Chương 39
Chương 39: Nghe đàn cởi ngọc thần tiên bỏ[1]
[1] Trích Mộc lan hoa, Án Thù, dịch thơ Điệp Luyến Hoa. Nguyên văn Hán Việt: Văn cầm giải bội thần tiên lữ – ND.
Huyền Thanh lẳng lặng rời đi, kỳ thực đây là lần đầu tiên chúng tôi xa nhau lâu ngày như thế.
Thế nhưng không rõ tại sao, lòng tôi cứ luôn bất an, muốn may cho y một chiếc áo bào, chỉ là mới khâu được vài mũi thì đã bị kim đâm vào ngón tay. Một giọt máu đỏ tươi rỉ ra, Hoán Bích vội chạy tới, nói: “Sao lại không cẩn thận như thế chứ?”
Tôi ngậm đầu ngón tay một lát rồi mới gượng cười, nói: “Không biết tại sao, hôm nay lòng ta cứ bồn chồn, bất an.”
Hoán Bích cười, nói: “Chắc vì nghĩ đến việc Vương gia phải đi xa một tháng đó thôi!” Hai mắt muội ấy trong veo, khoan thai nói tiếp: “Chi bằng tiểu thư hãy đi tiễn Vương gia một chuyến.”
Tôi vội xua tay lia lịa. “Sao lại thế được, nếu bị người ta nhìn thấy thì hỏng bét.”
Hoán Bích ghé tai tôi, cười tủm tỉm, nói: “Nô tỳ nghe A Tấn nói rồi, việc hoàng thượng phái Vương gia ra ngoài rất kín dáo, do đó không có quan viên triều đình nào đưa tiễn đâu. Lần này chỉ có A Tấn đi cùng Vương gia, hai người bọn họ lên thuyền ở sông Bá.” Giọng Hoán Bích nghe đầy vẻ xúi giục: “Tiểu thư có đi không?”
Chỉ suy nghĩ trong nháy mắt, tôi liền đứng dậy nói với Hoán Bích: “Mang áo choàng của ta tới đây!”
Tuyết vừa ngừng rơi, đường đi trơn trượt, dù tôi đã giục ngựa đi nhanh nhưng khi tới nơi, Huyền Thanh cũng đã lên thuyền rồi.
Tôi không kìm được giậm chân buồn bực, có điều Huyền Thanh ở phía xa đã nhìn thấy tôi, trên khuôn mặt tuấn tú lộ ra vẻ vừa ngạc nhiên vừa vui mừng.
Cách nhau một quãng sông, tôi đứng trên bờ, dùng ánh mắt tiễn y rời đi. Ánh mắt Huyền Thanh đầy vẻ bịn rịn, một mực dừng lại trên người tôi, tựa một con diều giấy, dù bay xa ngàn dặm nhưng vẫn luôn có một sợi dây giữ lại.
Y đứng đằng xa hô lớn: “Ta sẽ quay về nhanh thôi!”, nói xong liền im lặng, nở nụ cười chứa chan niềm quyến luyến.
Tôi biết câu tiếp theo mà y muốn nói là gì.
Đợi ta quay về.
Cũng giống như lời hẹn ước dưới ngọn đèn tối qua, y nói, đợi ta quay về là chúng ta có thể bên nhau mãi mãi.
Thế là nơi đáy lòng tôi trào dâng niềm hân hoan vô hạn, tựa những bông hoa đang nở rộ không ngừng, bên trong chan chứa nỗi chờ mong. Rồi tôi liền vẫy tay hô lớn: “Muội nhất định sẽ đợi huynh, đợi huynh quay về.”
Tôi giơ cao tay vẫy vẫy, chiếc khăn lụa đang cầm trong tay theo đó bay lất phất, màu vàng của chiếc khăn cũng giống như tâm trạng tôi lúc này, tuy sự biệt ly đang ở ngay trước mắt nhưng vì có muôn vàn nỗi chờ mong nên vẫn tươi vui và rạng rỡ vô cùng. Chợt tay tôi buông lỏng, một làn gió sông thổi tới, cuốn chiếc khăn bay đi xa.
Tôi sững người, mắt nhìn chiếc khăn đó như cánh bướm lất phất bay đi, muốn đưa tay ra chụp nhưng không còn kịp nữa, đành trơ mắt nhìn nó từ từ mất dạng, trong lòng bất giác nảy sinh nỗi ưu sầu. Thế nhưng bình tâm nghĩ lại, đó chẳng qua chỉ là một chiếc khăn tay mà thôi, mất cũng đâu có gì đáng tiếc, thế là lòng tôi dần bình tĩnh trở lại. Cánh buồm lúc này đã lướt đi xa, vầng mặt trời đỏ rực chiếu xuống mặt sông một mảng màu đỏ rộng lớn vô bờ, chừng như muốn nuốt chửng con người ta vào trong đó.
Tôi nhón chân nhìn theo chiếc bóng đã biến mất thành một đốm nhỏ của y, điệu bộ ấy giống hệt một người vợ tha thiết mong ngóng chồng mình quay về.
Y đi xa rồi, lòng tôi càng trở nên cô quạnh, cô quạnh đến tột cùng.
Mỗi một ngày, mỗi một giờ, mỗi một khắc, tôi đều chờ mong và hy vọng y có thể mau quay về.
Huyền Thanh đã nói rồi, y chỉ rời xa một tháng. Vầng trăng tròn rồi lại khuyết, một tháng kỳ thực sẽ trôi qua nhanh thôi.
Chỉ là trong lòng tôi, một ngày không gặp như cách ba thu, y mới đi có ba ngày, vậy mà tôi cảm thấy như là ba năm trời đằng đẵng.
Người trong cuộc tương tư, thường không chịu nổi nỗi sầu ly biệt, cũng hay vì sự ly biệt này mà cảm thấy cô đơn, có điều đây không phải là nỗi cô đơn tuyệt vọng, mà còn thấp thoáng niềm vui, bởi ai kia sẽ có một ngày quay trở về.
Thế là trong quãng thời gian cô đơn giữa mùa đông tuyết bay lất phất, tôi cố ăn thật nhiều để giữ ình khỏe mạnh, hy vọng khi y quay về, sẽ không cần nói ra câu: “Nàng gầy đi nhiều rồi!”
Mùa đông nơi ngoại ô kinh thành bị bao phủ trong màu trắng tinh khôi của tuyết, ngay đến những dãy núi nhấp nhô trùng điệp cũng bị tuyết trắng phủ dày, nơi nơi ngợp trong bóng tuyết. Còn Điền Nam, có lẽ bây giờ vẫn còn đang ấm áp với khí hậu bốn mùa như mùa xuân.
Giữa thế giới đầy những băng tuyết hiện giờ nỗi nhớ nhung của tôi với y càng thêm mãnh liệt.
Mỗi lần rảnh rỗi, tôi lại lấy Trường tương tư ra gảy, gửi tình mình vào trong những khúc nhạc du dương.
Cận Tịch ngày đêm bầu bạn bên tôi, mỗi khi nghe thấy tiếng đàn liền bỏ vào lò hương một mảnh hương liệu nhỏ, mùi hương liền chậm rãi tỏa ra. Giữa quãng ngày bình yên ấy, Cận Tịch khẽ nói: “Cái gọi là thần tiên quyến lữ[2], trong kiếp sống này nô tỳ mới chỉ từng thấy hai cặp, ngoài Vương gia và nương tử bây giờ ra chính là Hoàng thượng và Thuần Nguyên Hoàng hậu năm xưa.”
[2] Câu thành ngữ ý nói hai vợ chồng ân ái hòa thuận, tựa như thần tiên trên trời – ND.
Tôi mỉm cười vui vẻ, tuy biết rõ mình và Huyền Thanh yêu thương ân ái nhưng ngoài miệng vẫn cất tiếng hỏi: “Vậy trong mắt Cận Tịch, phải như thế nào mới xứng với bốn chữ ‘thần tiên quyến lữ’ đó?”
Nàng ta đáp: “Như nương tử và Hoàng thượng trước đây, tuyệt đối không thể coi là thần tiên quyến lữ.”
Tôi cụp mắt xuống, trong mắt thoáng qua một tia lạnh lùng. “Tất nhiên là vậy rồi.”
“Nếu xét về dung mạo, khí chất, Hoàng thượng và nương tử có thể tính là một đôi, tất nhiên Vương gia và nương tử lại càng là một cặp người ngọc. Để có thể coi là thần tiên quyến lữ, bề ngoài tất nhiên phải nam tuấn tú, nữ mỹ miều, tô điểm cho nhau, không thể là những cặp kiểu như Vô Diệm và Chu Lang, Tiểu Kiều và Võ Đại[3]. Thế nhưng chỉ có vẻ bề ngoài thôi thì còn xa mới có thể gọi là thần tiên quyến lữ.” Cận Tịch chậm rãi nói tiếp: “Nương tử có biết là vì duyên cớ gì không? Nô tỳ là người đứng ngoài nên thấy rõ, nương tử tuy có phần thật lòng với Hoàng thượng nhưng nhiều hơn vẫn là sự mưu tính; còn Hoàng thượng cũng không phải là vô tình với nương tử, có điều thứ tình cảm ấy quá giả tạo, nếu không phải như thế, nương tử đã chẳng rơi vào cảnh ngộ như bây giờ. Huống chi Hoàng thượng và nương tử tôn ti phân rõ, không giống như Lục vương gia và nương tử, hai bên thật lòng đối đãi, coi nhau ngang hàng. Chỉ khi nào hai bên nam nữ đều hết lòng hết dạ, lại ý hợp tâm đầu, vậy mới có thể coi là thần tiên quyến lữ.”
[3] Vô Diệm tức Chung Vô Diệm, nổi danh xấu xí. Chu lang tức Chu Du, chồng của Tiểu Kiều, vừa tài giỏi vừa phong lưu tuấn tú, Tiểu Kiều thì mỹ miều xinh đẹp. Võ Đại tức Võ Đại Lang, người lùn thấp xấu xí, là nhân vật hư cấu trong truyện Thủy hử – ND.
Nghe nàng ta nhắc tới chuyện cũ giữa Huyền Lăng và tôi, tôi bất giác hơi sững người nhưng rất nhanh sau đó đã bình tĩnh trở lại. “Cận Tịch cũng từng ái mộ nam tử nào rồi sao? Nói năng sao nghe rõ ràng mạch lạc quá vậy?”
Cận Tịch đỏ bừng hai má. “Nương tử nói đùa rồi, nô tỳ trước đây vốn luôn hầu hạ trong cung, chẳng dễ gì gặp được nam tử nào, bây giờ đã ba mươi lăm tuổi, sao có thể ái mộ ai được. Chẳng qua sau một thời gian dài sống trong cung, nô tỳ cũng biết được một số việc, do đó mới có thể nói ra mấy lời này.”
Tôi đặt tay lên dây đàn, khẽ cất tiếng hỏi: “Năm xưa Thuần Nguyên Hoàng hậu và Hoàng thượng cũng ân ái với nhau như ta và Thanh lang bây giờ sao?”
Cận Tịch đáp: “Hoàng thượng khi đó còn trẻ, Thuần Nguyên Hoàng hậu… thực sự là một người rất tốt.”
Tôi có chút không tin, cười, nói: “Nhưng còn muội muội của cô ta thì sao?”
Cận Tịch vội lắc đầu nguầy nguậy. “Thuần Nguyên Hoàng hậu và Hoàng hậu bây giờ không phải là cùng một loại người.”
Thuần Nguyên Hoàng hậu là nỗi đau lớn nhất của tôi trong cung, tôi chưa từng gặp nàng ta bao giờ, chỉ được nghe người khác kể lại một số chuyện về nàng ta. Thế nhưng suốt bốn năm trời ở trong cung, tôi chỉ là một cái bóng của nàng ta mà thôi.
Tôi cố kìm nén tâm trạng sục sôi nơi đáy lòng. “Thuần Nguyên Hoàng hậu rốt cuộc là người như thế nào?” Đầu óc tôi bỗng trở nên hỗn loạn. “Cận Tịch, ngươi nói nàng ta từng giúp đỡ ngươi, Thái hậu cũng nhớ mãi không quên nàng ta, Hoàng thượng thì vì nàng ta mà trái tim trở nên lạnh lùng, cuồng dại, Đoan Phi gảy tỳ bà hay như thế mà cũng chỉ mới có được mấy phần chân truyền của nàng ta, còn điệu Kinh Hồng vũ cũng phải qua tay nàng ta cải biên rồi mới lưu truyền thiên hạ, hồi nhỏ ta nghe nói Thuần Nguyên Hoàng hậu múa điệu Kinh Hồng làm điên đảo chúng sinh, người xem không ai là không tán thán, trên thế gian này lã nào thực sự có một nữ tử hoàn hảo như thế sao?”
Cận Tịch hơi ngơ ngẩn, giọng nói thấp thoáng nét sầu: “Trước đây ở trong cung, mọi người đều không được phép bàn luận về Thuần Nguyên Hoàng hậu, ngay đến Hoàng hậu cũng giữ kín như bưng việc này, do đó ngoài mấy người vào cung từ sớm như Đoan Phi, Lục Thuận nghi và Lý Tu dung thì không còn ai biết tới Thuần Nguyên Hoàng hậu nữa. Kỳ thực cơ duyên giữa nô tỳ và Thuần Nguyên Hoàng hậu cũng có hạn, chỉ mới gặp nhau vài lần. Nhưng nô tỳ cảm thấy, khắp cả hậu cung, không có ai lương thiện và ít tâm cơ hơn Thuần Nguyên Hoàng hậu.”
Tôi khẽ cười hờ hững. “Ngươi từng nói ta là một bông hoa hồng có gai, còn Thuần Nguyên Hoàng hậu thì là hoa bách hợp.”
Cận Tịch thõng tay đứng đó. “Thuần Nguyên Hoàng hậu giống như một bông bách hợp nơi thâm khuê, không hề biết đến sầu khổ, lại càng giống với một bông thủy tiên, chẳng dính chút bụi trần. Dùng lời của Thái hậu để nói thì nếu Thuần Nguyên Hoàng hậu là công chúa, cả đời sẽ chẳng có nỗi ưu lo nào cả, lúc nào cũng được hạnh phúc.”
Tôi bất giác thầm nghĩ, một nữ tử như vậy rốt cuộc phải có dung mạo và khí chất thế nào, có lẽ giống như là tiên tử trên trời vậy.
Cận Tịch thoáng dừng rồi lại nói tiếp: “Cho nên Thuần Nguyên Hoàng hậu không thích hợp làm hoàng hậu, cũng không quen với vị trí hoàng hậu.”
Tôi khẽ cười lạnh một tiếng, nhưng cũng có chút khâm phục. “Nói đến làm hoàng hậu, không có ai thích hợp hơn vị Hoàng hậu nương nương của chúng ta bây giờ.”
Cận Tịch nói: “Không sai, khi ở trong cung hầu hạ nương tử, nô tỳ thường khuyên nương tử phải nh뮠tâm, phải quyết đoán, nguyên nhân chính là như vậy. Thuần Nguyên Hoàng hậu cố nhiên lương thiện, nhưng cũng vì thế mà không có một kết cục tốt.” Nàng ta hờ hững nói tiếp: “Đương nhiên, đây là chuyện của ngày trước rồi.” Cận Tịch chăm chú nhìn tôi, cất giọng chân thành: “Nương tử có ngày hôm nay cũng coi như đã thoát khỏi bể khổ, đợi sau này Vương gia đưa nương tử ra khỏi cửa Phật và ở bên nương tử mãi mãi, nô tỳ sẽ không còn điều gì nuối tiếc nữa.”
Tôi khẽ gật đầu, nghĩ tới một ngày như thế, trong lòng cũng dâng tràn nỗi mừng vui và mơ mộng. “Nếu quả có một ngày như thế, ta cũng không còn điều gì nuối tiếc nữa.”
Cận Tịch nở nụ cười tươi. “Ngày ấy chắc cũng sắp tới rồi, khi đó nương tử nhớ đừng vứt bỏ nô tỳ và Hoán Bích cô nương nhé!”
Tôi mỉm cười, nói: “Ba người chúng ta đồng cam cộng khổ, nhất định sẽ mãi ở bên nhau.”
Cận Tịch lộ nét vui mừng. “Nếu ngày sau có thể mãi mãi ở bên hầu hạ nương tử và Vương gia, đó cũng là cái phúc của nô tỳ.” Nói rồi liền vạch ngón tay ra tính toán. “Chỉ còn hai mươi ngày nữa thôi là Vương gia sẽ quay trở về.”
Cây đàn Trường tương tư trong tay tôi là sự khởi đầu cho giấc mộng, còn Trường tương thủ của Huyền Thanh chính là nơi giấc mộng đi tới điểm tận cùng. Nhớ về con đường dài dằng dặc đã đi qua, lại nghĩ tới việc sắp đi hết giấc mộng, lòng tôi xao xuyến không yên. Tôi bất giác thầm nhớ lại những tháng ngày ở bên Huyền Thanh, đó thực là khoảng thời gian hạnh phúc nhất cuộc đời, suy nghĩ như vậy, đôi tay tôi bất giác khẽ lướt qua Trường tương tư, một khúc nhạc vang lên da diết.