Chương 3: Giáp đông tứ mộ
Tề Thiết Chủy nói với Trương Khải Sơn, Tề gia nhất phái, thời cổ biết phân Âm Dương, định Càn Khôn, ban ngày giúp người ta tính Bát tự, chọn Âm trạch, tìm Long mạch, khóa thi quan; ban đêm xem núi xem sao, hành nghề trộm mộ. Cho đến đời cha của hắn có thể xem là tư chất kém nhất, đạo hạnh nông nhất, mà bản thân hắn thì lại càng kém nữa, chỉ học được tí chút sơ sơ của cha, thế mà đã là lão Bát của Cửu Môn Trường Sa, chứng tỏ học thức và năng lực của tổ tiên Tề gia thâm sâu khó bề lường được.
Riêng phái này có lắm quy củ, nghe nói bởi lén xem trộm quá nhiều thiên cơ, cho nên phải khóa mồm khóa miệng mà về ở ẩn. Trong đó có rất nhiều chuyện thú vị, cho đến đời Tề Bát, tất cả đã trở thành những câu chuyện cũ kỹ kể bên giường rồi. Cha hắn trước lúc lâm chung, mơ mơ màng màng nói ra mấy câu khó hiểu tối nghĩa. Trong đó có một quy củ, rằng cao thủ Tề gia khi tiến vào những nơi vô cùng hung hiểm, nếu rơi vào cảnh không có cửa cầu sinh, bèn treo một chiếc gương đồng lên đầu thớt ngựa của mình cùng với một bức pháp đồ đặc biệt, cho ngựa chạy ra ngoài, để đời sau còn biết mình đã chết ở đâu, và chết vì nguyên nhân gì.
Trương Khải Sơn nghe xong, nhìn chiếc xe lửa đằng sau lưng, thốt ra một câu tiếng Trường Sa: “Mụ nội nhà nó, giờ không phải ngựa, mà nguyên cái xe lửa, cao nhân này chả biết đi đâu tìm chết, làm lớn quá.”
Tề gia sở truyền không nhiều, nghĩ đến việc người cùng họ có kẻ chết oan, trong lòng Tề Thiết Chủy có đôi chút muộn phiền. Lại nghĩ đến sở truyền nhà mình, chỉ e lại đứt thêm mấy phần, đời sau vĩnh viễn không biết đến. Nhưng đồng thời, trong lòng hắn cũng dâng lên một nỗi hiếu kỳ, xe lửa này chẳng hay từ đâu mà đến, người treo gương đồng lên đầu xe, không biết đã gặp phải chuyện gì?
Ở một bên, có chiếc xe quân đội trực tiếp lái thẳng vào sân ga, có không ít công binh bước xuống xe, Tề Thiết Chủy đếm xem, càng đếm càng thấy nhiều binh lính, hắn biết phen này mình chắc chắn không chuồn nổi rồi, chi bằng để lại cho mình chút mặt mũi. Thế là hắn bèn hỏi Trương Khải Sơn đầu đuôi câu chuyện là thế nào. Trước cứ làm tham mưu cố vấn cái đã rồi hẵng tính sau.
Viên sĩ quan phụ tá đứng bên bèn kể lại một lượt chuyện xảy ra đêm qua, rồi nói: “Người lái xe treo cổ chết ở đầu tàu, chắc là sau khi tiến vào địa phận Trường Sa thì giảm tốc độ chậm lại, tính toán khoảng cách rồi sau đó mới treo cổ tự sát. Không có người thêm than, nước lạnh dần, xe lửa cứ thế chạy về phía trước, đầu tàu trượt vào ga, đâm thẳng vào ba mươi mấy đống bao cát mới dừng lại được.”
Tất cả các cửa lên xuống tàu đều bị sắt tây hàn chết rồi, công binh sau khi xuống xe bắt đầu ra đầu tàu và toa tàu dùng lửa hơi cắt sắt, xẻ lớp sắt bọc bên ngoài tàu.
“Lái xe hẳn là một tay lão luyện, chứ không thì không thể tính chuẩn đến thế, xe lửa cũng không thể dừng ngay đúng trạm được.” Trương Khải Sơn nói, “Người này nói là treo cổ chết, nhưng tử trạng có chút kỳ quặc.” Tề Thiết Chủy trèo lên đầu tàu, nhìn vào trong qua ô cửa sổ đã được lau sạch sẽ, thấy thi thể thắt cổ vẫn đang treo lủng lẳng ở đó. Điểm kỳ quặc mà Trương Khải Sơn nói, đó là hai con mắt của người này. Con người bên trong chỉ nhỏ bằng hột đậu tương, trông cứ như con chồn vàng. Đây không phải là đôi mắt của con người.
Toàn bộ đoàn tàu đều bị hàn chết, phong kín lại cứ như cái thùng sắt, không biết đại tiện tiểu tiện thì xử lý ra làm sao, thật là kỳ quái.
Hắn và Trương Khải Sơn đều là người có trực giác rất mạnh. Chỉ trong giây lát, lớp vỏ sắt bên ngoài toa tàu đã được cắt ra, lá sắt tây rơi xuống, vang lên tiếng loảng xoảng dưới nền sân ga, để lộ ra một cái lỗ to tướng. Trương Khải Sơn thoáng phất tay, toàn bộ lính cảnh vệ ở bên cạnh đã giương tiểu liên lên.
Trong không khí tràn ngập khói mù mịt do máy cắt hơi, do tất cả các cửa sổ và khe hở trên toa xe đều đã bị phong kín nên bên trong toa xe chỉ có bóng tối đen kịt. Chỉ có thể nhìn thấy ở miệng vết cắt có ánh sáng từ ngoài chiếu vào.
Tề Thiết Chủy che kín mũi miệng khỏi khí thải từ máy cắt, viên sĩ quan phụ tá cầm ba chiếc đèn bão, đưa cho hắn một chiếc, rồi nhảy lên tàu trước, vươn tay ra định kéo hắn lên.
Nhưng Tề Thiết Chủy lắc đầu. Hắn đưa đèn bão cho một anh cảnh vệ đứng bên, anh cảnh vệ không nhận, hắn bèn treo chiếc đèn lên nòng khẩu súng liên thanh của anh ta, sau đó mới quay đầu giơ tay ra hiệu “Nhờ cả vào anh” với viên sĩ quan phụ tá, ý rằng tôi không lên đâu. Hắn nghĩ thầm, tôi đây làm quân sư đã là tốt lắm rồi, Trương Khải Sơn ông còn muốn tôi làm tiên phong mở đường ấy hả, nằm mơ đi.
Viên sĩ quan thở dài, xoay người đi vào trong toa tàu, bấy giờ Tề Thiết Chủy mới thở phào nhẹ nhõm. Trương Khải Sơn bên cạnh gỡ chiếc đèn bão ra khỏi nòng súng anh cảnh vệ, một tay xách hai chiếc đèn bão giơ lên cao, tay còn lại túm lấy tay Tề Thiết Chủy.
“Sợ cái gì? Đã vào địa phận Trường Sa, thì còn gì hung hơn ta nữa.”
Nói rồi kéo Tề Thiết Chủy nhảy lên tàu. Vừa bước vào, bên ngoài sáng bên trong tối, mắt Tề Thiết Chủy đột ngột mù tạm thời, hắn đưa tay dụi vài cái mới thích ứng lại được, vừa mở mắt, liền ngây người.
Trong toa tàu vô cùng tối tăm, nhưng vẫn chưa hoàn toàn phong kín hẳn, ánh sáng chiếu vào qua các khe hở rất nhỏ do hàn sót, soi rõ từng hạt bụi nhỏ li ti của khí thải máy cắt trong không khí, viên sĩ quan bước qua làm không khí xao động, khiến những hạt bụi nhỏ rung động dữ dội. Tề Thiết Chủy nhớ lại căn gác xép trong ngôi nhà cũ kỹ của mình, hồi còn bé hắn vẫn thường chui vào đó chơi tìm đồ, những hạt bụi trôi bồng bềnh trong ánh nắng chiếu xuyên qua từ những khe hở giữa các mảnh ngói trên trần gác xép.
Ở nơi ánh sáng không chiếu tới được, bởi sự tồn tại của các điểm ánh sáng rất nhỏ lọt xuống dưới mà chúng càng trở nên tối tăm hơn, không nhìn thấy rõ gì cả. Viên sĩ quan phụ tá dùng đèn bão chiếu sáng. Ánh sáng đèn bão ảm đạm mờ nhạt, soi rõ hai cái giá to tướng ở hai bên toa xe ẩn trong bóng tối, trên hai cái giá này, Tề Thiết Chủy nhìn thấy từng hòm quan tài quan quách bị vòng sắt cố định.
Những quan tài quan quách này bị rất nhiều bùn đất và rễ cây quấn quanh, có một số bằng gỗ, đã trương phồng bạc phếch, mục nát và rạn nứt, có một số lại bằng đá. Những thứ này đè nặng lên giá làm nó bị biến dạng. Xem bề ngoài và mức độ mục rữa thì tất cả đều là quan tài cổ. Tất cả đều bị trộm đào lên từ trong cổ mộ. Không biết vì nguyên nhân gì, ở giữa quan tài và cái giá có vô vàn mạng nhện giăng kín, giống như cả một tầng bông nhứ dính két cả giá và quan tài vào vách tường toa tàu. Có vẻ cổ xưa và thần bí.
Trên tất cả các quan tài quan quách đều có viết những con số chữ Hán bằng sơn đỏ, các con số sắp xếp không theo quy tắc gì, viết rất tùy tiện, dường như có người đang sắp xếp biên soạn lại. Liếc nhìn qua, số lớn nhất là 47, nói cách khác, ở nơi này có ít nhất là 47 chiếc quan tài. Lại nghĩ đoàn tàu này có tổng cộng bảy toa tàu, nếu trong các toa tàu phía sau cũng đều chứa những thứ này thì sao? Chỉ e tổng số quan tài phải trên trăm chiếc. Lại nhìn những chữ số bên cạnh, lại có một dòng ký hiệu “Giáp tứ phần đông thất đoạn nhị đạo”.
“Tề tiên sinh, ông xem.” Trương Khải Sơn chỉ vào những chữ này.
“Cùng nghề rồi.” Tề Thiết Chủy thầm nghĩ: “Đây là một chuyến buôn bán lớn đấy, cũng gần đuổi kịp một năm thu hoạch của cả Lão Cửu Môn rồi.” Những quan tài này vừa nhìn là biết đãi cát đào lên, để đánh dấu khu vực và phần mộ đã trộm mới đánh dấu số hiệu và chú thích này. Tề Thiết Chủy có chút nghi hoặc, bên Trường Sa này là trộm mộ Nam phái, đừng nói là rặt một lũ chả biết đọc biết viết, cho dù có là một tay tai to mặt lớn làm chuyến hàng lớn, cũng chẳng ai đánh dấu lại nơi đã trộm làm gì. Đối với bọn họ, khác biệt duy nhất của hàng đãi cát chính là giá tiền.
Bọn họ từ tốn bước đến, xem hình dáng quan tài thì thấy chúng đến từ các cổ mộ khác nhau, Trương Khải Sơn lộ vẻ nghi hoặc, nhưng không nói lời nào.