nghĩ đến một chuyện, giọng y cũng lạnh hẳn đi, "Cô không thể gặp được y, trừ phi nhờ Vương Uẩn dẫn tới."

    Môi Hoàng Tử Hà mấp máy, ngập ngừng hồi lâu vẫn không thốt nổi nên lời.

    "Cô không tin ta, hay là nghi ngờ năng lực của ta? Lý Thư Bạch ta còn cần một cô gái giúp đỡ hay sao?" Y lạnh lùng hỏi, giọng đầy vẻ giận dữ.

    Hoàng Tử Hà mím môi lắc đầu, rồi ngẩng lên nhìn y đăm đăm, giọng tuy khẽ khàng, nhưng cuối cùng vẫn phân bua rành rọt: "Tuy gia luôn dốc sức bảo vệ, không muốn tôi phải chịu gió táp mưa sa, nhưng tôi không thể giương mắt nhìn gia một mình gánh vác tất cả được. Tôi không muốn làm đóa hoa trên gấm trong đời gia, mà chỉ nguyện làm một gốc cây sánh vai bên gia, nếu gió mưa ập tới, cũng có thể che mưa gió cho nhau."

    Y chậm rãi lắc đầu: " Nhả bọt cứu nhau, sao bằng lưu lăng sông hồ mà quên nhau(1)."

    (1) Trích từ Nam Hoa kinh của Trang Tử, kể về hai con cá sống trong đầm nước, khi đầm cạn, hai con không ngừng phun nhớt làm ướt để giúp nhau sinh tồn, nhưng cuộc sống ấy chỉ kéo dài chút hơi tàn thoi thóp, sao bằng cả hai con cùng bơi ra sông lớn, thỏa chí vẫy vùng, con nào có đường con nấy, đôi bên không cần nhớ đến nhau. Ý nói không nên cố kéo dài một mối quan hệ ràng buộc nhau một cách khổ sở như thế, thà rằng buông tay mỗi người tìm một con đường riêng cho mình, không liên can đến nhau nữa, ai vui phận nấy.

    "Nhưng chỉ còn một mình tôi, đối diện với cả thế gian phồn hoa vô hạn mà không sao quên nổi gia, thì có nghĩa gì đâu." Cô ngước nhìn y, dịu giọng hỏi: "Lẽ nào gia không cho rằng, trước cục diện này, nhà họ Vương là đồng minh tốt nhất của chúng ta ư?"

    Dưới đôi mi dài của cô, cặp mắt sáng rực như sương sớm mùa xuân đăm đăm nhìn y không chớp. Nơi đáy mắt ấy là mênh mang bóng hình y. Lúc này đây, y chẳng cần hỏi cũng biết, trong mắt cô, y quan trọng hơn cả thế gian.


    Dường như, một sợi dây nào đó trong tim bỗng rung lên bần bật, y gần như không khống chế nổi đôi tay, chỉ muốn ôm chặt cô vào lòng, đời này kiếp này không bao giờ chia lìa nữa.

    Nhưng cô chỉ là một sợi khói trong gió, một bông tuyết giữa suối nước nóng, một đóa lan mong manh dễ tàn.

    Mong manh đến nỗi hễ chạm vào là tan mất.

    Những lời Vương Uẩn nói hôm đó lại văng vẳng bên tai y.

    "Vậy tiếp theo gia định thế nào? Có bao giờ gia nghĩ Hoàng Tử Hà ở bên cạnh mình sẽ gặp phải chuyện gì chăng? Gia cho rằng trong tình cảnh này vẫn có thể bảo vệ nàng bình yên vô sự hay sao? Đương nhiên vương gia tài ba xuất chúng, tính toán như thần, nhưng trước mệnh nhà vận nước, sinh mạng con người chỉ như cỏ rác, huống hồ là một thiếu nữ không nơi nương tựa. Có lúc chỉ sơ sẩy một ly, lại làm gãy cả bụi lan đấy." Đời này, y chưa từng bảo vệ một ai. Mấy năm nay phong ba bão táp, người bên cạnh tử thương vô số, y đã xem thường mọi thứ, nhưng giờ đây, những chuyện ám sát, hành thích, độc dược, cạm bẫy, nhiếp hồn....kia, đều có thể lần lượt ập xuống cô.

    Dù có vang danh thiên hạ, thông tuệ vô song, nhưng cũng chỉ là một thiếu nữ yếu ớt mười bảy tuổi đầu. Dù có muốn làm một gốc cây cành lá sum sê, thì cũng làm sao chống nổi sấm sét giáng xuống, lửa trời thiêu đốt?

    Cuối cùng, y đành ngoảnh mặt đi, tránh né đôi mắt trong veo như sương xuân của cô, đứng dậy ra cửa ngắm hàng tùng bách trước sân.

    Cả hai đều không nhận thấy tuyết bên ngoài đã lất phất bay. Sắc trời ám u, tuyết lông ngỗng lả tả rơi, rải đầy đất như ngọc vỡ.

    Nhìn mưa tuyết bay đầy trời, y bỗng trầm giọng nói: "Cô đi đi."

    Hoàng Tử Hà từ từ đứng dậy, hoảng hốt hỏi: "Gì cơ?"

    "Nếu cô vì ta mà cầu viện nhà họ Vương, thì dù giúp được ta, cũng có ý nghĩa gì đây? Cô tưởng là giúp ta, thực ra lại khiến ta trở thành trò cười cho người đời." Ánh mắt y dán chặt vào trận tuyết, nhìn cả khoảng sân phủ đầy tuyết trắng, "Ta phải gây áp lực với nhà họ Vương mới đổi được tự do cho cô, sao giời cô lại định chọc gậy bánh xe, phá hủy kế hoạch của ta?"

    "Nhưng theo tôi thấy thế lực chúng ta đang phải đối đầu quá mạnh, rất có thể còn mạnh hơn cả tưởng tượng của hai ta. Bởi thế, để cả hai có thể yên ổn rút lui, dù phải dùng đến những thủ đoạn gia khinh bỉ, dù phải đắc tội với nhà họ Vương, tôi cũng chấp nhận, hơn nữa, còn sẽ làm thật tốt!" Cô áp tay lên lồng ngực phập phồng vì kích động, ép mình điều hòa hơi thở, "Vì tôi tin rằng, đây là lựa chọn tốt nhất, không chỉ với gia và tôi, mà còn với cả nhà họ Vương. Dù dùng chút thủ đoạn, song chỉ cần đạt được mục đích, thì chẳng phải lựa chọn tốt nhất ư?"

    "Quân tử có việc làm được, có việc không làm được." Giọng Lý Thư Bạch trầm trầm mà xa cách, nghe còn có vẻ lạnh lùng, "Điều duy nhất ra muốn cô làm, là rời khỏi đây. Cô ở đây lại trở thành điểm yếu của ta."

    "Sao lại cho rằng tôi sẽ thành điểm yếu của gia? Chỉ cần gia bằng lòng, tôi cũng có thể theo gia rong ruổi, quyết không rớt lại sau nửa bước." Đoạn cô cắn môi, "Gia khỏi cần khích tôi, tôi sẽ không thành gánh nặng của gia đâu."

    Y thở hắt ra, thẫn thờ nhìn gió tuyết bên ngoài. Hiên nhà đã ngăn sương chắn tuyết, song không ngăn nổi hơi lạnh ùa vào.

    "Ta nói rồi đấy, cô đi đi." Y quay người bước đến trước bàn, trải một tờ giấy trắng ra, chặn thước ngọc lên, "Mùa đông ở Trường An khí hậu rất khắc nghiệt. Nhưng hiện giờ ở Nam Chiếu hoa vẫn nở khắp nơi, thời tiết ấm áp như mùa xuân. Quân đồn trú ở đó đều là người tin tưởng được, cô có thể cầm thư của ta và lệnh bài phủ Quỳ xuôi Nam thưởng hoa, đợi ta quay về."

    Hoàng Tử Hà không nói một lời, chỉ đẩy thước ngọc ra. Tờ giấy tức thì cuộn lại, khiến y không cách nào hạ bút.

    Lý Thư Bạch liếc cô rồi lẳng lặng dùng thước ngọc cán phẳng tờ giấy lần nữa, hờ hững khuyên: "Đất Thục cũng được, Giang Nam cũng được, thậm chí Lũng Hữu cũng được, cô thích chỗ nào?"

    "Đừng đuổi tôi đi." Cô chặn tay lên bàn, giọng run rẩy, "Tôi chỉ muốn ở cạnh gia thôi, như thế cả hai đều bình an."

    Y gác bút, nhìn thẳng vào cô: "Tử Hà, cô tưởng họ không biết cô là cách tốt nhất để tấn công ta ư? Giờ ta đuổi cô đi, là muốn tốt cho cô, cũng là tốt cho ta. Thế nên, cô nhất định phải đi, càng sớm càng tốt."

    "Không phá được vụ án Ngạc vương, tôi sẽ không đi." Cô lắc đầu nhìn y đầy kiên quyết, "Chỉ cần Vương Tông Thực cho phép tham gia vào vụ này, nhất định tôi sẽ phá được bí ẩn việc Ngạc vương biến mất, đồng thời giúp gia rửa sạch tiếng xấu, tiện thể tra xét nguồn cơn lá bùa và con cá nhỏ !"

    "Không được. Ta sẽ không để cô mạo hiểm đâu." Y thẳng thừng cắt đứt mọi khả năng của cô.

    "Tại sao? Đây là vì tôi hay vì lòng tự tôn nực cười của gia?" Thấy y khăng khăng không chịu, Hoàng Tử Hà cũng nổi nóng, vớ ngay thước ngọc trên bàn đập mạnh xuống cạnh tay y. Nào ngờ thước ngọc vừa mỏng vừa giòn, cô đập một cái đã gãy làm đôi. Nửa trên bắn ra, vỡ tan tành trên nền gạch, tiếng vỡ lanh canh vang vọng khắp phòng.

    Âm thanh chói tại này dường như cũng rạch một đường sắc lẹm vào cõi lòng cả hai. Lý Thư Bạch quăng bút lạnh lùng hỏi: "Lòng tự tôn nực cười ư?"

    "Không sai, chính cái gọi là tôn nghiêm của nam nhân ấy, khiến gia cảm thấy nếu được tôi giúp đỡ thì mất mặt. Gia trách móc tôi như thế, thì ích gì cho cục diện hiện giờ?" Hoàng Tử Hà thở gấp, gắng nén giận, nhưng cuối cùng vẫn không dằn nổi: "Lẽ nào gia không hiểu tôi chỉ muốn giúp gia một tay thôi ư?"

    Y cười nhạt: "Không cần cô làm gì cho ta cả. Nếu cô chịu ngoan ngoãn nghe lời ta, ngoan ngoãn ở lại Thục, ngoan ngoãn ở yên trong phủ, mới là giảm bớt gánh nặng cho ta đấy."

    Hoàng Tử Hà không tin, cũng không dám tin rằng y lại trút giận lên mình như vậy. Cô lắc đầu, từ từ lùi một bước, run run hỏi. "Ý gia là... tất cả đều là lỗi của tôi ư?"

    Mặt Hoàng Tử Hà tái nhợt, môi xám ngắt, chẳng biết là vì quá lạnh hay vì quá đau lòng. Tuy Lý Thư Bạch thông minh tuyệt thế, nhưng dù sao cũng không hiểu được tâm tình nhi nữ, càng chẳng biết phải trả lời như thế nào cho phải. Thấy cô như vậy, lòng y đau thắt, song vân cố nói cứng: "Tử Hà, người ta quý ở chỗ tự biết mình, đừng để ta phải hối tiếc vì đã quen biết cô."

    Gương mặt Hoàng Tử Hà thoáng nụ cười thê thảm, cô lẩm bẩm: "Ngay cả việc chúng ta quen biết, cũng thành lầm lỗi ư?"

    Lý Thư Bạch lắc đầu: "Cô thu xếp hành lý, đợi tuyết tạnh thì đến Nam Chiếu đi."

    "Được... Tôi sẽ rời khỏi gia." Cuối cùng cô ném lại một câu rồi đi thẳng ra cửa, xăm xăm băng qua cơn mưa tuyết tầm tã bên ngoài.

    Không hề ngoảnh lại, rảo bước xuyên qua đình viện, như đang bỏ chạy.

    Lý Thư Bạch ngẩng đầu nhìn theo bóng cô đạp tuyết bỏ đi, chỉ thấy lòng ngổn ngang trăm mối, cầm bút lên viết được hai chữ rồi không sao viết tiếp.

    Y thở dài, nhìn theo hướng cô đi. Dấu chân cô chẳng mấy chốc đã bị gió tuyết vùi lấp, ngay cả hàng tùng bách cũng chỉ thấy lờ mờ hình dạng, không sao thấy được sắc lá xanh bên dưới nữa. Cả khoảng sân chỉ còn một màu trắng mênh mang, trống trải mà lạnh lẽo, hệt như cõi lòng y vậy.

    Hoàng Tử Hà đi thẳng về phía cổng lớn.

    Mắt nóng bừng lên, nước mắt bên trong không sao kìm giữ, tuôn rơi lã chã.

    Gió lạnh thấu xương, song cô dường như không hề cảm nhận được, đi như chạy qua ba lớp cửa lớn, chín khúc hành lang.

    Cảnh vật trước mắt cô mờ đi trong gió tuyết. Trong đầu chỉ còn câu nói cuối cùng mình vừa ném lại, cô xăm xăm đi thẳng.

    Tuyết rất lớn, tiểu hoạn quan Lư Vân Trung ngồi trong phòng canh cổng, vừa sưởi ấm vừa bóc lạc, thấy cô đội tuyết từ hành lang đi ra thì giật bắn mình, lật đật đứng dậy kéo cô đến bên lò lửa, nhìn mặt cô tím tái vì lạnh, hắn giậm chân trách: "Chao ôi, không mặc áo lông thì cũng phải đội lấy cái nón chứ. Nếu cô nhiễm lạnh, chúng tôi phải ăn nói thế nào với gia!"

    Cô đờ đẫn cúi đầu đáp: "Không cần lo chuyện đó nữa đâu."

    "Hả?" Lư Vân Trung ngơ ngác nhìn cô.

    "Tôi có việc gấp, phải đi bây giờ." Cô nắm lấy sợi dây vàng xâu hai hạt đậu đỏ nơi cổ tay, định tháo ra. Nhưng rồi lại ngây người nhìn hai hạt đậu đỏ như máu dưới ánh lửa bập bùng, cuối cùng buông xuống, mặc cho chúng trượt dài trên cổ tay.

    Lư Vân Trung vội gặng: "Tuyết lớn thế này cô định đi đâu? Gọi xe ngựa đưa cô đi nhé?"

    Cô lắc đầu, thẫn thờ nhìn con đường phía trước: "Vương công công đi rồi ư?"

    "Vừa đi rồi, ngay trước cô một bước thôi. Lư Vân Trung nhìn vết bánh xe còn in trên tuyết đáp.

    Hoàng Tử Hà không hỏi thêm nữa mà đứng dậy chạy thẳng xuống thềm. Lư Vân Trung giật mình, ơi ới gọi với theo nhưng cô đã rảo chân chạy nhanh hơn, biến mất trong gió tuyết.

    Lư Vân Trung há hốc miệng, đờ người nhìn theo, rồi một cơn gió lạnh ập tới làm hắn run rẩy hắt xì hai cái, lật đật chạy lại bên lò lửa sưởi ấm.

    Trường An trắng xóa mênh mang.

    Hoàng Tử Hà đi giữa gió tuyết mịt mùng, lần theo dấu xe ngựa của Vương Tông Thực, khó nhọc lê bước khỏi phường Vĩnh Gia.

    Tuyết tuy lớn, nhưng dù sao Vương Tông Thực vẫn chưa đi xa, cỗ xe nhằm thẳng hướng Bắc, rồi mất dấu trước cửa chùa An Quốc phường Hưng Ninh.

    Chùa An Quốc vốn tên là Thanh Thiện, từ năm Hội Xương thứ sáu mới đổi tên, hồi nhỏ cô ở Trường An, những người già vẫn gọi theo tên cũ. Giờ tuyết lớn đường trơn, dễ làm ngựa trượt chân hoặc trượt bánh xe, chắc họ phải vào chùa tránh tuyết.

    Cô đến trước cổng chùa, chẳng buồn giũ tuyết đọng trên quần áo, ra sức đập cửa thật mạnh. Bên trong vang lên tiếng chân chạy rất nhanh, cô biết đó nhất định không phải sư sãi mà là Thần Sách quân hoặc Ngự Lâm quân-Vương Tông Thực và Vương Uẩn cùng đến, mỗi người dẫn theo một toán nhân mã.

    Tuyết bay mù mịt, lạnh lẽo thấu xương, Hoàng Tử Hà vốn mắc chứng thiếu máu, vừa rồi lại điên cuồng chạy trong tuyết, phải dựa vào cánh cửa mới đứng nổi. Chợt cô thấy trước mắt tối sầm, cả người mềm nhũn, hai chân không chống nổi thân mình nữa, từ từ trượt xuống theo cánh cửa, cuối cùng ngồi phệt trên mặt tuyết, ôm chặt lấy đầu gối. Tay phải cô nắm chặt cổ tay trái, lần tìm đến hai hạt đậu đỏ đang dính sát vào nhau trên sợi dây vàng.

    Nhẵn nhụi, ấm áp, kề cận bên nhau.

    Dù cô có lấy ngón tay tẽ ra, chúng vẫn ngoan cố trượt đến dính vào nhau, bất luận hạt kia ở đâu, chỉ cần kéo nhẹ, chúng sẽ trượt theo vòng dây, sát lại bên nhau, không sao chia lìa được.

    Vậy mà vừa rồi, cô lại nói với chính người đã tặng mình hai hạt đậu này rằng: tôi sẽ rời khỏi gia.

    Hoàng Tử Hà giơ tay bưng mặt, nước mắt tràn ra, đắng chát mà lạnh ngắt, tí tách nhỏ xuống đất. Cả người cô run lên, lạnh đến tím tái, chỉ biết yếu ớt co rúm lại, vòng đôi tay lạnh ngắt ôm lấy thân mình.

    Cổng lớn mở toang, trong tiếng bước chân, có một người đi đến, rồi một chiếc áo lông đen còn ấm sực bao bọc lấy thân hình run bần bật của cô. Một đôi tay ấm áp dày dặn nắm lấy bàn tay lạnh băng cứng đờ.

    Thình lình rơi vào vòng tay ấm áp, cô ngơ ngác ngẩng lên thì thấy Vương Uẩn đang cúi xuống, chìa ra một chiếc khăn lụa trắng muốt mềm mại.

    Y cởi áo ngoài choàng cho cô, chỉ mặc áo kép đen cổ tròn thêu hoa văn kỳ lân bằng chỉ bạc, mấy bông tuyết bám vào, càng tôn lên phong thái hào hoa như con cháu thế gia đời Tấn. Khóe môi cô mấp máy, cổ họng nghẹn ngào, gắng gượng mãi vẫn không thốt nổi một chữ. Bóng tối từ từ giăng mờ mắt khiến cô xây xẩm cả mặt mày, tóm lấy chiếc khăn trong tay y, lẩm bẩm: "Gia...Gia không tin tôi..." Vương Uẩn ôm chặt lấy cô hỏi khẽ: "Chuyện gì thế?" Trên gương mặt tái ngắt của cô là đôi mắt trống rỗng thẫn thờ, chẳng kịp nói thêm câu nào cô đã ngất lịm.

    Chút hơi tàn dồn góp trong ngực vừa tan đi, bóng tối tức thì nuốt chửng lấy cô.

    Đến khi tỉnh lại, cô đã nằm trong lòng Vương Uẩn.

    Y bế cô sải bước băng qua hành lang, vào phòng.

    Đây là thiền phòng được các nhà sư đón khách chuẩn bị sẵn, bài trí đơn giản, chỉ có một bàn thấp và một sập. Trong phòng đốt một lò lửa lớn, ấm trà đặt bên trên đang sôi sùng sục.

    Cả người cô rũ ra bải hoải, mặc cho Vương Uẩn đặt lên sập, kéo lò lửa lại gần rồi khơi lửa lớn lên. Thấy cô không nói không rằng, chỉ thẫn thờ nhìn mình, y bèn rót cho cô một ly trà nóng.

    Cô ghé lại gần lò lửa ấm áp, ủ ly trà nóng giữa hai tay, hơi ấm từ từ lan ra khắp người, bấy giờ mới thấy máu huyết trong mình tuôn chảy trở lại.

    Gió tuyết dữ dội tưởng chừng muốn chôn sống cô rõ ràng vẫn vần vũ bên ngoài, song lại như đã cách một đời.

    Bấy giờ cô mới nhận ra mình vẫn nắm chặt mảnh khăn lụa Vương Uẩn đưa. Cô từ từ giơ khăn lên bưng lấy mắt, mảnh khăn lụa còn vương hơi ấm của y ấm áp mà bao dung, tựa hồ y đã đem cả trời nắng xuân đến giữa cơn bão tuyết, dịu dàng bao phủ lấy cô. Cái lạnh cắt da đã đẩy lùi ra xa tít, còn y chính là vầng dương ấm áp xua tan băng giá, từ từ nhô lên trước mặt cô chói lòa.

    Y đỡ cô nằm xuống, kéo áo lông đắp cho cô rồi nói bằng giọng trầm ấm hiền hòa: "Ta theo Vương công công đến song bị chậm chân, phải nghỉ lại tránh gió tuyết, không ngờ cô cũng tìm đến đúng lúc này."


    Hoàng Tử Hà quay sang nhìn gương mặt tươi tắn của y, mấp máy môi định nói gì đó nhưng cổ họng nghẹn ứ, không sao thốt nên lời.

    Vương Uẩn dịu dàng nhìn cô: "Thời tiết thế này sao cô lại đi một mình bên ngoài? Cũng chẳng thèm mặc thêm áo nữa, suýt thì đông cứng cả người ra."

    Hoàng Tử Hà nín lặng cúi đầu. Sự ôn hòa của y đã chạm đến vết thương sâu nhất trong đáy lòng, khiến khóe mắt cô ươn ướt, nước mắt dâng lên làm nhạt nhòa tất cả.

    Cuối cùng cô khó nhọc nặn ra mấy tiếng rất khẽ, gần như thì thào: "Chúng tôi cãi vã vì hôn sự với Vương huynh... Giờ đây tôi... không về được nữa rồi."

    Y lẳng lặng rót thêm nửa ly trà đặt vào tay Hoàng Tử Hà, dịu dàng nhìn cô nói khẽ: "Lúc viết giấy từ hôn, ta từng nghĩ, trên đời có hai kiểu vợ chồng. Một là tình sâu duyên mỏng, dù quấn quýt yêu thương, nặng tình nặng nghĩa, rốt cuộc vẫn không thể bên nhau đến già. Giống như ta vậy, ta nguyện giữ hôn ước năm xưa, sống bên cô trọn đời, song cô đã đem lòng yêu thương người khác, không có duyên chắp cánh liền cành cùng ta... ta cũng chẳng biết làm sao hơn được."

    Nghe y nói đến câu "đem lòng yêu thương người khác", Hoàng Tử Hà lại thấy chua xót khôn nguôi, chẳng biết người mà y nói là ai nữa.

    Vận mệnh cũng như chuyện đời, đều không thể dự liệu. Cô từng xiêu lòng vì Vũ Tuyên, cũng từng xiêu lòng vì Lý Thư Bạch, chỉ riêng Vương Uẩn, người từng là chồng chưa cưới của cô, vốn dĩ là người duy nhất cô được phép yêu thương, lại vô duyên vô phận.

    Thấy cô cúi đầu lặng thinh, Vương Uẩn chậm rãi nói tiếp: "Còn một loại nữa, là tình mỏng duyên sâu. Ta đã chứng kiến rất nhiều bạn bè và người thân như vậy. Hai vợ chồng đồng sàng dị mộng, mỗi người ôm một nỗi niềm riêng, chẳng ai có tình cảm với ai, cuối cùng trở thành một đôi oan gia sống chung đến già, dù sống cùng giường chết cùng huyệt, cũng chẳng có ý nghĩa gì. Nếu cô gả cho ta, liệu có phải cũng vậy không?"

    Hoàng Tử Hà chỉ thấy lòng đau như cắt. Cô nghĩ miên man về câu hỏi của Vương Tông Thực về hôn ước với nhà họ Vương; rồi lại nghĩ đến câu nói cuối cùng của Lý Thư Bạch, cô sẽ trở thành gánh nặng của y.

    Thực ra, trong lòng cô hiểu rõ y đuổi cô đi là để khỏi bị liên lụy, để cục thế hung hiểm bên cạnh y khỏi ảnh hưởng đến cô.

    Thế nên cô càng phải rời khỏi y, dù y không tán thành, cô cũng phải làm theo ý mình, không được chùn bước.

    "Bởi vậy khi viết giấy từ hôn, ta đã ép mình từ bỏ cô, thà ta tình sâu duyên mỏng còn hơn để cô rơi vào cảnh tình mỏng duyên sâu. Song giờ đây, ta lại thấy hình như mình sai rồi... "

    Giọng Vương Uẩn vốn trầm thấp hiền hòa giờ lại run lên vì xúc động: "Tử Hà, ta trân trọng cô như vậy, thực không cam tâm nhìn cô bị người ta làm tổn thương hết lần này đến lần khác." Lời y run rẩy thì thào văng vẳng bên tai khiến nước mắt cô lại lăn dài.

    Cô thẫn thờ ngẩng lên, nhìn nam tử tuấn tú hào hoa nọ qua làn nước mắt. Y – con người luôn ôn hòa êm dịu như gió xuân – vốn đã định sẽ cùng cô nắm tay suốt kiếp. Song rốt cuộc sóng gió cuộc đời lại đẩy hai người bọn họ trôi về hai hướng, càng trôi càng xa. Nếu bỏ lỡ y, liệu cô có ân hận cả đời chăng?

    Giọng y vẫn êm đềm cất lên bên tai: "Giờ ta hối hận rồi. Ta nghĩ, thà cứ khăng khăng làm theo ý mình, giữ cô lại bên cạnh, ít ra cô cũng không phải đau đớn khổ sở, một thân một mình bôn ba ngoài trời mưa tuyết thế này."

    Nghe y nói vậy, Hoàng Tử Hà luống cuống lấy tay phải nắm chặt cổ tay trái, lần tìm sợi dây vàng cùng hai hạt đậu đỏ, siết chặt đôi hạt tương tư tròn mượt như châu, đỏ thắm như máu ấy, nước mắt lăn dài trên má.

    Y giơ tay lau đi nước mắt cho cô, hỏi khẽ: "Cho ta một cơ hội làm lại, trả lại tờ giấy từ hôn ấy cho ta, được không?"

    Cô ôm mặt, không dám ngẩng lên, không dám đối diện với ánh mắt chan chứa ân tình, cũng không dám lọt tai những lời êm đềm dịu ngọt, lòng thầm nguyền rủa chính mình: Hoàng Tử Hà, ngươi may mắn biết chừng nào mới được một người như thế yêu thương; vậy mà ngươi lại đê tiện tàn nhẫn đến mức toan nắm lấy thời cơ này hòng giành sự giúp đỡ của nhà họ Vương.

    Thấy cô mãi vùi mặt vào bàn tay, thân hình run lên, không nói không rằng, Vương Uẩn cũng chẳng tiện nói thêm, chỉ dịu dàng ôm lấy vai cô, để cô tựa vào vai mình.

    Lâu thật lâu, y mới nghe thấy một tiếng "ừm" rất khẽ, như chấp thuận, lại như nghẹn ngào.
     
  17. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 6 - Mưa tuyết phất phơ
    Hoàng Tử Hà vốn có thể lực tốt, nhưng lần này cũng không chống chọi nổi, đổ bệnh nặng.

    Dù cô và Vương Uẩn là vợ chồng chưa cưới thì đến ở nhà họ Vương cũng khó coi, huống hồ giờ hôn ước đã vô hiệu – giấy từ hôn cô vẫn để ở Thục, không thể trả lại cho y, song Vương Uẩn cũng không để tâm.

    Y sắp xếp cho cô ở một căn nhà tại phường Vĩnh Xương, người hầu kẻ hạ có vẻ rất dễ gần, hễ trông thấy cô là gật đầu cười, song chẳng nói năng gì.

    Thấy cô tỏ vẻ nghi hoặc, Vương Uẩn liền giải thích: "Đều là người câm điếc cả, cô không cần hỏi han họ làm gì."

    Cô gật đầu thầm nghĩ, liệu đây có thể là chỗ nào của nhà họ Vương?

    Ngự Lâm quân thường ngày đã bận bịu, sau khi Ngạc vương xảy ra chuyện, kinh thành giới nghiêm, họ càng phải canh giữ trong cung, thi thoảng Vương Uẩn ghé qua, cũng chỉ được một lát rồi vội vội vàng vàng đi ngay. Cô tĩnh dưỡng ở đó mãi tới khi trận tuyết nọ tan hết, trời ấm sực lên mới khỏi sợ gió e sương, có thể khoác áo dày ra ngoài đi dạo.

    Ra khỏi sân, đi về phía vườn hoa, cô thấy trên bức tường dọc hành lang dẫn ra khu vườn nhỏ có trổ rất nhiều chỗ lõm, trong đặt từng bình pha lê lớn, đổ đầy nước, nuôi đủ loại cá cảnh. Cô thong dong băng qua hành lang, bên trái là một gốc quế xanh biếc, bên phải là vô vàn con cá nhỏ đang bơi lượn trên tường, đành là đẹp, song cũng quái dị vô cùng.

    Cô bỗng hiểu ra đây là đâu – nhất định là căn nhà Vương Tông Thực đặt mua ban đầu.

    Còn đang ngây ra nhìn một con cá lẻ loi trong bình pha lê thì cô nghe thấy tiếng cười đằng sau: "Đẹp không?" Ngoái lại, Vương Uẩn đang đứng dưới ánh nắng nhạt, nhìn cô cười dịu dàng.

    Cô khẽ gật đầu với y, cũng mỉm cười.

    Thấy mặt cô vẫn tái, khí sắc còn kém, y bèn bước đến khép vạt áo choàng lại cho cô, cúi đầu dặn: "Ở đây gió lớn, tìm chỗ nào khuất gió sưởi nắng đi." Hoàng Tử Hà lặng lẽ gật đầu, theo y đi dọc hành lang. Rồi cô thuận miệng hỏi: "Đây là nhà của Vương công công ư?"

    Vương Uẩn gật đầu: "Giờ công công ở cung Kiến Bật, gần doanh trại Thần Sách quân, nơi này bỏ không, chính công công đã bảo ta đưa cô đến ở tạm đấy."

    Giọng cô vẫn nhẹ nhàng tự nhiên: "Chẳng hay Vương công công và Vương công tử quan hệ thế nào?"

    Vương Uẩn im lặng giây lát mới đáp: "Vương công công thuộc một chi nhà họ Vương, chi đó sau khi tách riêng ra, đã gần như chết hết trong chiến loạn. Ông ấy bị bắt làm tù binh, tịnh thân rồi được đưa vào cung làm hoạn quan, về sau được tiên đế tín nhiệm, cho cai quản Thần Sách quân."

    Họ Vương Lang Gia xưa nay thanh cao giữ lễ, mà Vương Tông Thực lại là hoạn quan, đương nhiên không tiện nhận tổ quy tông. Những năm gần đây, tuy nhân tài mai một, nhưng họ Vương vẫn giữ được một chiếu trong triều, ngoài Vương hoàng hậu ra, đương nhiên cũng có công của Vương Tông Thực. Chỉ là họ không nói, trong triều cũng chẳng ai biết hoạn quan quyền lực nhất hiện giờ lại là người họ Vương Lang Gia.

    "Đây là chuyện bí mật của nhà họ Vương, Vương công tử đâu nhất thiết phải tiết lộ với tôi."

    "Cô đã hỏi, hẳn phải biết chắc chắn ta sẽ nói." Vương Uẩn mỉm cười nhìn cô, ánh mắt đầy chiều chuộng và bao dung, "Huống hồ cô cũng là người nhà họ Vương, nên biết mới phải."

    Hoàng Tử Hà chột dạ, cắn môi khẽ quay đầu đi.

    Người hầu nhà họ Vương rất nhanh ý, đã bày sẵn ghế, đặt cả lò ấp tay bên tán kim ngân lượng cuối hành lang. Kim ngân lượng đã đơm quả, dãi tuyết dầm sương càng thêm diễm lệ, lá xanh quả đỏ điểm xuyết vài bông tuyết trắng, khiến mùa đông cũng xinh đẹp hẳn lên.

    Vương Uẩn dùng vải gấm bọc lò ấp tay bằng vàng lại, đặt vào lòng cô, dịu giọng dặn: "Cho tay vào ủ cho ấm, đừng để bị lạnh nữa." Cô gật đầu, ủ tay trong bọc gấm.

    Ánh dương ấm áp chiếu xuống người, phơi nắng lâu cô cũng thiu thiu buồn ngủ.

    Vương Uẩn ngồi bên cô nói chuyện vu vơ về hoa cỏ trong vườn. Lát sau, cô hỏi: "Hôm nay Vương công tử không phải đến điểm danh ư?"

    "Vương công công nói lát nữa sẽ đến thăm cô, ta lo cô một mình gặp ông ấy lại căng thẳng."

    Hoàng Tử Hà nhắm mắt ngả người ra ghế: "Đâu có, Vương công công rất ôn hòa."

    Vương Uẩn cười, thấy cô có vẻ mệt mỏi, bèn đứng dậy rủ: "Đi thôi, xem ông ấy đến chưa."

    Hai người vào nhà đợi một lúc thì thấy Vương Tông Thực được người hầu dẫn vào.

    Ánh mặt trời bên ngoài hắt lên thân mình y, sáng lên chói mắt, càng làm nổi bật vẻ nhợt nhạt lạnh lẽo, không vướng bụi trần đến gần như bệnh hoạn.

    Y bước vào, giơ tay ra ý bảo họ cứ ngồi tự nhiên rồi quay lại ra hiệu cho tiểu hoạn quan thanh tú đằng sau dâng đồ lên.

    "Nghe Uẩn Chi nói cô thích ăn bánh anh đào, ta bèn sai người làm một ít, nếm thử xem có vừa miệng không?" Vương Tông Thực thong dong nói, rồi tự tay lấy bánh ra đĩa, đưa tới trước mặt cô. Cử chỉ hết sức thân mật, song lại khiến người ta thấy lạnh cả người. Hoàng Tử Hà không dám nhìn vào mắt y, cúi đầu đáp: "Giờ đang là mùa đông mà công công cũng tìm được anh đào, đúng là không thể tưởng tượng nổi."

    Vương Uẩn cười nói: "Trồng bên suối nước nóng ở Ly Sơn đấy, dùng trướng sa đen và đèn nến để điều chỉnh đêm ngày, ấm áp như mùa xuân, nên anh đào ra hoa kết quả sớm. Bảo quản lại khó, phải dùng ngựa hỏa tốc đưa về đây, trừ số giập nát dọc đường, còn lại số ăn được cũng chẳng là bao."

    Hoàng Tử Hà kinh ngạc: "Thực quý hơn cả lệ chi của Dương quý phi năm xưa nữa."

    Vương Uẩn gật đầu: "Lệ chi ở Lư Châu đất Thục là ngon nhất, tháng Năm sang năm chúng ta tới đó một chuyến. Nghe nói khi lệ chi đơm quả cũng rất đẹp."

    ''Phải, lá xanh quả đỏ, như chuỗi ngọc rủ buông, khiến người ta không nỡ hái."

    ''Cô đến Lư Châu rồi ư?"

    Hoàng Tử Hà gật đầu đáp khẽ: ''Năm xưa có một vụ án xảy ra trong vườn lệ chi."

    Vương Tông Thực nghe hai người trò chuyện, cũng góp lời: ''Cho đến giờ Hoàng tiểu thư đã phá được bao nhiêu vụ rồi?" Cô nghĩ ngợi hồi lâu, cuối cùng lắc đầu đáp: ''Tôi không đếm nổi." Vương Tông Thực nheo mắt nhìn cô: ''Nhưng ta nghĩ, trong số các vụ án đó, trừ án nhà họ Hoàng khiến cô khắc cốt ghi tâm, e rằng còn một vụ nữa cũng có thể coi là nguy hiểm nhất."

    Hoàng Tử Hà trầm tư một thoáng rồi gật đầu: ''Vâng. Là vụ Quỳ vương phi mất tích."

    Nếu không phải vì đủ loại thế lực đan xen rối rắm, ràng buộc lẫn nhau, e rằng giờ cô đã chẳng còn trên đời này nữa.

    ''Không phải cô may mắn, mà là nhạy bén. Tuy không dấn sâu vào chính trường, song lại đánh hơi rất giỏi. Quan trọng nhất là, cô có một bản lĩnh mà cả Quỳ vương cũng không bì được, dù Quỳ vương chỉ liếc qua là nhớ đủ manh thứ manh mối rối rắm phức tạp, song cô lại có thể lần ngay ra điểm quan trọng nhất, truy cứu đến cùng, một đòn chắc thắng." Vương Tông Thực nói rất chậm, giọng vẫn lạnh băng, hờ hững mà lơ đãng, ''Khi nghe cha Uẩn Chi kể, cô đã vạch trần thế cục chúng ta sắp xếp mười mấy năm rồi lại bình yên rút lui, ta đã cảm thấy cô là nhân tài có thể dùng được. Không phải vì cô có tài phá an, mà vì khả năng cân đối, mượn sức các thế lực để làm việc. Cô dựa vào tình cảm vi diệu hoàng thượng dành cho Vương hoàng hậu để giữ thế cân bằng, còn mình đứng ở giữa cán cân, không tổn thương một sợi tóc. Về mặt này có lẽ là do Quỳ vương giúp đỡ, nhưng quan trọng nhất vẫn là sự tinh nhanh và nhạy bén bẩm sinh của cô, dù ta chừng này tuổi, cũng chẳng được như thế."

    Hoàng Tử Hà mím môi im lặng hồi lâu mới ngẩng lên cười gượng: ''Vương công công quá khen rồi. Thực ra bấy giờ người nhà tôi đã mất cả, lòng như tro tàn, nên không hề sợ chết, thả sức làm theo ý mình, nhắm mắt húc bừa cho xong, giữ được cái mạng hoàn toàn nhờ vào may mắn thôi."

    ''Trên quan trường, may mắn cũng là một dạng tài năng. Dù cô mạo phạm nhà họ Vương chúng ta, nhưng khi biết cô chính là Hoàng Tử Hà, vợ chưa cưới của Uẩn Chi, ta lại thấy họ Vương gặp được cô cũng là may mắn." Khóe môi thoáng nụ cười, Vương Tông Thực chậm rãi nói, ''Trước khi Uẩn Chi đến Thục, ta đã dặn kỹ, nếu không thể có được cô, thì phải trừ diệt đi..."

    Ánh mắt Vương Tông Thực hướng sang Vương Uẩn, y gật đầu ngập ngừng: ''Nhưng cuối cùng ta cũng chẳng thể đối địch với cô, càng không sao xuống tay hại cô được."

    Vô số hình ảnh trong quá khứ lướt qua ký ức Hoàng Tử Hà, nghĩ đến mọi việc khi trước, biết lời này của y là thực lòng, cô bất giác vừa xúc động vừa bi ai. Hồi lâu mới gượng gạo đáp: ''Tôi biết... từ xưa nay vẫn nhờ Vương công tử quan tâm nhiều."


    Vương Uẩn lắc đầu cười: “Sao lại khách sáo thế?” Ngừng một lát, y hỏi, “Cô còn muốn tham gia vụ Ngạc vương không?”

    Hoàng Tử Hà lặng lẽ cúi đầu: ''Trước đây Quỳ vương từng giúp tôi rửa oan cho người nhà, giờ tuy tôi thôi hầu hạ bên cạnh, nhưng vẫn mang ơn vương gia, nếu có cơ hội, tôi cũng nên dốc sức báo đáp."

    Vương Tông Thực cười nhạt.

    Vương Uẩn lại tiếp: "Việc này hoàng thượng giao cho Vương công công phụ trách, giờ cô phải tĩnh dưỡng cho tốt, đợi chừng nào khỏe lên thì giúp Vương công công một tay."

    Cô khẽ gật đầu, cúi xuống nhìn miếng bánh anh đào đỏ hồng trong suốt trên đĩa, tỏa ánh lung linh cùng hai hạt đậu đỏ nơi cổ tay mình, làm cô bất giác phải rụt tay lại, giấu chúng vào tay áo.

    Vô vàn khói mây mờ tối bảng lảng lan ngập lòng cô, niềm chua xót khiến cổ họng cô nghẹn lại, gần như không thể thở được.

    Vương Tông Thực lạnh lùng quan sát vẻ mặt cô rồi nhận xét: "Hoàng tiểu thư ở đây một mình, không khỏi quạnh quẽ, ta nghĩ các tiểu thư thường thích những thứ xinh xinh nên đã chuẩn bị riêng một món quà cho cô."

    Vương Tông Thực không hổ danh mê cá, tặng cho cô hai con cá nhỏ màu đỏ thả trong bình pha lê lăn tăn sóng gợn, đuôi dài như sa mỏng, ra là một đôi A Già Thập Niết.

    "Giống này khó sinh nở, người ta lại không biết thế nào để ấp trứng, nên được coi là của hiếm trên đời. May sao ta học được cách bí truyền từ một cao tăng Thiên Trúc, gây được một đàn." Nói rồi y đưa bình pha lê cho cô, còn dặn thêm, "A Già Thập Niết có ưu điểm là tuổi thọ rất dài, chỉ cần không rời khỏi nước, cho ăn đầy đủ thì có thể sống cả trăm năm. Cô cứ nuôi thoải mái, có điều trứng cá rất hiếm, cô lại không biết ấp nở, khi nào nó đẻ trứng thì báo cho ta, ta sẽ đến lấy về."

    Hoàng Tử Hà nhận lấy bình pha lê, đứng dậy tạ ơn rồi nói: "Công công quả là người mê cá."

    Vương Tông Thực nhìn đôi cá nhởn nhơ bơi trong bình, thong thả nói: "Ta chỉ mong kiếp sau mình được như lũ cá này, vô tri vô giác, không có ký ức, cứ thế sống trong vũng nước cạn suốt đời."

    Hoàng Tử Hà dù sao cũng còn trẻ, sức khỏe cũng tốt, dù nhiễm lạnh đổ bệnh, song chẳng bao lâu đã đỡ.

    Tuy được Vương Tông Thực tặng cho đôi cá, nhưng cô không mấy thích cá, càng không thể nghĩ tới việc cả ngày ngồi ru rú trong nhà ngắm cá. Vương Uẩn bận bịu luôn, đến thăm còn vội vội vàng vàng, không thể dắt cô ra ngoài đi dạo.

    Cũng may nhờ Vương Tông Thực có lời, cô có thể tra xét giấy tờ ở Tam Pháp Ty, nhưng lời khai của tất cả những người có mặt tại hiện trường đều khớp với những điều cô tận mắt chứng kiến đêm đó, chẳng tìm ra bất kỳ đột phá nào.

    Điểm an ủi duy nhất là, Tam Pháp Ty vẫn không dám làm khó đến Quỳ vương. Hiện tại y đã giao lại mọi công việc, đóng cửa không ra ngoài, cũng chẳng màng mấy chuyện ong ve, mà triều đình thì vẫn đang bàn tính, không biết phải xử lý thế nào, cục diện ở thế giằng co.

    Trên đường trở về, Hoàng Tử Hà cải trang nam men theo các con phố Trường An thân quen.

    Sắp đến cuối năm, chợ Đông chợ Tây chật ních người, lời đồn đại đã lan khắp kinh thành từ lâu, ngay cả không khí các phường cũng nặng nề theo, mọi người đều xôn xao bàn tán.

    Cô vào ngồi một quán trà, nghe thấy vô số người kể lại thảm kịch Quỳ vương ép chết Ngạc vương, có bản thêm mắm dặm muối, có bản vu vơ vô căn cứ, nhưng tất cả đều tán đồng một điểm: Quỳ vương đã bị Bàng Huân nhập xác, làm chao đảo xã tắc Lý Đường.

    Có người bí hiểm nói: "Theo tôi thấy, e rằng Quỳ vương bị ma xui quỷ khiến thực rồi, bằng không sao Ngạc vương phải liều đem cái chết để vạch trần Quỳ vương?"

    Cũng có kẻ giận dữ vặc lại: "Nhất định là Quỳ vương bị oan! Bấy nhiêu năm nay vương gia bôn ba từ Từ Châu đến Nam Chiếu, Lũng Hữu, chẳng phải đều là chinh chiến để bảo vệ thiên hạ Lý Đường đấy ư?"

    Lại có kẻ ra vẻ am hiểu: "Chuyện này còn có ẩn tình, song tôi không dám lắm lời, ngay trong triều đình cũng có ai dám hở ra đâu. Các vị có biết tâm điểm của trận phong ba lần này ở đâu không? Đương nhiên chính là ở chỗ Ngạc vương nhảy lầu rồi biến mất giữa không trung!"

    Đến đây cả đám xúm lại bàn cãi về bí ẩn cái chết của Ngạc vương, rốt cuộc là tiên đế hay là Thái Tổ hiển linh, thi thể tan rã hay là bay lên, Ngạc vương đã ghi danh sổ tiên hay thành Phật sống...

    Thấy đám đông cãi vã inh ỏi, bắt đầu xắn quần xắn áo chuẩn bị lao vào đánh nhau, Hoàng Tử Hà bèn gọi tính tiền rồi rời khỏi quán trà.

    Trời lạnh buốt, song người bán hàng Tết rất đông, chợ Tây cứ nườm nượp người đi kẻ đến. Cô hết đi lại dừng, lúc ngang qua tiệm bồi tranh nhà họ Dịch còn ngó vào trong, thấy ông lão bị Chu Tử Tần vẩy mực vào tranh đang gà gật, chẳng có gì lạ thường.

    Chắc hẳn ông lão đã sửa xong bức tranh nọ, cô nghĩ ngợi rồi đứng ngây ra ở cửa hồi lâu, lát sau lại chạnh lòng, chuyện đó thì liên quan gì đến mình? Lá bùa nọ cùng những khuyên tròn đỏ như máu lúc ẩn lúc hiện đều thuộc về Quỳ vương Lý Thư Bạch, chẳng còn can hệ gì đến cô cả.

    Nghĩ vậy, cô liền xoay xoay hai hạt đậu đỏ nơi cổ tay, lặng lẽ quay đầu toan đi.

    Nhưng vừa dợm bước, đã có người nhảy ra vỗ bộp vào vai: "Tìm được Sùng Cổ rồi!"

    Trời lạnh căm căm thế này còn hớn hở được như thế, dĩ nhiên chỉ có Chu Tử Tần.

    Hoàng Tử Hà cũng không tin nổi vào mắt mình: "Sao Tử Tần lại ở đây?" Trường An rộng lớn làm vậy, sao cô vừa ra ngoài một chuyến đã đụng ngay phải gã.

    Chu Tử Tần đắc ý cười đáp: "Đương nhiên là ta liệu sự như thần rồi! Mấy hôm trước ta đến vương phủ tìm thì nghe nói cô đã bỏ đi, nhất thời ta chẳng biết phải đi đâu để tìm. Về sau nghĩ lại, không chừng cô sẽ tới xem bức họa Triển Tử Kiền có khôi phục được hay không, nên ta cứ ở đây đợi suốt mấy ngày, chán chết đi được, may mà cuối cùng cũng tóm được cô!"

    Hoàng Tử Hà nhăn nhó cười: "Trùng hợp thật đấy." Thực ra cô chỉ tình cờ đi đến đây thôi.

    Chu Tử Tần còn đang ngây ngất tự phục mình liệu sự như thần, Hoàng Tử Hà bèn hỏi: "Bức tranh ấy sửa xong rồi chứ?"

    "Xong rồi, mấy hôm trước người phủ Chiêu vương đến lấy, ta đứng bên xem, đúng là không còn mảy may dấu vết, sạch tinh như mới."

    "Mất bao lâu?"

    "Khoảng ba bốn ngày...Chiều hôm thứ tư ta trông thấy lão Dịch lấy nó ra."

    "Ừm..." Cô ậm ừ rồi quay người đi tiếp.

    Mất ba bốn ngày thì không thể có kẻ nào dám lấy đi lá bùa trước mũi Quỳ vương, mạo hiểm chừng ấy thời gian thay đổi khuyên tròn trên lá bùa.

    Không xa phía trước là tiệm nhang đèn nhà họ Lữ.

    Cô ngẩng đầu nhìn, chợt trông thấy một bóng người quen thuộc đứng dưới gốc cây đối diện cửa tiệm.

    Tích Thúy.

    Nàng đội một chiếc mạng che mặt, len lén nhìn vào trong rồi quay người nép tường, chậm rãi bỏ đi.

    Hoàng Tử Hà sực nhớ ra lần trước mình cũng từng trông thấy Tích Thúy ở đây. Bấy giờ cứ ngỡ hoa mắt nhìn lầm người. Song giờ đây, cô có thể khẳng định, dù người nọ đã đeo mạng che mặt, nhưng dáng dấp ấy rõ ràng là Tích Thúy.

    Chu Tử Tần trợn tròn mắt, ghé tai cô hỏi nhỏ: "Sùng Cổ thấy...bóng lưng cô gái kia có phải hơi giống..." Chưa nói dứt câu, Hoàng Tử Hà đã rảo bước đuổi theo.

    Tích Thúy cũng biết che giấu hành tung nên đi thoăn thoắt, lại chỉ nhằm vào ngõ nhỏ. Lúc đến một con ngõ vắng, Hoàng Tử Hà từ đầu ngõ thấy Tích Thúy đang ở giữa ngõ, bèn cất tiếng gọi nhỏ: "Lữ cô nương."

    Tích Thúy nghe gọi thì run bắn lên, guồng chân chạy như bay về phía cuối ngõ.

    Hoàng Tử Hà hớt hãi đuổi theo, gọi với: "Cô đừng sợ, tôi là...là Dương Sùng Cổ, tiểu hoạn quan phủ Quỳ đây mà, cô còn nhớ tôi không?"

    Chu Tử Tần cũng gọi toáng lên: "Đúng đấy, ta là Chu Tử Tần! Bạn thân của Trương nhị ca, cô đừng sợ!"

    Rõ ràng Tích Thúy đã nghe thấy, song chỉ hơi khựng lại, rồi vẫn cuống cuồng chạy.

    Hoàng Tử Hà vừa khỏi bệnh, đuổi được một quãng đã thở hổn hển, ngực đau thắt, đành chống tường dừng lại.

    Chu Tử Tần định đuổi tiếp, song thấy cô ôm ngực thở dốc, mặt tái ngắt, đành lo lắng dừng lại hỏi han.

    Tích Thúy đã chạy đến cuối ngõ, thấy họ dừng lại cũng chạy chậm hẳn, ngoái đầu nhìn. Xem chừng hai người không đuổi theo nữa, nàng thoáng lưỡng lự, ngồi xuống nhặt một cành cây dưới đất, vạch gì đó lên tường, rồi chạy tiếp.

    Hoàng Tử Hà gọi "Lữ cô nương" đến hết hơi, nhưng Tích Thúy không ngoái lại lần nào nữa.


    Hoàng Tử Hà dựa vào tường, thở dốc hồi lâu, đoạn vịn tường lần từng bước đi đến.

    Chu Tử Tần đã chạy đến khoảng tường có hình vẽ của Tích Thúy quan sát từ nãy. Cô từ từ đi đến cuối ngõ, nhìn lên tường.

    Trên bức tường trát bùn vàng, có một ký hiệu màu trắng do cành cây vạch nên.

    Là một chữ "bắc" 北. Góc dưới bên trái còn một hình ˪, bao lấy bên trái và dưới chữ bắc, để trống phần trên và bên phải.

    "Chữ bắc bị bao một nửa là ý gì?" Chu Tử Tần gãi đầu thắc mắc.

    Hoàng Tử Hà quan sát, rồi nhặt một cành cây lên gạch xóa đi, gần như cạo tróc cả mảng bùn vàng, không còn nhìn ra ký hiệu ban đầu nữa.

    Chu Tử Tần ngoái lại hỏi: "Sùng Cổ biết rồi ư?"

    Cô thản nhiên đáp: "Tích Thúy xuất thân trong gia đình bình dân, đáng lẽ không biết nhiều chữ."

    Chu Tử Tần ngơ ngác: "Không biết ư? Nhưng... nhưng chẳng phải vừa rồi cô ấy viết chữ 'bắc' ư?"

    Hoàng Tử Hà xăm xăm đi thẳng, như không nghe thấy gã hỏi.

    Chu Tử Tần cuống quýt đuổi theo, tóm lấy tay áo cô: "Bất kể cô ấy có ý gì, chúng ta cũng phải mau mau đi báo với nhà họ Trương! Đi thôi, đi thôi!"

    Hoàng Tử Hà liếc gã: "Có cần báo không?"

    "Sao có thể không báo chứ! Trương nhị ca đi tìm cô ấy đến sắp phát điên, nếu chúng ta không báo thì còn xứng làm bạn bè ư? Không được! Dù không phải bạn bè, chỉ là người qua đường cũng nên báo cho huynh ấy mới phải!"

    Thấy gã nôn nóng đến độ suýt nhảy dựng lên, Hoàng Tử Hà đành đáp: "Thôi được, đi nào."

    Trương Hàng Anh hôm nay ở nhà.

    Vừa mở cổng, trông thấy bọn họ, gã đã mừng rỡ vừa kinh ngạc, hỏi ngay: "Sao Hoàng tiểu thư lại đến tìm tôi? Cô...sao cô không về vương phủ?"

    "À...gần đây tôi bận chút việc." Cô đáp quấy quá cho xong, "Còn huynh, sao hôm nay không ở cạnh vương gia?"

    "Vương gia gần đây ở suốt trong phủ, đã ban lệnh xuống cho phép những kẻ hầu kẻ hạ nếu ai có nhà trong kinh có thể thỉnh thoảng về thăm."

    "Ừm." Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần theo gã vào sân, thấy mảnh sân được quét tước đâu ra đấy, ao nước vẫn gợn sóng lăn tăn, bèn nói lảng đi, "Người nhà huynh thu dọn gọn gàng thật đấy."

    Trương Hàng Anh thuận miệng đáp: "Nhà cửa quét dọn gọn gàng vẫn hơn."

    Hoàng Tử Hà lại hỏi: "Cha huynh không được khỏe, vợ chồng Trương đại ca lại bận việc ở tiệm nhang đèn, một mình huynh quét dọn ư?"

    Trương Hàng Anh há hốc miệng, lúng búng đáp: "Phải, phải..." Hoàng Tử Hà nhìn vào trong hỏi nhỏ: "Cha huynh vẫn ổn chứ?"

    "Ổn, nhưng không sao khỏi hẳn được, tĩnh dưỡng lâu như thế, chắc sắp khỏe lên rồi. Mặt Trương Hàng Anh cuối cùng cũng tươi lên.


    "Vậy thì tốt, người già phải chăm sóc cẩn thận mới được." Hoàng Tử Hà ngồi xuống dưới giàn nho rụng hết lá, chỉ còn vài sợi dây leo vấn vít quấn lấy nhau trên giàn trúc.

    Chu Tử Tần kéo tay Trương Hàng Anh nói nhỏ: "Huynh biết không? Vừa rồi ở chợ Tây, ta đã thấy A Địch đấy."

    Trương Hàng Anh kinh ngạc ngẩn ra hồi lâu mới hớt hải chạy ra khép cổng lại, lắp bắp hỏi: "Hoàng tiểu thư và công tử...trông thấy A Địch ư?"

    Chu Tử Tần gật đầu thật mạnh: "Có lẽ cô ấy sợ bị chúng tôi tiết lộ hành tung nên vừa nhác thấy là chạy."

    Trương Hàng Anh líu cả lưỡi, hồi lâu mới từ từ ngồi xuống hỏi khẽ: "Thế nên các vị...các vị cũng không biết cô ấy ở đâu ư?"

    "Chắc cô ấy ở Trường An thôi, tôi đã bắt gặp ở chợ Tây hai lần rồi." Hoàng Tử Hà nói.

    Trương Hàng Anh hấp tấp: "Vậy để tôi, để tôi đi tìm."

    Chu Tử Tần vội ngăn: "Hoàng thượng vẫn muốn trị tội cô ấy, huynh phải cẩn thận đấy. Giờ Quỳ vương muốn che chở huynh cũng không che nổi đâu."

    Mặt Trương Hàng Anh đờ ra, chỉ gật đầu lia lịa: "Tôi biết, để tôi đi tìm cô ấy..."

    Đi từ nhà họ Trương ra, Hoàng Tử Hà từ biệt Chu Tử Tần ở ngã tư.

    Chu Tử Tần vội hỏi: "Giờ Sùng Cổ ở đâu? Ta phải đến đâu mới tìm được Sùng Cổ?"

    Hoàng Tử Hà nghĩ ngợi một thoáng, cuối cùng vẫn thành thật đáp: "Tôi ở một gian nhà Vương Uẩn tìm cho, tại phường Vĩnh Xương."

    "Vương Uẩn ư?" Chu Tử Tần chớp chớp mắt rồi thở phào, vẻ mừng rỡ, "Sùng Cổ xem, ta đã biết Vương Uẩn sẽ không hối hôn mà. Nói cho cùng hai người vẫn là vợ chồng chưa cưới."

    Hoàng Tử Hà cười gượng, đành gật đầu cho qua: "Có việc cứ đến tìm tôi, nhà họ Vương bên cạnh giếng nước thứ tư trong phường."

    Sau khi cáo biệt Chu Tử Tần, cô một mình về phường Vĩnh Xương, nhưng đến cổng phường lại do dự rồi đi vòng qua, nhằm thẳng hướng cung Đại Minh.

    Vương Uẩn hôm nay đang ở cổng cung Đại Minh, sau khi đi tuần một vòng, chuẩn bị quay về doanh trại thì thấy Hoàng Tử Hà đến, bèn xuống ngựa bước tới tươi cười đón cô: "Hôm nay cô tươi tỉnh ra nhiều đấy, đi dạo Trường An vui chứ? Lần sau nhớ phải đem người hầu theo."

    "Có các vị trông coi, đương nhiên Trường An sẽ bình an, cần gì phải đem theo người?"

    Thấy sau lưng có người ló đầu ra dòm ngó, Vương Uẩn bèn ra hiệu cho cô cùng mình tránh sang một bên rồi hỏi: "Sao thế?"

    Cô ngạc nhiên: "Sao Vương công tử biết tôi có việc cần tìm?"

    "Nếu không vì việc gì, cô đâu có chủ động đến tìm ta." Ánh mắt y thoáng vẻ buồn bã, nhưng ngay sau đó lại cười lên, "Nào, nói ta nghe thử."

    Trước nụ cười của y, Hoàng Tử Hà bất giác sinh lòng áy náy. Nhưng ngay sau đó, cô cắn môi hỏi: "Hoàng thượng gần đây...có chỉ dụ gì về vụ án Đồng Xương công chúa nữa không?"

    Vương Uẩn ngẫm nghĩ: "Từ sau khi thi hài Đồng Xương công chúa được đưa vào lăng mộ, trong triều không ai dám nhắc đến chuyện này, e làm thánh thượng buồn lòng. Có lẽ thánh thượng đã nguôi ngoai đôi phần rồi."

    "Ừm..." Hoàng Tử Hà trầm tư hỏi: "Vậy thánh thượng có nhắc nhỏm gì tới con gái của hung thủ không?"

    "Cái đó thì không. Nhưng đã có chỉ, quan lại vẫn phải để tâm tới việc truy bắt."

    Hoàng Tử Hà lặng lẽ gật đầu. Nhìn thái độ của cô, Vương Uẩn hạ giọng hỏi: "Cô gặp Lữ Tích Thúy rồi ư?"

    "Còn chưa dám khẳng định. Nhưng nếu Vương công tử tuần tra trên đường, có thể để ý giúp tôi không?"

    "Được." Y đáp ngắn gọn, không chút lưỡng lự.

    Hoàng Tử Hà cảm kích nhìn y, nói khẽ: "Đa tạ công tử."

    "Sao cô khách sáo thế?" Y cúi đầu nhìn cô, ánh mắt đầy ý cười.

    Hoàng Tử Hà chợt thấy lòng xao xuyến, đành cúi đầu từ biệt rồi lặng lẽ quay đi.

    Có lúc sự đời cứ trêu ngươi như thế. Hoàng Tử Hà bắt gặp Tích Thúy hai lần trước tiệm nhang đèn, nhưng Chu Tử Tần, Trương Hàng Anh và Vương Uẩn, ba người ở trong kinh, lại không sao tìm thấy tung tích nàng.

    "Vậy đừng tìm nữa nhé, tìm được cũng chưa chắc đã là chuyện tốt, có khi còn thêm phiền phức." Mấy hôm sau Vương Uẩn tới thăm, bảo cô như vậy.

    Hoàng Tử Hà gật đầu, lại thấy nước đọng trên tóc mai y, bèn hỏi: "Bên ngoài đổ mưa ư?"

    "Mấy bông tuyết tan bám vào tóc ấy mà." Y lơ đãng phủi đi.

    Hoàng Tử Hà nhìn những bông tuyết vụn như có như không bên ngoài, khơi cho lò lửa to hơn rồi hỏi: "Thời tiết thế này, việc gì phải đến tận đây tìm tôi để nói chuyện đó?"

    "Vì muốn gặp cô đấy thôi." Y cười, chăm chú nhìn cô hồi lâu rồi dịu giọng nói thêm, "E cô cả ngày buồn chán."

    Trước cái nhìn đăm đắm của y, Hoàng Tử Hà hơi lúng túng, đành đưa mắt nhìn sang đôi A Già Thập Niết trong bình pha lê cạnh đó: "Không sao, thỉnh thoảng tôi lại ngồi ngắm đôi cá Vương công công tặng."

    "Không phải cô nhàn rỗi cả ngày chỉ cho cá ăn đấy chứ? Để ta xem lớn lên được tí nào chưa?" Y cười nói, giơ bình pha lê lên ngang mắt ngắm nhìn rồi lại quay sang cô, "Gay thật, cả cá lẫn người đều gầy nhom thế này, có phải vì trời suốt ngày đổ tuyết không?"

    Hoàng Tử Hà phì cười: "Tuyết phải kêu oan, oan quá oan quá, từ bao giờ mà cá béo cá gầy cũng đổ cho tôi?"

    Vương Uẩn tươi cười nhìn đôi cá nhỏ, rồi nhìn sang cô, ngắm gương mặt chưa tắt nụ cười, đôi mắt lấp lánh như sao, hàng mi cong vút, khóe môi tươi tắn, lòng bất giác lại thấy ngọt ngào.

    Cuối cùng y nhẹ tay đặt bình cá xuống bàn, khẽ gọi: "Tử Hà..."

    Hoàng Tử Hà nhướng mày nhìn y.

    Phút giây ấy, bỗng quên khuấy chẳng biết mình định nói gì với cô, dường như chỉ muốn gọi tên cô một lần, dường như chỉ muốn nhìn ánh mắt cô hướng sang mình mà thôi.

    Thật lâu, y mới ngượng nghịu đáp: "Thực ra, ta không phải đến vì việc Lữ Tích Thúy."

    "Ồ?" Hoàng Tử Hà ngạc nhiên.

    "Hoàng hậu muốn gặp cô."

    Hoàng Tử Hà kinh ngạc hỏi lại: "Hoàng hậu nương nương muốn gặp tôi ư? Có việc gì căn dặn sao?"

    "Chuyện đó thì ta không biết. Trường Linh nữ quan chỉ đến báo rằng hoàng hậu bảo ta dẫn cô vào bái kiến."

    Trong cơn mưa tuyết lay phay, Hoàng Tử Hà theo cung nữ bước lên thềm gác Bồng Lai cung Đại Minh.

    Vương hoàng hậu ngồi trước tấm bình phong chạm lầu ngọc núi tiên, vận bộ váy tía pha chỉ vàng, như ráng chiều lộng lẫy chói mắt. Khắp thiên hạ này, cũng chỉ có hoàng hậu mới kết hợp được hai màu đỏ tía và vàng kim huy hoàng như vậy thôi.

    Sau khi cho tất cả lui ra, gian điện thênh thang chỉ còn hai người họ, khó tránh khỏi trống trải quạnh quẽ. Hoàng Tử Hà nhìn làn khói lững lờ bay lên từ lò hương sơn son thếp vàng, khiến cả gian điện mờ mịt mơ hồ, ngay dung mạo Vương hoàng hậu cũng như khuất dưới làn mây, không sao trông rõ được nét mặt.

    Chỉ nghe thấy giọng hoàng hậu bình thản mà vô tình: "Chúc mừng ngươi rửa sạch oan khiên, báo thù cho người nhà."

    Hoàng Tử Hà cúi đầu: "Đa tạ nương nương hạ cố."

    Hoàng hậu vẫn bình thản, chậm rãi hỏi tiếp: "Nghe nói lần này ngươi về Thục, còn phá được vụ án một nghệ nhân ở Dương Châu?"

    Hoàng Tử Hà thản nhiên đáp: "Bẩm vâng. Có một nghệ nhân dựng vở ở Vân Thiều Uyển Dương Châu, tên Phó Tân Nguyễn, sau khi đến Thục thì bỏ mạng dưới tay tình nhân là Tề Đằng. Chị em của cô ta là Công Tôn Diên và Ân Lộ Y đã lập mưu giết chết Tề Đằng báo thù. May sao có Lan Đại thu xếp từ bên trong, cuối cùng họ cũng giữ được tính mạng, chỉ bị đày đến Tây Cương mà thôi."

    "Thực đáng tiếc...người ta chị em nghĩa nặng, vốn dĩ sau khi báo thù sẽ lại sống yên vui như thường, sao ngươi tự dưng đi khuấy vũng nước đục ấy lên?" Giọng Vương hoàng hậu thoáng vẻ thê lương.

    Hoàng Tử Hà cúi đầu, song eo lưng thon thả vẫn thẳng như quản bút, bình thản đáp: "Pháp lý nhân tình, pháp trước, sau mới đến tình. Nếu có oan uổng, nha môn sẽ xử lý, sao lại tự ý ra tay được?"

    Vương hoàng hậu nhìn cô chằm chằm, hồi lâu mới thong dong đứng dậy, bước xuống sập trầm hương, đến trước mặt Hoàng Tử Hà rồi dừng lại nhìn xoáy vào cô. Hoàng Tử Hà cứ ngỡ sẽ bị khiển trách, ngờ đâu hoàng hậu chỉ cười khẽ: "Vậy cũng phải gặp người như ngươi, mới có thể trả lại sự trong sạch cho người ta được. Nếu lần này ngươi không đến Thục, ngươi tưởng sẽ có người rửa oan cho Phó Tân Nguyễn hay sao? Cả vụ án của Công Tôn Diên và Ân Lộ Y nữa, ai mà phá được?"

    "Lưới trời lồng lộng, ắt có công đạo."

    "Có lúc ta cảm thấy, nếu ngươi không xuất hiện, rất nhiều chuyện có lẽ sẽ tốt hơn." Vương hoàng hậu dạo quanh cô một vòng, rồi lại chậm rãi nói, "Nhưng cũng có lúc, nếu không có ngươi, có những việc sẽ không bao giờ bộc lộ chân tướng. Ngay cả ta- cũng có lúc cần chân tướng."

    Hoàng Tử Hà dập đầu vái lạy hoàng hậu, lặng thinh đợi bà ta nói tiếp.

    Vương hoàng hậu nhìn chằm chằm vào cô nói thật chậm: "Ít nhất ngươi cũng đã giúp ta thu nhặt đầu lâu, để con bé đáng thương ấy được toàn thây."

    Giọng Vương hoàng hậu hơi run rẩy. Cô ngước lên, thoáng trông thấy đôi mắt u buồn của hoàng hậu loang loáng nước, nhưng đặt trên gương mặt bình thản, lại khiến cô cứ ngỡ vừa rồi chỉ là ảo giác.

    Chẳng đợi cô kịp trông rõ, Vương hoàng hậu đã quay mặt đi: "Lại nói, ngươi giỏi nhất là phá giải những chuyện ly kỳ không có manh mối, mà sự việc kỳ quái chấn động nhất kinh thành hiện giờ, là Ngạc vương tự vẫn."

    Hoàng Tử Hà gật đầu: "Vâng...Điểm quái dị trong chuyện này khiến người ta khó mà suy đoán được."


    "Tuy người trong kinh bàn tán xôn xao, nhưng ta nghĩ, trừ Ngạc Vương ra, có lẽ chỉ mình ngươi mới lần ra được chân tướng bên trong thôi. Dù sao Vương công công cũng đã nhận lấy củ khoai phỏng tay này, ắt sẽ phải có câu trả lời cho hoàng thượng." Nói rồi, Vương hoàng hậu lại thong dong đi sang bên cạnh. Hoàng Tử Hà còn đương phân vân chưa hiểu hoàng hậu có ý gì, thấy bà ta lẳng lặng đi thẳng, thì cũng lật đật đi theo.

    Ra khỏi cửa sau gác Bồng Lai, trước mặt là một con đường quanh co hẹp mà dài. Trường Linh đã đứng đợi sẵn, trao cho cô một chiếc ô, đồng thời xòe một chiếc nữa ra che cho Vương hoàng hậu.

    Vương hoàng hậu chẳng buồn nhìn Hoàng Tử Hà, thản nhiên nhấc gấu váy đi tiếp. Thấy chân hoàng hậu xỏ đôi ủng ánh bạc, Hoàng Tử Hà biết hoàng hậu đã chuẩn bị từ trước. May mà hôm nay vào cung, cô cũng đi một đôi ủng thấp, không sợ lội mưa.

    Dọc con đường lát đá xanh, thi thoảng lại thấy vài chiếc lá vàng. Vườn ngự mưa tuyết tơi bời, giá rét cùng hơi nước khiến tất cả chỉ muốn trốn trong nhà, trên đường vắng hoe không một bóng người. Hoàng Tử Hà cắm cúi theo sau Vương hoàng hậu, cho tới khi thấy hoàng hậu bước lên thềm, cô ngẩng lên mới thấy cung điện nguy nga sừng sững ngay trước mặt, ra là điện Tử Thần. Trong triều thường nói muốn ra vào điện Tử Thần phải băng qua cửa gác Đông hoặc gác Tây ở hai bên điện Tuyên Chính, nên mới gọi là "vào gác", ai ngờ phía sau điện Bồng Lai còn một lối đi bí mật thông thẳng sang thế này.

    Vương hoàng hậu dẫn Hoàng Tử Hà bước vào trong, Trường Linh khép ô, dừng chân ngoài cửa. Từ đầu đến cuối Vương hoàng hậu không hề nhìn Hoàng Tử Hà, xăm xăm đi thẳng vào một khung cửa nhỏ. Hoàng Tử Hà theo vào mới thấy đây là một phòng ngăn bốn bề chạm hoa, bài trí rất đơn sơ, chỉ có một chiếc sập nhỏ, trước sập bày một bàn thấp, bên trên đặt bút nghiên giấy mực.

    Vương hoàng hậu ngồi xuống, ngã người tựa vào thành sập.

    Thấy trong phòng không còn gì khác, Hoàng Tử Hà đành lặng lẽ đứng một bên, Vương hoàng hậu không nói gì, cô cũng lặng thinh.

    Chợt nghe tiếng chân khe khẽ, rồi giọng Từ Phùng Hàn cất lên: "Tâu bệ hạ, Quỳ vương đến rồi."

    Tiếng y rất gần, như ở ngay bên tai vậy. Hoàng Tử Hà giật thót mình, quay đầu nhìn quanh, nhận ra tiếng động vọng từ phòng bên cạnh sang.

    Giọng hoàng đế cũng từ bên cạnh đưa sang: "Cho vào."

    Cô rón rén đi đến trước bức tường chạm hoa, phát hiện giữa hai lớp hoa văn chạm trổ có lót một lớp gấm dày không lọt sáng. Gian phòng ngăn này cách chính điện của hoàng đế hai lớp hoa văn và một lớp gấm, chẳng trách nghe rõ mồn một động tĩnh bên kia.

    Hoàng Tử Hà thầm nhủ, mọi người đều nói hoàng đế nhu nhược, lại đau ốm luôn, nhiều việc trong triều đều do Vương hoàng hậu quyết định, xem ra ngài ngự đã gợi ý cho hoàng hậu đến đây nghe việc chính sự. Chỉ là sau khi bị biếm đến cung Thái Cực rồi quay trở lại, chắc hoàng đế cũng sinh lòng nghi ngờ hoàng hậu, căn phòng này hẳn ít là dùng tới.

    Đang miên man nghĩ ngợi, cô chợt nghe thấy bên ngoài vang lên một giọng không thể quen hơn, sang sảng mà rành rọt: "Thần đệ tham kiến bệ hạ." Đã lâu không gặp, đột nhiên nghe thấy tiếng y, cô sững cả người ra, tưởng như đã cách một đời.

    Vương hoàng hậu liếc cô, nửa cười nửa không rồi nhắm nghiền mắt lại dưỡng thần.

    Chỉ nghe giọng hoàng đế và Quỳ vương rõ mồn một, dù sao hai người cũng là anh em, sau một hồi chuyện gẫu việc nhà, hoàng đế mới vào đề: "Chuyện Thất đệ...giờ đã có manh mối gì chưa?"

    Lý Thư Bạch ngập ngừng một thoáng mới đáp: "Bệ hại sai Vương Tông Thực điều tra vụ này, y cũng đã tới hỏi han đệ. Nhưng thần đệ thực không biết gì cả, nên chẳng cung cấp được manh mối nào hữu dụng."

    "Ừm..." Hoàng đế trầm ngâm giây lát, đoạn hỏi: "Giờ tin đồn đã lan khắp trong kinh, cực kỳ bất lợi cho đệ, chẳng biết Vương Tông Thực có cách nào giải quyết không?"

    "Vương công công khuyên đệ giao binh mã hai quân Thần Vũ, Thần Uy ra để bịt miệng thiên hạ."

    Y vừa buông ra câu này, hoàng đế liền im lặng, bầu không khí cũng gượng gạo hẳn.

    Lòng bàn tay Hoàng Tử Hà dâm dấp mồ hôi, cô tựa đầu lên vách tường chạm hoa thầm nghĩ, việc này đương nhiên là ý của hoàng đế, song giờ Lý Thư Bạch lại đổ cho Vương Tông Thực tự tiện bày ra, chẳng biết ngài ngự có nhân cớ này tỏ rõ ý mình không, cũng không rõ hôm nay Quỳ vương đã có cách nào rút lui an toàn hay chưa nữa?

    Nhưng ngay sau đó, cô lại nghĩ Lý Thư Bạch là người suy nghĩ kín kẽ, tính toán cẩn thận, việc gì phải lo thay cho y.

    Quả nhiên, cuối cùng hoàng đế ngáp dài: "Mấy chuyện vụn vặt ấy đệ cứ bàn bạc với Vương Tông Thực là được, ta không lo thay cho đệ đâu."

    "Đa tạ hoàng thượng." Lý Thư Bạch lặng thinh giây lát, rồi nói tiếp, "Giờ thần đệ đã thoái thác rất nhiều việc trong triều, tuy thong dong nhàn tản, song vẫn canh cánh vụ án của Thất đệ. Dẫu Vương Tông Thực là trọng thần hầu cận hoàng thượng, rất đáng tin cậy, nhưng trước đây chưa từng gánh vác việc pháp ty, hoàng thượng để y chủ quản án này, hình như không ổn lắm?"

    "Ta biết, về việc này thì không ai bằng được tiểu hoạn quan Dương Sùng Cổ bên cạnh đệ lúc trước." Hoàng đế thở dài, "Nhưng dẫu sao hắn cũng là người bên cạnh đệ, phải tránh điều tiếng. Ngoài ra, cả Đại Lý Tự lẫn kinh triệu doãn đều có quan hệ mật thiết với đệ, trong triều cũng không ai dám đứng ra; Vương Lân thượng thư bộ Hình tuy không bị xử lý công khai việc câu kết với hoàng hậu, nhưng sắp cáo lão về quê; mấy ông già ở Ngự Sử Đài lại chỉ giỏi đấu võ mồm hễ gặp việc là cuống lên. Nghĩ đi nghĩ lại trong triều chẳng còn ai dùng được, đành tìm một người xưa nay ít qua lại với đệ là Vương Tông Thực, dù sao hắn là hoạn quan nội thị, trẫm cũng đã tỏ ý rằng đây là việc nhà của trẫm."

    "Vậy thì tốt quá, đa tạ hoàng thượng lao tâm." Thấy hoàng đế giải thích vòng vo, Lý Thư Bạch hiểu ngài ngự sẽ không đổi người, cũng không nài thêm nữa mà chuyển ngay chủ đề: "Chẳng hay Vương công công đã phái người đến phủ Thất đệ điều tra chưa?"

    "Chắc là rồi, gần đây vì chuyện này mà chứng đau đầu của trẫm lại tái phát, nên cũng chưa hỏi lại." Nói đoạn, hoàng đế thở dài, "Anh em của trẫm chỉ còn đệ, Thất đệ và Cửu đệ, giờ Thất đệ lại... Ôi chao, sao đệ ấy lại nghĩ quẩn, trước lúc lâm chung còn thốt ra mấy lời rúng động lòng người, hại lây sang cả Tứ đệ như thế..."

    Lý Thư Bạch thản nhiên đáp: "Thần đệ nghĩ việc này nhất định có ẩn tình, chẳng qua hiện giờ chưa vạch trần được đó thôi."

    "Tin rằng nếu có thời gian, việc này ắt sẽ rõ trắng đen. Trẫm không lý nào lại nhìn lầm đệ, chỉ mong tới lúc đó muôn dân cũng hiểu cho tấm lòng Tứ đệ."

    Lý Thư Bạch cúi đầu nhìn nền gạch vàng, khẽ đáp: "Thần đệ đa tạ bệ hạ tin tưởng."

    "Chỉ là trẫm vẫn hơi lo lắng. Hiện hai quân Thần Vũ, Thần Uy đã đóng giữ trong kinh ba năm, theo lệ phải đổi, năm xưa binh lính Từ Châu vì đóng lâu một chỗ nhớ nhà mà làm phản, giờ đệ không tiện ra mặt, chẳng hay có nên tìm một người khác xử lý chuyện này không?"

    Quanh co từ nãy tới giờ mới đến màn chính. Hoàng Tử Hà ngồi bên này cũng biết, hôm nay hoàng đế triệu Lý Thư Bạch đến, thực ra là vì chuyện này. Giờ ngài ngự đã nói toẹt, Lý Thư Bạch dù có muốn chống đối, cũng làm sao cự tuyệt được?

    Bất giác, cô siết chặt lấy vách ngăn chạm hoa, mồ hôi trong lòng bàn tay cũng thành ra lạnh buốt.

    Giọng Lý Thư Bạch vẫn điềm nhiên: "Bệ hạ đã nghĩ cho sự bình an của muôn dân thiên hạ, thần đệ sao dám không tuân?"

    Giọng hoàng đế nãy giờ vẫn hạ thấp, bỗng cao hẳn lên, không giấu được vẻ mừng rỡ: "Tứ đệ chấp thuận thực ư?"

    "Vâng, lời của bệ hạ, thần đệ đương nhiên không dám cãi." Lý Thư Bạch đứng dậy hành lễ, "Nhưng thần đệ có một yêu cầu hơi quá đáng."

    "Tứ đệ cứ nói xem." Thấy y khom lưng vái lạy, hoàng đế bèn đứng dậy giơ tay ra ý miễn lễ.

    Lý Thư Bạch ngẩng lên thưa: "Hai quân Thần Vũ, Thần Uy do thần đệ phụng lệnh hoàng thượng xây dựng, giờ muốn đổi tướng, hoàng thượng chỉ cần nói một tiếng là xong. Nhưng khi ở Thục thần đệ từng bị hành thích hai lần, tuy đã về kinh song vẫn có cảm giác nguy hiểm rình rập, không dám lơ là cảnh giác. Xin bệ hạ thư thả cho mấy tháng, thần đệ sẽ vỗ yên sĩ tốt, đợi mọi chuyện sóng yên gió lặng rồi điều phối lại, bệ hạ thấy sao?"

    Hoàng đế thoáng biến sắc, toan nói gì đó thì ngực chợt đau thắt, đương đứng phải ngồi phệt xuống.

    Lý Thư Bạch phản ứng rất nhanh, thấy thân hình ngài ngự loạng choạng suýt ngã khỏi ghế bèn bước đến đỡ lấy. Hoàng đế thở gấp, cả người run lên, sắc mặt tái nhợt, mồ hôi lạnh túa ra đầy trán.

    Từ Phùng Hàn đứng hầu cạnh đó vội chạy đến, lấy trong ngăn tủ bên cạnh một viên thuốc, hòa vào ly trà dâng lên.

    Đợi ngài ngự uống xong, chống trán ngả người ra ghế, hơi thở bình ổn lại, Lý Thư Bạch mới nhíu mày hỏi nhỏ Từ Phùng Hàn: "Chứng đau đầu của bệ hạ sao lại nặng hơn rồi?"

    Từ Phùng Hàn cúi đầu thở dài: "Các ngự y vẫn trông nom luôn, danh y dân gian cũng mời không biết bao nhiêu người, song mãi chẳng thấy ai trị dứt được cả."

    "Giờ hay phát tác lắm ư? Bao lâu lại bị một lần?"

    Từ Phùng Hàn chưa kịp đáp, hoàng đế đã lên tiếng: "Bệnh cũ ấy mà, trẫm cũng hết cách. Chứng đau đầu này.... năm xưa Ngụy Vũ Đế (1) cũng mắc phải, ông ta hùng tài đại lược, văn võ song toàn nhường ấy, vậy mà thiên hạ rộng lớn... có ai trị khỏi được cho ông ta đâu?"

    (1) Tức Tào Tháo

    Thấy hoàng đế đau đến nỗi giọng nói run bắn lên nhưng vẫn cố kìm nén, Lý Thư Bạch đành khuyên nhủ: "Xin bệ hạ giữ gìn sức khỏe, thần đệ nghĩ thiên hạ rộng lớn, ắt sẽ có người như Hoa Đà Biển Thước trị khỏi được bệnh này. Chỉ cần hoàng thượng hạ lệnh cho các châu phủ tìm thầy thuốc chuyên trị chứng đau đầu đưa về kinh hội chẩn, nhất định sẽ tìm được phương thuốc trúng bệnh thôi."

    Hoàng đế ôm đầu rên rỉ. Hồi lâu mới nói, giọng đứt quãng: "Được rồi, đệ lui trước đi."

    Hoàng Tử Hà ngoái lại nhìn Vương hoàng hậu, chỉ thấy hoàng hậu vẫn ngả người trên sập, nheo mắt nhìn ra ngoài, vẻ mặt hết sức bình thản, chẳng hiểu đang nghĩ gì. Đợi Lý Thư Bạch lui xuống, hoàng hậu mới đứng dậy, mở cửa vách ngăn, lập tức đổi sang bộ dạng liêu xiêu nhào đến ôm chầm lấy hoàng đế, rưng rưng hỏi: "Bệ hạ thấy đỡ chút nào chưa?"

    Hoàng đế nắm chặt tay hoàng hậu, nghiến răng chịu đựng nhưng những giọt mồ hôi to như hạt đậu vẫn lăn dài trên trán. Vương hoàng hậu một tay choàng qua người ngài ngự, tay kia nâng mặt rồng lên: "Bệ hạ cố chịu một chút... Đám thái y toàn đồ bỏ cả, nuôi bọn chúng chẳng được tích sự gì hết!" Vừa nói, Vương hoàng hậu vừa đặt tay lên miệng hoàng đế, khóc lóc nài nỉ: "Bệ hạ, đừng để cắn phải đầu lưỡi, chi bằng cứ cắn tay thần thiếp đây!"

    Từ Phùng Hàn đứng cạnh đó vội chạy đến gỡ tay hoàng hậu ra: "Nương nương là thân ngàn vàng, sao có thể bị thương được. Xin bệ hạ cứ cắn nô tài đây..."

    Hoàng Tử Hà lặng lẽ đứng bên cạnh nhìn nước mắt Vương hoàng hậu lăn dài, cảm thấy thật khó xử.

    Dường như thuốc đã có tác dụng, tuy hoàng đế vẫn siết chặt tay Vương hoàng hậu, song hơi thở đã dần bình ổn lại, Vương hoàng hậu và Từ Phùng Hàn vội đỡ ngài ngự ngồi thẳng dậy, đắp thêm cho ngài một tấm chăn gấm.

    Bấy giờ hoàng đế mới nhận ra vừa rồi phát bệnh đã siết chặt tay Vương hoàng hậu, song hoàng hậu chỉ nhịn đau không kêu. Ngài ngự thở dài, dùng hai tay nắm lấy tay hoàng hậu, nhìn sang Hoàng Tử Hà hồi lâu mới ngỡ ngàng hỏi: "Kẻ đứng sau lưng hoàng hậu... hình như không giống bọn Trường Linh?"

    Hoàng Tử Hà vội quỳ xuống hành lễ. Vương hoàng hậu thản nhiên đáp: "Là tiểu cung nữ ở bên ngoài mới đưa đến, thần thiếp giữ bên mình để chỉ bảo cho quen việc."

    "Ừm." Hoàng đế chẳng hỏi thêm nữa, chỉ mệt mỏi nhắm mắt lại.

    Từ Phùng Hàn lo lắng hỏi: "Hoàng thượng có muốn vào nội điện nghỉ ngơi không?"

    Ngài ngự gật đầu, vỗ nhẹ lên chân mình. Từ Phùng Hàn hiểu ý, vội bước đến đỡ hoàng đế vào trong. Tuy thân hình y cao lớn, nhưng hoàng đế lại đẫy đà, một mình Từ Phùng Hàn dìu đỡ cũng chật vật. Vương hoàng hậu vội giúp một tay, dìu ngài ngự vào.

    Hoàng Tử Hà chỉ thấy lưng vã mồ hôi lạnh, cuối cùng cũng hiểu ý đồ của Vương hoàng hậu khi triệu kiến mình hôm nay.

    Chứng đau đầu của hoàng đế đã trở nên cực kỳ nghiêm trọng. Không chỉ ảnh hưởng thị lực, đến nỗi không nhận ra những người không mấy quen mặt như cô, mà cả việc đi lại cũng hết sức khó khăn. Chẳng qua vẫn giấu giếm người trong ngoài cung, e rằng chỉ Từ Phùng Hàn và Vương hoàng hậu mới hay chuyện.

    Nguyên nhân hoàng hậu giấu kín không nói, đương nhiên là vì bà ta vẫn còn việc phải hoàn thành. Giờ thái tử còn nhỏ tuổi, một khi hoàng thượng đổ bệnh nặng, việc trao nhận quyền lực sẽ vô cùng nguy cấp. Chẳng biết trong mắt hoàng đế, kẻ nào mới là mối uy hiếp lớn nhất đến ngai vị này đây?

    Vương hoàng hậu từ nội điện bước ra, bảo cô: "Gọi đám người hầu hạ vào đi, hoàng thượng ngủ rồi."

    Hoàng Tử Hà vâng dạ, rảo bước đi ra cửa điện báo cho các cung nữ và hoạn quan đứng bên ngoài vào. Tuyết vẫn chưa tạnh, gió rét len lỏi luồn vào áo, khiến mồ hôi lạnh thấm hết vào da thịt, làm cô run bắn lên.
     
  18. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 7 - Hẹn thề sống chết
    Hoàng Tử Hà theo Vương hoàng hậu về gác Bồng Lai rồi hành lễ cáo từ.

    Vương hoàng hậu thản nhiên ra hiệu cho cô lui xuống, tựa như vừa rồi chỉ dẫn cô dạo một vòng quanh vườn ngự vậy.

    Hoàng Tử Hà che ô một mình đi ra cổng cung Đại Minh. Bầu trời âm u, tuyết bay lất phất, cô ngoái đầu nhìn điện Hàm Nguyên, chỉ thấy cửa phượng đề thánh mờ mây phủ, hai gác Tường Loan, Tê Phượng như xòe cánh bọc lấy Điện Hàm Nguyên, cung điện đệ nhất Đại Đường nguy nga tráng lệ, thoắt ẩn thoắt hiện giữa màn mưa tuyết, nào giống phàm trần, rõ ràng là tiên cảnh.

    Cô nhìn sang gác Tường Loan, hình dung đường cong mà Lý Nhuận gieo mình xuống. Dù đêm ấy có gió, cũng không thể thổi bạt một người từ trên lầu nhảy xuống, bay đi mất tăm mất tích được. Bình đài bên dưới gác Tường Loan rộng thênh thang, lát đá xanh, phủ một lớp tuyết mỏng, một người nhảy xuống làm cách nào biến mất được nhỉ?

    Cô nhắm nghiền mắt lại, hồi tưởng cảnh tượng lúc ấy, đêm khuya, tuyết đổ, ánh lửa, giấy bay tan tác...

    Bên má lành lạnh, một bông tuyết đậu lên má cô.

    Hoàng Tử Hà ngỡ ngàng mở mắt ra, đã không đoán được bí ẩn việc Lý Nhuận biến mất, cô đành lái suy nghĩ theo hướng khác: rốt cuộc là vì nguyên nhân gì mà Ngạc vương đành từ bỏ cả tính mệnh đứng ra chỉ trích Quỳ vương - người thân thiết với mình nhất?

    Trước mắt cô hiện lên cảnh tượng hoàng đế phát bệnh vừa rồi.

    Hoàng đế bệnh nặng, thái tử non nớt, Quỳ vương thế lớn...

    Bàn tay nắm cán ô của cô run lên. Tuy đã đoán ra nội tình từ lâu, song khi vạch bức màn che, trông rõ rành rành chân tướng bên trong, cô vẫn không nén nỗi kinh sợ.

    Cung Đại Minh lờ mờ sau màn mưa tuyết dưới mắt cô đã thành ra ảo ảnh. Lầu quỳnh điện ngọc đều hoá thành phong ba bão táp. Thế lực lớn nhất dưới gầm trời này, dù bề ngoài huy hoàng lộng lẫy mê đắm lòng người tới đâu, thì sóng ngầm bên trong cũng sẵn sàng nuốt chững bất cứ ai, không nhả ra lấy một tăm bọt.

    "Tử Hà, trời lạnh thế này, sao cô đứng đây lâu thế?" Sau lưng vang lên một giọng ôn hòa, chính là Vương Uẩn, nãy giờ vẫn đứng đợi ngoài này. Cô ngoái lại gật đầu với y rồi lặng lẽ giương ô bước ra khỏi cổng cung Đại Minh cao ngất.

    Vương Uẩn chìa ra một ống da ấp tay, đón lấy chiếc ô, che cho cô: "Mau ủ cho tay ấm lên đi." Hoàng Tử Hà ủ tay vào bọc da, sờ lớp lông cừu non mềm mại bên trong, rồi liếc sang y. Mưa tuyết mau dần, từ bông tuyết đã thành ra hạt tuyết, rơi xuống tán ô thành tiếng lộp độp. Y cúi đầu nhìn cô, không hề nhận ra rìa vai phải đã bị tuyết phủ một lớp mỏng.

    Hoàng Tử Hà đi bên trái y lặng lẽ cúi đầu, hai người đội mưa tuyết rời khỏi cung Đại Minh, leo lên xe ngựa.

    Tiếng vó ngựa dồn dập vang lên, họ băng qua đường phố Trường An, nhằm hướng phường Vĩnh Xương. Hoàng Tử Hà hạ giọng hỏi: "Vương công tử biết thuật nhiếp hồn không?" Vương Uẩn nhíu mày: "Ý cô muốn nói đến yêu thuật thao túng tâm trí người ta đó ư?"

    Hoàng Tử Hà gật đầu.

    Vương Uẩn hiểu ra ngay, bèn hỏi: "Cô nghi ngờ Ngạc vương bị người ta điều khiển nên mới nói ra những lời đó trước mặt mọi người rồi gieo mình nhảy xuống gác Tường Loan?"

    Hoàng Tử Hà gật đầu, lại hỏi: "Vương công tử ở trong kinh lâu ngày, có biết ai am hiểu thuật này chăng?"

    Vương Uẩn nhíu mày: "Tà thuật này truyền từ Tây Vực vào, giờ Tây Vực hình như cũng chiến loạn liên miên, coi như đã đứt hẳn nguồn gốc rồi. Trung Nguyên rất ít người tu tập phép này, ta cũng chỉ biết hòa thượng Mộc Thiện mà lần trước cô vạch mặt ở Thục thôi, những người khác ta thực không rõ."

    Hoàng Tử Hà gật đầu. Đương kim hoàng đế lớn lên trong cung cấm, sau khi phong vương cũng ở trong phủ Vận vương, ít khi ra ngoài, chắc hẳn không thể tiếp xúc với tà thuật này. Nếu bên cạnh hoàng đế có một người như vậy, nhất định đã được sử dụng từ lâu, bằng không năm xưa giữa bấy nhiêu tăng nhân cũng chẳng xem trọng một mình Mộc Thiện đại sư chỉ hơn người mỗi thuật nhiếp hồn.

    Nhưng dù thực sự tìm được kẻ biết thuật nhiếp hồn, liệu hoàng đế có hy sinh một trong các em trai để xử lý Lý Thư Bạch hay không? Ngạc vương Lý Nhuận là người ôn hòa nhất trong các anh em, không hề tranh giành với đời, lẽ nào lại bị chọn làm vật hy sinh? Nguyên do chỉ là vì Lý Nhuận thân với Lý Thư Bạch nhất thôi sao?

    Hoàng Tử Hà thầm lắc đầu, cảm thấy những giả thiết này đều không hợp lý. Cô nhìn sang Vương Uẩn, song lại nhận ra y cũng đang nhìn mình, đôi bên chăm chú nhìn nhau trong thùng xe chật hẹp, dần dần nảy sinh cảm giác ngượng ngùng.

    Cuối cùng cô cúi gằm mặt, cố tìm một chủ đề để hỏi: "Khi Ngạc vương gieo mình từ gác Tường Loan, Vương công tử hẳn là người đầu tiên chạy đến dưới gác?"

    Vương Uẩn gật đầu: "Sao vẫn xưng hô khách sáo thế? Gọi ta là Uẩn Chi được rồi, người nhà và bạn bè đều gọi thế cả."

    Cô lặng lẽ cụp mắt xuống, chậm rãi gật đầu.

    "Vậy... Gọi thử ta nghe đi?" Y đùa.

    Hoàng Tử Hà ngập ngừng một thoáng, cuối cùng vẫn gật nhẹ đầu, hé môi gọi: "Uẩn Chi..."

    Vương Uẩn thấy cô cúi gằm mặt, gò má vừa khỏi bệnh trắng xanh như một đóa mai trắng nở chúc xuống, lòng bất giác xao xuyến. Những gợn sóng lăn tăn ấy cứ dội đi dội lại trong lòng, khiến tâm trí y trống rỗng, tới lúc định thần lại đã thấy mình nắm chặt tay Hoàng Tử Hà.

    Bàn tay thon thả của cô khẽ run rẩy trong tay y, như muốn rút lại. Song y càng nắm chặt hơn, dịu giọng gọi "Tử Hà".

    Hoàng Tử Hà ngước nhìn y, trên gương mặt nhỏ như đài sen là đôi mắt long lanh như hai giọt sương. Gò má cô hơi ửng hồng, song ánh mắt vẫn tinh khiết trong veo, không mảy may xao động.

    Lòng cô không ở đây, không đặt vào y.

    Vương Uẩn chợt thấy những gợn sóng lăn tăn trong lòng lắng lại. Y âm thầm buông tay cô ra, im lặng ngồi đó.

    Hoàng Tử Hà cũng giấu tay vào tay áo, năm ngón bất giác nắm chặt lấy vạt váy.

    "Cô muốn hỏi gì ư?" Vương Uẩn chậm rãi lên tiếng, "Muốn hỏi những gì ta thấy đêm ấy, muốn cùng Vương công công điều tra vụ án Ngạc vương, muốn giúp Quỳ vương rửa sạch tai tiếng, đúng không nào?"

    "Phải." Hoàng Tử Hà thừa nhận hết sức thẳng thắn, khiến y kinh ngạc không kịp phản ứng.

    Cô ngẩng lên nhìn y, gương mặt hé nụ cười: "Lúc trước Vương công công chẳng nói đấy ư? Tiểu hoạn quan phủ Quỳ phải tránh điều tiếng, nhưng Hoàng Tử Hà con gái quận thú tiền nhiệm quận Thục, vợ chưa cưới của đích tôn nhà họ Vương Lang Gia thì không cần."

    Nỗi thê lương trong lòng Vương Uẩn bị ba tiếng "vợ chưa cưới" xóa tan. Y chăm chú nhìn cô: "Nhưng suy cho cùng, cô cũng chỉ một lòng muốn giúp Quỳ vương."

    Hoàng Tử Hà gật đầu: "Nhận một giọt nước, phải khơi cả dòng suối trả ân, Quỳ vương có ơn lớn với tôi, giờ gia gặp khó khăn, dẫu tôi phải kết cỏ ngậm vành, cũng quyết đáp đền ơn đức."

    Vương Uẩn không nói thêm, chỉ gật đầu.

    Trong lúc không khí giữa đôi bên lắng xuống, xe ngựa cũng từ từ dừng lại.


    "Sao thế?" Vương Uẩn từ trong xe hỏi vọng ra.

    "Đằng trước đường trơn vì mưa tuyết, có một cỗ xe ngựa bị đổ, người dân quanh đó đang kéo ngựa và thùng xe ra, công tử đợi cho một lát."

    Vương Uẩn "ừm" một tiếng, ngó đầu nhìn ra thấy xe đang đỗ ngay trước cung Thái Thanh, lại trông đám đông một chốc không thể tản đi ngay được, bèn rủ Hoàng Tử Hà: "Hình như ta nghe thấy tiếng chuông trống văng vẳng trong kia, chúng ta vào cung Thái Thanh xem có phải họ đang lập đàn tụng kinh không?"

    Hoàng Tử Hà xuống xe, theo y bước vào cung Thái Thanh. Các đạo sĩ đều quen mặt Vương Uẩn, lũ lượt bước ra đón y, hồ hởi cười nói: "Vương công tử đến đấy ư, để bọn chúng tôi dâng trà thơm."

    Vương Uẩn và Hoàng Tử Hà theo họ vào phòng ấm, vừa đưa mắt nhìn, cả hai đã ngẩn ra.

    Quỳ vương Lý Thư Bạch đang ngồi trong phòng uống trà. Nghĩ cũng đúng, xe ngựa phủ Quỳ chỉ rời cung Đại Minh trước họ chốc lát, lúc tắc đường, hẳn y cũng được mời vào cung Thái Thanh nghỉ chân.

    Nhưng đã chạm mặt ở đây, nếu quay ra thì e khó coi.

    Vương Uẩn cúi đầu mỉm cười liếc Hoàng Tử Hà, rồi bất ngờ nắm lấy tay, dẫn cô đến chỗ Lý Thư Bạch chào hỏi: "Vương gia hôm nay cũng ở đây, đúng là hạnh ngộ."

    Lý Thư Bạch không đáp, chỉ nhìn chằm chằm gương mặt Hoàng Tử Hà, thậm chí còn chẳng buồn liếc bàn tay Vương Uẩn đang nắm tay cô. Gương mặt Quỳ vương vẫn thản nhiên, song ánh mắt thoáng thẫn thờ. Kẻ nổi danh lạnh lùng bình tĩnh như y lúc này cổ tay lại run run làm ly trà hơi nghiêng đi, sánh mấy giọt ra mu bàn tay.

    Cuối cùng, y cụp mặt xuống, nhẹ nhàng đặt ly trà lên bàn rồi ngước nhìn hai người vừa nắm tay bước vào, nét mặt bình thản đến gần như đanh lại: "Uẩn Chi, đã lâu không gặp, vẫn khỏe chứ?"

    "Nhờ phúc gia cả." Vương Uẩn kéo Hoàng Tử Hà ngồi xuống cạnh mình rồi hỏi: "Đây là Hoàng Tử Hà, vị hôn thê của ty chức, hẳn gia cũng biết rồi, không cần giới thiệu nữa nhỉ?"

    Lý Thư Bạch cười nhạt, nhìn xoáy vào Hoàng Tử Hà, chậm rãi đáp: "Dĩ nhiên là biết, ta từng cùng cô ấy phá vụ án em họ ngươi mất tích, Đồng Xương công chúa qua đời, thậm chí còn dẫn cô ấy về Thục, giúp cô ấy giải oan, báo thù cho gia đình."

    Giọng y rất thản nhiên, song không hiểu sao Hoàng Tử Hà lại thấy tê tái cả cõi lòng, chỉ biết cúi đầu, đờ đẫn nhìn ly trà trong tay.

    Vương Uẩn thản nhiên cười: "Đúng vậy, nhờ ơn gia nâng đỡ, giúp Tử Hà, vị hôn thê của ty chức rửa sạch oan cừu. Ít hôm nữa chúng tôi sẽ về Thục thành hôn, đến lúc đó chẳng biết có tới từ biệt gia được hay không, chi bằng nhân lúc này tạ ơn gia trước." Rõ ràng Vương Uẩn cố ý nói thêm ba chữ "vị hôn thê" sau tên "Tử Hà", Lý Thư Bạch thừa hiểu, song chỉ cười nhạt liếc sang Hoàng Tử Hà, thấy cô chỉ cúi đầu im lặng, y bỗng nghe máu nóng sôi lên trong lồng ngực đến nghẹt thở, tim cũng ngừng mất một nhịp.

    "Cần gì phải khách sáo thế?" Lý Thư Bạch ngã người ra sau, dựa vào lưng ghế, thong dong đáp, "Bản vương cũng nợ Hoàng Tử Hà rất nhiều. Ít nhất khi bị kẻ xấu rắp tâm hành thích dọc đường, bản vương trọng thương gần chết, cô ấy đã cứu ta thoát khỏi Quỷ Môn quan. Nếu không có cô ấy, chắc giờ bản vương cũng chẳng còn sống trên đời."

    Nghe y nói vậy, kẻ "rắp tâm hành thích" là Vương Uẩn sầm mặt, song vẫn cười lấy lệ. Có điều không khí gượng gạo chẳng thể xua tan.

    "Hơn nữa..." Ánh mắt Lý Thư Bạch dừng ở Hoàng Tử Hà, y khoan thai tiếp, "Vị hôn thê của ngươi lúc xưa, vì muốn rửa oan đã tự nguyện bước vào phủ ta làm hoạn quan, có giấy tờ làm chứng, giờ tên tuổi vẫn ghi rành rành trong hồ sơ ở phủ Quỳ. Bản vương chỉ muốn hỏi Vương thống lĩnh, ngươi định cưới một tên hoạn quan phủ ta, thì phải ăn nói với ta thế nào đây?"

    Vương Uẩn lại không ngờ Lý Thư Bạch lại lôi chuyện này ra, lập tức hỏi vặn: "Ý gia là hiện giờ Hoàng Tử Hà vẫn là hoạn quan phủ Quỳ ư?"

    "Vẫn còn danh sách, điểm chỉ đàng hoàng, chưa hề gạch tên." Lý Thư Bạch lạnh nhạt đáp.

    "Nhưng người trong thiên hạ đều biết cô ấy vì oan khất mới phải cải trang làm tiểu hoạn quan bước vào phủ Quỳ, tìm cơ hội báo thù cho người nhà. Giờ đã làm rõ trắng đen, sao gia phải truy cứu cái cớ cô ấy viện ra năm xưa nữa?"

    "Nước có phép nước, nhà có lệ nhà. Ta tin mỗi kẻ phạm pháp đều có nỗi khổ riêng, nhưng nếu vì thế mà không truy cứu thì sao giữ nghiêm được lề luật trong phủ, triều đình làm sao dựng luật lập uy, giữ nghiêm pháp kỷ?"

    Hai người đều thản nhiên như không, trò chuyện hết sức thân mật, song miệng giáo lưỡi gươm, không ai chịu ai một câu nữa chữ. Hoàng Tử Hà thầm thở dài, hiểu rõ việc này từ mình mà ra, song lại chẳng biết làm sao cho phải, đành nín lặng ngồi im.

    Vương Uẩn bất lực hỏi: "Ý gia là muốn ngăn cản hôn sự của ty chức và Tử Hà ư?"

    "Nào có? Bản vương chỉ muốn hỏi, Uẩn Chi rốt cuộc định làm thế nào để cưới hoạn quan đã ghi tên trong danh sách phủ ta thôi?"

    Thấy Lý Thư Bạch càng lúc càng lấn lướt, không chừa đường lui, Vương Uẩn tuy tính khí ôn hòa song cũng không nhịn nổi vặn lại: "Vậy vương gia định làm thế nào để ép vị hôn thê của ty chức ở lại vương phủ làm hoạn quan?"

    Lý Thư Bạch liếc Hoàng Tử Hà, thản nhiên hỏi: "Theo ta biết, giữa hai vị từng có một tờ giấy từ hôn?"

    Vương Uẩn cùng nhìn sang Hoàng Tử Hà mỉm cười: "Hai người yêu nhau, tan tan hợp hợp là chuyện bình thường, hôn ước đã có, giấy từ hôn cũng có, nhưng cuối cùng có cũng thành không rồi. Chuyện này mấy ai hiểu được chứ? Chỉ cần chúng tôi tâm linh tương thông, thì mọi chuyện đều tháo gỡ được thôi."

    Dưới ánh mắt của hai người đàn ông, Hoàng Tử Hà không biết làm sao cho phải. Một lúc lâu sau, cô nghiến răng đứng dậy bảo Vương Uẩn: "Chẳng biết đường đã thông chưa, ta ra xem thử đi."

    Vương Uẩn cười với cô rồi quay ra chắp tay nói: "Gia thứ tội cho, hình như Tử Hà không muốn ngồi lâu, chúng tôi cáo từ trước vậy."

    Nghe Vương Uẩn thân thiết gọi cô là Tử Hà, lại thấy cô cúi đầu đứng sau Vương Uẩn, quả là một đôi người ngọc, khí chất dung mạo đều xuất chúng phi phàm, máu nóng lại sôi lên trong ngực Lý Thư Bạch, không sao kìm nén nổi, y từ từ đứng dậy nói: "Bên ngoài đang đổ tuyết lớn, thời tiết khắc nghiệt thế này, cần gì phải đến hai người ra xem? Dương công công không thể nán lại chốc lát, trả lời vài câu hỏi của bản vương ư?"

    Nghe y nói vậy, Vương Uẩn thoáng chần chừ rồi gật đầu bảo Hoàng Tử Hà: "Để ta ra xem, cô ngồi đây thêm một lát đi."

    Trong phòng chỉ còn Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà, tuyết bên ngoài vẫn rơi tầm tã, không có dấu hiệu tạnh. Cửa mở toang, gió thốc vào phòng lạnh buốt.

    Cảnh Hằng đứng hầu bên ngoài nghĩ ngợi một thoáng, cuối cùng vẫn để ngỏ cửa.

    Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà im lặng ngồi đối diện nhau, chỉ cách một bếp trà.

    Cuối cùng cô cũng nghe thấy y lên tiếng, giọng trầm thấp nhẹ nhàng: "Chẳng phải đã nói với cô rồi ư? Nhà họ Vương giờ trùng trùng nguy cơ, tổ rơi trứng vỡ chỉ trong sớm tối, sao cô không nghe lời ta?"

    Hoàng Tử Hà phải gắng kìm nén bản thân để trả lời bằng giọng lạnh nhạt nhất: "Chẳng phải gia đã lệnh cho tôi đi ư? Giờ tôi đã theo lệnh mà đi rồi, còn tôi đi đâu, việc gì gia phải nhọc lòng?"

    "Đường lớn thênh thang trên đời đâu có thiếu, ta cũng đã chỉ cho cô con đường dễ dàng nhất, sao cô cứ đâm đầu vào cây cầu độc mộc kia? " Lý Thư Bạch gõ nhẹ xuống bàn, vẻ bực bội.

    "Phải xem nhìn nhận từ góc độ nào thôi." Hoàng Tử Hà khẽ đáp, "Nhà họ Vương có gì không tốt chứ, họ là gia tộc lớn, mấy trăm năm mưa gió còn không đánh đổ được, dù có nguy hiểm, song con rết trăm chân, chết cũng không ngã, đâu đến nỗi nghiêm trọng như gia nói."

    "Cô thông minh như thế, lẽ nào không biết trận phong ba sắp đến dữ dội nhường nào? Vậy mà còn khăng khăng đâm đầu vào giữa xoáy nước, rốt cuộc là vì sao?" Y nheo mắt nhìn cô.

    Trước ánh mắt dồn ép của y, Hoàng Tử Hà lòng rối như tơ vò, không dám nhìn thẳng vào mắt y, đành hấp tấp đứng dậy viện cớ: "Tôi... phải đi xem Vương Uẩn thế nào..."

    Song giọng y vẫn vang lên từ phía sau. Chẳng cần ngoái lại, cô cùng biết y đang từng bước tiến đến gần: "Cô vẫn cố chấp muốn giúp ta nên định bắt tay từ nhà họ Vương, tháo dỡ cục diện bế tắc hiện thời, làm rõ chân tướng, thay ta rửa sạch tiếng xấu, phải không?"

    Y đứng ngay sau lưng, rất gần cô. Chỉ hơi cúi đầu, hơi thở y đã phả vào gáy, cô bất giác sởn cả gai ốc, phần vì kinh hoảng trước mối nguy sắp ập đến, phần vì cảm thấy một nỗi căng thẳng sợ hãi đầy mê hoặc.

    Giọng cô run lên, song vẫn cố chống chế: "Không hề...Chẳng liên quan gì đến gia cả...Tôi chỉ thấy...Vương Uẩn rất tốt..."

    Y hơi khựng lại, hơi thở cũng dồn dập hẳn lên: "Y rất tốt, nên cô mới rời khỏi ta để nhào vào lòng y. Y rất tốt, nên cô mới ở lại căn nhà y chuẩn bị, ngồi xe cùng đi cùng về, nắm tay nhau xuất hiện trước mặt ta ư?"

    Từng đợt sóng cuộn lên dữ dội trong lòng, cô muốn phản bác, nhưng lại thấy mình không có cách nào phủ nhận. Những gì Lý Thư Bạch nói, suy cho cùng đều là thực, y đã nói trúng tim đen, không chút nể tình.

    Vì đuối lý, vì cạn lời, vì những điều chôn sâu trong lòng không có cách nào thổ lộ, cả người Hoàng Tử Hà run bắn lên. Mắt cô đỏ hoe, hơi thở gấp gáp khiến cổ họng cô nghẹn lại.

    "Phải, tôi… sẽ ở bên Vương Uẩn, đằng nào có nói gì đi nữa vương gia cũng không hiểu được đâu!" Cô vận hết sức mình quay lại, ngẩng lên nhìn thẳng vào y, nghiến răng nói mà chẳng biết nói gì: "Tôi sẽ thành thân với Vương Uẩn, sống vui vẻ hạnh phúc suốt đời. Tôi là tôi, vương gia là vương gia, Hoàng Tử Hà xưa nay chẳng có quan hệ gì với Lý Thư Bạch cả!"

    Y siết chặt vai Hoàng Tử Hà, nhìn trừng trừng vào mắt cô, vẻ ảm đạm trong ánh mắt cơ hồ muốn hút cả hồn phách cô.

    Rồi chẳng để cô định thần, thân thể cô đã đổ về phía trước, bị y ôm chặt vào lòng. Chưa kịp kinh ngạc hay hoảng loạn, mùi trầm thủy hương(1) trên người đã xộc vào mũi cô, khiến tâm trí cô thoắt chốc trống rỗng, cả người bải hoải như rơi từ trên cao xuống.

    (1) Một dạng trầm hương cao cấp.

    Y ấn cô vào cây cột phía sau rồi cúi xuống hôn lên bờ môi, chặn đứng tất cả những lời phũ phàng làm đau người đau cả mình mà cô chưa kịp thốt ra.

    Bàn tay cô yếu ớt cất lên chống vào ngực y, toan đẩy ra, nhưng cả người như bị rút cạn sức lực, đành mặc cho đôi môi ấm áp mềm mại của y mơn man quấn quýt môi mình, động tác mạnh bạo nhưng đem lại cảm giác dịu dàng khôn xiết.

    Cả người nóng đến choáng váng, mắt bất giác cũng nhắm lại. Nghe thấy hơi thở dồn dập của y phả vào tai, cô hoang mang nhủ thầm, thật kỳ lạ, tại sao một kẻ lạnh lùng tột độ như thế, lúc này cả người cũng nóng rực lên, hơi thở rối loạn, tâm tình hoảng hốt, chẳng khác gì mình.

    Dường như chỉ gói gọn trong một khắc ngắn ngủi, lại dường như dài bằng cả cuộc đời. Cuối cùng Lý Thư Bạch nhẹ nhàng buông ra, nhìn cô đắm đuối, hơi thở vẫn còn dồn dập. Y mấp máy môi định nói gì đó, song trước sau vẫn không thốt nổi nửa lời.

    Hoàng Tử Hà giơ tay phải lên, dùng mu bàn tay che trước miệng, lẳng lặng cúi đầu tránh ánh mắt y.

    Lý Thư Bạch hít một hơi thật sâu, gắng kìm nén dòng máu nóng đang sôi lên trong ngực cùng khao khát mãnh liệt cơ hồ sắp nhấn chìm bản thân. Hồi lâu, y mới miễn cưỡng bình ổn được hơi thở, cất giọng khàn khàn: "Đến Nam Chiếu đợi ta đi, ta đã chuẩn bị sẵn giấy tờ cho cô rồi."

    Cô bải hoải dựa vào cây cột sau lưng, lắc đầu đáp khẽ: "Không."

    Y nhíu mày, nhìn cô ra ý hỏi.

    Mu bàn tay chạm vào bờ môi hơi sưng, khiến mặt cô bất giác đỏ bừng, vội che mặt nhỏ nhẹ nói: "Hoàng thượng bệnh nặng, nguy cấp lắm rồi."

    Y nhíu mày: "Sao cô biết?" Hoàng Tử Hà ngước nhìn y, giọng khẽ khàng: "Chỉ cần gia bằng lòng, hết thảy bí mật trong cung đều không qua được mắt họ."

    "Vậy nên?"

    "Vậy nên tôi sẽ mượn sức nhà họ Vương, tiếp tục tra xét bí ẩn việc Ngạc vương mất tích. Còn gia, khi tôi đã quyết làm việc gì đó, thì xin đừng cản trở."

    Vẻ kiên nghị ánh lên trong mắt khiến cô như một viên minh châu sáng rỡ, làm Lý Thư Bạch nhất thời hoa cả mắt, không dám nhìn thẳng.

    Cuối cùng y thở hắt ra, lùi lại mấy bước, dựa vào song cửa cạnh đó, nhưng ánh mắt vẫn dán vào cô: "Nếu ta không bằng lòng thì sao?"

    "Bất luận gia nói gì làm gì, tôi cũng sẽ kiên trì với quyết định của mình, không dao động đâu." Hoàng Tử Hà quả quyết nói, "Nhưng tôi nghĩ, Quỳ vương Lý Thư Bạch mà mình biết, nhất định sẽ là hậu phương vững vàng phía sau, giúp tôi phá giải tất cả bí ẩn."

    Lý Thư Bạch đưa mắt nhìn ra ngoài, gió rét căm căm, những hạt mưa có kèm cả tuyết tầm tã đổ xuống. Bầu trời xám xịt càng thêm xa vời không thể với tới, tuyết còn chưa chạm đất đã tan, hơi lạnh thấu xương ùa qua song cửa vào phòng.

    Hàng mi hơi run rẩy vì gió lạnh, Lý Thư Bạch mím môi lặng lẽ ngắm nhìn mưa tuyết bên ngoài.

    "Tử Hà." Có người gõ nhẹ vào cánh cửa mở toang, giọng ôn hòa như tiết xuân tháng ba, tưởng chừng có thể hơ tan băng tuyết.

    Hoàng Tử Hà ngoái lại, thấy Vương Uẩn chẳng biết nội tình mỉm cười đứng trước cửa gọi cô: "Ta vừa đi xem, đường đã thông thoáng rồi, chúng ta về thôi."

    Hoàng Tử Hà lặng lẽ nhìn sang Lý Thư Bạch, thấy ánh mắt y vẫn hướng ra ngoài song, nhìn những bông tuyết lả tả rơi không ngớt, chẳng hề có vẻ gì là sẽ liếc đến cô thì thở dài, âm thầm hành lễ với y rồi quay người theo Vương Uẩn bước ra.

    Vừa rời phòng ấm, gió lạnh bên ngoài đã thổi thốc vào mặt, khiến cô bất giác phải quay mặt đi, nhắm nghiền mắt lại.

    Vương Uẩn ngoái nhìn, thấy khóe mắt cô bỗng đỏ hoe, bên trong giăng mờ sương mỏng thì sững sờ hỏi nhỏ: "Tử Hà, sao thế?"

    Nhìn cơn mưa tuyết tầm tã giữa nền trời xám xịt, cô chậm rãi giơ tay lên che mắt, khẽ đáp: "Không sao... Gió tuyết lớn quá, làm mờ cả mắt."

    Vương Uẩn bận việc nên chỉ đưa cô đến cổng rồi về.

    Một mình cô đi dọc theo hành lang đặt vô vàn bể cá, quanh quanh quẩn quẩn, chẳng biết đã đi mất bao lâu.

    Để tránh cho bầy cá bị đông cứng trong nước, người ta đã đặt xen lẫn rất nhiều vòi nước, dẫn hơi ấm vào để các bể cá bày dọc theo tường không đóng băng.

    Lý Thư Bạch từng nói với cô rằng, cá là loài vật vô tri ngu muội, ký ức dù sâu sắc đến đâu cũng

    chỉ ghi nhớ được trong vỏn vẹn bảy cái búng tay, sau đó sẽ quên hết.

    Sạch sành sanh, tàn nhẫn mà phóng khoáng.

    Vương Tông Thực lại nói, chỉ nguyện kiếp sau được làm một con cá vô tri vô giác.

    Hoàng Tử Hà loanh quang đi giữa những bể cá, ánh nước đủ màu lăn tăn gợn sóng dọc hành lang, lúc hợp lúc tan, thoắt sáng thoắt tối. Cô đi đến cuối đường rồi vòng trở lại chỗ bắt đầu, trông thấy đôi A Già Thập Niết trong bình pha lê đặt ở cuối hành lang thỉnh thoảng đụng nhẹ vào nhau, rồi tản ra, đến khi gặp lại lần nữa, chẳng biết có phải lại như mới hay không.

    Cô tựa đầu vào phiến gạch hoa ốp tường, nhìn những hoa cỏ quấn quýt lấy nhau chạm trên đó, chạnh nhớ đến Lý Thư Bạch, nhớ đến đôi tay y siết chặt cô vào lòng, nhớ mùi trầm thủy hương trên người, nhớ đôi làn môi dán chặt vào nhau khi ấy, như thực lại như ảo.

    Hoàng Tử Hà hé môi, lẩm bẩm gọi cái tên đó, nhưng lời còn chưa ra khỏi miệng đã tan biến giữa không trung. Cô dựa lưng vào tường, nghiêng tai nghe ngóng xung quanh. Giữa không gian im phắc, chỉ có tim cô đập dồn cùng tiếng cá quẫy lao xao, tiếng tuyết rơi xào xạc.

    Có lẽ vì cả đêm trằn trọc khó ngủ, có lẽ vì trận ốm mấy hôm trước còn chưa khỏi hẳn, cô cứ thao láo hai mắt đến tận sáng hôm sau, chứng sợ gió sợ lạnh dường như lại nặng thêm.

    Người hầu kẻ hạ trong nhà tuy đều câm điếc nhưng chăm sóc cô rất chu đáo, sáng ra đã sắc thuốc đưa đến, còn nấu cháo trắng và dưa cải để cô ăn cho thanh đạm. Cô húp được hai ngụm cháo bán hạ tía tô, ngẩng lên thấy bên ngoài sáng rực, thì ra tuyết rơi suốt đêm đến giờ đã tạnh, đọng thành lớp dày trong vườn.

    Đương bưng bát cháo ngơ ngẩn ngắm tuyết, chợt cô nghe bên ngoài có tiếng oang oang, vì người hầu không ai nói gì, nên chỉ có giọng kẻ nọ gọi toáng lên: "Ra đây đi, ta biết Sùng Cổ ở trong đó mà. Lần trước chẳng đã dặn ta đến đây tìm ư!"

    Hoàng Tử Hà dở khóc dở cười, cách cả hai khoảng sân mà giọng Chu Tử Tần vẫn oang oang như thế. Cô quay sang ra hiệu bảo người hầu bên cạnh, để người gác cổng cho gã vào.

    Chu Tử Tần sồng sộc xông vào như sét đánh không kịp bưng tai, gọi ầm ĩ: "Chuyện gì thế này, sao bên cạnh Sùng Cổ toàn người câm điếc vậy?"

    Hoàng Tử Hà bình thản cầm bát múc một bát cháo đẩy sang bên kia bàn, ra ý bảo gã ngồi xuống. Chu Tử Tần vừa ngửi thấy mùi thơm nức mũi đã ngồi ngay xuống đánh liền tù tì hai bát cháo, thêm cả bốn cái nem cuốn, một đĩa chân gà tàu xì mới xoa bụng nói: "Ta vừa ăn sáng rồi, giờ ăn ít thôi."

    Thấy gã đã quên bẵng lý do đến tìm mình, cô cũng thản nhiên cúi đầu ăn cháo, thuận miệng hỏi: "Thế nào, tìm thấy Tích Thúy chưa?"

    "Chưa thấy, chẳng thấy tăm tích gì cả. Lạ thật đấy, thành Trường An rộng thế này, chỉ vẻn vẹn mấy ngày mà chúng ta chạm mặt cô ấy đến hai lần, nhưng lúc dốc lòng đi tìm thì cả ta, Vương Uẩn lẫn Trương Hàng Anh, cộng thêm đám Ngự Lâm quân tuần tra suốt ngày, vẫn không thấy đâu cả, Sùng Cổ bảo có lạ không?"

    "Có gì lạ đâu, trước đây hoàng thượng đã chính miệng ra lệnh truy bắt Tích Thúy, cô ấy trốn được, ắt phải có cách của cô ấy." Chu Tử Tần gật đầu tán đồng, lại sực nhớ ra một chuyện: "À phải, hôm nay ta tìm Sùng Cổ là có việc quan trọng đấy!"

    "Nói đi."

    Gã chỉnh lại vạt áo, ngồi ngay ngắn rồi nhìn cô chằm chằm: "Ta hỏi nhé, sao Sùng Cổ lại ở đây? Chẳng phải Sùng Cổ vẫn theo Quỳ vương ư?"

    "À...Tôi và Vương Uẩn đính ước rồi." Cô bình thản đáp.

    "Cũng phải nhỉ, ta quên khuấy đi mất." Chu Tử Tần vỗ trán, chấp nhận ngay lời giải thích của cô.

    Hoàng Tử Hà đặt bát xuống: "Còn gì nữa không?"

    "Dĩ nhiên là còn." Chu Tử Tần nghiêm mặt, cặp mắt sáng rực nhìn thẳng vào cô, "Còn nữa, Sùng Cổ thử giải thích xem, chẳng phải Sùng Cổ vẫn coi phá án là nhiệm vụ của mình ư? Sao giờ ta lại thấy Sùng Cổ hình như muốn rửa tay chậu vàng, làm vợ người ta rồi?"

    Bốn chữ "làm vợ người ta" lọt vào tai khiến lòng Hoàng Tử Hà thắt lại, đau âm ỉ.

    Cô nắm chặt đôi đũa ngà, móng tay găm sâu vào lòng bàn tay, song vẫn gắng giữ vẻ thản nhiên, nhẹ nhàng đáp: "Đâu có chuyện đó? Dù về sau có chồng có con, tôi cũng vẫn là Hoàng Tử Hà, hễ gặp phải án oan, vẫn sễ dốc hết sức tìm ra chân tướng."

    "Thật ư? Thế thì vụ án Ngạc vương gia náo động cả kinh thành, ta cũng sắp phát điên vì chân tướng phía sau, vậy mà Sùng Cổ vẫn trốn ở đây ăn ngon mặc đẹp, bưng tai bịt mắt à?"

    Hoàng Tử Hà chống trán đáp khẽ: "Gần đây tôi bị ốm."

    "Hả... Ồ, thảo nào, sắc mặt kém lắm." Chu Tử Tần lộ vẻ áy náy, "Xin lỗi, ta là bạn Sùng Cổ mà chẳng để ý gì cả, đừng trách ta nhé."

    Hoàng Tử Hà gật đầu cười gượng.

    "Thực ra hôm nay ta định đến phủ Quỳ tìm Sùng Cổ cơ, rồi mới sực nhớ ra lần trước Sùng Cổ bảo mình ở phường Vĩnh Xương, bè n chạy thẳng đến đây."

    "Công tử tìm tôi có việc gì thế?"

    "Đương nhiên là vì việc của Ngạc vương rồi. Sùng Cổ không thấy chuyện này vô cùng kỳ lạ bí hiểm, nhất định có ẩn tình ư? Hễ cứ nghĩ chẳng biết chân tướng là gì, ta lại ăn không ngon ngủ không yên. Ta cảm thấy chuyến này ắt là trời cao gọi ta về Trường An đấy! Hình như ta còn nghe thấy thần tiên thì thầm với mình rằng, Chu Tử Tần, trời đã giao nhiệm vụ cho ngươi, ngươi nhất định phải phá giải được bí ẩn Ngạc vương tự vẫn và thi thể biến mất." Nói rồi, gã siết chặt nắm tay đặt lên ngực, "Ta là người được trời cao chọn lựa để phá vụ án này! Đương nhiên...là cùng với Sùng Cổ."

    Trái với vẻ cuồng nhiệt thành tín của gã, Hoàng Tử Hà khá dửng dưng: "Công tử đã có manh mối gì chưa?"

    "Dĩ nhiên...là chưa. Hôm Ngạc Vương tự vẫn ta đâu có ở cung Đại Minh." Chu Tử Tần hơi tiu nghỉu, song ngay lập tức đã hăng hái trở lại, "Nhưng cũng chẳng sao, ta đã tới hỏi Thôi Thuần Trạm, chẳng phải Thôi thiếu khanh đang tạm thay Quỳ vương nắm Đại Lý Tự ư?"

    "Thôi thiếu khanh nói thế nào?"

    "Thôi thiếu khanh ấy hả, hễ nhắc tới vụ Ngạc vương là tỏ vẻ không thiết sống nữa. Sùng Cổ cũng biết đấy, chuyện này ly kỳ quái lạ, chẳng có manh mối, Thôi thiếu khanh biết bắt tay từ đâu được? Đúng là hết cách. Ta đề nghị giúp Đại Lý Tự điều tra vụ này, Thôi thiếu khanh bèn hỏi chẳng phải thường ngày ta sở trường nghiệm thi hay sao? Giờ Ngạc vương đã bay lên thành tiên, làm sao điều tra được. Ta bèn trình bày tám khả năng lớn, mười cách điều tra...Cuối cùng Thôi thiếu khanh viết cho ta một mảnh giấy, bảo đến tìm Vương công công hỏi xem có thể vào phủ Ngạc vương xem xét hay không."


    Hoàng Tử Hà thừa biết năng lực đeo bám của Chu Tử Tần thiên hạ vô song, chắc hẳn Thôi Thuần Trạm bấy giờ đã bị nì nèo đến hoa mắt chóng mặt, còn sức đâu mà nghe cái gì tám khả năng lớn với mười cách điều tra, đành viết quách một mảnh giấy xua con ruồi vo ve này đi cho nhanh.

    "À phải, giấy thì đã cầm rồi, nhưng người chủ quản việc này là Vương công công, giờ vấn đề duy nhất của chúng ta là phải đi tìm Vương công công...Nghe nói ông ta không mấy khi ở chỗ Thần Sách quân, biết đi đâu tìm được đây?"

    "Để tôi tìm cho." Hoàng Tử Hà khẽ đề nghị.

    Chu Tử Tần ngạc nhiên nhìn cô: "Có được không đấy? Nghe nói Vương công công rất ghê gớm, trong triều đến họ Vương Lang Gia ông ấy còn không nể mặt, Sùng Cổ định lấy thân phận gì để tiếp cận chứ?"

    Hoàng Tử Hà biết rõ mọi người trong triều đều không hay quan hệ giữa Vương Tông Thực và nhà họ Vương, nên cũng không tiết lộ, chỉ đáp: "Công tử cứ đến phủ Ngạc vương trước đợi tôi, nhớ mượn hai bộ công phục vừa với chúng ta, đồ của Đại Lý Tự hay bộ Hình cũng được, lát nữa tôi đến ngay."

    Một canh giờ sau, họ gặp nhau ở cổng phủ Ngạc, Chu Tử Tần cầm giấy viết tay của Thôi Thuần Trạm, Hoàng Tử Hà cầm danh thiếp của Vương Tông Thực.

    Người phủ Ngạc đang rối như tơ vò, từ gã canh cổng đến ả thị nữ, thấy họ bước vào thì nơm nớp lo sợ, tuy tất cả đều tươi cười niềm nở ra đón, song cảm giác xẻ đàn tan nghé vẫn bao trùm cả phủ.

    Trước tiên, Hoàng Tử Hà đến bái tế linh vị Trần thái phi. Trên ban thờ vẫn đầy đủ nhang đèn đồ cúng, mọi thứ trong gian điện đâu vẫn nguyên đấy, chẳng khác lần trước cô đến.

    Hoàng Tử Hà quỳ xuống trước linh vị, hai tay cầm nén hương, rì rầm khấn khứa.

    Cuối cùng cô mở mắt ra, cắm nén hương vào lớp tàn tro trong lư hương chân cao đường kính thước rưỡi.

    "Kịch" một tiếng rất khẽ, nén hương gãy đôi. Cảm giác dưới lớp tro vốn mềm xốp có gì đó cưng cứng cấn vào chân hương, Hoàng Tử Hà mặt không đổi sắc, dùng chân nén hương bới lớp tro ra, chợt thấy ánh sáng lóe lên.

    Cô vội giấu vật bên dưới đi, vùi tàn tro lại, rồi cắm nén hương xuống chỗ khác, quay ra hỏi các thị nữ đứng cạnh đó: "Ngạc vương gia hằng ngày đều đến đây thắp hương cho thái phi ư?"

    Các thị nữ gật đầu: "Thưa vâng, vương gia rất hiếu thảo với mẹ, mỗi sáng thức dậy việc đầu tiên là đến đây thắp hương, chưa bao giờ chểnh mảng."

    "Hôm vương gia xảy ra chuyện...cũng vậy ư?"

    "Vâng, vì hôm ấy là Đông chí nên trời chưa sáng gia đã đến, đóng cửa nhốt mình trong phòng. Bấy giờ chúng nô tỳ đều đứng hầu bên ngoài, tôi nhớ...phải đến một canh giờ gia mới ra."

    "Đúng thế, lúc ấy chúng tôi còn nói vương gia đúng là chí hiếu, Đông chí theo lệ phải bái tế tổ tiên, gia rất thành tâm."

    Hoàng Tử Hà gật đầu, hỏi thêm: "Gần đây Ngạc vương gia gặp gỡ những khách khứa nào?"

    "Vương gia nhà chúng tôi xưa nay ưa yên tĩnh, hiếm khi có khách đến thăm. Từ sau lần Quỳ vương tới chơi tháng trước, gia lại càng khép mình, trừ người trong phủ ra, không tiếp xúc với ai cả."

    Hoàng Tử Hà sững người hỏi: "Cũng không hề ra khỏi cửa ư?"


    "Thưa không." Tất cả đều lắc đầu, khẳng định, "Chúng nô tỳ cũng khuyên nhủ gia nên ra ngoài đi dạo cho thư thái, song gia ngày ngày chỉ ủ ê buồn bã, thoạt đầu còn loanh quanh trong vườn, về sau trừ nơi này ra, gần như chẳng rời khỏi điện nửa bước."

    "Phải phải, trước đây tuy gia không hay ra ngoài, nhưng thỉnh thoảng cũng đến các chùa chiền xung quanh uống trà đàm đạo cũng các vị đại sư, không như dạo gần đây... có thể thấy dường như gia đã quyết..."

    Mấy thị nữ kể lể rồi khóc nức lên, tâm trạng buồn bã lan ra, ngay đám hoạn quan cạnh đó cũng sụt sịt.

    Thấy nữ nhân khóc lóc, Chu Tử Tần luống cuống nhìn sang Hoàng Tử Hà. Cô đưa mắt ra hiệu cho gã rồi nói: "Chúng ta phụng lệnh tới điều tra việc này, nhất định sẽ trả lại cho Ngạc vương gia một đáp án thỏa đáng. Xin các vị lui ra trước để chúng ta tìm trong điện xem có vật chứng nào liên quan tới vụ này không." Đợi đám người hầu kẻ hạ nhất loạt lui ra, Chu Tử Tần đóng cửa lại, thấy Hoàng Tử Hà đã chạy đến trước lư hương, dùng khăn tay bịt mũi miệng, cầm que cời cạnh đó bới tro lên.

    Dưới lớp tro xốp, cô rút ra được một vật lấp loáng, là một lưỡi đoản kiếm, bèn cầm lên đập đập vào thành lư hương cho tro than bay hết. Đoản kiếm sáng loáng lộ ra, hàn quang chói mắt.

    Chu Tử Tần vừa thấy đã buột miệng: "Là thanh đoản kiếm đó à!" Dài bốn tấc, rộng một tấc, lưỡi mỏng như giấy. Có điều hình như đã bị kẻ nào đó đập mạnh nên lưỡi cong queo cả lại, mũi cũng quằn đi, song hàn quang vẫn khiến người ta không dám nhìn thẳng.

    Hoàng Tử Hà chậm rãi đặt nó lên bàn thờ: "Phải, giống hệt thanh đoản kiếm của Công Tôn đại nương ở Thục."

    "Nghe nói vật này rèn từ hàn thiết, Thái Tông hoàng đế tổng cộng rèn ra hai mươi tư thanh, trừ thanh tốt nhất ra, còn thì đều phân chia tản mác cả. Thanh duy nhất còn lại ấy, hình như đã ban cho Tắc Thiên hoàng hậu..."

    "Giờ thanh đoản kiếm này đã bị đập cong queo cả rồi, không nhận ra có phải thanh Công Tôn đại nương dùng giết Tề Đằng hay không nữa." Nói rồi, Hoàng Tử Hà lại dùng que cời bới tiếp, móc ra một nhúm sợi tơ tướp.

    Là một sợi tơ đỏ đã cháy đen chỉ còn một mẩu bằng ngón út, màu đỏ tươi, dù bám bụi tro, nhưng vừa giũ đi đã lộ ra sắc đỏ chói mắt.

    Thấy Hoàng Tử Hà vẫn bới đống tro; Chu Tử Tần sốt ruột: "Nhiều tro như thế nhất định bới đến bao giờ? Để ta."

    Đoạn gã nhanh nhảu nhấc ngay một chân lư hương lên, đổ ụp xuống đất, tro than tức thì bay mù mịt.

    Hoàng Tử Hà không còn gì để nói: "Thế này là bất kính với Trần thái phi đấy."

    "Hả? Thế à? Dù sao Trần thái phi cũng mất cả năm rồi, không để bụng đâu." Chu Tử Tần vơ một que hương tâm trúc cạnh đó bươi đống tro lên.

    Hoàng Tử Hà đành câm nín cũng gã bươi vầy.

    Chẳng bao lâu, tất cả dị vật trong đống tro đều bị móc ra. Một thanh đoản kiếm bị đập cong queo; mấy mẩu tơ đỏ bị đốt cháy còn sót lại; mấy miếng ngọc vỡ trong suốt, ghép lại thành một chiếc vòng ngọc.

    "Công tử không thấy quen ư?" Hoàng Tử Hà cầm một mảnh ngọc vỡ lên, đưa cho Chu Tử Tần. Nhìn chất ngọc trong veo lóng lánh, gã không khỏi trầm trồ: "Đúng là ngọc tốt, chưa từng thấy ngọc nào đẹp thế này... Á, không phải, trước đây ta chẳng giúp các vị cuỗm hai cái vòng từ phòng vật chứng ở nha môn quận Thục ư? Một chiếc là vòng song ngư bị Sùng Cổ đập vỡ, chiếc còn lại của Phó Tân Nguyễn, chất ngọc có thể nói là tuyệt đỉnh thiên hạ..."

    Nói đến đây, gã nhìn lại mảnh ngọc trong tay mình, rồi nhìn sang các mảnh khác đã được Hoàng Tử Hà ghép lại thành hình chiếc vòng, há hốc miệng: "Lẽ nào... chính là cái đó?"

    "Ừm." Hoàng Tử Hà nhớ rõ, lúc cô cùng Lý Thư Bạch đưa chiếc vòng này về trả Ngạc vương, y còn cung kính đặt nó trước bài vị mẫu phi. Thực không ngờ mới mấy ngày mà đã biến thành một nắm ngọc nát.

    "Bất luận ra sao, chỉ cần có liên quan tới bản án, thì cứ giữ lại." Chu Tử Tần giỏi nhất việc này, lập tức nhét mọi thứ bới được vào ngực và tay áo, nhìn bên ngoài khó mà nhận ra được.
     
  19. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 8 - Kết dải đồng tâm
    Lục soát trong điện một lượt nữa. Hoàng Tử Hà rất chú trọng mười hai chữ Trần thái phi khắc trên mép bàn trang điểm, song chỗ đó đã bị đẽo đi, chỉ còn vết gỗ mới, không lưu lại nét chữ nào.

    Ra khỏi điện, họ giải thích với đám cung nhân đứng ngoài: “Xin lỗi, vừa nãy trong lúc tìm kiếm, vô ý làm đổ lư hương rồi.”

    “Các ngươi vào dọn dẹp ngay.” Một cung nữ đứng tuổi quay ra bảo các thị nữ.

    Hoàng Tử Hà bèn chắp tay hành lễ với bà ta: “Cô cô là nữ quan ở đây ư?”

    Cung nữ nọ cũng chắp tay trả lễ: “Nô tỳ Nguyệt Linh, hơn mười năm trước đã theo hầu thái phi, về sau thái phi bị bệnh dọn về phủ Ngạc vương, nô tỳ cũng đi theo.”

    Hoàng Tử Hà vội tiếp lời: “Ra là Nguyệt Linh cô cô. Trước đây tôi từng gặp hai vị cô cô Trường Linh, Diên Linh, họ cũng nhắc tới Nguyệt Linh cô cô.”

    “À phải, mấy người chúng tôi vào cung cùng đợt, cũng rất thân thiết.”

    “Cô cô vừa vào cung đã đi theo Trần thái phi ư?”

    “Nô tỳ vốn là người trong cung Triệu thái phi, dạo đó bên Trần thái phi thiếu người nên được điều sang. Trần thái phi rất tốt tính, chủ tớ hợp nhau, về sau nô tỳ trở thành người của Trần thái phi luôn.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu, lại hỏi thêm: “Tôi muốn hỏi cô cô vài điều về thái phi, cô cô có rảnh không?”

    Nguyệt Linh gật đầu, dẫn họ đến một gian phòng nhỏ gần đó, còn chính tay pha trà bưng lên, an vị xong xuôi mới hỏi: “Chẳng hay hai vị muốn hỏi chuyện gì? Nếu nô tỳ biết nhất định sẽ kể hết.”

    “Hơn mười năm trước Trần thái phi đột nhiên phát bệnh, bấy giờ cô cô có hầu hạ bên cạnh không?”

    Nguyệt Linh gật đầu thở dài: “Nhớ năm xưa Từ phi của Thái Tông hoàng đế, sau khi Thái Tông băng hà cũng ngã bệnh, lại không chịu dùng thuốc, cuối cùng qua đời theo Thái Tông hoàng đề, nô tỳ vẫn thường coi là kẻ si. Nào ngờ Trần thái phi chủ nhân của nô tỳ còn cố chấp si mê hơn cả Từ phi, tiên hoàng vừa qua đời đã đau đớn quá độ mà... phát bệnh, thực khiến người ta cảm thán, cũng khiến người ta kính phục.”

    “Nói vậy là sau khi tiên hoàng qua đời Trần thái phi mới bắt đầu phát bệnh ư?”

    “Đúng thế, nô tỳ tận mắt chứng kiến, rất nhiều người già trong cung cũng biết. Sáng hôm ấy thái phi vẫn khỏe mạnh, theo lệ còn đích thân sắc thuốc đưa đến cho tiên đế. Nô tỳ nhớ lúc theo thái phi vào điện, bên trong có rất nhiều người lạ mặt, thái phi thoáng thấy Vương công công đứng đó bèn hỏi ông ấy có phải hôm nay có chuyện gì quan trọng không.”

    Vừa nghe thấy ba chữ Vương công công, Hoàng Tử Hà liền hỏi: “Là Vương Tông Thực công công trung úy hộ quân Thần Sách quân ư?”

    “Thưa phải. Bấy giờ Vương công công còn trẻ, mới hơn hai mươi thôi. Sau khi tiên đế diệt trừ Mã Nguyên Chí, trong cung cũng đổi một loạt người hầu, trong đó Vương công công được lòng tiên hoàng nhất, nên còn trẻ như vậy đã được giao trọng trách. Tiên hoàng luôn đề phòng hoạn quan lại tin dùng Vương công công như vậy, cũng thực hiếm có.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu: “Vương công công trả lời thế nào?”

    “Vương công công đáp thánh thượng bệnh nặng kéo dài, nội cục bèn triệu tăng nhân các nơi vào kinh cầu phúc. Trong đó có một vị là Mộc Thiện đại sư, thuộc hàng đại đức, giờ đang cầu phúc cho thánh thuợng. Thái phi bưng bát thuốc, phân vân mãi không biết có nên vào hay không, lại e làm gián đoạn nghi thức...” Tình cảnh hôm ấy vẫn như sờ sờ trước mắt, Nguyệt Linh cứ thế lần lượt kể ra, không cần nghĩ ngợi: “Vương công công nói mình đang định vào trong, lại e thái phi không biết việc cầu phúc, đi vào làm kinh động thì không hay. Đoạn công công nhìn bát thuốc trên tay thái phi nói, đã có danh y khác chuẩn trị cho thánh thượng, không cần uống thuốc này nữa.”

    Hoàng Tử Hà trầm ngâm hỏi: “Thế nên...tiên hoàng không uống bát thuốc ấy ư?”

    “Không, thái phi lắc đầu nói, bệnh của bệ hạ xưa nay đều do mình săn sóc, cũng luôn uống loại thuốc này, dù đổi thầy thuốc khác cũng phải uống nốt bát này đã. Vương công công liền nói, đã vậy thì nô tài không nhiều lời nữa.”

    Hoàng Tử Hà cau mày: “Cuối cùng thái phi vẫn vào cho tiên hoàng uống bát thuốc ấy ư?”

    “Vâng, nô tỳ đi theo vào đại sảnh, nhưng không được vào hậu điện. Tiếc rằng bệnh tình tiên hoàng đã quá nặng, thuốc thang cũng không trị nổi... Thái phi cũng quá cố chấp, đến nỗi mất cả tỉnh táo...” Nguyệt Linh nghẹn ngào lau nước mắt, không sao kể tiếp được nữa.


    Hoàng Tử Hà vội rót một ly trà nóng, dịu giọng an ủi mong bà bớt đau thương.

    Nguyệt Linh uống trà, ngồi lặng đi thật lâu, tới khi bình tĩnh lại mới hỏi: “Chẳng hay hai vị đi chuyến này có phát hiện gì chăng? Vụ án của vương gia nhà chúng tôi rốt cuộc đã có manh mối chưa?”

    Chu Tử Tần tay bưng ly trà tay gãi đầu sồn sột, úp mở đáp: “Dĩ nhiên là có rồi, chúng ta vừa phát hiện ra một việc tày trời!”

    Nguyệt Linh hỏi dồn: “Có liên quan gì đến Quỳ vương không?”

    “Ừm... Chuyện này rất bí mật, chúng ta phải về Đại Lý Tự bẩm báo đã.” Thấy Hoàng Tử Hà đưa mắt ra hiệu, Chu Tử Tần nhanh nhảu chữa lại ngay.

    Nguyệt Linh còn đang nghi ngờ, Hoàng Tử Hà đã hỏi luôn: “Cô cô, vừa nãy nghe các thị nữ và hoạn quan kể, từ sau khi Quỳ vương đến thăm đưa trả vòng ngọc của thái phi cho tới tận hôm Đông chí, Ngạc vương không hề ra khỏi cửa ư?”“Đúng vậy, quả thật không rời khỏi cửa, nô tỳ có khuyên giải nhưng gia ôm nhiều tâm sự, tinh thần sa sút, ai nói cũng không nghe...” Nói đoạn Nguyệt Linh lại thở dài, nâng ống tay áo lên lau nước mắt.

    “Vương gia không ra cửa, vậy có khách khứa gì tới thăm không?”

    “Không có. Trước đây còn có vài vị khách nhàn tản xin gặp, nhưng vương gia không tiếp kiến ai cả.”

    Hoàng Tử Hà trầm tư gật đầu, ngẫm nghĩ một thoáng rồi hỏi: “Có ai đưa đồ vật gì đến không?”

    Nguyệt Linh nhíu mày, chưa kịp đáp thì một quan đứng sau đã cướp lời: “Cái này thì có. Trước Đông chí mấy ngày, có người đưa đến cửa.”

    “Đây là Già Nam, hầu hạ trong điện của vương gia.” Nguyệt Linh giới thiệu, “Nô tỳ xưa nay chủ yếu ở hậu điện, những chuyện về vương gia, các vị hỏi cậu ta thì hơn.”

    Già Nam rất hoạt bát nhanh nhẹn, thuật chuyện trôi chảy lưu loát, ăn nói lại rành mạch rõ ràng: “Trước Đông chí chừng ba bốn ngày, tôi đang cùng mọi người sưởi ấm tán gẫu trong phòng canh cổng thì thấy bên ngoài có một hoạn quan lạ mặt đi đến, đưa một cái hộp kèm theo cả danh thiếp, nói là người phủ Quỳ, nhờ chúng tôi đưa cho vương gia xem qua. Vì thấy lạ mặt nên chúng tôi không dám đưa đi ngay, mà mở ra xem thử, bên trong là một dải đồng tâm tết bằng tơ đỏ tươi, phía trên còn đính tua, trông rất đẹp.”

    Chu Tử Tần lén sờ sờ mấy sợi tơ đỏ đã cháy đen trong ngực áo, trầm tư hỏi: “Quỳ vương tặng Ngạc vương dải đồng tâm là có ý gì?”

    Già Nam gãi đầu bối rối: “Việc giữa các vương gia với nhau, chúng nô tài làm sao biết được, lúc ấy chúng tôi kiểm tra cái hộp, thấy không có gì khác bèn đặt dải đồng tâm vào chỗ cũ. Nô tài đưa hộp vào trình gia, gia thấy dải đồng tân nọ cũng chẳng hiểu gì, nghe nói là phủ Quỳ đưa đến thì sai người cất đi, không bảo gì thêm.”

    Hoàng Tử Hà gật đầu hỏi: “Chỉ có lần đó thôi ư?”

    “Còn một lần nữa, trước Đông chí một ngày. Tâm trạng gia không tốt, cả ngày ủ ê giam mình trong điện, đuổi hết chúng tôi ra ngoài, nô tài vốn phải trực hầu trong điện mà hôm ấy cũng phải ra ngồi ngoài hành lang hứng gió rét, lạnh đến cóng người. Đúng lúc ấy hoạn quan canh cửa lại đưa một cái hộp đến, nói là của kẻ hôm trước. Nô tài hỏi có phải lại là dải đồng tâm không, thì y lắc đầu đáp, là một thanh đoản kiếm.”


    Kể đến đây, Già Nam hất cằm dẩu môi về phía một tiểu hoạn quan khác gần đó: “Thẩm Đàn thích nhất vung đao múa kiếm, vừa nghe bảo là thanh đoản kiếm, bèn nhanh nhảu mở ra xem. Vương gia nhà chúng tôi ôn hòa, không trách mắng người dưới bao giờ, huống hồ lại là một thanh đoản kiếm, hung khí đấy nhé, chúng tôi phải mở ra xem trước...”

    Thẩm Đàn tái mặt vì sợ, trừng mắt lườm Già Nam mấy lượt song Già Nam vẫn thao thao kể tiếp, chẳng buồn để tâm đến sắc mặt hắn: “Thế là chúng tôi mở hộp ra ngay ngoài hành lang, thấy một thanh đoản kiếm đặt trên lớp nhung tím, lưỡi kiếm loang loáng sắc lạnh, khiến người ta lóa cả mắt! Tôi sợ đến mức phải giật lùi mấy bước, chân nhũn cả ra...”

    Thẩm Đàn hết cách, đành chen vào: “Phải phải, thanh đoản kiếm nọ đúng là báu vật hiếm thấy, bấy giờ tôi còn nghĩ Quỳ vương và vương gia nhà chúng tôi quả là anh em thân thiết, một thần binh tuyệt thế như vậy mà cũng tặng cho gia.”

    Chu Tử Tần gãi đầu: “Tặng thanh đoản kiếm quý giá thì còn nghe được, nhưng tặng dải đồng tâm là ý gì?”

    “Đúng thế, chúng tôi cũng nghĩ mãi không ra.”

    Nghe đến đây, Hoàng Tử Hà đứng dậy hành lễ cáo từ rồi nói: “Tử Tần, chúng ta về thôi.”

    Chu Tử Tần vội vã theo cô cáo từ mọi người rồi lên ngựa đi dọc theo đường phố Trường An quay về.

    Đến một chỗ vắng vẻ, Hoàng Tử Hà mới bảo gã: “Thế này đi, tôi về phường Vĩnh Xương trước đã.”

    Chu Tử Tần ngạc nhiên hỏi: “Gì cơ? Một mình Sùng Cổ về thôi à? Chúng ta vừa tìm ra manh mối lớn, nên đi tìm Quỳ vương ngay mới phải!”

    Tim giật thót lên, Hoàng Tử Hà vội vã ngoảnh mặt đi: “Tôi... tôi không đi đâu.”

    “Ôi...” Thấy thái độ của cô, Chu Tử Tần sinh nghi, vội gặng: “Sùng Cổ sao thế? Đỏ mặt cái gì?”

    “...Không, không có gì.” Cô luống cuống giơ tay che mặt, song lại thấy hai má nóng bừng như lửa đốt. Trước ánh mắt săm soi của Chu Tử Tần, cô bối rối đáp bừa: “Chắc là nẻ thôi, gió lớn quá...”

    “Bôi thêm ít kem vào. À phải, kem bôi mặt lần trước ta đưa dùng được không?”

    Cô thở phào, vội lái câu chuyện sang hướng khác: “Tốt lắm, tốt hơn hàng mua bên ngoài nhiều.”

    “Để lần sau ta làm cho Sùng Cổ mùi hoa lan, Vương Uẩn thích hoa lan mà. Ôi... không biết Nhị cô nương có thích loại mùi hoa quế kia không nữa, ta chưa kịp hỏi đã đi mất rồi...” Chu Tử Tần than thở, rồi thấy má cô vẫn đỏ hồng, dưới ánh mặt trời tươi đẹp không khác gì đào mận, bất giác buột miệng, “Sùng Cổ nếu là nữ... À à, Sùng Cổ vốn là nữ mà...” Hình như sực nhớ ra cô là nữ khiến gã vô cùng hụt hẫng, bĩu môi rồi nói: “Được được, đi thôi.”

    Hoàng Tử Hà chưa kịp phản ứng lại, ngơ ngác hỏi: “Đi đâu?”

    Chu Tử Tần chồm sang, nắm lấy dây cương của cô: “Phủ Quỳ!” Hoàng Tử Hà cắn môi, giật cương lại: “Tôi không đi đâu...”

    "Sao lại không đi? Chẳng phải Sùng Cổ vẫn coi việc phá giải án oan trong thiên hạ là trách nhiệm của mình ư? Hôm nay vừa tra ra hàng loạt chứng cứ, sao không chịu đến tìm Quỳ vương thảo luận? Chẳng phải chúng ta có phát hiện quan trọng à?"

    Hoàng Tử Hà bất lực nhìn gã bằng ánh mắt vật nài: "Tử Tần đừng hỏi nữa, tôi... tôi không thể đi gặp Quỳ vương được..." Đã cãi cọ, đã chia tay, rồi thình lình xảy ra nụ hôn bất ngờ nọ, giờ cô thực không dám chạm mặt Lý Thư Bạch. Cô từng phá vô số kỳ án, nức tiếng thông minh, song giờ đây lại hoàn toàn không biết mình phải đối diện Lý Thư Bạch thế nào, nên nói câu nào đầu tiên, nên hành động thế nào...

    Lòng cô rối như tơ vò, hai tay giữ chặt lấy dây cương.

    "Ôi dào, toàn người quen cả, sao lại không thể gặp, mau đi thôi." Chẳng để cô kịp phân bua, Chu Tử Tần kéo giật lấy cương con ngựa cô cưỡi, còn tiện tay vụt một roi vào mông nó: "Đi nào!"

    Con ngựa bị đau, tức thì lồng lên mà chạy. Hoàng Tử Hà cúi rạp người trên ngựa, tức tối thét lên: "Chu Tử Tần, làm cái gì vậy?"

    "Yên tâm, không ngã được đâu." Gã vừa đáp vừa cười ha hả, "Xem kìa, chẳng phải đến rồi ư?"

    Hoàng Tử Hà ngước lên nhìn, quả nhiên đã đến phủ Quỳ. Cô tung người nhảy xuống ngựa rồi quay lưng định chạy, nào ngờ bỗng nghe có người gọi: "Hoàng Tử Hà."

    Vừa nghe thấy giọng nói thanh thanh lạnh lùng ấy, Hoàng Tử Hà run bắn, hai chân không sao nhấc nỗi nữa.

    Cô chầm chậm quay đầu, vừa khéo thấy xe ngựa của Lý Thư Bạch đỗ ngay trước cổng, y đang đẩy cửa bước ra, đứng trên xe nhìn về phía cô, vì đứng trên cao lại ngược sáng nên nhất thời khó mà trông rõ vẻ mặt y.

    Hoàng Tử Hà ngây ra hồi lâu mới gọi khẽ: "Vương gia..."

    Đám lính gác cổng đã bắc sẵn bậc, y từ trên xe bước xuống, vận chiếc áo tím nhạt, tươi tắn hơn hẳn ngày thường khiến cô bất giác ngước lên nhìn, tưởng chừng y là vầng dương rạng rỡ mọc lên ngay trước mặt, khiến cô không nỡ rời mắt.

    Lý Thư Bạch bước đến gần cô, tay hơi giơ lên như muốn vuốt má cô. Nhưng chần chừ một thoáng, y từ từ bỏ tay xuống, lặng lẽ nhìn cô hồi lâu mới nói: "Đến đây." Hoàng Tử Hà cúi đầu, lầm lũi theo y đi vào vương phủ.

    Chu Tử Tần theo sau cả hai, liến thoắng: "Xem đấy, vừa rồi còn hét ầm lên định đánh bài chuồn, sao giờ đã ngoan ngoãn thế." Hoàng Tử Hà ấm ức trừng mắt lườm gã, rồi lại cắm cúi đi.

    Vừa đến hiên Tịnh Dữu, đợi người hầu bưng trà lên xong, Chu Tử Tần nhìn quanh quất, rồi khép cửa lại, moi những thứ trong lồng ngực ra đặt lên bàn: "Đoản kiếm, tơ đỏ, ngọc vỡ..."

    Lý Thư Bạch uống trà, im lặng quan sát.

    Chu Tử Tần giải thích: "Đây là những thứ chúng tôi tìm được trong phủ Ngạc vương, gia đoán xem tìm thấy ở đâu?"

    Lý Thư Bạch nhìn vết tro than lấm lem bên ngoài, hỏi ngay: "Chúng bị đốt trong lư hương trước

    linh vị Trần thái phi ư?"

    Hoàng Tử Hà bưng ly trà, cúi đầu nhìn mấy đồ vật trên bàn: "Đúng thế, hơn nữa nếu đốt vào ngày thường, ắt sẽ bị phát hiện ra ngay. Nghe nói hôm Đông chí, trước lúc vào cung, Ngạc vương đóng cửa ngồi trước linh vị rất lâu, tôi nghĩ... có lẽ bấy giờ Ngạc vương đã phi tang ba thứ này."

    "Đoản kiếm là thanh của Công tôn đại nương ư?" Lý Thư Bạch lại hỏi.

    Hoàng Tử Hà lắc đầu: "Không biết, vì chúng ta không rõ hai mươi ba thanh đoản kiếm bằng hàn thiết kia có cùng một kiểu với thanh của Công Tôn đại nương không. Nếu giống, thì đây cũng có khả năng là một trong hai mươi ba thanh đó."

    "Đợi tôi về Thục xem thanh đoản kiếm đó có còn trong phòng vật chứng không, chưa chừng lại biết đấy." Nói đoạn, Chu Tử Tần rầu rĩ thở dài, "Có điều từ đây về Thục cả đi cả về cũng mất khối ngày."

    "Ta sẽ lập tức phái người đi điều tra." Lý Thư Bạch cuối cùng cũng đặt ly trà xuống, chăm chú quan sát một vật trên bàn, "Chiếc vòng này chắc hẳn là chiếc chúng ta lấy từ chỗ Phó Tân Nguyễn, đưa đến phủ Ngạc hôm nọ hả?"

    Chu Tử Tần đáp: "Đúng thế, tôi cũng lấy làm lạ, sao Ngạc vương lại đập vỡ chiếc vòng của Phó Tân Nguyễn trước linh vị Trần Thái phi rồi vùi vào lư hương? À không phải không phải, đúng ra là, tại sao hai vị lại đưa chiếc vòng ấy cho Ngạc vương?"

    Hoàng Tử Hà lặng lẽ đưa mắt sang Lý Thư Bạch, không đáp. Y thuận miệng trả lời: "Đó là vật mẫu phi của Ngạc vương rất yêu quý, sau khi bà ấy qua đời, Ngạc vương mới đem tặng cho Phó Tân Nguyễn."


    Chu Tử Tần líu cả lưỡi, mấy chữ "vừa phát hiện được bí mật trọng đại" hiện rành rành lên mặt.

    Hoàng Tử Hà nhìn lướt qua đoản kiếm, vòng ngọc và dải đồng tâm rồi nói: "Còn một dải đồng tâm, cũng là trước Đông chí mấy hôm có người mượn danh phủ Quỳ đưa đến phủ Ngạc. Kẻ đưa đồ dường như không hề sợ người khác kiểm tra nên không niêm phong hộp, đám hoạn quan gác cổng kiểm tra thấy không có gì nguy hiểm, mới đưa đến tay Ngạc vương."

    "Không phải ta." Lý Thư Bạch lạnh nhạt buông một câu.

    Chu Tử Tần gật đầu lia lịa: "Đương nhiên không phải gia rồi, nhưng rốt cuộc là kẻ nào mạo xưng nhỉ, hắn đưa mấy thứ này đến có ý gì?"

    "Nhất là dải đồng tâm...rổt cuộc có ý gì nhỉ?" Hoàng Tử Hà trầm tư.

    Lý Thư Bạch ngẫm nghĩ giây lát rồi quay sang hỏi cô: "Ngoài những thứ này, các ngươi còn phát hiện gì trong phủ Ngạc không?"

    Hoàng Tử Hà không dám nhìn y, chỉ giơ tay ấn lên cây trâm trên đầu, rút trâm ngọc ra vẽ một vòng tròn lên mặt bàn: "Người trong phủ Ngạc đều nói từ sau lần Quỳ vương đưa vòng ngọc đến, Ngạc vương đóng cửa không ra ngoài, cũng không tiếp kiến một ai. Nhưng bấy giờ gia dẫn tôi theo, nên tôi rất rõ, Ngạc vương không hề có khúc mắc gì với chúng ta, hơn nữa còn nhờ chúng ta điều tra nguyên nhân phát bệnh của Trần thái phi. Tôi tin rằng bấy giờ Ngạc vương nhất định chưa bị người ta dùng thuật nhiếp hồn. Nhưng trong giai đoạn đóng cửa giam mình tại nhà, Ngạc vương lại sinh ra ác cảm với Quỳ vương, còn không tiếc hy sinh mạng mình hòng đổ tiếng xấu lên người gia, khiến gia rơi vào cảnh vạn kiếp bất phục."

    Lý Thư Bạch gật đầu, không nói. Song Chu Tử Tần lại lắp bắp hỏi: "Ý Sùng Cổ là, Ngạc vương đóng cửa không ra nên không bị người ta nhiếp hồn ư? Tất cả những điều Ngạc vương làm, đều là chủ động à?"

    Hoàng Tử Hà lại vạch một đường lên bàn, gần chạm vào vòng tròn ban đầu: "Trừ phi có người lợi dụng khoảng thời gian từ lúc Ngạc vương ra khỏi phủ đến khi cử hành đại lễ tế trời Đông chí để nhiếp hồn Ngạc vương. Nếu vậy thì chúng ta cần phải điều tra xem trong nửa ngày đó, Ngạc vương đã tiếp xúc với những người nào." Đoạn cô lại vạch một đường thẳng thứ hai, dính vào vòng tròn: "Còn nữa, có lẽ trong phủ Ngạc vương có một kẻ nào đó giỏi thuật nhiếp hồn đã mai phục bên cạnh Ngạc vương rất lâu."

    Lý Thư Bạch lắc đầu, giơ tay xoá đường thẳng này đi: "Không thể nào. Nếu có kẻ như vậy, nơi hắn được phái nằm vùng sẽ không phải trong phủ Ngạc đâu. Dù sao, ảnh hưởng của Thất đệ đối với chính cục không thể coi là lớn, cài vào bên cạnh người khác còn có ích hơn nhiều."

    "Vậy thì còn một khả năng nữa." Hoàng Tử Hà lại vạch một đường từ vòng tròn ra: "Ngạc vương đã bị nhiếp hồn từ lâu, nhưng chưa phát tác. Thanh đoản kiếm và dải đồng tâm kia có thể là một loại ám hiệu, khi nhận được hai vật này, thuật nhiếp hồn sẽ phát tác, thao túng Ngạc vương đối đầu với gia."

    Lý Thư Bạch nhíu mày, hồi lâu mới nói: "Có thủ pháp kỳ diệu như thế thực ư? Nếu quả có bậc cao nhân nhường ấy, còn cần phải tìm Mộc Thiện đại sư vào kinh sao?"

    "Ừm... Tuy nhỏ nhưng cũng tính là một khả năng." Nói đoạn, Hoàng Tử Hà chau mày: "Bí ẩn lớn nhất của vụ này là thân thể của Ngạc vương làm cách nào biến mất giữa không trung."

    Chu Tử Tần hỏi: "Có khả năng là kẻ đầu tiên chạy đến dưới gác Tường Loan đã giấu thi thể đi không?"

    "Kẻ đầu tiên chạy đến là Vương Uẩn. Nhưng Vương Uẩn không chạy đến một mình, mà phía sau còn một toán Ngự Lâm quân. Lúc họ chạy đến bên dưới, thấy trên mặt tuyết không có dấu vết vật gì rơi xuống cả, cũng không có dấu chân người qua lại."

    Chu Tử Tần nhíu mày ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đập bàn reo lên: "Ta biết rồi! Ta biết tại sao Ngạc vương lại gieo mình xuống từ phía bên kia gác Tường Loan, chứ không nhảy ngay xuống trước mặt các vị rồi."

    Hoàng Tử Hà nhìn gã dò hỏi.

    "Bởi vì Ngạc vương đã bắc sẵn một cái giá dưới gác, hoặc giăng một cái võng bằng vải mềm trên tường, nên các vị trông thì tưởng Ngạc vương nhảy xuống đất, thực ra chỉ là nhảy xuống giá hoặc võng, không rụng một sợi tóc." Chu Tử Tần dương dương tự đắc, ra vẻ tỏ tường hết mọi chuyện trong thiên hạ, "Sau khi Ngạc vương nhảy xuống, bên gác Tê Phượng nháo nhác cả lên, nhân lúc các vị phải vòng qua điện Hàm Nguyên chạy sang, Ngạc vương đã gỡ cái giá hay võng ra chuồn đi."


    Hoàng Tử Hà phản bác: "Nghe cũng có lý, nhưng hôm ấy trời có tuyết nhẹ. Bấy giờ tôi và Quỳ vương là hai người chạy sang gác Tường Loan đầu tiên, tôi đã kiểm tra lan can, thấy lớp tuyết phủ trên đó vẫn phẳng lì, không hề có dấu vết của quai võng."

    "Thế...nếu bắc giá bên ngoài thì sao?"

    "Về sau chúng tôi cũng xuống dưới xem xét chỗ Ngạc vương nhảy xuống, thấy trên tường trống trơn, không có dấu vết va quệt in trên tuyết."

    "Được rồi, để ta lại nghĩ thêm..." Chu Tử Tần tiu nghỉu, rồi lại nhìn sang Hoàng Tử Hà, "Sùng Cổ còn phát hiện gì khác không?" Hoàng Tử Hà lắc đầu: "Có thể điều tra về kẻ đưa dải đồng tâm và đoản kiếm, nhưng đã là mạo xưng thì cũng rất có khả năng cải trang, e rằng khó mà tra được."

    "Hay là điều tra từ chiếc hộp?" Chu Tử Tần đề nghị, "Ta nhớ trong góc hộp hình như có một chữ "Lương", có khi lại làm ở tiệm đồ gỗ Lương Ký."

    Hoàng Tử Hà gật đầu: "Ừ để đi hỏi thử."

    Thấy cô tán đồng ý kiến của mình, Chu Tử Tần hăng hái đứng phắt dậy: "Còn chờ gì nữa? Mau đi thôi."

    Hoàng Tử Hà ậm ừ đứng dậy toan đi theo gã, song cuối cùng vẫn không kìm được, ngoái lại nhìn Lý Thư Bạch.

    Lý Thư Bạch nhìn cô, rồi đặt ly trà xuống bàn: "Đợi một lát."

    Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần bèn ngồi xuống. Còn chưa uống hết ly trà đã thấy Lý Thư Bạch trở lại, y đã thay sang áo gấm cổ tròn màu xám bạc thêu hoa văn tử kính chìm, để khỏi quá bắt mắt.

    Ba người đi thẳng tới tiệm đồ gỗ Lương Ký. Sắp đến Tết, chợ Đông toàn người là người, trước tiệm đồ gỗ Lương Ký cũng nghìn nghịt. Tuy giá cả ở đây đắt hơn nơi khác, nhưng gần nơi ở của các nhà quyền quý, lại thêm chế tác tinh xảo, nên rất nhiều dân thường cũng nhân lúc năm hết Tết đến tới mua bàn trang điểm hay hộp son phắn, chen nhau kín cửa, đúng là khách khứa như mây.

    Họ bước vào tiệm, thấy trên mặt quầy bày loại hộp kích thước hình dạng giống hệt cái trong phủ Ngạc. Chu Tử Tần liền hỏi: "Gần đây có những ai mua loại hộp này?"

    Chưởng quầy nhìn gã như nhìn kẻ ngớ ngẩn: "Từ sáng đến giờ bán ra hơn năm mươi cái, cậu hỏi lúc nào?"

    Chu Tử Tần nhũn người nằm bò ra quầy, lẩm bẩm: "Hơn năm mươi cái..."

    Lý Thư Bạch vỗ nhẹ vào lưng, ra ý bảo gã đứng lên rồi hỏi: "Trước đây ta từng mua một chiếc hộp gỗ cửu cung do Hoắc sư phụ làm ở đây. Giờ muốn đặt làm thêm cái nữa, chẳng rõ ông ấy có ở đây không?"

    Chưởng quầy lắc đầu: "Hoắc sư phụ qua đời gần bốn năm rồi. Nhưng đồ đệ của ông ấy vẫn ở đây, nhờ kế thừa được tay nghề nên cũng khá lắm, làm một cái tương tự chắc không hề gì, cậu muốn làm ư?"

    "Tốt quá, làm phiền dẫn chúng tôi tới chỗ vị sư phụ đó, để bàn bạc về chữ khắc trên hộp."

    "Đây đây, xin mời." Chưởng quầy vội gọi một gã sai vặt đến, vẻ mừng rỡ ra mặt. Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần đoán ra ngay, chắc hẳn chiếc hộp đó giá rất cao.

    Tiệm đồ gỗ Lương Ký đặt ở chợ Đông nhưng xưởng chế tác lại nằm mãi phía Nam thành. Lý Thư Bạch đã đến đây một lần, cũng coi như thông thuộc đường sá, xăm xăm đi thẳng vào gian phòng nhỏ phía Đông.

    Gọi là đồ đệ, thực ra vị này cũng đã hơn bốn mươi tuổi, đang uể oải cúi đầu bào gỗ.

    Tên sai vặt gõ gõ vào cánh cửa mở toang gọi: "Tôn sư phụ, có người tìm ông làm hộp cửu cung này." Tôn sư phụ vừa nghe thì tươi tỉnh hẳn, ngẩng lên niềm nở cười hỏi: "Lâu lắm không ai đặt làm loại hộp ấy rồi, ba vị muốn làm ư?"

    Lý Thư Bạch đáp: "Đúng vậy, muốn làm một hộp cửu cung chín chín tám mươi mốt ô."

    Tôn sư phụ mừng đến híp cả mắt lại: "Chín chín tám mươi mốt ô ư? Thế thì đắt lắm đấy, một ô một trăm đồng, lại thêm chốt lẫy bên trong, tổng cộng là... mười quan."

    Lý Thư Bạch gật đầu: "Không vấn đề gì, khi nào thì đến cài mật mã?"

    Thấy y hỏi thẳng, Tôn sư phụ lăng xăng đứng ngay dậy lấy trong hộc tủ phía sau ra một chiếc hộp cửu cung nói: "Tôi có sẵn một cái đây, sau khi sư phụ qua đời, nhân lúc rảnh rỗi tôi cũng học theo thầy làm một cái, hơn nửa năm mới xong đấy. Có điều vật này rất đắt, lại chỉ phòng được quân tử không phòng được tiểu nhân, nếu kẻ nào dùng cưa hay rìu bổ ra thì cũng toi, nên làm xong đã lâu mà chẳng khách nào hỏi đến... Ha ha, cũng chỉ có người tao nhã như quý khách đây mới biết thưởng thức nó thôi."

    Khóe môi Lý Thư Bạch hơi cong lên: "Nào dám, ta cũng chỉ muốn xem liệu có ai thích thứ này không thôi."

    Chiếc hộp nọ đã đầy đủ khung sườn, chỉ có các ô vuông để khắc chữ vẫn bỏ trống, đợi tám mươi chữ mật mã.

    Chu Tử Tần chưa bao giờ thấy hộp cửu cung, thì thầm hỏi Hoàng Tử Hà: "Đây là gì vậy? Dùng thế nào?"

    Tôn sư phụ nghe thấy, liền cao giọng giảng giải: "Đây là tuyệt kỹ năm xưa của sư phụ tôi đó! Sư phụ tôi có hai tuyệt kỹ, một là hộp liên hoa, hai là hộp cửu cung này! Quý khách xem, trên mặt hộp cửu cung có chín chín tám mươi mốt ô trống bằng móng tay, dưới mỗi ô trống này là một mắt động. Tám mươi mốt ô trống phối hợp với tám mươi ô vuông gỗ, dưới ô gỗ có các thanh đồng nhỏ dài ngắn khác nhau. Chỉ khi độ dài của tám mươi thanh đồng này trở về y như lúc ban đầu, mới mở được hộp, hay nói cách khác, đây là chiếc hộp khóa kín bằng tám mươi con chữ!"

    Chu Tử Tần há hốc miệng: "Tám mươi chữ á... Thế thì đặt chữ cũng mất công lắm nhỉ!"

    "Không sao, tám mươi mốt ô trống thì có tám mươi ô gỗ, nên những ô gỗ này vẫn có thể di động theo quỹ đạo mà, chỉ cần xáo loạn mấy lần là làm loạn hết thứ tự lên, khóa vào rất dễ, đương nhiên mở ra thì hơi khó."

    "Nhưng muốn ghi nhớ thứ tự tám mươi chữ này cũng khó lắm nhỉ?" Chu Tử Tần hỏi.

    "Thế nên thông thường mọi người chỉ đặt loại chín ô, mười hai ô, quá lắm là ba mươi sáu ô thôi. Nếu là loại tám mươi mốt ô, trừ phi là một đoạn văn trong sách cổ mà mình thuộc làu làu, hoặc một bức tranh rồi sau đó mày mò ghép lại, bằng không thì quá phức tạp." Đoạn ông ta cười hỏi Lý Thư Bạch: "Quý khách muốn đặt thứ gì?"

    Lý Thư Bạch thản nhiên đáp: "Không hề gì, ở đây ông có khắc sẵn chữ gì, ta dùng luôn là xong."

    "Vậy quý khách nhất định phải làm một bài thơ, hoặc lấy giấy ghi lại, chứ lỡ quên mất thì chỉ có cách phá luôn cái hộp thôi." Nói rồi ông ta bưng ra một chồng con chữ to bằng móng tay đặt trước mặt Lý Thư Bạch: "May mà tôi vẫn giữ đống chữ từ lúc học khắc gỗ, bằng không quý khách còn phải đợi hơn nửa tháng nữa để tôi khắc."

    Lý Thư Bạch thản nhiên nhặt bừa các chữ lên sắp vào nắp hộp, Tôn sư phụ thấy y sắp một loạt các chữ vô nghĩa "gia ngộ hộ lý song khí nhược chỉ vi duẩn..." bèn ngăn lại: "Quý khách sắp cẩn thận một chút, lỡ quên mất có phải phí mười quan tiền không!"

    Chu Tử Tần bèn kéo tay ông ta ra: "Đừng lo, huynh ấy chỉ liếc qua là nhớ thôi."

    "Thật không đấy..." Tôn sư phụ nghi hoặc hỏi: "Nghe nói chỉ có Quỳ vương triều ta mới có khả năng ấy..."

    Chu Tử Tần đắc ý cười, vỗ lưng ông ta: "Cứ yên tâm."

    Chẳng bao lâu, tám mươi chữ đã được sắp xong, chỉ chừa lại một ô trống ở góc dưới bên trái.

    Tôn sư phụ hỏi: "Quý khách chắc chắn chưa?"

    Lý Thư Bạch liếc qua đám chữ bên trên một lượt rồi nói: "Chắc rồi." Tôn sư phụ liền lấy một mảnh vải dầu, bọc kỹ mặt trên rồi lật cả chiếc hộp, úp tất cả đống mã chữ xuống, gắn cố định vào thanh trượt, sau đó cầm một nắm thanh đồng lần lượt đóng vào mặt sau từng chữ.

    Đóng hết tám mươi thanh đồng, có cao có thấp, có nghiêng có lệch, cái đính vào góc trên bên trái, cái đính vào góc dưới bên phải, cái lại đính vào chính giữa, nhìn lộn xộn như một nắm cỏ dài ngắn không đều, ông ta lại nhìn sang Lý Thư Bạch: "Quý khách, tôi đã đóng ngẫu nhiên các thanh đồng, giờ sẽ căn cứ theo độ cao thấp mà lắp khóa, đảm bảo là độc nhất vô nhị trong thiên hạ, không bao giờ có tám mươi cái khóa dài ngắn giống hệt thế này nữa. Nếu quý khách không tin, có thể tự mình đập thêm mấy cái để cân chỉnh lại độ dài ngắn."

    "Để tôi để tôi." Chu Tử Tần tóm lấy cây búa, đập bừa vào mấy thanh đồng rồi hỏi Lý Thư Bạch: "Được chưa?"

    Lý Thư Bạch gật đầu. Tôn sư phụ tức thì vung tay ốp ngay một miếng sắt lên hộp, bắt đầu lắp khóa theo độ dài ngắn mau thưa của các thanh đồng, từng thanh đồng đan xen nhau được nối lại, ở mỗi mối nối được gài một chốt đồng mặt sau mã chữ, tám mươi điểm nối chụm lại một chỗ, mười sáu thanh thép tác động đến cả bốn mặt, cạch một cái đã khóa cứng hộp lại.


    Cuối cùng ông ta lật hộp lại, gỡ tấm vải dầu bọc phía trên ra, hai tay đưa cho Lý Thư Bạch: "Mời quý khách xáo các mã chữ lên cho, từ giờ trong cả thiên hạ, chỉ mình quý khách mở được chiếc hộp này thôi."

    Chu Tử Tần tỏ vẻ không phục: "Chẳng phải chỉ cần sắp tám mươi mã chữ thôi sao, nếu tôi cứ thử lần lượt, thử mãi chắc chắn sẽ có lúc được."

    "Quý khách thật khóe đùa, tám mươi chữ này có đến sáu ngàn tám trăm cách sắp, mỗi cách lại phải xoay tất cả tám mươi ô, nói cách khác, quý khách phải xoay tất cả năm mươi mốt vạn lần mới chắc mở được, nếu không biết mật mã thì phải rất rảnh mới thử nổi."

    Chu Tử Tần tặc lưỡi: "Năm mươi mốt vạn lần cơ à... Được rồi, đúng là làm khó người ta quá. Cứ lấy rìu bổ quách cho xong."

    Hoàng Tử Hà cầm lấy chiếc hộp từ tay Lý Thư Bạch, ngắm nghía hồi lâu rồi hỏi: "Chiếc hộp lần trước cũng được làm thế này à?"

    "Đúng thế, ta đích thân tới đặt mã chữ, cũng là tám mươi chữ ngẫu nhiên không có quy luật, sau khi làm lại tự tay xáo lên, không hề có ai chạm đến."

    "Thế nên..." Cô trầm tư nhìn chiếc hộp trong tay, tám mươi chữ ngẫu nhiên, cùng tám mươi thanh đồng được đống ngẫu nhiên, kết hợp với ổ khóa độc nhất vô nhị. Đây chắc hẳn là chiếc hộp không thể giải mã, vậy mà thứ cất bên trong lại liên tục biến đổi, rốt cuộc sơ hở nằm ở đâu?

    Hoàng Tử Hà gõ nhẹ lên hộp, thấy âm thanh phát ra trầm mà đục. Tôn sư phụ giải thích: "Thực ra nó làm bằng đồng, chỉ ốp một lớp gỗ bên ngoài thôi. Chất liệu và công phu thế này, hoàn toàn xứng đáng mười quan tiền."

    Hoàng Tử Hà gật đầu, chẳng trách cầm nặng tay thế. Đoạn cô nhìn lướt qua bệ ngồi của Tôn sư phụ, thấy một đống dụng cụ chất cao, mảnh gỗ vụ vương vãi khắp nơi, miếng vải dầu vừa bọc trên hộp bị vứt chỏng chơ phủ lên nắm mảnh gỗ, còn có rất nhiều mã chữ thừa nằm rải rác.

    Chẳng phát hiện được gì cả. Cầm mãi cũng nặng tay, cô bèn đưa cho Chu Tử Tần, gã ngoan ngoãn nhận lấy.

    Lý Thư Bạch đương nhiên không đem theo chừng ấy tiền đồng, nhưng lại có một đĩnh bạc, Tôn sư phụ đã định cầm đi đổi, song tính lại thì thấy được dôi thêm một ít, cười híp cả mắt lại, rối rít cảm ơn rồi tiễn họ ra cửa.

    Chu Tử Tần ôm hộp cửu cung nhận xét: "Trông tôn sư phụ nhếch nhác luộm thuộm mà khéo tay thật đấy, cái hộp đẹp ghê."

    "Cho ngươi đấy." Lý Thư Bạch thản nhiên.

    "...Đổi mã chữ khác được không? Tám mươi chữ này chẳng có quy luật gì cả, tôi làm sao nhớ được." Chu Tử Tần nhăn mặt, "Hình như cái hộp này không đổi mã chữ được đúng không?"

    "Dĩ nhiên rồi, ổ khóa đã đặt, không thể sửa đổi được."

    "Bởi vậy trên đời chỉ có một cái này, mã chữ cũng không thể thay đổi, vĩnh viễn là độc nhất vô nhị ư?"

    "Đúng vậy." Nói rồi Lý Thư Bạch nhìn sang Hoàng Tử Hà.

    Hoàng Tử Hà cũng đang nhìn y, bốn mắt giao nhau, cô bất giác đỏ mặt, vội ngoảnh đi.

    Lý Thư Bạch bỗng thấy mặt hồ trong lòng lăn tăn sóng gợn, bước chậm hẳn, hai người tụt lại sau lưng Chu Tử Tần một quãng.

    Cả hai đều làm thinh không nói, chỉ lẳng lặng nhìn cây cối dọc đường. Tuyết tạnh trời hửng, tuyết đọng trên cành lộp bộp rơi xuống, bầu không xanh biếc soi bóng cành khô và tuyết trắng, hương mai thoang thoảng mà dai dẳng. Sóng vai mà đi, thỉnh thoảng tay trái cô lại chạm vào tay phải y, cách một lớp áo, song dường như đã chạm đến hơi ấm trên da thịt người kia.


    Cuối cùng y khe khẽ gọi: "Tử Hà..."

    Nghe tiếng y, cô càng cúi gằm mặt xuống, vầng hồng trên má kiều diễm như hoa hồng.

    Ngắm gương mặt đỏ bừng cúi thấp, máu trong người Lý Thư Bạch như sôi lên. Y không kìm nổi, vươn tay nắm chặt lấy tay cô.

    Hoàng Tử Hà giật thót tim, toan giật tay lại. Nhưng lòng bàn tay ấm áp của y đã áp lên cổ tay lành lạnh của cô, đôi hạt đậu đỏ đung đưa trên dây vàng bỗng chạm nhẹ vào mạch máu rần rật nơi cổ tay, khiến cô như bị rút cạn sức lực, đành buông xuôi mặc cho y nắm.

    Nhưng chỉ được chốc lát, vì Chu Tử Tần lập tức phát hiện ra họ đã rớt lại phía sau, liền quay đầu lại hỏi: "Sao đi chậm thế?"

    Cô cuống quít giằng tay Lý Thư Bạch, tay áo hai người tách ra, tựa hồ vừa rồi chỉ chạm tay áo vào nhau.

    Hoàng Tử Hà xoắn hai tay vào nhau hỏi nhỏ: "Có định kể chuyện lá bùa cho Tử Tần không?"

    Lý Thư Bạch nhìn theo bóng Chu Tử Tần nhảy chân sáo như một thiếu niên, lắc đầu: "Thôi, thêm một người biết là thêm một người bị cuốn vào, hay ho gì."

    Cô gật đầu, lại hỏi: "Hộp cửu cung này xem ra không có cách nào giở trò được, huống hồ bên trong còn một chiếc hộp liên hoa. Muốn mở được cả hai thứ này để lấy lá bùa bên trong ra, quả là rất khó."

    Lý Thư Bạch gật đầu đáp khẽ: "Lần trước cô cũng kiểm chứng rồi đấy, muốn tẩy vết mực son đỏ như máu phải mất khá nhiều thời gian. Còn ta có lúc một ngày lấy ra xem mấy lần, làm sao kẻ kia dám dùng cách phải ba bốn ngày mới xong được? Huống hồ sau khi mẫu phi từ trần rồi tay trái ta lại bị thương suýt thành tàn phế, hai lần lấy lá bùa ra xem chỉ cách nhau chưa đến mười canh giờ, vậy mà lá bùa đã có thay đổi. Khoanh đỏ quanh chữ 'tàn' cũng mờ dần đi cùng lúc thương thế của ta dần thuyên giảm, ta nghĩ, kẻ nọ không to gan đến mức dám liên tục lấy lá bùa ra lau cho nhạt bớt vết mực chứ?"

    Hoàng Tử Hà thở dài, phả ra một làn sương trắng, che mờ cả gương mặt: "Xem ra còn cả chặng đường dài mới kết thúc được vụ này."

    Nhìn cô chau mày, Lý Thư Bạch bất giác giơ tay vuốt giãn ra, an ủi: "Không sao, bất luận thế nào, ta tin rồi sẽ có ngày chúng ta vén hết mây mờ."

    Thấy y đầy vẻ kiên định, ánh mắt không mảy may ngần ngại, trái tim đang nơm nớp của cô cũng rơi trở về chỗ cũ. Cô chăm chú nhìn y, cong môi lên rồi từ từ lùi lại: "Hôm nay cũng coi như có thu hoạch, lát nữa quay về tôi sẽ sắp xếp lại... Nếu gia nhớ ra chuyện gì khác, xin cứ nói với tôi."

    Lý Thư Bạch nhíu mày: "Cô vẫn muốn quay về bên đó ư?"

    "Vâng, tôi không thể kiếm củi ba năm thiêu một giờ được, dù sao nhà họ Vương đã hứa sẽ cho tôi tham gia điều tra vụ này, đây đâu phải cơ hội dễ có." Nói rồi, cô lại lùi một bước, song ánh mắt vẫn đăm đắm nhìn y, "Nếu phát hiện thấy gì... cứ sai người đưa thư cho tôi. Người hầu ở đó đều câm điếc, gia phải viết rõ ngoài bì thư là gửi Hoàng Tử Hà mới được."

    Lý Thư Bạch gật đầu.

    Cô lùi thêm một bước, cuối cùng mới quay đi, vẫy tay chào Chu Tử Tần: "Tôi đi đây."

    Chu Tử Tần lưu luyến vẫy tay tạm biệt cô, lẩm bẩm: "Đúng là, bất luận ở cạnh chúng ta ăn ý chừng nào, cuối cùng Sùng Cổ vẫn phải quay về nhà họ Vương. Bó tay, ai bảo Vương Uẩn là chồng chưa cưới của người ta chứ."

    Lý Thư Bạch mím môi không nói, rảo bước đi vượt qua gã.

    "Này, sao tự nhiên lại trở mặt không nhận người thế?" Chu Tử Tần lật đật ôm cái hộp đuổi theo, "Vương gia chờ tôi với..."
     
  20. Vân Yên

    Vân Yên Super Member
    • 669/746

    • Thiên Ngoại Phi Tiên
    • Tiếu Ngạo Giang Hồ
    • CTV Tầm Hoan
    Bài viết:
    2,368
    Đã được thích:
    10,495
    Chương 9 - Pháo hoa xán lạn
    Hoàng Tử Hà về đến căn nhà ở phường Vĩnh Xương thì thấy Vương Uẩn đang ngồi đợi.

    Cô bỗng cảm thấy bàn tay vừa bị Lý Thư Bạch nắm nóng rực lên, bất giác chột dạ.

    Song Vương Uẩn chỉ mỉm cười, vẫn ôn hòa như trăng sáng giữa trời quang, khiến cô cũng hơi vững dạ, đồng thời lại thêm phần áy náy ăn năn.

    Hoàng Tử Hà ngồi xuống trước mặt y, dè dặt hỏi: "Hôm nay Ngự Lâm quân rảnh rỗi hay sao mà sớm thế này đã đến?"

    Y gật đầu: "Ừm, trời lạnh thế này, long thể bệ hạ lại bất an, gần đây không lên triều, trong cung cũng chẳng cần cảnh giác cao độ từng giờ từng khắc làm gì."

    Hoàng Tử Hà thấy nước đã sủi mắt cua, liền rửa tay pha trà, rót cho y một chén.

    Y ngồi cạnh cô xem nước trà, đột nhiên hỏi: "Lạnh thế này sao còn ra ngoài. Ở nhà chẳng ấm hơn ư?"

    Cô cúi đầu khuấy trà, bình thản đáp: "Tử Tần rủ tôi đến phủ Ngạc tìm manh mối."

    "Chẳng trách cô cải nam trang." Y cười, đón lấy ly trà cô đưa, nhấm nháp mùi hương dìu dịu cùng vị chan chát trong đó, nhất thời lặng đi.

    Hoàng Tử Hà liền hỏi: "Trà không ngon ư?"

    "Ngon lắm." Y quay sang nhìn cô, mỉm cười hỏi: "Tra xét ở phủ Ngạc tới tận bây giờ ư, lâu thế?"

    Hoàng Tử Hà cúi đầu uống trà, ậm ừ đáp.

    Vương Uẩn nhìn cô, vẻ như muốn nói lại thôi, song cuối cùng vẫn hỏi: "Thế cô đến thành Nam làm gì?"

    Thì ra y đã biết mình đến thành Nam. Hoàng Tử Hà chợt thấy cứng cả người, nhưng nghĩ lại thì thấy dọc đường cùng Lý Thư Bạch quay về, rõ ràng không bị ai bám theo, bấy giờ cô mới vững dạ, thản nhiên vuốt tóc đáp: "Là chuyện lá bùa của Quỳ vương, nhất định có kẻ giở trò. Chu Tử Tần cứ khăng khăng kéo tôi đến phủ Quỳ, tôi cũng chẳng biết làm sao, đành theo họ đến thành Nam, hỏi thăm xưởng mộc làm ra cái hộp đựng cái bùa, xem có sơ hở nào không."

    Thấy cô bình tĩnh như thế, Vương Uẩn cũng cười nói: "Tử Tần thực vô lý, chẳng thèm đếm xỉa đến suy nghĩ của người khác gì cả."

    Hoàng Tử Hà cúi đầu nín lặng.

    Vương Uẩn ngắm gương mặt nghiêng của cô, do dự hồi lâu mới nói :"Ta phải về Lang Gia một thời gian."

    Hoàng Tử Hà ngẩng lên nhìn y, ra ý hỏi.

    "Tết nhất đến nơi rồi, ta là cháu đích tôn, đương nhiên phải về tế tổ, năm nào cũng vậy..." Y nhìn cô vẻ chờ đợi.

    Cô hiểu ý Vương Uẩn. Nhưng tần ngần hồi lâu, cuối cùng né tránh ánh mắt y: "Đi đường bình an, sớm ngày trở lại."

    Vương Uẩn liền ghé đầu lại thì thầm vào tay cô: "...Không định đi cùng ta sao?"

    Hơi thở y phả vào tai, vừa tê vừa ngứa, khiến cô thấy căng thẳng lạ thường, luống cuống ngoảnh mặt đi: "Tôi... lấy thân phận gì mà đi? Đâu có... con gái nhà ai chưa vào cửa đã theo chồng chưa cưới đi tế tổ?"

    Vương Uẩn phì cười, nhẹ nhàng vén nhẹ lại tóc mai cho cô rồi dịu giọng: "Là ta hão huyền thôi... Đúng vậy, làm thế không ổn."

    Hoàng Tử Hà nín lặng cúi đầu, cảm thấy đầu ngón tay y lướt nhẹ qua má mình, lòng vẫn xôn xao đến lạ.

    Cảm giác bất an dấy lên trong lòng, cô bất giác co mình, rụt người ra sau, né tránh bàn tay y.

    Cùng lúc ấy, Vương Uẩn cũng buông tay xuống, cúi đầu siết chặt vai cô, đôi mắt bảng lảng khói sương: "Ta phải đi rồi, cô... có muốn đi tiễn không?"

    Đã gần hoàng hôn, tuyết trắng bên ngoài in bóng chiều tà, ráng chiều đỏ tía bao trùm lên họ, khiến gương mặt Vương Uẩn nhuốm màu thương cảm pha quyến luyến. Y cúi xuống nhìn cô, đôi môi hơi tái mấp máy gọi khẽ: "Tử Hà..."

    Giọng y mơ màng, lại đượm phần xa xăm, khiến thân hình cô không khỏi run lên, bất giác ngửa ra sau, gắng tránh hơi thở gần trong gang tấc của y.

    Y giữ lấy bờ vai run bắn của cô, cúi người xuống, nào ngờ lại thấy mắt cô phút chốc giăng mờ sương.

    Hoàng Tử Hà tự biết không thể tránh né, đành nhắm nghiền mắt lại, giấu nỗi kinh hoàng sau bờ mi run rẩy, song không sao ngăn được cơ thể run bắn lên.

    Hơi thở y bỗng nặng nề hẳn, bầu máu nóng đang tuôn tràn khắp cơ thể thoắt nguội ngắt, tà dương thu lại ánh tía mê ly, bóng tối bao phủ căn phòng, cô rõ ràng ở ngay trước mắt, chỉ giơ tay là chạm đến, vậy mà y cảm thấy xa xăm đến nỗi không sao trông rõ được.

    Cuối cùng, đôi môi y rơi xuống trán cô, như cánh bướm phớt qua đóa đậu khấu vừa chớm hé, chỉ chạm nhẹ rồi lập tức rời đi.

    Hoàng Tử Hà ngớ ra một thoáng, thấy không có gì khác, mới từ từ mở mắt ra.


    Vương Uẩn nhẹ nhàng buông cô ra, quay đầu đứng dậy, giọng hơi khàn: "Không còn sớm nữa, ta về đây. Cô... một mình ở lại kinh thành, nhớ phải cẩn thận."

    "Vâng... tôi nhớ rồi..." Cô cắn môi, ấp úng đáp.

    "Muộn rồi, ta về trước đây." Nói rồi Vương Uẩn quay người đi ra cửa.

    Hoàng Tử Hà lặng lẽ theo sau, tiễn y ra khỏi hoa sảnh.

    Tuyết đọng trắng xóa ngoài đình, gió lạnh buốt sương, Vương Uẩn ra đến cửa thì dừng lại, ngoái đầu nhìn cô, chỉ thấy cô cúi đầu nín lặng, gương mặt tái trắng như đóa phù dung giữa gió đêm, cằm thon thon tựa đài sen, gầy gò đến tội.

    Cơn giận ấm ách trong lòng lúc này chợt tan dần, y bất giác giơ tay khép lại vạt áo cho cô, dịu giọng dặn: "Mùa đông Trường An rất lạnh, cô nhất định phải chăm sóc tốt cho mình."

    Cô ngẩng lên, mỉm cười nhìn y: "Ừm, công tử cũng vậy, dọc đường vất vả, nhớ phải cẩn thận đấy."

    Y gật đầu, siết chặt tay cô: "Mau quay vào đi."

    Hoàng Tử Hà gật đầu, nhưng vẫn đứng ở cửa nhìn theo bóng y đi khuất.

    Sau khi Vương Uẩn rời Trường An về Lang Gia, trời càng lạnh hơn. Đến hôm giao thừa, trời quang mây tạnh, nhưng vẫn rét buốt.

    Người hầu nhà họ Vương săn sóc cô vô cùng chu đáo, đèn lồng gấm đoạn đã treo đầy nhà từ sớm, câu đối Tết trước cửa cũng thay mới, trên giấy dán cửa mới thay dán từng đôi diềm hoa đỏ chói, khăn trải bàn và vải phủ cũng đổi sang dùng toàn màu tươi rói, khiến căn nhà trước quạnh quẽ cũng bừng bừng không khí Tết.

    Hoàng Tử Hà được họ chăm sóc bao ngày nay, nên cũng tặng cho mỗi người một phong bao đỏ.

    Một mình cô ở Trường An, lặng lẽ ngồi bên bàn nghe tiếng pháo đì đùng ngoài cửa.

    Xa xa bên ngoài tường, hình như có tiếng trẻ con cười đùa, hôm nay mọi nhà đều đang ồn ã sum vầy. Nhưng trong ngôi nhà này, tất cả người hầu đều lặng câm, chỉ mình cô thắp một nén hương, bái vọng linh hồn người thân trên trời.

    Đã gần đến nửa đêm, mình cô lẻ bóng với ngọn đèn ngồi trước đôi A Già Thập Niết, thấy lòng quạnh quẽ khôn xiết. Đứng dậy ra ngoài, băng qua hành lang, tựa hồ loáng thoáng nghe tiếng nói cười như có như không. Cô dừng chân giữa hành lang dập dờn ánh nước, chỉ nghe thấy tiếng thở của mình rõ mồn một giữa đêm lạnh lẽo.

    Sông Ngân sà thấp, sao lấp lánh rợp bầu không.

    Cô lại chạnh lòng nhớ sau khi phá vụ án Vương Nhược, từ cung Thái Cực đi ra, vừa ngẩng đầu đã thấy người nọ đứng dưới trời sao, như cây ngọc đón gió.

    Sao cũ, cô xưa, chỉ có người ấy, chẳng biết đêm nay đang ở đâu.

    Cô đặt tay lên bức tường ấm áp, lướt qua thành bình pha lê. Con cá nhỏ hiếu kỳ bơi lại gần ngón tay, cách một lớp kính mỏng, một lớp màu sắc mờ ảo như mộng, nhìn rõ mồn một, nhưng vĩnh viễn không thể chạm tới.

    Cô bất giác tựa đầu lên thành bình, chăm chú ngắm con cá. Ngọn đèn trên đầu phủ bóng ấm áp trùm lên cô, sóng nước lăn tăn, ánh lên lớp lớp trên mặt.

    Cuối hành lang, một người hầu mỉm cười đi đến, đưa phong thư trong tay cho cô.

    Hoàng Tử Hà đón lấy, thấy trên thư không đề lạc khoản, chỉ viết bốn chữ: Gửi Hoàng Tử Hà, nét chữ lạ hoắc.

    Lòng cô thoáng rúng động, vội mở ra xem. Tờ giấy tuyết tiên bên trong chỉ có đúng một chữ: Đến.

    Song con chữ rõ ràng phóng khoáng ấy lại hết sức quen thuộc, khiến tim cô đập rộn lên. Siết chặt bức thư trong tay, cô rảo bước băng qua hành lang, đi thẳng ra cổng.


    Đêm giao thừa, nhà nhà thắp đèn, ánh lửa bập bùng soi sáng con đường vắng ngắt. Cô trông thấy người nọ đứng dưới trời sao, ánh đèn mờ tỏ phản chiếu dung mạo y, gương mặt đổ bóng đẹp như tạc, ngay cả cái bóng cũng rạng rỡ đẹp đẽ như thế.

    Hoàng Tử Hà ngoái lại, thấy người hầu đã ôm áo choàng đi ra, vội bước đến nhận lấy, tiện thể chắn ngang tầm nhìn của bà ta. Cô cảm ơn rồi giục bà ta trở vào, xong xuôi mới khoác áo choàng lông đi về phía y.

    Lông chồn mượt như nhung ôm lấy hai má, khiến gương mặt cô càng thon nhỏ xinh xắn. Cô ngước lên nhìn y, đôi má hồng lên dưới ánh đèn kiều diễm vô song, không thể nhìn gần.

    Lý Thư Bạch chăm chú nhìn cô: "Ta vừa từ trong cung về, đến muộn quá, xin lỗi nhé."

    Hoàng Tử Hà vội hỏi: "Xảy ra chuyện gì ư?"

    "Đâu có. Đêm giao thừa theo lệ truyền hoàng thân quốc thích vào cung xem nhảy múa trừ tà và ban rượu cay thôi." Nói rồi, y vén giúp cô mấy sợi lông che trước mắt, "Nào, ta đưa cô đi xem cái này."

    Cô theo y rời khỏi phường Vĩnh Xương, đi về phía Đông.

    Dọc đường pháo nổ đì đùng, sênh ca réo rắt, không khí náo nức ngày Tết bao trùm cả thành Trường An. Các phường đêm nay đều treo đèn lồng suốt đêm. Giao thừa miễn giới nghiêm ba đêm liền, nên dù đã khuya, vẫn thấy trẻ con chạy đuổi đùa nhau ngoài đường hay ngồi trước cửa ăn táo cắn hạt dưa, ríu rít khoe đồ mới được bố mẹ mua cho.

    Thấy vậy, Hoàng Tử Hà lại tiện tay lần tìm trong tay áo, phát hiện vẫn còn một phong bao chưa tặng, bèn rút ra đưa cho Lý Thư Bạch: "Tặng gia, năm mới tốt lành." Lý Thư Bạch nhận lấy dốc ra xem, là một lá vàng mỏng loại rất phổ biến. Hẳn cô đã chuẩn bị để tặng mọi người bên cạnh lấy hên. Y cất lá vàng vào tay áo, mỉm cười: "Đa tạ, không ngờ nhà cô khấm khá thế, xem ra có làm hoạn quan hạng bét cả đời cũng chẳng hề gì."

    "Đều nhờ phúc gia nên người trong tộc không ai dám tơ hào mảy may đến của cải cha mẹ tôi để lại." Nói rồi, cô bất giác thở dài, nhìn lên muôn vàn vì sao lấp lánh trên cao, khẽ than thở: "Chẳng biết họ ở bên đó thế nào, có phải cũng đang quây quần đón năm mới không..."

    "Chắc vậy, họ luôn dõi theo cô từ bên kia, huống hồ cô là niềm tự hào của họ mà." Lý Thư Bạch khẽ đặt tay lên chiếc mũ lông trên đầu cô, "Đừng buồn nữa."

    Hoàng Tử Hà gật đầu, thấy vành mắt nóng bừng lên, nước mắt chỉ trực trào ra. Nhưng cô gắng nén lại, hít một hơi thật sâu để chúng lặn trở vào trong mắt.

    Theo chân Lý Thư Bạch, cô đi về hướng phủ Quỳ.

    Lúc băng qua cây cầu cong cong trước đài Chẩm Lưu, dường như cô thấy có gì đó giống như tấm lưới giăng ngang mấy phiến lá sen tàn, có điều dưới cầu tối om khó mà trông rõ, bèn hỏi Lý Thư Bạch: "Cái gì kia?" Lý Thư Bạch mỉm cười: "Lát nữa cô sẽ biết."

    Hai người bước vào đài Chẩm Lưu, y đưa cho cô một lò ấp bằng đồng thếp vàng, để cô hơ ấm tay, rồi châm mồi lửa hỏi: "Cô làm hay ta làm?"

    Hoàng Tử Hà ôm lò ấp tay đáp: "Dĩ nhiên là gia, tôi đâu biết đó là cái gì. Để xem có gì bất ngờ đáng để tôi nửa đêm nửa hôm phải chạy đến đây."

    "Cô cứ ngồi đó chờ xem." Nói rồi y đi đến bên hồ sen, châm lửa vào đầu một cây nhang buông rũ ở đó, đoạn trở lại bên cạnh Hoàng Tử Hà, cùng cô ngồi trong phòng, dựa lưng đệm mềm, tựa vào lan can.

    Từng ngòi nổ được cây nhang lần lượt thắp sáng, ánh lửa lan ra đến hồ, rồi đột nhiên nở bung thành vô vàn vầng sáng. Ánh lửa màu lục lan ra, thắp lên vô số hình lá xanh, rồi giữa những đốm sáng xanh lục, ánh đỏ, ánh tím, ánh vàng, ánh trắng bùng lên, ngọn lửa sáng rực bốc cao, trên nền xanh lục nở ra vô số đóa mẫu đơn.

    Hoàng Tử Hà bất giác ngây ra, mở to mắt nhìn những hình hoa văn cháy rực từ dưới lên trên, ngỡ ngàng hỏi: "Đây là... pháo hoa tạo hình ư? Hình như không giống loại thường?"

    "Ừm, bình thường sau khi làm xong, mọi người sẽ buộc pháo hoa lại thành các hình dạng khác nhau rồi châm lửa, như vậy có phần hơi cứng nhắc. Ta nghĩ, dùng tơ kết thành hình trước, rồi bôi các loại hỏa dược đủ màu lên, châm ngòi cho lửa cháy lan theo sợi tơ, chẳng giống muôn hoa nở rộ ư?"

    Y chưa nói dứt câu đóa mẫu đơn rực lửa kia đã tắt lịm, hoa lửa cùng tơ giăng đều tàn lụi, nhưng ngòi nổ đã kịp lan sang lưới tơ giăng sẵn đằng sau, chỉ thấy mây lành cuồn cuộn, lầu tiên rộng mở, từng đôi tiên nữ tha thướt bước ra phấp phới múa lượn. Ánh lửa chỉ nháy mắt đã tàn, các tiên nữ xiêm y lộng lẫy lúc lụi tàn lúc sáng rực, mỗi lần pháo hoa cháy bùng lên, tiên nữ lại lần lượt thay đổi động tác, vạt áo và dải lụa cũng bay tung, biến ảo đủ màu, như thật như ảo.

    Hoàng Tử Hà tròn xoe mắt: "Làm sao làm được thế này?"

    "Đương nhiên là giăng bảy tầng lưới tơ, rồi lần lượt đốt từ trước đến sau, mỗi lần cháy bùng lên lại là một tấm lưới khác nhau. Chẳng qua chúng ta nhìn từ chính diện nên không thấy được trước sau, cứ ngỡ là một tiên nữ thay đổi động tác đấy thôi."

    "Đèn cây ngàn ngọn sáng, hoa lửa bảy nhánh đơm(1)... đẹp quá..." Vừa nghe y giải thích, Hoàng Tử Hà vừa mê mải nhìn pháo hoa muôn sắc lập lòe, không rời mắt.

    (1) Trích từ bài ''Đêm nguyên tiêu đặt hoa đăng ngoài đường lớn, lên lầu phía Nam" của Tùy Dạng Đế Dương Quảng.

    Tiên nữ bay xa, pháo hoa cũng tắt lịm, nhưng màn kế tiếp sau đó còn rực rỡ hơn, như sao sáng đầy trời, hào quang xoay chuyển khiến cô hoa mắt, song chỉ nháy mắt tất cả đã thu lại, hóa thành một vầng trăng sáng. Trăng khuyết trăng tròn, rồi lại tan ra, biến thành từng đốm trắng lung linh như tuyết rơi lả tả. Mỗi bông tuyết thoắt chốc lại biến thành cánh bướm, vô vàn cánh bướm lấp lánh chói mắt dập dờn trên mặt hồ, rồi biến thành sao sáng đầy trời, tẳn đi tan tác.

    Giữa màn pháo hoa lạ lùng mà hoa lệ, Lý Thư Bạch ngoái lại nhìn Hoàng Tử Hà, thấy cô đang mở to mắt háo hức ngắm cảnh tượng huyền ảo trước mặt. Pháo hoa biến ảo, khiến sắc màu hắt lên gương mặt cô cũng biến đổi theo, như có ráng hồng bao phủ, tím lợt, hồng phai, lục nhạt, vàng phớt...

    Đôi mắt sáng long lanh của cô in bóng cả thế giới biến ảo, màn pháo hoa lộng lẫy phản chiếu trong mắt cô còn khiến người ta phải sững sờ hơn.

    Có lẽ chính y cũng không nhận ra khóe môi mình đã cong lên tươi tắn đến vậy, chỉ biết mê mải ngắm cô, ngắm ánh sáng chảy qua hàng mi cô như nước, thỉnh thoảng cô lại chớp chớp đôi mi, khiến y thấy như có đôi cánh chuồn đập trong lồng ngực, đùa giỡn trái tim mình.

    Cô ngắm pháo hoa, còn y ngắm cô.

    Hoa mỹ trong nháy mắt, rồi màn pháo hoa rực rỡ mà kỳ diệu cũng lụi tàn, băng mỏng sen tàn trên hồ đã lấy lại vẻ tĩnh lặng ban đầu.

    Hoàng Tử Hà ôm lồng ấp dựa vào lan can, dường như vẫn đang chìm đắm trong màn pháo hoa, mãi chưa định thần lại được.

    Lý Thư Bạch khẽ kéo tay cô: "Đi thôi, mùi thuốc pháo khét lắm."

    Cô đành theo y lên cầu quay về, không quên lưu luyến ngoái nhìn những mảng lưới tơ còn sót lại, thầm đếm xem rốt cuộc phải giăng bao nhiêu lớp lưới mới tạo ra được khoảnh khắc mỹ lệ đến kinh tâm động phách như thế.

    Đi đến đầu cầu, đột nhiên cô "ồ" lên một tiếng rồi dừng bước.

    Thấy cô đứng sững trước gió, nhìn chăm chăm vào hư vô, Lý Thư Bạch cuống lên hỏi: "Sao vậy?" Hoàng Tử Hà giơ tay ngăn y lại, khẽ đáp: "Để tôi nghĩ một lát..."

    Y bèn đứng bên cạnh đợi.

    Gió đêm gào rít, sao sáng đầy trời, vô cùng xán lạn. Phường Vĩnh Gia là nơi tập trung nhiều nhà vương công quý tộc, đêm nay giao thừa, nhà nhà đều mở tiệc ca múa, tiếng ca dìu dặt lúc gần lúc xa.

    Hơi nóng của pháo hoa khiến lớp băng mỏng trên mặt hồ nứt ra, thỉnh thoảng lại nghe tiếng lách tách.

    Hoàng Tử Hà đứng ngây ra, cảm giác như cả bầu trời sao bỗng đổ ập xuống mình như vô vàn bông tuyết trắng xóa, chân tướng quá mức khủng khiếp đè xuống cô như trời long đất lở, khiến cô gần như không chịu được nổi, cả người run bắn lên.

    Thấy gió rét thấu xương, Lý Thư Bạch bèn nắm tay Hoàng Tử Hà, dắt cô đang run lên vì hoảng loạn đi thẳng đến gác Ngữ Băng cách đó không xa, khép cửa lại, khơi lò lửa to lên, để cô ngồi xuống bên cạnh.

    "Vừa rồi... hình như tôi vừa nghĩ ra chuyện gì đó." Hoàng Tử Hà cuối cùng cũng định thần lại, vỗ trán tiếp, "Về việc Ngạc vương gieo mình từ gác Tường Loan, hình như trong một thoáng, tôi vừa nắm bắt được cái gì đó."

    "Đừng nôn nóng, chúng ta cùng xem xét lại xem." Lý Thư Bạch bê một chiếc ghế đến ngồi xuống cạnh cô, "Nhân cái gì mà cô nghĩ đến việc đó? Hồ sen ư?"

    Hoàng Tử Hà lắc đầu, nhíu mày.

    Lý Thư Bạch nghĩ ngợi rồi hỏi tiếp: "Hay là pháo hoa?"

    "Đúng rồi... chính là pháo hoa!" Cô khẩn thiết tóm lấy tay áo y: "Vừa rồi gia nói, vì chúng ta nhìn từ chính diện, không thấy được trước sau, nên không biết pháo hoa hình tiên nữ kia là do bảy tấm lưới lần lượt cháy từ trước ra sau, cứ ngỡ là một tấm lưới cháy đến bảy lần, còn tưởng là tiên nữ thay đổi tư thế..."

    Giọng cô đầy kích động, gương mặt cũng lộ vẻ nghi hoặc pha bối rối: "Dường như tôi đã biết, song lại không biết là cái gì... Nhưng, nhưng không thấy được trước sau, nhất định là mấu chốt của vụ này!"

    Lý Thư Bạch cũng sững sờ, rồi như sực hiểu ra, cuống quýt nắm chặt tay cô hỏi: "Ý cô là bấy giờ những gì chúng ta chứng kiến cũng là ảo ảnh được ngụy tạo ra, giống như trận pháo hoa hôm nay ư? Thất đệ... chưa chết à?"

    Hoàng Tử Hà gật đầu: "Tôi không dám khẳng định, nhưng có lẽ Ngạc vương chỉ lợi dụng địa thế của hai gác Tường Loan, Tê Phượng, hoặc lợi dụng ảo giác của mắt chúng ta để diễn vở kịch giả chết thành tiên thôi?"

    Lý Thư Bạch mím môi trầm tư hồi lâu mới nói: "Vậy thì đệ ấy đốt bỏ tất cả những thứ ta tặng ngay trước mặt mọi người, nhất định cũng có lý do riêng. Bằng không đệ ấy cứ đốt trước linh vị Trần thái phi cũng được mà."

    Hoàng Tử Hà gật đầu: "Đúng vậy! Nhất định đây cũng là một điểm mấu chốt liên quan tới việc Ngạc vương biến mất ngay trước mặt chúng ta."

    Lý Thư Bạch thở hắt ra, ngã người dựa vào lưng ghế. Y vẫn nắm tay cô, chẳng biết là quên buông ra, hay cần cô dìu đỡ để biết mình không nằm mộng: "Thất đệ vẫn còn sống... Thất đệ không chết, mà vẫn còn sống ư?"

    Cảm giác được bàn tay đang nắm tay mình run lên, Hoàng Tử Hà bất giác lại xót xa. Cô biết Lý Thư Bạch và Lý Nhuận rất thân thiết, giờ biết Lý Nhuận vẫn còn sống, đương nhiên y vô cùng kích động. Nhưng Lý Nhuận bày mưu tính kế như thế, còn đổ lên đầu Lý Thư Bạch tội danh kinh thế hãi tục kia, rốt cuộc là vì sao?

    Bất luận thế nào, chỉ cần Ngạc vương Lý Nhuận còn sống, họ sẽ có cách tìm được y, vạch trần chân tướng, tìm ra căn nguyên mọi chuyện.

    "Trời lạnh lẽo lại mưa tuyết thế này, chẳng biết Thất đệ có đang dầm sương dãi tuyết bôn ba hay không. Nhưng ta nghĩ, nhiều khả năng đệ ấy vẫn còn ở Trường An, hoặc quanh quẩn vùng ngoại ô." Lý Thư Bạch giơ tay bóp trán, cảm giác được huyệt thái dương đang rần rật vì xúc động, khiến tâm trí xưa nay vốn bình thản của y dường như cũng bị ảnh hưởng, không thể tĩnh tâm suy nghĩ được.

    Hoàng Tử Hà gật đầu: "Giờ đã khẳng định được Ngạc vương còn tại thế, có lẽ chúng ta có thể điều tra một chút. Nếu tìm thấy tung tích, Ngạc vương, tin rằng gia sẽ rửa sạch tiếng oan, tháo gỡ cục diện hiện giờ."

    "Ừm, chúng ta phải chú trọng những chùa chiền ngoài ngoại ô. Tuy giờ ta đã thành kẻ nhàn tản, nhưng vẫn nắm dăm ba toán nhân mã, không thiếu người sai sử." Nói rồi, dường như cảm thấy mình đã nắm tay cô quá chặt, y nhẹ nhàng buông ra, vẻ xúc động và ủ dột cũng tan biến. Dịu dàng xoa bàn tay bị siết đến trắng bệt của cô, y chậm rãi tiếp: "Ta phải chính miệng hỏi Thất đệ nguyên do."


    Sáng mồng một Tết, trăm họ trong thành Trường An lũ lượt trở dậy kéo đến chùa miếu dâng hương. Ai cũng muốn giành được nén hương đầu tiên của năm mới trước bệ Phật, cũng tức là "hương đầu" đại cát. Có điều hương đầu tại các chùa miếu lớn thường đã có đại quan quý nhân đặt trước, dân thường có đợi cả đêm cũng chẳng đến lượt, nên họ chỉ lũ lượt kéo đến dâng hương buổi sáng mà thôi.

    Tối qua Hoàng Tử Hà đến phủ Quỳ xem pháo hoa, lại cùng Lý Thư Bạch trò chuyện hồi lâu, tới khi về nhà ở phường Vĩnh Xương thì đã quá nửa đêm. Chưa ngủ được bao lâu, đã nghe bên ngoài có tiếng đập cửa rầm rầm: "Sùng Cổ, Sùng Cổ, Sùng Cổ! Dậy đi, dậy đi, dậy đi!"

    Dưới gầm trời này chỉ có duy nhất một kẻ như vậy, cô cũng hết cách, đành mơ màng đáp lời, bảo gã vào phòng ngoài đợi, rồi ép mình trở dậy mặc quần áo.

    Rửa mặt chải đầu xong xuôi, cô bước ra đại sảnh thì thấy Chu Tử Tần đang ngồi đó ăn vận rực rỡ huy hoàng, khiến người ta không dám nhìn thẳng. Áo đỏ chói, đeo hoa tím biếc, thắt lưng vàng chóe, bất kể món nào cũng chói lọi hoa cả mắt.

    Cô đành che mắt ngồi xuống chiếc ghế đối diện: "Hôm nay mồng một Tết... công tử mặc gì, tôi cũng sẽ chịu đựng."

    "Không đẹp à? Rất tươi tắn mà, mẹ ta nói tháng Giêng phải mặc những màu tươi sáng mới tốt." Nói rồi, gã lấy một phong bao ra đưa cho cô: "Chúc mừng năm mới, chúc Sùng Cổ đại cát đại lợi."

    "Đa tạ đa tạ, đại cát đại lợi, tặng công tử này." Cô cũng đưa phong bao đã chuẩn bị sẵn đưa cho gã.

    "Ô, lá vàng cơ à, không ngờ Sùng Cổ rộng rãi thế đấy." Chu Tử Tần bóc phong bao, hí hửng.

    Hoàng Tử Hà nhòm vào phong bao gã đưa, thấy bên trong là hai đồng vàng cát tường, thì câm nín đút vào tay áo: "Rõ ràng so với công tử tôi chỉ là khố rách áo ôm."

    "Hê hê, khố rách áo ôm đi nào, hôm nay ta sẽ bao tiền nhang đèn." Chu Tử Tần hào sảng vỗ ngực.

    Hoàng Tử Hà ngạc nhiên hỏi: "Tiền nhang đèn là cái gì thế?"

    "Hả, mồng một Tết dĩ nhiên phải đi chùa thắp hương, Sùng Cổ đi thắp hương nhẽ nào không mua hương mua nến?"

    "...Ai bảo tôi định đi chùa?"

    "Không ra ngoài đi chơi thì làm gì? Ngày Tết ngày nhất cứ ru rú trong nhà buồn lắm, theo ta ra ngoài đi." Đoạn Chu Tử Tần luôn miệng giục giã cô ăn cho xong bữa sáng rồi phăm phăm kéo cô đi thẳng đến các chùa miếu lân cận.

    Chùa miếu hôm nay đều đông nghẹt người, khiến Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần lại nhớ đến vụ chen lấn ở chùa Tiến Phúc ngày trước. May sao lần này người trong kinh phân tán đến nhiều chùa chứ không tập trung một nơi, nên không tới nỗi giẫm đạp lên nhau.

    Cầm hương đứng ngoài cửa đại điện, không chen nổi vào trong, cả hai đành nhìn nhau bất lực. Chu Tử Tần hỏi: "Hay là sang chùa An Quốc bên cạnh dâng hương vậy?"

    "Tin tôi đi, hôm nay tất cả chùa miếu ở Trường An đều như thế này thôi." Hoàng Tử Hà chẳng buồn để lại cho gã một cơ hội may mắn nào.

    Chu Tử Tần thở dài, quăng ngay nén hương trong tay vào lò hương đặt giữa giếng trời, rồi quay ngoắt người chen ra cửa: "Đi thôi đi thôi." Dọc đường họ chen ra, gần như tất cả mọi người đều say sưa bàn tán về cốt Phật sắp được rước vào chùa Pháp Môn.

    "Khi nào cốt Phật vào kinh, cả nhà già trẻ chúng tôi nhất định phải tới tháp Phật cuối cùng để đón mới được! Chỗ đó cũng gần ngoại ô nhỉ?"

    "Đúng vậy, vốn dĩ nghe nói định xây một trăm hai mươi tòa tháp, người đi nghênh đón còn nhiều hơn, nhưng Quỳ vương đã âm thầm gây áp lực từ bên trong, giảm xuống còn bảy mươi hai tòa, nên tòa cuối cùng cách kinh thành đến ba chục dặm."

    "Đừng nói ba chục, dù ba trăm dặm tôi cũng phải đi!"

    "Quỳ vương thực sự đã bị Bàng Huân nhập xác nên sợ cốt Phật vào kinh ư? Bằng không sao tự dưng đòi giảm số tháp đi? Liên quan gì đến Quỳ vương chứ?"

    Hoàng Tử Hà nghe thấy, chỉ nhíu mày, song Chu Tử Tần đã trỏ kẻ đó la lên: "Này, ngươi nói gì hả..."

    Hoàng Tử Hà vội kéo gã lại nói nhỏ: "Kệ bọn họ!" Chu Tử Tần tức tối giũ tay áo, gườm gườm nhìn mấy người nọ.

    Xung quanh ồn ào như chợ vỡ, đám người kia rõ ràng không hề để ý đến Chu Tử Tần, vẫn tiếp tục bàn tán: "Ai mà biết được... Nghe nói Quỳ vương một mực ngăn trở việc xây tháp, may mà thánh thượng kiên quyết nên mới xây được bấy nhiêu."


    "Nghe nói Quỳ vương quả thật đã bị ma quỷ hớp hồn, rắp tâm làm điên đảo thiên hạ! Hôm Đông chí, rõ ràng Ngạc vương bị Quỳ vương uy hiếp nên mới nhảy lầu tự vẫn!"

    "Phải phải, tôi cũng nghe loáng thoáng! Ngạc vương xả thân vì giang sơn xã tắc, cảm động trời đất nên thể xác đã bay lên không, tất cả những người trong cung Đại Minh bấy giờ đều tận mắt chứng kiến! Họ còn quỳ sụp xuống tiễn Ngạc vương lên tiên!"

    "Đúng đúng, tôi cũng nghe nói thế! Chuyện này nhất định là thật, không chệch đi đâu được! Cháu bà bác ruột ông dượng thứ ba của tôi là Ngự Lâm quân trong cung, bấy giờ ở ngay dưới gác Tường Loan, chính mắt trông thấy!"

    "Tôi cũng nghe nói! Nhưng có nhẽ đâu thế, Quỳ vương quét sạch Từ Châu, dẹp yên Nam Chiếu, đánh đuổi Sa Đà, xã tắc Đại Đường có ngày hôm nay, Quỳ vương có công rất lớn, lẽ nào lại... ủ mưu làm loạn suốt bấy nhiêu năm ư?"

    "Nghe nói năm xưa Quỳ vương ở Từ Châu đã bị oan hồn Bàng Huân nguyền rủa. Giờ lời nguyền dần dần ứng nghiệm, Quỳ vương đã đánh mất lý trí, bị oan hồn nhập xác, tuy bề ngoài là Quỳ vương, song bên trong là hồn ma Bàng Huân, rắp tâm lật đổ thiên hạ Đại Đường."

    Người bên cạnh vội hạ giọng ngắt lời: "Muốn chết à, những lời này mà cũng dám nói ra?"

    "Có gì không dám? Lẽ nào các người không nghe nói ư? Chuyện này cả kinh thành đang xôn xao bàn tán, ai mà chẳng biết! Quỳ vương hiện giờ đã bị cách tất cả chức vụ, chứng tỏ hoàng thượng cũng nhận ra tâm địa lang sói của hắn, đúng chưa nào?" Kẻ nọ tuy vẫn cứng miệng cãi cố, song cũng không dám nói tiếp nữa.

    Chu Tử Tần trừng trừng nhìn đám người nọ, thì thào: "Làm sao đây...Sao tin đồn nhảm nhí này càng ngày càng lan rộng thế?"

    Hoàng Tử Hà vội túm tay áo kéo gã đi. Đám người đằng sau đã chuyển chủ đề, tiếp tục bàn tán về chuyện rước cốt Phật: "Nghe nói dọc đường cốt Phật vào kinh, đã có vô số người bái lạy. Đúng là phép Phật nhiệm màu, có kẻ còn cầm đuốc đi hộ tống suốt nửa ngày, sau khi bó đuốc cành thông cháy hết, trên tay cũng dính đầy nhựa thông, cả cánh tay cháy phừng phừng, song y không hề thấy đau rát, vẫn giơ cánh tay phải cháy rừng rực dẫn đường cho cốt Phật đi một đoạn dài!"

    "Đúng là thành tâm! Nhất định người đó sẽ đắc đạo, được Đức Phật đón lên Tây phương cực lạc!"

    Chu Tử Tần vừa lườm họ vừa hỏi Hoàng Tử Hà: "Trên đời có kẻ không sợ đau thực ư?"

    "Người đời có ngàn vạn thứ khát vọng, có kẻ vì danh mà dứt bỏ tình cảm, kẻ vì lợi mà không sợ núi đao biển lửa, sao lại không thể có người vì tín ngưỡng mà xông vào dầu sôi lửa bỏng chứ?" Hoàng Tử Hà vẫn xăm xăm đi thẳng, nhíu mày giải thích: "Ai cũng có thứ mà mình nguyện vì nó đánh đổi tất cả. Đến lúc đó, có lẽ chúng ta cũng cam lòng để lửa nóng thiêu đốt thôi."

    Chu Tử Tần nghĩ ngợi, rồi lại nhìn đám người đang thao thao kể những chuyện thần kỳ dọc đường rước cốt Phật, lắc đầu: "Ta không làm được đâu, sợ đau lắm."

    "Có lúc tín ngưỡng và khát vọng sẽ khiến người ta không sợ gì nữa cả." Hoàng Tử Hà ngẩng lên nhìn đám đông chen lấn, nói như lẩm bẩm một mình: "Giống như trúng phải thuật nhiếp hồn vậy, không sợ chết, cũng chẳng ngại hủy diệt, chỉ biết nhằm thẳng mục tiêu cuối cùng mà dấn bước."

    Chu Tử Tần lè lưỡi: "Thuật nhiếp hồn đâu lợi hại đến thế, Mộc Thiện đại sư chẳng phải cũng chỉ lợi dụng tâm ma sẵn có trong lòng Vũ Tuyên để khơi gợi thôi ư. Ông ta cũng coi như là pháp sư nhiếp hồn lợi hại nhất rồi nhỉ? Nhưng ta không tin ông ta tự dưng có thể khơi dậy từ ta ý muốn hãm hại Sùng Cổ!"

    Hoàng Tử Hà gật đầu: "Đúng, thực ra chỉ là con người không thắng được tâm ma nên mới rơi vào vòng xoáy thù hận mà thôi. Nếu không có lòng dạ khác thì lấy đâu ra sơ hở để thuật nhiếp hồn lợi dụng."

    Vừa nói hai người vừa chật vật chen ra, cuối cùng cũng ra được ngoài cổng chùa.

    Nhưng rất đông người vẫn ùn ùn đổ vào trong. Một ông lão đi ngang qua họ, chợt ngoái lại nhìn rồi mừng rỡ hỏi: "Các vị là... bạn của Hàng Anh phải không?"

    Hoàng Tử Hà ngoái lại, ra là Trương Vĩ Ích, người cha bệnh tật nằm nhà của Trương Hàng Anh. Cô và Chu Tử Tần mới chỉ gặp ông lão đôi ba lần, vậy mà ông vẫn nhớ mặt, thoáng nhìn qua đã nhận ra.

    Hai người vội vái chào rồi hỏi thăm: "Thưa, lão bá có khỏe không?"

    Trương Vĩ Ích có vẻ đang vui, cười khà đáp: "Tĩnh dưỡng hơn nửa năm nay, trước đây lão lại là đại phu, tự bốc thuốc cho mình lâu như thế... Ôi, đúng là y thuật chưa tinh, nên đến giờ mới nhúc nhắc ra ngoài được."

    "Đâu có, lão bá là danh y trong kinh, đương nhiên thuốc đến bệnh lui." Anh trai Trương Hàng Anh đứng bên cười nói: "Ai ngờ lại gặp các vị ở đây, nếu biết trước nhất định Hàng Anh cũng đòi đi theo rồi."

    Chu Tử Tần liền hỏi: "À phải, Trương nhị ca hôm nay chắc cũng được nghỉ, huynh ấy đi đâu chơi rồi?"

    "Nghỉ ở nhà thôi, nó theo Quỳ vương, hiếm lắm mới được ngày nghỉ, để nó ở nhà ngủ cho khỏe." Trương Vĩ Ích cười đáp, rồi lại nhìn vào trong, "Đông quá nhỉ... Hai vị dâng hương xong rồi ư?"

    "Nào có, chúng cháu không chen vào nổi, đành chen ra." Nói rồi, Chu Tử Tần lo lắng khuyên: "Cháu thấy lão bá cũng đừng nên chen vào thì hơn, lỡ như bị xô đẩy vào góc nào đấy thì không hay."

    "Đúng đấy ạ, cha cứ ngồi đây, để con vào dâng hương thay cho, Phật Tổ không trách tội đâu mà." Nghe con trai nói vậy, Trương Vĩ Ích liền cầm nén nhang hướng vào chùa bái vọng ba vái, rồi theo hai người Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần ngồi xuống một tảng đá nghỉ chân.

    Anh trai Trương Hàng Anh tuy tuổi trẻ khỏe mạnh, nhưng chen vào cũng mất không ít công sức, hồi lâu vẫn chưa thấy trở ra. Ba người ngồi đợi mãi cũng chán, Trương Vĩ Ích bèn quay sang hỏi Hoàng Tử Hà: "Hoàng tiểu thư còn nhớ vụ án năm đó của nhà tôi không?"

    Hoàng Tử Hà che miệng cười đáp: "Nhớ chứ, bấy giờ cháu còn nhỏ xíu, theo cha đến tìm manh mối còn bị lão bá mắng nữa là."

    "Phải phải, bấy giờ cả nhà chúng tôi bị oan, kêu trời trời không thấu gọi đất đất không thưa, may sao cuối cùng người của bộ Hình đến nói có người đã phát hiện ra vụ này có nghi vấn, muốn lật án điều tra lại. Lúc lão thấy người phát hiện nghi vấn là một cô nương bé xíu, lúc lắc hai bím tóc chạy đến, cảm giác như bị trời cao đùa giỡn, giận đến nỗi suýt thì quay phắt lưng đi..." Trương Vĩ Ích cười khà khà thuật lại chuyện năm xưa.

    Chu Tử Tần nổi tính tò mò, vội gặng: "Án ấy thế nào? Kể cho ta nghe với?"

    Hoàng Tử Hà tiện miệng đáp: "Có gì đâu, một bệnh nhân của Trương lão bá qua đời, nhà họ có quyền có thế, đương lúc đau buồn bèn trút giận lên Trương lão bá, vu cáo đẩy bác ấy vào ngục, ngay cả Trương đại nương phụ việc ở hiệu thuốc cũng bị liên lụy."

    Chu Tử Tần giận dữ ra mặt: "Nhà nào mà khốn kiếp thế? Làm gì có chuyện trị không khỏi đổ tội cho thầy thuốc? Còn liên lụy cả đến người nhà người ta nữa?"

    Hoàng Tử Hà nhướng mày nhìn gã, đáp gọn lỏn: "Chuyện này đâu phải chỉ có một hai vụ."

    Chu Tử Tần nghĩ ngay đến việc hoàng đế giết các ngự y, còn muốn giết sạch cả người nhà họ. Thực ra ngài ngự hiểu rõ Đồng Xương công chúa bị đâm trúng tim, không thể cứu được, song vẫn trút giận lên các ngự y, thậm chí làm liên lụy đến mấy trăm người thân thuộc với họ. Gã thở dài than: "Làm thầy thuốc cũng chẳng dễ dàng gì."

    Ba người thôi không nhắc tới chuyện này nữa. Trương Vĩ Ích sực nhớ ra một việc, vội hỏi: "À phải, Hoàng tiểu thư, có chuyện này, không biết tôi có thể xin lại bức tranh tiên đế ban cho không?"

    Chu Tử Tần hỏi: "Bức họa có ba vết mực đen ấy ư? Giờ họ vẫn chưa trả cho lão bá à?"

    "Nào có thấy, vốn đã nói nó không liên quan đến vụ án Đồng Xương công chúa, sẽ trả lại cho chúng tôi, nhưng về sau chẳng hiểu vì sao chẳng ai nhắc đến nữa." Trương Vĩ Ích thở dài, "Lão làm nghề y mấy chục năm, vẻ vang nhất là lúc được triệu vào cung chẩn trị cho tiên đế, vốn định khi nào chết sẽ chôn cùng bức họa tiên đế ban thưởng..."

    Nghĩ đến ba mảng mực trên bức họa, Hoàng Tử Hà lại sực nhớ những lời Lý Thư Bạch nói, tiên hoàng khi vẽ tranh thường dùng giấy gai trắng, còn giấy gai vàng, chỉ dùng để thảo chỉ dụ mà thôi.

    Nếu bên dưới những mảng mực ấy ẩn giấu bí mật, thì đó là gì?

    Đang miên man nghĩ ngợi, cô đã thấy Chu Tử Tần vỗ ngực đảm bảo: "Đó là ngự bút tiên hoàng ban thưởng, về tình về lý đều nên trả cho lão bá! Việc này cứ giao cho cháu đi, cháu sẽ tới Đại Lý Tự và bộ Hình, xem rốt cuộc họ đưa bức tranh ấy đi đâu. Thực ra bức tranh này không liên quan gì tới vụ án, chỉ cần khéo mồm một chút là lấy về được thôi."

    "Ôi chao, vậy lão phải đa tạ tiểu huynh đệ rồi!" Trương Vĩ Ích mừng rỡ nắm chặt lấy tay Chu Tử Tần luôn miệng cảm tạ.

    "Đâu dám đâu dám, cháu đây chẳng có nết gì tốt, chỉ được cái nhiệt tình giúp người thôi!"

    Hoàng Tử Hà chỉ biết câm nín lắc đầu, thấy Trương Hàng Vĩ chen từ trong ra, bèn đứng dậy nói: "Trời lạnh quá, lão bá vẫn đang phải tĩnh dưỡng, nên về nhà nghỉ ngơi thôi."

    "Sùng Cổ nói xem, ai lại lấy bức tranh nguệch ngoạc không ra hình thù gì kia chứ? Đến giờ ta vẫn không tin đó là thủ bút tiên hoàng đâu."

    Dọc đường về Chu Tử Tần vẫn luôn miệng lải nhải suy tính xem phải đi đâu để đòi bức tranh về.

    Hoàng Tử Hà nhíu mày: "Có phải tranh đâu."

    "Hả? Không phải tranh à? Ta đã nói mà, lần trước ba mảng mực đó nhìn chẳng ra hình thù gì cả, phải cố gắng tưởng tượng lắm mới thấy được mối liên hệ."


    "Không phải, ý tôi là..." Hoàng Tử Hà thấy xung quanh vắng vẻ, không ai chú ý đến góc phố này, mới hạ giọng thì thào, "Giấy gai vàng trong cung thường dùng để viết chữ, còn khi vẽ tranh thì dùng giấy gai trắng."

    Chu Tử Tần hít một hơi khí lạnh, hỏi lại: "Ý Sùng Cổ là..."

    Hoàng Tử Hà nhìn gã, gật đầu.

    "... Tiên hoàng bệnh nặng, trước lúc lâm chung không phân biệt được giấy vàng hay giấy trắng nữa nên lấy lầm ư?"

    Hoàng Tử Hà lảo đảo, suýt thì ngã nhào: "Trời ạ, không phải!!!"

    "Thế thì là gì?" Chu Tử Tần háo hức nhìn cô, đợi câu trả lời.

    Hoàng Tử Hà ngán ngẩm đáp: "Tiên hoàng bệnh liệt giường đã lâu, đương nhiên là người bên cạnh phải lấy giấy bút hộ. Dù tiên hoàng đã lú lẫn thần trí, không phân biệt được vàng với trắng nữa, lẽ nào bấy nhiêu người hầu hạ bên cạnh cũng lầm nốt ư?"

    Chu Tử Tần gật đầu ngẫm nghĩ: "Thế nên... thực ra đó là... tiên hoàng viết chữ ư?"

    "Đúng vậy, hơn nữa rất có khả năng là một đạo chiếu chỉ vô cùng quan trọng."

    Chu Tử Tần tròn xoe mắt: "Lẽ nào nội dung chiếu chỉ là... ba mảng mực kia ư?"

    "Tôi dám cam đoan, nội dung chiếu chỉ ẩn giấu trong ba mảng mực bị bôi xóa lem nhem nọ." Hoàng Tử Hà nghiêm mặt nói, "Nhưng tại sao nó lại bị người ta bôi xóa đi, rồi vì sao lại coi là bức họa ban cho Trương lão bá vào cung chẩn bệnh, thì tôi không rõ."

    Chu Tử Tần hào hững vỗ lưng cô thật mạnh: "Đừng nghĩ nữa! Khi nào tìm thấy bức họa ấy, ta sẽ dùng nước cải bó xôi quét lên, đợi cho lớp mực bôi đè lên trên tan đi, chúng ta sẽ thấy nét chữ chân thực hiện ra..."

    "Sau đó tất cả vết mực trên giấy đều tan biến hả?" Hoàng Tử Hà vặn lại.

    Chu Tử Tần ngần ngừ ra mặt: "Ừm... cái đó... dù sao chúng ta cũng đọc được chiếu chỉ bị che giấu của tiên hoàng mà?"

    "Nhưng vật chứng quan trọng như thế sẽ bị tiêu hủy vĩnh viễn, không thể khôi phục được. Công tử đọc được thì có ích gì chứ? Nếu đạo chiếu chỉ đó thực sự rất quan trọng, có khi công tử nói ra cũng chẳng ai tin đâu? Kẻ xấu có thể sẽ vì thế mà ra tay, dồn người nắm giữ bí mật là công tử vào chỗ chết ấy chứ?"

    Chu Tử Tần rên lên như bị đau răng: "Không... nghiêm trọng đến thế chứ?"

    "Công tử nói xem?" Hoàng Tử Hà ngước mắt nhìn về phía cuối trời. Mây đen ùn ùn đè nặng trên bầu trời Trường An, sương mù mờ mịt giăng mắc khắp nơi, không thể xua tan, hết tản ra rồi tụ lại. "Trần thái phi, mẹ đẻ Ngạc vương đã lén sao lại bức họa nọ, sau khi phát bệnh điên vẫn giấu kín không tiết lộ với một ai. Bởi thế, tôi cho rằng bức họa này có quan hệ mật thiết với mọi hành động của Ngạc vương trên gác Tường Loan hôm ấy."

    Chu Tử Tần tái mặt: "Có... Có thể lắm! Bức họa này quả thật... rất quan trọng!"

    "Thế nên, thứ nhất là chúng ta phải tìm cho được nó; thứ hai là phải cất giữ cẩn thận, không để nó bị tổn hại; thứ ba là nghĩ cách làm sao bóc tách được lớp mực bôi xóa phía trên, để lộ nội dung bên dưới mà không làm tổn hại đến nó."

    Nghe Hoàng Tử Hà vạch ra ba điểm, gương mặt Chu Tử Tần lộ vẻ vừa sầu não vừa mừng rỡ: "Ta thích thử thách khó khăn thế này đấy!"

    "Công tử định làm thế nào?"

    "Đương nhiên là đến tiệm bồi tranh nhà họ Dịch, ôm chân lão Dịch xem có moi được thứ gì giống như tuyệt chiêu tách mực không!"

    Thấy gã vỗ ngực bồm bộp, đầy vẻ đắc ý, Hoàng Tử Hà đành nói: "Vậy chúc công tử mã đáo thành công."

    "Yên tâm đi, cứ giao cho ta." Nói rồi Chu Tử Tần quay lưng định đi, nhưng mới đi được một bước gã đã lật đật quay lại, như sực nhớ ra chuyện gì đó: "Sùng Cổ, có một chuyện này có vẻ rất nghiêm trọng, ta có thể hỏi không?"

    Hoàng Tử Hà gật đầu: "Chuyện gì cơ?"

    "Thì là... lỡ như sau khi tách lớp mực bôi xóa phía trên, phát hiện bên dưới không có gì cả, chỉ là tiên đế trước lúc lâm chung thần trí lú lẫn vẽ bừa..."

    "Ngự bút của tiên hoàng nhiều như thế, trong cung cũng cất giữ đến mấy chục một trăm bức, nếu chỉ là vẽ bừa thì hủy đi là xong, để khỏi lưu truyền ra ngoài, công tử bảo có phải không?"

    Chu Tử Tần gật đầu, song vẫn phân vân: "Sùng Cổ này, nhưng đó là ngự bút tiên hoàng đó..."

    Hoàng Tử Hà nghiêm trang nhìn gã: "Có người còn dám vẩy cả chu sa vào tranh Triển Tử Kiền kia mà, công tử bảo cái gì tệ hơn?"

    "Nói cũng phải... Dù có hủy nó đi, cũng là ta giữ gìn thanh danh cho tiên hoàng mà thôi." Nói rồi

    gã ngoặt vào một con ngõ, vẫy tay với cô, "Sùng Cổ cứ đợi tin tốt lành của ta!"

    "Phía đó đâu phải chợ Tây!"

    "Vớ vẩn! Mồng một Tết nhà nào mở cửa hàng? Ta đến đập cửa nhà lão Dịch đấy chứ!"
     
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Chia sẻ trang này