Chương 8: Hoàng Kim Linh Chi
Tôi cùng Tuyền béo nhìn ra ngay, hai tên thợ săn này ngoài miệng thì ba hoa chích chòe sáo sậu như vậy, nhưng ngay cả đến một phong thư giới thiệu cũng không có, còn giả mạo nói gì mà mình là “Đả Quan Vi” này nọ, đơn giản chỉ là muốn lấy được hoàng kim linh chi trong ngôi cổ mộ kia mà thôi! Tương truyền trong cổ thư có nhắc đến rằng “Hùng cứ lang cố đích thị là ác tướng”, tuy nói đó chỉ là những lời mê tín của cổ nhân, nhưng tôi không hiểu sao nhìn thế quái nào cũng thấy hai tên này đếch phải là người tốt. Cho dù bọn chúng có nói thật đi chăng nữa, hứa sẽ cho chúng tôi những chỗ tốt kia, tỉ như lập công luận thưởng, cho là chúng tôi sẽ vì thế mà nguyện ý nghe theo, vậy há chẳng phải là coi thường anh em chúng tôi quá, tuy rằng hai thằng cũng thòm thèm đống thuốc lá siêu cấp hiệu “Chiến Đấu” kia lắm nhưng mà không thể để người ta coi mình là hạng tiểu nhân mới thấy tí lợi mà đã mù hai con mắt được. Càng muốn đẩy cho chúng tôi, thì chúng tôi càng cố chấp, cứ như vậy mà làm cao!
Cuối cùng tôi đành dứt khoát cho hai vị đây một câu trả lời: “Không biết là hai vị Đả Vi Quan đây là từ nơi nào nghe được tin tức này, hoặc là hai vị đã nghe nhầm, hoặc là đã tìm lộn người mất rồi, ban đầu quả thật chúng tôi ở nông trường số 17 đã từng gặp phải bão tuyết lớn cùng với đàn sói hoang từ Siberia kéo đến, chuyện đó không hề bịa đặt, sau đó mấy người trên đường bỏ chạy có chui lạc vào một cái động hồ ly, nhờ thế mới nhặt được cái mạng rách trở về, chỗ đấy nào có phải là cổ mộ thời Liêu gì đâu chứ! Hoặc giả như này nhé, cứ cho là chúng tôi có chui vào được một ngôi cổ mộ như mọi người nói đi, rồi cũng từng nhìn thấy trong mộ có một gốc hoàng kim linh chi, chúng tôi lại chẳng phải là kẻ ngu gì đúng không, làm sao lại không nhận ra giá trị của nó chứ? Lúc ấy tại sao không hái xuống mang theo ra ngoài luôn? Nghe có hài hước không?” Bọn họ tin cũng được, không tin cũng được, có hỏi đi hỏi lại tôi cũng vẫn sẽ chỉ nói như vậy thôi.
Thật vất vả mãi mới đuổi được hai tên thợ săn này đi, tôi cùng Tuyền bèo liền nhỏ giọng thầm thì, thống nhất đường lối đối ngoại, từ nay về sau nếu còn có ai tới hỏi mấy chuyện này nữa, thì đáp quách là ngày ấy do hai thằng uống nhiều đâm ra say quá nên nói linh tinh, chớ có tin là thật. Cứ tưởng rằng như vậy sẽ đối phó xong với mấy người sau tìm tới, chúng tôi sẽ không bị làm phiền nữa, ai ngờ mới chỉ có hai ngày thôi, Lục Quân vốn đang tham gia sản xuất ở hạ nguồn Hắc Thủy Giang lại đột nhiên chạy tới, hắn đã thế lại còn mang theo một đống tin tức ngoài ý muốn! Cái này là từ lúc vẫn còn trong biên chế của binh đoàn nông khẩn và phòng thủ nông trường số 17, Lục Quân cùng Tiêm Quả hai ngươi bị phân về hạ nguồn Hắc Thủy Giang để làm việc: Thanh niên trí thức về Đại Hưng An Linh tham gia sản xuất so với khi ở binh đoàn khai hoang thoải mái hơn rất nhiều lần, bởi vì toàn là mấy người chân yếu tay mềm, chả có mấy sức để mà làm việc, những lúc bình thường, ngươi trong thôn chỉ an bài cho đám thanh niên độc có hai nhiệm vụ, lúc ấy có câu “Nhất đẳng hán tử khán thanh, nhị đẳng hán tử bộ thử”. Nói trắng ra, tôi cùng Tuyền béo ở thượng nguồn Hắc Thủy Giang trông coi hoa màu, cái này chính là “khán thanh”, nhiệm vụ này là đơn giản và thoải mái nhất, cả ngày chỉ có ngồi trong chòi mà căng mắt ra trông chừng mấy luống rau, chẳng phải động tay động chân mấy, chán thì lại thay ca đi ngủ hoặc ngồi bốc phét. Ở chỗ khác á, nếu mà không phải là “hoàng thân quốc thích” hay “con ông cháu cha” thì cũng đừng hòng mà có được cuộc sống an nhàn như hai thằng tôi. Còn nhiệm vụ thứ hai là chính là đi diệt chuột, bởi vì năm 1910, Mãn Châu bị dịch chuột hoành hành, tình hình bệnh dịch như nước lũ vỡ đê cuốn qua khắp toàn bộ vùng Đông Bắc, thậm chí còn ảnh hưởng đến tận Hà Bắc lẫn Sơn Đông, người chết đếm không xuể, sau đó Ngụy Mãn Châu cũng bị hai lần dịch chuột tấn công, vẫn như trước, xác chất đầy đồng, thây phơi thành đống, lòng người bàng hoàng hoang mang, cho nên thẳng đến thời điểm năm 1969 khi chúng tôi bị điều đi sản xuất, diệt chuột vẫn là một nhiệm vụ trọng yếu hàng đầu. Tuy nói là trọng yếu nhưng không có nghĩa quá khó khăn, chỉ có mỗi việc bỏ thuốc kết hợp với đặt bẫy, hết!
Chuột ở vùng hạ nguồn Hắc Thủy Giang tương đối nhiều, Lục Quân bọn họ phần lớn đều bị phái đi diệt chuột. Đến lúc này cuộc sống của bầy chuột liền trở nên xui xẻo, thanh niên tri thức tất cả đều là mấy ông thần trẻ trâu mới mười bảy, mười tám tuổi, người nào người nấy sức dài vai rộng, cả ngày chỉ tìm cách sao cho bẫy được nhiều chuột nhất, thề phải đem cái bọn phản động “trộm lương thực của xã hội chủ nghĩa” này quét sạch không còn một mống. Mà thợ săn ở mấy thôn quanh dòng Hắc Thủy Giang, đối với sự xuất hiện của bầy chuột thì lại không để ý mấy, bởi vì theo tập tục mê tín ở vùng Đông Bắc này, chuột cũng là một vị “đại tiên gia” a, đứng hàng thứ tám trong Bát tiên thượng địa, cho nên còn được gọi là lão Bát. Nửa đêm mà nghe thấy tiếng chuột gõ gõ trên trần nhà, thì liền dập đầu mà khấn, vì lúc ấy “Đại tiên gia đang kiếm tiền”, chớ kinh động ngài phát tài. Còn có người thấy ở cạnh sông có con chuột đangcưỡi trên lưng một con cóc to, liền nói đó là sủng vật tọa kỹ của đại tiên gia, sau khi thấy thường thường sẽ quỳ rạp người xuống dập đầu mà lạy, cẩu khẩn đại tiên gia phù hộ độ trì, vì đối với họ, đại tiên gia mà cưỡi được cóc, vậy tức là đạo hạnh quá sâu đi, bét nhất cũng phải hai trượng a! Thế nhưng đấy lại hoàn toàn không phải là chuyện bịa đặt, đám người Lục Quân bọn họ ban đầu cũng chỉ cho là truyền thuyết dân gian xạo quần mà thôi, nhưng về sau lại thấy tận mắt, hơn nữa còn thấy mấy lần liền!
Lục Quân ngày thường hay xem nhàn thư, chẳng mấy khi lại nguyện ý dùng đầu óc mà suy nghĩ như bây giờ, hắn phát hiện ở hạ nguồn Hắc Thủy Giang có rất nhiều cua, cóc nhái cũng nhiều, khu vực này chuột núi chuột đất thường xuyên ăn cóc. Ngoài ra trong nước còn có không ít ruồi muỗi, côn trùng kể không hết tên, thành ra cóc nhái thức ăn dồi dào, con nào con nấy to vật vã. Bọn chuột thường thừa dịp cóc chưa chuẩn bị, liền nhào tới nhảy lên lưng, từ phía sau cắn vào cổ cóc, con cóc bị răng chuột cắm vào da thịt đau quá nhưng không làm gì được, lúc này mới vác chuột trên lưng mà nhảy loi cha loi choi, người không biết gì thấy cảnh tượng này liền bị dọa sợ, thật ra thì căn bản không phải gì mà đại tiên gia với chẳng đạo hạnh nông sâu. Lục Quân dẫn đầu đám thanh niên tri thức tổ chức tuyên truyền, đập tan những truyền thuyết mê tín dị đoan gây ảnh hưởng đến quần chúng nhân dân. Ở Hắc Thủy Giang này, có nuôi rất nhiều chó săn, vì đa số người trong thôn đều là thợ săn, cho nên nhà nào cũng phải có ít nhất năm, sáu con, đến mùa săn thì sẽ dẫn theo lên núi, còn đâu thì để trông nhà, những lúc như vậy Lục Quân lại lôi chúng ra dạy cho mấy chiêu đào hang bắt chuột. Dưới sự hướng dẫn của hắn, toàn bộ thanh niên tri thức lẫn chó săn trong thôn cùng nhau phát động đợt tổng tiến công diệt chuột quy mô chưa từng thấy, xem chừng dăm bữa nửa tháng nữa bọn chuột cũng chưa dám quay lại phá phách.
Đám người thanh niên ấy cảm thấy lăn qua lăn lại chưa đủ, sức trâu sức bò của tuổi đôi mươi chẳng có chỗ nào để phát tiết thành ra tay chân ngứa ngáy khó chịu, lần này lại có việc để làm nên ai cũng rất hứng khởi, cứ thấy hang chuột là lao đến đổ nước sôi, hun khói cay, nhưng bọn họ lại quên mất không phải cái hang nào trên núi cũng là hang chuột! Buổi trưa hôm nay, mấy người ở trên núi tìm được một cửa hang, đang định đổ nước vào ngập bên trong để lùa chuột ra như mọi lần, không ngờ tới trong hang đột nhiên lại chui ra hẳn một con đại xà to lớn! Trên đỉnh đầu mọc ra một cái mào thịt đỏ hỏn, thân nó phải dài hơn 1 mét, bộ vảy óng ánh đủ màu sắc rực rỡ, cái miệng há to thè ra chiếc lưỡi dài, phun ra một làn khói sương dày đặc nồng đậm, ba người đứng phía trước nó lập tức hít phải, bị làn khói ấy làm cho chân tay mềm nhũn, đồng loạt ngã oạch ra đất. Thật may lúc ấy vừa vặn có một tay thợ săn trong thôn đi qua, thấy tình hình của đám thanh niên trí thức, vội vàng giương súng bắn chim nhắm thẳng vào con quái xà, bắn chết! Mà ba người kia sau khi hít đầy một hơi khí độc, tính mạng bây giờ xem ra rất nguy kịch, miệng mũi máu đen chảy ra ròng ròng không ngừng. Ba người trúng độc ấy có hai gái một nam, trong đó có Tiêm Quả!
Tay thợ săn kia nói cho mọi người biết, đó là một con ngũ bộ xà, độc tính vô cùng mãnh liệt, nếu như bị nó trực tiếp cắn phải, đi được chưa đầy 5 bước chân liền sẽ chết luôn! Ba người Tiêm Quả mặc dù chỉ bị nó phun khí độc vào người, nhưng cũng lành ít dữ nhiều, hơn nữa còn không thể mang xuống núi được vì như thế sẽ khiến mấy người họ mất máu nhanh hơn. Tôi và Tuyền béo vừa nghe xong liền bật dậy ngay tức khắc, Tiêm Quả là chiến hữu cách mạng thân thiết của chúng tôi, đã từng đồng sinh cộng tử vượt qua khó khăn ở nông trường số 17, trở nên thân thiết như huynh đệ tỷ muội một nhà, hừ, nếu không phải do thằng ôn con Lục Quân này ăn no dửng mỡ, lại sợ thiên hạ không loạn, đem mấy người bọn họ lên núi diệt chuột, thì làm sao Tiêm Quả có thể xảy ra chuyện không may cơ chứ! Hai thằng tôi lúc ấy hận không thể trực tiếp chạy tới hạ nguồn Hắc Thuỷ Giang để xem xem tình hình của Tiêm Quả ra sao rồi, nhưng rồi chợt nghĩ lại, chúng tôi giờ có chạy đến thì cũng chưa chắc đã làm được gì. Chuyện đã tới nước này, ba người tôi, Tuyền béo và Lục Quân đều không hẹn mà gặp, cùng nghĩ tới gốc hoàng kim linh chi sinh trưởng ở trong ngôi cổ mộ sâu trong núi kia, nghe Đại Hổ và Nhị Hổ nói, đó chính là chí bảo có thể giúp người ta cải tử hoàn sinh, tiễu trừ bách độc, không biết chừng lại có thể cứu mạng được Tiêm Quả cùng hai người kia!
Ba người chúng tôi suy nghĩ một hồi, con hồ ly dẫn chúng ta vào trong cổ mộ bây giờ đã chết rồi, người chết thì như đèn tắt, hồ ly há chẳng phải cũng là thế sao? Trước mắt việc cứu người vẫn là quan trọng hơn, cùng lắm thì mang mấy con gà giấy vào đốt cho con hồ ly cho lòng đỡ phải vướng bận. Ba người sau khi đã quyết định chủ ý xong, vội vã thu thập đồ dùng các thứ cần thiết, chuẩn bị tiến vào núi tìm cổ mộ, lấy hoàng kim linh chi. Trăn Tử không chỉ là người lớn gan lớn mật, mà còn rất tò mò hiếu kỳ, cô nàng cứ đòi nằng nặc đi theo đến ngôi mộ trong Hắc Sơn Đầu kia, muốn nhìn qua một chút bức bích hoạ cửu vỹ hồ ly cùng gốc hoàng kim linh chi kì lạ xem hình dạng ra sao. Trăn Tử vốn là một thợ săn, nắm rõ khu vực Đại Hưng An Lĩnh này trong tay, từ Hắc Thuỷ Giang xuất phát tiến về phía trước tìm đến ngôi mộ nhà Liêu phải trèo qua ba núi bốn đèo, đường đi lọt thỏm trong rừng rậm, ngẩng đầu lên cũng không thấy ánh mặt trời đâu, nếu không có Trăn Tử dẫn đường thì chúng tôi xem chừng sẽ không dễ dàng vượt qua được. Hơn nữa từ nhỏ đã theo cha vào sâu trong rừng già săn thú bẫy chim, thân thủ hết sức bén nhạy, vạn nhất gặp phải nguy hiểm gì, Trăn Tử cũng có thể tự mình phòng vệ không thành vấn đề, thế là tôi bèn đồng ý cho cô nàng được gia nhập đội chúng tôi. Bởi vì hầu như mọi người trong thôn đều đã lên núi tham gia đợt săn thú đầu năm, chó săn cùng súng chim cơ hồ đều bị mang đi hết sạch, trong rừng sâu núi thẳm có nhiều độc trùng mãnh thú thường xuyên qua lại, vạn nhất mà gặp phải gấu đen gấu chó sẽ không dễ gì mà đối phó, cho nên ít nhiều vẫn phải dắt theo vài món đồ để mà phòng thân.
Thời kỳ quân Nhật còn chiếm đóng Trung Quốc, bọn chúng liền cho xây dựng một doanh trại đóng quân cùng một phi trường nhỏ sâu trong núi. Sau này nhân lúc hồng quân Liên Xô kéo sang càn quét, đánh tan phát xít Nhật cút trở về nước, lão hương nơi đây bèn thừa dịp hỗn loạn mà cướp lấy kha khá đồ của đám quân Nhật, coi như bảo bối đem giấu kỹ vào trong hầm trú ần. Trăn Tử chẳng tiếc gì cả, chui vào trong hầm đào lên một chiếc rương đã cũ của cha nàng, tìm được cho chúng tôi mấy bộ quân tư trang cùng vài món đồ cần thiết. Mỗi người đầu đội một chiếc mũ quân dụng làm từ da chống va đập của quân đội chính quy Quan Đông, chân đi một đôi giày lính lót bông to sụ, bốn người vũ trang đầy đủ lên người, lại đeo thêm một chiếc thắt lưng da, trước ngực không quên mang huy hiệu “Thanh niên tri thức”, trên lưng khoác theo một chiếc balo cùng với bi-đông đựng nước, tuy hơi chắp vá lung tung một tí, nhưng xem chừng cũng khá oai phong lẫm liệt đấy chứ! Trăn Tử mang theo cùng tên để phòng thân, tôi cùng Lục Quân mỗi người vác theo một cây đinh ba. Hiện tại trong thôn bây giờ ngay cả một cái cán súng bắn chim cũng chẳng có, chúng tôi đứa nào cũng lo lắng sẽ đụng phải gấu đen, giờ mà tay không tiến vào trong núi, cứ cảm thấy ghê ghê. Cuối cùng dưới sự xúi giục và năn nỉ của tôi và Tuyền béo, Trăn Tử đành phải đến nhà cậu Tư mượn lấy khẩu súng săn cũ cậu vẫn cất kỹ dưới đáy rương, cây súng chỉ có một nòng, bắn phát một, con mẹ nó chứ, thứ đồ chơi cổ lỗ sĩ này đáng ra nên vứt vào trong bảo tàng rồi mới phải! Đây là dạng súng được sửa đổi từ súng trường 22 thời kỳ chiến tranh Nga-Nhật, đã bị phủ bụi nhiều năm chưa từng lấy ra sử dụng lại, đạn dược chỉ còn đủ chừng cho mười phát bắn, phương ngôn vùng này gọi nó là “đồng pháo”. Nói cho cùng, có còn hơn không! Súng săn được giao cho Tuyền béo giữ, ngoài ra còn có một thanh chiến đao của quân Đông Quan thì tôi đeo ở trên lưng. Tôi lại đua cho Tuyền chiếc ngọc khuyết lấy được từ trên người cái xác khô trong cổ mộ đeo lên làm hộ thân vật.
Toà cổ mộ thời Liêu kia dù sao cũng đã sớm bị khoắng sạch, ngay cả một cái quan tài cũng chẳng thấy đâu, Tuyền bèo cảm thấy không cần đem theo Âm Dương ô, đinh đóng quan hay bát mực chu sa làm gì cho nó lỉnh kỉnh, có khẩu súng săn này trong tay cộng thêm chiếc xẻng công binh đã là quá đủ để phòng thân rồi, chỉ đem chiếc ngọc khuyết tôi đưa cất vào trong ngực. Bốn người đem balo chia nhau ra mang mấy món “lương khô, mồi lửa, dây thừng, đèn bão, xẻng công binh”, mỗi người còn quấn theo một bộ áo da hươu bên ngoài, chỉ có duy nhất một chiếc đèn pin cũng mang theo nốt, từ Hắc Thuỷ Giang bắt đầu xuất phát tiến vào dãy Đại Hưng An Lĩnh trập trùng rừng núi rậm rạp, đi tìm hoàng kim linh chi bên trong toà cổ mộ bị quên lãng.
Trong rừng sâu núi thẳm, thứ nhất là không có lấy một bóng người, thứ hai là ngay cả một con đường để đi cũng không thấy, trên mặt đất rụng đầy thành từng đống từng đống lá tùng già, thảm thực vật nơi đây phân bố rải rác theo từng tầng từng lớp khác nhau so với độ cao của mực nước biển, hoa dại cỏ bụi giăng đầy khắp núi, thứ duy nhất có thể bắt gặp chính là chim muông cùng thú vật. Đứng giữa cánh rừng rậm rạp này, dễ làm cho người ta sinh ra cảm giác mình là một con kiến nhỏ bé, đang lạc trong một không gian bao la bát ngát đại ngàn. Khắp nơi tùy ý đều có thể trông thấy những cây gỗ to khổng lồ đã mục nát cùng những ngọn cây xiêu vẹo đổ ập chắn ngang mặt đất, ngoài ra còn có tầng tầng lớp lớp cỏ cây cành lá héo úa đã được tích lũy qua không biết bao nhiêu năm tháng, thậm chí nhiều chỗ đã sớm bị mục rữa hoàn toàn, chỉ cần vô tình dẫm phải sẽ lập tức bị sa lầy, chỉ có cách là đi vòng qua mà thôi, một đường cứ phải lượn hết bên này lại tránh sang bên nọ, đừng nói là không có bản đồ nên đường đi mới khó khăn như thế, con mẹ nó chứ, kể cả có nó ở đây cũng đếch thể nào dùng được, hoàn toàn dựa vào Trăn Tử dẫn đường. Dọc đường ngoài việc phải đề phòng mãnh thú hung dữ lao ra tấn công, còn phải coi chừng các loài độc trùng cùng rắn rết, cái thứ đồ chơi chết tiệt ấy không phải càng lớn càng nguy hiểm giống mãnh thú, mà ngược lại. Truyền thuyết có kể lại rằng, trong cánh rừng rậm nguyên sinh này, có một loài rắn nhỏ dài còn chưa tới 1 tấc (Trans: 1 tấc u003d 10 cm), độc tính rất yếu, cũng không có răng nanh như các loài rắn khác, nhưng cái đáng sợ của nó chính là việc nó sẽ thừa dịp lúc con người ngủ say mà dùng lưỡi đưa vào hai lỗ mũi, hút lấy dịch não, trong nước bọt của nó có chứa một loại hoạt chất có thể gây tê liệt thần kinh trung ương, kể cả có bị hút sạch não cũng không biết gì, vĩnh viễn không tỉnh dậy được nữa, vì thế khi đi rừng cần phải thay phiên nhau nghỉ ngơi, tránh lơ là mất cảnh giác. Đoàn người chúng tôi vượt núi băng đèo, xuyên qua biển rừng mênh mông, đói thì hái trái cây rừng ăn, khát thì vục nước suối uống, hai ngày sau, cuối cùng cũng đã tới được Hắc Sơn Đầu.
Mấy người chúng tôi trèo lên một đỉnh núi cao, ngó nghiêng quan sát khắp bốn phía, vừa nhìn liền thấy một bên là cánh đồng hoang vu vô tận, một bên là quần sơn nguy nga tráng lệ, núi non cây cối trùng trùng điệp điệp tựa như sóng biển bồng bềnh. Tuyền béo và Lục Quân đều há hốc miệng vì sững sờ, chỉ nhớ là tòa cổ mộ kia nằm đâu đó trong một khe núi dưới kia, lúc từ trong mộ chui ra được bên ngoài chỉ thấy biển rừng hoàn toàn bị băng tuyết trắng xóa bao phủ, khác xa với hình ảnh trước mắt, lối vào chỉ là một cái đạo động được chuột đất đào ra. Chu vi của Hắc Sơn Đầu ít nhất cũng phải chừng vài chăm dặm, có biết bao khe núi rãnh đèo, mà cái nào cái nấy cứ na ná nhau rất khó để phân biệt, với tình hình này mà muốn tìm được lối vào cổ mộ thì thật chẳng khác gì mò kim đáy bể. Trăn Tử tuy là một tay thợ săn lành nghề lớn lên ở vùng Đại Hưng An Lĩnh này, chỉ có thể giúp chúng tôi đi tới Hắc Sơn Đầu, còn việc tìm vị trí cổ mộ các thứ thì hoàn toàn mù tịt, hai tên ăn hại kia cũng thế, đều thúc thủ vô sách (Trans: Bó tay, không có cách nào cả)!
Tôi không chỉ một hai lần hồi tưởng lại những gì mà chúng tôi đã trải qua ở ngôi cổ mộ ấy, thứ nhất là vì ngôi mộ này có rất nhiều điểm đáng nghi khó lý giải, thứ hai là tổ phụ tôi ngày trước cũng đã từng làm chuột đất, ngài còn bắt tôi phải ghi nhớ thật kỹ “Lượng Kim Thước”, đặc biệt là thuật tầm long trong đó, thuật ấy tóm gọn không ngoài tám chữ “Ngoại quan hình thế, nội phân âm dương”. Tầng lớp quyền quý thời cổ đại khi tiến hành mai táng chôn cất đều rất để ý, chú trọng đến hình thế âm dương, nói trắng ra chính là muốn tìm lấy một phong thủy bảo địa để mà hạ táng, phong thủy bảo địa phần lớn đều là ở trên long mạch. Bí thư “Lượng Kim Thước” có nói: “Thiên lý vi thế, bách lý vi hình, thế lai hình chỉ, tự thành âm dương”. Cái gọi là âm dương khí, chính là sinh khí tồn tại trong đất, cũng được gọi với tên khác là long khí, khí mà thăng thì sẽ thành mây, khí mà hàng thì sẽ làm mưa, cho nên mới có câu nói “Táng giả thừa sinh khí” (Trans: Chôn người phải lựa theo long khí, nơi khí phát thì đời sau giàu sang phú quý, nơi khí suy thì bần hàn nghèo túng). Tôi liền nhớ tới khẩu quyết của bí thuật phân kim định huyệt: “Tung đại khán tiểu, do cao đáo đê, tiên kiến thiên địa, tái vọng long mạch” (Trans: Quan sát từ cái lớn tới nhỏ nhỏ, từ cao đến thấp, trước quan sát trời đất, sau mới tìm long mạch), không thể chỉ nhìn chằm chằm vào một ngọn núi này được, thế là tôi bèn hướng mắt ra xa quan sát xung quanh, chỉ thấy trời đất mênh mông rộng lớn, từng đạo long khí kéo dài từ phía Đông tới, đó là chín dãy núi non trập trùng nối tiếp nhau, vây lấy ngọn Hắc Sơn Đầu này, tựa như đang quy tụ về phía Tây. Hình thế của Hắc Sơn Đầu vừa khoáng đạt lại vừa kín kẽ chính trực, khắp nơi bốn phía đều được che chở bảo hộ, giống như một cố bảo liên ngự xa của Hoàng Đế, trong âm dương phong thủy được xưng là “Cửu long đài ngọc liên” (Trans: Chín con rồng nâng ngọc liên, liên ở đây là chỉ một loại xe chuyên dụng dành cho vua), thậm chí còn được coi là tôn vương bảo địa.
Tôi mặc dù sớm đã thuộc làu làu bí thư “Lượng Kim Xích”, từng câu từng chữ trong đó nắm rõ như lòng bàn tay, nhưng cảm thấy chúng cũng chẳng có ích lợi gì lắm, cùng lắm trong giấc mơ có suy nghĩ một chút về chúng, mà nay nhìn ra hình thế “Cửu long đài ngọc liên” trước mắt, mới nhận ra thuật phân kim định huyệt nào phải chuyện đùa hay trò tà đạo, thật sự có thể thông qua những khẩu quyết trong đó đem từng ngọn núi lớn nhỏ ra nhìn thấu! Nếu đã nhìn thấu được hình thế thì việc tìm ra cổ mộ bị chôn sâu trong núi không còn là vấn đề gì to tát! Tôi chỉ vào một khe núi hình móng ngựa ở phía Bắc đang ngoảnh mặt về hướng Nam, nói với ba người kia: “Cửa vào tòa Liêu mộ kia chính là ở chỗ này!” Mấy người họ cứ tưởng trí nhớ của tôi quá tốt, nhớ được cả vị trí của đạo động, rối rít khen ngợi, tôi cũng kệ không giải thích gì cả, tránh cho sau này rượu vào lời ra người ta lại cho là tôi mê tín dị đoan, việc trước mắt vẫn nên là mau mau tiến vào cổ mộ hái lấy gốc hoàng kim linh chi kia!
Một nhóm bốn người chúng tôi trèo từ trên núi xuống, vạch đường tìm lối vượt qua từng tầng lá cây cỏ dại chặn trước mặt, quả nhiên thấy được đạo động. Trong đầu tôi lại chợt nhớ lại những gì đã xảy ra trước kia trong ngôi cổ mộ này, kẻ gian trộm mộ phơi thây trên đất, bích họa khổng lồ cửu vỹ hồ ly, mộ gạch tinh xảo cùng hoa văn trang trí bảo tương hoa, gốc hoàng kim linh chi sinh trưởng bên trong cổ mộ, cảnh con bái đáng sợ nhặt lấy điếu thuốc hút lấy hút để, tất cả hãy còn rành rành ngay trước mắt, nhưng lại thoáng như đã xa cách cả một đời người.
Theo như kế hoạch chúng tôi đã định ra lúc trước, chỉ cần không xảy ra chuyện gì ngoài ý muốn, một khi tìm được tòa Liêu mộ bên trong Hắc Sơn Đầu, sẽ lấy dây thừng thả vào, sau đó một, hai người sẽ bám dây mà leo xuống dưới, gỡ lấy gốc hoàng kim linh chi mọc ở trên tường, rồi lập tức quay trở lại Hắc Thủy Giang cứu mấy người kia. Khi tới được gần đạo động, thời gian không còn sớm. Tôi quyết định cắt cử Tuyền béo ở lại cửa hang để canh giữ, còn tôi sẽ mang Lục Quân cùng Trăn Tử leo xuống. Trăn Tử bèn hỏi làm sao lần trước chúng tôi lại có thể trèo lên trên thoát ra ngoài được vậy? Nhân lúc Lục Quân và Tuyền béo đi chuẩn bị dây để thả xuống, tôi miêu tả qua một lần cho Trăn Tử nghe về kết cấu của ngôi mộ, nắng đã sắp tắt, sắc trời tối dần, tôi liền mở đèn pin lên, mượn ánh sáng lôi ra quyển sổ, vẽ lên phương vị.
Ngôi mộ thời Liêu này tọa ở hướng Bắc nhưng lại ngoảnh mặt về hướng Nam, phân thành ba gian trước, giữa và sau, tương đương với tiền thất, trung thất và hậu thất, phía Nam thành tiền thất, phía Bắc làm hậu thất, giữa các gian của mộ đều có cửa động thông nhau, minh khí tùy táng được cất rải rác ở sáu phòng nhĩ thất, dựa hoàn toàn theo cách cục “một thông hai, hai thông ba”, đỉnh mộ cách mặt đất ước chừng 30 thước. Lúc ấy chúng tôi từ nông trường số 17 chui qua một khe hở trong địa câu, vượt qua động hồ ly, từ hướng Tây Nam tiến được vào trong trung thất của ngôi mộ này, thấy một xác chuột đất chết từ tận mấy chục năm trước nằm phủ bụi trên đất, lại nhìn xung quanh, trước sau trái phải mỗi bên có một đạo môn hình vòng cung, chia ra thành hai lối dẫn đến hai gian nhĩ thất, cùng lối trước lối sau của ngôi mộ.
Trong mộ thất lúc bấy giờ tối mò mò như hũ nút, chúng tôi chẳng thể nào phân biệt được đâu là Đông Tây Nam Bắc cả, chẳng còn cách nào nữa, đành đi theo dấu máu của hồ ly lưu lại trên cửa chui vào hậu thất. Hậu thất chính là mộ chính, ở trên bức tường phía cuối gian phòng là một bức bích họa cửu vỹ hồ ly khổng lồ, hai bên cũng có hai gian nhĩ thất, gốc hoàng kim linh chi mọc ngay ở phía trên bích họa kia. Chúng tôi vừa mới thấy nó, còn đang mải ngắm nghía thì đột nhiên phát hiện ra con bái trong bầy sói hoang kia chẳng biết đã đi theo vào từ lúc nào, hai bên liều mạng với nhau ngay trong mộ. Con bái đó bị chúng tôi lột mất một mảng da thịt lớn, vội vã quay đầu bỏ chạy vào trong đạo môn thông với trung thất, không nghĩ tới đạo môn lại bất ngờ sụp đổ, chôn sống nó ở dưới, đồng thời cũng chặn luôn lối dẫn tới gian phòng cũ. Mấy người bèn tìm kiếm thì thấy phía trên nhĩ thất ở hướng Tây có một đạo động mà tên chuột đất kia đã đào ra để chui xuống, nhờ có nó mà mọi người thoát được ra ngoài. Thủ đoạn đào đạo động của hắn hết sức cao minh, kỹ thuật nện đất cũng rất lợi hại, trải qua hàng mấy chục năm mà vẫn vững chắc chỉnh tề như cũ, không hề thấy có điểm nào xuống cấp cả. Vị trí đào vào nhằm ngay hướng chính Tây, đâm nghiêng hơi xiên chéo, thế đi không nhanh không chậm, như thế mới có thể bò ra bò vào dễ dàng không gặp trở ngại. Đạo động này không đào xuyên thẳng vào mộ chính, bởi vì hắn đã nhìn ra ngôi cổ mộ này bị đất đá chôn vùi, kết cấu không còn bền vững nữa, chỉ có đào như kia mới là phương án thích hợp nhất. Người này trên cổ có đeo một miếng ngọc khuyết, lại có bí thuật phân kim định huyệt trong tay, cho nên mới dám một mình tiến vào ngôi mộ này, tới hôm nay chưa chắc đã có ai có thể đạt tới được bản lĩnh của hắn.
Tôi đem mọi chuyện đã trải qua lần lượt kể ngắn gọn cho Trăn Tử nghe, dặn cô ấy khi vào bên trong chớ có đi lung tung bậy bạ, coi chừng ngôi mộ này sẽ sụp xuống chôn sống cả lũ. Huống chi bản thân ngôi mộ này có rất nhiều điều kỳ quái khó lý giải, cũng không biết lai lịch của chủ mộ ra sao. Năm đó tên chuột đất kia đào đạo động chui vào rõ ràng là từ phía Tây, nhưng lại chết ở trung thất, nguyên nhân cái chết xem ra cũng quá là kỳ quặc đi. Tôi đoán rằng hắn sau khi chui được vào trong này, thấy gốc hoàng kim linh chi quý giá kia thì lòng tham nổi lên, nhất định phải đem được ra ngoài, ai ngờ lại bị hồ ly mê hoặc, thành ra mới chết một cách oan uổng. Chúng tôi không cách nào có thể khẳng định chắc chắn xem liệu có còn con hồ ly nào ở trong này hay không, đầu tiên là chúng tôi không muốn đối địch với chúng, sau là quả thật hồ ly rất khó đối phó, giống như con hồ ly ngày trước đã dẫn chúng tôi vào đây vậy, mặc dù không giống trong truyền thuyết gì mà thành tinh thành ma, nhưng mà nó lại có thể nghĩ ra việc trộm củi để khiến chúng tôi chết rét, từ đó có thể thấy được trình độ giảo hoạt của chúng đã sớm vượt qua phạm vi hiểu biết của con người. Nghe tôi nhắc đến hồ ly, Trăn Tử từ trong túi móc ra một hòn đá hình tròn, màu xanh xám đưa cho tôi. Tôi cầm trong tay, vân vê quan sát, bên trên hòn đá khắc đầy mật văn, có chút sáng bóng, bèn hỏi cô ấy đây là thứ gì vậy? Trăn Tử đáp lúc còn ở trong thôn, có chạy qua tìm cậu Tư hỏi xin một cái “cẩu bảo”. Cẩu bảo chính là hòn sỏi sinh ra trong ruột của chó, đường kính phải gần một phân, hơn nữa hình dáng lại bất quy tắc, không cụ thể, viên cẩu bảo mà Trăn Tử đem tới tròn lẳn như quả trứng vịt, lại còn sáng bóng, hết sức hiếm thấy. Cẩu bảo cùng hoàng ngưu, ngọ bảo được gọi là “tam bảo”, có thể hàng phong, khai úc, giải độc, theo như truyền thuyết mê tín trong dân gian, vật này còn có thể hàng phục hồ yêu, cho dù có là hồ ly đã tu hành ngàn năm đi chăng nữa, thấy viên cẩu bảo này cũng phải thối lui ra ngoài trăm dặm!
Vừa nói xong, hai người kia cũng đã chuẩn bị ổn thoả chuyện dây rợ, một đầu dây được buộc chặt vào gốc cây to vững chắc, đầu còn lại thì ném vào trong đạo động. Tuyền béo tay cầm theo ngọn đuốc, súng săn đeo ở trên người, hùng dũng oai vệ, khí thế bừng bừng, đi tới hỏi tôi: “Mọi lần chẳng phải đều là để tôi xung phong đứng mũi chịu sào, đánh trận mở đầu sao? Hôm nay thế quái nào lại bắt ông đây canh cửa như chó vậy?”
Tôi nói với hắn: “Tôi đây là đang lo chuyện hoàng kim linh chi xuất hiện trong cổ mộ vừa mới bị truyền ra ngoài không lâu, sẽ có nhiều người đánh chủ ý tới nó. Từ lúc chúng ta vào trong núi tới giờ, tôi vẫn luôn có cảm giác như kiểu có người đang bám theo ở phía sau vậy, haiz, chỉ mong đều là do tôi suy nghĩ nhiều nên thế, bất quá không sợ vạn nhất chỉ sợ nhất vạn, chả nhẽ trong vạn dặm xung quanh này không có ít nhất một kẻ nào đó có ý đồ xấu sao? Vạn nhất có người triệt hạ đường lui của chúng ta, vậy phải làm thế nào? Tôi thấy trong mấy người, chỉ có cậu mới có khả năng một mình phụ trách được nhiệm vụ này, cho nên mới đặc biệt bố trí cậu ở ngoài canh cửa, bọn chúng tôi vào trong có như thế mới yên tâm hơn.”
Tuyền béo nghe tôi nói thế, lập tức trở nên hăng hái phấn khởi, nói: “Cậu Nhất đây quả là có mắt nhìn người đấy, Tuyền gia tôi mà đã ra tay thì các cô các cậu không phải lo gì hết! Cứ yên tâm mà vào trong mộ, nhớ cẩn thận tránh để hồ ly mê hoặc!” Mọi thứ đã sẵn sàng, tôi cầm ngọn đuốc cháy phừng phừng, đi trước mở đường, Trăn Tử và Lục Quân theo sát ngay phía sau, từng người lần lượt bám dây tụt xuống dưới mộ thất.
Lối vào đạo động được đào ngay trên nóc Tây nhĩ thất, từ trong động rơi xuống đất bùn cùng lá khô, đã sớm xếp thành hẳn một toà núi nhỏ. Chúng tôi lúc trước có ở trong mộ tránh bão mấy ngày, địa hình ngóc ngách nơi này đều nắm rõ như lòng bàn tay, chẳng qua là vừa qua tiết Kinh Trập, phải đề phòng trong mộ có rắn. Tôi xuống trước, rồi quay qua đỡ hai người kia, không gian trong mộ vẫn âm u lạnh lẽo như ngày nào. Tuy nói rằng thợ săn trong núi gan to mật lớn, thường xuyên đánh nhau với hổ, báo, thậm chí cả gấu đen, bất quá với tình hình hiện tại cũng phải nói lại, toà Liêu mộ này là chỗ để chôn cất người chết, người miền núi thì lại mê tín thôi rồi. Trăn Tử lòng hiếu kỳ tuy nặng nhưng cũng không át được nỗi sợ khi bước đi trong cổ mộ, cứ bám theo thật sát sau lưng tôi, cũng không dám thở mạnh, cứ rón ra rón rén. Căn nhĩ thất phía Tây chỉ toàn gạch đá với đất bùn vụn vỡ, cành khô lá khô rải thành đống, từng cỗ chướng khí ngai ngái mùi mục rữa bốc lên từng đợt, xộc thẳng vào lỗ mũi khiến đầu óc cứ ong hết cả lên. Ba người dè dặt bước từng bước về phía trước lục lọi, xuyên đạo môn hình vòng cung để tiến vào mộ chính. Chúng tôi khuơ khuơ ngọn đuốc trong tay soi khắp xung quanh, mộ chính từ lúc chúng tôi rời đi cho đến bây giờ vẫn giữ nguyên trạng như vậy, chỉ có bộ hài cốt hồ ly là bị đất đá sụp xuống che kín thôi, tôi trong lòng không khỏi có chút cảm thán. Lại ngẩng đầu nhìn một cái, phía trên bức bích hoạ cửu vỹ hồ ly phía cuối mộ thất, một gốc linh chi to như cái bát tô đang cắm rễ ở đấy, được ngọn đuốc chiếu vào liền toả ra kim quang rực rỡ, tựa hồ còn bắt mắt hơn cả lúc trước! Trăn Tử tròn mắt ngây ngô: “Thật sự trên đời có hoàng kim linh chi a! Các anh nói xem mấy đời thợ săn chúng tôi, trong cánh rừng này có mọc cây gì hay sống con gì đều đã từng thấy qua hết! Thật không ngờ trên bức bích hoạ này lại có thể mọc ra vàng, vàng lại còn có thể sinh trưởng ra được một gốc hoàng kim linh chi nữa chứ, không hiểu sao lại như vậy được?”
Tôi lắc đầu: “Đừng nói cô không biết, đến tôi còn chịu nữa là, hoàng kim linh chi đáng ra phải sinh trưởng ở nơi nào đó có điều kiện đặc biệt hơn chứ, sao có thể mọc được ở đây?” Hiểu biết của Trăn Tử đối với hình dáng kích thước của các loại linh chi trên núi rất rõ ràng, linh chi được phân chia theo sáu màu sắc, theo thứ tự lần lượt là đỏ, đen, xanh, trắng, vàng và cuối cùng là tím. Linh chi màu tím thường mọc trên các thân cây đã mục nát; linh chi màu đen thì hay mọc ở khe đá dựng đứng, vách nham thạch cheo leo; linh chi trắng còn được gọi là ngọc linh chi, là loại linh chi dễ bắt gặp thấy nhất; linh chi màu vàng tục xưng là kim linh chi, tuy nhiên đó chỉ là một cách gọi đơn thuần, nhìn qua thật sự chúng không phải màu vàng kim, mà là vàng đất; linh chi màu xanh trong dân gian gọi là long chi, mọc lên thành từng cụm sau mỗi đợt mưa bão; còn linh chi màu đỏ thì hay kêu huyết chi, đa số sinh trưởng trong các hang động cùng cốc. Trong ngôi mộ cổ thời Liêu này xuất hiện một gốc linh chi, lại có kim quang rực rỡ, thật khiến người ta phải ngoạc miệng khó tin!
Tôi đồng dạng cũng cảm thấy khó hiểu, nghe mấy lời của hai tên thợ săn đến từ Trường Bạch Sơn kia nói, tổ tiên bọn hắn trước làm Đả Quan Vi cho Hoàng Thượng, đã gặp qua không ít thứ tốt, căn cứ theo một số tài liệu ghi lại, hoàng kim linh chi thuộc vào hàng thiên địa chí bảo, chỉ sinh trưởng trên long mạch bảo địa, có thể cải tử hoàn sinh vô cùng kì dị, là tiên chi nghìn năm may ra mới gặp một lần. Tôi nghĩ nếu như đây là thật, thì cũng không thể nào mọc trên bức bích hoạ được, bích hoạ chỉ được làm từ bùn đất trộn thạch cao, làm sao có thể sinh trưởng ra được một gốc hoàng kim linh chi lớn như vậy? Bất quá mắt thấy là thật, không muốn tin thì cũng phải tin, nếu nói nghìn năm mới gặp một lần, hồ ly đến chết đều không nỡ ăn, mấy người thợ săn Ngạc Luân Xuân bản địa chưa từng thấy qua, vậy cũng không có gì là kỳ quái.
Lục Quân một mực lo cho an nguy của Tiêm Quả, thúc giục chúng tôi mau mau ra tay nhanh lẹ để còn trở về. Tôi đi nhìn thử xung quanh, trong mộ không có gì bất thường cả, lúc này đã bước tới phía dưới bức bích hoạ, ngẩng đầu lên, gốc hoàng kim mọc ngay phía bên trên, mỗi tội lại cao quá tầm với của tôi, cố nhảy lên cũng chưa chắc đã chạm tới được. Mộ cổ hai bên có trường minh đăng nhưng sớm đã tắt ngấm từ bao giờ, tôi bèn đem cây đuốc giao cho Trăn Tử, bảo cô ấy đi châm lại trường minh đăng lấy chút ánh sáng. Sau đó vẫy vẫy Lục Quân tới gần, tôi định giẫm lên vai hắn thì may ra mới vừa đủ cao để có thể lấy được gốc hoàng kim linh chi kia, Lục Quân vội vàng giãy nảy lên, xua xua tay bảo không được, hắn thể trạng gầy yếu, không chịu được sức nặng của tôi đâu, huống chi chân tôi còn đang đeo đôi “vó sắt Nhật quân” - danh xưng đạp thảo nguyên, vượt trường sơn lừng lẫy. Hắn đã nói như vậy, tôi không thể làm gì khác hơn đành bảo hắn đạp lên vai tôi. Không cần nhiều lời, Lục Quân thấy tôi chịu xuống nước, lập tức hiểu ý, đưa tay bám lên bức bích họa, hai chân giẫm lên hai đầu vai. Tôi từ từ nâng người lên, nâng hắn lên cao. Đào linh chi nhất định phải đào lấy cả gốc, phiến linh chi mặc dù mọc hướng lên trên, nhưng phần gốc vừa to vừa dài lại mọc uốn ra từ giữa khe đất trên đỉnh mộ. Lục Quân bảo Trăn Tử đưa cho cậu ta cây đinh ba, rồi ngẩng đầu lên, lấy đinh ba ra sức định đục nóc lấy gốc linh chi ra. Ai ngờ đỉnh mộ đã sớm xuống cấp nặng nề, kết cấu vô cùng yếu ớt, hắn càng đâm, vết nứt càng lớn, sâu trong vách đá vang lên tiếng “rào rào” vang dội, đất bùn cùng gạch mộ không ngừng rơi xuống ào ào. Tôi sợ Liêu mộ không chống được bao lâu, chẳng mấy sẽ sập xuống, đang định hô Lục Quân dừng tay thì hoàng kim linh chi đã rơi xuống theo cùng gạch đá. Tục truyền rằng không thể để linh chi chạm vào mặt đất, vì khi chạm phải tục khí sẽ làm nó bị ô uế, tổn hại đến giá trị. Lục Quân thấy thế vội vàng ném bỏ đinh ba, hai tay với ra, rốt cuộc cũng tóm gọn được gốc hoàng kim linh chi. Tôi kêu lên: “Hay lắm!” Ngay sau đó lùi về phía sau, đỡ Lục Quân xuống đất. Tôi và Trăn Tử bước đến, muốn nhìn gần một chút xem gốc hoàng kim linh chi này có gì đặc biệt, vừa đưa mắt lập tức lòng trắng trợn lên, đỉnh đầu “oanh” một tiếng, con mẹ nó chứ, trong tay Lục Quân làm quái có thứ gì!
Lục Quân rõ ràng đã đem được hoàng kim linh chi nắm gọn trong tay, nhưng khi hắn từ trên vai tôi nhảy xuống, nhìn vào tay mình, vẻ mặt cũng đầy hoảng sợ, chỉ trong nháy mắt thôi gốc linh chi vừa rơi vào tay hắn giờ đã hoá thành bụi đất, đồng thời toả ra một mùi tanh hôi nồng nặc. Dưới ánh đuốc lập loè cùng ánh nến lúc tôi lúc sáng, sắc mặt Lục Quân bỗng trắng bệch như tờ, trong nháy mắt lại từ trắng chuyển sang xanh, rồi lại từ xanh biến thành đen, hai tay cũng y hệt như vậy, ngay cả móng tay cũng trở nên đen bầm lại. Toàn thân hắn phát run, mồm miệng méo xệch không rõ là đang khóc hay đang cười nữa, thất khiếu chảy ra từng dòng máu đen. Tôi chứng kiến cảnh tượng như vậy, liền bị kinh hãi, định bước lên xem tình hình của hắn ra sao, bất ngờ Trăn Tử từ phía sau lôi ngược tôi lại, nhắc nhở: “Cẩn thận có độc đó!”
Tôi như bừng tỉnh sau cơn mê, cuối cùng đã hiểu ra, thứ đồ mọc trên bích hoạ kia, căn bản vốn không phải là hoàng kim linh chi gì hết, mấy chục năm trước tay chuột đất kia đào ra một cái đạo động hướng xuống Tây nhĩ thất, chính là đã đụng phải vào vật này, rồi mới chết ở gian trung thất phía Nam, chứ không phải là bị hồ ly mê hoặc đến chết. Còn con hồ ly đã dẫn chúng tôi vào trong này, trước khi chết không hề đụng tới gốc linh chi này, lại còn ngăn cản ý định hái xuống của chúng tôi, tất cả đều bởi vì nó biết vật này không thể ăn được! Tôi còn chưa kịp nghĩ xong, toàn thân Lục Quân đã đen bầm lại, trên mặt đầm đìa máu với máu, hắn dùng toàn bộ khí lực còn lại, hung hãn lao ngừoi thật mạnh vào bức bích hoạ. Cậu ta vốn là người nhát gan sợ chết, nhưng bây giờ thà tự tử, đâm uỳnh một cái rồi ngỏm luôn còn sung sướng hơn phải chịu đựng nỗi thống khổ như bây giờ. Nhưng vừa đâm vào tường, dùng sức tuy cũng mạnh, nhưng nhất lời lại không chết ngay, hắn lại ra sức dùng lực hơn nữa, đập đầu ầm ầm đến nỗi máu thịt cũng trở nên mơ hồ, miệng há to nhưng không thốt ra nổi một tiếng nào cả. Trong cổ mộ hết sức tĩnh lặng, chỉ có Lục Quân đang liên tục đập đầu vào tường, phát ra từng tiếng vang nặng nề và đầy quái dị.
Tôi và Lục Quân nghe được tiếng đập đầu hết lượt này đến lượt khác của hắn, rõ ràng còn kèm theo cả tiếng hộp sọ vỡ nát, hai người đều sợ hết hồn hết vía. Không đợi chúng tôi kịp phản ứng, Lục Quân đã tự dập đầu vào bức bích họa gần chục lần, một phát cuối liền ngã nhào ra đất, sau đó nằm im thin thít không nhúc nhích động đậy, không gian trong mộ lại trở về một mảnh tĩnh mịch vốn có. Trống ngực tôi đập “bình bịch” một cách điên cuồng, quay sang nhìn Trăn Tử, cô ấy hai mắt cũng đang mở to nhìn lại tôi, trong ánh mắt cũng chứa đầy sự kinh hoàng như tôi. Hết thảy mọi chuyện đều phát sinh quá nhanh, bây giờ tôi mới ý thức được điều gì vừa diễn ra —— Lục Quân đã chết! Cậu ta mặc dù vốn là người nhát gan yếu đuối, tố chất thân thể cũng chẳng có gì nổi trội, thế nhưng hồi còn ở nông trường số 17, gặp phải bão tuyết trăm năm mới gặp lớn như vậy, lại thêm bầy sói hoang dã hung dữ, cậu ta đều có thể kiên trì vượt qua, vậy mà giờ lại phải chết một cách không minh bạch như này. Đối với chúng tôi, cậu ấy không chỉ là chiến hữu, mà còn là anh em vào sinh ra tử cùng nhau, tôi chỉ biết trơ mắt nhìn cậu ấy cứ thế ra đi, chẳng thể giúp gì, giờ có muốn ra tay cũng không kịp nữa rồi. Nếu vừa rồi người đi lên hái hoàng kim linh chi là tôi, thì mọi chuyện sẽ ra sao? Vốn người đi lên phải là tôi, ai ngờ Lục Quân lại thay tôi nạp mạng! Mà gốc hoàng kim linh chi kia hóa ra lại là thứ không hề tồn tại, không chỉ có Lục Quân bỏ mạng oan uổng, mà sợ rằng mạng sống của Tiêm Quả cũng chẳng cứu vãn được nữa rồi! Tôi nhất thời không tài nào tiếp nhận được sự thật hiện tại, đồng thời cũng thầm thấy mình quá là may mắn, cảm thấy đáng ra Lục Quân không thể chết một cách lãng xẹt như vậy, vừa mới nãy còn cười cười nói nói, sờ sờ là một người sống, ấy thế mà chớp mắt một cái, đã thành người thiên cổ! Tôi theo bản năng tiến về phía trước hai bước, nhìn thấy trên bức bích họa bây giờ be bét toàn máu tươi với não tương, xác Lục Quân nằm bẹp trên đất, đầu nát toang.
Trăn Tử ở sau lưng tôi, giọng run run hỏi: “Anh ta… Anh ta thế nào… Thế nào…!” Tôi đang muốn lắc đầu bảo cậu ấy chết rồi, nào ngờ liền phát hiện cái xác Lục Quân khẽ động một chút! Tôi bị dọa suýt thì hồn phi phách tán, mặc dù trong thâm tâm vẫn mong hắn chưa chết, còn có thể cứu chữa, nhưng đầu hắn đã vỡ toang thế kia, não tương văng tung tóe trên tường, đã thành bộ dạng như này rồi sao sống lại được nữa chứ, nếu thế thì trên đời làm gì còn người chết nữa! Tôi cho rằng mình nhìn lầm, bèn quan sát kỹ hơn, liền thấy trên người Lục Quân rơi ra một bao thuốc lá. Lúc hắn ngã xuống đất, rơi ra một bao thuốc lá, vậy cũng không có gì là kỳ lạ lắm, nhưng đằng này bao thuốc kia lại là một bao “Chiến Đấu” loại đặc biệt, hộp vuông vỏ cứng, trên bao còn có hàng chữ nho nhỏ in “Theo sát lãnh tụ vĩ đại cùng vượt qua sóng to gió lớn tiến bước về phía trước!” Tôi liền cảm thấy kinh ngạc, phải biết rằng thời điểm lúc bấy giờ, một bộ da sói nguyên vẹn mới đổi được một bao thuốc lá hiệu Chiến Đấu, mấy thằng thanh niên tri thức lên thôn xuống ruộng tham gia sản xuất như chúng tôi ở Đại Hưng An Lĩnh, đào đâu ra được thuốc lá xịn như vậy cơ chứ. Thuốc lá hiệu Chiến Đấu cũng chia ra làm ba loại, một loại bọc giấy xanh, đầu tút trắng, trên thân điếu có hai chữ “Chiến Đấu”, thuộc hàng thuốc lá phổ thông, chúng tôi ngay cả loại này cũng không có khả năng với tới. Còn loại nữa thì giấy trắng, tút xanh, chỉ chuyên dành để cung cấp cho quân nhân trong các binh đoàn sử dụng, mỗi tháng lại xếp hàng một lần, mỗi người được một bao, không được phép phân phối ra bên ngoài. Còn một loại khác, chính là loại vừa rơi ra từ trên người Lục Quân, ngoài vỏ xanh tút trắng ra, trên thân còn có dòng chữ “Thuốc lá Chiến Đấu”, vỏ bao được làm đặc biệt, vuông vức cứng rắn, in khẩu hiệu “Theo sát lãnh tụ vĩ đại cùng vượt qua sóng to gió lớn tiến bước về phía trước!”, được xếp vào hàng thuốc lá đặc cấp, rất nhiều người quen miệng gọi đây là “Đặc cung thuốc lá”, trên thực tế không phải vậy, tuy nhiên muốn sở hữu thì cũng phải thông qua một số mối quan hệ cùng chút phí tổn thì mới được, tại sao trên người Lục Quân lại có nửa bao thuốc loại này cơ chứ?
Tôi cùng Tuyền béo, Lục Quân, ba người thời điểm còn ở binh đoàn cho tới tận bây giờ đều là đồng cam cộng khổ, dù chỉ là một điếu thuốc thôi, không phân tốt xấu, nhất định phải cả ba cùng chụm đầu hút, mỗi người hưởng sái một tí. Mọi người một đường thẳng tiến đi vào trong núi, trên người tên tiểu tử Lục Quân này lại mang theo một bao thuốc xịn như thế, tại sao một mực chỉ giữ khư khư không móc ra cho chúng tôi hút cùng? Là không nỡ chia cho hai thằng bọn tôi, hay là còn có nguyên nhân sâu xa nào khác? Tôi không khỏi nghĩ tới hai anh em Đại Hổ, Nhị Hổ, bọn chúng từng mang ra vô số đồ vật mê người để dụ chúng tôi nhận lời dẫn đường vào núi tìm hoàng kim linh chi, tôi cùng Tuyền bèo đều lắc đầu không đáp ứng. Nhưng mà chuyện xảy ra ở trong Liêu mộ này, nhân vật chính không chỉ có hai thằng tôi, mà còn có Lục Quân và Tiêm Quả, lẽ nào hai tên thợ săn ấy đã đi tìm Lục Quân bàn chuyện? Lục Quân thế mà lại đồng ý với lời dụ hoặc của chúng sao? Trong đầu vừa hiện lên ý nghĩ như vậy, tôi bèn nhặt bao thuốc lá lên nhìn một chút, trong lòng cảm xúc cứ lẫn lộn, đang lúc thất thần, chợt thấy âm phong ào ào, đèn đuốc trong mộ lập tức bị thổi tắt, mọi thứ trở nên tối mịt. Cái xác Lục Quân nằm trước bức bích hoạ cửu vỹ hồ ly, đột nhiên, ngồi dậy!
Lục Quân nằm trước bích hoạ bất ngờ tá thi hoàn hồn, cùng lúc đó, phía trên bức bích hoạ truyền đến từng đợt tiếng vang lạo xạo dày đặc, người nghe mà da đầu cứ tê hết cả đi. Tôi cùng Trăn Tử phát giác tình huống có gì đó không ổn, lập tức ngẩng đầu lên trên nhìn, chỉ thấy từ vết nứt toác trên đỉnh mộ bò ra một con rết khổng lồ dài phải hơn 6 thước, đầu vàng thân xanh, không biết đã ẩn núp ở chỗ đó từ bao giờ, trên lưng mọc ra chi chít vảy nấm lớn vảy nấm nhỏ, toàn thân óng ánh màu sắc, trong miệng chảy xuống từng giọt kim quang lấp lánh, ra chiều thèm muốn, nhắm thẳng đến xác Lục Quân hút lấy hút để. Tôi đứng ngay sát bức bích hoạ, chứng kiến rõ ràng mọi chuyện, lông mao liền dựng đứng. Thì ra toà Liêu mộ này nằm trên long mạch bảo địa, không chỉ có hồ ly ở Hắc Sơn Đầu chọn chỗ này làm nơi táng thân, mà còn có hẳn một con rết khổng lồ ẩn nấp ở đỉnh mộ, cũng muốn đem ngôi mộ trở thành hang ổ của mình, chỉ bất quá vết nứt quá hẹp, nó không thể nào chui lọt mình vào. Gốc hoàng kim linh chi mọc ra từ trên bức bích hoạ cửu vỹ hồ ly, lại chính là do cái đầu ánh vàng của con rết kết thành. Trong dân gian thường có nhắc tới năm loại kịch độc, lần lượt là: “Rết, bò cạp, rắn, cóc, thằn lằn”, rết được xếp vào hàng đầu tiên, từ đó có thể thấy độc tính của nó mạnh tới nhường nào. Lần trước chúng tôi vào trong cổ mộ để tránh bão tuyết bên ngoài, chính là lúc trời cực lạnh, nước đều đóng cứng thành băng, con rết này nằm ở trên đỉnh mộ bất động, cho nên chúng tôi mới không có phát giác ra điều gì bất thường. Mà vừa nãy Lục Quân trèo lên cầm đinh ba đâm đâm mấy cái, vừa vặn khiến cho vết nứt kia lan to ra, con rết kia ẩn nấp đã khá lâu, sớm đã đói mờ cả mắt, liền há mồm lao tới hút sạch não tương của hắn. Nước dãi của nó vừa nhỏ xuống, xương cốt da thịt lập tức phát ra từng tiếng xì xì, bốc lên khói trắng, trong nháy mắt biến thành một vũng máu tươi, cũng bị con rết kia hút sạch vào trong miệng. Tôi vừa giận vừa sợ, nhặt lên cây đinh ba dùng sức đâm thẳng vào cái đầu ánh vàng của nó. Con rết khổng lồ há miệng cắn lấy đinh ba, hai bên giằng co chưa được bao lâu, một cỗ quái lực nhấc bổng tôi dậy, toàn bộ thân thể bị ném thẳng ra sau, lưng tôi đụng trúng phải vách đá tường mộ, hai mắt nổ đom đóm, khí huyết sôi trào chỉ trực nôn oẹ ra ngoài.
Con rết kia đã bị bỏ đói khá lâu, bây giờ trông thấy người sống, liền quay đầu vẫy đuôi đuổi về phía tôi. Tôi vừa mới bị dính một kích trí mạng, toàn thân ê ẩm, nhất thời không đứng dậy nổi, đành thuận thế lăn hơn chục vòng ra đất. Nhưng con rết kia lại bò ở trên vách đá, thế tới quá nhanh, mắt thấy không thể tránh thoát, tôi thầm than một tiếng: “Thôi bỏ mẹ rồi! Không ngờ Hồ Bát Nhất ta một đời lừng lẫy, cuối cùng lại bỏ mạng ở chỗ này!” Đang lúc ngàn cân treo sợi tóc, Trăn Tử liền tháo xuống chiếc cung tên đeo trên lưng, xuất thủ nhanh như gió, một mũi tên găm thẳng vào đầu con rết. Thợ săn trong núi này thường mê tín chỉ sợ quỷ hồ ma quái, chứ độc trùng mãnh thú lại không hề kiêng kỵ. Khu vực Đại Hưng An Lĩnh này rắn rết trùng độc cũng ít khi thấy, bởi vì thời tiết khí hậu trên núi không phù hợp với chúng, nhưng nói thế cũng không phải ý bảo hoàn toàn không có, ở mấy khe núi sơn động ẩm ướt vẫn có thể bắt gặp. Tương truyền loài rết có ba điều đại kỵ, thứ nhất kỵ gà mái, nếu như có người nào bị rết cắn, chỉ cần đem một con gà mái tới, đặt mông nó lên miệng vết cắn, một giờ sau liền hết bệnh; thứ hai là kỵ cây ngải, thật ra không chỉ có mỗi rết, mà cả năm loài kịch độc đều kỵ ngải hết; thứ ba là kỵ cái đế giày, đếch cần phải nói nhiều, lấy đề giày đạp một cú thật mạnh, di di vài phát, đảm bảo nát bét! Trăn Tử đối với xà trùng mãnh thú trong rừng rất quen thuộc, ngày xưa người ta không hoàn toàn gọi là rết, mà phân ra gọi tên tuỳ theo kích thước lớn nhỏ, nhỏ thì kêu là “rết”, còn lớn hơn thì gọi là “kim đầu” hoặc “bách thối” (Trans: Tức là “đầu vàng” và “trăm chân”), loại này có tới hơn trăm cặp chân lận, rất khó để đối phó. Cô ấy thấy con “kim đầu” này dài không dưới 6 thước, miệng nhỏ từng đợt dãi ánh vàng thèm thuồng, liền biết ngay một khi bị nước dãi của nó rơi trúng người, hoặc là bị nó cắn cho một cái, liền sẽ bỏ mạng tại chỗ, chết không toàn thây, cho nên vừa nãy rút ra một mũi tên, liền ngắm thẳng vào đầu nó mà buông dây bắn phập tới. Thân thủ Trăn Tử nhạy bén linh hoạt, kỹ thuật bắn cung thượng thừa, liền sau mũi đầu tiên đã có ngay hai mũi nữa bay tới, một mũi ghim thẳng vào đầu con rết đang hối hả bò trên vách đá, còn lại hai mũi tên găm gọn vào lưng nó. Con rết “kim đầu” kia bị bắn trúng cả ba mũi tên vào người, liền nổi điên, bò loạn khắp nơi, chỉ chớp mắt một cái đã vòng qua được sau lưng Trăn Tử, nhe răng cắn tới!
Tôi vừa mới từ dưới đất gắng gượng bò dậy, thấy Trăn Tử không kịp xoay người, lập tức liều mình xông lên phía trước, nhưng cây đinh ba trong tay đã rơi từ nãy, giờ chỉ có tay không làm sao đối đầu với con rết khổng lồ kia được đây? Lúc này tới mới sực nhớ ra, sau lưng tôi có một cây trường đao do Trăn Tử mượn của cậu Tứ, đây là bảo đao mà cậu Tứ vẫn luôn giấu kỹ dưới đáy rương, bình thường đều không nỡ đem ra cho người khác nhìn thử, thật đúng là cậu coi trọng chúng tôi quá, lo lắng mấy đứa vào núi gặp phải nguy hiểm nên mới chịu cho mượn mang theo để phòng thân. Thật ra đây chẳng phải là bảo đao gì cả, trường đao của quân Quan Đông cơ bản chia làm hai loại, một loại là làm cho quân lính bình thường, một loại khác thì đặc biệt làm cho sỹ quan kỵ binh, cây trường đao này của cậu Tứ, chính là loại sau, theo như nhận xét khách quan mà nói, lưỡi dao hãy còn sắc bén lắm. Tôi rút cây trường đao ra khỏi vỏ, hai tay cầm chặt lấy cán đao, hướng thẳng đầu rết mà đâm tới, không ngờ lại bị nó ngoảnh đầu lại, ngoạc mồm ra cắn chặt lấy lưỡi đao, muốn đâm tới cũng không được, mà rút ra cũng chẳng xong. Nhưng như thế cũng đủ làm con rết bị phân tâm lộ ra sơ hở, Trăn Tử đã nhanh tay rút ra ba mũi tên khác, lắp cùng lúc cả ba mũi, trong khoảnh khắc đồng loạt ba mũi thần tiễn lao ra khỏi dây cung tựa như vũ bão, cắm “phập phập phập” ba tiếng đanh gọn vào đầu con rết. Nó bị liên tiếp ba mũi tên nữa ghim vào đầu, không tránh khỏi đau đớn, co rúm người lại. Tôi lúc này liền rút cây đao ra khỏi miệng nó, nhân cơ hội chém tới tấp mấy chục nhát đao lên thân nó. Cây trường đao này rất thích hợp để đâm chém, hai tay ra sức vung lên vung xuống, con rết kia không kịp tránh né, tức thì bị phân thành hai nửa, đoạn thân dưới bò lung tung loạn xạ, đâm phải ngọn trường minh đăng đã tắt đổ cái uỳnh, càng bò càng chậm, rồi nằm im bất động. Mà nửa đoạn đầu trên bị dính mấy mũi tên, ấy thế mà vẫn chưa chết, nhe ra cặp răng sắc nhọn, phun ra một đạo kim quang thẳng về phía chúng tôi!
Con rết khổng lồ dài hơn 6 thước này, trên người mọc rất nhiều vảy nấm loang lổ sặc sỡ, nước dãi mà nó phun ra vừa rơi xuống đất lập tức đông lại như mỡ nến. Lục Quân và tên chuột đất ngoài kia, đều là đụng phải sắc nọc độc này mà bỏ mạng. Truyền thuyết nói rằng đây chính là rết độc cương thi sâu trong nơi rừng thiêng nước độc, người bị độc nấm của nó dính phải, nửa người sẽ hoá thành thực vật, không đem chặt bỏ đầu xuống thì dù có làm thế nào cũng sẽ không chết. Tôi thấy nó há miệng nhe răng phun ra một đạo kim quang, sợ không ngăn được độc tính của nó, nhưng lại không dám tránh, Trăn Tử hãy còn ở sau lưng tôi, giờ tôi mà trốn đi thì cô ấy sẽ bị đẩy lên hàng đầu. Trong lúc nguy cấp vừa hay mò được viên đá lúc trước Trăn Tử đưa cho tôi để phòng hồ ly, không còn thời gian mà nghĩ nữa rồi, có còn hơn không, thế là liền vung tay lên hướng về phía đầu con rết ra sức ném tới, không lệch một phân nào, rơi thẳng vào trong miệng nó. Cẩu bảo là do dương khí kết tinh, mà con rết cương thi kia lại là vật chí âm, nó vừa há miệng vừa vặn nuốt trọn lấy viên đá, lập tức đem đạo kim quang kia nuốt ngược trở lại. Con rết lăn lộn mất vòng, lại định bò lên tường, nhưng chưa được mấy đã lăn đùng ra co giật giãy giụa trên mặt đất, tôi không thể làm gì khác hơn là kéo Trăn Tử chạy ra ngoài, hai người tổng cộng là bốn cái chân, làm sao có thể chạy nhanh hơn trăm cái chân của con rết kia chứ, chớ nên chậm trễ!