Q.6 - Chương 22: Mây Vén Trăng Lên Hoa Giỡn Bóng
Trích Thiên tiên tử, Trương Tiên. Dịch thơ Nguyễn Xuân Tảo. Nguyên văn Hán Việt: Vân phá nguyệt lai hoa lộng ảnh - ND. Đêm ấy Huyền Lăng nghỉ lại chỗ Diễm Quý nhân. Trong tiết trời thu khô hanh se lạnh, nửa đêm Linh Tê chợt ho lên mấy tiếng, nhũ mẫu vội vàng sai người đi nấu canh lê đường phèn. Chái điện mà Linh Tê và Dư Hàm ở được trang hoàng hết sức sặc sỡ, khắp nơi đều là những món đồ chơi nhỏ dành cho trẻ con. Chiếc siêu bạc bắc trong điện đang sôi lên sùng sục, mùi thơm của lê và đường phèn trộn lẫn vào nhau bay lan ra xung quanh, bầu không khí trong điện ngập tràn cảm giác ấm áp.
Linh Tê rất ngoan ngoãn, tôi xúc từng thìa canh lê lên thổi mát rồi cho nó uống, Hoán Bích thì mỉm cười đứng kế bên cẩn thận giúp nó lau đi chỗ nước canh rỉ ra bên khóe miệng, con bé liên tục chớp chớp cặp mắt to tròn cười tươi ngọt ngào.
Linh Tê đúng là một đứa bé rất ngoan, tôi vui vẻ nghĩ thầm.
Một làn gió mát thổi tới, Hoa Nghi đẩy cửa đi vào, tươi cười nói: “Nương nương, nghe nói vừa rồi Mục Quý nhân đã dẫn theo Ngưỡng Thuận nghi và Nghiêm Tài nhân tới Cảnh Xuân điện đại náo tưng bừng, làm nhục An Quý tần một trận.”
Tôi khẽ thổi thìa canh lê vừa xúc, chậm rãi nói: “Đúng là một lũ ngu xuẩn! Bọn họ lấy cớ gì mà náo loạn như vậy?”
“Mục Quý nhân nói An Quý tần là người chẳng lành, liền đến Thông Minh điện xin một ít giấy bùa về dán khắp nơi trong Trường Dương cung để trừ tà, còn đốt rất nhiều giấy vàng và vẩy nước phép gì đó nữa, làm mọi thứ đều rối tung rối mù cả lên.” Hoa Nghi lộ vẻ lo lắng nói: “An Quý tần tốt xấu gì cũng là chủ vị một cung, Mục Quý nhân làm vậy thực quá bất kính, nương nương có qua đó xem một chút không?”
“Xem gì chứ?” Tôi đặt mạnh chiếc thìa bạc trên tay vào trong bát. “Hoàng thượng đã nói cô ta là người chẳng lành, Mục Quý nhân tuy quá đáng nhưng cũng chỉ là làm việc theo ý chỉ mà thôi, không có vấn đề gì cả.” Rồi tôi lại dặn dò Hoa Nghi: “Đi nói với người bên ngoài là ta đã ngủ, không gặp ai hết.”
Hoán Bích cười phì một tiếng, lộ rõ vẻ thích chí. “Hay cho Mục Quý nhân, coi như đã giúp chúng ta trút giận một phen rồi.”
Ngày hôm sau Hoàng hậu quả nhiên đã hỏi tới việc này trước mặt mọi người, Mục Quý nhân liền đáp: “Thần thiếp làm sao dám bất kính với An Quý tần, mang chỗ giấy bùa, nước phép đó tới không chỉ là để giúp An Quý tần xua đuổi tà khí, còn vì mong lục cung được an định.”
Thế là Hoàng hậu liền không nói gì nữa. Mục Quý nhân thấy Hoàng hậu không hỏi gì thêm, bất giác lộ rõ vẻ đắc ý, đồng thời lại càng coi thường An Lăng Dung.
Cứ như vậy nửa tháng trôi qua, gió tây kéo về, trời dần lạnh hẳn. Trong Nhu Nghi điện, lò sưởi đốt suốt cả ngày, còn được đặt thêm mấy chậu than, thỉnh thoảng than trong chậu lại phát ra những tiếng nổ lốp đốp, càng khiến người ta cảm thấy ấm áp hơn.
Bên dưới cửa sổ trong tẩm điện có kê một chiếc sạp quý phi dài đóng bằng gỗ đàn hương, hai bên sạp đặt hai chiếc kỷ nhỏ kiểu hoa mai, bên trên để rượu nóng và đồ điểm tâm. Cạnh tường có đặt mấy chậu sơn trà vốn được trồng trong phòng ấm, những cánh hoa đỏ tươi căng đầy như nhung, được hơi ấm phả vào lại càng toát ra một thứ mùi thơm thanh nhã.
Bên ngoài trời lúc này gió tây cuồn cuộn, tiếng gió vù vù vọng vào nghe như thể bên ngoài có vô số con sài lang hổ báo đang chạy rầm rầm. Tôi ngồi trên chiếc sạp, ngoảnh đầu qua bưng chén bạc lên đưa về phía người trước mặt mà khẽ nở nụ cười. “Mời tứ lang uống cạn chén này.”
Y ngẩng đầu một hơi uống cạn, trên khuôn mặt bất giác thấp thoáng mấy tia ửng đỏ vẻ say sưa. “Rượu chẳng say người người tự say, trẫm xem ra thực sự đã say rồi.”
Mái tóc tôi lúc này chỉ được cố định qua loa bằng một cây trâm ngọc, mấy lọn tóc mềm mại buông lơi lả lướt bên tai, đôi hàng lông mày vẽ theo kiểu Giảo lê trang nhìn đáng yêu rất mực, còn mang theo nét xuân tình. Tôi phỉ phui một tiếng, bàn chân trần trắng muốt đá nhẹ vào chiếc chậu nhổ tráng men bên cạnh. “Tứ lang chẳng nghiêm túc gì cả.” Rồi lại cười, nói: “Tứ lang vừa mới dỗ Hàm Nhi ngủ xong, chẳng lẽ bây giờ lại định làm nó thức dậy? Như thế thì thực chẳng ra sao cả!”
Chiếc áo tơ mỏng màu ngó sen được kéo xuống tới cánh tay, đầu bút ươn ướt mềm mại lướt đi nhẹ nhàng trên bờ vai lõa lồ trắng nõn, y đang lúc cao hứng, liền vẽ lên vai tôi một bức hình Hải đường xuân thụy đầy nét hữu tình. Đầu bút vừa nhúng đẫm mực chạm vào da làm tôi thấy hơi ngứa ngáy, liền không kìm được cười khì một tiếng. Y vội giữ tôi lại, dịu dàng nói: “Đừng động đậy, sắp xong tới nơi rồi.” Tôi lúc này cũng đã hơi say, sắc mặt lộ ra mấy tia uể oải, ngoảnh đầu lại thấy trên vai có mấy điểm đỏ tươi tựa như san hô lóng lánh, lại càng làm tôn lên làn da trắng ngần, liền không kìm được cất tiếng ngâm nga: “Lương thần mỹ cảnh nại hà thiên, thưởng tâm nhạc sự thùy gia viện[35]...”
[35] Đây là lời hát được trích từ vở kịch Mẫu Đơn đình của Thang Hiển Tổ. Dịch nghĩa: Thời tiết và cảnh vật đều đẹp mê hồn, nhưng lòng ta sao quá ư buồn chán, những việc vui vẻ thú vị đang diễn ra ở nhà ai đây? - ND.
Vẻ mê say trong mắt y lại càng thêm nồng đậm. “Hiếm khi được nghe nàng hát một câu thế này.”
Chiếc váy dài màu hồng phấn lẳng lặng buông lơi bên mép sạp, tôi cất giọng lả lướt: “Trong cung đã có An muội muội rồi, Hoàn Hoàn thực thẹn không dám mở miệng.” Y hơi ngẩn ra. “Giọng hát của nàng ta đã hỏng rồi.”
Tôi đưa tay chỉnh lại búi tóc đã hơi trĩu xuống, cất giọng dịu dàng: “An muội muội quả thực rất đáng thương, Hoàng thượng cũng nên qua thăm muội ấy một chút.”
Y khẽ “ồ” một tiếng, hờ hững nói: “Vào lúc này, chớ nên nhắc tới nàng ta làm gì ất hứng.” Dứt lời liền khom người xuống, khẽ hôn lên bờ vai trần của tôi. “Trước mặt đang có cảnh xuân tươi đẹp, muôn hồng ngàn tía thế này, ta đâu còn tâm trạng nào mà nghĩ tới vách nát tường xiêu...”
Giữa ánh nến đỏ dịu êm, chiếc màn hồng không ngớt đung đưa nhè nhẹ.
Khi tôi thức dậy thì đã là nửa đêm, chín ngọn nến trong điện đều đã gần cháy hết, ánh nến như tỏa ra những tia đỏ mông lung. Mùi thơm ngọt ngào của Nga lê trướng trung hương vương vất trong không khí, khi vừa thức giấc tôi bất giác có chút mơ màng, cảm thấy mình như chẳng ở nhân gian. Mãi đến khi bắt gặp ánh mắt chăm chú của Huyền Lăng, tôi mới lập tức bừng tỉnh, cất giọng dịu dàng: “Tứ lang sao vẫn còn thức thế?”
Một lọn tóc mềm bị y quấn vào đầu ngón tay. “Trẫm muốn ngắm cảnh hải đường ngủ xuân, do đó không đành lòng đi vào giấc mộng.”
Tôi hơi nhích về phía y một chút. “Hoàn Hoàn thì muốn được ngủ mãi bên cạnh tứ lang thế này, vĩnh viễn không bao giờ tỉnh lại.”
Y nở một nụ cười dịu dàng, đưa tay ôm tôi vào lòng. “Trẫm có việc này muốn nói với nàng.” Y dừng một chút rồi mới tiếp: “Trẫm chuẩn bị tấn phong cho Xích Thược.” Xích Thược vừa mới trở thành Tuyển thị chưa lâu, bây giờ lại chuẩn bị được tấn phong tiếp, đủ thấy cô ta đang đắc sủng thế nào. Tôi từng nghe Yến Nghi nhắc tới việc này, do đó không mấy ngạc nhiên, chỉ khẽ nở nụ cười. “Mấy việc như thế này Hoàng thượng nên thương lượng với Hoàng hậu mới đúng.”
Huyền Lăng nói: “Hoàng hậu ắt sẽ không phản đối...”
Tôi mỉm cười cắt ngang lời y: “Lẽ nào Hoàng thượng nghĩ là thần thiếp sẽ ghen sao?”
Y bật cười, đưa tay tới gài lại mép chăn giúp tôi. “Nàng là Thục phi, có quyền hiệp trợ quản lý lục cung, trẫm tất nhiên phải nói với nàng rồi. Nếu nàng không muốn, trẫm không tấn phong cho nàng ta cũng được.”
Tôi đưa mắt lườm y một cái. “Hoàng thượng nghĩ thần thiếp thế nào vậy chứ? Vinh Tuyển thị nếu hầu hạ tốt thì tấn phong cũng là điều nên làm. Chỉ là Hoàng thượng nhớ dạy dỗ quy củ cho nàng ta một chút, chớ để nàng ta được sủng ái quá mà kiêu ngạo, kẻo rồi lại giẫm vào vết xe đổ của Diệu Âm Nương tử ngày trước.”
Y khẽ mỉm cười. “Xích Thược tuy xuất thân nô tỳ nhưng quả là có chút kiêu ngạo, sau này nàng cứ dạy dỗ nàng ta cho cẩn thận là được rồi.”
“Nàng ta được Hoàng thượng sủng ái, có kiêu ngạo một chút cũng không phải vấn đề gì cả, nhưng bây giờ dù sao cũng là tiểu chủ rồi, nếu tính khí lớn quá đi xem thường người khác thì sẽ làm tổn thương tới hòa khí giữa các phi tần, cũng không đè nén được người dưới, sẽ chẳng có chút bộ dạng nào của một tiểu chủ cả.”
Y lộ vẻ trầm ngâm. “Quả đúng là như vậy. Trẫm từng nói với Yến Nghi là muốn phong nàng ta làm Nương tử, Yến Nghi không có ý kiến gì. Về sau thấy Xích Thược hầu hạ rất âm cần, chu đáo, trẫm liền nghĩ phong cho nàng ta làm Tài nhân cũng không sao. Nhưng bây giờ mà phong như vậy thì có phần vội quá, tạm thời cứ phong làm Nương tử là được rồi.” Y đưa tay chống cằm, nói tiếp: “Cũng không cần chọn chữ tốt lành gì cả, Xích Thược thích hoa thược dược, cứ tìm một biệt danh nào đó của hoa thược dược làm phong hiệu là được rồi.” Y vạch ngón tay, nói: “Thược dược còn được gọi là tương ly, kiều khách, dư dung, lam vĩ xuân, trẫm thấy đặt phong hiệu cho nàng ta là lam xuân hay dư dung đều ổn cả, nàng nghĩ sao?”
“Cả hai nghe đều rất hay, Hoàng thượng cứ tự mình quyết định là được rồi.”
Huyền Lăng ngáp dài một cái, uể oải nói: “Nàng ta vốn họ Vinh, vậy sau này hãy gọi là Dư Dung Nương tử đi[36].”
[36] Ở đây chữ “vinh - 荣” và chữ “dung - 容” đồng âm - ND.
Tôi khoác áo đứng dậy đi tới bên bàn rót một chén trà, đang định xoay người đưa cho Huyền Lăng thì chợt thấy y cũng đã rời giường, lúc này đang đi chân trần đứng sau lưng tôi. Y ôm chầm lấy tôi từ phía sau, khẽ hôn lên má tôi một cái, cất giọng áy náy: “Hoàn Hoàn, có chuyện này... trẫm thật sự rất khó xử.”
Tôi cười, nói: “Tứ lang có gì xin cứ nói, Hoàn Hoàn tuy chưa chắc đã có thể phân ưu cho tứ lang nhưng lúc nào cũng sẵn lòng nghe tứ lang giãi bày tâm sự.”
Hơi trầm ngâm một chút, y chậm rãi nói: “Trẫm đã sai người đón hai vị muội muội của nàng vào cung bầu bạn với nàng, nàng vừa lòng chứ?”
“Đa tạ tứ lang, bọn họ lúc này sống trong cung cũng đã khá quen rồi. Có bọn họ bầu bạn, thần thiếp thấy thoải mái hơn nhiều lắm.” Dừng một chút, tôi chăm chú nhìn hai cái bóng thành đôi thành cặp của mình và y trong chén trà xanh biếc. “Nghe hai vị muội muội nói cha mẹ thần thiếp cũng sẽ vào kinh ở lại lâu dài, không biết giờ đã khởi hành chưa? Từ khi vào cung đến giờ, thần thiếp đã lâu lắm không được gặp lại song thần rồi. Có lúc thần thiếp thật sự rất ngưỡng mộ Hồ Chiêu nghi vì Tấn Khang Quận chúa có thể thường xuyên vào cung thăm nom, hưởng niềm vui mẹ con đoàn tụ.”
Y đặt bàn tay lên cánh tay tôi, cất giọng hơi trầm thấp: “Điều trẫm muốn nói chính là về cha mẹ nàng... Trong thời gian tới chỉ sợ là bọn họ không thể vào kinh được.”
Lòng tôi trầm hẳn xuống, khẽ “ưm” một tiếng bằng giọng nghi hoặc. Y lại nói tiếp: “Huynh trưởng của Kỳ Tần là Quản Khê và Quản Lộ cực lực phản đối, cha anh của Tường Tần cũng đều không tán thành, dâng tấu nói cha nàng vốn là tội thần đã bị biếm đi xa, nếu vì nàng đắc sủng mà được vào cung, chỉ e người trong thiên hạ ai cũng sẽ nói là trẫm dùng người chỉ theo tình cảm cá nhân, không hợp lẽ công bằng.”
Năm xưa sau khi bình định Nhữ Nam Vương, Huyền Lăng đã tuyển vào cung bốn phi tần mới là người của các gia tộc vừa nổi lên trong triều. Đến bây giờ, nhà họ Lạc của Thụy Tần sớm đã suy bại, trong ba nhà còn lại thì nhà họ Lê của Phúc Tần cũng dần thất thế, chỉ có nhà họ Nghê của Tường Tần và nhà họ Quản của Kỳ Tần là vẫn khá có quyền lực.
Tay tôi bất giác run run, nước trà trong chén theo đó hơi sóng sánh làm chiếc bóng của tôi và y tan vỡ cả. Tôi gượng cười, hỏi: “Hoàng thượng rất để ý đến lời can gián của bọn họ ư?”
Y đưa tay khẽ vuốt mái tóc mềm mại của tôi. “Không phải vì mấy lời can gián đó, trẫm chỉ lo cho nàng thôi. Khi nàng về cung các đại thần đã dị nghị rất nhiều rồi, nếu bây giờ lại sinh thêm thị phi, chỉ e danh dự của nàng sẽ bị tổn hại.” Đôi mắt y lóe lên những tia sâu thẳm, tựa như ánh sáng của những vì sao giữa bầu trời đêm mịt mùng. “Hơn nữa, như thế sẽ không có lợi cho tương lai của Hàm Nhi sau này.”
Tôi lờ mờ hiểu được thâm ý trong lời nói của y, trong lòng dâng lên muôn niềm cảm khái: “Dư Hàm hãy còn nhỏ, còn có Dư Bái nữa mà.”
Y khẽ gật đầu, bàn tay hơi dùng sức hơn một chút. “Đúng là còn nhỏ, nhưng trẫm cũng chưa già, vẫn có thể cẩn thận dạy dỗ nó từ bé, không thể để nó giống như Dư Ly được.”
Tôi định thần lại, nói: “Hoàng thượng muốn dạy dỗ con trẻ không có gì là sai, nhưng tiền triều cũng cần ổn định, không thể để xảy ra biến cố Nhữ Nam Vương và nhà họ Mộ Dung như ngày xưa được.” Tôi ngoảnh đầu nhìn y. “Kỳ thực Hoàng thượng hẳn cũng rõ, việc của nhà mẹ đẻ thần thiếp năm xưa rõ ràng có rất nhiều ẩn tình. Hoàng thượng đã suy nghĩ cho tương lai của Dư Hàm, vậy không thể để nhà ngoại của nó mãi mãi mang tiếng tội thần được. Hoàng thượng có từng nghĩ tới việc điều tra lại vụ án năm xưa không?”
Huyền Lăng mím chặt đôi môi tạo thành những đường cong cứng đờ, tôi chăm chú nhìn y, thấy những nếp nhăn nơi khóe mắt y đã lan tới tận khóe miệng y rồi, mang theo những tia lạnh lẽo. Ngọn nến chợt nổ đốp một tiếng giòn tan, rồi y cũng cất giọng nhẹ nhàng: “Kỳ Tần chưa phạm phải lỗi lầm gì lớn trong cung, nhà họ Quản tạm thời cũng không có sai sót gì, tùy tiện lật lại bản án năm xưa sẽ chỉ khiến triều chính rối ren xao động.”
Vậy lẽ nào chỉ có thể để cha anh thần thiếp vĩnh viễn chịu mối oan khuất đó sao? Tôi rất muốn lớn tiếng hét lên như vậy, thế nhưng khi lời ra đến bên miệng thì lại biến thành một câu nói điềm nhiên, bình thản vô cùng, là nói với y mà cũng là nói với bản thân tôi nữa: “Thần thiếp có thể đợi.”
Ngày hôm sau, Huyền Lăng truyền chỉ phong Vinh Xích Thược làm Dư Dung Nương tử chính thất phẩm. Các phi tần theo lệ đều phải tới chúc mừng, nhưng vì Xích Thược xuất thân hàn vi, các phi tần trong cung hầu hết đều xuất thân thế gia cả, do đó chẳng muốn tới bợ đỡ nàng ta làm gì. Mấy ngày nay trời đổ mưa liên tục, đường lầy lội khó đi, mọi người vừa hay có thể dùng làm cái cớ. Lại vì trời lạnh, thời gian này Đoan Phi và Thái hậu đều tái phát bệnh cũ, Trinh Quý tần thì vẫn nằm bệnh từ trước, ngay đến Mục Tần khi ra ngoài cũng trượt chân ngã bị thương, thế là Hoàng hậu liền iễn luôn việc thỉnh an trong mấy ngày này, các phi tần đều có thể ở trong cung của mình tránh rét.
Ra ngoài không tiện, bên ngoài trời lại vừa lạnh vừa ẩm ướt, mọi người cả ngày ở trong cung đều thấy nhạt nhẽo vô cùng. Cái thai của My Trang lớn dần, vì đề phòng sơ sảy nên lại càng chẳng bao giờ bước chân ra khỏi cửa. Tôi thì không có việc gì làm, ngày ngày đều bầu bạn bên Dư Hàm và Linh Tê, lấy đó làm niềm vui thú.
Buổi trưa hôm ấy, tôi vừa dùng bữa xong, bên ngoài mây đen phủ kín, trời mịt mù âm u, chừng nửa canh giờ sau thì mưa bắt đầu rơi, những hạt mưa nhỏ va vào lớp ngói lưu ly làm vang lên những tiếng tinh tinh, nghe lâu rồi, tôi cảm thấy toàn thân đều uể oải, tất cả sức lực dường như đã bị hút cạn. Trong điện rèm ngọc buông lơi, mùi hương bách hợp theo một làn khói trắng từ trong lò hương bay ra vương vất lan tỏa. Tôi dần cảm thấy buồn ngủ, cứ ôm chiếc lò sưởi cầm tay trong lòng mà ngẩn ngơ nhìn làn khói trắng kia.
Chẳng biết đã bao lâu trôi qua, que hương trong lò hương hình như đã cháy hết. Trước mắt bỗng lóe hiện một cái bóng màu xanh, thì ra là Hoán Bích đang vui vẻ bước vào. Muội ấy vừa xoa tay vừa hà hơi liên tục, sau đó mới nói: “Thời tiết chết tiệt này, vừa lạnh vừa ẩm ướt, khiến người ta khó chịu chết mất.”
Hoán Bích là a hoàn tùy giá của tôi, trong số các cung nữ ở Nhu Nghi điện, tất nhiên là tôn quý nhất, dùng lời của Cận Tịch để nói thì “coi như là một nửa chủ nhân rồi”. Hôm nay muội ấy mặc một chiếc áo màu xanh may bằng vải đoạn, bên trên có mấy hình thêu như ý khá tinh xảo, tất cả đều được dùng chỉ bạc; nơi eo có một dải dây lụa thêu hoa màu vàng nhạt quấn quanh, phía dưới đeo một khối ngọc bội xanh biếc. Búi tóc muội ấy được búi khá đơn giản theo kiểu Lưu tô, trên đầu chỉ có một cây trâm đính trân châu cùng vài bông hoa tô điểm, nhìn tổng thể thì khá hài hòa.
Muội ấy cầm một chiếc áo dài lại khoác lên vai cho tôi, cất giọng ôn tồn: “Tiểu thư đã mệt rồi, chi bằng hãy vào nội điện nằm nghỉ một lát đi.”
Tôi đưa tay dụi mắt, lại vừa đấm vai vừa nói: “Hôm nào cũng nằm người nhức mỏi lắm, ta cứ ngồi thế này là được rồi.”
Hoán Bích mặt mày tươi rói, lộ ra vẻ hưng phấn không cách nào giấu được. “Chúng ta ở đây nhạt nhẽo, nhưng bên ngoài thì náo nhiệt lắm đấy!”
Tôi bật cười, hỏi: “Có chuyện gì thú vị thế? Muội kể ta nghe xem nào.”
“Có người không chịu được nỗi buồn tẻ, liền đến Cảnh Xuân điện gây chuyện thị phi.”
Tôi cười khẩy, nói: “Còn có thể là ai đây? Nhất định là đám người Mục Quý nhân rồi.”
“Tiểu thư nói rất đúng.” Hoán Bích ngồi xuống bên cạnh tôi, cười nói tiếp: “Than sưởi ấm của Cảnh Xuân điện không đủ dùng, Mục Quý nhân liền sai người mang một rổ than ướt đến, nói là để cho An thị đốt lửa sưởi ấm. Chỗ than ướt đó đã bị ngâm qua nước từ trước rồi, tuy đốt thì vẫn cháy được nhưng lại làm khói bốc lên mù mịt khắp Cảnh Xuân điện, khiến An Lăng Dung bị sặc gần chết.” Hoán Bích càng nói lại càng hưng phấn, đôi bông tai phỉ thúy không ngớt lắc lư chừng như muốn bay ra ngoài.
Tôi nở nụ cười tươi. “Mục Quý nhân trước đây chẳng qua chỉ đanh đá, ghê gớm, sao bây giờ cũng học được mấy thủ đoạn ma lanh này vậy?”
Hoán Bích thích chí nói: “Kẻ ác tự sẽ có kẻ ác giày vò. Những thủ đoạn đó năm xưa Hoa Phi vốn từng dùng để làm nhục Kính Phi nương nương, bây giờ được bọn họ mang ra dùng lại thực không tệ chút nào!”
“Vậy An Lăng Dung cứ mặc kệ bọn họ, không ho he tiếng nào sao?”
Hoán Bích hơi cau mày, nói giọng chán ghét: “Ả Bảo Quyên bên cạnh cô ta xem ra cũng khá lanh lợi, lập tức chuồn ra ngoài đi bẩm việc này với Hoàng hậu, Hoàng hậu liền sai Tiễn Thu tới trách mắng mấy câu, thế là bọn họ mới chịu bỏ đi.”
Trong mắt bừng lên một tia cảm xúc phức tạp, vừa có đau buồn, xót xa lại vừa có sướng khoái, Hoán Bích nghiến răng nghiến lợi nói: “Cận Tịch phụ trách quản lý các cung nữ trong cung, liền nói cung nữ của Trường Dương cung không hết lòng bảo vệ chủ, còn trách phạt cả thị nữ tùy thân của Mục Quý nhân, chỉ trích bọn họ xúi bẩy tiểu chủ nhà mình đi gây chuyện. Mà càng quan trọng hơn là Cận Tịch đã nhận ra gã thị vệ Tống Khảm canh gác bên ngoài Trường Dương cung chính là kẻ...” Nói đến đây, giọng muội ấy bỗng trở nên nghẹn ngào: “Lưu Chu khi xưa chính vì lao đầu vào đao của hắn nên mới chết thảm như vậy.”
Tôi nắm chặt hai tay, vết thương đã khép ệng trong lòng lại một lần nữa rách toạc. Lưu Chu, Lưu Chu, những tháng ngày đi theo tôi, nàng ta đã phải chịu biết bao nhiêu nỗi khổ, mỗi lần tới Đường Lê cung, tôi đều bất giác ngẩn ngơ, cảm thấy nàng ta dường như chưa từng rời khỏi thế gian này, vẫn mặc bộ đồ màu đỏ rực rỡ mà đứng đó cười tươi.
Một hồi lâu sau, tôi lạnh lùng hỏi: “Đã chết chưa?”
Hoán Bích cười lạnh một tiếng. “Cận Tịch ghép cho đám thị vệ đó tội thất trách, không biết bảo vệ chủ, đã đuổi vào Bạo thất rồi.” Trên khuôn mặt Hoán Bích bất giác lộ ra một tia dữ dằn và sướng khoái. “Tiểu thư yên tâm, Cận Tịch nhất định đã dặn dò người ở đó phải chăm sóc Tống Khảm thật cẩn thận rồi.”
Tôi lẳng lặng gật đầu. “Phải khiến hắn muốn sống không được, muốn chết chẳng xong.” Tôi ngẫm nghĩ một chút rồi hỏi: “Nếu không có Bảo Quyên đi báo tin cho Hoàng hậu, lẽ nào An Lăng Dung lại để mặc Mục Quý nhân càn quấy mà không hề phản kháng ư?”
Hoán Bích trầm ngâm đáp: “Việc này... Cô ta quả thực không nói gì cả, chỉ đứng nhìn thôi.” Dừng một chút rồi lại tiếp: “Có lẽ cô ta chẳng còn sức mà phản kháng nữa rồi.” Đôi hàng lông mày của muội ấy nhướng hẳn lên. “Cô ta giờ là người chẳng lành, còn giữ được tính mạng mà sống trong cung đã là tốt lắm rồi, nếu không nhẫn nhục thì có thể thế nào nữa chứ?”
Tôi khẽ lắc đầu, trầm giọng nói: “Nhớ bảo Cận Tịch cẩn thận để ý mọi động tĩnh của Cảnh Xuân điện.”
Tôi ngủ thiếp đi được một lát, phía đằng xa chợt có tiếng đàn hát văng vẳng vang tới Nhu Nghi điện. Giữa màn mưa mịt mùng, giọng hát của người ca nữ nghe dịu dàng mà trầm thấp, mang theo một nỗi khắc khoải mênh mang: “Lạnh buốt thổi mấy luồng gió bấc, mưa tuyết bay chiếu đặc khắp trời. Cùng ta thân ái những người, nắm tay dắt díu cùng rời khỏi đây... Gió bấc thổi mấy luồng vi vút, mưa tuyết vừa bay trút tơi bời. Cùng ta thân ái những người, dắt tay về hẳn mau rời khỏi đây[37]...”
[37] Trích Bắc phong, Kinh Thi. Dịch thơ Tạ Quang Phát. Toàn bài: Lạnh buốt thổi mấy luồng gió bấc, mưa tuyết bay chiếu đặc khắp trời. Cùng ta thân ái những người, nắm tay dắt díu cùng rời khỏi đây. Sao lại còn khoan thai lần lữa? Nguy loạn đà sắp sửa gấp rồi. Gió bấc thổi mấy luồng vi vút, mưa tuyết vừa bay trút tơi bời. Cùng ta thân ái những người, dắt tay về hẳn mau rời khỏi đây. Sao lại còn khoan thai lần lữa? Nguy loạn đà sắp sửa gấp rồi. Chẳng phải chồn không gì là đỏ, chẳng phải quạ không phải sắc đen. Cùng ta những kẻ thuộc quen, chung xe dắt díu bỏ ền này đây. Sao lại còn khoan thai lần lữa? Nguy loạn đà sắp sửa gấp rồi. Nguyên văn Hán Việt: Bắc phong kỳ lương, vũ tuyết kỳ bàng. Huệ nhi hiếu ngã, huề thủ đồng hành. Kỳ hư kỳ tà? Ký cức chỉ thư! Bắc phong kỳ kê, vũ tuyết kỳ phi. Huệ nhi hiếu ngã, huề thủ đồng quy. Kỳ hư kỳ tà? Ký cức chỉ thư! Mạc xích phỉ hồ, mạc hắc phi ô. Huệ nhi hiếu ngã, huề thủ đồng xa. Kỳ hư kỳ tà? Ký cức chỉ thư - ND.
Trong cơn mơ màng giữa mê và tỉnh, tự nơi đáy lòng tôi bỗng dâng lên một tia ký ức vô cùng rõ nét, một ngày đông nào đó trên đỉnh Lăng Vân, y đạp tuyết mà tới, chỉ vì muốn đưa tặng tôi một bó mai xanh vừa nở.
Tôi bất giác thở dài than: “Thực là có nhã hứng quá, giọng ca nghe cũng hay nữa.”
Vừa khéo lúc này Hoa Nghi bưng một đĩa cam tươi bước vào, những quả cam quả nào quả nấy đều có màu vàng tươi, nhìn như những chiếc đèn lồng nhỏ. Nàng ta nói: “Là Hồ Chiêu nghi ở Yến Hy điện cho gọi ca nữ đến hát giúp vui đấy!”
Tôi khẽ gật đầu, cố che giấu tâm trạng buồn bã nơi đáy lòng, cất tiếng khen: “Thì ra là thế. Hồ Chiêu nghi xuất thân thế gia danh môn, quả nhiên là người tao nhã.”
Hoa Nghi mỉm cười, bóc một quả cam đưa cho tôi, nói: “Đây là cam ngọt vừa tiến cống, chắc là không tệ, nương nương hãy nếm thử xem.”
Tôi vừa mới tách một múi cam bỏ vào ệng thì Cận Tịch rảo bước đi vào, ghé đến bên tai tôi, khẽ nói: “An Quý tần vừa mới ngất lịm ở Cảnh Xuân điện.”
Tôi “ồ” lên một tiếng, chậm rãi hỏi: “Thái y đã tới xem chưa? Là vì cơn kinh sợ hôm nay hay là do ăn mặc thiếu thốn? Bản cung đâu có bạc đãi cô ta về vấn đề ăn uống, ngủ nghỉ chút nào.”
Hoa Nghi phán đoán: “Liệu có phải là cô ta giả bệnh để mong được Hoàng thượng xót thương không?”
Tôi thản nhiên lắc đầu. “Hoàng thượng vốn đã cảm thấy cô ta chẳng lành, nếu lại bị bệnh nữa ắt sẽ càng chẳng coi ra gì.”
Cận Tịch khẽ nói: “Thái y đã tới tận cửa rồi, vậy mà An Quý tần lại nhất quyết không cho xem, nhưng nghe tiểu cung nữ đi mời thái y nói, hình như An Quý tần đã nhịn ăn quá độ.”
“Nhịn ăn?” Tôi lộ vẻ nghi hoặc. “Đang yên đang lành cô ta nhịn ăn làm gì?”
Cận Tịch lại ghé đến bên tai tôi nói: “Nô tỳ nghe nói An Quý tần từ sau khi thất sủng liền ngày ngày khổ luyện Kinh Hồng vũ ở những chỗ không người.”
Tôi bất giác ngẩn ra, kế đó bên khóe ệng liền thoáng hiện một nét cười hờ hững. “Thực vất vả cho cô ta quá! Giọng hát của cô ta đã hỏng, căn nguyên của sự sủng ái chẳng còn, bây giờ dốc hết tâm sức học múa hòng mong được sủng ái trở lại cũng là điều hợp tình hợp lý.”
Cận Tịch hơi cau mày. “Trước khi nương nương về cung, Hoàng thượng từng hết sức ân sủng An Quý tần, nếu không phải An Quý tần xuất thân thấp kém chỉ sợ sớm đã được phong Phi. Tuy bây giờ đang thất sủng, nhưng tâm kế của cô ta không phải tầm thường, lại dốc lòng mê hoặc Hoàng thượng như thế, e là không dễ ứng phó.”
Tôi tách một múi cam nữa bỏ vào ệng chậm rãi ăn, sau đó mới ung dung nói: “Kinh Hồng vũ vốn là do Thuần Nguyên Hoàng hậu sáng tác ra, ngày xưa ta cũng từng múa. Tiếc rằng bây giờ ta vừa sinh nở xong, thân thể còn nặng nề, không thể múa điệu ấy được. An Lăng Dung cũng coi như là tâm tư ghê gớm, không ngờ lại nghĩ ra cách này hòng mong tranh sủng, quả nhiên xảo quyệt.” Tôi nhúng tay vào chậu nước rửa sạch nước cam dính trên mấy ngón tay, cười lạnh, nói: “Có điều ta làm sao chịu để cô ta đạt được ý nguyện cơ chứ!”
“Tuy bây giờ cô ta là người chẳng lành, Hoàng thượng chưa chắc đã để ý tới cô ta, nhưng việc gì cũng cần phải đề phòng thì hơn.” Cận Tịch thoáng lộ vẻ âu lo. “Nương nương đã có cách ứng phó nào chưa?”
Tôi vẫn bình thản cười tươi. “Căn bản chẳng cần ứng phó gì cả, cô ta làm như thế chính là tự tìm đường chết.”
Cận Tịch lộ vẻ khó hiểu. “Nô tỳ ngu độn.”
“Cái chỗ cốt yếu của điệu Kinh Hồng vũ này là tư thái uyển chuyển, thướt tha, thân hình thì nhẹ nhàng như cánh chim hồng lướt qua mặt nước, vừa đẹp lại vừa phiêu dật mềm mại, không có bảy, tám năm khổ công thì ắt chẳng thể luyện thành. Hơn nữa người múa còn cần có thân hình mảnh mai, mềm mại như không xương, điều này thì lại càng chẳng thể làm được trong một sớm một chiều. An Lăng Dung tuy người cũng mỏng manh, nhưng ăn sung mặc sướng đã mấy năm rồi, sao còn có thể nhẹ nhàng, thướt tha được nữa, chẳng trách lại phải dùng đến chiêu nhịn ăn này. Nhưng nhịn ăn rồi người cô ta sẽ vàng vọt gầy nhom, khi múa há còn gì là đẹp.”
Đôi hàng lông mày dãn hẳn ra, Cận Tịch cười, nói: “Nương nương nói rất phải.”
“Nhưng thấy nhịn ăn vừa tổn hại tới nhan sắc vừa không có hiệu quả ngay, chắc bây giờ cô ta cũng đang nôn nóng lắm rồi.” Tôi ném chỗ vỏ cam vừa bóc vào trong lò hương, trong không khí lập tức vương vất đầy mùi cam thanh tân làm lòng người thư thái. “Kỳ thực cũng có cách cho hiệu quả ngay, nếu có người nào đó đi nói với cô ta, cô ta nhất định sẽ mừng rỡ như bắt được vàng.”
“Vậy chúng ta quyết không thể để cô ta biết cách này được.”
“Không, chúng ta phải cho cô ta biết chứ!” Tôi thấy Cận Tịch lộ vẻ nghi hoặc, bèn mỉm cười, nói: “Khi xưa Triệu Phi Yến được Hán Thành Đế sủng ái chính bởi vì người nhẹ như chim én, gần như có thể múa trên lòng bàn tay người ta, kỳ thực đều là nhờ dùng thuốc nên mới được như vậy. Thứ thuốc đó có tên là “Tức cơ hoàn”, chỉ cần nhét nó vào rốn cho tan vào trong cơ thể là có thể khiến làn da trắng ngần, hai mắt sáng như sao, thân thể mảnh mai, nhẹ nhàng, dung mạo long lanh, rực rỡ, chỉ có điều loại thuốc đó có chứa xạ hương bên trong mà thôi.”
Cận Tịch lập tức hiểu ra, nhưng vẫn có chút lo lắng. “Nô tỳ sẽ tìm cách để An Quý tần biết tới phương thuốc này. Có điều xạ hương gây tổn hại rất lớn cho thân thể nữ tử, khiến người ta khó lòng có thai, mà cho dù có thai rồi đứa bé sinh ra cũng sẽ chết yểu. An Quý tần rất hiểu về hương liệu, chỉ e việc này không thể giấu được cô ta.”
Tôi cúi đầu cười, nói: “Ta biết là không giấu được cô ta, mà ta cũng không muốn giấu. Ngươi chỉ cần tìm cách cho cô ta biết tới phương thuốc này là được rồi, còn dùng hay không dùng thì tùy thuộc vào bản thân cô ta thôi.”
Cận Tịch thoáng lộ vẻ trầm ngâm. “Nô tỳ còn nghe nói dùng dương hoa nấu nước để tắm có thể giải được chất độc của xạ hương, nếu cô ta biết tới cách này...”
“Vậy ư...” Tôi bất giác nở nụ cười mỉm. “Ngươi cứ tự mình đi hỏi Vệ Lâm thì sẽ biết thôi. Chỉ là nếu cách này thật sự hữu hiệu như vậy, năm xưa khi Phi Yến, Hợp Đức nắm quyền thiên hạ, cớ gì đã nấu bao nhiêu dương hoa mà vẫn chẳng thể sinh nở được đây?” Tôi suy nghĩ một chút rồi tiếp: “Cứ để cô ta biết cũng tốt, nghĩ dương hoa có tác dụng rồi, cô ta khi dùng Tức cơ hoàn ắt sẽ lại càng chẳng kiêng kỵ gì cả.”
Cận Tịch đưa tay chỉnh lại cây trâm cài trên búi tóc, cười nói: “An Quý tần vốn giỏi dùng hương liệu, chắc hẳn đã dùng xạ hương để làm chuyện xấu xa không ít lần. Hơn mười năm nay cô ta không thể sinh nở, ai mà biết được liệu có phải là do âm đức bị tổn hại mà ra không.”
Tôi khẽ nở nụ cười, cúi đầu nhìn những chiếc móng tay được sơn màu đỏ sẫm của mình, hờ hững nói: “Ta dùng xạ hương để bày mưu với cô ta thực là múa rìu qua mắt thợ, có điều bây giờ ta cũng giống cô ta, đều chẳng sợ tổn hại gì tới âm đức cả!”
Cận Tịch vội nghiêm túc nói: “Nương nương phúc đức đầy mình, đâu có giống với cô ta.”
Vì muốn tạo công hiệu “trấn tâm, định trí, an hồn”, những bức rèm châu trong nội điện đều được xâu thành từ những viên trân châu màu hồng phớt, mỗi viên đều tròn xoe và có kích thước giống hệt nhau, tỏa ánh sáng dìu dịu tựa như ánh nguyệt. Nhìn vào đó lâu rồi, con người ta cũng cảm thấy tâm thần thư thái hơn. Tôi khẽ đưa tay lên vuốt mặt, mỉm cười, nói: “Ta vốn là người vô đức, do đó chẳng sợ bị giảm phúc gì cả. Nhưng ta thật sự hy vọng cô ta có thể tích đức nhiều một chút, kẻo không sau này lại bị đày xuống địa ngục A Tỳ, vĩnh viễn không thể siêu sinh.” Tôi không nói nhiều thêm nữa, chỉ khẽ dặn: “Ta đi thăm hai đứa bé đây, ngươi cứ làm việc này cho tốt là được rồi.” Cận Tịch hơi khom người hành lễ, vội vàng cáo lui.