Chuyện thứ nhất: Hoa anh đào [3]

3

Vào ngày hẹn với Akari, trời mưa suốt từ sáng. Bầu trời như bị đậy bằng một cái vung xám xịt. Những hạt mưa buốt giá rời cái vung ấy thia lia rơi xuống. Một ngày đặc quánh không khí mùa đông, bởi vị thần mùa xuân chừng như đổi ý nên chưa muốn đến. Tôi khoác áo dạ nâu ra ngoài bộ đồng phục học sinh, cẩn thận nhét lá thư gửi Akari vào sâu trong cặp, rảo bước tới trường. Chắc mẩm phải nửa đêm mới về đến nhà nên tôi để lại mảnh giấy báo rằng buổi tối về muộn cho ba mẹ yên tâm. Ba mẹ đâu biết chuyện tôi và Akari nên dù có trình bày mọi chuyện thật rõ ràng, chắc gì ba mẹ đã đồng ý cho đi.

Cả buổi học hôm đó, tôi chỉ nhìn ra ngoài cửa sổ, lòng bồn chồn không yên. Thú thực tôi chẳng còn tâm trạng nào để theo dõi bài giảng, bởi đang cố mường tượng trong đầu hình ảnh Akari mặc đồng phục trông như thế nào, chúng tôi sẽ nói chuyện gì với nhau, và cả giọng nói dễ thương của em. Đúng rồi, ngày đó tôi còn chưa nhận ra nhưng giờ thì tôi biết, tôi yêu giọng nói của Akari. Tôi yêu vô cùng giọng nói truyền cảm, có sức lay động cả không gian xung quanh ấy. Mỗi lần nghe thanh âm êm ái, ấm áp của em, tôi cảm thấy mình được khích lệ rất nhiều. Tôi sắp được nghe lại giọng nói đó rồi. Chỉ nghĩ đến điều ấy thôi, toàn thân tôi đã nóng bừng bừng như có lửa đốt, và tôi phải nhìn mưa ngoài cửa sổ để trấn an mình.

Mưa!

Vận tốc rơi là năm mét một giây. Từ trong lớp nhìn ra, khung cảnh bên ngoài nhuốm màu xám xịt, ánh đèn thấp thoáng từ những ô cửa sổ chung cư hay cao ốc cứ mờ dần mờ dần. Tôi đăm đăm nhìn những đốm sáng nhỏ nhoi đấy cho đến khi chúng tắt hẳn, thi thoảng lắm mới nhìn thấy một ngọn đèn le lói. Trong lúc tôi mải ngắm nhìn như thế, mưa càng lúc càng nặng hạt. Đến khi tan học, tuyết cũng bắt đầu rơi.

Tôi chờ đến khi trong lớp không còn ai, mới dám lôi thư và mảnh giấy ghi chú trong cặp ra. Sau một hồi lưỡng lự, tôi nhét thư vào túi áo khoác. Bằng mọi giá, tôi muốn trao tận tay lá thư cho Akari, nên phải đặt nó ở vị trí mà lúc nào đầu ngón tay mình cũng có thể chạm vào được mới yên tâm. Mảnh giấy ghi chú là danh sách những chuyến tàu tôi phải lên, giờ tàu chạy và chuyển tàu như thế nào. Tôi đã xem đi xem lại hàng chục lần nhưng vẫn muốn kiểm tra thêm một lần nữa.

Tôi sẽ xuất phát từ ga Goutokuji trên tuyến Odakyu vào lúc 3 giờ 54 phút đi Shinjuku. Sau đó, tôi sẽ chuyển sang tuyến Saikyo, đến ga Omiya, từ đây chuyển sang tuyến Utsunomiya đến ga Koyama. Cuối cùng, tôi chuyển sang tuyến Ryomo và đến ga Iwafune vào lúc 6 giờ 45 phút tối. Tôi hẹn gặp Akari lúc 7 giờ ở ga Iwafune nên đi theo lịch trình này là vừa kịp giờ hẹn. Đây là lần đầu tiên tôi tự mình đi một quãng đường dài đến thế. Tôi tự nhủ, “Không sao, tất cả rồi sẽ ổn. Sẽ không có bất kì khó khăn nào ở phía trước cả.” Tôi tin như vậy.

Tôi bước xuống cầu thang, khu học xá tối om, không còn một bóng người. Để thay giày, tôi phải mở cánh cửa tủ sắt, tiếng kim loại va vào nhau trong đại sảnh vắng tanh tạo nên thứ âm thanh nghe rờn rợn, làm tim tôi đập loạn lên. Tôi bỏ lại trong tủ đồ chiếc ô mang theo lúc sáng, bước ra khỏi đại sảnh và nhìn lên trời. Hồi sáng còn ngai ngái mùi của mưa ẩm, giờ lại là hương vị lạnh ngắt của tuyết, so với mưa, nó trong trẻo hơn, tinh khiết hơn, thấm thía lòng người hơn. Tôi nhìn bầu trời xám xịt, hàng vạn bông tuyết trắng xóa bời bời đổ xuống, nhìn lâu sẽ có cảm giác mình sắp bị nó nuốt trọn. Tôi vội kéo mũ trùm lên đầu rồi nhanh chóng chạy về phía ga.

Đây cũng là lần đầu tiên tôi đi một mình đến ga Shinjuku, một ga chẳng lấy gì làm thân quen với cuộc sống thường nhật của tôi. Nói mới nhớ, cách đây mấy tháng tôi có hẹn với một bạn cùng lớp đi xem phim ở Shinjuku. Lúc đó, cả tôi và bạn đã đến ga này trên tuyến Odakyu, nhưng sau đó chúng tôi bị lạc ở cửa Đông tuyến JR, lúc tìm đường ra khỏi ga. Sự chộn rộn, náo nhiệt của ga Shinjuku còn để lại ấn tượng mạnh mẽ trong tôi, hơn cả bộ phim hôm đó chúng tôi cùng xem.

Ra khỏi cửa soát vé của tuyến Odakyu, tôi đảo mắt tìm bảng chỉ dẫn để không bị lạc lần nữa, chân bước nhanh về hướng có ghi “Cửa bán vé tuyến JR”. Bên kia khoảng rộng mênh mông có hàng cột trải dài là khu vực kê san sát mấy chục cỗ máy bán vé tự động, tôi chọn một hàng thưa người nhất, chờ mua vé. Đứng trước tôi là một phụ nữ, trông như dân văn phòng, mùi nước hoa dịu ngọt của chị không hiểu sao làm ngực tôi đau nhói. Hàng kế bên nhích dần lên, lần này là mùi băng phiến từ áo khoác của người đàn ông trung niên đứng ngang hàng với tôi, gợi nhắc tôi về nỗi bất an khi chuyển nhà. Khoảng không gian dưới lòng đất bị lấp đầy bởi đủ loại tạp âm, hỗn độn và huyên náo. Mũi giày của tôi lạnh buốt vì tuyết đang tan ra, đầu thì cứ ong ong lên. Đến lượt mình mua vé, tôi mới nhận ra không có nút bấm nào trên máy (thời đó hầu như tất cả các máy bán vé tự động đều là dạng nút bấm). Tôi liếc sang bên cạnh mới biết chỉ cần chạm tay vào màn hình là có thể lựa chọn vé cần mua.

Qua cửa soát vé tự động để vào sâu trong ga, tôi nhìn kĩ bảng chỉ dẫn rồi nhanh chóng len lỏi vào dòng người tìm lối ra đường ray tuyến Saikyo. Nào là “Yamanote – ngoại tuyến”, “Soubu – hướng đi Nakano”, nào là “Yamanote – nội tuyến”, “Soubu – hướng đi Chiba”, nào là “Chou – tàu nhanh”, “Chou – tàu tốc hành”… Băng qua hàng loạt điểm dừng chờ tàu, tôi mới trông thấy tấm bản đồ chỉ dẫn trong ga. Tuyến Saikyo ở góc trong cùng. Tôi rút mảnh giấy ghi nhớ trong túi ra, xem lại thời gian và nhìn đồng hồ (chiếc đồng hồ G-shock màu đen là món quà do ba mẹ tặng nhân dịp tôi lên cấp II). Chuyến tàu khởi hành từ ga Shinjuku, lúc 4 giờ 26 phút. Đồng hồ chỉ 4 giờ 15 phút. Thế là yên tâm rồi, tôi vẫn còn dư mười phút.

Đang đi thì nhìn thấy nhà vệ sinh, tôi bèn vào cho yên tâm. Tôi sẽ ngồi trên tuyến Saikyo những bốn mươi phút nên tiện thì “giải quyết” luôn. Vừa rửa tay, tôi vừa nhìn lại mình trong gương. Hình ảnh tôi hiện lên mờ ảo dưới ánh đèn nê ông, sau mặt gương cáu bẩn. So với cách đây nửa năm, tôi đã cao thêm mấy phân và trông có vẻ chững chạc hơn. Không hiểu vì mưa lạnh hay vì tinh thần phấn chấn mà má tôi đỏ ửng lên, điều đó làm tôi có chút ngượng ngùng. Thế là tôi sắp được gặp lại Akari.

Lượng người đổ về nhà sau giờ tan tầm đông đến nỗi tàu không còn một chỗ ngồi. Như bao người khác, tôi tìm được một chỗ có thể dựa lưng ở thành tàu phía trong cùng, hết nhìn tờ áp phích quảng cáo lại nhìn ra bên ngoài. Thỉnh thoảng liếc sang hành khách xung quanh. Tâm trạng rối bời và mắt không thể tập trung vào một điểm nên tôi từ bỏ ý định lôi cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng vẫn để trong cặp ra đọc. Đành quay sang nghe lén mẩu đối thoại giữa một nữ sinh cấp III ngồi hàng ghế gần đấy với một cô nữa áng chừng là bạn đang đứng ngay trước mặt cô ta. Cả hai đều mặc váy ngắn phô đôi chân đi vớ thụng.

“Thấy anh chàng bữa trước sao?”

“Còn ai nữa, cái anh học cấp III Kita đó.”

“Hả, gu ‘thẩm mỹ’ có bình thường không đấy?”

“Sao đâu, mình thích kiểu đấy.”

Chắc họ đang bàn tán về anh chàng mới quen. Dù không phải họ nói về tôi, tự dưng tôi vẫn thấy mặt nóng bừng vì ngượng. Tôi kiểm tra lại để chắc chắn lá thư vẫn nằm gọn trong túi áo khoác rồi đưa mắt nhìn ra bên ngoài. Đoàn tàu vừa đi qua cây cầu khá cao, bắc ngang sông. Đây cũng là tuyến đường lần đầu tiên tôi đi qua. Cách nó rung lắc, hay những âm thanh nó phát ra khác hẳn với tàu tuyến Odakyu tôi vẫn đi hằng ngày. Điều đó càng làm lớn thêm nỗi bất an khi phải một mình đến nơi xa lạ. Nắng chiều đông yếu ớt nhuộm chân trời thành màu cam nhạt. Phía xa kia là bóng hình những ngôi nhà nằm san sát nhau. Tuyết vẫn rơi mải miết. Tàu đi hết Tokyo và có lẽ đã sang địa phận tỉnh Saitama. Phong cảnh tự nhiên tuy khác, nhưng kiến trúc đô thị thì vẫn nhang nhác thế. Đất đai bị lấp đầy bởi những tòa nhà hay chung cư cao vừa tầm.

Tàu dừng lại một lúc ở ga Musashi Urawa để hành khách có nhu cầu đi tàu nhanh còn chuyển tuyến. “Những hành khách cần đến Omiya sớm hơn vui lòng chuyển sang tuyến đối diện.” Loa phát đi thông báo và hơn nửa số hành khách lục tục xuống tàu, bắt đầu xếp hàng ở phía bên kia, tôi cũng đi theo đến đứng ở cuối hàng. Tuyết lất phất rơi, mây trĩu thấp phía trời Tây và xuyên qua nó là những tia nắng cuối ngày, phủ xuống nhà cửa đằng xa một màu ảm đạm. Nhìn khung cảnh đó, tôi chợt nhớ ngày xưa tôi đã từng đi qua ga này.

Đúng rồi, đây không phải là lần đầu tiên.

Ngay trước khi tôi vào lớp Ba, gia đình chuyển từ Nagano lên Tokyo. Khi đó tôi cùng ba mẹ cũng đến Shinjuku qua ga Omiya. Tôi còn nhớ như in cảm giác lo sợ thế nào khi chứng kiến sự huyên náo của Omiya, khác xa khung cảnh đồng quê yên bình ở Nagano tôi vẫn thấy trước kia. Tôi sợ phát khóc khi nghĩ đến việc từ giờ mình sẽ phải sống giữa một nơi chỉ có những tòa cao ốc lạnh giá và tách biệt. Vậy mà đã năm năm qua, không hiểu bằng cách nào tôi vẫn tồn tại đến giây phút này? Tôi mới mười ba tuổi thôi, nhưng không hề cho rằng ý nghĩ của mình có phần cường điệu. Tôi phải biết ơn Akari vì đã sát cánh cùng tôi trong suốt những năm qua và ước gì mình cũng có ý nghĩa đặc biệt như thế với em.

Ga Omiya cũng rất lớn nhưng quy mô chưa bằng Shinjuku. Tôi rời khỏi tuyến Saikyo, leo lên một cầu thang bộ rất dài trước khi hòa vào dòng người đông đúc trong ga và tiến thẳng đến đường ray tuyến Utsunomiya. Tuyết bám trên giày của hành khách đi lại trong ga đang tan dần ra, làm mùi tuyết xộc thẳng lên mũi. Tuyến Utsunomiya cũng chủ yếu là hành khách về nhà sau giờ tan tầm nên đã có một lượng người rất lớn đang xếp hàng chờ lên tàu. Tôi đứng tách ra, lui vào một góc chờ đợi. Vì chắc mẩm dù xếp hàng đi nữa thì lên tàu cũng không có ghế ngồi. Lúc đó, lần đầu tiên trong ngày, dự cảm không lành ập vào tôi. Phải mất đến vài giây tôi mới nhận ra, đấy là bởi có thông báo của nhà ga.

“Chúng tôi xin được thông báo với tất cả quý khách. Do tuyết rơi nhiều, chuyến tàu đi Koyama, tuyến Utsunomiya, sẽ đến trễ tám phút so với lịch trình ban đầu.”

Trước khi có thông báo này, tôi không hề tính tới khả năng tàu đến trễ. Tôi nhìn giờ tàu trên mảnh giấy ghi chú, rồi lại nhìn đồng hồ. Theo dự tính thì tôi sẽ lên tàu lúc 5 giờ 5 phút, nhưng bây giờ đã là 5 giờ 10 phút. Dường như một luồng khí lạnh bất chợt thổi qua làm toàn thân tôi run rẩy. Hai phút sau, tiếng còi tàu kéo dài vọng lại từ xa và ánh đèn pha rọi vào người vẫn không làm tôi hết run.

Tuyến Utsunomiya thậm chí còn đông hơn cả tuyến Odakyu hay Saikyo. Bởi đúng giờ tan tầm và bọn trẻ tan học nên dòng người đổ về ga ngày càng lớn. Trong số những chuyến tàu hôm nay tôi đã lên, tàu này trông cũ hơn, ghế ngồi chia thành từng cụm bốn chiếc và xếp thành hai hàng đối diện nhau. Nó gợi nhớ những tuyến tàu địa phương lúc tôi còn sống ở Nagano. Tôi vịn một tay lên thành ghế, tay kia nhét vô túi áo khoác và đứng gần lối đi chật hẹp giữa các hàng ghế. Hơi ấm từ lò sưởi lan tỏa khắp toa tàu, bên ngoài sương đọng thành hạt lấm tấm phủ đầy ô cửa kính. Nét mặt của mọi người đượm vẻ mệt mỏi, họ ngồi im lặng bên nhau không ai buồn nói chuyện, dáng vẻ trông vừa vặn phù hợp với con tàu cũ kĩ đang lững lờ ánh đèn nê ông, chỉ mình tôi là không ăn nhập với nơi này. Tôi cố hít một hơi thật sâu để xua tan cảm giác lạc lõng đến khó chịu, rồi lặng nhìn từng khung cảnh lần lượt lướt qua bên ngoài cửa sổ.

Nhà cửa bắt đầu thưa thớt và càng lúc càng xa khuất khỏi tầm mắt, chỉ còn đồng ruộng phủ trắng tuyết, trải dài đến vô tận. Ánh đèn phát ra từ khu nhà dân phía xa kia giờ đã biến thành những chấm nhỏ li ti. Trên những cột chỉ dẫn lên núi chạy dọc hai bên đường, đèn hiệu đỏ sáng nhấp nháy. Bóng dáng đen thẫm của nó in trên mặt tuyết trông giống hệt những chiến binh thép khổng lồ đứng trang nghiêm trong bão. Tôi vừa ngắm nhìn thế giới hỗn mang, xa lạ ấy vừa nghĩ đến cuộc hẹn với Akari. Nếu đến trễ, tôi không biết làm thế nào để liên lạc được với em. Thời của chúng tôi, học sinh cấp II mang điện thoại di động vẫn là một điều khá xa xỉ. Thậm chí tôi không biết số điện thoại bàn của Akari.

Bên ngoài cửa sổ, tuyết rơi mỗi lúc một dày và nặng.

Con tàu vẫn oằn mình chạy trong màn tuyết trắng xóa, hơn một tiếng đồng hồ trôi qua rồi mà ga Koyama vẫn còn rất xa. Khoảng cách giữa các ga lẻ như bị kéo dài ra, thời gian dừng tàu cũng lâu đến mức khó hiểu. Mỗi lần như thế, trên tàu vẫn chỉ phát đi giọng thông báo đều đều, “Thành thật xin lỗi quý khách về sự chậm trễ. Do các chuyến tàu khác cũng bị chậm nên chúng tôi xin được dừng ở ga trong giây lát. Xin quý khách vui lòng đợi…”

Tôi nhìn đồng hồ, hết lần này đến lần khác, và chỉ ước mong sao kim chỉ giờ không nhích đến số 7. Nhưng vô ích thôi, con tàu không nhúc nhích dù chỉ một centimet, chỉ có thời gian vẫn vô tình trôi. Cứ thế, tôi có cảm giác đau và nhức như đang bị hàng ngàn hàng vạn mũi tên vô hình chĩa vào mình. Tôi gần như không nhìn thấy gì xung quanh, lớp không gian đặc quánh như thu hẹp lại dần. “Trễ rồi, vô ích thôi,” tôi tự nhủ.

Đã quá 7 giờ mà tàu còn chưa đến Koyama thì làm sao tôi đến đúng hẹn được. Khi chỉ còn cách Koyama hai ga, tàu dừng lại ở Nogi. Từ ga này đến Iwafune, là ga mà Akari đang chờ, còn mất một lần đổi tàu và khoảng hai mươi phút di chuyển nữa. Đã hai tiếng đồng hồ trôi qua từ lúc tàu rời ga Omiya, sự kiên nhẫn thì mất dần mà nỗi tuyệt vọng lại đầy lên. Có lẽ trong cuộc đời, tôi chưa bao giờ thấy quãng thời gian nào lại dài và khổ sở như lúc này. Tôi thậm chí còn không biết trong tàu đang nóng hay lạnh. Điều duy nhất tôi có thể cảm nhận được là hương vị của đêm sâu, và chợt nhận ra bụng đói cồn cào vì từ trưa đến giờ không ăn uống gì hết. Lúc này tôi mới nhìn ra xung quanh, hành khách xuống gần hết, chỉ còn tôi vẫn đứng. Tôi tìm một chiếc ghế trống gần đó, buông mình xuống và lập tức cảm tưởng cả người tê dại đi, bao mệt mỏi tích tụ trong cơ thể từ đầu tới giờ có dịp trào ra, qua từng tế bào. Nhưng tôi vẫn không thể nào trút bỏ hết những căng thẳng vẫn chất chứa trong lòng mình được. Tôi rút lá thư gửi Akari ra khỏi túi áo khoác và nhìn chằm chằm vào nó. Quá giờ hẹn mất rồi, hẳn là Akari đang lo lắm đây. Tôi nhớ lại lần nói chuyện cuối cùng với em qua điện thoại. Tại sao? Tại sao mọi sự với chúng tôi luôn bất trắc thế này?

Tàu đỗ lại ga Nogi khoảng mười lăm phút rồi tiếp tục chuyển động.

Cuối cùng cũng đến được Koyama, lúc đó đã quá 7 giờ 40 phút. Tôi xuống tàu và đổi sang tuyến Ryomo. Tờ ghi nhớ giờ đã hoàn toàn vô dụng nên tôi vo tròn lại và ném vào thùng rác gần đấy.

Ga Koyama tương đối lớn, nhưng rất vắng người. Lúc chạy qua, tôi chỉ trông thấy lác đác vài người ngồi đợi ở phòng chờ rộng thênh thang. Chắc toàn những người lái xe đến đây để đón người thân. Họ ngồi đó an nhiên, bình thản, hài hòa với cảnh vật, chỉ mình tôi là bươn bả lao đi.

Tôi phải chạy xuống cầu thang, băng qua lối đi bộ dưới lòng đất để đến được nhà chờ tuyến Ryomo. Lúc này mới kịp nhận ra, dưới chân mình không phải là lớp gạch men như thường thấy, thay vào đó là mặt bê tông thô nhám. Hai hàng cột vuông cũng bằng bê tông chạy đều tăm tắp, cuốn theo các loại đường ống kéo dài lên đến tận trần nhà. Đường ray nằm giữa hai hàng cột cao lớn đó. Không gian u tịch bị lấp đầy bởi tiếng gầm gừ của gió và tuyết. Ánh đèn pha trắng xanh của con tàu như muốn đâm xuyên bức màn trong đường hầm u tối. Tôi đi qua mấy ki ốt đã đóng của im lìm, chỉ sợ mình đi lạc. May thay vừa lúc nhận ra có bóng người đang đứng chờ tàu. Không khí lạnh lẽo bao trùm lên vạn vật, chỉ có ánh đèn vàng từ quầy mì soba và hai cái máy bán hàng tự động còn phảng phất chút hơi ấm.

“Vì lí do thời tiết xấu, tàu của chúng tôi sẽ khởi hành muộn hơn dự kiến. Chúng tôi thành thật cáo lỗi vì sự chậm trễ này. Mong quý khách kiên nhẫn chờ đến khi tàu có thể khởi hành.” Vẫn là tiếng loa thông báo vô cảm như mọi lần. Tôi kéo mũ áo khoác trùm lên đầu cho đỡ lạnh, và đứng nép mình vào cái cột gần đấy để tránh gió trong lúc chờ tàu. Một luồng khí lạnh thốc lên từ mặt nền bê tông, cảm giác tê buốt toàn thân. Người tôi sắp sửa đóng băng mất, vừa lạnh vừa đói, nhưng trên hết là cảm giác sốt ruột và có lỗi khi bắt Akari phải chờ đợi mình. Tôi trông thấy hai người đàn ông đứng ăn mì soba bên xe đẩy, tự dưng thèm được húp xì xụp bát mì nóng lúc này. Nhưng nghĩ mà xem, Akari cũng đang bụng đói chờ đợi tôi, sao nỡ ăn một mình ở đây. Thôi thì một lon cà phê nóng chắc không có gì là quá đáng, thế là tôi tiến lại gần máy bán hàng tự động. Vừa rút ví trong túi ra, lá thư gửi Akari cũng rơi theo.

Giờ ngẫm lại, nếu không có sự việc như thế xảy ra, tôi cũng đâu dám chắc là mình sẽ trao lá thư cho Akari. Bởi dù có thế nào, kết quả chúng ta nhận được vẫn không hề thay đổi. Cuộc đời sẽ đặt ra muôn vàn thử thách, muôn vàn điều chúng ta không hề mong muốn, và lá thư chỉ là một mắt xích nhỏ, rất nhỏ trong số đó thôi. Rốt cuộc, tình cảm dù mạnh mẽ nồng nhiệt đến đâu đi nữa thì cũng sẽ phai mờ theo thời gian, từng chút một. Bất kể tôi có trao lá thư cho Akari hay không.

Lá thư rơi ra theo ví tiền ngay lập tức bị gió thổi bay khỏi sân ga và biến mất trong tấm màn đen kịt của đêm, chỉ trong một chớp mắt. Thực sự lúc đó tôi suýt bật khóc thành tiếng. Nhưng theo phản xạ, tôi cúi gằm mặt xuống, hai hàm răng nghiến chặt vào nhau để cố ngăn mình nức nở. Tôi không mua lon cà phê đó nữa.

Cuối cùng, tôi lên được tàu chuyến Ryomo nhưng nó ngừng chạy giữa đường. “Vì tình hình tuyết rơi khá dày, chúng tôi buộc phải dừng tàu để tránh những rủi ro đáng tiếc có thể xảy ra.” Trên tàu lại phát đi thông báo. “Chúng tôi thành thật xin lỗi quý khách về sự chậm trễ này, hiện tại chưa xác định được thời gian tàu sẽ khởi hành lại”. Bên ngoài là đồng ruộng mênh mông, phủ đầy tuyết trắng. Gió rít lên từng hồi, đập vào thành tàu tạo nên thứ âm thanh ghê rợn. Tôi thấy hoang mang hơn bao giờ hết, tại sao tàu lại phải dừng ở nơi đồng không mông quạnh thế này? Tôi nhìn xuống đồng hồ, quá giờ hẹn với Akari mất hai tiếng rồi. Tôi chắc mình đã xem đồng hồ cả trăm lần trong ngày hôm nay. Để tránh việc phải nhìn thời gian trôi đi trong vô vọng thế này, tôi tháo đồng hồ đặt lên bàn cạnh cửa sổ. Giờ đây, tôi còn biết làm gì ngoài việc cầu nguyện cho đến lúc tàu lăn bánh trở lại.

“Takaki à, cậu khỏe không?” Akari viết trong thư. “Hôm nay tớ phải đi tập cùng câu lạc bộ từ sáng sớm nên tớ viết lá thư này trên tàu điện.”

Hình ảnh Akari đang viết thư hiện ra trong tâm trí tôi. Sao lúc nào em cũng chỉ một mình? Giống tôi, cũng một mình đơn độc. Ở trường, tôi có vài người bạn nhưng như lúc này đây, chỉ mình tôi ngồi trên tàu, mũ đậy trên mặt, đây mới thực sự là con người thật của tôi. Máy sưởi chạy hết công suất và cả đoàn tàu có bốn toa với số lượng hành khách chỉ đếm trên đầu ngón tay mà không khí vẫn lạnh toát đến khó tin.

Phải nói gì để diễn tả hết cảm giác của tôi lúc này nhỉ? Có lẽ đây là khoảng thời gian nghiệt ngã nhất tôi từng trải qua trong cuộc đời mình. Tôi co rúm người lại, hàm răng nghiến chặt để giữ mình không khóc và điều duy nhất có thể làm lúc này là cố gắng chịu đựng cái khoảng thời gian đang bị đóng băng một cách tàn nhẫn. Cứ nghĩ đến việc Akari cũng đang chờ đợi tôi ở một nơi lạnh lẽo, cô đơn, tôi như muốn phát điên. Tôi chỉ cầu mong sao em đừng chờ tôi nữa, cứ về nhà đi, có lẽ tôi thấy còn dễ chịu hơn.

Nhưng tôi tin chắc, Akari vẫn chờ tôi.

Hơn ai hết, tôi hiểu em không bao giờ bỏ mặc tôi, nhưng càng tin như thế, tôi càng cảm thấy đau khổ, giày vò. Bên ngoài cửa sổ, tuyết thì vẫn rơi, rơi mãi như không biết đến điểm dừng.

Chia sẻ
Loading...
Loading...
Loading...
Chia sẻ
Danh sách chương
Loading...
Loading...
Loading...
Thể loại
Tìm kiếm
Loading...
Loading...
Loading...
Lọc truyện