Chương 9 : Thủy Quái sông Hoàng Hà
Thôi lão đạo và mọi người hô nhau đậy nắp quan tài lại, không ngờ cương thi quá mạnh, hất nắp quan tài bò ra ngoài, túm lấy Khoái thủ Phùng móc tim ra ngoài.
Nguyên do vì cương thi bị âm vía nhập vào, gặp người sống thì sẽ đuổi theo không tha, một tay móc tim của Khoái thủ Phùng, một tay giơ bộ móng vuốt về phía Thôi lão đạo. Thôi lão đạo lưng như dính sát vào cột của gian điện, mặt trắng bệch vì sợ, cứ nghĩ rằng cái mạng già của mình sẽ tiêu đời. Thảo đầu thái tuế bị thương nằm bệt trên sàn nhà, miệng thổ máu tươi, trông thấy Thôi lão đạo gặp nguy liền kêu: "Lục ca, mau cứu đạo trưởng!"
Dương Phương đang đu mình trên xà ngang, nhìn thấy Khoái thủ Phùng bị chết, Thôi lão đạo gặp nguy, mọi việc diễn ra quá nhanh khiến anh ta không kịp phản ứng, lúc này vội buông tay nhảy xuống, lộn một vòng trên không trung rút roi đồng ra, dựa vào thế đang rơi xuống, hai tay quất mạnh roi, chỉ nghe tiếng roi đồng cắt gió như tiếng rồng gầm.
Dương Phương tay cầm roi đồng, với thế xẻ núi, đánh một roi chí mạng giữa đỉnh đầu cương thi, phát ra tiếng kêu như sấm, chỉ thấy một luồng khí đen bốc lên từ đỉnh đầu cương thi, thi thể nó như một cái cây khô đổ gục xuống, không chút động đậy.
Chiếc roi đồng đánh tử thi được mệnh danh "Đả thần tiên" này thực ra là hữu danh vô thực, không phải chiếc roi mà Khương Tử Nha thời Tây Chu sử dụng khi đánh Phong Thần, chiếc roi đó chỉ có thể đánh Bát bộ chính thần, còn roi đánh tử thi nghe nói là pháp khí của Trương thiên sư trên núi Long Hổ truyền lại, bên trên có khắc câu chú để trấn ma trừ tà, có thể đánh tan hồn phách. Lúc này, cương thi bị đánh trúng đầu, hồn phách bị đánh tan, chính Dương Phương cũng không ngờ chiếc roi của mình lợi hại như vậy, từ khi sư phụ truyền lại cho anh ta thì đây là lần đầu tiên dùng roi đánh người chết, nhìn lại cương thi thấy đầu đã bị đánh nát, không thể gây họa nữa, lúc đó mới biết sư phụ đã truyền lại cho mình một bảo vật, niệm thầm trong bụng: "Sư phụ trên trời linh thiêng, phù hộ đệ tử."
Thảo đầu thái tuế Mạnh Bôn đỡ Thôi lão đạo dậy, ba người đưa mắt nhìn Phùng Điện Thần chết thảm, đỡ lấy thi thể của anh ta òa lên khóc, Thôi lão đạo đấm ngực giậm chân, nước mắt lã chã, hối hận vô cùng: "Chúng ta gặp nhau định thay trời hành đạo, đào mộ tổ của Đồ Hắc Hổ, không ngờ hắn lại có sự chuẩn bị trước khiến chúng ta gặp nạn, tứ đệ đáng thương của ta lại ra đi như thế này, cậu chết thảm quá..."
Mạnh Bôn nói: "Lần này chúng ta tổn thất nặng nề quá, phải báo thù. Thù này không trả, Mạnh Bôn tôi thề không làm người."
Thôi lão đạo than: "Quân tử báo thù mười năm không muộn. Chuyện trả thù từ từ tính. Giờ chúng ta phải tranh thủ khiêng xác tứ đệ ra khỏi đây trước khi trời sáng, nếu làm kinh động tới đám lính tuần, thì đến chúng ta thoát ra cũng khó."
Dương Phương chau mày, nghĩ ra một kế. Liền gọi Thôi lão đạo lôi thi thể Khoái thủ Phùng ra bên ngoài, anh ta và Mạnh Bôn ở lại dọn dẹp bên trong trở về nguyên trạng, để Đồ Hắc Hổ nghĩ rằng chưa có ai động tới mộ tổ nhà hắn ta, tránh đánh rắn động cỏ.
Ba người lập tức bắt tay vào việc, đẩy quan tài bằng đồng vào trong huyệt động, lấp đất lắp lại đá sàn nhà, lau sạch vết máu, chỉ có con gà quay trên bàn thờ bị Mạnh Bôn gặm mất mấy miếng, nơi đây đồi núi hoang vu, đồ thờ bị thú rừng ăn phải cũng không có gì là lạ, mất một con gà cũng không gây sự chú ý gì.
Sau khi xong việc, trời cũng vừa hửng sáng, ba người nhanh tay chôn cất Khoái thủ Phùng trong một sơn cốc, lòng thề sẽ trả thù cho huynh đệ, sau đó quay trở về thành Lạc Dương, vào quán trọ đóng cửa bàn bạc.
Thảo đầu thái tuế Mạnh Bôn nghiến răng: "Theo tôi nên chọn ngày trời tối gió to, bịt mặt trốn vào phủ hắn mỗi đứa cho một đao giết hết cả nhà nó đi, không tha một ai, sau đó cho mồi lửa rồi mình rút."
Thôi lão đạo lắc đầu nói: "Không được, không được. Chúng ta không làm những việc liên lụy tới người vô tội. Hơn nữa phủ đệ của Đồ Hắc Hổ ở Lạc Dương nhưng gần đây hắn thống lĩnh quân đội ở gần phủ Khai Phong, muốn xâm nhập vào doanh trại để giết hắn còn khó hơn lên trời."
Dương Phương cũng có ý định giết người: "Khó cũng không sợ, chỉ sợ không tìm thấy người thôi, giờ đã biết hắn đang ở doanh trại gần Khai Phong phủ, tôi sẽ kiếm bộ quân phục vào bên trong lấy đầu hắn."
Thôi lão đạo can: "Nghe nói tên Đồ Hắc Hổ đó cũng dũng mãnh lắm, không phải hạng xoàng đâu, chúng ta cần phải bình tĩnh, nhẫn nại chỉ có lợi thôi, hành sự hấp tấp ắt sinh đại họa. Đồ Hắc Hổ rất mê tín, tin vào phong thủy của mộ tổ, nếu có thể đào được mộ tổ nhà hắn thì còn hơn là đâm mấy nhát dao vào người hắn, làm thế nào nghĩ cách tìm được mộ tổ nhà hắn mới là quan trọng."
2
Ba người bàn bạc tới lui, sau cùng nghĩ ra được một cách. Ngày hôm sau, Dương Phương và Mạnh Bôn đi tìm mua hai bộ đồ đạo sỹ, hóa trang thành đạo đồng, là đồ đệ của Thôi lão đạo, trên mặt mỗi người đều bôi phấn, dán cao, một người cầm cờ, một người cắp tráp theo hầu Thôi lão đạo. Họ tới xếp đồ ngồi xem bói trước cửa phủ Đồ Hắc Hổ, vừa để ý người ra vào phủ, vừa tranh thủ dò la tin tức, lần này phải lần cho ra tin tức mộ tổ nhà hắn. Di dời mộ tổ là một chuyện lớn, không thể giấu diếm hoàn toàn được.
Thời đó, người dân còn rất mê tín, Thôi lão đạo lại rất sành mấy món kỹ xảo giang hồ, giương cao cờ "Thiết chủy bá vương", tự xưng là "Phương ngoại toàn chân, vân du bán tiên, truyền danh tặng quẻ, không lấy một đồng", vì Thôi lão đạo không lấy tiền, nên số người xúm lại xem bói rất đông, thêm vào đó, Thôi lão đạo khéo ăn khéo nói, lừa cho người tới xem bói tâm phục khẩu phục, mới có mấy ngày mà tên tuổi đã nổi tiếng khắp trong thành, ở đâu cũng thấy người ta đang khen ông là thần tiên hạ thế. Lời đồn cứ như vậy được truyền đi, nhanh chóng truyền vào trong phủ thống đốc, Đồ Hắc Hổ lúc đó không có nhà, mấy trò này của Thôi lão đạo cũng chẳng lừa nổi hắn, nhưng vợ hắn lại là người rất mê tín, nghe nói ngoài cửa có một lão đạo, xem bói xem tướng rất giỏi, liền mời lão đạo và hai đồ đệ vào phủ, tới hậu đường nói chuyện.
Thôi lão đạo đem theo Dương Phương và Mạnh Bôn nhân cơ hội đó trà trộn vào trong phủ thống đốc, tới hậu đường thì thấy vợ Đồ Hắc Hổ là một mụ đàn bà to béo phốp pháp, khoảng ba mươi tuổi, mặt phì nộn đầy thịt, khóe mắt ánh lên vẻ hung tợn.
Thôi lão đạo sớm biết Đồ Hắc Hổ xuất thân là thổ phỉ, nên vợ cả của hắn thì không thể nào đẹp vào đâu được. Hôm nay gặp mặt, con mẹ này đúng là một con hổ cái.
Con hổ cái đó mời Thôi lão đạo ngồi, hai cậu đạo đồng đứng ở hai bên, mụ ta ra hiệu cho người hầu rút lui, mở miệng nói: "Đạo trưởng, nghe nói ông xem bói rất chuẩn."
Thôi lão đạo nhắm hờ đôi mắt, ngâm rằng: "Vô lượng thiên tôn, một chút khả năng của bần đạo không đáng để nhắc tới."
Hổ cái nói: "Nếu đạo trưởng đúng là biết xem bói thì hôm nay bói cho tôi một quẻ, ông xem tôi..."
Không đợi mụ ta nói hết, Thôi lão đạo đã lên tiếng: "Phu nhân, khoan hãy mở lời, lão đạo xem tướng mạo phu nhân, chỉ nói được ba việc mà thôi, nếu có nói sai cũng không phiền phu nhân đuổi, ba thầy trò chúng tôi tự khắc cuốn gói khỏi quý phủ."
Thảo đầu thái tuế Mạnh Bôn thấy Thôi lão đạo quá tự tin, đưa mắt ra hiệu cho Dương Phương, Dương Phương cũng ra hiệu lại, ý rằng Thôi lão đạo mồm như được bôi mỡ, lừa mụ hổ cái này chỉ là trò đùa, không cần phải lo lắng.
Chẳng thèm quan tâm tới hai người đang nháy qua nháy lại, Thôi lão đạo làm một tràng như ngâm thơ: "Ngoại hình ngũ quan của con người ta đều cơ sự khác nhau, thường xem tướng mạo là khó nhất, không thể nhìn một lần mà đoán hung cát ngay được, cần phải quan sát tỉ mỉ...", nói rồi, lão ngẩng lên quan sát khuôn mặt của mụ hổ cái và khen rằng: "Tướng mạo của phu nhân thật tốt, khuôn mặt tròn, môi đỏ mọng như son, giọng nói thanh thanh, sơn căn bất đoạn, chính là tướng phú quý. Đặc biệt là đôi tai, mỗi bên một cái, không cao không thấp, sao lại mọc khéo thế, theo thuyết xem tướng mà nói, nếu vành tai dày thì kim ngọc mãn đường, tai cao trên lông mày thì tuổi thọ cao, dái tai dài và dày có lộc trời, thật là tướng tốt! Hiềm nỗi..."
Mụ hổ cái ngồi nghe chỉ hơi gật đầu. Mụ ta là phu nhân của thống đốc, vinh hoa phú quý là điều đương nhiên, không cần Thôi lão đạo phải nói. Nhưng nghe tới từ "hiềm nỗi" thì giật thót mình, vội hỏi: "Hiềm nỗi sao hả đạo trưởng?"
Thôi lão đạo nói: "Hiềm nỗi khí sắc giảm sút, đây là thời vận không tốt, mệnh phạm phải tiểu nhân."
Mụ hổ cái vỗ bàn đánh rầm, những thớ thịt trên mặt cùng với tách trà trên bàn rung lên bần bật: "Ôi trời đạo trưởng, ông đúng là thần tiên, tôi đang gặp phải tiểu nhân đây."
Thôi lão đạo không hề thay đổi thái độ, chỉ cười thầm trong bụng: "Thấy chưa, bị ta đoán đúng hai việc rồi."
Xem tướng, xem bói là phải biết quan sát nét mặt thái độ, thứ nữa là phải hiểu về nhân tình thế thái. Nếu người này phong thủy đều thuận lợi thì sẽ không bao giờ nghĩ tới chuyện đi xem bói, có xui xẻo mới tìm đến thầy bói, hơn nữa thường con người ta gặp lúc không thuận lợi thường hay liên tưởng tới việc bị tiểu nhân làm hại, ai chẳng có mấy kẻ oan gia đối đầu. Nên lúc xem bói nói "phạm tiểu nhân" thì một trăm lần đúng tới chín mươi chín lần, thêm nữa Thôi lão đạo quan sát thấy thần thái mụ hổ cái như đang nổi cơn ghen, chắc chắn sau khi kết tóc xe tơ không còn được Đồ Hắc Hổ để ý tới nữa, ngày ngày ghen tuông tranh giành với mấy bà vợ lẽ, đây cũng là chuyện thường tình. Nhưng người xem bói phải biết vận dụng linh hoạt, nói đúng thời điểm khiến mụ hổ cái phục lăn.
Dương Phương và Mạnh Bôn đứng phía sau quan sát Thôi lão đạo lừa mụ hổ cái tới lần này tới lần khác, không nhịn được cười mà không dám cười thành tiếng, đành phải căng mặt ra cố nhịn khiến nét mặt hai người hết sức cổ quái.
Mụ hổ cái đang mải khen Thôi lão đạo xem bói chuẩn, thấy hai tên đạo đồng đang nhăn mày nhăn mặt thì không vui, hỏi Thôi lão đạo vậy nghĩa làm sao?
Thôi lão đạo vội lấp liếm: "Đây chính là việc thứ ba rồi, thưa phu nhân. Phu nhân đừng vội coi thường hai tên đồ đệ bị câm của ta, hai đứa nó rất có căn cơ đấy, chúng có đôi mắt rất tinh tường, đã nhìn thấy ấn đường phu nhân có màu đen, thời vận không tốt, xem ra sẽ gặp đại hạn. Hai đứa nó muốn mách cho phu nhân nhưng lại không nói được nên làm vẻ mặt đau khổ như vậy để ra hiệu."
Mụ hổ cái bán tính bán nghi hỏi: "Ông chắc là hai đồ đệ của ông không bị sao chứ, vẻ đau buồn mà như vậy à? Sao tôi thấy như hai đứa nó đang có ý đồ gì đó. Mà thôi, đạo trưởng ông nói xem là vận hạn gì?"
Thôi lão đạo nhắm mắt bấm đốt ngón tay, bỗng thở dài thườn thượt nói: "Ôi trời, không xong rồi, mộ tổ nhà phu nhân..."
Mới nói một nửa thì dừng lại không nói nữa, để chờ xem phản ứng của mụ hổ cái, theo cách nói của giang hồ là "nói nửa vời".
Mụ hổ cái nghe Thôi lão đạo nói tới mộ tổ thì mặt biến sắc: "Ôi lão thần tiên! Chuyện động tới mộ tổ không người ngoài nào biết mà ông cũng bói ra được! Lúc đó, tôi đã nói mộ tổ thì không được động đến, nhưng phu quân nhà tôi cứ đòi dời tới Lôi Công Lĩnh, nói nào là địa hình địa thế đẹp, cái gì mà sói hạ rắn rừng, tôi có khuyên thế nào cũng không được, lần này thì có chuyện thật rồi, đang yên đang lành lại gặp đại hạn, làm sao mà tôi sống được đây?"
Thôi lão đạo cũng chỉ đợi có câu nói này, nghĩ bụng: "Cái gì mà thần tiên, con mẹ này, Đồ Hắc Hổ lấy phải mày xem như hắn xui xẻo". Lão làm ra vẻ bình tĩnh, nói với mụ hổ cái: "Phu nhân không phải lo lắng sợ hãi, thực ra cũng không phải là chuyện to tát lắm, di dời mộ tổ sang nơi khác cũng không phải là không được, nhưng làm kinh động đến hài cốt của tổ tiên là một sự bất kính, cần phải lập đạo tràng để hóa giải. Thiên cơ không thể lộ, nên không được nói ra bên ngoài, đạo tràng làm không chu toàn cũng không được. Lão đạo ta quay về núi sẽ lập đạo tràng giúp phu nhân, tiêu trừ vận hạn, thêm phúc thêm thọ, phù hộ gia đình ta lớn bé đều được bình an, phu nhân về sau thêm con thêm cháu, phú quý vô biên, tất cả cứ để lão đạo ta lo. Lão đạo ta gieo quẻ xem tướng là vì muốn lưu danh đời sau, là vì có duyên với phu nhân. Ta sẽ lập tức quay về núi làm phép, không làm phiền nữa, xin cáo từ". Nói rồi từ biệt mụ hổ cái, cùng hai huynh đệ rút khỏi phủ thống đốc.
Mụ hổ cái thấy Thôi lão đạo không lấy một đồng, kiến thức uyên thâm khôn lường, nên trong lòng khâm phục, chuyện này cũng giấu kín không dám nói với ai.
Lại nói, ba người sau khi ra khỏi thành, thấy xung quanh không có ai liền lột bỏ đồ hóa trang, nhìn nhau cười nghiêng ngả. Dương Phương và Mạnh Bôn đều khen thủ đoạn của Thôi lão đạo rất tuyệt, mới vài lời đã moi được thông tin mộ tổ của Đồ Hắc Hổ. Mụ hổ cái cứ tuồn tuột kể ra hết, lần này chắc không sai nữa.
Thôi lão đạo nói: "Không ngờ Đồ Hắc Hổ dời mộ tổ tới Lôi Công Lĩnh. Nhắc đến nơi này lão đạo tôi cũng có biết đôi chút. Đó là một địa thế hiểm ác, là ngọn núi quanh năm mây đen bao phủ."
3
Đồ Hắc Hổ là một tên nguy hiểm độc ác, tâm địa thâm sâu, khốn nỗi gặp phải hội Thôi lão đạo, cái này gọi là "Chày đồng gặp phải cối đá - Vỏ quýt dày có móng tay nhọn", phu nhân của hắn, mụ vợ hổ cái mời Thôi lão đạo về xem bói đã khai ra vị trí mộ cổ trong khi hắn thì vẫn chưa biết sự tình.
Nhưng từ thời Thanh, Thôi lão đạo từng bị người ta đánh cho gãy chân, sau đó tuy đã khỏi nhưng việc trèo đèo vượt núi thì không làm được nên không thể đích thân tới Lôi Công Lĩnh.
Dương Phương hỏi rõ về địa thế núi, kiếm chỗ cho Thôi lão đạo nghỉ chân, còn anh ta và Mạnh Bôn cùng lên núi, thực hiện kế hoạch đào trộm mộ tổ của Đồ Hắc Hổ.
Lôi Công Lĩnh nằm tại biên giới hai tỉnh Sơn Tây và Hà Nam, giữa hai dãy núi Thái Hành và Vương Ốc, hai người hóa trang thành thợ dán giấy rồi lên đường. Nếu đã từng nghe kể chuyện về các "truyền kỳ phá án", các bạn sẽ thấy hễ nhân vật lục lâm xuất hiện thì đều cùng một hình ảnh "đầu đội khăn mềm, tai cài bông hoa, trên người khoác chiếc áo choàng lông thú, lưng đeo đao, hông đeo một túi phi tiêu". Nhưng đó chỉ là những hình ảnh xuất hiện trên sân khấu, ngoài đời chẳng có nhân vật lục lâm nào dám ăn mặc như vậy ra đường. Thời xưa giao thông không thuận tiện, thường là dân buôn bán làm ăn và dân giang hồ mới đi xa, nếu ăn mặc bắt mắt quá hoặc bình thường quá đều gây sự chú ý. Ăn mặc bắt mắt quá khiến người ta hay để ý, mặc quá rách rưới tới những vùng quê cũng khiến người ta thấy lạ. Những vùng đó đất rộng người thưa, dân trong vùng đều biết nhau hết, nếu có người lạ xuất hiện, không phải là buôn bán hoặc đi thăm người thân sẽ bị nghi ngờ, không phải kẻ trộm thì cũng là kẻ cướp, có khả năng gây ra nguy hiểm cho người dân, họ sẽ sinh ra đề phòng, đi đâu cũng bị theo dõi, không có cơ hội ra tay.
Vì vậy, Dương Phương và Mạnh Bôn hóa trang thành thợ dán giấy, Dương Phương thời thiếu niên có học qua nghề này nên lúc ra bên ngoài có việc vẫn thường hóa trang như vậy, thêm vào đó tay nghề cao, giỏi ăn nói, tới đâu cũng không khiến người ta nghi ngờ, nơi hẻo lánh mấy cũng đi được.
Hai người họ vừa đói vừa khát, ngày đi đêm nghỉ không dừng một ngày nào. Tới chân núi Lôi Công, chỉ thấy núi cao sừng sững, rừng cây rậm rạp xanh mướt, nhìn xa xa, núi tiếp núi như một tấm bình phong, chính giữa có một khe núi rất hẹp, đúng như lời Thôi lão đạo nói, đó là lối đi quá hiểm trở chỉ có chim và mây là bay qua được. Nhìn khe núi đó giống như bị sét đánh tách làm đôi, chắc vì thế mà nơi đây mới gọi là Lôi Công Lĩnh, vết nứt từ trên xuống dưới, hình thế này chính là hạ lĩnh xà, mộ tổ nhà Đồ Hắc Hổ chắc nằm bên dưới chỗ đầu rắn, phía trước có núi, bên cạnh có sông, còn có một thôn làng khá lớn. Hai người vào tới đầu thôn thì được biết đây là thôn Thảo Lư nghĩa là lều cỏ. Núi Vương Ốc từ cổ tới nay là nơi đạo giáo đắc đạo thành tiên, nên có rất nhiều Thần cung Đạo quán, thời Hán đã từng có một vị tiên nhân, dựng lều cỏ ẩn cư trong núi, thôn làng này cũng được mang tên từ đó.
Dương Phương lặng lẽ gật đầu, nghĩ bụng: "Nơi này núi non trùng điệp, như một lớp hàng rào bảo vệ, suối chảy uốn lượn, mây khói trập trùng, thế núi rất đặc biệt, ẩn hiện toát lên một không khí như tiên cảnh, đúng là phi phàm, Đồ Hắc Hổ dời mộ tổ tới đây hẳn là có người chỉ lối, nhưng không rõ cụ thể là chôn ở đâu, khoảng cách tới mộ của Tứ bảo tướng quân vẫn còn một đoạn đường dài."
Hai người hóa trang thành thợ dán giấy đi vào trong thôn, vừa giúp dân dán lại trần nhà vừa hỏi thăm tin tức mộ tổ nhà Đồ Hắc Hổ nhưng không hỏi được gì. Lúc đó có một gia đình giàu có trong thôn có tang, ông cụ nhà đó qua đời, trưởng thôn phải bận rộn lo việc tang cho nhà họ, vừa hay có hai tay thợ dán giấy tới làng, tay nghề cũng tương đối khá, vùng này chưa thấy ai tay nghề cao như vậy liền nhờ hai người phụ trách chuẩn bị đồ hàng mã.
Dương Phương và Thảo đầu thái tuế Mạnh Bôn sợ dân làng nghi ngờ nên không có cách nào để từ chối, đành cố gắng phối hợp, bận tối mắt tối mũi tới tận khi trời tối mới được rảnh tay ăn cơm. Trưởng thôn tới tận nơi chúc rượu, còn nói may có hai vị tiểu sư phụ chuẩn bị đồ hàng mã rất đẹp, việc tang tổ chức rất hoành tráng, đúng là hai người vào nam ra bắc, đi nhiều biết nhiều chứ ở trong núi như bọn họ thì không ai có tay nghề cao đến vậy.
Dương Phương hỏi: "Viên ngoại đúng là biết nhìn hàng, tay nghề của chúng tôi là của Phú Thọ Trang từ thời nhà Thanh truyền lại đấy, chuyên chỉ để phục vụ cho các phủ lớn ở Bắc Kinh, không biết đã làm cho bao nhiêu gia đình quan lại ở kinh thành rồi đấy, lần này tới đây gặp việc cũng là phúc phận của ông cụ và cũng là do chúng ta có duyên với nhau."
Trưởng thôn đồng tình, còn nói trần nhà ông ta cũng đã cũ, cần dán lại, nhờ hai người ít hôm nữa qua làm giúp rồi tính tiền một thể.
Dương Phương nghe rồi cũng không mấy quan tâm, chỉ hỏi trưởng thôn lúc nào phát tang, ngày giờ phát tang hạ huyệt là phải xem cẩn thận. Anh ta đang tìm cơ hội để xem xét nghĩa trang của làng.
Trưởng thôn nói đã mời thầy xem ngày rồi, chiều ngày mai phát tang, địa điểm cũng đã chọn. Người trong thôn chết đều được chôn trên núi sau thôn.
Dương Phương tiếp lời: "Âm trạch là chuyện lớn, cần tìm nơi phong thủy tốt..."
Trưởng thôn hơi quá chén, tiện mồm nói luôn: "Thôn Thảo Lư của chúng tôi là đất của Đạo giáo, không có chỗ nào là phong thủy không tốt, thôn của chúng tôi có từ thời Hán, vẫn luôn mưa thuận gió hòa, cho nên cũng không ai cố ý chọn nơi chôn cất cả. Mấy năm trước còn có người nơi khác tới chọn khe nứt dưới Lôi Công Lĩnh để chôn cất người nhà, thấy khiêng một quan tài xuống chôn dưới đó, còn thậm thà thậm thụt, bên ngoài quan tài bọc một lớp chiếu, đợi nửa đêm trời tối mới hạ huyệt. Họ không biết là đã bị thợ săn của thôn nhìn thấy, còn đòi giấu ai cơ chứ."
Trưởng thôn say rượu nói ra những lời đó là "vô tình", nhưng Dương Phương và Mạnh Bôn hai người nghe lại "hữu ý", chắc chắn là Đồ Hắc Hổ đã cho người dời mộ tổ tới đây, mặc dù hành sự bí mật nhưng đã bị người dân trong thôn nhìn thấy, cũng do Đồ Hắc Hổ chuyên làm việc thất đức, ông trời đã bắt hắn phải chịu báo ứng.
Dương Phương nghĩ, giờ đã nhận lời sửa nhà cho Trưởng thôn mà lại ra đi đột ngột ắt bị nghi ngờ. Hai người bèn ở lại thôn Thảo Lư mấy hôm, tiện thể dò hỏi đường sá cho rõ ràng.
Ba hôm sau, bọn họ rời khỏi thôn, đầu tiên là đi lòng vòng một lúc trên núi, sau đó chọn một lối không có đường mòn ít người đi lại để lên Lôi Công Lĩnh, tới nơi chỉ thấy vách núi như một bức tường thành, ngọn núi bửa đôi thành hai nửa, mây khói vờn xung quanh, dưới khe núi thông tùng mọc xum xuê, nước suối chảy róc rách, chỉ thấy "Mây vờn đỉnh núi trăm nghìn dạng/ Thác đổ một dòng dải lụa trong", thi thoảng vài chú gà gô, chú báo gấm, chim rừng xuất hiện trong khe núi. Hai người bám vào vách núi leo xuống phía dưới, một lúc lại có vài chú chim bay lượn ngang qua người, dây leo mọc dọc theo vách núi xuống tận bên dưới.
Phía bắc thôn Thảo Lư núi non trùng điệp, hết ngọn núi này tới ngọn núi khác kế tiếp nhau, từ xưa tới nay không có đường thông qua nơi này, rừng núi còn nguyên sơ hoang vu nên vẫn còn dấu tích của rắn rết và thú dữ. Người trong thôn hầu như không đi về hướng này, Dương Phương và Mạnh Bôn không sợ thú dữ, thổ phỉ, họ cũng không mang theo súng ống gì vì thời đó đi qua các cửa thành vẫn bị kiểm tra, nếu mang theo súng sẽ dễ bị chú ý. Dương Phương mang theo roi đồng, Mạnh Bôn nhìn thấy trong thôn có chiếc rìu chặt củi, tiện tay cầm luôn để còn chẻ quan tài, mọi người chuẩn bị chút lương khô, cứ thế là lên núi, chẳng coi mộ tổ nhà Đồ Hắc Hổ ra gì.
Lên tới miệng núi Lôi Công, thấy bên dưới sơn khe núi đá nhọn lởm chởm, hai bên vách núi dựng đứng, từng vệt mây trắng vờn quanh như những chiếc đai ngọc, bọn họ mò mẫm theo địa thế rắn cuốn về xuôi để xuống dưới khe núi. Dương Phương lấy tay quệt ít đất bụi trên nền đất đưa lên mũi ngửi, lại thấy màu đất và màu sắc cây cối ở đây cho thấy gần đây đất nơi này đã từng bị đào xới, liền gọi Mạnh Bôn tới bắt đầu ra tay từ chỗ đó. Lớp đất rất sâu, là đất sét, hai người đào nửa ngày, bên dưới lộ ra một cỗ quan tài sơn màu đen, trên nắp quan tài có một số tiền đồng, hai chiếc bát ngọc, trong bát vẫn còn dầu đèn, chắc lúc lấp huyệt thì đèn tắt. Trước đây nếu dời hòm chuyển mộ thì khiêng quan tài từ huyệt cũ lên phải thắp một ngọn đèn, trước khi chôn tại mộ mới thì đèn không được tắt, cũng là một thông lệ xưa. Dương Phương và Mạnh Bôn cũng có thông lệ, đó là đã đi ăn trộm không về tay không, về tay không là xui xẻo, có thứ gì lấy thứ đó, cứ thế vơ đại cho vào bao tải.
4
Mạnh Bôn hỏi Dương Phương: "Lục ca, anh nói xem có phải cỗ quan tài của tổ tiên nhà Đồ Hắc Hổ không?"
Dương Phương nói: "Cỗ quan tài đúng là kiểu của thời nhà Thanh, nhưng bên trong là gì thì tôi không biết."
Nói chuyện tới đó thì trời vừa tối, Dương Phương thắp đèn bão lên, đi vòng quanh cỗ quan tài nghiên cứu, nhìn phần đất trên quan tài không giống với đặc tính đất xung quanh, có lẽ là đất từ mộ cũ được chuyển tới từ hai ba năm trước, anh ta nhìn kỹ đám đất đó, gật đầu lia lịa với Mạnh Bôn, nói: "Không sai, chắc chắn là quan tài của vị tướng quân thời Thanh, cụ tổ nhà họ Đồ rồi. Tên Đồ Hắc Hổ đúng là cũng bỏ nhiều công sức vào việc chăm lo mộ tổ, lần này thì cho hắn biết tay."
Mạnh Bôn nghe nói đã mừng, xắn tay áo lên, rút rìu ra nhắm chuẩn vào quan tài bổ xuống. Ngôi mộ của vị tướng quân này không có nấm mộ cũng không có bia mộ là vì sợ có người tới đổ đấu, nhưng Dương Phương có đôi mắt quá lợi hại, biết được thế núi như thế nào thì huyệt ra sao, không thể không tìm ra. Thời tiêu diệt Niệm Quân là cuối thời Minh, quốc lực suy thoái, cỗ quan tài của một vị quan võ cũng không thể làm quá cầu kỳ, bên ngoài cũng không có quách, chỉ là một cỗ quan tài gỗ khá dày, đóng đinh cẩn thận, nhưng không thể trụ được sức mạnh của Mạnh Bôn, vài ba nhát rìu đã bổ bật nắp quan tài, một làn khói trắng bốc ra, bên trong là một cỗ thi thể.
Dương Phương cùng Mạnh Bôn vội lùi lại phía sau lấy khăn che mặt, chờ âm khí trong quan tài tỏa ra hết thì mới đặt chiếc đèn bão xuống đất, thắp thêm ngọn nến cầm trên tay tiến lại gần xem xét. Bên trong là một thi thể có thân hình cao to lực lưỡng được quấn trong áo gấm, để râu dài, khuôn mặt như đang sống, áo choàng của tướng lĩnh, đầu đội mũ giáp, thân mặc áo giáp, trước ngực cầm thanh Thất tinh bảo kiếm, đều là những cổ vật trên trăm năm tuổi, ngoài ra trong cỗ quan tài không còn gì khác, đó cũng chính là phong cách mai táng của con nhà võ.
Mạnh Bôn nói: "Lục ca nhìn xem, đây chính là bảo khôi, bảo giáp, bảo kiếm, còn thiếu con ngựa nữa, nhưng ngựa chết rồi cũng chẳng tác dụng gì, chỉ cần lấy ba thứ bảo bối này là đủ."
Dương Phương nói: "Tôi thấy còn một bảo bối nữa, người này chết đã năm sáu mươi năm nay, lại di chuyển quan tài vậy mà tướng mạo vẫn như đang sống, nếu tôi không nhìn nhầm thì trong miệng ông ta còn có một viên ngọc."
Mạnh Bôn nói: "Lục ca có nhìn nhầm bao giờ đâu, để em cạy ra xem có đúng là ngọc không...", nói rồi dùng dây thừng buộc vào cỗ thi thể kéo đầu dậy, tay trái đỡ phía sau đầu, tay phải bóp hai bên má cho miệng thi thể há ra, bên trong quả là có một viên ngọc rất to, móc ra xem mới biết đó là viên Dạ quang châu.
Dương Phương nhìn viên ngọc phát ra ánh sáng rất mạnh, biết đây là vật hiếm có, liền gói kín cho vào túi. Lúc này, Mạnh Bôn gỡ tấm áo giáp và những vật có giá trên thi thể đều lấy hết ra, mũ giáp là Bát môn kim đỉnh Thiên vương khôi, áo giáp là Tỏa tử liên hoàn thái tuế giáp, thanh bảo kiếm thì tay cầm được bọc da cá mập, trên thanh kiếm đen sì có khắc hình thất tinh bát đẩu. Nhìn lại thi thể trong quan tài, từ khi các bảo vật bị lấy đi thì thịt rữa da chùng bắt đầu có hiện tượng phân hủy.
Hai người buộc chặt chiếc bao tải đã đựng đầy đồ, cho một mồi lửa thiêu cháy cả quan tài và thi thể bên trong, sau đó san chỗ đất vừa đào lên ra xung quanh, phá hủy hoàn toàn ngôi mộ. Sau khi trời sáng thì xuống núi, toàn bộ quá trình thần không biết quỷ không hay. Hai người đi một mạch về tới quán trọ ở ngoài thành Lạc Dương, kể lại đầu đuôi câu chuyện cho Thôi lão đạo nghe, chờ tối đến vào phòng khóa trái cửa, thắp đèn lên, mở bao tải ra, bày từng món đồ lên bàn.
Thôi lão đạo cười nói: "Biết trước là hai huynh đệ đã ra tay, không có việc gì không làm được."
Dương Phương nói: "Công đầu vẫn là của đạo trưởng, nếu không có đạo trưởng lấy được thông tin từ mụ hổ cái thì làm sao ta biết được mộ tổ nhà Đồ Hắc Hổ ở trên núi Lôi Công chứ. Chúng tôi tới đó đào mộ lấy báu vật dễ như thò tay vào túi lấy đồ, chẳng tốn chút sức lực nào."
Thôi lão đạo gật đầu: "Đồ Hắc Hổ nằm mơ cũng không ngờ là mộ tổ nhà hắn đã bị đổ đấu."
Mạnh Bôn nói: "Vậy mới giải được nỗi hận trong lòng, tiên sư cái thằng Đồ Hắc Hổ, nó mà biết được chắc tức ói máu. Đạo trưởng thử nói xem mấy món này bán được bao nhiêu tiền."
Thôi lão đạo nói, đồ thời Thanh cũng có nhiều thứ đáng tiền, nhưng phải xem đó là đồ gì. Bộ áo giáp kia niên đại chưa lâu lắm, không phải là thứ đắt tiền, viên ngọc xem ra có giá hơn, hình như được truyền từ trong cung ra, có thể thời đó thắng trận nên được thưởng, cũng có thể là chiến lợi phẩm sau trận tiêu diệt Niệm Quân, mặc dù chỉ là một vật nhỏ bé thôi, nhưng không có viên thứ hai nào như vậy. Tiếp nữa là thanh bảo kiếm và hai chiếc chén ngọc đựng dầu thắp, đừng xem thường chiếc chén ngọc, nó là cổ vật thời Hán, chắc là Đồ Hắc Hổ đã đoạt được trong những lần đào trộm mộ. Thanh bảo kiếm là bảo vật thời Bắc Tống, cũng là một cổ vật hiếm có. Trước mắt, việc buôn bán trong nghề không được tốt cho lắm, nhưng những món đồ này mà được giao dịch thì cũng kiếm được một khoản lớn đấy.
Thôi lão đạo nói tới đó thì dừng lại một lúc: "Số tiền này ba anh em chúng ta chia ba, lão đạo tôi cả đời nghèo đói lắt lay, không thể phát tài được, nếu phát tài ắt xui xẻo, phát bao nhiêu thì xui xẻo bấy nhiêu, nên phần của tôi sẽ dùng để cứu trợ cho người dân bị nạn ở vùng Hoàng Hà, hai phần còn lại hai anh em cậu chia nhau, đây cũng là tiền của bất nghĩa, lấy cũng chẳng sao."
Dương Phương lên tiếng: "Đạo trưởng, tiểu đệ cũng được biết, từ xưa tới nay, phú quý chỉ là hư không, vinh hoa như bọt nước, chỉ có trung thần nghĩa sỹ anh hùng hào kiệt là được lưu danh muôn đời, với trách nhiệm phải luôn tiêu diệt kẻ tiểu nhân nên được người đời kính trọng, nếu đệ tham chút của cải này, thì thiên hạ đầy nhà giàu có, tội gì phải đi đào mộ nhà Đồ Hắc Hổ? Chúng ta mới đầu quyết tâm làm việc này, chẳng phải là để thay trời hành đạo diệt trừ kẻ ác sao, nên phần của tôi cũng giống như đạo trưởng, sẽ dùng để cứu trợ cho người dân bị nạn."
Mạnh Bôn nói: "Hai vị đừng trượng nghĩa quá, thời buổi này bước ra khỏi cửa là phải cần tiền, ở trọ phải trả tiền nhà, ăn cơm phải trả tiền cơm, chúng ta ít nhiều cũng phải để lại một ít phòng thân chứ."
Dương Phương nói: "Cũng đúng, hay là để lại một ít?"
Thôi lão đạo là anh cả, mở miệng ra nói chia tiền ngay thì cũng ngại, lão ta biết Mạnh Bôn thế nào cũng nói vậy, liền gật đầu: "Vậy thì để lại một ít, nhưng không được nhiều."
Ba người bàn bạc xem nên đem mấy món này đi bán ở đâu, tới tận nửa đêm mới đi ngủ. Sáng hôm sau, cả hội thu dọn hành lý lên đường. Thôi lão đạo chân cẳng què quặt, không thể đi đường dài, Dương Phương mua một cỗ xe lừa cho lão ngồi, ba người vừa đi vừa nghỉ, dọc đường hoang vắng ít người, tới trưa thì nghỉ chân tại một quán mì, vừa gọi mấy bát mì ngồi ăn thì thấy bên ngoài có một nhóm người đi ngang qua, trên xe lừa có một cỗ quan tài còn mới, xem ra là đưa người quá cố về quê an táng.
Bọn Dương Phương đều hành tẩu giang hồ đã lâu, chỉ cần nhìn vết xe là biết trong cỗ quan tài đựng khá nhiều đồ, không thể chỉ là một thi thể người chết. Còn nhóm người kia tất cả có bốn người gồm ba nam một nữ, dẫn đầu là một người trung niên khoảng trên năm mươi tuổi, tuổi chưa già, nhưng hai bên tóc mai đã điểm bạc, mặc bộ đồ quê mùa đơn giản, nhưng khí chất phi phàm, thái độ hòa nhã, bên cạnh ông là cô gái trong bộ trang phục thôn quê, nhưng nhìn là biết con gái nhà thành thị, lông mày lá liễu, tóc búi gọn gàng, hai mắt to tròn, thần thái nhẹ nhàng như nước mùa thu, xinh đẹp tới mức khiến người ta không dám nhìn thẳng vào mặt cô. Hai người còn lại, một người như là người hầu, cắt mái tóc như chiếc nồi úp, người còn lại là một thanh niên lực lưỡng, hai mắt liếc ngang liếc dọc, trông không giống người tốt chút nào.
Bọn Dương Phương đều thấy lạ, dựa vào nhãn lực của bọn họ làm sao mà không biết nhóm người kia làm gì, nhưng vì lúc này không muốn xảy ra chuyện nên không để ý tới họ, chỉ chăm chú ăn.
Thôi lão đạo ăn được một nửa thì hạ giọng nói với Dương Phương và Mạnh Bôn: "Sáng nay, tôi nhìn trời thấy có một tia sáng đỏ như máu, là dấu hiệu rất khác thường, chỉ e hôm nay thời tiết sẽ thay đổi, nếu trời nổi giông tố thì nước sông Hoàng Hà lại dâng lên. Chúng ta phải lên đường sớm không lại gặp nạn lớn ở sông Hoàng Hà đấy."
Mạnh Bôn nói: "Đạo trưởng à, lên đường sớm thế làm gì, ngày nào mà chẳng vậy."
Thôi lão đạo nói: "Cậu Ngốc này! Tôi xem không sai đâu, chỉ nay mai thôi, thể nào cũng có chuyện."
Dương Phương nói: "Hoàng Hà đã từng lụt rồi, nếu lại có thiên tai nữa thì dân sống sao nổi."
Thôi lão đạo nói: "Đường thì còn xa, trời đất không ngừng phẫn nộ, cứ xem đi, chuyện lớn còn chưa tới đâu."
Tục ngữ có câu: "Họa tại miệng", chỉ vì câu nói đó của Thôi lão đạo mà rước đến một đại họa diệt thân.
5
Trong tiệm mì chỉ có hai nhóm người đang ngồi ăn, người đàn ông mang theo cỗ quan tài ngồi ngay sau bàn Thôi lão đạo, ông ta và cô gái nhìn thấy Thôi lão đạo và hai người thợ dán hồ giấy tuy ăn mặc rách rưới nhưng không che được khí thế anh hùng, không nén nổi lén nhìn sang bên này, nghe Thôi lão đạo nói thời tiết có thể sẽ thay đổi, Hoàng Hà sắp xảy ra nạn lớn, liền quay sang hỏi: "Thưa đạo trưởng, tôi thấy mấy ngày nay thời tiết rất đẹp, sao có thể biết được thời tiết sẽ thay đổi?"
Thôi lão đạo nói: "Vô lượng thiên tôn, tôi không có khả năng thấy trước, chỉ là xem hướng gió nhìn sắc trời mà biết thôi."
Người đàn ông nói: "Lão đạo có bản lĩnh như vậy, xin cho hỏi tu hành ở danh sơn động phủ nào?"
Mạnh Bôn nhanh miệng, chưa đợi Thôi lão đạo nói đã trả lời: "Làm gì có danh môn động phủ nào, đạo trưởng nhà chúng tôi không nhà không cửa không tiền bạc, đêm ngủ trong lò gốm ở thành Nam, ngày bày quán xem bói ở cổng thành thôi."
Người đàn ông nghe vậy cười nói: "Hóa ra là thủ đoạn giang hồ..." nói rồi quay đầu đi, không thèm nói chuyện với hội Thôi lão đạo nữa.
Nếu lúc bình thường thì Thôi lão đạo cũng không chấp, nhưng lúc đó do kích động, trong lòng nghĩ: "Trông người đàn ông này không phải tầm thường, hẳn là người có thân phận địa vị cao, trước giờ rất coi thường những kỹ xảo giang hồ, nếu hôm nay mình không thể hiện bản lĩnh thì đến hai vị huynh đệ kia cũng sẽ coi thường mình."
Thôi lão đạo nghĩ vậy liền cười ha hả, nói: "Tình cờ gặp nhau cũng coi là có duyên, lão đạo ta ngày hôm nay cũng học Trương thiên sư bán thuốc, sẽ bói cho lão huynh một chữ được chứ? Nếu nói đúng phiền lão huynh truyền tên giúp tôi, nếu nói không đúng thì xin chớ cười."
Cô gái có vẻ không ưa mấy chuyện này, khuyên người đàn ông đừng quan tâm đến bọn lão đạo giang hồ, tránh mắc lừa, người đàn ông thì lại hiếu kỳ, nói: "Được, cũng thú vị lắm." Nói rồi lấy một chiếc đũa chấm vào bát nước chấm rồi viết lên bàn một chữ "Lộ", rồi nói: "Đạo trưởng vừa rồi nói rất đúng, chúng ta tình cờ gặp nhau, đều là người đi đường, vậy xin bói cho tôi chữ 'Lộ' đi."
Thôi lão đạo nhìn chữ đó một lúc rồi cười nhạt, nói: "Ngôn ngữ là tiếng nói của con tim, chữ là bức tranh của con tim, xem lão huynh viết chữ cũng có chút mạnh mẽ cứng cáp, hẳn là người dám làm dám chịu, vậy cứ bói chữ này đi, không biết lão huynh định hỏi việc gì?"
Người đàn ông nói: "Đạo trưởng nói xem tôi kiếm cơm bằng nghề gì?"
Thôi lão đạo nói: "Chữ 'Lộ'[1] bắt đầu bằng chữ khẩu, xem ra lão huynh cũng giống bần đạo, kiếm cơm bằng miệng."
[1] "Lộ" chữ Hán là 路,bắt đầu bằng bộ口, tức là miệng.
Vừa dứt lời, người đàn ông và những người xung quanh đều biểu lộ sự ngạc nhiên.
Dương Phương và Mạnh Bôn thì cười thầm trong bụng, Thôi lão đạo lại đoán trúng rồi. Người đàn ông hộ tống cỗ quan tài hoàn toàn không giống nông dân, chữ viết cũng tốt, đương nhiên là kiếm cơm bằng miệng rồi, còn nghề bằng miệng thì nhiều lắm, trong giang hồ bói toán, ca hát, kể chuyện thì đều là nghề bằng miệng cả. Dạng người được ăn sung mặc sướng thì không thể làm việc nặng nhọc, làm ăn buôn bán, làm quan cũng đều phải nói, chẳng phải là nghề bằng miệng cả sao? Có điều bản lĩnh ứng biến linh hoạt của Thôi lão đạo thì không ai bằng.
Người đàn ông nói: "Không giấu đạo trưởng, tôi làm nghề buôn bán, hiện giờ phải mang cỗ quan tài này đi làm một việc lớn, nhưng chưa biết chuyến đi này kết quả ra sao, xin đạo trưởng chỉ giáo."
Thôi lão đạo chẳng cần nghĩ ngợi, nói luôn: "Chữ 'lộ' này bắt đầu bằng chữ khẩu, kết thúc cũng bằng chữ khẩu. Trong chữ khẩu lại không có gì cả, lúc đến chữ khẩu không có gì, lúc đi chữ khẩu cũng không có gì, lão đạo tôi nói câu không hay xin ngài đừng trách, chữ này không phải là một điềm tốt."
Người đàn ông nghe rồi có vẻ thất vọng, bất chợt ngồi im không nói gì, cùng ông đi theo hộ tống cỗ quan tài, chính là cậu thanh niên vai u thịt bắp đập bàn đánh rầm đứng dậy, hét lên: "Ông chủ, ông đừng nghe lão đạo đó nói năng linh tinh, mấy trò tiểu xảo giang hồ đó lừa được ông chứ không lừa được Biên Hải Long tôi đâu, ba đứa này rõ ràng là dân đào trộm mộ, mới gặp là tôi đã ngửi thấy mùi âm khí của mồ mả trên người chúng nó rồi, không chừng còn mang theo cả đồ móc trộm nữa đấy, có dám bỏ đồ ra cho mọi người xem không..."
Dương Phương đánh rơi súng của người khác mà thần khí, nét mặt không thay đổi, trên mặt không biểu hiện cảm xúc nhưng trong lòng rất đắc ý, quay về phía người đàn ông chắp tay cúi chào, nói một câu: "Đắc tội" rồi thu roi lại.
Mạnh Bôn chỉ vào người đàn ông rồi nói với chủ quán: "Tổn thất thì sẽ do người này đền, vì người của ông ta ra tay trước."
Ông chủ quán mì là người thật thà, nào dám lên tiếng. Cô gái đứng dậy trả tiền, nói rằng tiền đền bù bàn ghế bị đánh hỏng, tiền ăn của tất cả mọi người, còn hỏi chủ quán là tiền trả đã đủ hay chưa. Chủ quán run rẩy nhận lấy tiền, nói: "Đủ rồi, đủ rồi. Mua luôn toàn bộ quán chúng tôi cũng đủ rồi, các vị cứ tự nhiên... tự nhiên...", rồi lủi ngay vào phòng trong, gọi thế nào cũng không dám ra.
Người đàn ông được Biên Hải Long gọi là ông chủ đứng dậy nói: "Chàng thanh niên đi cùng đạo trưởng đây tuổi còn trẻ mà thân thủ phi thường, chắc không phải là thợ dán giấy rồi, các vị không lẽ đúng là dân đi đào trộm mộ."
Thôi lão đạo nhìn nhóm người này văn không ra văn, võ không ra võ, đẩy một cỗ quan tài, lại có người mang theo súng đi cùng, nói là dân áp tải hàng cũng không phải, dân áp tải hàng kỵ nhất là sinh sự gây chuyện. Giờ đã bị bọn họ phát hiện ra trên người có đồ tang lễ, không còn cách giấu giếm, nhưng Thôi lão đạo rất biết cách lựa: "Không nói giấu gì, ba anh em chúng tôi có tên tuổi đàng hoàng, giang hồ gọi là Thiết chủy đại vương hoạt Tử Nha Thôi Đạo Thành, Trại Ly miêu đả thần tiên Dương Phương, Thảo đầu thái tuế Mạnh Bôn. Chúng tôi mang trong mình tấm lòng trung nghĩa, noi gương các anh hùng hiệp sỹ, lập trí trừ gian diệt ác, giúp đỡ dân nghèo. Thời buổi này nhiều loạn lạc, trên không có vương đạo, dưới không có vương pháp, dân chúng không còn đường sống. Anh em chúng tôi không thể không thay trời hành đạo, đã tới thôn Thảo Lư ở Lôi Công Lĩnh đào mộ tổ của thủ lĩnh quân phiệt Đồ Hắc Hổ, giờ đang trên đường đem những thứ đào được đổi thành lương thực để cứu tế cho người dân bị nạn vùng Hoàng Hà. Chúng tôi tuy thân phận thấp hèn, nhưng đã có lời thề không bao giờ lấy đồ bất nghĩa, cũng không lấy những vật vô danh, chúng tôi không phải dân đào trộm mộ."
Người đàn ông nghe xong, nhìn hội Thôi lão đạo một lượt, rồi nghiêm túc nói: "Nghe danh đã lâu, nay được mở mang tầm mắt, tôi thực vinh dự được gặp đạo trưởng và các vị. Tôi cũng có một việc muốn nói để mọi người rõ."
Hóa ra, thủ lĩnh quân phiệt Đồ Hắc Hổ vẫn thường đào trộm mộ rồi đem quốc bảo bán cho người nước ngoài, khiến trời đất đều nổi giận. Hiềm nỗi thời thế loạn lạc, Đồ Hắc Hổ tay nắm binh quyền, không ai dám động vào hắn. Gần đây, Đồ Hắc Hổ điều binh hoạt động tại thành Khai Phong, đang định đào trộm ngôi chùa cổ thời Bắc Tống đã bị mất tích. Ngôi chùa cổ này rất lớn, vị trí nằm tại ven sông Hoàng Hà, được gọi là Hộ Quốc đại Phật tự. Nhưng từ xưa tới nay, lụt lội quanh vùng sông Hoàng Hà đã diễn ra liên miên, đất lở đất bồi, lòng sông ngày một dâng cao, vậy mới có câu nói Khai Phong là sông trên trời, sông còn cao hơn thành, cộng thêm mấy lần thay đổi dòng chảy của sông, nước lụt nhiều lần nhấn chìm ngôi chùa. Những năm vua Tống Nhân Tông trị vì, thành đô là Biện Lương, nhà vua cho xây ngôi chùa Đại Hộ Quốc này bên dòng sông Hoàng Hà để cầu cho dân chúng được bình an. Trong chùa thờ hai tượng Phật trăm tay nghìn mắt, một to một nhỏ, bức tượng nhỏ được làm bằng vàng trên khảm rất nhiều ngọc ngà châu báu, là báu vật vô giá của thời nhà Tống. Ai ngờ, sau một trận đại hồng thủy vô tiền khoáng hậu, đất bên bờ sông bị lở đã nhấn chìm cả ngôi chùa. Thời gian trôi qua, vật đổi sao dời, triều đại thay đổi, chẳng còn ai biết được vị trí ngôi chùa bị nhấn chìm ở chỗ nào nữa.
Thủ lĩnh quân phiệt Đồ Hắc Hổ nghe nói bức tượng nghìn tay nghìn mắt là báu vật vô giá liền đem quân đi tìm di tích ngôi chùa, mong tìm lại được bức tượng để đổi cho bọn người Tây lấy quân hỏa. Người đàn ông họ Triệu này là một thương nhân giàu có, thời trai trẻ thích giao du mạo hiểm, say mê khảo cổ sưu tầm hiện vật, thường tìm cơ hội ra nước ngoài mua lại những cổ vật bị lưu lạc. Được biết Đồ Hắc Hổ chuyên đi đào mộ cổ đã nhiều lần viết thư cho cơ quan địa phương nhưng các quan lại vùng này đều nhận tiền đút lót của Đồ Hắc Hổ nên ai cũng muốn yên thân, không ai dám lên tiếng, đều thoái thác do không có chứng cứ cụ thể nên không giải quyết. Ông chủ Triệu không có cách nào khác đành lên kế hoạch tìm ra ngôi chùa cổ trước Đồ Hắc Hổ, cất giấu tượng phật nghìn tay nghìn mắt, để rơi vào tay bọn quân phiệt thì không hay chút nào, lỡ lưu lạc ra nước ngoài, bản thân chúng ta là con cháu Trung Hoa, sau này còn mặt mũi nào đi gặp liệt tổ liệt tông. Thời thế loạn lạc, phải dùng cách của bọn trộm để phòng trộm vậy, cũng là cách bần cùng bất đắc dĩ. Ngoài ra, căn cứ vào tài liệu lịch sử, ngôi chùa bị vùi sâu trong cát này còn có một bí mật khác.
Trong cỗ quan tài cất giấu súng săn, đèn pin, mũ bảo hiểm, xẻng v.v... Mang theo súng săn là để phòng khi gặp thổ phỉ, tất cả các vật dụng đều để trong quan tài. Mượn danh đưa người thân về quê mai táng, thứ nhất để tiện đi lại trên đất do quân phiệt chiếm lĩnh, tránh gây sự chú ý, lại chi một khoản tiền lớn thuê một người tên Biên Hải Long, là dân đào trộm mộ đi hỗ trợ, không ngờ người này khứu giác không tồi nhưng quá nhát gan, mới ra tay đã bị Dương Phương đánh cho bỏ chạy, những người còn lại ngoài ông chủ Triệu ra còn có cô cháu gái tên Đạm Đài Minh Nguyệt, người còn lại để mái tóc như chiếc nồi úp là người hầu, gia đinh nhà họ Triệu, tên Triệu Nhị Bảo, mặc dù không có bản lĩnh gì, nhưng theo hầu ông đã nhiều năm, rất trung thành, đáng tin cậy.
Ông chủ Triệu nói, nếu không có sự giúp đỡ của dân đào trộm mộ chuyên nghiệp thì khó hoàn thành được việc lớn, lại cần phải ra tay trước Đồ Hắc Hổ, thời gian rất gấp rút, không còn kịp để tìm người mới, có ý nhờ hội Thôi lão đạo giúp cho một tay, sự việc thành công sẽ hậu tạ.
Thôi lão đạo vừa rồi mới thao thao bất tuyệt, nào là tấm lòng trung nghĩa, nào là hiệp sỹ hào kiệt, thế nên việc lớn vì dân vì nước này không làm sao được? Lão đạo quay sang bàn bạc với Dương Phương và Mạnh Bôn, nói chung chỉ cần là việc làm chống lại Đồ Hắc Hổ thì họ đều đồng tình ủng hộ, huống hồ còn được trả tiền. Hơn nữa tìm một bức tượng nghìn tay nghìn mắt thì có gì là to tát đâu, chỉ cần một mình Dương Phương đi là được, Thôi lão đạo chân cẳng không nhanh nhẹn, Mạnh Bôn sẽ đưa ông qua sông trước, vài bữa nữa cả hội sẽ gặp nhau tại thị trấn Cao Đài phía bắc sông Hoàng Hà.
Ông chủ Triệu thấy Dương Phương đồng ý giúp đỡ thì cảm ơn rối rít, trong lòng nghĩ: "Có được sự giúp đỡ của người này thì một người bằng mười người."
Hai nhóm người chia tay tại quán, Dương Phương dặn dò Mạnh Bôn: "Huynh đệ, cậu chăm sóc cho đạo trưởng, tôi đi ít hôm rồi về."
Thôi lão đạo cũng dặn dò: "Lục đệ! Ta thấy thiên thời không được tốt, có khả năng sẽ có họa lớn đấy, mọi người dọc đường phải hết sức cẩn thận. Ngoài ra, tên Đồ Hắc Hổ rất lợi hại, nếu hắn quyết tâm đi tìm tượng Phật thì không chừng sẽ chạm mặt với mọi người, cậu phải chú ý, nhớ lời của ta thà bị đánh trên mặt đất, còn hơn bị chôn dưới lòng đất. Không được hành sự bốc đồng, các cụ đã dạy rồi 'Bá Vương tự tử ở sông Ngô Giang, Chu Du có tài nhưng mệnh đoản, bao nhiêu anh hùng hào kiệt trước khi xuất trận thì dũng mãnh nhưng cuối cùng cũng thiệt mạng vì bốc đồng', một khi gặp phải nguy hiểm, ba mươi sáu kế kế chuồn là thượng sách, với bản lĩnh của cậu, thoát thân không phải là khó."
6
Dương Phương nói: "Đạo trưởng cứ yên tâm, tôi ghi nhớ cả rồi." Trong lòng lại nghĩ: "Đồ Hắc Hổ mặc dù ghê gớm nhưng đánh tay đôi với mình thì mình cũng chẳng sợ hắn."
Tại quán ăn, Thôi lão đạo bói cho ông chủ Triệu chữ "Lộ", cho thấy chuyến đi này không thuận lợi. Lão ta vốn bói mười quẻ có tới chín quẻ sai, chỉ toàn áp dụng mấy trò tiểu xảo giang hồ. Nhưng lăn lộn trong giang hồ lâu năm, lão cũng có khả năng nhìn việc nhìn người rất chuẩn, cảm thấy có việc lớn sắp xảy ra khiến trong lòng bất an, cứ dặn đi dặn lại Dương Phương phải hết sức cẩn thận, sau đó mới cùng Mạnh Bôn qua sông đi về hướng Bắc.
Không nói đến chuyện Thôi lão đạo qua sông thế nào. Còn bốn người bọn Dương Phương, men theo bờ sông đi theo hướng đông, thời đó loạn lạc, đi ra ngoài không dám quá lộ liễu, mọi người phải cải trang thành người dân quê, kéo theo cỗ quan tài, cũng chẳng có ngựa, vì nếu có ngựa sẽ bị quân thổ phỉ giết người cướp của chú ý tới.
Ông chủ Triệu rất quan tâm tới Dương Phương, hỏi: "Nghe đạo trưởng gọi cậu là Dương Phương? Đó là tên thật của cậu?" Dương Phương trả lời: "Tôi chỉ là đứa trẻ mồ côi, chẳng biết bố mẹ ở đâu, làm gì có tên thật. Năm đó, sư phụ tôi đã mua tôi từ nhà họ Phương ở huyện Dương nên đặt tên cho tôi là Dương Phương". Ông chủ Triệu nói: "Hóa ra là vậy, đúng là anh hùng không cần hỏi xuất thân. Thân thế của Dương huynh đệ có phần giống đứa cháu gái của tôi". Dương Phương hỏi lại: "Ông chủ Triệu nói vậy là sao?" Đạm Đài Minh Nguyệt nghe nhắc tới tên mình thì vội lên tiếng: "Chú! Chú đừng nói với anh ta". Ông chủ Triệu trả lời: "Không sao! Dương huynh đệ không phải là người ngoài", rồi bắt đầu kể: "Đứa cháu gái này của tôi cũng là đứa bé tội nghiệp không có cha mẹ". Dương Phương hỏi: "Đại tiểu thư cũng không có cha mẹ từ nhỏ?" Ông chủ Triệu gật đầu: "Đúng thế! Chuyện đầu đuôi thế nào đến nó cũng không rõ. Hôm nay nhân tiện tôi sẽ kể cho hai đứa nghe luôn. Chuyện là hai mươi năm trước, thời vẫn còn triều đại nhà Thanh ấy."
Cuối thời Thanh, ông chủ Triệu vẫn chưa giàu có như bây giờ, để kiếm tiền đi học, đã mạo hiểm theo người Anh vượt biển xuống Nam Hải đầu cơ, không ngờ dọc đường gặp bão suýt chút nữa chìm tàu, cột buồm bị gió đánh đổ, chỉ còn cách lênh đênh trên biển, cho đến khi lương thực và nước đã cạn, sắp bị chết đói thì gặp bọn hải tặc, nhìn thấy bộ quần áo nhà Minh, bọn họ liền kéo thuyền vào một hòn đảo hẻo lánh, trên đảo cây cối um tùm, có một chiếc hang rất lớn, bên trong nhiều nhà cửa, trông giống như một thành trì, ông chủ Triệu bị bọn hải tặc đưa vào phía sâu trong động cùng những tù binh khác. Chỉ thấy bên trong thờ một bức tượng đất, ăn mặc trang phục cổ, đầu đội mũ giáp, đây chính là bức tượng tổ tiên của bọn hải tặc. Trong động, vàng bạc châu báu chất cao như núi, thủ lĩnh bọn hải tặc là người khảng khái, đối xử không tồi với ông chủ Triệu, cho ăn uống đàng hoàng, hỏi thăm ông về tình hình ở nhà, còn kết nghĩa anh em với ông. Một đêm, thủ lĩnh hải tặc mời ông tới một gian nhà đá cùng uống rượu hàn huyên, kể lại lai lịch của chiếc hang động mà quân hải tặc đang cư trú này. Đó là trước khi Bát kỳ thiết giáp của quân Mãn Thanh tràn vào thành, có một đội quân bại trận của nhà Minh, dưới dự thống lĩnh của một vị tổng quan đã tháo chạy ra hoang đảo ngoài biển làm hải tặc. Vị tổng quan đó biết xem phong thủy, nhìn thấy địa thế tuyệt vời của hòn đảo này có thể dùng để chặn cướp tàu của nhà Thanh. Nhưng phụ nữ không được phép ở lại trên đảo quá một năm, nếu không sẽ phá hỏng phong thủy của hòn đảo này, một khi phong thủy bị phá hỏng thì số phận hòn đảo cũng coi như chấm hết. Vì vậy lập ra quy định, những người phụ nữ cướp được về trên đảo, phải giết hết trong vòng một năm, nếu sinh ra con gái cũng phải giết hết, không được để sót, tránh vị trí hòn đảo bị tiết lộ ra ngoài, quân triều đình sẽ tới tiêu diệt đảo. Hai trăm năm sau đó, những người sinh sống trên đảo không ai dám làm trái lời dạy của tổ tiên, truyền tới đời thống lĩnh hải tặc này vẫn vậy. Năm ngoái, bọn hải tặc cướp về được một thiếu nữ có dung mạo tuyệt trần, sau đó cô gái có mang với thủ lĩnh, hai người yêu nhau thực sự, thủ lĩnh hải tặc không nỡ giết người con gái đó, một năm sau cô gái sinh được một bé gái, nếu để bị phát hiện, cả hai mẹ con sẽ bị giết. May mắn lúc đó tàu ông chủ Triệu bị bắt vào đảo. Thấy người này tác phong khác người, hẳn không chịu khuất phục người khác, liền kết nghĩa anh em, còn tặng nhiều vàng bạc, sửa sang lại con tàu của ông chủ Triệu, nhờ ông đem vợ con chạy trốn khỏi đảo. Không ngờ trong lúc chạy trốn lại bị quân hải tặc phát hiện. Đám người này và nhóm trung thành với thủ lĩnh hải tặc phát sinh mâu thuẫn kịch liệt, một trận đấu súng nổi lên, hầu như cả hai bên đều chết hết, thành trì trong động cũng bị cháy sạch, những người sống sót sau trận đấu súng cũng bị đám cháy thiêu rụi, người phụ nữ nhảy xuống biển tự tử theo chồng, chỉ còn lại đứa bé gái tròn hai tháng tuổi mà ông chủ Triệu bế trên tay. Ông ngồi thuyền chạy thoát khỏi đảo, từ đó giàu có, coi đứa bé như con đẻ của mình, chỉ biết thủ lĩnh hải tặc họ Đạm Đài, trong đêm ông bỏ chạy trăng sáng vằng vặc nên đặt tên cho đứa bé là Minh Nguyệt. Có thể nói, tính mệnh và của cải của ông đều do thủ lĩnh hải tặc ban tặng, nếu không có đứa bé này thì ông cũng không thể sống để rời khỏi hòn đảo đó. Đạm Đài Minh Nguyệt từ bé đã thích cưỡi ngựa săn bắn, có thể là di truyền từ bố. Ông chủ Triệu cũng không có cách nào mà quản được, nuông chiều hết mực, đòi trăng trên trời thì chẳng dám hái sao, chỉ còn cách mời thầy về dạy bắn cung, cưỡi ngựa, múa kiếm. Nhưng lần này là đối đầu với thủ lĩnh quân phiệt Đồ Hắc Hổ, quá mạo hiểm. Ông nói với Dương Phương, nếu chuyến đi này ông có gì bất trắc, nhờ Dương Phương trông nom Đạm Đài Minh Nguyệt hộ ông. Vì ông linh cảm thấy điều không may, lại không thể giương mắt lên nhìn quốc bảo bị đánh cắp để đổi lấy vũ khí quân đội, đành phải đem thân liều mình vào chốn nguy hiểm.
Đạm Đài Minh Nguyệt nói: "Chú đừng nói mấy lời không may mắn đó, cháu không cần ai phải chăm lo, chú cũng sẽ không sao cả."
Dương Phương vốn nghĩ chỉ là vớt bức tượng nghìn tay nghìn mắt dưới lòng sông lên thôi, chẳng có gì to tát, có gì mà mạo hiểm? Vì vậy cũng khuyên ông chủ Triệu không nên quá lo lắng, Đồ Hắc Hổ chỉ là quân phiệt, mộ tổ của hắn thì Dương Phương tôi cũng đã đào rồi, hắn còn làm gì được tôi?
Ông chủ Triệu nói: "Dương huynh đệ tài năng xuất chúng, nhưng không nên vì anh hùng thì phải khiêm nhường mà cam tâm chôn vùi tài năng của mình. Với kỹ năng này của cậu, sao lại chỉ dùng vào việc đào trộm mộ quân phiệt được, sao cậu không nghĩ tới chuyện xây dựng nghiệp lớn?"
Dọc đường, ông chủ Triệu cũng tâm sự rất nhiều, nhưng Dương Phương không nghĩ như vậy: "Nếu để cho ông chủ Triệu này ăn bánh ngô hấp với rau muối vài tháng thì ông ta cũng chẳng còn tâm trí đâu mà lo việc dân việc nước nữa."
Chiều ngày hôm đó, họ tới một bến phà bên bờ sông Hoàng Hà, đây là một khúc quanh của dòng sông, chỉ thấy dòng nước chảy xiết, nước cuộn ầm ầm. Phía nam bờ sông là bên đất bồi, khoảng không rộng lớn, có mấy gian nhà đất nhấp nhô, bên trên cắm một ngọn cờ đã cũ rách, viết chữ "Quán trọ Cổ Độ", gió mạnh thổi cờ bay phần phật, phía xa xa có mấy con chó hoang đang gặm xương người, một vùng hoang vắng, nhìn ra xa nữa chỉ là những điểm đen nhỏ li ti.
7
Ông chủ Triệu nhìn bản sơ đồ một hồi lâu, nói với ba người còn lại, theo kinh nghiệm thu thập cổ vật và khảo cổ của ông, ngôi chùa cổ thời Bắc Tống nằm ở vị trí này, chính điện của ngôi chùa đã bị nhấn chìm trong đám bùn đất của sông Hoàng Hà trong những trận đại lụt. Đồ Hắc Hổ cho rằng ngôi chùa cổ ở vị trí gần thành Khai Phong, nên đội quân phiệt chỉ đào bới xung quanh thành. Cách đó rất xa, có một quán trọ hẻo lánh, cả nhóm tạm thời dừng chân ở quán trọ rồi tìm kiếm kỹ càng sau, chắc chắn sẽ có thu hoạch, đừng để người khác phát giác.
Dương Phương nói: "Ông chủ Triệu không biết đấy thôi, nghe nói quán trọ bên bờ sông là một hắc điếm, chuyên làm bánh bao nhân thịt người, ông chở một quan tài đưa người chết về quê mai táng chỉ là để che mắt quân phiệt, nhưng không thể nào qua mắt được bọn giang hồ kia, nếu vào ở trọ chắc chắn bị bỏ thuốc mê, giết thịt làm nhân bánh, đầu, chân tay và xương thì bị vứt xuống sông Hoàng Hà."
Ba người nghe nói vậy thì đều cảm thấy buồn nôn, bất giác rùng mình. Thời thế loạn lạc, chuyện bán bánh bao nhân thịt người chưa chắc chỉ là lời đồn.
Nhị Bảo thốt lên: "May có Lục ca nhắc nhở, nếu không mình trọ lại ở đây chắc ăn phải bánh bao nhân thịt người mất."
Dương Phương nói: "Huynh đệ, tụi mình ăn phải mấy chiếc bánh bao nhân thịt người cũng không sao, chứ trông cậu toàn thân đều là thịt ba chỉ thế này, là loại thịt cao cấp làm nhân bánh bao đấy, chủ tiệm nỡ tha cho cậu sao, cho một liều thuốc mê, lột hết quần áo, trói lên bàn mổ..."
Nhị Bảo kinh hoàng: "Lục ca à, nghe nói hắc điếm cũng là hảo hán lục lâm, họ cũng phải phân biệt tốt xấu chứ, gặp người là giết hết sao?"
Đạm Đài Minh Nguyệt nói: "Nhị Bảo đừng tin anh ta nói xằng, anh ta đã ở quán trọ này đâu mà biết, dựa vào đâu mà nói người ta là quán bánh bao nhân thịt người?"
Ông chủ Triệu nói: "Không thể không đề phòng, Dương huynh đệ nói không sai. Chúng ta kéo theo một cỗ quan tài đi trên đường còn lý giải được, nếu ở trọ dài ngày trong quán nhất định sẽ gây sự chú ý. Dương huynh đệ, theo ý cậu chúng ta nên làm gì?"
Dương Phương nói: "Theo quy tắc giang hồ, đành phải trả thêm ít tiền cho chủ tiệm, nói rõ sự tình, bảo họ đừng quản việc người khác."
Bốn người bàn bạc xong xuôi, đánh xe tiến về phía quán trọ. Tới gần mới biết, trong đó không một bóng người, bụi bám dày đặc. Xem ra, từ trận lụt trước đây thì mọi người đã tháo chạy hết, chỉ còn lại mấy gian phòng ẩm thấp, thông thống gió, nhưng như vậy cũng bớt được rất nhiều phiền phức. Triệu Nhị Bảo không còn lo bị người ta giết thịt làm nhân bánh nữa, cậu ta vui vẻ buộc lừa bên ngoài cửa tiệm, rồi lại bận rộn dọn dẹp phòng trọ. Trời cũng vừa sập tối, gió mạnh dần lên, tiếng gió rít nghe như tiếng sói tru ma khóc, chân trời một màu vàng ệch.
Có quán trọ hoang làm chốn nghỉ chân, mọi người cũng an tâm phần nào, nếu không nhà không cửa mà gặp phải trận cuồng phong này thì không còn cách nào để qua đêm cả.
Mọi người chuyển cỗ quan tài nặng trịch đó vào bên trong, ăn qua loa vài miếng lương khô lót dạ. Nhị bảo xuống bếp đun nước, ông chủ Triệu nói chuyện với Dương Phương và Đạm Đài Minh Nguyệt: "Chúng ta phải ra tay trước Đồ Hắc Hổ, thời gian không đợi chúng ta, đêm nay nghỉ ngơi cho tốt, sáng sớm mai là bắt tay vào tìm chùa Đại Hộ Quốc ngay."
Dương Phương mở quan tài ra xem xét, bên trong có bốn khẩu súng săn hai nòng và thuốc nổ. Giờ nơi đây hoang vu không một bóng người, đêm đến ngoài thú hoang ra thì chỉ sợ gặp thổ phỉ nên vẫn cần có súng để phòng thân. Ngoài ra còn có đèn pin, xẻng đào đất, đến đồ đi săn và lương khô v.v... đều chuẩn bị đầy đủ.
Ông chủ Triệu giở cuốn sổ vẫn luôn mang theo bên người, trong đó có một bản sơ đồ vẽ bố cục Hộ quốc đại Phật tự. Chỉ cần tìm thấy một Phật đường hay gian điện nào đó trong chùa, rồi đối chiếu với bản đồ là có thể tìm ra gian chính điện. Tượng phật nằm và bức tượng nghìn tay nghìn mắt đều trong gian chính điện. Ông phân tích, phía sau quán trọ có những mô đất cao hơn những mô đất khác, nếu không nhầm thì đó chính là Phật pháp của ngôi chùa, nếu vậy thì phía bên dưới nền đất của quán trọ này chính là gian chính điện.
Dương Phương nói: "Chuyện này chẳng phải dễ như trở bàn tay sao, chỉ cần tìm đúng vị trí, ngày mai cứ đào từ đây xuống, nhiều lắm cũng một hai ngày là xong."
Ông chủ Triệu nói: "Chuyện không đơn giản như vậy. Có một điều mà tôi phải đợi đến đây mới nói với mọi người được. Thời Bắc Tống khi xây dựng ngôi chùa bên dòng sông, có một truyền thuyết rất đáng sợ, mọi người có tin rằng... bức tượng Phật nghìn tay nghìn mắt là để trấn áp thủy quái dưới sông Hoàng Hà không?"
8
Dương Phương nghe ra đằng sau chuyện này còn có sự việc khác, liền hỏi: "Ông chủ Triệu nói tượng Phật của chùa Đại Hộ Quốc trấn... thủy quái? Chuyện là thế nào?"
Ông chủ Triệu nói: "Đó là lời đồn từ rất nhiều năm trước, tôi chỉ lo nếu di chuyển bức tượng Phật sẽ dẫn dến tai nạn không thể lường trước được."
Đạm Đài Minh Nguyệt nói: "Chú không cần lo lắng, những ghi chép dã sử đó làm sao mà thật được."
Ông chủ Triệu cũng mong đó chỉ là do ông quá lo lắng, nói chung chờ tới khi nhìn thấy bức tượng phật nghìn tay nghìn mắt đó thì sẽ biết sự việc là thế nào.
Dương Phương hỏi: "Lấy được tượng phật rồi thì để trong cỗ quan tài này chuyển đi sao?"
Ông chủ Triệu nói: "Đúng vậy, kích thước bức tượng đó cũng tương đương với người thật, để trong quan tài chở qua sông, tìm nơi nào bọn quân phiệt không thể tìm được rồi chôn. Thiên hạ không thể cứ loạn lạc mãi được, Đồ Hắc Hổ tự cho mình dũng mãnh, giết người không ghê tay, sau này không thể nào lọt qua lưới trời, sớm muộn gì cũng bị quả báo. Chờ thời thế hết loạn lạc, chúng ta sẽ đào bức tượng lên trả nó về cho nhân dân."
Dương Phương vẫn cảm thấy chuyện này có gì đó rất lạ, định truy hỏi thêm việc bức tượng phật đó trấn áp yêu quái gì, nhưng do ông chủ Triệu tuổi đã cao, liên tục đi hơn mười ngày đã thấm mệt, Triệu Nhị Bảo dọn dẹp xong gian phòng trong mời ông vào nghỉ ngơi, Dương Phương cũng không hỏi thêm nữa.
Ngôi quán trọ bỏ hoang bên bến phà cạnh dòng sông có khoảng bảy tám phòng trọ, đều có sẵn giường, quét đi lớp bụi bên trên là có thể sử dụng. Ông chủ Triệu nghỉ tại gian phòng ngoài cùng phía tây, lúc này cũng đã muộn, ba người còn lại ngồi ở đại sảnh, thắp một ngọn đèn dầu, sắp xếp lại đám dụng cụ trong quan tài tiện cho ngày mai sử dụng. Quán trọ hoang tàn, tứ bề lộng gió, ngọn đèn dầu lúc tỏ lúc mờ, bên ngoài vọng lại tiếng kêu "ngao ngao" nghe rất lạ, cũng không rõ là tiếng sói hoang hay tiếng gió thổi.
Đạm Đài Minh Nguyệt nghĩ tới chuyện Dương Phương kể về bánh bao nhân thịt người, ban ngày thì cô không sợ, nhưng giờ trời đã tối đen, không khỏi cảm thấy rùng rợn, cô lên tiếng trách Dương Phương: "Dương Lục, tôi thấy trong quán trọ này làm gì có thứ gì giống như bàn mổ đâu, câu chuyện của anh chỉ là bịa thôi."
Dương Phương nghĩ thầm: "Ta hành tẩu giang hồ có ai dám không gọi ta một tiếng Dương Lục ca, riêng cô đại tiểu thư này không coi mình ra gì, gọi thẳng mình là Dương Lục, mình không dọa được cô ta đêm nay gặp ác mộng thì chẳng phải hổ danh anh hùng hảo hán sao..."
Dương Phương nghĩ vậy rồi nói với Đạm Đài Minh Nguyệt và Nhị Bảo rằng, không ngờ quán trọ bên bờ sông đã bị bỏ hoang từ lâu, nhưng chuyện bánh bao nhân thịt người là có thật, sư phụ anh ta đích thân gặp phải chuyện này. Năm đó, sư phụ anh ta chuyên tới vùng này buôn bán, một mình tới nghỉ trọ ở quán này, chỉ thấy xung quanh hoang vắng, chủ quán là một quả phụ, có hai thanh niên to khỏe làm phụ tá, bán cho sư phụ anh ta hai chiếc bánh bao còn nóng hổi. Ông thấy nhân chiếc bánh bao toàn mỡ, vừa thơm vừa ngon...
Đạm Đài Minh Nguyệt nghe tới đó thì cau mày còn Nhị Bảo lấy tay bịt miệng kêu lên: "Lục ca, sư phụ huynh ăn bánh bao thịt người à?"
Dương Phương kể tiếp rằng không phải vậy, dựa vào nhãn lực của sư phụ anh ta, nhìn vào nhân bánh bao ông phát hiện ra giống như thịt người, là phần thịt gần mông và đùi, nếu không thì sao có nhiều mỡ như vậy? Do nghi ngờ nên cố nhịn đói không ăn. Tới nửa đêm, khi ông đang nằm ngủ trên giường thì nghe thấy tiếng động dưới gầm giường, như có người đang kéo giường của ông cụ, nghe cọt kẹt cọt kẹt, âm thanh đó vang lên giữa đêm khuya khiến người ta ghê rợn, dựng cả tóc gáy.
Dương Phương khéo kể chuyện, thêm nữa bên ngoài gió rít nghe như tiếng ma hờn quỷ khóc, khiến Nhị bảo sợ run người nhưng vẫn muốn nghe tiếp, cứ liên tục hỏi sau đó rồi sao? Không lẽ bọn người hắc điếm trốn dưới gầm giường, định giết sư phụ huynh để làm nhân bánh bao?
Dương Phương nói không phải, nếu người quán trọ trốn dưới gầm giường thì còn kéo giường làm gì? Sư phụ anh ta cũng băn khoăn không hiểu vì sao, nghe gõ vài cái rồi im lặng, giờ lại thấy có tiếng cào gõ, ông liền dậy thắp đèn xem có gì dưới gầm giường. Ôi mẹ ơi, là một xác người mất đầu, chắc là nạn nhân trong ngày bị giết, giấu trong gầm giường chưa kịp dọn dẹp. Thịt trên đùi đã bị xẻo đi làm nhân bánh, không biết là do thi biến hay sao mà xác chết không đầu này cứ lấy tay gõ vào thang giường.
Đạm Đài Minh Nguyệt biết đây chỉ là Dương Phương bịa chuyện để dọa người nhưng nơi hoang vu lạnh lẽo này nghe kể chuyện ma thì cũng không khỏi sợ hãi, trong lòng thấy bất an vô cùng.
Dương Phương cười thầm trong bụng, nói mọi người tranh thủ nghỉ ngơi, ngày mai còn phải bận rộn. Nói xong vào phòng mình đóng cửa lại, để chiếc roi đồng phía dưới gối, không nghĩ ngợi gì, trong đầu trống rỗng, một lúc sau thì chìm vào giấc ngủ. Ngoài trời bỗng nổi luồng âm phong, lạnh đến thấu xương, trên người nổi hết da gà. Anh choàng tỉnh dậy, cửa phòng bị gió thổi bật ra, có một người toàn thân máu me bê bết từ bên ngoài bước vào.
9
Dương Phương thất kinh, giật mình tỉnh dậy, thấy toàn thân lạnh toát, mồ hôi nhễ nhại, nhìn lại thấy cửa phòng vẫn đóng, đêm đã khuya, trong phòng không có ai cả, chợt nghĩ bụng: "Tự mình nghĩ chuyện bánh bao nhân thịt người định bụng dọa cô gái không biết trời cao đất dày kia, nào ngờ lại dọa chính mình, nửa đêm nửa hôm nằm mơ thấy ác mộng này, thật chẳng có đầu đuôi gì."
Sư phụ của Dương Phương giờ không rõ tung tích, chẳng truyền lại bùa mô kim cho anh ta nên anh ta hành sự chẳng theo quy tắc của mộc kim hiệu úy[2], hơn nữa anh ta lại học được nhiều kỹ nghệ trên giang hồ, gan dạ không ai bằng, nhưng giờ nằm mơ thấy gì anh ta cũng không rõ, xem xét lại lần nữa trong phòng không có gì khả nghi lại lên giường nằm, vừa nhắm mắt, trời lại nổi gió âm, cửa phòng bật mở, một người mình đầy máu me, từng bước tiến gần lại giường anh ta, Dương Phương hét lên một tiếng rồi tỉnh dậy, nhìn quanh phòng vẫn không thấy gì, mồ hôi toát ra ướt đẫm áo, tim đập thình thịch, tại sao lại nằm mơ hai lần giấc mơ giống hệt nhau?
[2] Mộc Kim Hiệu Úy: là một phái chuyên đi đào trộm mộ của thời xưa của Trung Quốc. Theo sử sách ghi chép, Mộc Kim Hiệu Úy bắt nguồn từ cuối thời Đông Hán, Tam Quốc. Lúc đó, thủ lĩnh quân Ngụy là Tào Tháo vì để bổ sung quân lương bị thiếu hụt đã thiết lập ra các quân hàm như Phát Trung Lương Tướng, Mộc Kim Hiệu Úy v.v... chuyên đi đào trộm mộ, bổ sung cho quân đội. Phái đào mộ Mộc Kim Hiệu Úy chủ yếu dựa vào xem phong thủy, phân biệt thời tiết, dựa vào "kim dịch" làm tôn chỉ để xác định huyệt mộ của mộ cổ.
Anh ta nghĩ bụng: "Gặp ma rồi, không lẽ quán trọ này có ma? Nhưng nếu lúc này mà gọi mọi người dậy thì vị đại tiểu thư kia và Nhị bảo sẽ cười mình mất, sau này mình còn mặt mũi nào mà gặp mọi người?"
Dương Phương nhảy ra khỏi giường, lại xem xét mọi ngóc ngách trong phòng, không thấy gì khác lạ, nghĩ bụng: "Nghĩ nhiều sinh ra ma quỷ, mình không thèm để ý đến nó xem thế nào." Nghĩ rồi, anh ta nằm xuống giường ngủ, vừa nhắm mắt thì gió lại nổi lên, cánh cửa phòng lần thứ ba bị bật mở, người đàn ông toàn thân máu bê bết đó lại bước vào từ bên ngoài, tóc Dương Phương dựng ngược hết cả lên, nhưng anh ta đúng là gan to bằng trời, cố gắng không động đậy, nằm im theo dõi người đó tiến lại gần mình, anh thấy người đó như đang muốn nói gì với mình, hình như đó là từ "Mau chạy đi!"
Dương Phương thất kinh, nhìn lại trong phòng đã trở lại như bình thường, toàn thân lạnh toát. Người trên giang hồ không có ai không tin điềm báo, trong lòng nghĩ: "Giấc mơ đó sinh động như thật, chỉ e đây là điềm báo không lành, hơn nữa mình nằm mơ ba lần đều chung một nội dung, trong phòng này chắc có ma, con ma đó là ai? Tại sao muốn nhắn mình hãy chạy thoát? Không lẽ sẽ xảy ra chuyện lớn?"
Trong lòng đang nghĩ ngợi như vậy thì trời hửng sáng, nhóm Đạm Đài Minh Nguyệt đã dậy thay đồ.
Đạm Đài Minh Nguyệt thấy Dương Phương sắc mặt nhợt nhạt, tinh thần hoảng hốt, như kiểu cả đêm không ngủ được thì cười trêu: "Dương huynh, sao sắc mặt anh khó coi thế? Không lẽ đêm qua kể chuyện ma lừa bọn tôi cuối cùng thành dọa chính mình?"
Dương Phương vốn định đem chuyện đêm qua nằm mơ kể lại cho ba người kia nghe, chỉ e có chuyện liên quan tới tính mạng, nên mau chóng rời khỏi nơi đây. Nhưng vừa nghe Đạm Đài Minh Nguyệt nói vậy, không dám để mất mặt đành nói: "Cứ nghĩ tới dân tình khổ cực, cả đêm suy nghĩ không ngủ được."
Ông chủ Triệu nói: "Thật đáng quý, Dương huynh đệ người trong giang hồ mà có chí cả, lúc ngủ cũng không quên lo lắng cho bách tính. Thời thế loạn lạc, cho dù là tàn binh bại tốt thì cũng nên cống hiến cho quốc gia, lần này chúng ta đi tìm tượng phật nghìn tay nghìn mắt, không được để rơi vào tay Đồ Hắc Hổ, chính là bảo vệ quốc bảo."
Dương Phương đồng tình: "Ông chủ Triệu nói đúng lắm. Chúng ta hoàn thành việc này chính là góp thêm công đức trên tòa Phật tháp."
Ông chủ Triệu nói: "Tốt! Vậy thì lát nữa chúng ta ra phía sau quán trọ bắt đầu nào, xem bên dưới có Phật tháp không."
Nói chuyện một hồi như vậy, Dương Phương cũng không có cơ hội kể lại việc gặp ma đêm qua. Anh thấy nhóm ông chủ Triệu đã thay trang phục đi săn, từ đầu đến chân đều là đồ Anh quốc, trong lòng nghĩ, kiểu Tây à, nhưng đúng là mặc đồ này vào thì làm việc dễ dàng hơn. Bên ngoài trời nổi gió to, cát bụi bay mù mịt, bốn người đi trong gió cát tới phía sau quán trọ bắt tay vào đào. Dưới lớp đất cát là một lớp đất khô cứng, tiếp tục đào thêm mấy tấc nữa, bên dưới lộ ra lớp gạch, quả nhiên là có Phật tháp. Ông chủ Triệu mừng rỡ, hai mắt sáng ngời, ngôi chùa có tượng Phật nghìn tay nghìn mắt thời Bắc Tống đây rồi, chính điện của ngôi chùa ngay bên dưới quán trọ bên bờ sông Hoàng Hà, ông bỏ ra bao công sức nhiều năm nay để đi tìm, giờ phút này tìm được vẫn chưa dám tin là sự thật.
Dương Phương không hiểu bức tượng kia có sức quyến rũ như thế nào khiến ông chủ Triệu mê mẩn đến như vậy, cũng muốn nhanh chóng được nhìn thấy. Anh ta dắt theo Nhị Bảo vào bên trong bức tường phía sau quán trọ tiếp tục đào, đào tới giữa trưa thì được một hố to, phía dưới lớp đất cát là lớp ngói thẳng hàng, cho thấy mặc dù Phật điện bị bùn đất lấp đầy nhưng sau khi đất cát đã khô thì tạo thành một lớp vỏ bọc cứng, sau bảy tám trăm năm gian điện thờ vẫn giữ được nguyên vẹn. Dỡ bỏ lớp ngói bên trên, phía dưới đen ngòm, bên trong Phật điện cột kèo đã mục nát, không biết sẽ sập xuống lúc nào. Bốn người họ quay vào trong chuẩn bị dây thừng, đèn pin, còn mang theo mấy bó đuốc, đợi không khí ẩm mốc trong Phật điện tan hết mới dám xuống.
Lúc này, gió thổi mạnh hơn, từng trận nổi lên ù ù, quán trọ bỏ hoang đã nhiều năm không được sửa chữa, mái nhà chỉ là những tấm gỗ, bên dưới lót lớp cỏ khô, giờ bị những trận gió thổi bay tơi tả, bốn người nép sát chân tường đất, vừa tránh gió vừa ăn tạm lương khô, nhưng gió thổi bay cát bụi đầy mồm, không thể nào nuốt nổi.
Dương Phương tìm cơ hội hỏi ông chủ Triệu: "Tượng Phật nghìn tay nghìn mắt trấn áp vật gì bên dưới vậy? Có phải là yêu quái sông Hoàng Hà không?"
Ông chủ Triệu nói: "Không chỉ đơn thuần là lời đồn, Hoàng Hà năm nào chẳng lũ lụt, nhiều năm trước..."
Dương Phương đưa tay lên ra hiệu mọi người im lặng: "Từ từ, tôi nghe thấy như có tiếng người đi lại phía chúng ta, không phải tiếng gió đâu."
Quán trọ bên bờ sông vốn hoang vu không một bóng người, tầm nhìn không bị cản trở, một vùng trước mắt toàn là cỏ khô, lúc này gió thổi mạnh cát bay mù mịt, Dương Phương phóng tầm mắt ra xa, chỉ nhìn một cái mà đã thở hắt ra, giấc mơ gặp ma đêm qua đã thành hiện thực.
Ông chủ Triệu phát hiện tình hình không ổn, chỉ thấy trong lớp bụi mờ xuất hiện một dải màu đen, khi khoảng cách gần hơn mới biết đó là đội quân phiệt, phía trước toàn là kỵ binh, tiếng vó ngựa ngày càng gần, ầm ầm như thác đổ, bụi cát cuộn bay mù mịt.