Chuyện thứ ba: Vận tốc năm centimet trên giây [2]
2
Tốt nghiệp cấp III, Toono Takaki rời Tanegashima trở lại Tokyo học đại học. Để tiện cho việc sinh hoạt và di chuyển, anh thuê một căn hộ nhỏ cách ga Ikebukuro ba mươi phút đi bộ. Anh đã sống ở Tokyo từ năm tám tuổi đến mười ba tuổi, nhưng ngoài những kí ức về việc gia đình anh sống ở quận Setagaya, anh hầu như không nhớ gì về Tokyo. Khác với cư dân ở hòn đảo Tanegashima nhỏ bé anh đã sống suốt những năm tháng trưởng thành, anh thấy người Tokyo thô lỗ, lạnh lùng và thích chửi thề. Họ ngang nhiên hút thuốc trên đường phố, vứt rác bừa bãi nên chỗ nào cũng la liệt phế thải và đầu mẩu thuốc. Anh không thể hiểu được tại sao họ có thể vứt đủ các loại rác ra đường như thế, từ lon rỗng, vỏ cơm hộp đến sách báo, tạp chí. Tokyo trong ký ức của anh sang trọng và ấm áp tình người hơn.
Nhưng cuộc sống là thế.
Dù sao mình cũng đã lựa chọn nơi này để sống, anh nghĩ. Qua vài lần chuyển trường, anh đã học được cách thích nghi nhanh chóng với cuộc sống mới. Mình cũng không còn là một đứa trẻ chỉ biết sống dựa dẫm nữa rồi. Anh nhớ như in cảm giác bất an khi cả nhà chuyển từ Nagano lên Tokyo. Anh khi đó còn là một cậu nhóc, nắm chặt tay ba mẹ và nhìn ra bên ngoài. Khung cảnh cậu nhìn thấy trên chuyến tàu từ Omiya đến Shinjuku khác xa với cảnh núi rừng, đồng quê đã quá đỗi quen thuộc ở Nagano. Mình không thuộc về Tokyo, cậu bé có dự cảm không lành. Nhưng chỉ vài năm sau, cậu gặp lại cảm giác bị chối bỏ khi chuyển trường từ Tokyo về Tanegashima. Phi cơ hạ cánh xuống sân bay trên một hòn đảo nhỏ, chiếc xe của bà lao đi trên đường, xung quanh chỉ có đồng ruộng và những cột đèn trơ trọi làm cậu nhớ Tokyo đến cồn cào.
Rốt cuộc, nơi nào cũng giống nhau. Nhưng ít nhất lần này, Tokyo là do mình lựa chọn. Anh nhìn căn phòng chật chội chất đầy hành lí còn chưa mở, rồi nhìn qua cửa sổ ra những con đường dọc ngang của Tokyo và bần thần suy nghĩ.
Có lẽ chẳng có nhiều điều đáng nói về bốn năm đại học. Tuy bài vở của khoa Vật lí rất nhiều, đòi hỏi anh phải đầu tư phần lớn thời gian, nhưng ngoài lúc bắt buộc phải lên lớp, anh tranh thủ đi làm thêm. Thỉnh thoảng đi xem phim một mình hoặc tản bộ trong thành phố. Có những hôm rời khỏi nhà định đến trường rồi, nhưng nghĩ thế nào anh cúp học, ra công viên gần ga Ikebukuro đọc sách. Ban đầu, sự náo nhiệt ngoài công viên làm anh chóng mặt, nhưng sau thì quen dần. Ở trường hay ở chỗ làm thêm, anh cũng có bạn bè mới, những mối quan hệ mới. Theo thời gian, bạn xã giao vơi dần, nhưng bù lại anh có những người bạn thân thiết, dù số lượng không nhiều. Thỉnh thoảng, hai ba người bạn tụ tập trong căn hộ của ai đó, mua chút rượu nhạt, rồi thức thâu đêm, vừa hút thuốc vừa nói chuyện nhân tình thế thái. Qua bốn năm, có những quan điểm đã phai mờ, thay đổi dần, nhưng cũng có những quan điểm càng thêm bền vững theo thời gian.
Mùa thu năm thứ nhất đại học, anh có người yêu. Hai người quen nhau ở chỗ làm thêm, cô bằng tuổi anh, gia đình sống ở Yokohama.
Lúc đó, công việc của hai người là bán cơm hộp cho căng tin trường trong giờ nghỉ trưa. Anh rất muốn làm thêm bên ngoài nhưng việc học quá bận, nên xin làm ở căng tin trường là phù hợp nhất vì tranh thủ được thời gian nghỉ trưa, công xá cũng tương đối ổn. Cứ 12 giờ 10 phút, hết tiết hai là anh chạy thẳng đến căng tin, chuyển những thùng đựng cơm hộp từ kho đến quầy bán hàng. Kể cả anh là hai người, họ bán hết sạch một trăm hộp cơm trong vòng ba mươi phút. Còn khoảng mười lăm phút mới vào tiết ba nên hai người lui vào một góc, giải quyết nhanh gọn bữa trưa của mình.
Anh làm công việc này được ba tháng, người làm chung với anh lúc đó chính là “cô gái đến từ Yokohama”.
Cô là mối tình đầu của anh. Tính ra anh học được rất nhiều điều từ cô. Những ngày bên cô, anh đã nếm trải đủ mọi hương vị của tình yêu, cả niềm vui và nỗi buồn, cả hạnh phúc và cay đắng. Họ ngủ với nhau, cô cũng chính là người con gái đầu tiên trong cuộc đời anh. Con người có vô vàn trạng thái cảm xúc, nhưng tựu chung lại có hai loại: loại điều khiển được và loại không điều khiển được, trong đó loại không điều khiển được vẫn chiếm đa số. Anh hiểu được rằng, yêu đương và ghen tuông thuộc loại thứ hai.
Mối quan hệ của họ kéo dài được một năm rưỡi. Họ chia tay khi có một người con trai anh không quen tỏ tình với cô.
“Em rất yêu anh, Toono ạ, đến giờ vẫn yêu. Nhưng Toono không yêu em nhiều đến thế. Càng nhận ra em càng đau khổ,” cô nói và khóc trên cánh tay anh.
Không có chuyện đó đâu, anh muốn giải thích như thế. Nhưng anh hiểu, vì anh mà cô phải dằn vặt ưu tư, nên anh không níu kéo. Lần đầu tiên, anh biết khi trái tim đau đớn vì mất đi người mình yêu thì cơ thể mình cũng đau đớn, khổ sở không kém.
Đến giờ, anh vẫn còn nhớ rõ cô gái ấy, bởi hình ảnh họ chóng vánh giải quyết bữa trưa thời còn chưa yêu nhau đã in đậm trong kí ức anh. Quanh đi quẩn lại anh chỉ ăn đồ mua ở cửa hàng tiện lợi, còn cô thường mang theo cơm nhà nấu. Lúc đó, cô mặc nguyên chiếc tạp dề của chỗ làm, ngồi nhai từng hạt cơm, đều đặn và chậm rãi. Phần ăn của cô chỉ bằng một nửa của anh nhưng lúc nào anh cũng là người ăn xong trước. Thấy thế, anh toàn trêu chọc làm cô giận dỗi.
“Toono cũng ăn chậm lại đi. Không thì lãng phí lắm.”
Mãi về sau này, anh mới hiểu khi nói “lãng phí”, cô muốn ám chỉ khoảng thời gian hai người ăn trưa cùng nhau, đáng lẽ có thể kéo dài hơn…
Anh quen cô gái thứ hai, cũng ở chỗ làm thêm. Vào năm thứ ba đại học, anh xin làm thêm ở một lò luyện thi, vị trí trợ giảng. Một tuần bốn lần, cứ học xong, anh lại lao thẳng ra ga Ikebukuro, bắt tàu chuyến Yamanote đến ga Takadanobaba, sau đó chuyển sang tuyến Tousai đến ga Kamirakuzaka. Đó là một cơ sở nhỏ, chỉ gồm một giáo viên Toán, một giáo viên Anh văn và năm trợ giảng tính cả anh. Anh trợ giảng môn Toán.
Giáo viên Toán ngoài ba mươi, ngoại hình trẻ hơn so với tuổi, nhưng vẫn toát ra vẻ cuốn hút của một người đàn ông chín chắn thành đạt, có vợ đẹp con khôn. Về mặt công việc, thầy rất nghiêm khắc nhưng ai cũng nể phục tài năng lẫn phẩm chất của thầy. Trong giờ học, thầy luôn chú trọng đến kiến thức dành cho những em chuẩn bị thi đại học, đồng thời khéo léo lồng ghép ý nghĩa và sức hấp dẫn vào những con số, tạo niềm đam mê cho các em. Nhờ công việc làm trợ giảng, Toono đã hiểu sâu sắc hơn về môn Giải tích đang học ở trường. Không hiểu sao, thầy dạy Toán này rất quý Toono và thường giao cho anh những công việc liên quan đến nghiệp vụ giảng dạy như quản lí sổ đầu bài, chấm điểm, soạn giáo án, đánh giá xu hướng ra đề thi… Và anh cố gắng hết sức để đáp ứng được kì vọng của thầy. Nhờ đó, thu nhập của anh tương đối ổn định.
Cô gái thứ hai cũng là trợ giảng ở đây, sinh viên trường Waseda. Một cô gái xinh đẹp, có lẽ là đẹp nhất trong những người con gái Toono quen lúc bấy giờ. Mái tóc dài đen óng, mắt to đến ngạc nhiên, không quá cao nhưng dáng người cân đối. Ở cô không hẳn là vẻ đẹp của một thiếu nữ, mà là vẻ đẹp gần gũi với tự nhiên, như nai vàng ngơ ngác tìm bạn, hay chim non tung cánh giữa trời.
Cô nhanh chóng trở thành tâm điểm của mọi ánh nhìn, từ học sinh, giáo viên đến những người làm trợ giảng. Họ đều tìm cơ hội để bắt chuyện với cô nhưng riêng Toono thì khác, ban đầu anh cố tình giữ khoảng cách. Có lẽ bởi cô quá đẹp, một vẻ đẹp phi hiện thực chỉ nên đứng ở xa và ngắm nhìn, chứ không phải để trò chuyện suồng sã. Nhưng có lẽ nhờ quan sát từ xa, anh dần nhận ra có điều khác thường ở cô, một khiếm khuyết nhỏ trong một chỉnh thể hoàn hảo.
Mỗi lần được ai đó bắt chuyện, cô đều đáp lại bằng một nụ cười tươi tắn đầy mê hoặc, nhưng trừ những lúc cần thiết, chẳng mấy khi cô chủ động chuyện trò với ai. Xung quanh đều cho rằng cô là người thân thiện, dễ gần mà không hề nhận ra nét u buồn, cô độc trong con người cô.
Anh lấy làm lạ khi người ta có thể dành cho cô những lời có cánh như “Một người vừa đẹp, vừa không tỏ ra ngạo mạn, luôn hòa đồng với mọi người”. Tất nhiên, anh không có ý định làm người khác thay đổi suy nghĩ của họ về cô, anh cũng không muốn biết tại sao họ lại hiểu nhầm hay giữ thái độ như vậy. Chỉ có điều, nếu cô không thực sự muốn giao tiếp với người khác, thì cô cứ dừng lại, làm theo ý thích của mình. Hãy nghĩ đơn giản rằng thế giới có nhiều loại người, mỗi người đều có bản ngã và tạo nên sự khác biệt riêng. Đừng tự trói buộc mình vào những phiền toái không đáng có.
Nhưng ngày hôm đó, anh buộc phải bắt chuyện với cô. Một đêm tháng Mười hai lạnh giá, đêm trước Giáng sinh. Thầy dạy Toán có việc gấp phải về nhà sớm, chỉ còn lại anh và cô ngồi soạn bài giảng trong văn phòng. Một tiếng sau, anh phát hiện dáng ngồi của cô có gì bất thường. Dù đang rất tập trung vào công việc của mình nhưng như có linh tính kì lạ mách bảo, anh ngẩng đầu lên. Cô gái ngồi đối diện anh, mặt cúi gằm xuống trang giấy, người đang khẽ run lên. Đôi mắt mở to nhìn trừng trừng xuống trang giấy nhưng chắc hẳn tâm trí cô không để ở đó. Mồ hôi rịn ra, ướt đẫm trán. Anh hoảng hốt gọi tên cô nhưng không có câu trả lời, anh bèn đứng dậy, lay nhẹ vào vai cô.
“Sakaguchi, em sao thế? Vẫn ổn chứ?”
“… thuố…”
“Gì cơ?”
“Thuốc. Em phải uống thuốc, lấy nước cho em,” cô thều thào đáp. Anh chạy ra khỏi phòng như một cái máy, đến máy bán đồ uống tự động đặt trong hành lang mua một chai trà. Anh mở sẵn nắp rồi đưa nó cho cô. Tay cô vẫn còn run, rút một vỉ thuốc trong túi, “Lấy giùm em ba viên”. Anh dốc ra ba viên thuốc màu vàng cho cô uống. Đầu ngón tay ấm nóng anh chạm vào bờ môi mềm mại của cô.
Sau đó hai người hẹn hò nhưng mối tình ngắn ngủi, kéo dài đúng ba tháng. Cô đã để lại trong anh vết thương lòng mà anh nghĩ suốt đời không quên được. Và anh chắc hẳn anh cũng để lại một vết thương vừa đau vừa sâu chẳng kém cho cô. Có lẽ anh chưa từng yêu ai và trở nên chán ghét ai chóng vánh như vậy. Họ mất hai tháng để vun vén hạnh phúc, dành trọn yêu thương cho nhau, nhưng một tháng cuối cùng họ chỉ nghĩ cách làm tổn thương nhau. Những ngày đầu hẹn hò, họ say sưa trong tình yêu và hạnh phúc bao nhiêu thì chuỗi ngày sau đó họ gặm nhấm vị đắng và giày vò nhau bấy nhiêu. Họ sẵn sàng ném vào mặt nhau những lời lẽ cay nghiệt và tàn nhẫn nhất.
Nhưng đến bây giờ có một điều anh thấy kì lạ. Rõ ràng đã xảy ra ngần ấy chuyện, nhưng ấn tượng sâu sắc nhất cô để lại trong anh vẫn là cái đêm tháng Mười hai năm ấy, trước khi họ hẹn hò. Bấy giờ, anh nín thở ngắm nhìn gương mặt cô hồng hào trở lại sau khi uống mấy viên thuốc, cảm giác mình đang quan sát một hiện tượng lí thú. Những cánh hoa quý giá, độc nhất vô nhị trên thế giới đang từ từ hé mở trước mắt anh. Anh nhớ lại thuở xưa, mình đã từng chứng kiến những bí ẩn sâu thẳm của thế giới như thế này. Mình sẽ không bao giờ để mất bông hoa ấy lần nữa, anh tự nhủ với lòng. Cho dù hình như cô từng cặp với thầy dạy Toán, cũng không sao hết.
Mãi đến mùa hè năm thứ tư, anh mới bắt đầu đi tìm việc, muộn hơn so với các bạn. Sau khi chia tay cô vào tháng Ba, anh mất thêm chừng ấy thời gian để tìm lại cân bằng cho tâm hồn mình. Mùa thu cùng năm, nhờ sự giới thiệu và chỉ bảo tận tình của thầy giáo hướng dẫn, anh được một công ty nhận vào làm. Anh không biết đó có phải là việc mình muốn và mình nên làm hay không nhưng trước hết anh nghĩ mình phải dồn tâm sức vào một việc gì đó. Anh muốn bước sang một thế giới khác hơn là ở lại trường làm công việc nghiên cứu. Với anh việc học đại học là quá đủ, anh không muốn mình bị nhốt mãi trong một chiếc lồng.
Sau lễ tốt nghiệp, anh trở về phòng thu dọn đồ đạc. Nhận ra ô cửa sổ bếp be bé mở về hướng Đông, tòa nhà Sunshine cao lừng lững một góc trời, nhuộm sắc hoàng hôn. Phía sau đó là một mảng tối bao trùm những căn nhà bằng gỗ cũ kĩ. Cửa sổ hướng Nam, nhìn từ đây thấy mấy tòa chung cư khu Shinjuku chỉ nhỏ như những ô vuông bé xíu. Các cao ốc dễ phải đến hơn hai trăm mét cứ liên tục biến đổi sắc thái tùy từng thời điểm trong ngày hay tình hình thời tiết. Chính những tòa cao ốc ấy sẽ được đón tia nắng đầu tiên của ngày mới như những rặng núi cao là nơi đầu tiên đón mặt trời lên, hay những ngày mưa phùn, cũng những tòa nhà cao sừng sững ấy chìm vào màn mưa như những dải đá ngầm chìm sâu dưới đáy biển. Bốn năm qua, anh đã ngắm nhìn chúng với biết bao cảm xúc, suy tư trong lòng.
Bên ngoài ô cửa, bóng đêm dần buông và hàng triệu ánh đèn dưới lòng đường đang tỏa sáng kiêu hãnh. Anh với tay lấy chiếc gạt tàn đang đặt trên một chiếc thùng các tông và châm thuốc. Sau đó ngồi bệt xuống chiếu, vừa nhẩn nha hút thuốc vừa ngắm nhìn thành phố lên đèn.
Mình sẽ ở lại thành phố này mãi mãi, anh quyết định như thế.