P6 - Chương 5: Hoa hồng băng tuyết

Cả ba tỉnh đông bắc đều đang có tuyết rơi! Tuyết rơi ở Hắc Long Giang, tuyết rơi ở cả Cát Lâm và Liêu Ninh. Tuyết rơi trên mặt sông đóng băng trắng xóa, rơi trên thảo nguyên u ám, rơi đến từng ngóc ngách công viên cô tịch vắng bóng người qua lại, rơi vương vãi trên từng ngọn cây của dãy Bạch Trường Sơn. Tuyết bay la đà, bay lất phất, bay trên quảng trường thành phố, bay nhẹ nhàng, dịu dàng tới những nơi thẳm sâu nhất trên cánh rừng Đại Hưng An Lĩnh, tuyết đắp dày lên từng hàng bia mộ, phủ trắng những cánh rừng Bạch Hoa ở mỗi hương thôn, tuyết đậu trên từng mũi nhọn của hàng rào nan sắt bao quanh mỗi gia đình, đậu trên ngọn cỏ dại khô héo và rồi tuyết đậu trên vai hai kẻ ăn mày.

Hãy quay ống kính về phía họ, hai kẻ đang quỳ trên phố nom rất giống hai cô cậu học sinh đi xin ăn.

Liệu ai chú ý đến hai kẻ ăn mày ấy đây?

Trung Quốc không chỉ có Thiên An Môn, Vương Phủ Tỉnh ở Bắc Kinh, Lục Gia Chủy ở Thượng Hải, không chỉ có những khách sạn năm sao, cũng không chỉ có những tòa nhà văn phòng cao cấp, mà thứ Trung Quốc có nhiều nhất chính là những vùng nông thôn bần hàn và khốn khó, những sự ghẻ lạnh và thảm hại mà chẳng một ai hay biết, những cánh cửa mục nát, những gia cảnh túng quẫn với cái nghèo cái đói bủa vây tứ bề. Điều xấu xa, thối nát nhất của xã hội là chưa bao giờ dám nhìn thẳng vào một vấn đề, vấn đề đó chính là những ung nhọt ấy do chính xã hội gây ra.

Ở thị trấn nào đó thuộc tỉnh Sơn Tây, hoa bông nơi ấy màu đen, người nông dân nơi ấy sau khi làm việc hai tiếng đồng hồ giữa cánh đồng trồng bông cũng biến thành màu đen. Trong đám người đào than trên ngọn núi gần đó có những người vợ đưa cơm cho chồng con, nhưng họ chẳng thể nào phân biệt được đâu là cha họ, đâu là chồng họ và đâu là con họ bởi ai cũng bị muội than ám đen nhẻm.

Ở một khu công nghiệp nào đó trong vùng Nội Mông, nơi ấy tất cả vỏ chăn sau khi phơi nắng đều biến thành màu đỏ cam, công lao ấy thuộc về hàng trăm ống khói đang ngạo nghễ vươn mình giữa trời xanh ở xung quanh đó. Nơi ấy ngày trời trong và ánh mặt trời chẳng liên quan gì đến nhau, bởi ngày trời trong là những ngày khu công nghiệp không cho thải khí độc.

Hai kẻ ăn mày kia đều có đôi tay xanh lét chúng cùng đến từ một sơn thôn nghèo khó bị ô nhiễm nghiêm trọng.

Tất cả người dân vùng sơn thôn ấy đều ngồi nhà đan giành, một người một ngày có thể đan đến hai mươi cái. Hai mươi cái giành đồng nghĩa với hai mươi tệ. Một người mẹ già đã đan giành ròng rã suốt mười tám năm để nuôi con ăn học, màu nhựa liễu trên tay bà vĩnh viễn không thể nào rửa sạch nổi, những vết thương trên đôi tay cũng vĩnh viễn không thể khép miệng.

Chúng là hàng xóm của nhau, hai nhà chỉ cách nhau một bờ giậu thấp lè tè.

Cô bé gọi cậu trai là anh Nê-oa, còn cậu trai gọi cô bé là em Huyền.

Hai người đều có đông anh chị em, cuộc sống khó khăn khiến hai đứa trẻ đều chưa học hết tiểu học đã phải bỏ ngang chừng. Lúc ngồi đan giành ở nhà, thanh niên trong thôn chỉ có một mơ ước duy nhất, đó là ra thành phố làm thuê.

Năm ấy, lần đầu tiên chúng nhìn thấy một đoàn tàu ngoài đời thực.

Năm ấy, chúng đi miền nam và lần đầu tiên nhìn thấy thành phố phồn hoa, hào nhoáng.

Một cậu trai và một cô bé, hai đứa đi đôi tông được làm từ lốp xe, chúng rời xa đám dê bò, rời xa những chiếc giành liễu, rời xa thôn xóm, rời xa gia đình để từ đây cất bước trên con đường lưu lạc. Nếu không có bạn đồng hành thì chặng đường ấy cô độc và gian nan biết nhường nào. Chúng ta không thể biết được hai đứa trẻ ấy đã trải qua những bước ngoặt gian nan nào? Những biến cố rủi ro nào mà từ người đi làm thuê lại trở thành kẻ ăn mày? Hay chăng người đi làm thuê và kẻ ăn mày thực chất chẳng có gì khác biệt?

Chúng chưa bao giờ nhìn thấy tuyết ngoài đời thực.

Cô bé tên Huyền bảo: "Anh Nê-oa ơi! Em muốn ngắm tuyết!"

Cậu trai tên Nê-oa đồng ý ngay: "Được thôi! Vậy anh sẽ dẫn em về miền bắc."

Chúng di chuyển từ thành phố xa lạ này sang một thành phố xa lạ khác, từ một thành phố ở miền nam Trung Quốc ngược lên một thành phố ở phía bắc Trung Quốc. Con người ở thành phố này bận tối tăm mặt mũi, lúc nào cũng gấp gáp vội vàng còn nhanh hơn chạy, bởi vậy làm gì có ai chú ý đến hai người trẻ tuổi đang quỳ bên vệ đường? Hai đứa trẻ ấy giống như cỏ dại vô danh, chẳng ai buồn đoái hoài, chẳng ai buồn mở lời hỏi han, thỉnh thoảng có dăm ba người liếc nhìn chúng với ánh mắt xét nét và hoài nghi, càng thỉnh thoảng hơn mới có người ném về phía chúng một đôi đồng xu lẻ.

Dưới tán cây ở một huyện thành nọ có hai người nom giống như học sinh đang ngồi nghỉ, bà già mua rau đứng gần nghe thấy hai học sinh nọ nói chuyện với nhau thế này.

Cô nữ sinh nói với cậu nam sinh kia rằng: "Hay em ra đầu đường quỳ thử xem thế nào nhé?"

Cậu nam sinh can ngăn: "Đừng đi! Anh quỳ ở đó hơn năm trời mà có được mấy đồng đâu!"

Nữ sinh lại nói: "Mệt chết đi được! Mỏi nhừ hết cả vai lẫn lưng, còn mệt hơn cả hồi ở nhà đan giành, nhưng được cái mình kiếm được nhiều tiền hơn."

Nam sinh truyền kinh nghiệm cho bạn: "Huyền à! Em quỳ đến khi nào thấy đầu gối tê tê là hết mỏi ngay thôi."

Ban đầu, hai đứa trẻ ấy chẳng hề có kinh nghiệm xin ăn, sau này chúng dần dần mày mò ra cách. Trước đây chúng vào cửa hàng mua quần áo thể thao giả làm đồng phục trường, lại còn làm giả cả thẻ học sinh, nhưng sau đó chúng ngộ ra rằng không cần làm thế, cứ trực tiếp vào thẳng trường mua mấy bộ đồng phục là xong, bởi sinh viên trường đại học coi thường đồng phục, cứ trả tiền là họ sẽ bán. Hai kẻ ăn mày còn nhờ các sinh viên dạy cho ít tiếng Anh, sau đó họ luyện viết trên nền đất.

Có người từng rơi vào trạng thái trầm tư khá lâu trước kẻ ăn mày nom giống như sinh viên này.

Kẻ ăn mày đó quỳ trên mặt đất lầy bùn, mặc bộ đồng phục học sinh chính hiệu, dưới gối kê một bộ quần áo, lưng đeo cặp sách.

Kẻ ăn mày đó lấy phấn viết một đoạn song ngữ Trung - Anh như thế này trên nền đất:

Cha mắc bệnh hiểm nghèo suốt mười mấy năm, năm nay vừa dứt áo về trời, để lại món nợ mấy chục ngàn tệ cho gia đình. Mẹ chẳng có lương tâm, cải giá theo chồng mới từ sáu năm trước. Số tôi và em gái thực quá khổ. Chẳng có tiền để tiếp tục đi học, giờ hai anh em tôi nghèo đến nỗi đành phải đi xin ăn. Mọi người đều nói hoàng liên rất đắng, nhưng cuộc đời tôi còn cay đắng hơn hoàng liên gấp bội phần. Xin người qua đường hãy chậm bước chân nhìn về phía vệ đường thấy người khốn khổ mà thương xót ra tay cứu giúp, hãy bỏ dăm hào ba đồng chia sẻ tình yêu thương cho đồng loại, dù mọi người bố thí bao nhiêu tôi cũng cảm ơn. Chúc những ân nhân của tôi suốt đời bình an!

Hơn ba mươi dòng chữ Hán viết gọn gàng, ngay ngắn, bên cạnh là dòng chữ tiếng Anh được phiên dịch rất chuẩn xác. Người qua đường ai cũng tin họ là sinh viên thực sự bị hoàn cảnh xô đẩy đến nước phải ra đầu đường xin ăn, thế là họ hào phóng mở hầu bao rút tiền ra giúp đỡ.

Ăn mày là một nghề, mặc dù bây giờ rất nhiều người ăn mày có đủ tay đủ chân nhưng họ vẫn không muốn làm việc vì đối với họ đi ăn mày chính là làm việc mặc dù hành nghề này chẳng khác nào hành nghề lừa gạt, lừa gạt sự cảm thông và lòng yêu thương của đồng loại. Song xã hội đầy ắp dối trá và lừa lọc, trò lừa vặt vãnh của họ nào thấm vào đâu?

Chúng ta khó có thể tưởng tượng một xã hội không có bố thí, một thành phố vắng bóng người ăn mày có thực sự là điều chúng ta muốn chăng?

Liệu có phải lòng trắc ẩn và sự đồng cảm trong mỗi con người đang dần dần teo tóp và biến mất?

Hai kẻ ăn mày mạo danh sinh viên, chúng thậm chí còn chưa tốt nghiệp tiểu học, nhưng hồ như trong lòng họ chứa đầy khao khát và ước mơ một ngày nào đó được bước chân vào cánh cổng trường đại học thật sự.

Nê-oa quỳ xin ăn ở cổng thành phía nam, còn Huyền quỳ xin ăn ở cổng thành phía bắc.

Đôi lúc họ cũng quỳ xin ăn cùng một chỗ giống như số mệnh của cậu trai gộp vào số phận của cô bé vậy. Kiến bò lên người chúng, chim sẻ bay lướt qua đầu chúng. Chúng di chuyển từ nơi này của thế giới sang nơi kia của thế giới. Chúng đi khắp muôn núi ngàn sông và chẳng biết tự bao giờ chúng chầm chậm và lặng lẽ đi vào trái tim của nhau.

Chim sẻ mang mùi vị giống tia sét, còn kiến có màu sắc tựa rễ cây.

Không một mĩ từ nào đủ sức biểu cảm để miêu tả sự kì diệu và sức lay động lòng người của tình yêu. Chúng nghe thấy tiếng đáp lại của tâm hồn đối phương trong từng giây từng phút.

Trận bão tuyết lịch sử lớn nhất suốt năm mươi sáu năm nay đã tấn công tàn bạo vào ba tỉnh miền bắc và nhờ thế hai kẻ ăn mày quỳ bên vệ đường kia có cơ hội lần đầu tiên nhìn thấy tuyết ngoài đời thực. Chúng vừa đi vừa chạy, vui mừng hớn hở suốt dọc đường xin ăn, trong lòng dấy lên một tâm nguyện nho nhỏ: Chúng sinh ra và lớn lên ở một miền quê chưa bao giờ có tuyết, chúng mơ ước một lần trong đời được nhìn thấy những bông hoa trắng lạnh buốt tung bay giữa không trung. Lúc quỳ trên đường lẽ ra họ phải cúi đầu, nhưng vào khoảnh khắc nụ hoa tuyết đầu tiên nhẹ nhàng đáp xuống, hai kẻ ăn mày đều bất giác ngẩng lên. Ô! Những bông tuyết trắng tinh khiết! Tinh khiết tựa tình yêu của hai đứa trẻ ăn mày sinh ra đã bị cái nghèo đeo đẳng. Cậu quỳ bên cạnh cô, chúng quỳ bên nhau giống như đang thực hiện một nghi lễ trang trọng, chẳng ai nói với ai câu nào, cũng chẳng người nào buồn chú ý đến chúng, chỉ có những bông hoa tuyết lặng lẽ rơi rơi.

Hôm ấy, tuyết bay cuồng loạn, cậu trai và cô bé quỳ cùng một nơi giống như hai người tuyết. Có người đàn ông trung niên đi ngang qua, nhìn thấy cô bé lấy ngón tay hí hoáy vẽ đi vẽ lại hình trái tim nho nhỏ trên nền tuyết trắng. Chẳng biết có phải hình vẽ ấy khiến người đi đường xa lạ kia hồi tưởng về một mảnh kí ức đã quá xa xôi, hay chỉ đơn thuần xuất phát từ lòng trắc ẩn hoặc cảm động mà một người chưa bao giờ bố thí như ông ta đã đi lướt qua, chợt quay lại bước về phía chúng, đặt tờ tiền năm mươi tệ lên mặt đất.

Hai kẻ ăn mày dập đầu tạ ơn. Đến khi người qua đường nọ khuất dạng, khách bộ hành trên đường dần thưa thớt, họ mới khe khẽ nắm lấy tay nhau mà không hề để ý đồng tiền vừa được người ta bố thí là đồng tiền giả.

Mùa đông ấy đổ trận tuyết lớn chưa từng có, vì giao thông bị tắc nghẽn nên chúng men theo dòng sông băng để sang thành phố khác. Triền đê sông là hai sườn tuyết trơn trượt. Cậu trai lên bờ trước rồi quỳ trên mặt đất chìa tay cho cô bé, cậu nhoẻn cười, nụ cười trong trẻo như tia nắng xuân đầu tiên xua tan mùa đông rét buốt, tựa làn gió xuân mát lành làm tan chảy giá băng, hơi ấm từ một bàn tay truyền sang một bàn tay khác, rồi cứ thế len lỏi vào tận trái tim. Họ là tình đầu của nhau, tình đầu và cũng là tình cuối. Trước đây và cả sau này chưa bao giờ có người nào chìa tay ra cho cô nắm lấy mỗi khi cô gặp khó khăn, khắp cõi đời chẳng có ai giống cậu, chẳng một ai có thể thay thế được cậu.

Một cành cây đóng băng rơi xuống, chúng nghe thấy tiếng băng rơi giòn tan như tiếng thủy tinh khẽ vỡ trong lòng, thế là kể từ giây phút đó chúng thuộc về nhau. Suốt đời!

Khoảnh khắc ấy cả thế giới cơ hồ chìm trong băng tuyết, trái tim hai người rộn ràng tiếng chim ca và thơm ngát hương hoa.

Dòng chảy đã bị đóng băng, nom con sông chẳng khác nào được tạc ra từ miếng hàn ngọc.

Phía dưới lớp băng đông cứng là cả thế giới tàn dư với màu bạc phếch của ngày cũ được bảo tồn một cách nguyên vẹn, có điều giờ đây thế giới đó bắt đầu bị mủn nát, từng chút từng chút một.

Mặt sông đóng băng trong suốt như pha lê trải dài cả nghìn dặm bỗng nhiên sụt một đoạn, phía dưới lớp băng có bông hoa lê rơi xuống từ mùa xuân, có cá bơi lội, có cánh hoa khiên ngưu rơi xuống từ mùa hạ, có chạch rạch bùn, có hoa cúc rơi xuống từ mùa thu và con có cả vỏ sò. Cánh hoa mai rụng trên mặt đất bị gió thổi tan tác cùng tuyết trắng, lọ thủy tinh nhét mẩu giấy nguyện ước của ai đó không trôi nữa mà mắc kẹt nửa thân dưới vào lớp băng.

Hoa đến ngày hoa nở nhưng đối với cậu tất cả hoa trên thế gian này gộp lại cũng không thể sánh bằng đóa hàm tiếu nở trên môi cô!

Mỗi khi đến một thành phố, chúng lại đến trường đại học lớn nhất của thành phố đó mua hai bộ đồng phục trường.

Khi tới ngôi trường này mua đồng phục, Huyền chỉ về phía tòa nhà mới xây dành cho giáo viên và bảo: "Đẹp quá! Giống như khách sạn ấy nhỉ! Chắc chỉ người lắm tiền mới được ở trong đó thôi!"

Nê-oa nói như thể mình rất rành rẽ: "Trong khách sạn đều có nhiệt kế để người ta biết nhiệt độ phòng."

Huyền bảo: "Chân chúng mình chính là nhiệt kế còn gì, nhưng giờ chân em đang mất hết cảm giác, chẳng biết lạnh mấy độ nữa!"

Nê-oa viển vông: "Chúng ta kết hôn xong mà được vào đó ở thì hay biết mấy!"

Huyền thực tế hơn: "Về quê xây nhà cũng được mà! Chỉ người giàu mới được sống trong tòa nhà ấy thôi! Với em, nhà rách nhưng có anh cũng thành lành!"

Nê-oa bảo: "Không mua nổi, cũng chẳng được ở thì ta đành ngắm suông vậy!"

Suốt mấy ngày sau đó, cậu trai quỳ ở cổng trường, trong trường có hơn chục ngàn sinh viên, chẳng ai phân biệt được cậu ta có phải sinh viên trường mình thật hay không, vì cậu ta mặc đồng phục của trường nên nhiều sinh viên lương thiện và cả tin đã bố thí cho cậu ta chút tiền lẻ.

Còn cô bé quỳ dưới chân cầu gần bãi đỗ xe.

Chúng không quỳ cùng nhau nhưng cả hai đều bị tuyết bao phủ khắp người, hoa tuyết khiến hai mái đầu xanh trở thành mái đầu bạc trắng như sương.

Chúng quỳ trên mặt đất, tình yêu từ mộ phần ở nơi sâu trong lòng đất dần dần vươn lên, yêu và nhớ quấn quýt vào nhau tạo thành một bức tường hoa vững chãi trăm hoa rung rinh đua sắc, đẹp như cõi tiên.

Người đang yêu thường rất ích kỉ, họ chỉ nở hoa vì người mình yêu mà thôi.

Nê-oa quỳ ở cổng trường đến tận lúc trời sẩm tối, cậu ta giống như một người tuyết. Ở chân cầu gần bãi đỗ xe của một thành phố khác cũng xuất hiện một người tuyết tương tự.

Trên nền tuyết có một cành hoa hồng gẫy gập, đó là cành hồng mà người bán hoa ở cổng trường quẳng đi, đó là thứ bị người ta vứt bỏ.

Cậu lẳng lặng nhặt lên, lén lút như một tên trộm, rồi ngại ngùng nhét bông hoa vào cặp sách. Thậm chí chưa bao giờ cậu nói với cô bé rằng: "Anh yêu em!"

Đối với những cậu trai vùng sơn thôn nghèo khó, ba từ ấy thực khó mở miệng.

Nê-oa mang bông hoa hồng vừa nhặt được, mang tất cả số tiền mới ăn xin được ngày hôm nay và mang theo cả nỗi nhớ cô bé, cậu đứng dậy đi tìm cô, nhưng tìm mãi chẳng thấy cô đâu. Dưới chân cầu gần bãi đỗ xe xảy ra một vụ tai nạn, cách cầu khoảng năm trăm mét, cậu trai nhìn thấy cô bé nằm lăn lóc ngay cạnh một chiếc xe con sang trọng, bốn cô gái đang đứng gần xe. Họ là Lôi Lôi, Mai Tử, Tuyết Nhi và Dạ Man.

Nê-oa vừa lăn vừa bò lại phía họ, cậu ôm đầu cô bé, gào khóc lạc giọng.

Lôi Lôi hất hàm hỏi: "Cậu là ai của người chết, cậu có quan hệ gì với cô ấy?"

Nê-oa vừa khóc vừa đáp: "Cô ấy là em Huyền của tôi."

Lôi Lôi nói: "Em Huyền? Hai người là anh em à? Hai anh em cùng học một trường đại học sao? Thôi được! Một triệu tệ đủ không? Tôi đền tiền."

Nê-oa tiếp tục khóc, vì tim đau như bị ai vò nát nên giọng cậu trở nên khàn đặc.

Mai Tử nói: "Cậu ta mặc đồng phục trường mình, hay là học cùng trường mình nhỉ?"

Lôi Lôi quắc mắt dọa nạt: "Thêm mười ngàn tệ nữa là được chứ gì? Đừng thấy được đằng chân mà lân đằng đầu! Làm to chuyện không có lợi cho cậu đâu, ông bố nhà tôi là..."

Nê-oa vẫn gào khóc thảm thiết: "Không cần tiền! Không cần tiền! Không cần tiền! Trả lại em Huyền cho tôi!"

Lôi Lôi thản nhiên đốp lại: "Em Huyền nhà cậu chết rồi! Còn mỗi cái đầu đây này! Lẽ nào cậu định chặt tay chân chúng tôi lắp vào người em Huyền nhà cậu chắc?"

Mai Tử nói: "Thôi! Chúng ta giải quyết cá nhân! Đừng để dính dáng đến pháp luật!"

Lôi Lôi rút điện thoại đi động ra bảo: "Chúng ta đi rửa xe trước đã! Đen thấy mồ! Xe vừa mới mua xong mà đã... Mai tớ gọi điện xin tiền ông bố."

Dạ Man bảo: "Chị Lôi Lôi, hay chúng ta đi báo cảnh sát nhé?"

Lôi Lôi gạt đi: "Cảnh sát thì cũng để chúng ta giải quyết cá nhân chứ hơn gì đâu? Phải đền tiền thì chị đền, không liên lụy đến em đâu mà sợ. Đi rửa xe trước đã, sau đó đi ăn tiệm, hát karaoke". Lôi Lôi viết số phòng, số điện thoại và tên mình vào mảnh giấy đưa cho Nê-oa, bảo cậu ta ngày mai đến phòng kí túc lấy tiền và giải quyết việc này êm thấm thế thôi. Tinh thần Nê-oa vẫn mất kiểm soát, cậu ta cầm mảnh giấy, rồi giằng túi của Lôi Lôi lại, không cho cô ta đi, vừa giằng vừa khăng khăng hỏi xác em Huyền ở đâu.

Ba cô gái còn lại thấy Nê-oa giằng co với Lôi Lôi thì xúm lại kéo cậu ta ra để Lôi Lôi chạy thoát, cô gái sợ hãi bỏ của chạy lấy người. Bốn cô gái nhanh chóng trèo lên xe phóng vụt đi mất.

Tối hôm đó ngoài Dạ Man ra, ba cô gái còn lại uống say ngất say ngưởng, họ không hề bận tâm đến vụ tai nạn do mình gây ra, cha của Lôi Lôi là quan to, họ tin rằng Lôi Lôi đủ khả năng dàn xếp vụ này.

Dạ Man không uống rượu, cô về kí túc xá trước, Lôi Lôi và Mai Tử say nhừ, bước đi loạng choạng, chân nam đá chân chiêu, họ dìu nhau về phòng. Tuyết Nhi đi tìm ông chủ quán cơm ở gần trường nên về trường muộn hơn các bạn một chút.

Nê-oa không hề lên kế hoạch tỉ mỉ cho vụ án này, mãi sau khi gây án xong cậu ta mới nghĩ cách đào tẩu. Khi ấy cậu ta chỉ cảm thấy tuyệt vọng và đau đớn đến tột cùng, cậu ta chỉ có một ý nghĩ duy nhất là giết người, không những thế mục đích giết người vô cùng rõ ràng: Giết hết bốn người hoặc một gười trong số họ. Cậu ta đi mua rìu rồi tìm đến kí túc xá theo địa chỉ viết trên mảnh giấy mà Lôi Lôi để lại. Nê-oa lẻn vào trong kí túc nấp ở góc phòng đợi bốn cô gái về.

Bốn cô gái lần lượt về phòng, bản thân Nê-oa cũng không ngờ rằng mình có thể giết bốn người dễ dàng thế. Cậu ta chỉ biết lòng mình căm hận họ đến độ nào. Tuyết vẫn rơi đều ngoài cửa sổ, sân trường vắng đến hoang lạnh, cậu ta chợt nghĩ ra việc đắp người tuyết rồi lắp tứ chi của kẻ thù cho người tuyết, ý tưởng này hoàn toàn tự phát, chứ không hề được lên kế hoạch trước như phía cảnh sát suy đoán lúc tái hiện lại hiện trường. Có lẽ chính câu nói của Lôi Lôi đã gợi ý cho cậu ta làm vậy "Lẽ nào cậu định chặt chân tay chúng tôi lắp vào người cô ấy?" Cậu muốn tặng người mình yêu một cơ thể lành lặn và toàn vẹn, đối với Nê-oa chính bốn cô gái kia mới là hung thủ, bởi vậy cậu ta muốn lấy tứ chi của kẻ thù để đền bù cho người mình yêu.

Đầu của người tuyết nhìn thẳng về phía toà nhà giáo viên, đó là nơi mà hai kẻ ăn mày đáng thương nọ ước mơ được vào ở.

Người bán bánh chưng chẳng bao giờ biết thế nào là khúc "Ly tao"; nơi ở của những công nhân ngày đêm xây dựng bao tòa nhà thương mại cao cấp là những chiếc lán sơ sài.

Chúng lưu lạc nay đây mai đó, chúng ăn mày, nhưng chúng cũng muốn có một ngôi nhà!

Căn cứ vào đặc điểm nhận dạng qua camera và lời miêu tả của hai nhân chứng, phòng nghiên cứu hình ảnh đặc biệt và các chuyên gia hội hoạ của tỉnh đã dựng lại ảnh của hung thủ, các lực lượng cảnh sát của toàn thành phố phối hợp với nhau triển khai truy bắt tội phạm, vài ngày sau họ tìm thấy Nê-oa tại một căn phòng thuê lụp xụp, trong phòng có hung khí gây án - chiếc rìu dính máu, ngoài ra còn có túi xách của Lôi Lôi và một bông hồng gẫy gập.

Nê-oa nói với tổ chuyên án, cậu ta định sang xuân sẽ tiếp tục quỳ một mình ở những nơi mà trước đây hai người họ cùng quỳ để xin ăn.

Tổ chuyên án hỏi cung một số chi tiết gây án, Nê-oa đều khai thành thật, sau khi giết người cậu ta trèo lên ống thông gió của nhà vệ sinh tầng ba rồi nhảy xuống đụn tuyết dưới sân. Trước khi nhảy xuống, cậu ta không hề nhìn thấy Lôi Lôi bò ra khỏi phòng, cũng không nhìn thấy Tiểu yêu.

Sau này, giáo sư Lương và cán bộ hội học sinh thưởng mười ngàn tệ cho Tiểu yêu đúng như đã hứa.

Tô My hỏi: "Giờ đã phá án xong, chị cũng không ngại nói cho em một chuyện. Em biết nickname trên QQ của A Kiều là gì không?"

Tiểu yêu lắc đầu bảo không biết.

Tô My chậm rãi thốt ra hai từ: "Tiểu yêu!"

Giáo sư Lương cũng nói: "Không ai biết cháu đã làm gì trong ba phút lúc cháu mộng du, nhưng..."

Tiểu yêu tái mặt lắp bắp hỏi: "Nhưng... sao ạ?"

Giáo sư Lương nói tiếp: "Lúc cháu từ hiện trường vụ án trở về phòng, các bạn cùng phòng đã nhìn thấy cháu..."

Tiểu yêu mở to hai mắt hỏi: "Cháu làm sao ạ?"

Giáo sư Lương nói: "Cháu đang khóc, nước mắt giàn giụa khắp mặt!"

Hoa hồng tuyết (hợp với cap ^^)

Chia sẻ
Loading...
Loading...
Loading...
Chia sẻ
Danh sách chương
Loading...
Loading...
Loading...
Thể loại
Tìm kiếm
Loading...
Loading...
Loading...
Lọc truyện