Chương 12

- Đi pích-ních, hả ông Poirot?

Emili Brewster giương mắt nhìn thám tử, ngỡ ông mất trí.

- Theo cô, như thế là không hợp lúc, phải không? Nhưng tôi, tôi nghĩ ngược lại, đó là một ý hay. - Poirot ôn tồn đáp. - Chúng ta đang cần trở lại cuộc sống bình thường, thân thuộc như mọi khi. Riêng tôi, rất muốn đi tham quan Dartmoor. Thời tiết tốt. Như vậy... xua bớt nỗi niềm nặng trĩu mấy ngày nay. Cô hãy giúp tôi, rủ họ cùng đi, thuyết phục họ.

Dự kiến được hưởng ứng một cách bất ngờ. Lúc đầu, mọi người chưa thú lắm, song cuối cùng đều cho rằng đi thư giãn một buổi cũng là ý hay.

Đại úy Marshall không nằm trong số người mời đi. Ông nói rằng hôm đó ông phải đi Plymouth.

Ông Blatt nhiệt liệt hưởng ứng cuộc đi - Ngoài ra có cô Brewster, vợ chồng Redfern, Stephen Lane, vợ chồng Gardener, Rosamond Darnley và Linda.

Poirot đã phải trổ hết tài để nhờ Rosamond rủ Linda, nhấn mạnh như vậy tốt cho cô bé được dịp khuây khỏa. Rosamond đồng ý:

- Ông nói đúng, ở tuổi ấy, con bé đúng là bị choáng, đứng ngồi không yên.

- Điều đó là tất nhiên. Nhưng tuổi nào rồi cũng quên nhanh, cô rủ em ấy đi. Cô nói thì thế nào cũng được.

Còn thiếu tá Barry, ông cương quyết không đi, nói là không thích pích ních:

- Phải vác đi bao nhiêu đồ lề, mà rồi chẳng thỏai mái tí nào. Không, bữa ăn tôi cứ ngồi bàn đàng hoàng, chẳng dại.

Ai nấy tập hợp lúc mười giờ. Thuê cả thảy ba xe. Ông Blatt có vẻ muốn đóng vai đầu trò:

- Nào quý ông quý bà, ai đi Dartmoor thì lại đây! Quý ông nhớ mang theo quý bà, hoặc bạn gái! Nào, lên xe!

Phút cuối cùng Rosamond mới chạy tới, vẻ thất vọng:

- Linda không đi. Em nói em nhức đầu.

- Ra nơi thoáng đáng sẽ khỏi thôi - Poirot nài. - Cô cố lần nữa đi.

- Vô ích. Em không đổi ý đâu. Tôi đã cho em uống thuốc, em lên giường nằm rồi. Có lẽ tôi cũng ở lại vậy.

- Ồ, không được đâu, thưa quý cô, không được!

- Blatt vừa nói vừa kéo tay Rosamond - Nhà đại thời trang không thể vắng mặt. Không có lí do lí trấu gì cả! Tôi bắt cô làm tù binh đấy! Giải đi Dartmoor!

Và ông ta lôi xềnh xệch Rosamond lên chiếc xe đi đầu.

Đến lượt Christine Redfern:

- Có lẽ tôi ở lại với Linda vậy.

- Ô, không, Christine, em cứ đi! - Redfern can.

- Không, không, bà phải đi - Poirot nói. - Đã nhức đầu, thì người ta thích ở một mình. Đi thôi!

Ba xe chuyển bánh. Trước tiên họ đến thăm động Sheepstor. Đây mới là một hang động thực sự. Theo tờ hướng dẫn, họ đi tìm lối vào.

Trèo leo lên các tảng đá là hơi mạo hiểm. Hercule Poirot chỉ đứng quan sát mọi người. Christine Redfern, luôn có chồng tháp tùng, nhảy thoăn thoắt từ hòn này sang hòn khác. Cô Darnley và cô Brewster cũng trèo; cô Brewster bị trượt một cái, trẹo chân nhẹ. Stephen Lane trèo cũng khá, dáng người mảnh khảnh của ông cứ lưng lửng trên các tảng đá. Ông Blatt thì chỉ đứng dưới chụp ảnh và hò reo khích lệ.

Vợ chồng ông Gardener và Poirot biết thân biết phận, ngồi xuống nghỉ bên đường. Tiếng nói bà Gardener tuôn ra như suối, thỉnh thoảng lại được ông chồng phụ họa "phải, phải":

-... và tôi không thích cái thói cứ luôn luôn chĩa máy vào người ta mà chụp, ông Poirot ạ. Ông Gardener nhà tôi cũng đồng ý thế. Cái ông Blatt này chẳng có ý tứ gì. Ông ta đứng trước mặt, nói vài câu để ta không để ý, thế là chụp lia chụp lịa... Tôi bảo với nhà tôi rằng như thế là bất lịch sự. Phải không, ông Odell?

- Phải, phải.

- Cái ảnh ông ta chụp tất cả mọi người trên bãi biển, cũng là có ý tốt thôi, nhưng chí ít cũng phải nói với người ta một tiếng. Đằng này, cô Brewster không biết, đúng lúc ấy lại nhỏm dậy, trông đến buồn cười!

- Đúng, đúng thế.

- Thế rồi ông ta đem phát ảnh cho từng người, cứ như không. Tôi thấy ông ta cũng đưa ông một cái, ông Poirot nhỉ...

Poirot chắp hai tay:

- Tôi lại đánh giá cao cái ảnh chụp chung ấy.

- Và hôm nay... Ông nhìn kìa! Chỉ toàn nghe tiếng ông ta. Thật lố! Lẽ ra ông nên để ông ta ở lại khách sạn.

- Ôi, thế thì khó quá!

- Phải, tôi cũng hiểu. Ông ta muốn chỗ nào cũng có mặt. Chẳng khiêm tốn gì.

Phía dưới, tiếng hò reo của mọi người khi tìm ra lối vào hang.

Ai nấy tiếp tục lên đường, theo sự hướng dẫn của Poirot, tới một lối cụt. Họ để xe lại, đi bộ vào và phát hiện thấy nơi rất đẹp bên dưới ngọn đồi um tùm cây lá, nằm cạnh con suối có cây cầu hẹp bằng ván chênh vênh bắc qua.

Poirot và ông Gardener thuyết phục được bà Gardener cố gắng qua cầu để sang đến bờ bên kia, có một bãi cỏ phẳng phiu dùng làm nơi ngả trại ăn trưa rất tuyệt...

Bà Gardener rón rén qua cầu, tới bờ bên kia thì nằm xoài xuống, chưa hết hồi hộp. Bỗng có tiếng thét kêu cứu.

Tất cả mọi người đều qua suối an toàn, riêng cô Brewster đến giữa cầu thì khựng lại, nhắm mắt loạng choạng vì mất thăng bằng.

Poirot và Redfern vội chạy lại đỡ. Cô đỏ mặt vì xấu hổ, luống cuống:

- Cảm ơn, cảm ơn. Tôi dở quá. Cứ đi qua cầu dưới có nước chảy là chóng mặt. Thật chẳng ra sao.

Thức ăn được bày ra, mọi người xúm vào ăn.

Ai nấy bây giờ mới thấy chuyến đi này là thú vị. Như là một cuộc trốn chạy thoát ra khỏi sự sợ hãi và ngờ vực. Nơi đây, với tiếng nước róc rách, mùi cây cỏ hăng nồng - cái thế giới mà họ vừa sống - thế giới của tội ác, tra hỏi và nghi kỵ - bỗng như biến mất, như chưa bao giờ có nó. Ngay ông Blatt cũng quên vai trò chọc cười của mình, ăn xong đã lảng ra xa, nằm thiu thiu ngủ, rống lên tiếng ngáy thảnh thơi. Rồi thì, ngày vui sắp hết, ai nấy thu dọn đồ đạc và cảm ơn Poirot về cái sáng kiến hay này.

Mặt trời ngả về tây khi đoàn xe đi về theo con đường ngoằn ngoèo.

Từ trên đỉnh đồi Leather, nhìn thấy xa xa hòn đảo và tòa khách sạn trắng toát. Cảnh trí sao mà êm đềm, bình lặng!

Bà Gardener bỗng trở nên ít nói, chỉ thốt ra một câu:

- Cảm ơn ông Poirot. Tôi thấy hoàn toàn thư thái.

***

Thiếu tá Barry ra đón họ:

- Thế nào, đi vui chứ?

- Tuyệt! - bà Gardener reo. - Ông ru rú ở nhà, thật dại.

- Chẳng sao. Tôi đã quá cái tuổi bỗng dưng ra ngồi bãi cỏ mà nhá xăng-đuých.

Một cô hầu phòng từ khách sạn chạy ra, thở hổn hển. Cô tỏ vẻ do dự, rồi lao tới Christine Redfern.

Poirot nhận ra là Gladys Narrcott. Cô ta vừa nghĩ vừa ngắc ngứ:

- Xin lỗi bà, nhưng cô bé làm tôi lo quá. Cô Marshall. Tôi bưng trà lên, thấy cô ngủ thiếp, đánh thức cô không dậy.

Christine nhớn nhác nhìn chung quanh. Poirot tới ngay, kéo tay cô:

- Ta lên xem sao.

Họ nhảy ba bậc một lên phòng Linda. Thoạt nhìn, thấy ngay có chuyện chẳng lành. Mặt Linda xám ngoét, hơi thở rất yếu. Poirot thử bắt mạch. Mặt ông chợt nhìn thấy một phong bì đặt cạnh cây đèn bàn. Phong bì đề tên ông.

Đại úy Marshall từ đâu chạy bổ vào, hớt hải: Linda, có chuyện gì? Cháu làm sao?

Christine Redfern cố ghìm tiếng nấc sợ hãi.

Poirot quay lại nói với Marshall:

- Gọi bác sĩ, mau! Tôi e... e là đã quá chậm.

Ông vớ lấy phong bì, mở ra xem. Bên trong là mày dòng viết nắn nót theo kiểu học trò:

"Cháu cho thế là giải pháp tốt nhất. Ông nói với ba hãy tha thứ cho cháu. Chính cháu giết Arlena. Cứ tưởng như vậy thì cháu sướng, nhưng cháu đã lầm. Cháu xin lỗi về tất cả mọi chuyện".

Tất cả đều quy tụ trong phòng khách: Marshall, vợ chồng Redfern, cô Darnley và Hercule Poirot. Họ im lặng chờ đợi.

Cửa mở, bác sĩ Neasden bước vào. Lời nói như dao chém:

- Tôi đã cố gắng hết sức. Có thể rồi qua khỏi, nhưng nói thật không có nhiều hy vọng.

Mặt căng cứng, mắt lạnh băng, Marshall hỏi:

- Nó lấy cái thứ chết tiệt ấy ở đâu?

Neasden mở cánh cửa ra hiệu cho cô hầu phòng vào. Mặt cô ta còn ướt nước mắt. Ông bác sĩ bảo:

- Cô nói lại cho ông ấy nghe.

- Tôi cứ tưởng... Tôi tưởng là không nghiêm trọng...

Bác sĩ ra hiệu cho cô nói thẳng vào đề.

- Cô ấy vào phòng bà Redfern, vâng, phòng của bà. Trước bồn rửa mặt cô ấy cầm một cái lọ. Tôi đi vào, cô ấy giật mình. Tôi cũng lạ tại sao cô lại vào phòng bà trong lúc bà đi vắng, song tôi lại nghĩ cô ấy sang để lấy một vật gì của cô ấy. Cô ấy chỉ nói: "À, tôi tìm cái này", rồi đi ra.

- Thuốc ngủ của tôi. - Christine kinh hãi, lẩm bẩm.

- Sao em ấy biết là bà có? - Neasden nghiêm khắc hỏi.

- Tôi đưa cho em ấy một viên, tối hôm xảy ra án mạng, vì em kêu không ngủ được. Em còn hỏi tôi: "Một viên có đủ không?" Tôi đáp là đủ, thuốc này rất mạnh, không bao giờ được dùng quá hai viên một lúc.

- Thế mà cô ấy đã uống tới sáu viên! - Neasden kêu.

Christine òa lên nức nở:

- Trời ơi! Lỗi tại tôi. Lẽ ra tôi phải cất kỹ.

Bác sĩ nhún vai:

- Phải, cẩn thận là không thừa.

- Nếu em có mệnh hệ nào, là tại tôi - Christine nấc lên.

- Bà không phải tự trách mình - Ken Marshall nói. - Linda biết việc nó làm. Nó cố tình. Có lẽ... có lẽ lại hơn.

Ken nhìn xuống lá thư chàng vò nát trong tay, lá thư mà Poirot vừa chuyển cho. Rosamond kêu:

- Tôi không tin một tý nào hết! Linda không giết Arlena. Vô lý...

- Đúng, em không thể giết - Christine nói. - Em đang bị khủng hoảng, tưởng tượng ra...

Cửa mở, và đại tá Weston vào:

- Tôi vừa được tin... Neasden cầm lá thư từ tay Marshall đưa cho Weston. Ông này đọc lướt, rồi nói ngay:

- Cái gì? Vô lý! Không thể, không thể, phải không ông Poirot?

Hercule Poirot bây giờ mới lên tiếng:

- E rằng tôi không đồng ý với ông.

Christine lồng lên:

- Nhưng tôi ở với em mà! Hai chúng tôi ở cùng nhau tới mười hai giờ kém mười lăm. Tôi đã khai đó thôi.

- Lời khai của bà đã bảo vệ cho ông ấy! - Poirot nói. - Nhưng dựa trên cái gì? Dựa trên giờ của đồng hồ của Linda Marshall. Bà không tận mắt nhìn giờ lúc bà rời cô ấy ra về - Bà biết giờ ấy chỉ do em nói. Bà chẳng khai là bà cảm thấy thời gian trôi quá nhanh?

Christine trợn tròn mắt. Poirot tiếp tục:

- Bà hãy nhớ lại đi. Lúc về khách sạn, bà đi nhanh hay chậm?

- Tôi... hừ, có lẽ đi chậm.

- Và bà có nhớ rõ con đường trở về không?

- Không nhớ lắm... tôi mải suy nghĩ, không để ý.

- Rất tiếc phải hỏi bà thêm, bà có thể nói lúc đó bà nghĩ gì?

Christine ngượng đỏ mặt:

- Vâng... nếu cần... Tôi nghĩ mình sẽ đi khỏi đây, biến đi mà không báo cho chồng biết. Tôi... tôi rất đau khổ, ông hiểu chứ... Patrick Redfern vụt thốt lên:

- Ô, Christine, anh biết... anh biết...

Giọng nói nhỏ nhưng dứt khoát của Poirot cất lên:

- Đấy! Lúc đó bà sắp phải có một quyết định khó khăn. Bà như không nhìn, không nghe thấy gì quanh mình, hẳn phải đi rất chậm, thỉnh thoảng lại dừng chân để suy nghĩ..

Christine gật đầu:

- Đúng, đúng vậy, ông Poirot! Về tới khách sạn, tôi cảm giác như vừa tỉnh một cơn mê. Tôi chạy vội vào sảnh, yên trí mình bị chậm giờ, nhưng lúc nhìn đồng hồ, hóa ra hãy còn nhiều thì giờ.

- Đấy! - Poirot lại kêu.

Ông quay lại phía Marshall:

- Giờ tôi phải nói với ông những gì tôi tìm thấy trong phòng của con gái ông, sau khi xảy ra án mạng. Trong lò sưởi, có một cục sáp to nóng chảy, nhúm tóc bị đốt, những mẩu bìa, giấy và một cái đinh ghim thường. Bìa và giấy có thể không có ý nghĩa, nhưng những thứ khác nói lên nhiều điều, nhất là khi tôi tìm thấy giấu trên giá sách là một cuốn mượn của thư viện Leather, nói về phép thuật và phù thủy. Trong đó dạy cách giết chết kẻ thù qua một hình nộm bằng sáp. Hình nộm đó là biểu hiện người mình cần giết. Có thể đem nung cho chảy ra đến hết. Hoặc lấy kim chọc thẳng vào trái tim, người kia nhất định sẽ chết. Về sau, tôi được bà Redfern cho biết sáng hôm đó Linda đi Leather mua nến, và tỏ ra rất lúng túng khi bọc nến rơi lả tả xuống đất. Ta dễ dàng tưởng tượng như sau: Linda đã nặn một hình người bằng sáp, có thể trang trí thêm mấy sợi tóc hung lấy của Arlena cho thêm công hiệu, rồi lấy kim thọc qua đúng trái tim rồi vứt vào trong lò sưởi để nung chảy, cho thêm bìa và giấy để đốt cho mau.

"Đó là một hành động trẻ con, thô thiển, vô lý, nhưng thể hiện một điều: Em muốn giết. Và có phải đó chỉ là ý muốn đơn thuần? Hay là em đã chuyển sang hành động thực sự?"

"Thoạt nhìn, em có bằng chứng ngoại phạm tuyệt đối, nhưng thực ra, như đã nói, giờ khắc ấy là do chính em nói ra để tự che chắn. Rất có thể em đã nói giờ mười lăm phút quá hơn so với thực tế. Vậy là sau khi bà Redfern đi khỏi, em lập tức băng tới thang sắt, đến chỗ bà mẹ kế đang có mặt dưới bãi, bóp cổ bà rồi chuồn nhanh cũng qua thang sắt, trước khi cô Brewster và ông Redfern đi ca nô tới. Tiếp đó em chỉ việc trở về vịnh Hải u, xuống tắm rồi thản nhiên đi về khách sạn."

"Song như thế phải có hai điều kiện: một là em biết Arlena đang ở đâu, hai là em phải có lực để thực hiện hành vi. Điều thứ nhất không khó: Linda có thể mạo danh ai đó viết giấy hẹn mẹ kế. Điều thứ hai, bàn tay em to, khỏe, gần như tay đàn ông. Hơn nữa, em đang ở tuổi lớn, dễ mất thăng bằng. Mà sự mất thăng bằng trí não thường gây ra sức mạnh bất thường. Và còn một số yếu tố nữa cần tính đến: mẹ đẻ của Linda đã bị đưa ra tòa về tội giết người."

Ken Marshall ngẩng đầu cao nói luôn.

- Và được miễn tố.

- Được miễn tố - Poirot công nhận.

Marshall hậm hực:

- Ông Poirot, ông nhớ kỹ điều này. th, người vợ trước của tôi, hoàn toàn vô tội. Điều này là chắc chắn. Tôi đã sống với cô ấy, tôi hiểu. th là nạn nhân vô tội của một số hoàn cảnh trùng hợp... Và tôi không tin một chút nào là Linda giết Arlena. Vô lý!

- Vậy theo ông, thư này là thư giả? – Poirot hỏi.

Marshall xem kỹ lại lá thư mà Weston đưa trở lại:

- Không, đúng là chữ của cháu - ông miễn cưỡng chấp nhận.

- Nếu vậy, chỉ có hai cách giải thích. Hoặc em viết thật lòng, vì em có tội thật, hoặc... hoặc em tự nhận tội về mình để che chở ai đó - che chở người mà em nghi là thủ phạm.

- Và người đó là tôi? - Marshall nói.

- Có thể lắm chứ?

Marshall nghĩ một lát, rồi từ tốn:

- Không. Tôi không tin. Có thể lúc đầu Linda nghi cho tôi. Nhưng sau thì không, cháu biết cảnh sát tin vào chứng cớ ngoại phạm của tôi và điều tra theo hướng khác.

- Nhưng giả thử điều làm con gái ông trăn trở, không phải chỉ là nghi, mà biết rõ ông là thủ phạm?

Sau một lát sững sờ, đại úy cười gằn một tiếng, đáp:

- Vô lý.

- Tôi chưa tin hẳn. Ông biết là quanh vụ án bà Marshall, có nhiều giả thuyết. Có giả thuyết tống tiền, hôm ấy bà đi gặp tên tống tiền, rồi tên này giết bà. Có giả thuyết buôn lậu ma túy diễn ra tại vũng Yêu Tinh: bà bắt gặp bọn buôn lậu nên bị giết. Một giả thuyết thứ ba nữa: hành động của một kẻ ngoan đạo quá khích và cuồng tín. Giả thuyết thứ tư: vợ ông chết đi, thì ông có lợi lớn, phải không?

- Thì tôi vừa nói...

- Phải, phải, tôi biết... và rất đồng ý. Ông không thể tự tay giết vợ - ít nhất, nếu hành động một mình. Nhưng nếu ông có đồng lõa?

- Trời ơi trời, ông còn nghĩ ra lắm chuyện gì nữa?

Marshall, được tiếng là điềm đạm, lúc này đã nổi cáu thật sự.

Poirot vẫn điềm nhiên:

- Những chuyện ấy có nghĩa là, vụ án không chỉ do một người thực hiện. Có sự đồng lõa. Đúng là ông không thể vừa ngồi đánh máy vừa chạy ra vũng. Nhưng ông có đủ thì giờ thảo một phúc thư bằng tốc ký, giao cho người khác ngồi đánh máy trong phòng ông, còn ông thì đi ra để thi hành thủ đoạn.

Hercule Poirot liếc nhìn về phía Rosamond Darnley:

- Cô Darnley khai đã rời hốc Mặt Trời lúc mười một giờ mười và nhìn thấy ông làm việc trong phòng. Nhưng, gần như cùng lúc ấy, ông Gardener lên khách sạn để tìm cuộn len cho vợ lại không hề gặp hoặc trông thấy cô Damley. Như vậy không lạ sao? Cứ như cô Darnley vẫn còn ở hốc Mặt Trời. Hay là cô Darnley đã về sớm hơn nhiều và thay ông đánh máy chữ trong phòng? Một điều nữa: ông nói nhìn thấy cô Darnley trong gương lúc cô ngó vào phòng lúc mười một giờ mười lăm. Nhưng, hôm xảy ra án mạng, bàn giấy không kê trước gương giữa hai cửa sổ, mà kê ở góc phòng, gần cửa sổ bên trái. Vậy là ông cố tình nói dối. Về sau, ông mới kê lại bàn, nhưng đã muộn. Tôi biết là cả cô Darnley và ông đều nói dối.

Giọng Rosamond cất lên, trầm trầm nhưng rành rọt:

- Ông này quả là tinh quái!

Poirot hạ giọng, đáp:

- Nhưng không tinh quái bằng kẻ đã giết Arlena Marshall! Cô hãy nhớ lại xem. Sáng hôm đó, Arlena đi gặp ai? Tôi tưởng, và tất cả mọi người đều tưởng như nhau: gặp Patrick Redfern. Bà ấy không chuẩn bị đi gặp một tên hăm dọa tống tiền. Nhìn nét mặt, dáng điệu bà ấy thì biết, bà ấy đi gặp người tình, hoặc ít nhất là bà tưởng thế. Phải, tôi tưởng như vậy. Arlena Marshall đi gặp Patrick Redfern. Tuy nhiên, chỉ lát sau, Redfern xuất hiện trên bãi tắm, rõ ràng muốn tìm bà ấy. Thế là sao?

- Một thằng đểu nào đã mạo danh tôi! - Redfern giận dữ gầm lên.

- Ông rất ngạc nhiên và thất vọng khi không thấy bà ấy - Poirot tiếp tục. - Ông làm bộ ngạc nhiên hơi quá đáng. Vì ông Redfern ạ, theo tôi, bà Arlena ra vũng Yêu Tinh là để gặp ông. Và sau đó ông có ra đó thật, gặp bà ấy thật, và đã bóp chết bà như ông đã dự tính.

Patrick Redfern sửng sốt, ngắc ngứ:

- Ông điên hay sao? Rõ ràng tôi đứng trước mặt ông, không rời bãi biển, rồi sau mới cùng cô Brewster lên thuyền đi quanh đảo.

Poirot lập tức nói lại:

- Ông đã giết Arlena sau lúc cô Brewster chạy đi báo cảnh sát. Lúc hai người đi bộ lên vũng thì Arlena chưa chết. Bà ấy nấp trong hang, chờ đến khi ông có một mình...

- Nhưng cái xác! Tôi trông thấy. Cô Brewster cũng thấy!

- Có một cái thân xác, đúng, nhưng không phải là xác chết. Đó là thân xác còn sống của kẻ tòng phạm với ông, cũng nằm giang rộng hai tay, và chiếc mũ rộng vành úp lên mặt để che lấp. Đó là thân thể của Christine, vợ ông không biết có phải là vợ hợp pháp, hay chỉ là đồng bọn - người đã giúp ông thực hiện vụ giết người này, như đã từng giúp trước đây, bằng cách "phát hiện" thi thể của Alice Corrigan mấy chục phút trước khi cô này chết, và người giết là chồng cô ta - Edward Corrigan... chính ông!

Tiếng Christine cất lên, lạnh lùng, đanh thép:

- Patrick, hãy cẩn thận. Chớ nổi nóng.

Poirot coi như không có chuyện gì, tiếp tục nói:

- Ông nên biết là Sở cảnh sát Surrey đã nhận ngay ra ông và bà trên tấm ảnh chụp chung với mọi người trên bãi biển. Và họ chỉ rõ hai người chính là Edward Corrigan và Christine Deverill, người phụ nữ đã tìm thấy xác Alice.

Redfern chồm dậy, mặt méo mó đến không nhận ra. Mặt một tên sát thủ, một con ác thú. Hắn vừa gào thét vừa đưa tay ra lao về phía Poirot, bóp cổ ông.

Chia sẻ
Loading...
Loading...
Loading...
Chia sẻ
Danh sách chương
Loading...
Loading...
Loading...
Thể loại
Tìm kiếm
Loading...
Loading...
Loading...
Lọc truyện