CHƯƠNG 3: CHIẾC HỘ PANDORA - HỒI 1: KHO PHÁO QUÂN SỰ LÕI KÉP

Tư Mã Khôi sờ thấy ống thép lạnh băng trong bóng tối, dựa vào xúc giác thì dường như đó là một cỗ pháo tăng. Trong đầu anh phút chốc vụt hiện lên hình ảnh dòng máu đen chảy ra ùng ục từ thất khiếu của người chết, đó đều là thảm cảnh của những chiến hữu bị quân chính phủ bắn pháo hạng nặng gây chấn động lục phủ ngũ tạng đã ngã xuống trên đất Miến Điện.

Nghĩ đến chuyện này, tim anh lại như bị ai bóp nghẹt, nhưng nếu là pháo hạng nặng thì nòng pháo có vẻ hơi dài thì phải? Tư Mã Khôi nóng lòng muốn xem rốt cuộc là thứ gì, anh lấy tay vặn chặt thân đèn bị lỏng, chùm sáng phóng vụt ra phía trước. Tư Mã Khôi bất giác khẽ thốt lên kinh hãi: “Ối Phật tổ ơi!”, bốn phía là bốn khẩu pháo tăng to tổ bố.

Lúc này, hội Hải ngọng đợi Tư Mã Khôi ở ngoài hồi lâu vẫn không thấy động tĩnh gì, liền lục tục theo chân nhau chui vào khe nứt, nhờ ánh sáng đèn cácbua, mọi người nhìn thấy vật thể nằm chắn ngang trước mắt, khiến ai nấy đều lập tức ngẩn người ra nhìn. Thực ra, cảm giác lúc trước của Tư Mã Khôi không hề sai, đó là khẩu pháo hạng nặng họng ngoại cỡ, chỉ có điều thể tích của nó rất lớn, hình dạng cũng vô cùng đặc biệt, nhất là nòng pháo, đúng là dài khiếp người, vả lai góc độ nòng pháo gần như song song với mặt đất, trông hoàn toàn khác với những khẩu pháo dùng trên địa hình núi thường thấy.

Trong không gian hạn hẹp, chật chội, nó khiến người ta cảm thấy bị đè nén đến ngộp thở. Khẩu pháo với hình thù kì lạ này rất giống với khẩu đại bác D-20 bắn đạn trái phá 152mm do Liên Xô sản xuất mà Tư Mã Khôi và Hải ngọng từng nhìn thấy ở Việt Nam. Nó vừa có đặc tính của pháo bắn đạn trái phá và pháo bắn lựu đạn, vừa có khả năng tiến hành áp chế hỏa lực đường dài, lại vừa có khả năng trực tiếp ngắm bắn; có điều, khẩu pháo vừa phát hiện, chắc là loại D-66 của Trung Quốc nhái hàng Liên Xô, với quy cách đường kính họng pháo giống y đúc với hàng Liên Xô, thật không ngờ, nó lại được cất giấu trong kho pháo quân sự lõi kép trên ngọn núi chính của Đại Thần Nông Giá.

Tuy là sinh viên học viện quân y, nhưng Cao Tư Dương lại không phải bộ đội dã chiến, hơn nữa, ngay cả lính tráng cũng chưa hẳn đã nhận biết được tất cả các loại súng pháo, nên cô chưa bao giờ nhìn thấy khẩu đại bác bắn đạn trái phá 152mm đời D-66, thậm chí còn chưa bao giờ nghe thấy tên nó.

Lúc này, cô bất giác nảy sinh đôi chút hoài nghi về lai lịch của hội Tư Mã Khôi, vì người bình thường làm sao có thể phân biệt chính xác loại hình và họng súng các khẩu pháo một cách cụ thể như vậy được? May mà lúc trước khua môi múa mép, hội Tư Mã Khôi đã nói từng tham gia đánh du kích, Hải ngọng còn thanh minh bảo ông già nhà anh là thiếu tướng, cả gia đình ở nhà lầu trong quân khu, đi vệ sinh cũng không cần ra khỏi cửa, nên có hiểu biết tí chút về trang bị pháo binh thì cũng có gì đáng nói đâu.

Mọi người đưa mắt nhìn, phát hiện ngoài bốn khẩu pháo đó ra, xung quanh còn chất đầy hàng thùng đạn pháo, trên tường còn sơn khẩu hiệu “Xây dựng pháo binh nhân dân vững mạnh”. Quan sát kỹ kết cấu của kho pháo quân sự lỗi kép, thì thấy có vẻ như tổng thể kiến trúc của nó đều được nằm trong huyệt động ẩn giữa lòng núi, được đổ hai lớp bê tông cốt thép trong lòng động để che đậy tung tích, và lõi kép còn có hiệu quả phòng chống xung kích do bom mìn dội xuống.

Ở giữa có thông đạo nối liền, hai đầu nam bắc rộng rãi, lần lượt đặt bốn khẩu pháo đại bác D-66 án ngữ bốn cửa, nên nó có thể bắn dội từ trên cao xuống, từ cửa động hai sườn nam băc, bắn thúc ra ngoài; tầm bắn ở đây lại khoáng đạt, vị trí rất kín đáo, từ góc độ chiến thuật mà nói, thì đặt đại bác ở địa điểm này là cực kì lý tưởng.

Cuối những năm 60, các nhà lãnh đạo Trung Quốc cảm nhận được sự uy hiếp của chiến tranh, nên bắt đầu tiến hành điều chỉnh chiến lược quy mô lớn, các vùng như Hồ Bắc, Hồ Nam, Vân Nam, Tứ Xuyên, Quý Châu v.v… đều được coi là khu vực chiến lược trọng điểm. Các đơn vị và bộ đội đồn trú tại cơ sở nhận nhiệm vụ thi công những công trình và tham gia những hạng mục huấn luyện mang tính đối ứng, trong đó có rất nhiều công trình quân sự chuyên môn được bảo mật nghiêm ngặt, kho pháo quân sự lõi kép này cũng nằm trong phạm trù đó.

Có lẽ, công trình được triển khai từ lưng núi, còn mấy khẩu đại bác D-66 được tháo dỡ từng linh kiện vận chuyển vào đây, sau đó mới được lắp ghép lại, bởi vậy dân binh bản địa mới không hay biết trong núi còn có một nơi như thế này. Chính vì vậy, cửa động sườn bắc và sườn nam đều bị chặn lại, khiến kho pháo quân sự lõi kép hoàn toàn bị niêm phong trong lòng núi.

Trộm nghĩ, có lẽ do thời cuộc thay đổi, kết cấu của nó không hợp lý, đã dẫn đến tường kho rạn vỡ, nó mới bị bỏ hoang vào phút chót, nhưng khẩu đại bác lại không tiện di dời, nên khi ấy vẫn chưa dỡ ra vận chuyển, tạm thời để lại trong núi, đề phòng mai sau cần dùng. Đó là cách giải thích hợp lý duy nhất mà Tư Mã Khôi có thể nghĩ ra.

Có điều bây giờ lại nảy sinh một nghi vấn khó hiểu hơn, vì sao gã hái thuốc tên Lão Xà lại biết trong đây có công trình quân sự này? Nếu hắn muốn thực hiện hành vi phá hoại, phá nổ kho pháo, thì ở lòng núi sâu cô tịch bóng người này cũng không thể tạo ra hiệu quả lớn lắm, còn nếu như không phải vì nguyên nhân này, thì có lẽ nó có liên quan đến bản thân “sơn động”.

Mọi người đoán, kho pháo quân sự lõi kép cũng chỉ bị bỏ hoang mấy năm nay thôi, còn động huyệt bên ngoài lại có niên đại cổ xưa đến nỗi không thể truy tìÂm nguồn ngọn, mà rìa công sự lại xuất hiện nhiều vết nứt vỡ, có thể đi thông thẳng vào nơi sâu trong lòng núi.

Cả hội đang định tiếp tục lần tìm manh mối, thì bỗng nhiên ngửi thấy mùi phoóc môn lan tỏa trong làn không khí âm lạnh. Tư Mã Khôi mò theo mùi khí, ngẩng đầu lên nhìn, thì thấy ở khe nứt phía sau mấy thùng đạn có nửa thân người đang thò ra. Kẻ đó có thân hình vạm vỡ, vai rộng eo thon, gương mặt giống như loài vươn cổ bị tuyệt chủng từ thuở nào, hai con ngươi nhiều lòng trắng ít lòng đen, toàn thân lấm lem bùn đất.

Hắn ta trông như xác chết mới chui từ mộ lên vậy. Tư Mã Khôi vừa nhìn thấy khuôn mặt và thân hình gã đó, liền biết đó chính là Lão Xà hành nghề hái thuốc mà cậu dân binh vừa kể. Lúc trước, có lẽ đối phương đã vùi mình dưới lớp đất trong địa huyệt, mới che giấu đưọc mùi khí quái dị toát ra từ cơ thể, đồng thời trốn thoát thành công khỏi sự truy lùng của mọi người.

Thế nhưng kẻ đó thì đã chết từ năm ngoái, vả lại người còn đang sống sờ sờ làm sao có thể tự chôn mình dưới bùn đất trong địa huyệt được? Với khứu giác nhạy cảm của Tư Mã Khôi, đối phương chỉ cần khẽ thở ra một chút, là anh sẽ lập tức phát hiện thấy, vậy mà lúc này cự li giữa hai người gần như mặt đối mặt, mà anh vẫn không cảm nhận được chút sinh khí nào tồn tại trên cơ thể gã, có điều cảm giác này lại hoàn toàn không giống với u hồn Nấm mồ xanh kia.

Những người còn lại hoàn toàn bất ngờ với sự xuất hiện đột ngột của đối phương, vả lại khi trông thấy tay Lão Xà khua khua một ngọn đèn dầu đang thắp sáng và một cuộn thuốc nổ tự chế dùng để phá núi, thì ai nấy đều giật thót mình, vì chỉ cần ngọn đèn rớt xuống đất một cái là sẽ dẫn đến hỏa hoạn cháy nổ.

Đây không phài là chuyện chỉ nổ “đoàng” một cái là xong, mà là khối lượng thuốc nổ khổng lồ trong kho quân sự cũng đủ sức biến cả ngọn núi này thành bình địa trong nháy mắt, bởi vậy mọi người đều yên lặng đứng im tại chỗ, không ai dám manh động, chỉ duy cậu dân binh Hổ Tử điếc không sợ súng là hăm hăm hở hở vác súng chĩa thẳng vào đối phương.

Lão Xà khàn giọng hăm dọa: “Thằng nhãi dân binh! Mày vác súng thì vác cho chắc đi, kẻo lỡ cướp cò bắn nhầm sang chỗ khác, thì đừng mong chạy thoát khỏi chỗ này”. Cao Tư Dương không chịu kém miếng, cô cũng giương súng lên hỏi: “Làm sao ông chạy đến được đây?” Tư Mã Khôi biết đối phương đã chuẩn bị chu đáo mới dám mò tới nơi này, liền ra hiệu bằng mắt cho Thắng Hương Lân và Hải ngọng, ý bảo: “Tùy cơ ứng biến, không được mạo hiểm hành động”.

Lúc này, Lão Xà nói với Cao Tư Dương: “Một đấu sáu, thì cũng chẳng sao! Có điều chúng ta việc gì phải đánh nhau để cả hai đều chịu tổn thất?” Lão Xà nói, chuyện của gã thực ra cũng không có bí mật gì đáng giấu. Trước đây, dựa vào những tuyệt kỹ đầy mình, gã hành nghề tiêu lộc săn bắn ở cánh rừng nguyên sinh Đại Thần Nông Giá, và bất kể chim quý thú lạ hay linh chi ngàn năm, hà thủ ô hiếm có thế nào, chỉ cần gã ra tay là chưa bao giờ phải trở về tay không.

Nhưng từ khi gặp nạn, dung mạo bị hủy hoại, gã không cách nào tìm được mảnh da người, nên đành lột da khỉ đắp lên, rồi buộc phải bôi thuốc chống rữa nát. Từ đó, trên người gã lúc nào cũng mang theo mùi quái di. Ngày qua ngày, gã sống cuộc sống người không ra người, quỷ không ra quỷ, ai ai cũng sợ hãi tránh xa, còn bản thân gã cũng cảm thấy mình sống không bằng chết, đầu óc bất giác nảy sinh tà niệm, nên lúc nào cũng ngậm mối hận trong lòng với mọi người xung quanh.

Gã định tìm cơ hội giết chết vài người, rồi làm vài chuyến hàng lớn, vượt biên trốn xuống Nam Dương(1). [1] Nam Dương: cách nói xưa của người Trung Quốc chỉ khu vực Đông Nam Á. Nguyên nhân của cả chuỗi sự kiện phải bắt đầu kể từ đầu những năm Dân Quốc. Khi đó, có một nhà khoa học sinh vật địa chất người Mỹ, tên là Taninth.

Ông ta từng nhiều lần đến núi Thần Nông Giá để tiến hành khảo sát, và phát hiện m Hải Cốc là cánh rừng nguyên sinh hiếm có trong khu vực trung vĩ độ, là nơi ẩn mình của rất nhiều loài cổ sinh vật đã bị tuyệt diệt từ hàng trăm triệu năm trước. Ông ta tổ chức một đội thám hiểm săn bắn, vây bắt những loài dã thú quý hiếm trong núi cao rừng rậm, đồng thời sưu tầm lượng lớn tiêu bản thực vật và côn trùng.

Hồi trước giải phóng, sư phụ năm xưa của Lão Xà là lên giặc đất chuyên đi đào mộ đổ đấu, từng làm hướng đạo cho ông Taninth. Lão thổ tặc miền sơn cước là kẻ có tầm nhìn hạn hẹp, nhận thức nông cạn, thấy trên người ông Taninth có nhiều dây chuyền vàng, nên đã hạ độc thủ vào lúc cả đoàn thám hiểm vừa phát hiện ra địa huyệt dưới lòng đất, đang định trở về chuẩn bị tiến hành bước kế tiếp.

Lão ta đã giết chết tất cả thành viên trong đoàn, chiếm đoạt tổng cộng ba sợi dây chuyền to như ba ngón tay. Cuối cùng, sư phụ Lão Xà mắc bệnh nặng. Trước lúc lâm chung, lão kể hết cho đồ đệ nghe chuyện mình đã ra tay hạ độc thủ cả đoàn thám hiểm Taninth như thế nào và cả chuyện thi thể họ cùng các trang thiết bị vẫn đang được cất giấu trong lòng núi.

Có điều, lão kể những chuyện đó không phải bởi lương tâm cảm thấy hối lỗi mà bởi lão hối hận, hối hận vì khi đó tầm nhìn quá nhỏ hẹp, cứ nghĩ bạc trắng, tiền đồng mới là tiền, vả lại lúc đó ăn cắp run tay, chẳng kịp để ý đến những thứ khác mà đào bới. Lão sư phụ nói với đồ đệ: “Vi sư ta cả đời làm thổ tặc, lại biết tuyệt kỹ tiêu lộc hái thuốc, nhưng cuối cùng vẫn là tên nhà quê chưa bao giờ được trông thấy thế giới bên ngoài.

Động huyệt dưới lòng đất mà ông Taninth tìm kiếm ở ngay dưới cánh rừng nguyên sinh m Hải Cốc, nơi sâu nhất có khe thông với mạch núi Âm Sơn. Trước đây, nghe các cụ nói, người chết thành ma, nếu lúc sinh thời đức hạnh bại hoại, thì sau khi chết, vong hồn người đó sẽ bị nhốt dưới núi Âm Sơn, vạn kiếp không được siêu sinh, nơi nhốt âm hồn quá nửa chính là chỗ này.

Ông Taninth không tin chuyện ma quỷ. Trước khi hành sự, ông ta còn chuẩn bị rất chu toàn, từ bản đồ đến vũ khí, không thiếu một thứ gì, các thành viên trong đội thám hiểm cũng là những tay cừ khôi hạng nhất. Tiếc là, lúc đó vị sư thấy mấy sợi dây vàng, nên nhất thời nổi lòng sát sinh, không át chế được tà niệm, còn nếu đợi đến khi đội thám hiểm Taninth đào được mấy món hàng ngon dưới lòng đất lên mới ra tay giết người, rồi sau đó mang hàng đến Nam Dương tiêu thụ, thì bây giờ thử hỏi cuộc đời ta còn huy hoàng đến độ nào?” Sư phụ nói xong thì uất ức tắt thở.

Lúc đó, Lão Xà bắt đầu ghi nhớ chuyện này, nhưng mãi không tìm được cơ hội ra tay. Sau đó, gã phát hiện thấy bộ đội công trình bí mật xây dựng kho pháo quân sự lõi kép trong lòng núi, thì thấy càng khó tiếp cận hơn. Mãi đến khi gã “tiêu lộc” thất thủ, cũng không thể tiếp tục làm ăn trong lâm trường, gã liền hạ quyết tâm phải tìm mấy món hàng lớn trốn đi Nam Dương, nên lập tức bắt tay chuẩn bị.

Đầu tiên, nhờ vào các mối quan hệ, gã mò mẫm được kết cấu kho pháo quân sự lõi kép, biết vỏ ngoài nhà kho đã bị nứt vỡ, gã liền đục lỗ chui vào đó từ chỗ giáp ranh với mạch nham thạch trên núi. Ngoài ra, gã còn dò hỏi được một số tin tức từ các thanh niên trí thức trong lâm trường.

Trong đám thanh niên, không ít người từng đến vùng duyên hải Quảng Đông, khi tham gia phong trào hồng vệ binh do học sinh sinh viên phát động. Nghe mấy người đó kể: “Vượt biển trốn sang Hồng Kông là phương thức thường thấy nhất, không cần lo lắng sóng to gió lớn gì, càng không sợ tàu nhanh của bộ đội biên phòng tuần tra đâm chết, anh chỉ cần cho ngư dân tí lợi, là họ dám đưa anh vượt biển thông đêm.

Nếu gặp thời tiết thuận lợi, dù không biết bơi cũng cứ việc ôm gối hơi mà bồng bềnh một mạch đến Hồng Kông. Mặt biển ở đó bao la, làm gì có chuyện đen đủi đến mức đụng độ với cảnh sát tuần trên biển được? Rất nhiều gia đình con em phần tử cánh hữu, không chịu nổi sự xung kích của xã hội, đều trốn sang Hồng Kông theo con đường này, họ còn nói dự định sẽ sang bên đó tổ chức vũ trang khởi nghĩa lật đổ ách thống trị thực dân, nhưng người ra đi cũng không ít mà vẫn bặt vô âm tín, tuyệt không thấy động tĩnh gì, có lẽ họ đều lẩn trốn, lặng lẽ ngồi chờ cao trào của cách mạng thế giới”.

Lão Xà đâu dám cả tin, bảo chạy sang Hồng Kông không phải chuyện khó, sao ngư dân bản địa lại không đi? Trong lâm trường, núi thì cao mà hoàng đế lại ở xa, những thanh niên trí thức đó không cần húy kỵ gì cả, nói toẹt tình hình thực tế cho hắn nghe: “Marx đã chỉ ra – bản chất của chủ nghĩa tư bản là người ăn thịt người, anh là ngư dân, qua bên đó anh vẫn chỉ là thằng ngư dân, ăn no vác nặng thì qua bên đó cũng vẫn là ăn no vác nặng, người không tiền không quyền sống ở đâu mà chẳng khó khăn; điểm khác biệt duy nhất chính là một số người qua bên đó, vận may cũng khởi phát hơn một chút, nhưng nhân dân bách tính phổ thông đi đâu mà chẳng phải kiếm cơm qua ngày? Bởi vậy, trừ khi không còn con đường nào khác, phần đông người ta vẫn chọn lựa cuộc sống an phận thủ thường”.

Lão Xà rốt cuộc vẫn là kẻ chưa bao giờ bước chân ra khỏi ngọn núi, nên lòng hoang mang vô kể. Gã nghe đồn lúc đêm khuya có thể thu sóng đài địch, nên định trước khi hành sự sẽ thử nghe ngóng tình hình bên đó, chẳng ngờ lại bị người ta phát hiện và báo cáo tổ chức, rồi tuy không có bằng chứng trực tiếp, nhưng vẫn chịu sự quản chế nghiêm ngặt.

Thế là gã giả chết để trốn vào trong núi, mãi đến khi lâm trường số ba xảy ra hỏa hoạn, mọi người đều bị điều đi đào rãnh phòng hỏa, gã mới nhân cơ hội này lần mò đến trạm thông tin. Tên dân binh gác rừng trong đó trước đây từng chơi xấu gã, mối hận ấy gã ôm trong lòng đã lâu, nay hạ thủ không thương xót chút nào.

Sau đó, gã lập tức bắt tay đào địa huyệt, nhưng một người làm công việc nặng nhọc như vậy quả thực có chút lực bất tòng tâm, thời gian không tránh khỏi bị kéo dài thêm đôi chút, rồi mắt thấy sắp thành công đến nơi mà đội thông tin đến sửa máy điện đàm lại kéo đến đứng ngay trước cửa.

Gã ghé nhìn qua cửa sổ, trông thấy có người đến, nên đành tạm thời trốn trong địa huyệt, không ngờ nhóm người này đầu óc tỉnh táo, hành sự thận trọng khác thường. Thấy rằng nếu đội này còn tiếp tục lục soát, không chừng sẽ phát hiện thấy địa huyệt chôn xương cốt của đội thám hiểm Taninth bất cứ lúc nào, nên không nhịn được, gã liền thử thương lượng với đội thông tin.

Lão Xà nói rõ ràng: nếu đội thông tin không bỏ qua cho gã thì lập tức gã sẽ kích nổ đạn pháo để mọi người cùng xuống hoàng tuyền, còn nếu chịu nhắm một mắt, mở một mắt, để gã mang bản đồ của đội thám hiểm Taninth đi, còn đội thông tin lập tức rút lui theo đường cũ, thì hai bên coi như chưa ai nhìn thấy ai… Mấy lời của Lão Xà làm cậu dân binh Hổ Tử điên ruột, cậu ta ỷ thế mình xuất thân là thợ săn, kỹ thuật bắn súng cừ khôi, hạ gục không biết bao nhiêu hổ báo, nên không đợi đối phương nói hết câu, liền bất ngờ bóp cò.

Lão Xà vừa vặn đứng trong phạm vi phát nổ của khẩu súng săn, rồi chỉ nghe “đoàng” một tiếng, trong thời gian chớp giật như thế, gã làm gì có cơ hội trốn thoát. Lúc đó, Lão Xà bị đạn bay xuyên qua ngực, chiếc đèn dầu rơi chỏng chơ trên mặt thùng đạn, vỡ vụn. Mồi lửa liếm đất bùng cao đến ngang thắt lưng.

Chia sẻ
Loading...
Loading...
Loading...
Chia sẻ
Danh sách chương
Loading...
Loading...
Loading...
Thể loại
Tìm kiếm
Loading...
Loading...
Loading...
Lọc truyện