Chương 8
Bích Lan nói với tôi là nó rất vui khi gặp lại người yêu của nó, bất chấp việc nó phát hiện Triều chỉ là anh chàng kiếm ăn lông bông bằng nghề nuốt than và phun lửa. Nó cũng không trách Triều về chuyện anh đã nói dối nó. Nó nghĩ anh buộc phải làm thế vì mặc cảm về nghề nghiệp của mình, và đáng tha thứ nhất là vì anh sợ mất nó.
Tôi chưa thấy ai nói về sự lừa dối của người yêu bằng vẻ mặt hơn hớn và ánh mắt lúng liếng ấy đầy ắp niềm vui như Bích Lan trong buổi sáng hôm đó. Nó vẫn ngồi sát tôi, nhưng bây giờ sự thân mật quá đáng đó không làm tôi đề phòng nữa.
Bích Lan bảo với tôi là sáng hôm sau nó tức tốc tìm đến chỗ ở của Triều nhưng anh đã trả phòng trọ ngay tối hôm trước, có lẽ để tránh mặt nó. Nhưng rốt cuộc nó vẫn tóm được Triều sau một thời gian kỳ công theo dõi tung tích các nhóm xiếc giang hồ vẫn la cà kiếm ăn ở các quán nhậu.
Tóm lại, bây giờ cả hai đã trở lại như xưa. Bích Lan khoe với tôi nó đã khóc đến ướt đẫm chiếc áo khi biết rằng Triều không thể hôn bất cứ ai vì đôi môi anh luôn bỏng rộp, đau nhức sau những tiết mục rùng rợn biểu diễn hằng đêm. “Em không xấu, anh ấy cũng không pêđê”, Bích Lan sung sướng nói, nó nhìn tôi bằng cặp mắt bị niềm vui làm cho ầng ậng nước nên long lanh một cách bất thường.
Tôi tin Bích Lan đã khóc khi biết được sự thật oái oăm đằng sau thái độ lạ lùng của Triều nhưng dĩ nhiên chi tiết “ướt đẫm chiếc áo” tôi nghĩ chắc là nó phóng đại.
Tuy vậy, tôi không có đủ thời gian để trêu chọc nó, vì ngay sau khi kể cho tôi nghe chuyện tình éo le của mình, Bích Lan lập tức đề nghị tôi giúp nó bằng cách đóng vai người yêu của nó cho đến chừng nào nó cảm thấy có đủ dũng cảm thú nhận tất cả mọi chuyện với mẹ nó. Nó biết mẹ nó rất mến tôi, nhưng điều đó không quan trọng bằng việc mẹ nó chắc chắn không bao giờ dang tay đón vào nhà một chàng rể suốt ngày chỉ biết nuốt than và phun lửa.
Triều đã hứa với Bích Lan sẽ cố gắng đi học lại nhưng chừng nào một anh chàng hai mươi ba tuổi chưa trở thành sinh viên năm thứ nhất, Bích Lan vẫn chưa thể công khai mối tình của mình.
Trực giác mách cho tôi biết sẽ có cả núi rắc rối ụp xuống đầu tôi nếu tôi nhận lời giúp đỡ Bích Lan nhưng dẫu quần thảo đầu óc đến mệt nhoài tôi vẫn chẳng nghĩ ra lý do nào để từ chối nó.
Hơn nữa, tôi cùng muốn bám víu vào chuyện này để nguôi khuây nỗi buồn con Rùa cho tới lúc đó vẫn không ngừng đục khoét trái tim tôi. Tôi tin rằng nếu tình trạng này cứ tiếp diễn trái tim tôi sẽ giống như quả táo bị sâu, và khi ngày đó tới hẳn nhiên tôi không còn khả năng yêu thương ai được nữa.
Cho đến bây giờ, trong những giấc mơ nửa đêm về sáng tôi vẫn thấy tôi cùng con Rùa chui qua thác nước với tiếng khọt khẹt của thằng Miếng Vá hiếu động chạy nhảy phía trước. Tôi thấy tôi cùng nó ngồi bên cạnh con Tập Tễnh dưới những nhánh lá thướt tha của cây tràm liễu để nghe nó thủ thỉ kể cho con nai con câu chuyện chú lính đánh trống vùng Sardegna. Tất cả hình ảnh đó hiện ra trong giấc ngủ của tôi tinh khôi, rõ ràng và gần gũi như thể mới xảy ra ngày hôm qua.
Cũng có khi tôi nghe thấy tiếng rì rầm vọng lại từ đâu đó ở một góc giấc mơ và rồi một vệt khói trắng hiện ra, kéo dài mãi, vắt ngang bầu trời xanh ngăn ngắt. Đó là chiếc máy bay mà tôi và con Rùa ngước mắt ngắm ngẩn ngơ hàng giờ vào một buổi chiều tiếng sấm trên nguồn báo hiệu mưa sẽ về ngay sau đó.
Có khi tôi thấy hoa bồ công anh bay rợp mộng mị, tôi nghe tiếng đập cánh của bọ dừa, châu chấu bên dưới những bụi hoa bướm dại, hoa đuôi diều, hoa sao và các bụi cúc ngũ sắc mọc dọc các khe nước nhỏ chảy như một cung đàn, làm ngọn đồi quanh năm được ướp trong bản tình ca về thiên nhiên dệt bởi một thứ giai điệu róc rách buồn buồn.
Trong những giấc mơ đó, tôi bao giờ cũng có con Rùa ở bên cạnh. Nếu có lúc tôi không nhìn thấy nó chỉ vì nó lạc bước trong chiều hoặc đi loanh quanh đâu đó sau lưng tôi với một con nhím trên tay hay mớ hoa dại trong giỏ. Những lúc đó, lòng tôi luôn tràn ngập cảm giác bình yên và trái tim tôi như được nhúng vào một niềm yêu thương vô bờ.
Như vậy, trong những ngày hè vừa qua cả tôi lẫn Bích Lan đều có những thay đổi lớn trong tình cảm của mỗi đứa, theo hai chiều khác nhau.
Buồn thay, chiều của tôi buồn đến não lòng.
Hiển nhiên tôi không bao giờ quên con Rùa dù tôi luôn cố làm điều đó bằng nhiều cách: vùi đầu vào bài vở, đăng ký đi học võ ban đêm, đóng vai người yêu của Bích Lan ban ngày.
Học võ thì tôi chỉ học được vỏn vẹn một tháng: với các bài tập hít đất, ngồi vặn vẹo hai cổ tay hàng giờ để luyện gân cốt, tập đứng trung bình tấn, cuối cùng là bài quyền nhập môn. Khi tôi chuẩn bị song đấu để thi lên đai thì mẹ tôi bắt tôi nghỉ học. Lò võ đưa cho mỗi võ sinh một tờ giấy đem về nhà, trong đó phụ huynh hoặc người giám hộ phải ký tên đồng ý không đòi bồi thường hay khiếu nại nếu võ sinh chẳng may gặp rủi ro trong quá trình luyện tập và thi đấu (như gãy tay, què chân hay táng mạng do bị đánh nhầm chỗ hiểm). Đọc xong tờ cam kết, mặt mẹ tôi tái xanh như tàu lá: “Thôi, ở nhà đi con!”. Thế là tôi xếp bộ võ phục vào xó tủ, chẳng chút tiếc nuối hay buồn phiền. Tôi đâu có mộng làm cao thủ võ lâm. Tôi chỉ muốn tìm quên.
Tôi cũng chẳng tập trung được vào bài vở. Nhờ có căn bản, tôi vẫn lên lớp đều đặn, nhưng không còn đứng ở nửa trên bảng xếp hạng như hồi mới vào trường nữa.
Suốt một thời gian dài tôi không dám đọc sách, xem phim, nghe nhạc, vì bất cứ câu chuyện tình nào của bất cứ ai cũng làm tôi nhớ đến con Rùa. Một hình ảnh, một giai điệu hay một câu thoại quen thuộc cũng đủ làm tôi bị ám ảnh cả tuần lễ. Tự nhiên tôi trở thành con người sống khép kín. Mẹ tôi tuy không nói ra nhưng trông đôi mày cau lại của bà mỗi khi bà nhìn tôi với vẻ dò xét, tôi đoán chắc bà nghĩ bụng: Thằng này yêu đương cái kiểu gì thế nhỉ?
Mẹ tôi không biết gì về chuyện tôi bỏ quên trái tim ở làng Đo Đo. Trong ba năm tôi chôn mình ở Sài Gòn, mẹ tôi có về quê một, hai lần, nhưng dĩ nhiên chẳng ai thóc mách với bà về chuyện tôi và con Rùa vì nói cho cùng thì trừ hai đứa tôi, không ai biết giữa chúng tôi đã thực sự xảy ra chuyện gì. Cô Út Huệ có tìm cách để sổng bí mật về thân thế của con Rùa vào tai tôi cũng chỉ nhằm ngăn ngừa tình huống xấu có thể xảy ra thôi.
Mẹ tôi cho rằng tôi ngơ ngơ ngẩn ngẩn chẳng qua do tôi càng ngày càng mê mẩn con nhỏ Bích Lan. Mặc dù giống như mẹ Bích Lan, sẵn sàng tán thành hai đứa tôi trở thành một cặp, bà vẫn lộ sự lo lắng trước vẻ mặt giống như buổi chiều mùa đông của tôi - một vẻ mặt hoàn toàn tắt nắng mà theo bà chắc là do tôi phí sức vào tình yêu nhiều quá.
Bích Lan càng củng cố suy nghĩ đó của mẹ tôi bằng cách bây giờ gần như tối nào nó cũng lôi tôi ra phố. Suốt ba, bốn tiếng đồng hồ, trong khi hai bà mẹ đinh ninh hai đứa con của mình đang tung tăng bên nhau thì Bích Lan hẹn hò với người yêu của nó ở đâu đó còn tôi lặng lẽ chui vào rạp xem phim hoặc ra bờ sông ngồi hóng mát. Hôm nào cũng như hôm nào, chúng tôi vừa ra khỏi nhà đã lập tức chia tay ngã tư đầu tiên, chỉ quay lại đó theo giờ giấc đã hẹn để cùng sóng bước vào nhà.
Mọi chuyện chỉ vỡ lở khi tôi nổi hứng đi hiến máu theo lời rủ rê của một đứa bạn cùng lớp. Rốt cuộc, máu của tôi không sử dụng được. Theo kết quả xét nghiệm, căn cứ vào số lượng hồng cầu bị phá hủy, đặc biệt do số lượng bạch cầu tăng cao một cách bất thường, các bác sĩ nghi ngờ tôi bị ung thư máu.
Mẹ tôi ngất xỉu khi nghe tôi báo tin. Đây là lần thứ ba tôi làm mẹ tôi xúc động đến thế. Lần đầu là khi bà nghe tin tôi chết đuối ngoài đầm sen, dĩ nhiên rốt cuộc tôi không chết vì được người làng vớt lên. Lúc đó tôi bảy tuổi. Sau đó một năm, tôi lại làm mẹ tôi chết ngất khi bà phát hiện ra tôi mới tám tuổi đã biết mò túi bà nhân lúc bà ngủ trưa để lấy chùm chìa khóa mở tủ đánh cắp tiền.
Nhưng hai lần trước không kinh khủng bằng lần này. Khi tỉnh dậy, mẹ tôi lại tiếp tục khóc lóc làm như tôi đã chết rồi. Chỉ đến khi cả nhà (gồm tôi và hai mẹ con Bích Lan) xúm vào khuyên giải, bà mới nguôi ngoai được một chút nhưng rồi sau đó bà lại vào phòng nằm khóc tiếp.
Nghe mình bị ung thư máu, thoạt đầu tôi cũng phát hoảng nhưng dần dần tôi trấn tĩnh được. Dĩ nhiên tôi còn quá trẻ để chết. Tôi còn bao nhiêu việc chưa kịp làm, bao nhiêu hoài bão chưa kịp thực hiện. Tuy nhiên khi nhớ đến chuyện tình éo le giữa tôi và con Rùa, nhớ đến nỗi đau dai dẳng đang âm thầm gặm nhấm tâm hồn tôi bao ngày qua, tôi thấy cái chết không có gì đáng sợ. Đôi khi tôi nghĩ biết đâu thượng đế cố tình mang đến cho tôi chứng bệnh nan y này để giải thoát tôi khỏi những ngày tháng u buồn. Ờ, nếu tôi không thể lẩn tránh hoặc đi vòng qua tảng đá ngầm mà định mệnh đã dựng lên giữa tôi và con Rùa, đây là dịp để tôi nhảy khỏi con tàu số phận và bơi đi.
Mẹ tôi đưa tôi đến bệnh viện chuyên khoa khám lại một lần nữa, bệnh án vẫn không có gì thay đổi. Gần đây tôi thường cảm thấy người mệt mỏi, biếng ăn, sút ký. Mẹ tôi đổ tội cho con nhỏ Bích Lan. Tôi đinh ninh nguyên nhân đến từ con Rùa. Bây giờ hai mẹ con mới biết đó là triệu chứng của bệnh ung thư máu.
Các bác sĩ bảo năm tháng nữa sẽ có một đoàn bác sĩ nước ngoài đến làm việc tại bệnh viện. Họ có chương trình phẫu thuật ghép tủy cho bệnh nhân ung thư bằng các kĩ thuật mới nhất của ngành y. Tất nhiên cách chữa trị này cũng không có gì chắc chắn, tỷ lệ thành công trên thực tế không cao. Có thể tôi sẽ chết sau đó vài tháng, như đã từng xảy ra với các bệnh nhân khác trên thế giới. Nhưng tôi không sợ chết. Bây giờ, điều đáng lo nhất là tiền bạc. Ung thư máu là căn bệnh điều trị vô cùng tốn kém. Chi phí chữa bệnh rất lớn và chắc chắn là nằm ngoài tầm tay của mẹ tôi.
Một hôm có mặt đông đủ mọi người, mẹ Bích Lan bỗng nói:
- Chúng ta như người trong nhà, chị đừng ngại chuyện tiền bạc. Tôi coi cháu Đông như con, chữa trị cho cháu không chỉ là bổn phận của chị. Dù gì thì mai mốt…
Bà bỏ lửng câu nói và diễn tả cái ý tiếp theo bằng cách đưa mắt nhìn Bích Lan rồi nhìn sang tôi. Câu nói và cái nhìn đầy ngụ ý của mẹ Bích Lan khiến tôi vô cùng áy náy. Tôi biết bà là người tốt bụng, lại rất thương tôi. Bệnh của tôi dù cố chữa trị đến mấy khả năng thành công cũng không cao. Có thể hôn nhân của tôi và Bích Lan sẽ không bao giờ diễn ra theo ý bà. Nhưng bà vẫn không ngại tốn kém để cưu mang tôi trong cơn hoạn nạn dù tiền bạc của bà dốc vào tôi lúc này chẳng khác nào dốc vào sông vào bể.
Tôi liếc Bích Lan, thấy nó cứ xoắn hai bàn tay vào nhau một cách vô thức, cử chỉ không thể nhầm của một kẻ đang cực kỳ bối rối, điều tôi không hề bắt gặp ở nó trước đây.
Tôi nín thở chờ nó lên tiếng, nhưng nó cứ mải nhìn xuống đất như thể hôm nay những mẩu gạch lát sàn đột nhiên đầy thu hút.
Cuối cùng, trước ánh mắt chờ đợi đã bắt đầu sốt ruột của mẹ, tôi đành ấp úng mở miệng:
- Dạ… con cảm ơn dì… nhưng thực ra giữa con và Bích Lan không hề có gì với nhau…
Tôi nói một cách khó khăn, cố không nhìn về phía Bích Lan, lòng tràn ngập cảm giác phản bội, dù rằng tôi không rõ sự phản bội đó khiến tôi cảm thấy nặng nề hơn hay giúp tôi cảm thấy nhẹ nhõm hơn. Lòng tôi lúc này giống như chiếc bồn tráng men, hứng cả nước nóng lẫn nước lạnh, và quả thật tôi cảm thấy người gây gây sốt khi những cảm xúc trái ngược đang không ngừng giằng xé con người tôi từng phút một.
Dù thế, nếu được bắt đầu lại tôi tin tôi vẫn sẽ chọn cách nói lên sự thật, đặc biệt khi chuyện tình tưởng tượng giữa tôi và Bích Lan đang bắt đầu cần được nuôi sống bằng những khoản tiền lớn.
Tôi quay về Đo Đo.
Sau khi được truyền máu, và được thông báo lần truyền máu sắp tới còn những hai tháng nữa, tôi quyết định về thăm làng, nhét theo một đống thuốc bệnh viện cấp phát trong ba lô.
Có thể đây là lần về thăm làng cuối cùng của tôi. Tôi định nói với mẹ tôi như thế nhưng rồi tôi im lặng, sợ bà không chịu đựng nổi ý nghĩa u ám đó. Nhưng nhìn vào đáy mắt tối xám và đột ngột lạnh đi khi bà nhìn tôi, tôi hiểu ý nghĩ trong đầu bà chắc không cách xa ý nghĩ trong đầu tôi là mấy.
Tôi về làng để chia tay cô Út Huệ, thím Lê, thằng Thục và bé Loan. Và đặc biệt là chia tay con Rùa, mối tình đầu trái ngang của tôi. Dĩ nhiên tôi sẽ không để ai biết bệnh tình của mình vì tôi không muốn những ngày tôi ở làng trở nên nặng nề và nhất là không muốn mọi người nhìn tôi bằng ánh mắt thương cảm.
Ánh mắt đó tôi đã nhìn thấy trên gương mặt lấm tấm tàn nhang của con nhỏ Bích Lan và trên gương mặt phúc hậu của mẹ nó, người vẫn quyết định giúp đỡ tôi điều trị chứng bệnh nan y bất chấp việc tôi sẽ không bao giờ trở thành con rể của bà.
Tôi nhớ bà đã giận đến xám xanh mặt mày như thế nào khi biết được nghề nghiệp của chàng trai mà con gái bà yêu thương. Tất nhiên sau đó một tuần bà đã dịu đi khi Bích Lan kiên trì thuyết phục bà bằng trước tiên là nước mắt, sau đó bằng những lời dọa dẫm, cuối cùng bằng cách vẽ ra một tương lai xán lạn của chàng rể sinh viên tương lai.
Tôi nghĩ mẹ Bích Lan là người phụ nữ đủ từng trải để không bị phỉnh phờ trước tấm thảm tương lại sặc sỡ được con gái bà thêu dệt một cách có chủ ý, nhưng có lẽ tình thương con của bà đứng cao hơn nỗi bất bình và sự nghi kỵ nên rốt cuộc bà đành nhượng bộ cuộc tình không mong đợi này bằng cách đồng ý xem cuộc trúng tuyển vào đại học sắp tới của anh chàng xiếc rong như một thứ giấy phép hợp lệ để bước chân vô nhà bà.
Có lẽ vì kết quả đảo ngược một cách ngoạn mục mà Bích Lan đã không trách móc tôi về chuyện tôi đã vi phạm lời hứa với nó, thậm chí nó còn tỏ vẻ biết ơn tôi về chuyện tôi đã không giữ lời. Điều duy nhất khiến tôi không cảm thấy thoải mái là nó bộc lộ lòng biết ơn đó bằng cách tò tò đi theo tôi mọi lúc mọi nơi và không bỏ lỡ bất cứ cơ hội cỏn con nào để chăm sóc tôi như thể tôi là đứa bé thiểu năng - chẳng biết làm gì ngoài chuyện chờ chết.
Rời Sài Gòn vì vậy đối với tôi còn có nghĩa là rời khỏi gương mặt ủ rũ của con nhỏ Bích Lan - gương mặt người ta chỉ đeo vào dịp tang lễ (thú thực nhìn bột mặt thảm sầu của nó tôi cứ nghĩ người sắp chết là nó chứ không phải là tôi) và cuộc đào thoát khỏi lòng biết ơn quá đáng của nó khiến tôi thấy chuyến trở về làng của tôi càng thêm đúng đắn.
Suốt chuyến đi, tôi ngủ gà ngủ gật và trong những cơn mộng mị chập chờn trên xe đò tôi lại nhìn thấy con Rùa. Tôi biết sau ba năm xa cách nó đã lớn hơn hình ảnh mà tâm trí tôi còn lưu giữ về nó nhưng khi đến tìm tôi trong mơ con Rùa vẫn mang bộ mặt nó từng mang khi cùng tôi lang thang trong rừng năm nào.
Có lúc tôi nhìn thấy nó nhìn tôi buồn buồn và tuy nó không trách cứ gì, rèm mi dài lóng lánh nước của nó cho biết nó giận tôi ghê lắm. Có lúc nó không thèm nhìn tôi dù tôi đứng ngay trước mặt nó và rụt rè khoe với nó nụ cười ngượng ngập. Nó giận dỗi quay lưng về phía tôi, thản nhiên ca hát. Tôi lại nghe bài ca lạ lùng của nó trôi bềnh bồng trong giấc mơ:
- Bầy châu chấu khiêu vũ
Bọ chét ơi, bọ chét à
Con kiến trong hang đã ngủ
Đố mày tìm cho ra…
Trước mặt con Rùa, rừng cây như bốc cháy trong hoàng hôn và mặt trời đỏ như quả táo chín trên đỉnh đồi xa viền quanh mái tóc ngắn của nó như một quầng sáng đẹp đến nhói lòng.
Tôi thức và ngủ, ngủ và thức, đầu chốc chốc va vào thành xe đau điếng, với hình ảnh con Rùa chớp tắt trong mơ, vẫn không nói với tôi một lời.
Tôi chỉ choàng tỉnh khi xe tới Tam Kỳ. Nhưng tôi không xuống xe nhà bác Vận như xưa nay vẫn thế. Tôi ôm ba lô ngồi lì trên băng ghế, cũng không ngừng lại ở Quán Gò, nơi có sẵn đội quân xe thồ sẵn sàng chở khách lên mạn ngược.
Tôi quyết định xuống ngay chợ Kế Xuyên, dù từ đó tôi phải lội bộ về làng Đo Đo cả mười cây số.
Vì đó là nơi lần đầu tiên tôi gặp con Rùa.
Tôi muốn đi lại con đường tôi đã chở thằng Thục đi lượm nắp keng dạo nào, cũng là con đường con Rùa thường xuyên chinh phục bằng đôi chân trần mong manh của nó.
Khoác ba lô trên vai, tôi hồi hộp lần mò trên con đường đất lồi lõm dẫn về làng. Nắng ban mai sưởi ấm cơ thể tôi như một cái ôm dài. Có phải đó là những tia nắng cách đây ba năm từng nhảy nhót trên đôi má con Rùa lúc nó ngồi cùng tôi dưới bóng cây bướm bạc? Tôi vừa đi vừa lẩn thẩn tự hỏi, lòng dậy lên những cảm xúc rối ren và mơ hồ.
Tiếng còi tàu vẳng tới từ phía trước nhưng khi tôi đến đoạn đường sắt quen thuộc, tôi chỉ còn thấy đuôi tàu đang lượn quanh bụi tre rậm và vội vàng mất hút vào rặng lá phía xa xanh.
Có tiếng chim chèo bẻo từ chỗ nào đó đánh kẽo kẹt như chào đón đứa con xa xứ trở về. Tôi đảo mắt kiếm tìm, chỉ thấy những chùm trái nổ trắng muốt lấp ló bên đường. Trái nổ nhỏ bằng đầu ngón tay út, trắng màu ngọc trai, có vị chan chát, ngòn ngọt, thơm nồng mùi lá cỏ, nếu không nôn nao về nhà thế nào tôi cũng háo hức chạy lại hái một nhánh cầm tay tung tẩy trên đường đi.
Một vài đứa bé đứng trong nhà nhìn ra khi tôi đi qua. Tụi nó ngước đôi mắt đen láy tò mò nhìn tôi, giơ những con châu chấu màu xanh trên tay ra trước mặt như khoe tôi. Hồi bé, tôi cũng từng mê mẩn những con châu chấu, cào cào tết bằng lá như thế.
Như vậy, ở làng Đo Đo mùa cọng dừa đã về.
Thím Lê mừng mừng tủi tủi khi thấy tôi bước vào nhà:
- Trời, con đi đâu mà mất biệt thế con?
- Dạ, con bận học thưa thím.
Tôi lí nhí đáp, không rõ thím ngạc nhiên thật hay giả vờ.
- Sao con về lúc này? Đã nghỉ hè đâu!
Thím lại hỏi, ánh mắt vẫn xoáy vào mặt tôi như thể tôi lại chuẩn bị nói dối.
Và đúng là tôi tiếp tục nói dối thật:
- Trường con đang sửa chữa nên tụi con được nghỉ học.
Tôi hỏi để thím không kịp hỏi thêm:
- Thằng Thục đâu rồi thím?
- Nó đi học trong Tam Kỳ, cuối tuần mới về.
- À, năm nay nó lên lớp mười hai rồi.
Tôi gật gù, tháo ba lô đặt trên góc phản. Làng tôi chỉ mở cấp một, lên cấp hai phải ra thị trấn Hà Lam, lên cấp ba phải vô Tam Kỳ hoặc ra Đà Nẵng học. Tôi nhìn quanh, vắng bóng thằng Thục và cái miệng bép xép của nó căn nhà tự dưng trống trải kỳ lạ.
Hôm đó ăn cơm trưa xong, tôi ngủ một giấc tới chiều. Tôi ngủ mê mệt, vì suốt dọc đường nhồi xóc trên xe đò, tôi chẳng ngủ được bao nhiêu, cứ gà gật chập chờn mộng mị.
Thức dậy, không thấy thím Lê đâu, rồi ra sau hè rửa mặt rồi quay lên nhà trên bước lại chỗ bàn học của thằng Thục. Thấy con bọ ngựa tết bằng cọng dừa nằm chỏng chơ bên đống tập, tôi cầm lấy và bước ra cửa.
Tôi đi về phía sông Kiếp Bạc, lòng bồn chồn nghĩ đến con Rùa. Tôi không biết giờ này con Rùa đang làm gì, nó có nghĩ đến tôi như tôi đang nghĩ đến nó hay không. Tôi cũng không rõ khi gặp tôi, thái độ của nó sẽ như thế nào. Chắc nó sẽ nhìn tôi khinh bỉ như một kẻ lẻo mép, dối trá và phụ bạc. Nhìn xong, chắc nó sẽ phun nước bọt và quay lưng bỏ đi. Nếu nó đối xử với tôi như vậy, thú thật tôi không biết tôi sẽ nói gì với nó. Tôi không thể nói với nó rằng ba nó là con tư sinh giữa bà nội nó và ông nội tôi và đó chính là lý do khiến tôi không quay về làng như đã hứa.
Bí mật về cái chết của ba nó do chú Ngãi tiết lộ đã như một cú đánh mạnh vào trái tim nó, đến hôm nay có lẽ vẫn chưa nguôi ngoai, bây giờ nếu nó biết được sự thật về thân thế của nó, chắc chắn trái tim nó sẽ trầy xước thêm lần nữa, và tôi biết rằng vết thương lần này sẽ không bao giờ thành sẹo.
Tôi ngồi dưới gốc cây sầu đông bên bờ sông, xem chiều rớt nắng, đầu nghĩ ngợi mông lung.
Làng Đo Đo vừa qua mùa nắp keng, tiếng ve đã bắt đầu nỉ non trong lá và dòng sông Kiếp Bạc vẫn khô cạn như lần trước tôi về. Những tảng đá giữa lòng sông vẫn mượt rêu xanh, chỉ có lòng tôi chiều nay lên sắc xám.
Sắp gặp lại con Rùa nhưng lần này tôi chẳng thấy vui. Lần này, tôi chờ gặp nó như chờ đối diện với sự đùa cợt độc ác của số phận, chờ xem rốt cuộc thì tôi (và cả con Rùa nữa) sẽ bị bánh xe của định mệnh nghiến nát như thế nào.
Một đứa con gái từ sau lưng tôi chạy xe về phía cầu treo khiến tâm trí tôi đột ngột lãng đi. Đứa con gái mặc áo dài trắng, mái tóc đen mượt xõa tung trong gió, cặp sách buộc ở yên sau, phóng xe lên chiếc cầu đong đưa với tốc độ khá nhanh khiến tôi tròn mắt kinh ngạc.
Tôi đang tò mò nhìn theo nó thì nó chợt ngừng xe lại giữa cầu. Trong khi tôi cố đoán xem đứa con gái gặp chuyện gì, nó thình lình leo xuống khỏi yên và dắt xe đi ngược trở lại.
Tôi thấy rõ đứa con gái đang nhìn về chỗ tôi ngồi nhưng tôi không dám nhìn thẳng vào mặt nó. Ánh mắt tôi chỉ lướt nhanh qua người nó rồi quay đi chỗ khác, rồi lại liếc trộm nó một cái nữa để lần này quay hẳn đi, thầm đoán nó bị hư xe nên quay về xóm dưới tìm chỗ sửa.
Tuy nhìn đi chỗ khác tôi vẫn cảm nhận được đứa con gái đang đi về phía tôi. Dù vậy tôi vẫn dán mắt vào bãi cát lấp lánh nắng trải dọc triền sông cạn, cố không quay đầu lại, bụng thầm nhủ: “Chắc nó định nhờ mình sửa xe giùm”.
Chỉ đến khi đứa con gái dựng xe vào thân cây sầu đông và ngồi xuống bên tôi, nhẹ giọng vui mừng:
- Em biết thế nào anh cũng trở về.
Tôi mới giật nảy người, hấp tấp ngoảnh mặt lại.
“Con Rùa”, một tiếng reo bật ra trong đầu tôi.
Con Rùa. Chắc chắn đứa con gái trước mặt tôi là con Rùa. Nhưng ngay cả khi biết rõ nó là con Rùa, tôi vẫn thấy ngờ ngợ.
Đang ngồi trước mặt tôi và nhìn đăm đăm vào mắt tôi đây là một thiếu nữ trắng trẻo, duyên dáng và xinh xắn lạ lùng. Con Rùa mà tôi biết có nước da rám nắng. Mái tóc của con Rùa ngắn, lởm chởm và hoe hoe đỏ. Và quan trọng là con Rùa không biết đi xe đạp.
Con Rùa tôi đang nhìn thấy hoàn toàn khác hẳn con Rùa từng trú ngụ trong đầu tôi. Vì vậy khi nhìn thấy đứa con gái tóc dài chạy xe qua cầu, tôi không có chút liên tưởng nào đến nó.
- Sao anh nhìn em sững vậy? Em lạ lắm sao?
Nghe con Rùa hỏi, tôi sực nhớ từ nãy đến giờ tôi chỉ mải nhìn nó, vẫn chưa nói tiếng nào. Tôi không nghĩ tôi gặp con Rùa trong tình huống này. Tôi chưa chuẩn bị tinh thần để gặp nó, mặc dù tôi quay về làng chính là vì nó.
Tim đập thình thịch, tôi nói như người hụt hơi:
- Ờ… trông em lạ lắm.
Tôi nhìn con Rùa, lần này tôi nhận ra đôi mắt ngời sáng quen thuộc đang đưa qua đưa lại dưới rèm mi đen dài từng làm tôi thao thức trong những đêm Sài Gòn trở gió. Đôi mắt đó, cộng thêm cách bắt chuyện tự nhiên của con Rùa giúp tôi dần trấn tĩnh.
Vui vẻ, hồn nhiên, thân mật, con Rùa nói chuyện với tôi như thể chúng tôi vừa gặp nhau hôm qua chứ không phải từ ba năm trước. Và dường như nó chẳng hề ngạc nhiên chút nào khi bắt gặp tôi ngồi bên bờ sông lộng gió lúc này.
- Lúc nãy nhìn thấy anh từ phía sau, em không nghĩ đó là anh. - Con Rùa mỉm cười nói - Nhưng khi đi tới giữa cầu tự nhiên em tin đó là anh.
Nó ngưng một chút rồi nói thêm, giọng thoảng qua tai tôi như tiếng gió:
- Em tin anh đã trở về và đang ngồi đợi em.
Tôi và con Rùa vẫn nhìn vào mắt nhau, nhưng gần như chỉ có nó nói. Tôi chỉ nói mỗi một câu rồi lặng thinh nhìn nó, tay mân mê con bọ ngựa bằng cọng dừa một cách vô thức, lòng rối tung như có ai vò.
- Em nhớ anh lắm đó.
Con Rùa thì thầm, vẻ rạng rỡ khiến gương mặt nó như tỏa nắng, nhưng tôi chợt thắt lòng khi phát giác đôi mắt đẹp của nó đang rưng rưng và đôi môi nó đột ngột méo xệch đi như sắp òa ra khóc.