Hồi sáu: Viên xà từ
Tư Mã Khôi nhớ đến nội dung ly kỳ mập mờ trong cuốn cổ tịch biệt bảo, có lẽ đúng như lời đội trưởng Lưu Giang Hà nói khi trước: “Trong cuốn cổ thư đó ẩn chứa những thứ vô cùng tà ác”. Rất có thể nó chính là một kẻ địch khác mà Nấm mồ xanh cử đến, nếu không thì sao tự dưng anh lại nhìn thấy ma quỷ?” Thắng Hương Lân bán tín bán nghi: “Một cuốn thư tịch cũ kỹ rách nát thì có thể làm nên trò trống gì? Chỉ cần anh không đọc nó là được. Huống hồ thân phận của thi thể nằm trước cửa Hắc Môn, và những bức hình cổ quái vẽ minh họa trong cuốn cổ thư vẫn chưa thể xác định chính xác, thì làm sao dám đoán định nó có liên quan đến Nấm mồ xanh?” Quả thực, Tư Mã Khôi cũng không thể giải thích rõ ràng, vì rốt cục chỉ một mình anh tận mắt nhìn thấy bóng ma đó mà thôi, nhưng việc này chắc chắn là liên quan đến cuốn cổ tịch biệt bảo có lai lịch bất minh kia, bây giờ nó lại bỗng dưng biến mất một cách kỳ lạ. Có lẽ trong lúc cuống cuồng chạy trốn, nó đã lọt ra cạnh ba lô rồi rơi xuống, thất lạc giữa biển cát mênh mông và bóng tối ngút ngàn tầm mắt, bây giờ có muốn tìm cũng căn bản không thể tìm thấy nó được nữa. Tư Mã Khôi thấy cơ sự đã đến nước này thì biết việc phải đến, sớm muộn gì cũng sẽ đến, có muốn trốn tránh cũng không thể tránh được, thế là anh tạm thời gác chuyện đó sang một bên, tiếp tục cùng ba thành viên còn lại tiến sâu vào biển cát. Đội thám hiểm vốn định quay về đường cũ, nhưng giờ đã mất phương hướng. Trong môi trường nóng rát khắc nghiệt này, thứ duy nhất có thể thu vào tầm mắt là những triền cát nhấp nhô, trải dài miên man, không thể phân biệt được đông tây nam bắc, khắp địa hình khô rang giống nhau như đúc, không hề có chuyến biến gì. Mọi người có cảm tưởng, dường như họ chỉ đi quanh quẩn rồi vòng về điểm xuất phát. Kinh nghiệm thăm dò trắc họa của Thắng Hương Lân khá phong phú, vả lại cô còn sở hữu cảm giác phương hướng bẩm sinh bén nhạy hơn người bình thường, nhưng quy mô không động trong cực vực này đã làm đảo lộn mọi khái niệm địa lý. Thiết bị đo lường la bàn đa năng K62 cũng hoàn toàn mất tác dụng trong bóng tối, nêu không xác định được vị trí một cách chính xác, thì chỉ e có đi từ giờ đến già, rồi liên tiếp trải qua ba kiếp, cũng không thể tìm thấy mục tiêu. Tư Mã Khôi cũng bó tay bất lực, hành quân trong biển cát mông mênh bát ngát dưới lòng đất, không tìm thấy bất kỳ vật tham chiếu nào, tuy có la bàn quân dụng chỉ đường, nhưng cũng không thể liên tục điều chỉnh phương hướng, muốn duy trì hướng đi theo đường thẳng còn khó, nói gì đến việc tìm một mục tiêu đặc biệt ở cách xa cả mấy cây số. Anh vừa đi vừa hoang mang, bỗng nhìn thấy dưới dòng cát lún lấp ló một mẩu xương hàm của cá voi, anh bèn dừng lại quan sát tỉ mỉ. Hải ngọng giục giã: “Theo tớ thì cậu đúng là người có bản lĩnh gia truyền trứ danh đấy, ngay cả hạt cát cũng có thể phân biệt được hạt đực hạt cái, bây giờ không nắm bắt thời gian mau chóng xác định phương hướng đi, còn ngồi đó ngắm nghía cục xương cá voi đó làm gì?” Tư Mã Khôi bỗng nhiên nhớ đến việc tàu ngầm cá voi đều dùng bộ định vị sóng âm xô-na và từ trường để định vị. Cá voi ngày xưa khác với cá voi bây giờ, thể tích nó to lớn gấp nhiều lần, bởi thế mới gọi là cá voi cổ đại. Anh cũng từng nghe các bô lão kể chuyện ngư dân săn bắt cá voi. Mỗi dịp giao mùa xuân hạ, ngư dân bên bờ biển lại tụ tập ở miếu thần thắp hương cầu khấn, xin âm dương xem Long Vương có cho phép bắt cá voi hay không, một khi tiền cười, thì biết có con cá voi nào đó đã đắc tội với trời đất và trở thành mối họa của biển cả, người dân được phép săn bắt. Thế là mọi người bèn ném rất nhiều từ thạch, tức nam châm tự nhiên, xuống vùng biển gần đổ, rồi tụ tập nhiều tàu thuyền, tuyển chọn những ngư dân khỏe mạnh vạm vỡ, thông thạo sông nước và giỏi ném lao nhất, chuẩn bị những cây lao mũi nhọn hoắt buộc dây thừng dài, lên thuyền gỗ liễu, mau chóng ra khơi chờ đợi. Vì sao lại dùng thuyền làm bằng gỗ liễu? Thì ra mọi vật trên đời đều có thứ khắc chế, thứ cá voi cổ đại húy kỵ nhất chính là gỗ liễu già. Sau đó, họ lại cử những tay thợ săn lão luyện giỏi quan sát sự biến đổi của sắc biển, trèo lên đỉnh núi phóng tầm mắt ra xa, lúc nào thấy mặt biển ngoài khơi cách trên trăm dặm bỗng dưng nổi sóng lớn, sóng bạc đầu nhẹ nổi lên trên, mây đen bập bềnh phía dưới, thế nước ào ào, tiếng triều dâng ầm ì, là biết cá voi đang đến gần. Họ đốt lửa làm tín hiệu, thông báo cho các ngư dân trên thuyền gỗ liễu chuẩn bị hành động. Ngay sau đó, chỉ thấy miệng cá voi không ngừng phun bọt nước bay mịt mù, giương vây xuất hiện, trong phút chốc sóng dâng cao như núi, sầm sập như ngàn quân vạn mã, ầm ầm lao đến, nó phun mưa xối xả từ dưới biên lên không trung giữa ngày trời quang mây tạnh, khiến ngay cả người đứng trên bờ cũng bị ướt sũng quần áo. Lúc này mọi người trên thuyền đồng tâm hiệp lực, cùng ném lao vun vút, âm thanh vang dội khắp một vùng biển. Nhân lúc con cá voi hoảng hốt lặn xuống nước, các ngư dân lại tiếp tục phóng ra những mũi lao sắt sắc nhọn. Loại mâu xiên cá này không thể hạ sát nổi con thủy quái, mà chỉ làm nó bị thương. Con cá voi bị thương sau khi ngập trong nước mặn tất sẽ chết, lặp đi lặp lại nhiều lần, con cá voi chết sẽ nổi lên mặt biển, ngư dân bèn dùng móc câu thép và thuyền lớn kéo nó vào bờ. Sau khi đưa vào bờ, thấy con cá voi quả thực to lớn chẳng khác nào trái núi, miệng rộng đến mười mấy mét, hàm dưới mọc cái râu dài như đuôi bò, bên ngoài là làn da mỏng, bên trong có xương sụn mềm. Các ngư dân dùng gỗ thông chống cái miệng đen ngòm như hang động của nó lên, lúc này bắt buộc phải lấy tỏi bịt lỗ mũi, nếu không sẽ ngạt thở vì mùi hôi thối bốc ra từ bên trong. Sau đó họ bắc thang, châm đèn nến chui vào bụng con cá từ cổ họng, cắt lấy dầu cao cá. Loại dầu cao này có thể chế tác ra thứ dầu thắp rất quý hiếm cho đèn trường minh(1) , riêng phần đuôi cá voi có thể chiết xuất hàng trăm ngàn cân dầu cao, những phần xương thịt còn lại thì mọi người tùy ý chia nhau. Có một lần, người ta kéo vào bờ một con cá voi còn chưa tắt thở hẳn, khi bị dao xén thịt, nó đau quá không chịu nổi, liền quẫy mạnh đuôi trở mình, phút chốc đã đè bẹp chết mấy chục người một lúc. (1) Đèn trường minh: trường minh đăng, là loại đèn được thắp sáng liên tục, chủ yếu dùng cho việc thờ cúng. Hải ngọng và đội trưởng Lưu Giang Hà vẫn không hiểu vì sao Tư Mã Khôi đột nhiên lại kể câu chuyện không liên quan gì đến tình hình hiện tại. Chỉ có Thắng Hương Lân là hiểu ra chút manh mối: “Các ngư dân ném rất nhiều từ thạch chìm xuống lòng biển, là để dẫn dụ lũ cá voi từ ngoài đại dương bơi vào gần bờ. Các sinh vật cổ phần lớn đều có thể xác định vị trí chính xác nhờ vào từ trường của bản thân, đáng tiếc là con người chúng ta lại không có công cụ định vị tuyệt vời này.” Tư Mã Khôi nói: “Bây giờ chúng ta cũng có thể mượn từ trường sinh vật để định vị mục tiêu. Cực vực dưới lòng đất sâu có từ hàng ngàn vạn năm trước, từng xuất hiện cá voi lai vãng, giờ đây đã biến thành biển cát cô tịch, vạn vật chết khô, dường như không còn bất kỳ dấu tích sinh mệnh nào mà tìm kiếm. Nhưng ở sâu trong lòng cát vẫn có một số loài sinh vật nằm ẩn mình như bọn thằn lằn giun, nhất là rắn trắng, trong ngũ hành thì màu trắng biểu tượng cho kim, trong đầu rắn phần lớn chứa viên từ, còn gọi là xà từ, có thể trợ giúp chúng ta trong việc định vị.” Thắng Hương Lân nói: “Côn trùng, rắn rết trong sa mạc đều là loài kịch độc, làm cách nào để có thể bắt được chúng đây?” Hải ngọng tự nhận mình thông thuộc ngón này: “Hồi ở vùng núi Miến Điện, không biết tôi đã lột da bao nhiêu con rắn, tay nghề này mà không sử dụng nữa thì phí quá. Các cậu cứ việc đứng sang một bên rồi chống mắt lên mà nhìn nhé!” Lần này thì anh chàng không hề khoác lác. Nhớ năm xưa, Tư Mã Khôi và Hải ngọng theo đội du kích trốn vào núi sâu chẳng biết mấy tháng, khi đó trong đoàn có thành viên là dân bản địa Miến Điện, thường dẫn hai người cùng vào rừng bắt rắn. Vào mỗi đêm trăng sáng, anh chàng Miến Điện đó lại dặn dò hai người: “Hãy nhớ kỹ, tất cả những gì nhìn thấy đều không được hốt hoảng, cũng không được lên tiếng”. Thế là anh ta đốt hương liệu dụ rắn ra khỏi hang, sau đó, dẫn hai người trốn sau gốc cây quan sát. Rắn trong rừng rậm nguyên sinh đúng là thiên biến vạn hóa, đếm không xiết có bao nhiêu điểm quái dị, có con vảy bạc lấp lánh, có con hai mắt sáng quắc như đèn pha, miệng phun phì phì độc khí ngũ sắc, rực rỡ như cầu vồng sau cơn mưa, có con thân mình đỏ au như vầng dương vừa nhú lên khỏi mặt biển, có con đầu lại giống hồ ly, con màu vàng, con màu trắng – hầu như màu nào cũng có, to nhỏ ngắn dài khác nhau, có con lại đeo mào ngật ngưỡng như mào gà, thân mình dẹt lét như cái thắt lưng, hoặc có con da trơn đen sì giống như cá chạch. Chúng muôn hình muôn vẻ kỳ quái, chủng loại nhiều vô số kể. Thế nhưng chỉ cần đến thời khắc nửa đêm, bất kể bắt được bao nhiêu rắn, anh chàng Miến Điện cũng lập tức dập tắt hương liệu, dẫn hội Tư Mã Khôi và Hải ngọng hấp tấp rời khỏi rừng. Nếu thắc mắc vì sao không ở lại lâu hơn chút nữa, để bắt thêm vài con, thì mặt anh ta thoắt nhiên biến sắc, lấy tay ra dấu nói với mọi người: “Nếu còn không mau rời khỏi đây, sẽ dụ xà vương ra ngoài hang đó.” Thủ đoạn bắt rắn của Tư Mã Khôi và Hải ngọng đều học từ người Miến Điện bản địa này, có điều, tập tính của rắn sống trong rừng rậm và sống trong sa mạc không giống nhau, hiện tại cũng không có hương liệu, nên đành phải dùng báng súng liên tục thọc sâu xuống hố cát, tạo ra những cơn chấn động nhẹ, dụ bọn rắn đang ẩn mình trong khe cát sâu ra ngoài. Cách này quả nhiên rất hiệu nghiệm, chỉ thấy một con rắn trắng dài chừng nửa mét bò ngoăn ngoèo lại gần, trong chớp mắt khoảng cách giữa nó và Hải ngọng chỉ còn vài bước, nó đột nhiên phóng vút như tên bay, chuẩn bị đâm thẳng vào mặt đối thủ. Hải ngọng nhìn rõ đây là loài rắn độc Viper miệng nhọn, răng nanh dựng đứng hoăn hoắt, người nào bị nó cắn phải, đi chưa đầy năm bước thì toàn thân đã tím đen mà chết, trăm người không cứu sống nổi một người. Nhân lúc con rắn vẫn chưa bật hẳn người lên, anh liền giậm mạnh chân một cái. Con rắn hoảng sợ vì chấn động đột ngột, bèn lủi sang bên cạnh. Hải ngọng nhìn thấy điểm sơ hở, bèn ra tay nhanh như điện, tóm lấy cổ nó, đồng thời giẫm chân vào đuôi nó, kéo thẳng đứng, thuận thế miết dọc sống lưng. Con rắn mềm nhũn trong tay anh, không giãy giụa phản kháng gì nữa. Ba người đứng ngoài reo hò cổ vũ, rồi cùng xúm lại xem, viên xà từ trong đầu con rắn chỉ bé bằng hạt gạo, nhưng hướng đầu nó chỉ khi cuộn tròn, chắc chắn là hướng đất có giấu mạch sắt – đây cũng là bản tính trời sinh khiến nó tự nhiên hành động như vậy, nhờ đó mà cả đội có thể điều chỉnh phương hướng; chỉ cần lần dây mò quả là có thể tìm thấy mục tiêu ở cách đó mấy cây số. Mọi người mò mẫm trong bóng tối tiến về phía trước. Tư Mã Khôi bỗng nhiên cảm thấy người Liên Xô sử dụng phương pháp viễn thám điện trường, liên tục tiến hành thám trắc đi thám trắc lại, nhưng phần lớn kết quả thu được khi thám trắc cực vực đều bị để trắng. Kỳ thực điều này cũng không có gì kỳ lạ, bởi vì bản thân cực vực chính là không động – nằm giữa lớp vỏ và lớp phủ Trái Đất. Căn cứ theo lời của Thắng Hương Lân, thì phương pháp viễn thám điện trường lòng đất cần phải có môi trường tương ứng, nếu giữa địa tầng tồn tại đứt gãy, sẽ khiến điện trường bị hao kiệt quá mức, bởi vậy cơ bản không thể đo được bất cứ biểu đồ gì. Nhưng vì sao lại có mấy trang hiển thị kết quả biểu đồ thám trắc? Hai vật thể bằng sắt tồn tại dưới lòng đất phải chăng chỉ xuất hiện vào một thời điểm đặc biệt nào đó? Nếu đúng là vậy, thì phương hướng viên xà từ chỉ cũng chưa hẳn đã chuẩn xác. Thắng Hương Lân nói với Tư Mã Khôi: “Thời gian đặc biệt đó có lẽ là lúc 12 giờ 30 phút, khi ấy trong từ trường sẽ xuất hiện sương đen. Theo quan điểm của người Liên Xô, thì đây chính là tầng tro bụi màu đen còn tồn tại dưới lòng đất sau vụ nổ thiên thạch, bên trong khả năng chứa một lượng lớn sóng bức xạ điện từ, nó liên tục lặp lại theo chu kỳ cố định. Lúc sương đen xuất hiện cũng là lúc sóng điện phủ rộng khắp cực vực, bởi thế ở thời điểm đó, điện trường có thể lan truyền xuống đáy động và thu được các số liệu thám trắc, hiển thị trên biểu đồ phản hồi. Tư Mã Khôi nhìn đồng hồ, còn bốn tiếng nữa mới đến 12 giờ 30 phút, vẫn đủ thời gian để tìm hai vật thể sắt thần bí, nhưng tìm thấy rồi thì sẽ làm gì? Ban đầu, anh nghĩ chỉ cần chạm tới bí mật trong lòng cực vực, là có thể tìm thấy lời giải cho mọi ẩn số bao quanh Nấm mồ xanh. Nhưng càng tiếp cận gần mục tiêu, thì anh càng cảm thấy khoảng cách tới chân tướng sự thật lại bị đẩy ra xa hơn, có trời mới biết vì sao dưới lòng đất lại có hai cục sắt lớn với thể tích ngang ngửa cỗ tàu ngầm của Liên Xô. Có thật nó sẽ cho anh đáp án cuối cùng về mọi bí mật chưa biết không? Thắng Hương Lân cũng cảm thấy con đường phía trước thật mờ mịt, khó đoán, nhưng cô vẫn tin tưởng vào phán đoán của giáo sư Nông địa cầu, “yêu nhĩ Lâu Lan” chính là lời giải cho mọi ẩn số. Thân phận và lai lịch của Nấm mồ xanh, cùng mục đích thật sự của tổ chức ngầm này, cả long ấn triều Hạ như bản mật mã trong mật thất tòa thành Nhện Vàng, đội khảo sát liên hợp Liên Trung và con tàu ngầm Z-615 bị mất tích nữa, tất cả những ẩn số này đều liên quan đến cực vực trong kính viễn vọng Lopnor. Mỗi người đều tự dự đoán các kết quả khác nhau, băng qua những triền cát nhấp nhô chằng chịt, cảm thấy địa hình dưới chân cũng dần dần nâng cao. Lúc này, trong biển cát xuất hiện một vật thể bằng sắt khổng lồ đầy thần bí. Nó im lìm lặng lẽ, sừng sững uy nghiêm, trong bóng tối mịt mùng không thể nhìn rõ hình dạng và kích thước thật của nó. Chứng kiến nó chỉ khiến người ta cảm thấy biển lớn thời gian đang dậy sóng triều dâng. Trải qua hàng tỷ năm, những vết tích cổ xưa còn lưu lại đến ngày nay, đã trở nên mờ nhạt. Đứng trước chân tướng sự thật, hội Tư Mã Khôi ngẩn người tròn mắt nhìn, không kiềm được đã khe khẽ thốt lên đầy kinh ngạc: “Thần linh thổ địa ơi! Cái này rốt cục là thứ gì vậy?”