Chương 10: Bắt yêu ở thôn Chó Dữ(nửa chương cuối)
Năm
Xung quanh Thiên Tân vệ quanh có rất nhiều địa danh bên trong có chữ cô, tổng cộng có bảy mươi hai cô. Bây giờ bạn có đến đó tìm cũng chẳng nhìn thấy một giọt nước nào, bởi vì nếu tách chữ 'cô' ( 沽) sẽ thành chữ cổ ( 古) và chữ thủy ( 水). Ví dụ như chúng ta vừa nói 'cổ nhân', hiển nhiên là muốn nói tới những người sống vào thời xưa. 'Cổ thủy' cũng mang ý nghĩa như vậy, chuyên dùng để chỉ những nơi xưa kia có nước, sau này biển cạn thành đất liền, nước không có lấy một giọt. Bởi vì có bối cảnh như vậy nên vào thời trước mới có không ít truyền thuyết về sông Âm Dương. Có truyền thuyết nói, khi đi trên đường lúc trời âm u có mưa thì bạn có thể nghe thấy âm thanh dòng sông đang cuộn trào, nhưng xung quanh lại rõ ràng không có dòng sông nào. Cũng có truyền thuyết nói, con sông Âm Dương này thông đến tận âm phủ, người sống sẽ không thể nào nhìn thấy, cũng không thể đi xuống đó được, bởi dù sao cũng là âm dương cách biệt, người và quỷ khác đường. Khi nào xảy ra lũ lụt, con sông đó mới xuất hiện, ai đã lạc xuống đó thì đừng có mong trở ra. Có đủ loại truyền thuyết liên quan đến sông Âm Dương, bạn có thể thường xuyên nghe thấy người ta nhắc đến. Theo truyền thuyết mê tín ngày xưa, vượt qua sông Âm Dương là sẽ đến âm phủ, đó là con đường người chết đi xuống cõi âm. Tuy nhiên, sông Âm Dương đến cùng là ở đâu thì không một ai trả lời chính xác được.
Khi nghe ông lão bán mì hoành thánh kết thúc câu chuyện về sông Âm Dương, mấy người Quách sư phụ cảm thấy đã hoàn toàn sáng tỏ. Thì ra nghĩa trang nhà họ Ngụy đã ngập trung lũ lụt, ba người và Liên Hóa Thanh cùng nhau rơi xuống nước, không ngờ lại rơi đúng vào con sông Âm Dương. Cũng còn may là không đi vào trong cái thôn kia, đi lạc vào thôn Chó Dữ sẽ không tránh khỏi số kiếp biến thành quỷ dưới âm phủ. Quách sư phụ còn có một số việc muốn hỏi, nhưng ông lão bán mì hoành thánh đã tiếp tục nói: "Đừng thắc mắc gì nữa! Những chuyện khác, các cậu không cần phải biết. Một khi trận mưa to này còn tiếp diễn, ngã tư đường sẽ chìm trong lũ lụt, các cậu ai cũng đừng có mong thoát được ra ngoài. Cứ làm theo lời lão, đi thẳng về phía trước nhanh lên. Nếu trên đường đi, lại tiếp tục nhìn thấy tấm bia đá này, các cậu cứ vượt qua bên cạnh nó, chỉ để ý đừng có rời xa con sông."
Nghe ông lão nói xong, Quách sư phụ không dám hỏi thêm gì nữa, dẫn theo hai người anh em của mình lên đường. Ba anh em nhấc Liên Hóa Thanh lên, vòng qua tấm bia đá, cắm đầu đi thẳng về phía trước. Khi đi ngang qua thôn Chó Dữ, họ lại nhìn thấy tấm bia đá kia xuất hiện ở trước mặt. Còn cách nó một đoạn, ba người vội rảo bước qua nhanh. Nhưng suốt từ nãy đến giờ, ba người không hề nghe thấy tiếng bước chân ở sau lưng. Lúc bấy giờ, càng đi họ càng cảm thấy sống lưng lạnh buốt, trong đầu không hiểu cái giống gì đang theo sát phía sau, không phải là tiếng bước chân con người dẫm lên đường phát ra, mà thực ra lại giống như một cơn gió ma quái đang vờn phía sau. Bọn họ không kìm nén được sợ hãi, không dám quay đầu lại xem thế nào.
Ba anh em cắm đầu đi thẳng về phía trước, đến chỗ tấm bia đá lại đi vòng qua tới thẳng chỗ bờ sông. Khi đến sát bờ sông, bởi Lý Đại Lăng không biết bơi, gã cõng Liên Hóa Thanh thõng thượt như chó chết đến chỗ này thì dù có nói thế nào cũng không chịu nhấc chân đi tiếp. Quách sư phụ và Đinh Mão quay lại lôi gã: "Người anh em đi nhanh lên. . ." Nói còn chưa dứt lời, trong lúc vô tình quay người, nhìn thấy sau lưng thực ra là cái giống gì, hai người sợ đến mặt xám như tro tàn.
Sau lưng nào có thấy ông lão bán mì hoành thánh và cô cháu gái, mà trong mưa chỉ có một con rắn khổng lồ to thân to như cái vò, còn có một con rắn nhỏ quấn trên đỉnh đầu của nó. Nó đang há cái miệng rộng hoác đỏ lòm như máu, lộ ra bốn cái nanh, đang định hút nước sông. Đến lúc này, Quách sư phụ mới tỉnh ngộ, cả già và trẻ đều là rắn thần sống trong sông Âm Dương. Sở dĩ ông lão bán mì hoành thánh nói ông ta đã cứu mạng cô bé kia, là muốn nói tới lúc xảy ra vụ dân cửu vạn đánh nhau giành địa bàn ở nhà ga Lão Long đầu, có hai tên cửu vạn cầm đá muốn đập chết một con rắn nhỏ, Quách sư phụ chợt sinh lòng từ bi nên đã ra tay giằng viên đá lại, thả con rắn đó đi.
Tục ngữ nói "Trời đã phán cắn răng mà chịu, nạn đã định ai trốn được đây", chỉ cần là động vật có linh tính thì không bao giờ trốn thoát được kiếp nạn trong số mệnh. Trên đường đi ông lão không cho phép ba người Quách sư phụ quay đầu lại, là bởi sợ làm cho mấy người kinh sợ, đồng thời cũng không muốn để người khác nhìn thấy nguyên hình. Trong lúc ba người đang kinh hãi, con rắn khổng lồ đã há miệng hút nước. Trên dòng sông xuất hiện một vòng nước xoáy, bọn họ bị cuốn vào trong, giống như cánh bèo trôi dạt chìm xuống dưới.
Sáu
Quách sư phụ và Đinh Mão có kỹ năng bơi xuất chúng, phát hiện ra thân thể chìm xuống, vội vàng lấy hơi, nâng Lý Đại Lăng và Liên Hóa Thanh bơi lên trên. Sau khi ngoi lên khỏi mặt nước, họ đã nhìn thấy mình đang ở ngã tư đường nghĩa trang nhà họ Ngụy. Trời vẫn đang mưa tầm tã, không biết khi nào mới dứt. Nước đã ngập quá nửa tấm bia đá, một nửa số phòng trong khu nhà mái bằng ở phía nam ngã tư đường đã chìm dưới nước. Có người trong đội tuần sông trông thấy cái thuyền con bên này lật úp, vội vàng chống thuyền tới cứu. Ba người túm lấy Liên Hóa Thanh, vật lộn leo thuyền của đội tuần sông. Trong mắt những người không liên can, đó là việc mà từ đầu đến cuối chỉ xảy trong nháy mắt, nhưng sắc mặt ba người bọn họ lại xám xịt, thân thể cứng đờ, miệng sùi bọt mép màu tím, mặc dù vẫn tỉnh táo nhưng không sao mở miệng nói ra được một câu. Sau khi kéo lên thuyền cho uống canh nóng, ba người mới dần dần tỉnh dậy.
Đến khi tỉnh hẳn lại, ba người bảo đội tuần sông đi đến nghĩa trang nhà họ Ngụy để nhặt xác Gà con và Ngư Tứ Nhi. Liên Hóa Thanh vẫn sống dở chết dở, bọn họ mang kẻ này về giao cho quan phủ, sau khi nghiệm chứng thân phận đã xác định đúng là người cần tìm. Thêm một nửa tháng nữa, y mới dần dần khôi phục được ý thức. Sau đó là đến việc thẩm vấn quá trình gây án để định tội. Cho dù ngươi có là La Hán bằng sắt, rơi vào công đường cũng bị lột sạch da. Nếu không chịu cung khai, dùng đại hình chăm sóc, lúc ấy đến gấu đen cũng phải thừa nhận mình là con thỏ.
Sau khi thụ hình, Liên Hóa Thanh mới chịu khai ra, năm xưa đã phóng hỏa đốt chết cả nhà người anh đã đuổi y ra khỏi cửa hay đã hành hạ đến chết hai đứa bé ăn mày ở miếu thổ địa như thế nào; kết hợp với kẻ dạy xiếc khỉ vào thành, gây ra không ít những vụ án thương thiên hại lí ra sao. Sau đó, con khỉ làm xiếc đã đột tửở giếng cạn trong vườn rau, y đã chiếm đoạt cuốn kỳ thư Ma Cổ Đạo còn lưu truyền lại bỏ trốn mất dạng. Nhằm trốn tránh truy nã, y đã có lần trốn ra ngoài tỉnh. Đầu tiên y ghi nhớ hết nội dung trong sách, sau đó đốt nó thành tro tàn không để lại dấu vết. Lúc ấy bởi rối loạn, chưa quen với cuộc sống ở một nơi xa lạ, nên y cũng chỉ còn cách diễn xiếc khỉ hoặc ăn xin ăn trộm lừa gạt mà sống, nhưng vẫn không chịu nổi mùa đông đói rét. Nghĩ đi nghĩ lại, làm cách nào cũng không tốt bằng trà trộn vào đám đông đủ mọi hạng người tụ tập ở bến cảng tàu thủy của Thiên Tân, bởi vậy chưa được vài năm, y đã buộc phải quay về, nhưng không dám vào nội thành. Sau khi sát hại một nhà năm người, y trốn ở trong ngôi nhà bị ma ám ở nghĩa trang nhà họ Ngụy. Y và kẻ dạy khỉlàm xiếc nảy sinh bất hòa. Bởi có đầu óc linh hoạt, y đã huấn luyện một con khỉ đột, lại bắt nó lẻn vào trong nhà dân ăn cắp bào thai. Toàn bộ yêu thuật mà y đã luyện được đều nhờ vào chỗ thuốc bột chế ra từ xác thai nhi. Đúng ra, yêu thuật nhiếp hồn của Ma Cổ Đạo phải được luyện hoàn toàn bằng cách ăn sống nuốt tươi bào thai lấy ra từ bụng mẹ, nhưng những gì y ăn lại đều là thịt của thai nhi đã chết. Bởi vậy, âm khí trên người càng ngày càng nặng, cứ rơi xuống sông là sẽ biến thành hành thi. Vẫn còn có cả những nguyên nhân khác nữa, nhưng ngay cả bản thân y cũng không rõ đầu đuôi. Dù sao đi nữa, y cũng đã bị Quách sư phụ cầm gạch nện vào đầu, làm mất đi thi khí, cho nên mới khôi phục lại dáng vẻ ban đầu, nhưng lại mất đi khả năng thi triển ra pháp thuật mê hoặc, cuối cùng đã bị đội tuần sông tóm được một cách dễ dàng. Đại khái đầu đuôi câu chuyện là như vậy.
Quách sư phụ và hai người anh em của mình chạy đến ngôi nhà bị ma ám ở nghĩa trang nhà họ Ngụy để đuổi bắt Liên Hóa Thanh, rơi xuống sông Âm Dương, chẳng khác gì đã đã chết đi sống lại một lần, trong lòng tự hiểu những gì Trương Bán Tiên đã nói là chuẩn xác, tính toán khỉ trở về phân chia phần thưởng ra sao, cảm ơn Trương Bán Tiên như thế nào. Không cần nói đâu xa, chỉ cần nói tới Liên Hóa Thanh đã gây án lẩn trốn nhiều năm, cõng không biết bao nhiêu án mạng trên người, theo luật pháp của thời bấy giờ thì có bào chữa giỏi thế nào cũng không tránh khỏi tội chết. Tuy nhiên, thời kỳ Dân quốc không có hình phạt chém đầu hay lăng trì. Nếu bị phán quyết tử hình, phạm nhân sẽ bị xử bắn.
Lúc ấy y sẽ phải trải qua diễu phố thị chúng, sau đó bị áp tải đến pháp trường ở Tiểu Lưu Trang theo cửa tây để xử tử. Toàn bộ quá trình đó đã được tất cả các đài báo tranh nhau đưa tin, chủ đề chính của những cuộc tán dóc ở đầu đường cuối ngõ cũng chỉ xoay quanh câu chuyện này. Sau khi nghe ngóng được tin tức, bàn dân thiên hạ thông báo cho nhau với tốc độ chóng mặt. Vào cái ngày Liên Hóa Thanh bị diễu phố xử bắn, người ta đua nhau chen lấn đến xem náo nhiệt, khiến cho toàn thành rối loạn. Chúng ta vẫn luôn gọi là yêu sông Liên Hóa Thanh, đồn đại kẻ này là yêu quái dưới sông Vĩnh Định, nhưng rốt cục có chuyện gì xảy ra, vậy phải đợi đến ngày xử bắn ngài sẽ biết.
Bảy
Quyển sách 《Hà Thần》 này đàm luận đến những chuyện ma tà quái dị, chỉ đề cập tới những câu chuyện truyền miệng rỉ tai trong dân gian. Thế nào gọi là câu chuyện truyền miệng rỉ tai? Một người nghe người khác kể lại một câu chuyện nào đó và ghi nhớ, sau đó người này lại kể cho người khác nghe, cứ như vậy lan truyền rộng ra. Trong quá trình đó, không tránh được người ta thêm mắm dặm muối, càng lan truyền càng thần bí, kết quả là sinh ra vô số cách nhìn nhận khác nhau.
Có người nói, năm ấy Quách sư phụ đuổi bắt Liên Hóa Thanh là sự thực, nhưng không đến mức ly kỳ như lời đồn đại, bởi trên thực tế Liên Hóa Thanh sống vào thời Dân quốc, quê quán tại Trần Đường Trang, biết làm ảo thuật và xiếc khỉ, thường xuyên thu nhặt xác chết của trẻ con chôn bừa ngoài đồng hoang núi thẳm để làm thành thuốc bột, tự khoe khoang là mình biết sử dụng một số pháp thuật mê hoặc tà ma quỷ quái, đã có lần chạy trốn ra tỉnh ngoài, quan phủ đã truy nã nhiều năm nhưng vẫn không thể bắt được kẻ này. Có một lần, khi không còn lăn lộn kiếm sống nổi ở tỉnh ngoài, Liên Hóa Thanh đã quay trở về trốn ở nghĩa trang nhà họ Ngụy. Đúng lúc đó, Quách sư phụ đi ngang qua, vừa khéo bắt được kẻ này rồi dẫn về giao cho quan phủ. Sau khi thẩm vấn, y đã khai ra vài vụ trọng án, bị phán tử hình. Sau khi diễu phố xử bắn, xác y bị vứt bừa ngoài đồng hoang. Có đạo sĩ biết dưỡng cốt đã thu nhặt thi thể của Liên Hóa Thanh, mang về chôn ở tháp dưỡng cốt. Vị đạo sĩ này chuyên môn thu nhặt những thi hài vô chủ rồi chôn toàn bộ vào trong ngọn tháp đó.
Nhưng cách nói này cũng không thoát khỏi liên quan đến ma quỷ. Tích chuyện Quách sư phụ đuổi bắt Liên Hóa Thanh, sau này biến tướng thành Thần sông Quách Đắc Hữu bắt yêu ở thôn Chó Dữ, khi đến sông Âm Dương đã được rắn thần chỉ đường. Nói chung là được kể lại vô cùng li kì. Theo tôi được biết, Quách sư phụ bắt được Liên Hóa Thanh bằng cách nào, kể cả người chí thân chí cốt của ông ta cũng không rõ lắm, bản thân ông ta thì rất ít nói. Chỉ có người của đội tuần sông là nhắc đến một vài câu chuyện là còn có lẽ tương đối đáng tin. Bản án xử bắn Liên Hóa Thanh cũng chỉ được ghi chép lại rất chung chung trong tài liệu hồ sơ lưu trữ. Đúng ra phải còn phải có một số sự vật liên quan đến tâm linh mà hoàn toàn không thể giải thích được, nhưng lại không được ghi chép lại, thành ra toàn bộ quá trình phá án trở nên không hợp logic.
Vào thập niên chín mươi sau giải phóng, ở vùng lân cận một cái đập nước nằm ở ngoại thành Thiên Tân, đã xảy ra một vụ án bí ẩn, tuy rằng đã được phá, nhưng nếu loại trừ yếu tố ma quỷ, vụ án này không sao giải thích được một cách hợp lý. Khi ấy, ở vùng nông thôn có một nông dân họ Hoàng tên đầy đủ là Hoàng Lão Tam. Có một lần Hoàng Lão Tam đi vào nội thành bán trâu. Sau khi bán xong, một mình ôm bọc tiền về nhà. Trên đường về, anh ta uống một ít rượu nên đã lên nhầm xe. Khi tỉnh lại, anh ta phát hiện mình đã đến vùng lân cận của đập chứa nước. Đúng lúc này, anh ta gặp một người cùng thôn tên là Lưu Thất. Lúc bấy giờ, người này đang có việc phải làm ở đó. Hai người rảnh rỗi tán dóc vài câu. Vì câu chuyện phiếm đó mà cả hai đã chôn vùi tính mạng của mình ngay tại cái đập chứa nước đó.
Biết được trên người Hoàng Lão Tam đang mang theo người tiền bán trâu, Lưu Thất nổi lòng tham, dùng con cá to mới đánh được làm mồi nhử, lừa Hoàng Lão Tam lên trên mặt đập chứa nước. Y vớ lấy con dao đốn củi, nhắm thẳng vào ót Hoàng Lão Tam mà chém một nhát. Mặc dù con dao đó rất cùn, nhưng lại nặng như một cây búa. Dính trọn một dao, hộp sọ của Hoàng Lão Tam lập tức nát bét. Lưu Thất moi tiền của anh ta ra rồi buộc xác vào một tảng đá, nhấn cái xác xuống đập chứa nước. Từ đó về sau, con người mang tên Hoàng Lão Tam này coi như mất tích. Đập chứa nước nằm giữa núi rừng của huyện Kế, chung đấy rất hoang vu, không có người ở. Xác chết chìm xuống đáy đập nước, thần cũng không biết quỷ cũng không hay.
Hoàng Lão Tam lên nhầm xe đi đến đập chứa nước, ngoại trừ Lưu Thất thì không một ai có thể nghĩ ra anh ta lại đến một nơi nhự vậy. Người nhà cũng chẳng hề biết, người này đã ngộ hại bỏ mình. Sau khi mấy ngày trôi qua mà vẫn chưa thấy Hoàng Lão Tam về đến nhà, tìm khắp mọi nơi mà cũng không thấy, người nhà sốt ruột chạy tới đồn công an báo án. Nói rằng, Hoàng Lão Tam vào nội thành bán trâu, trên người mang theo không ít tiền, chắc là giữa đường đã bị kẻ xấu giết người cướp tiền. Nhưng đồn công an không ghi nhận việc đó, bởi vì không có chứng cứ, có thành lập án cũng chỉ là án mất tích. Nếu quý vị nói là án mạng thì phải có tử thi, không có tử thi thì chỉ có thể quy kết vào mất tích.
Nhưng câu chuyện này lại giống như ma làm. Sau khi báo án xong, vợ Hoàng Lão Tam về nhà, đêm nằm mơ thấy có người đang gọi tên mình ở bên ngoài cửa phòng. Giọng nói nghe giống như của Hoàng Lão Tam, vợ anh ta vội đứng dậy chạy ra tìm, vừa tìm kiếm vừa hỏi ông chồng nhà anh chết trôi ở đâu vậy, tại sao đi khỏi nhà lâu ngày như vậy mà vẫn không chịu về? Nhưng đối phương không hề đáp lại. Sau khi dỏng tai lên lần theo tiếng nói tìm kiếm, người vợ nhìn thấy bên trên vách núi có khắc một hàng chữ lớn 'đập chứa nước số bảy', lại mơ hồ nghe thấy Hoàng Lão Tam nói văng vẳng đâu đây 'ở dưới này quá lạnh, cô hãy mau chóng gửi tiền và quần áo xuống cho tôi'. Trong lòng chợt lạnh buốt, cô vợ giật mình tỉnh lại, phân vân tại sao ông chồng lại chạy đến chỗ đập chứa nước, lại còn nói dưới đó lạnh lắm, giục người nhà gửi tiền và quần áo cho anh ta nữa?
Đến lúc hừng đông, người vợ vừa mới kể lại giấc mộng vào nửa cho cả nhà cùng nghe, mẹ của Hoàng Lão Tam đã chảy nước mắt, bảo rằng Hoàng Tão Tam đúng là đã chết ở chỗđập chứa nước rồi. Những người còn lại đều không tin, nhưng bị cả hai mẹ chồng nàng dâu khóc lóc cầu xin, không chịu nổi đành phải đi nhờ người của đội cảnh sát đường thủy năm sông giúp đỡ, lại còn tặng quà cầu xin, nhờ đội tuần sông hỗ trợ đến chỗ cái đập chứa nước đó để xem xét và đưa ra một đáp án để cho mọi người an tâm. Không ngờ, tới đó tìm kiếm một lúc đã phát hiện ra tử thi. Tính mạng người là quan trọng nhất, có tử thi thì bắt buộc lập án phá án và truy bắt hung thủ. Cuối cùng điều tra ra hung thủ là Lưu Thất, vụ án bí ẩn này rốt cục đã được công bố kết thúc. Nhưng trong bản báo cáo điều tra, có vài chi tiết không thể nào ghi chép vào được. Ngươi ta không thể nào nói là có ma, hoặc là nằm mơ thấy người chết ở dưới đập chứa nước được. Phá án dựa vào nằm mơ thì ai mà chấp nhận cho nổi?
Nhưng vấn đề là, nếu gạt giấc mộng này ra ngoài, thì phải giải thích lý do phải đi tới chỗ đập chứa nước đó để vớt tử thi bằng cách nào? Đây là vụ án người thật việc thật không một chút giả dối, là oan hồn không tan cũng được, là thần giao cách cảm cũng chả sao. Tuy rằng không có vật chứng cụ thể có thể thấy được sờ được, nhưng vẫn không thể khăng khăng quy kết là mê tín. Bản thân sự tích Quách sư phụ đuổi bắt Liên Hóa Thanh năm xưa cũng ly kỳ như vậy cả. Từ cái xác bị dìm ở ngã ba sông, đến giấc mộng kỳ quái ở Trần Đường Trang, cho đến quá trình diễu phố thị chúng áp giải đến pháp trường ngoài Tây Môn xử bắn, cả câu chuyện này dường như vẫn còn chưa kết thúc.
Tám
Ai cũng biết, bên ngoài Tuyên Vũ Môn của thành Bắc Kinh có một chợ bán thực phẩm, đó là pháp trường chuyên hành quyết tội phạm từ đời nhà Thanh cho đến bấy giờ, bởi vậy Tuyên Vũ Môn được người ta gọi là Tử Môn. Vào đời nhà Thanh, pháp trường của Thiên Tân vệ được thiết lập ở bên ngoài Tây Quan. Tây Quan là một cửa thành, là một nơi không thể coi là quá đông đúc, nhưng dù sao cũng là nơi giao lộ, đủ chỗ cho đông đảo dân chúng đứng xem. Vào thời điểm trấn áp Nghĩa Hoà Đoàn, đã có không ít đầu người bị chặt xuống tại cái pháp trường ở nơi này. Đến thời Dân quốc, người ta đã huỷ bỏ hình phạt chém đầu, phạm nhân sẽ bị hành quyết bằng cách xử bắn, còn pháp trường cũng không còn được thiết lập giữa đường nữa, mà được chuyển tới sân phơi gạch ngói của Tiểu Lưu Trang bên ngoài Tây Quan. Lúc tiến hành xử bắn Liên Hóa Thanh, địa điểm thi hành hình sẽ được thiết lập ở ngay cái sân phơi gạch ngói này. Nhưng đúng ngày hôm đó, trên pháp trường đã xảy ra một việc lạ kỳ nằm ngoài sức tưởng tượng của con người.
Thiên Tân vệ có hai cửa thành Bắc Quan và Tây Quan. Thành lâu khu vực phía bắc có quy mô đồ sộ nên được gọi là Bắc Đại Quan, còn phía tây có quy mô nhỏ, nên gọi là Tiểu Tây Quan. Vào đời nhà Thanh, mỗi cửa thành đều có một vọng lâu, đến năm 1900 đã bị quân đội của liên quân tám nước phá hủy. Sau giải phóng, Tiểu Tây Quan đã được cải tạo thành nhà giam, tất cả những kẻ bị giam giữở đó đều là trọng phạm. Ra khỏi cửa thành đi về phía tây, qua nghĩa trang, vượt con sông Long Miếu là đến sân phơi gạch gói của Tiểu Lưu Trang. Nó không phải là một cái xưởng hay là nhà máy, mà là một sân bãi rộng, dùng để chất đống phế liệu gạch vỡ ngói vụn năm này qua năm khác, cỏ dại mọc um tùm; là một nơi rất hoang vu không có dấu chân người, nằm ngay sát cạnh Loạn Tử Khanh - một nơi lý tưởng để vứt xác trẻ em. Bình thường, mỗi khi hành quyết phạm nhân, người ta sẽ luôn thi hành tại sân phơi gạch ngói của Tiểu Lưu Trang.
Từ lúc huỷ bỏ hình phạt chém đầu cho tới bấy giờ, lượng phạm nhân bị áp giải đến xử bắn ở sân phơi gạch ngói của Tiểu Lưu Trang bên ngoài Tây Môn thực sự không dưới con số vài trăm. Nhưng đáng nhắc tới thì chỉ có ba vụ. Đầu tiên là vụ xử bắn Hoạt Ly Miêu vào những năm đầu thời Dân quốc. Hoạt Ly Miêu là danh hiệu của một gã phi tặc. Theo người ta kể lại, gã phi tặc này cực kỳ cao tay, y chưa bao giờ từng đồng lõa với kẻ khác. Án lớn bằng trời cũng chỉ do một tay y gây ra. Y có một tuyệt chiêu đặc biệt là chống sào đi trên mái nhà, đi qua lướt lại, liều mạng lướt trên không giống như trên đất bằng, không ai có thể tóm được y. Có một lần đúng lúc gặp phải người của đội tróc nã tội phạm đang truy bắt mình, Hoạt Ly Miêu chống sào định nhảy lên nóc nhà. Ai ngờ cây tre mà y chọn không đủ rắn chắc, vừa mới chống xuống nhảy lên được nửa chừng thì nó đã gãy làm hai đoạn. Hoạt Ly Miêu rơi thẳng từ không trung xuống đất, ngã úp sấp không cử động nổi chân tay, bị đội tróc nã tội phạm đè nghiến lại ngay tại chỗ, thi hành hình phạt diễu phố thị chúng, rồi áp giải ra pháp trường xử bắn. Trước khi phải ăn đạn mặt không đổi sắc, kẻ này là loại người kiêu ngạo thành tính, phát ngôn ra những lời hùng hồn rất dễ mê hoặc lòng người. Tất cả câu từ đều là những lời nói sáo rỗng bùi tai được trích ra từ kịch nam Bình Thư, nào là những câu như "Chém đầu chỉ để lại một cái sẹo lớn, hai mươi năm sau lại là một trang hảo hán". Lúc ấy, dân chúng đứng xem diễu phố rất đông, đông nghìn nghịt chật như nêm cối. Mọi người đặc biệt thích nghe những lời như thế này, nghe đến mức say mê, cảm thấy nếu là anh hùng hảo hán không sợ chết, lúc ra pháp trường phải nói những câu như thế, bám theo suốt quãng đường diễu phốồn ào cổ vũ, náo động cả nửa thành Thiên Tân.
Cuối cùng là vụ xử bắn Viên Tam gia vào thập niên năm mươi. Viên Văn Hội Viên Tam gia là tội phạm số một của Thiên Tân vệ, bị bệnh đầu trọc bẩm sinh, biết vài miếng võ. Mặc dù trước giải phóng đã bị bắt và giam giữ nhiều năm, nhưng chính phủ Dân quốc vẫn không dám động đến y, bởi vì kẻ này là thủ lĩnh của giới xã hội đen, còn cai quản cả giới khuân vác thuê, thế lực quá lớn, căn cơ quá sâu, có thể nói mánh khoé trùm đời, tương đương với một vị hoàng đế của bản địa. Y chỉ cần dậm chân một cái, nội thành ngoại thành đều phải rung động mấy lần. Sau khi nước Trung Quốc mới được thành lập, chính quyền nhân dân đã quyết định thi hành xử bắn y. Lúc ấy là vào mùa đông, trời đông giá rét. Viên Văn Hội bị áp giải ra pháp trường, mặc một bộ quần áo bông, tay trói gô, hai mắt đỏ bừng, sắc mặt thâm trầm. Bởi vì đã bị giam giữ lâu ngày, y thẫn thờ mất hết tình thần không nói một câu gì. Sau khi bị áp giải tới sân phơi gạch ngói của Tiểu Lưu Trang, y quỳ trên mặt đất lĩnh ba phát đạn. Vụ tử hình công khai khi ấy, muôn người đều đổ xô ra đường, nam nữ già trẻ chen lấn nhau đi xem. Nguyên nhân chủ yếu là bởi danh tiếng của Viên Văn Hội như sấm bên tai, ai ai cũng muốn tận mắt xem y có phải ba đầu sáu tay hay không.
Sau hai vụ đầu tiên và cuối cùng đó, dù là vụ xử bắn Hoạt Ly Miêu trước kia, hay là khai đao xử trảm giống như vương pháp Thanh triều, kể từ sau vụ xử bắn Viên Văn Hội, tình hình xã hội dần dần đi vào ổn định, hình phạt diễu phố tử hình không còn được thi hành công khai nữa vừa mới ban hành thì đến vụ xử bắn Liên Hóa Thanh. Vùng Thiên Tân vệ này không giống với Bắc Kinh, Bắc Kinh ở ngay dưới chân thiên tử. Đừng thấy hai nơi gần nhau mà lầm, phong cách hành xử của dân chúng hai nơi khác hẳn nhau. Kinh thành chủ yếu là hành quyết những nhân vật tai to mặt lớn, cùng với đó là cảnh tượng náo nhiệt trên pháp trường. Dân chúng kinh thành chỉ quan tâm xem những vụ xử bắn có quan hệ đến chính trị, ví dụ như hành quyết một thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân hoặc là vị đại thần bị triều đình giáng tội nào đó, nhưng hơn tất cả là muốn thấy cách chém của đao phủ.
Nhưng nếu là ở trên địa bàn của Thiên Tân, người ta lại không quan tâm tới những điều đó. Với vai trò là bến tàu thủy bộ của chín nước tại Tô giới, là vùng đất mà đủ các hạng người rảnh rỗi tụ tập, dân chúng đặc biệt thích tham gia vào những cảnh tượng náo nhiệt, chỉ thích xem hành quyết những tên lưu manh khét tiếng hoặc những tên trộm cõng nhiều án cộm cán; Những kẻ như vậy phần lớn là dân liều mạng. Lúc đi diễu phố trước khi bị tử hình, nhìn thấy nhiều người nhìn mình cằm chằm như vậy, chẳng những không sợ, chúng còn thường tỏ ra đắc chí, gân cổ lên mà hát vài câu Định Quân Sơn Dã Trư Lâm. Kẻ nào không biết hát thì sẽ nói, nói một hai câu đại loại như: "Các quý vị già trẻ lớn bé, không hiểu tại hạ đã phạm phải việc gì nữa, đã sắp phải rơi đầu rồi. Bây giờ mong các quý vị già trẻ nhớ lấy mặt ta, hai mươi năm sau ta sẽ lại là một trang hảo hán." Sau đó đám dân chúng bám theo sau sẽ đua nhau trầm trồ khen ngợi, cứ một bước lại tung hô một câu. Người biết thì hiểu rằng đó là tử tù bị xử trảm xử bắn, người không hay lại cứ tưởng đang chào đón một ngôi sao kinh kịch nào đó. Đây chính là tập tục của người bản địa.
Cái ngày xử bắn Liên Hóa Thanh cũng diễn ra náo nhiệt như vậy. Mọi người nghe nói con mắt kẻ này có hai cái đồng tử, bèn suy diễn ra y là một nhân vật khó lường đến dường nào, vụ náo nhiệt đến cỡ này làm sao có thể bỏ qua. Đến ngày thi hành án, ăn mày trên đường không xin ăn, kẻ cắp không trộm đồ, nghệ nhân hát tướng thanh không biểu diễn, phu xe cũng nghỉ việc, đông đảo dân chúng kéo nhau đi xem, kẻ chen lấn người xô đẩy, trèo cả lên vai nhau, hai bên đường trở thành hai bức tường người, không còn chỗ mà chen. Cảnh tượng hoành tráng như thế này, không một ai có thể tưởng tượng ra nổi. Tiếp theo sẽ xảy ra chuyện gì, liệu Liên Hóa Thanh có phải là yêu quái dưới sông Vĩnh Định hay không, ngài phải đến pháp trường xử bắn y ở Tiểu Lưu Trang thì mới biết rõ tường tận.