Chương 63: Hydra
Tôi đã viết kín đặc những trang vở này từ Hydra, ngồi trên khoảng sân hiên này, nơi tôi thường quan sát biển.
Tôi đã tỉnh lại trong một bệnh viện thuộc Tây An, năm ngày sau vụ tai nạn. Tôi được nghe thuật lại rằng các ngư phủ đã cứu mạng tôi khi đưa tôi ra khỏi chiếc xe hai cầu vừa kịp lúc, trước đó họ đã trông thấy chiếc xe lao xuống sông. Chiếc xe đã bị nước cuốn đi; người ta không tìm thấy xác của Keira. Đó là chuyện cách đây ba tháng. Không một ngày nào trôi qua tôi không nghĩ đến cô ấy. Không đêm nào tôi nhắm mắt mà không có cô ấy nằm bên cạnh. Tôi chưa từng biết đến nỗi đau nào lớn bằng nỗi đau thiếu vắng cô ấy. Mẹ tôi không còn lo lắng về chuyện gì nữa, như thể bà đoán được rằng không nên chồng chất thêm nỗi buồn phiền đã tràn ngập ngôi nhà của hai mẹ con tôi. Buổi tối, hai mẹ con cùng nhau dùng bữa trên khoảng sân hiên nơi tôi viết lách. Tôi viết, bởi đó là cách duy nhất tôi có để làm Keira sống lại. Tôi viết bởi mỗi lần tôi nói về Keira, cô ấy liền hiện ra, như một vong linh thủy chung. Tôi sẽ không bao giờ còn ngửi thấy mùi da thịt cô ấy khi cô ấy ngủ kề bên, tôi sẽ không còn nghe thấy tiếng cô ấy cười lanh lảnh khi cô ấy giễu sự vụng về của tôi, tôi sẽ không còn nhìn thấy cô ấy đào bới đất tìm kiếm một kho báu, cũng không còn được thấy cô ấy nuốt vội vàng những thứ kẹo bánh như thể người ta sắp tịch thu của cô ấy đến nơi, nhưng tôi có hàng nghìn kỷ niệm về cô ấy, hàng nghìn kỷ niệm chung về chúng tôi. Chỉ cần tôi khép mắt là cô ấy lại hiện ra.
Thỉnh thoảng, dì Elena đến thăm chúng tôi. Ngôi nhà nói đúng ra là vắng vẻ và hàng xóm láng giềng tỏ ra kín đáo. Thỉnh thoảng, Kalibanos đi qua con đường trước nhà, để thăm con lừa của lão, lão nói thế, nhưng tôi biết không phải vậy. Chúng tôi ngồi xuống một băng ghế và cùng nhìn ra biển. Lão cũng từng yêu, chuyện cách đây lâu rồi. Không phải một dòng sông ở Trung Quốc đã mang người phụ nữ của lão đi mất, mà chỉ là một cơn bệnh, nhưng nỗi đau mà chúng tôi chia sẻ cùng nhau là một và tôi nghe được trong sự im lặng của lão là lão vẫn còn yêu bà ấy.
Ngày mai Walter sẽ từ Luân Đôn tới đây, từ khi tôi về đây tuần nào hắn cũng gọi cho tôi. Tôi không thể quay lại Luân Đôn. Tản bộ trên con phố nhỏ nơi bước chân Keira vẫn còn vang vọng, đẩy cánh cửa kính của căn nhà, đẩy cánh cửa phòng ngủ nơi chúng tôi đã ngủ, là việc quá sức tôi. Keira nói đúng, chi tiết nhỏ nhất cũng đánh thức nỗi đau.
Keira là một phụ nữ lạ lùng, cương quyết, đôi khi bướng bỉnh, cô ấy ngốn ngấu cuộc sống với sự ngon miệng có một không hai. Cô ấy yêu nghề nghiệp của mình và trân trọng các cộng sự. Cô ấy có một bản năng không thể mắc sai lầm và một tính cách hết sức khiêm nhường. Cô ấy là bạn tôi, là người tình, người phụ nữ mà tôi yêu thương. Tôi đã đếm những ngày chúng tôi được ở cùng nhau, ngay cả khi con số đó quá ít ỏi, tôi biết chúng sẽ đủ để lấp đầy quãng đời còn lại của tôi, giờ thì tôi muốn thời gian trôi thật nhanh.
Khi đêm đến, tôi nhìn lên bầu trời và nhìn nó theo một cách khác. Có lẽ một ngôi sao nữa vừa được hình thành trong chòm sao xa vời vợi. Một ngày kia tôi sẽ lại tới Atacama và sẽ tìm ra nó trong thấu kính của kính viễn vọng, dù nó có ở đâu trong vòm trời rộng này tôi cũng sẽ tìm ra và đặt tên cho nó.
Tôi sẽ viết cho em danh sách ấy, tình yêu của tôi ạ, nhưng để sau này, bởi để làm thế cần phải sống đời tôi trọn vẹn đã.
Walter đã đi tàu cao tốc đến hồi trưa. Tôi ra cảng đón hắn. Chúng tôi lao vào ôm nhau và khóc rưng rức như hai thằng nhóc con. Dì Elena đang đứng trên bậc tam cấp cửa hàng, và khi ông chủ quán cà phê kế bên hỏi dì xem cả hai chúng tôi bị làm sao vậy, dì bảo ông ta đi mà lo cho khách hàng của mình ấy, ngay cả khi sân hiên của quán cà phê vắng tanh vắng ngắt.
Walter không hề quên cách cưỡi lừa. Trên đường, hắn chỉ ngã có hai lần, mà lần đầu tiên thực ra không phải do lỗi của hắn; khi chúng tôi về đến nhà, mẹ tôi đã chào đón hắn như thể thằng con thứ của bà mới bước vào nhà. Bà ghé tai hắn thì thầm, nghĩ là tôi không nghe thấy, rằng dù sao thì hắn cũng nên nói cho bà biết sớm hơn. Walter hỏi bà đang nói đến chuyện gì. Bà nhún vai rồi thì thầm tên của Keira.
Walter là một gã hài hước. Dì Elena đến dùng bữa cùng chúng tôi, trong bữa ăn hắn đã làm cho bà ấy cười đến mức rốt cuộc tôi cũng phải bật cười theo. Nụ cười ấy đã thổi bùng lên sắc màu cuộc sống trên gương mặt mẹ tôi. Bà đứng dậy, lấy cớ đi dọn bàn, và khi đi ngang qua chỗ tôi ngồi, bà vuốt má tôi.
Sáng hôm sau, và cũng là lần đầu tiên kể từ khi cha tôi mất, bà kể với tôi nỗi buồn đau của bà. Chính bà cũng chưa viết xong danh sách của mình. Rồi bà nói với tôi một câu mà tôi sẽ không bao giờ quên. Mất ai đó ta yêu thương là điều thật kinh khủng, nhưng điều tệ nhất là chưa bao giờ gặp được một ai như thế.
Đêm buông xuống Hydra. Dì Elena ngủ lại trong phòng dành cho khách tới thăm, mẹ đã lui về phòng riêng. Tôi dọn sẵn chiếc tràng kỷ ở phòng khách cho Walter. Chúng tôi ngồi trong sân hiên và uống một ly ouzo.
Hắn hỏi tôi cảm thấy thế nào và tôi đáp rằng tôi cảm thấy khá hơn tôi có thể. Tôi vẫn còn sống. Walter nói hắn vui gặp tôi. Hắn cũng nói hắn đem đến cho tôi một thứ, một kiện hàng được gửi đến Học viện cho tôi. Kiện hàng đến từ Trung Quốc.
Đó là một thùng các tông to, đóng dấu bưu điện Linh Bảo. Bên trong là hành lý chúng tôi đã để lại chùa. Một chiếc áo len chui đầu Keira thường mặc, một chiếc lược chải đầu, một vài thứ quần áo và hai túi nhỏ đựng ảnh.
- Có hai chiếc máy ảnh dùng một lần, Walter nói với tôi bằng giọng ngập ngừng. Tôi đã mạn phép rửa ảnh ra. Tôi không biết liệu có nên đưa lại cho anh tất cả chỗ ảnh này không, có lẽ thời điểm này là quá sớm.
Tôi đã mở túi đựng đảnh đầu tiên. Keira đã cảnh báo tôi, chi tiết nhỏ nhất cũng khơi lại nỗi đau. Walter tế nhị để tôi lại một mình. Hắn đi ngủ. Tôi đã mất gần hết đêm để xem những kỷ niệm mà Keira và tôi lẽ ra phải khám phá sau khi trở về Luân Đôn. Giữa đám ảnh này, có một vài bức ảnh chụp vào cái ngày chúng tôi bơi mình trần trên sông Hoàng Hà.
Hôm sau, tôi dẫn Walter ra cảng, tôi đã mang theo bên mình những bức ảnh. Tại sân hiên của quán cà phê, tôi đã cho hắn xem ảnh, tôi phải kể cho hắn nghe lai lịch của từng bức. Câu chuyện mà tôi và Keira đã trải qua, từ Bắc Kinh cho tới đảo Narcondam.
- Vậy là hai người đã tìm ra mảnh ghép thứ hai.
- Mảnh thứ ba, tôi đáp. Những kẻ đã sát hại Keira cũng đang giữ một mảnh.
- Biết đâu họ không phải là kẻ gây tai nạn?
Tôi cầm đồ vật trong túi áo và đưa cho hắn xem.
- Không thể tin được, hắn thì thầm. Khi nào anh đủ dũng khí quay lại Luân Đôn, cần phải nghiên cứu kỹ nó.
- Không, làm thế chẳng ích gì đâu, vẫn luôn thiếu một mảnh, nó đang yên nghỉ ở đáy sông rồi.
° ° °
Walter cầm lại túi nhỏ đựng ảnh rồi xem từng tấm một hết sức chăm chú. Hắn đặt hai tấm ảnh cạnh nhau trên mặt bàn và hỏi tôi một câu lạ lùng.
Trên hai bức ảnh, Keira đang tắm, tôi nhận ra địa điểm chụp. Hắn lưu ý tôi là trên một trong hai bức, bóng của hàng cây bên bờ sông đổ về bên phải, còn trên bức ảnh kia, bóng cây đổ sang trái. Trên bức ảnh đầu tiên, khuôn mặt Keira không tì vết, trên bức thứ hai, trán cô ấy có một vết sẹo lớn. Tim tôi ngưng đập.
- Anh có nói với tôi là chiếc ô tô đã bị dòng chảy cuốn đi và người ta không tìm thấy xác của cô ấy đúng không? Vậy thì tôi không muốn gợi ra trong anh những hy vọng gây nên nỗi xót xa, tuy vậy, tôi tin là anh nên quay lại Trung Quốc càng sớm càng tốt, Walter gợi ý.
Tôi sửa soạn hành lý ngay trong buổi sáng hôm đó. Chuyến tàu tốc hành đi Athene khởi hành lúc mười hai giờ trưa, và chúng tôi đã kịp ngồi lên tàu vào phút cuối. Tôi đã tìm được một chuyến bay tới Bắc Kinh khởi hành vào cuối ngày. Tôi đi Trung Quốc, Walter trở lại Luân Đôn, hai chúng tôi khởi hành gần như cùng giờ.
Tại sân bay, hắn bắt tôi hứa sẽ gọi cho hắn ngay khi biết thêm tin tức gì về Keira.
Trong khi chúng tôi nói lời từ biệt trên lối đi, hắn tìm thẻ lên máy bay. Hắn lục hết các túi rồi nhìn tôi với vẻ rất lạ.
- À phải rồi, hắn nói với tôi, suýt thì tôi quên. Một nhân viên chạy vặt đã gửi cái này đến Học viện cho anh. Rõ ràng là tôi đang đóng vai bưu tá đến cùng mà. Anh sẽ đọc cái này trên máy bay.
Hắn giao lại cho tôi một phong bì gắn xi có đề tên tôi và khuyên tôi nên chạy thật nhanh nếu không muốn lỡ chuyến bay.