Chương 10
Sau khi quyết định đi Salinas, bà Liza để ý quan sát xem ông Samuel có thái độ gì khác thường không. Tính bà vốn cẩn thận nên e ngại chồng trở tính sao đó. Ngoài ra đối với bà chẳng có gì đáng suy nghĩ. Bà rất thích đi thăm các con mình. Bà không quá bịn rịn về đất đai vườn tược. Đối với bà, nhà cửa quê quán chỉ là một chỗ tạm trú trong khi chờ lên Thiên Đường thôi. Bà cảm thấy mệt mỏi thực sự rồi. Càng ngày, những cơn đau nhức, mệt mỏi càng tăng, khiến bà không thể dậy sớm như ý muốn, một thói quen mà bà đã có từ lâu.
Bà hằng mơ ước đến cõi Thiên Đường, ở đó áo quần sẽ không bao giờ dơ bẩn, thức ăn khỏi cần nấu nướng, đĩa bát khỏi cần rửa như bây giờ. Trên đó còn nhiều điều bà không hiểu hết được. Bà không hiểu tại sao kẻ được lựa chọn lên đó có thể sống muốn đời trong cảnh lười biếng như đã hứa trong Thánh kinh được. Riêng bà, khi lên Thiên Đường bà sẽ tìm việc này việc nọ để làm chắc phải có vài đám mây cần mạng lại, vài chiếc cánh cửa thiên thần cần lau dầu. Dù ở thượng giới chắc cũng có mạng nhện ở vài xó xỉnh nào đó cần phải được quét xuống bằng một cái chổi quấn khăn vải.
*
Khi đã quyết định đi Salinas chơi, Samuel chuẩn bị kĩ lưỡng. Ông đi thăm tất cả những láng giềng quen biết. Lúc ông đánh xe rời khỏi nhà những người bạn già, họ biết ngay rằng sẽ không còn được gặp lại ông nữa, dù ông không nói thẳng như vậy. Ông ngắm nhìn thật kĩ từng ngọn núi, từng gốc cây, từng khuôn mặt quen thân như muốn ghi nhớ vĩnh viễn.
Ông dành cuộc thăm viếng Adam Trask lại sau rốt. Từ nhiều tháng qua ông chưa ghé lại đó. Adam bây giờ không còn trẻ nữa. Hai đứa bé sinh đôi đã lên mười một. Chỉ có Lee là không có vẻ thay đổi bao nhiêu. Lee ra tận chòi để xe ngựa đón ông Samuel.
- Tôi muốn đến thăm ông, - Lee nói, - nhưng bận việc quá không đi được. Mỗi tháng tôi phải đi San Francisco một lần.
- Sao chú có vẻ thay đổi quá vậy Lee?
- Tôi đã cắt bỏ cái đuôi sam rồi ông Hamilton ạ. Mãi đến nay ông mới biết sao? Bà Nữ hoàng đã qua đời. Nước Trung Hoa đã được tự do. Bọn Mãn Châu không còn thống trị nên người Tàu, không còn phải để đuôi sam nữa.
- Chú có thấy thay đổi lắm không?
- Chẳng có gì thay đổi lắm. Trên đầu thấy nhẹ hẫng làm tôi cứ ngờ ngợ mãi. Chắc phải một thời gian mới quen dần với cảm giác mới này.
- Adam mạnh khỏe chứ?
- Ông ấy vẫn mạnh nhưng chẳng thay đổi mấy.
- Đời anh ấy thiếu tình yêu khó mà vui được. Hai thằng bé chắc lớn lắm?
- Tôi vẫn là bạn của tụi nó. Chúng kính sợ cha chúng lắm, nhưng có lẽ chúng yêu mến tôi hơn. Hai đứa rất khác tính nhau. Ông khó tưởng tượng được những điểm khác nhau đó.
- Chẳng hạn như thế nào hả chú Lee?
- Lát nữa khi chúng đi học về, ông sẽ có dịp thấy. Hai đứa khác nhau như mặt trái và mặt phải của một tấm huy chương. Thằng Cal thì lanh lợi, sâu sắc, còn Aaron thì nói năng thật dễ thương.
- Anh không thích thằng Cal phải không?
- Tôi thấy mình không hợp với nó lắm. Nó ham tranh đua với đời sống, trong khi anh nó thì không có vẻ như vậy chút nào.
- Trong bầy con của tôi cũng có tình trạng đó. - Ông Samuel phụ họa. - Tôi cũng không hiểu tại sao? Anh xem chúng có cùng một dòng máu, cùng chịu một lề lối dạy dỗ như nhau, nhưng rồi chẳng đứa nào giống với đứa nào hết.
*
Sau đó ông Samuel và Adam rẽ qua lối đi có bóng cây sồi để tới chỗ miệng khe nước. Hai người đứng nhìn khắp thung lũng vừa nhuộm màu xanh ngát sau những cơn nước đầu mùa.
Ông Samuel nhỏ nhẹ nói:
- Anh mà bỏ hoang số đất màu mỡ đó của anh thì thật đáng hổ thẹn.
- Tôi không có hứng gì để canh tác cả.
- Anh lấy làm kiêu hãnh trong nỗi thất vọng của anh lắm phải không? - Ông Samuel hỏi. - Phải chăng anh đang tự cảm thấy mình vĩ đại vì bi thảm.
- Tôi cũng không biết nữa.
- Vậy thì anh nên suy nghĩ kĩ. Có lẽ anh đang đóng một vai tuồng mà chính anh là một khán giả.
Giọng Adam hơi bực bội:
- Tại sao ông lại lên giọng giảng thuyết với tôi làm gì?
- Để thử xem có chọc tức nổi anh chút nào không? Trước mặt là cả một vùng đất màu mỡ bị bỏ hoang, còn bên cạnh tôi là cả một con người trai trẻ bỏ phế. Thật là uổng phí.
- Tôi biết làm gì hơn?
Anh nhìn thẳng vào mặt ông Samuel, nói:
- Tôi sợ không thử lại được.
- Còn các con anh thì sao? Anh không thương chúng sao?
- Có thương chứ.
- Anh yêu đứa này nhiều hơn đứa kia phải không?
- Sao ông lại hỏi tôi câu đó?
- Tôi không biết. Có cái gì trong giọng nói của anh bắt tôi nghĩ như vậy.
- Thôi chúng ta nên quay về. - Adam nói.
Hai người quay trở lại lối cũ ngang qua dưới những tàn cây. Chợt Adam hỏi:
- Ông có nghe tin Cathy hiện ở quanh quẩn đâu trong vùng Salinas này không? Ông có nghe dư luận xầm xì về tin đó không?
- Anh có nghe tin đó à?
- Vâng. Nhưng tôi không tin. TÔi không thể nào tin điều đó được.
Ông Samuel lặng lẽ bước theo vết bánh xe in trên đường đất. Cuối cùng ông nói:
- Anh đâu có bằng lòng cho chị ấy ra đi phải không?
- Không.
- Tôi không dám chỉ vẽ anh nên sống như thế nào, tuy vậy tôi cũng mạo muội mạn đàm với anh về nghệ thuật sống. Tôi nghĩ rằng anh nên thoát khỏi lối sống khép kín của anh bấy lâu nay và chịu khó hòa mình vào với nhịp sống xung quanh. Trong khi tôi nói chuyện này với anh, chính tôi cũng đang kiểm điểm lại ký ức của mình. Tôi xin được phép chỉ cho anh một cách này, anh thử áp dụng xem sao? Mỗi tối khi tắt đèn vào giường nằm, anh hãy tưởng tượng nàng đang đứng ngay ở ngưỡng cửa phòng bên cạnh, một ngọn đèn nhỏ đủ cho anh có thể thấy rõ cả chiếc áo ngủ thướt tha phơ phất. Rồi nàng tình tứ bước tới bên giường anh, anh hồi hộp tránh đầu qua một bên gối dành chỗ cho nàng tựa đầu xuống sát bên anh. Anh có thể ngửi được mùi thịt nàng thơm hơn bất cứ loại hương thơm nào trên trần gian này.
- Thôi đừng nói nữa. - Adam hét to lên.
Ông Samuel vẫn dịu giọng:
- Chính tôi đã từng sống với một hình ảnh như vậy hằng đêm, từ tháng này qua năm nọ cho đến cả bây giờ. Đáng lẽ tôi thù ghét nàng, nhưng tôi không. Suốt bao nhiêu năm nay tôi đã lừa dối Liza. Tôi đã dành nhiều giờ tuyệt vời nhất cho cái thú thầm kín đó...
Hai bàn tay của Adam xoắn chặt vào nhau, mấy ngón tay trắng bệch vì máu không lưu thông được. Chàng gằn giọng:
- Ông làm tôi nghi ngờ cả chính mình. Ông luôn luôn làm tôi nao núng. Tôi sợ ông rồi. Tôi phải làm gì hả ông Samuel? Tôi sẽ phải làm gì bây giờ?
- Đâu có gì khó lắm. Việc anh phải làm là hãy tìm một Cathy thứ hai.
- Tôi thấy khó làm được điều đó quá. - Adam nói.
- Cái đó là tùy anh. Tôi nói vậy là hết. Bây giờ tôi mới nói đến lý do cuộc viếng thăm hôm nay. Tôi đến đây để chào giã biệt anh.
- Ông nói gì lạ vậy?
- Olive, con gái tôi mời Liza và tôi đến Salinas ở chơi với nó một thời gian. Ngày mốt chúng tôi lên đường.
- Vậy à, nhưng rồi ông sẽ trở về chứ?
Samuel nói tiếp:
- Sau khi vợ chồng tôi ở chơi với gia đình con Olive chừng một hay hai tháng, chắc sẽ đến lượt thằng George mời. Nó sẽ buồn tủi lắm nếu chúng tôi không đến Paso Robles thăm gia đình nó. Rồi sẽ đến phiên con Molie mời chúng tôi đến San Francisco. Rồi đến thằng Will và có lẽ đến lượt thằng Joe mời về miền đông. Nhưng có lẽ sẽ lâu lắm mới trở về được
- Ông không thích vậy sao? Ông đã làm lụng vất vả trên vạt đất cằn cỗi đó từ bao nhiêu năm nay rồi. Bây giờ ông cần phải nghỉ ngơi chứ.
- Tôi yêu thích vạt đất khô cằn đó của tôi. - Ông Samuel đáp. - Tôi yêu từng viên đá sỏi, yêu lớp đất cằn cỗi không có nước đó. Tôi tin rằng trong đó vẫn chứa sẵn sự sung túc. Khi anh nói rằng rôi đã đến lúc nghỉ ngơi, có nghĩa rằng đời tôi đã chấm dứt.
- Ông nghĩ vậy à?
- Tôi đã chấp nhận điều đó mà.
Adam hăng say nói tiếp:
- Ông có thể chấp nhận như vậy được và khi đã chấp nhận điều đó, ông coi như tách ra khỏi đời sống còn gì!
- Tôi biết điều đó.
- Nhưng không thể hành động như vậy.
- Tôi không muốn ông quyết định như vậy.
Samuel mỉm cười nhìn Adam:
- Tôi rất hài lòng được nghe anh có nhã ý đó về tôi! Được anh có bụng mến mà nói như vậy, tôi rất cảm ơn nhưng muộn rồi.
Bỗng Adam nhìn thẳng mặt ông Samuel để ông ta ngừng nói. Chàng nói tiếp:
- Tôi rất biết ơn những gì ông đã cố tâm giúp tôi. Bây giờ nếu tôi yêu cầu ông một điều, ông có sẵn lòng giúp tôi một lần chót để cứu vãn đời sống của tôi không?
Chàng vung tay thành một đường vòng cung về hướng tây.
- Về miếng đất ở góc đó. Ông có thể giúp tôi tạo dựng ngôi vườn mà chúng ta đã còn lần bàn với nhau trước đây không? Chúng ta có thể gây giống một số hoa. Hoa bán được tiền lắm. Ông hãy tưởng tượng xem, nhiều mẫu đậu ngọt và vuông đất trồng loại hoa kim chẩn thảo vàng rực.
- Anh làm tôi cảm động muốn khóc được.
Ông Samuel nói. Mắt ông đẫm nước mắt thật. Ông nói tiếp:
- Cám ơn anh lắm. Anh Adam ạ.
- Vậy ông nhận lời chứ?
- Không, tôi không làm được đâu. Nhưng tôi sẽ ghi nhớ điều này trong trí khi tôi ở Salinas, ngay cả lúc đang nghe William Jennings Bryan diễn thuyết. Có lẽ rồi tôi sẽ phải tin chuyện đó xảy ra.
- Ông đúng là một người bướng bỉnh.
- Đa sự mới đúng chứ. - Samuel nói. - Liza cho rằng tôi đa sự, nhưng bây giờ tôi đã bị màng lưới của các con tôi vây chặt. Nhưng tôi cũng thích như vậy.
*
Bữa ăn đã dọn sẵn trong nhà. Hai cậu bé ngoan ngoãn bước vào, đứng len lét nhìn ông khách.
- À, các cháu, lâu quá ông chưa có dịp đến thăm các cháu. Chính ông là người đã chọn tên cho các cháu đây. Cháu này là Caleb phải không?
- Con là Cal đây.
- Ngoan lắm, đúng cháu là Cal rồi nhé. Ông xây qua đứa kia:
- Còn cháu là Aaron phải không?
- Thưa ông, phải ạ.
Lee chen vào:
- Nó đọc với một âm a thôi. Đọc hai âm a các bạn nó chế giễu.
- Thưa ông, cháu có đến ba mươi lăm con thỏ giống Bỉ. - Aaron nói. - Ông có muốn xem chúng không?
- Ông thích xem lắm chứ Aaron!
Ông buột miệng hỏi Cal:
- Cal, cháu không phải là một người ưa làm vườn chứ?
Cal trả lời:
- Năm tới ba cháu sẽ giao cho cháu toàn quyền canh tác một mẫu đất trong nông trại của ba.
Aaron khoe:
- Cháu có một con thỏ đực nặng mười lăm cân Anh. Cháu sẽ tặng cho ba cháu vào dịp lễ sinh nhật sắp đến của ba.
Chợt nghe cửa phòng ngủ của ông Adam đang mở, Aaron vội nói nhanh:
- Ông đừng tiết lộ gì cả nhé. Cháu muốn giữ bí mật.
Adam bước vào vừa xắn tay áo lên, vừa ngồi xuống chỗ đầu bàn, ông nói:
- Hai con ngoan chứ!
Chúng đồng thanh đáp:
- Dạ ngoan, mời ba dùng bữa ạ.
Rồi Aaron dặn thêm ông Samuel:
- Ông đừng tiết lộ nhé!
- Ông không tiết lộ đâu. - Samuel vui vẻ hứa.
- Không tiết lộ chuyện gì vậy? - Adam hỏi.
- Tôi và con anh có một chuyện bí mật.
Hai đứa bé lặng lẽ ăn khá nhanh. Aaron nói:
- Chúng con đã ăn xong, xin phép đứng dậy trước ạ.
Adam gật đầu. Hai đứa bé bước nhanh ra ngoài.
Lee đem bình đựng cà phê bằng sứ ra đặt lên bàn, rót đầy ba tách rồi ngồi xuống. Anh ta áp hai lòng bàn tay quanh cốc cà phê nóng cho ấm. Chợt Lee cười lớn:
- Này ông Hamilton, ông đã làm nước Trung Hoa phải tối lên.
- Chú nói gì vậy Lee.
- Ông còn nhớ đã có lần ông đọc cho chúng tôi nghe mười sáu câu thơ ở đoạn bốn trong sách Sáng Thế Ký của Thánh kinh và chúng ta đã bàn luận với nhau về đoạn đó chứ?
- Nhớ chứ, nhưng lâu lắm rồi mà.
- Đã gần tới mười năm. - Lee nói. - Vâng càng nghĩ đến chuyện đó, tôi càng thấy thâm thúy. Nhớ lại những nhận định của mỗi người chúng ta, ta thấy không có gì trái ngược nhau chỉ có một điểm làm tôi thắc mắc. Đó là đoạn Thượng đế hỏi Cain tại sao Cain nổi giận?
Theo bản dịch của King James thì như vầy:
“Nếu ngươi làm lành há chẳng ngước mặt lên sao? Còn như chẳng làm lành, thì tội lỗi rình đợi trước cửa thèm ngươi lắm, nhưng ngươi phải quản trị nó.” Chính mấy tiếng “ngươi phải quản trị nó” đã làm tôi thắc mắc, vì mấy tiếng đó rõ ràng là lời khuyên và hứa hẹn Cain sẽ thắng lướt được tội lỗi.
Ông Samuel gật đầu:
- Nhưng con cái Ngài đã không làm theo lời dạy của Ngài.
Lee nhấp một ngụm cà phê:
- Nhưng theo bản dịch mới thì câu đó hơi khác, “Ngươi phải kiềm chế nó.” Đây không phải là lời khuyên mà là một mệnh lệnh. Tôi không hiểu nguyên văn của người chép nguyên thủy như thế nào.
Ông Samuel xòe tay chống lên mặt bàn, chồm người tới trước nói:
- Lee, bộ chú định học cả tiếng Hi-Bá-Lai để khảo cứu Thánh kinh sao?
- Tôi đâu dám có dự định đó. À, ông uống một chút rượu Ngũ Gia Bì nhé?
- Chú định mời tôi uống thứ rượu có mùi táo thối nhưng khá ngon đó phải không?
- Vâng, uống rượu đó tôi nói năng hoạt bát hơn. - Lee đi lấy hũ rượu bằng sành và ba chiếc tách nhỏ bằng sứ mảnh khảnh và xinh xắn ngời ánh sáng. Vừa rót chất rượu màu sậm đen vào tách, Lee nói:
- Mời hai ông thưởng thức một chút rượu Trung Hoa thử xem.
Samuel nhấp vài hớp nói:
- Tôi không hiểu tại sao chú lại chú ý đến chuyện đó dữ vậy?
- Vâng, theo tôi nghĩ thì người nào tưởng tượng ra chuyện tích trứ danh này hẳn phải biết rõ những gì ông ta muốn nói và nhất định không có sự mơ hồ.
- Chú dùng danh từ người nào tức là chú không tin rằng Thánh kinh được sáng tác bởi bàn tay thiêng liêng của Thượng đế dẫn dắt sao?
- Tôi nghĩ rằng chuyện tích này có lẽ là do một trí óc cao cả nhưng hơi lạ lùng đã sáng tạo ra. Thôi chúng ta nói qua chuyện khác. Tôi vừa đi Cựu Kim Sơn ghé lại ban quản trị của một tổ hợp gồm nhiều người trong họ của tôi thành lập. Ông có biết họ thế nào không? Các đại gia đình của tôi có những trung tâm mà bất cứ người nào cũng có thể giúp đỡ hay góp phần vào. Dòng họ Lee rất lớn và sẵn sàng cứu trợ bao bọc lẫn nhau.
- Tôi có nghe nói về những tổ chức như vậy. - Ông Samuel nói.
Lee tiếp lời:
- Tôi đã tới đó vì trong dòng họ tôi có một số hiền nhân quân tử đã trở thành những học giả danh tiếng. Họ là những nhà tư tưởng uyên thâm.
Một người có thể mất nhiều năm suy ngẫm mới hiểu ý hết một câu của nhà hiền triết Khổng Tử. Tôi nghĩ rằng chắc những học giả ở đó có thể giúp tôi hiểu rõ.
Lee nhấp một hớp rượu sậm màu để thấm giọng nói tiếp:
- Tôi đã thành kính trình bày vấn đề mà tôi thắc mắc với một trong những học giả đó, đọc cho ông ấy nghe sự tích và nói những điều tôi hiểu. Ngay đêm sau, bốn vị đã họp mặt và gọi tôi vào, chúng tôi đã thảo luận với nhau về sự tích đó suốt đêm.
Lee cười khoái trá:
- Hai ông biết họ đã làm gì không? Họ bắt đầu học cổ ngữ Hi Bá Lai. Họ đã thọ pháp với một pháp sư thông thái của Do-Thái-Giáo như những đứa trẻ mới đi học.
Tiếng Hi Bá Lai được viết bằng bút lông và mực xạ trông ngộ lắm. Chúng cùng một nguồn gốc mà.
- Chú cũng học chứ? - Samuel hỏi.
- Tôi cũng có học theo họ, và hết sức thán phục óc thông minh lạ lùng của họ. Cách hai tuần tôi đi họp với họ một lần. Hiện trong phòng tôi vẫn còn giữ nhiều trang chữ viết, nhưng những vị học giả lớn tuổi luôn luôn nhớ nhiều hơn tôi. Chẳng bao lâu họ giỏi hơn cả ông pháp sư Do Thái, làm ông ta phải với thêm một đồng nghiệp tới hỗ trợ.
Sau hai năm chúng tôi đã có đủ trình độ để hiểu được mười sáu câu của chương bốn trong sách Sáng Thế Ký của Thánh Kinh, các vị học giả này nhận thấy rằng những tiếng đó rất quan trọng. Sau vụ đãi sạn tìm vàng này kết quả là: “ngươi phải quản trị nó” hay “ngươi phải kiềm chế nó” đều sai. Phải nói: “ngươi có thể chế ngự tội ác đó” mới đúng. Tiếng Hi Bá Lai nguyên văn là “Timshel.” Mấy vị học giả lão thành đã mỉm cười thỏa nguyện vì mấy năm bỏ ra để học tiếng Hi Bá Lai đã không đến nỗi uổng phí. Việc đó đã đem họ ra khỏi những lớp vỏ thủ cựu về tiếng Trung Hoa của mình. Hiện giờ họ đang học tiếng Hy Lạp.
Ông Samuel nói:
- Câu chuyện anh vừa tiết lộ thật là lý thú. Nhưng tại sao một tiếng Hi Bá Lai đó lại quan trọng đến thế!
Lee rót thêm rượu vào mấy chiếc tách xinh xắn, tay anh ta hơi run. Anh ta cao giọng:
- Ông không thấy điểm quan trọng sao. Bản dịch mới của Hoa Kỳ thì dùng từ ngữ có ý nghĩ ra lệnh cho con người phải thắng vượt tội lỗi. Bản dịch King James lại dùng từ ngữ có nghĩa như một lời hứa ngầm con người chắc chắn sẽ thắng lướt tội lỗi. Nhưng nguyên văn Hi-Bá-Lai dùng tiếng “Timshel” nghĩa là “ngươi có thể” ngầm ý cho một cơ hội chọn lựa.
Tiếng đó vô cùng quan trọng, nó cho thấy con đường vẫn mở rộng cho loài người. Nếu nói “ngươi có thể” thì cũng có thể rằng “ngươi có thể không”, ông thấy rõ như vậy chứ? Chính điều đó làm cho con người thành vĩ đại, vì trong sự yếu đuối xấu xa và trong tội ác giết em mình, Cain vẫn hoàn toàn tự do chọn lựa. Anh ta có thể chọn đường lối chống nghịch lại tội lỗi và thắng lướt nó.
Giọng Lee đầy vẻ đắc thắng.
Adam hỏi:
- Theo chú thì mấy ông cụ người Trung Hoa đó cũng tin Cựu Ước kinh sao?
- Những học giả này tin vào sự thật. Họ biết thế nào là đúng, thế nào là sai. Họ là những người biết suy đoán chân giả. Họ biết rằng mười sáu câu đó là cả một sự tích về nhân loại. Họ không tin rằng một tác giả đã viết mười lăm câu ba phần tư rất rõ ràng và một phần tư câu lại mơ hồ chỉ vì một động từ dùng sai. Khổng Tử dạy mọi người nên sống như thế nào để thành công ở đời. Nhưng câu này là nấc thang để lên tận các vì sao.
Cặp mắt Lee sáng ngời lên:
- “Các con nên nhớ điều này. Nhu nhược, hèn nhát và lười biếng sẽ làm các con quỵ ngã.”
Adam tỏ vẻ thán phục.
- Tôi không hiểu nổi làm sao chú vừa có thể lo nấu ăn, vừa săn sóc hai đứa nhỏ, vừa giúp đỡ công việc cho tôi, đồng thời còn thì giờ học hỏi nghiên cứu như vậy.
- Tôi chẳng tài cán gì. - Lee nói. - Nhưng tôi thấy rằng tôi là một người đàn ông, và theo tôi được làm đàn ông là một cái gì rất là quan trọng, có lẽ còn quan trọng hơn một vì tinh tú. Tôi có một niềm tin lớn lao về giá trị của con người. Con người là một thực thể độc đáo và cao quý trong vũ trụ. Dù bị chỉ trích, bị tấn công nhưng không bao giờ bị tiêu diệt bởi vì con người được tự do chọn lựa như Thánh Kinh chép “người có thể...”
Lee và Adam ra tận chòi ngựa để tiễn biệt Samuel. Lee cầm cây đèn bằng thiếc để soi đường, chiếc quai đèn kêu cút kít khe khẽ theo nhịp chiếc đèn lúc lắc trên tay Lee.
Con ngựa Dosology kiên nhẫn đứng đợi trong chuồng, đầu cúi gằm, cặp mắt lờ đờ nhìn mớ rơm khô dưới chân.
Adam nói:
- Ông dùng con ngựa này lâu ghế đấy chứ!
- Nó ba mươi ba tuổi rồi đó. - Samuel nói. - Răng nó rụng hết trọi. Tôi phải tự tay nuôi nó bằng thức ăn đặc biệt.
Adam đề nghị:
- Có lẽ ông nên giải thoát nó khỏi đau khổ là vừa.
- Đau khổ gì? - Samuel hỏi. - Theo tôi thấy thì nó là một trong những sinh vật sung sướng nhất trần gian. Chắc nó cũng nghĩ vậy, Adam anh giết nó giùm tôi chứ?
- Được chứ, tôi rất sẵn sàng. Nó đã ba mươi tuổi. Đối với loài ngựa, nó sống như vậy đã là quá mức rồi.
Lee đã đặt cây đèn xuống đất. Samuel ngồi xuống cạnh đó, tự động xòe hai bàn tay ra hơ trước ánh sáng vàng vọt của ngọn đèn cho ấm.
- Này Adam, tôi vẫn còn thắc mắc một điều.
- Điều gì vậy?
- Có thật anh muốn giết con ngựa già của tôi vì anh tin rằng cái chết dễ chịu hơn phải không?
- Vâng, tôi nghĩ rằng...
Samuel hỏi nhanh.
- Anh Adam, anh có yêu thích đời sống của mình không?
- Dĩ nhiên là không.
- Vậy nếu tôi có một liều thuốc vừa có thể chữa lành căn bệnh bi quan, nhưng đồng thời cũng có thể giết chết anh thì anh có sẵn sàng nhận không!
Lee vội can:
- Ông Hamilton, xin ông cẩn thận một chút.
Samuel ôn tồn nói:
- Chú cứ yên tâm, tôi nghĩ rằng lần này tôi không cần cẩn thận nữa. Nếu tôi sai lầm, tôi sẵn sàng nhận trách nhiệm. Adam, anh cần liều thuốc đó không?
- Vâng, tôi không biết liều thuốc đó loại gì, nhưng tôi xin sẵn sàng nhận.
- Anh Adam, Cathy hiện đang ở tại Salinas. Nàng đã đổi tên là Kate và làm chủ một ngôi nhà chuyên làm những chuyện xấu xa tồi bại nhất trong xứ. Đó là liều thuốc mà tôi định trao cho anh. Để xem nó sẽ có phản ứng nào đối với anh.
- Ông nói láo. - Adam lớn tiếng.
- Không đâu. Tôi có nhiều tính xấu nhưng nói láo nhứt định là không.
Adam gầm lên hỏi Lee:
- Có đúng vậy không?
- Tôi không có liều thuốc giải độc nào hơn. - Lee nói. - Quả thật đúng như vậy.
Adam hơi loạng choạng trước ánh đèn bão rồi vụt bỏ chạy. Họ nghe tiếng những bước chân nặng nề của chàng đang chạy và thỉnh thoảng vấp một cái. Họ nghe rõ tiếng chàng bị vấp ngã vào bụi cây, tiếng chân khập khiễng lê bước lên dốc đồi. Tiếng chân dừng lại khi chàng đã lên tận đỉnh đồi.
Lee nói:
- Liều thuốc của ông có tác dụng như một liều độc dược rồi đó. Ông can đảm thật.
- Không, tôi là một người đã trọng tuổi. Vì lương tâm tôi buộc lòng phải nói cho anh ấy biết sự thật.
Lee hỏi:
- Ông thử đoán xem ông ấy sẽ hành động thế nào?
- Tôi không biết. - Samuel nói, - nhưng ít ra anh ấy cũng không đến nỗi ngồi ủ rũ một chỗ mà than thở. Chú cầm giùm cây đèn lên cho tôi thấy đường một chút được không nào?
Dưới ánh sáng vàng vọt của ngọn đèn bão, ông Samuel chụp cái hàm thiếc vào mõm con Dosology, chiếc hàm thiếc bằng thép mỏng và sơ sài.
Khi ngựa đã được buộc vào càng xe, Lee hỏi:
- Tôi ngồi chung với ông một quãng đường được không? Tôi sẽ đi bộ về.
- Được chứ, nào cùng lên. - Ông sốt sắng nói và cố tình làm ngơ như không để ý gì đến việc Lee đỡ ông lên xe.
Đêm tối như mực, con Dosology đã già yếu không quen đi đâu nên cứ năm bảy bước lại vấp chân một cái.
Samuel nói:
- Chú Lee muốn nói gì thì cứ việc nói đi.
Lee không tỏ vẻ ngạc nhiên chút nào:
- Tối nay ông làm tôi sửng sốt hoàn toàn. Tôi cứ tưởng không có người nào, kể cả ông dám nói thẳng chuyện đó ra với ông Adam. Ông rất tốt bụng. Lòng tốt phát ra từ một tâm hồn đầy nhân ái.
- Nghe chú nói tôi lấy làm ngạc nhiên hết sức. Chính nhờ mấy tiếng trong Thánh kinh mà chú đã khổ công dịch lại đã làm tôi xúc động đến nghẹn ngào, đó là mấy tiếng “ngươi có thể”. Sau khi cơn choáng váng lắng xuống, một con đường đã mở rộng mới mẻ và sáng sủa. Cuộc đời sắp tàn tạ của tôi dường như đang đi đến một kết cục tuyệt vời.
Trong bóng tối, Lee ghé sát mặt ông Samuel nói:
- Những vị cao niên trong dòng họ tôi đều có cảm nghĩ như ông.
- “Ngươi có thể chế ngự tội lỗi.” Chỉ có thể.
Tôi không tin mọi người đều sa ngã. Tôi có thể kể ra với chú chừng một tá người không hề bị sa ngã. Họ chính là những người rất hiếm có trên cõi đời này.
Trong lãnh vực tinh thần cũng như ngoài mặt trận, chỉ những kẻ chiến thắng mới đáng kể, “ngươi có thể... ngươi có thể...” Vinh dự thay! Thực ra chúng ta đều yếu đuối, bệnh hoạn gây sự, nhưng nếu tất cả mọi người đều như vậy thì từ nhiều ngàn năm trước con người đã bị tiêu diệt khỏi mặt đất, Lee ạ. Nhưng một số người đã chọn lựa, họ chọn lựa sự chiến thắng. Trước đây tôi chưa bao giờ hiểu cũng như chưa bao giờ nhìn nhận điều đó. Chú có hiểu tại sao tối nay tôi lại nói thật về chuyện Cathy cho Adam không? Tôi đã làm một cuộc thí nghiệm về sự chọn lựa. Nguyên tiếng đó là gì hả Lee?
- “Timshel.” Lee nói. - Thôi ông dừng xe lại đây được rồi.
- Chú đi bộ từ đây về hơi xa đó.
Lee trèo xuống xe và gọi với lại:
- Ông Samuel.
- Tôi đây, anh định nói gì nữa đó?
- Vậy là ông sắp xa chúng tôi rồi.
- Thôi, tôi đi nhé.
- Chào ông. - Lee nói rồi vội vã bước trở lại theo đường cũ. Anh ta nghe rõ tiếng bánh xe ngựa niềng sắt nghiến lên mặt đường. Anh ta ngoái cổ lại nhìn theo chiếc xe trên dốc đồi. Anh thấy bóng ông Samuel nổi bật giữa nền trời, mái tóc bạc của ông nhuộm ánh sao mờ nhạt.