Chương 2

Khi đám di dân đầu tiên đến miền tây, phần lớn từ các nông trại nhỏ bên Âu châu, thấy đất đai bao la bát ngát, chỉ cần ký vào một tờ giấy và vạch một cái nền là thành sở hữu của mình, nên lòng tham đất đai của họ không đáy.

Những di dân đến trước này, chiếm những phần đất đai rộng lớn mà họ không bao giờ sử dụng tới. Họ chỉ chiếm đề dành quyền sở hữu chủ. Vì thế chẳng bao lâu tất cả đất đai thuộc vùng đồi hoang gần King-City và San Ardo cũng đều bị chiếm hết và những gia đình thưa thớt sống rải rác khắp các ngọn đồi. Họ tận lực canh tác những vùng đất ít màu mỡ đó để kiếm sống. Họ đến tân lục địa với hai bàn tay trắng không vốn liếng, không dụng cụ, và nhất là hoàn toàn mù mịt về xứ sở mới này. Tôi không biết do sự dại dột phi phàm hay do niềm tin lớn bao la đã dẫn đưa họ tới đây. Nhưng chắc chắn rằng tinh thần mạo hiểm ấy ngày nay hầu như đã biến mất trên thế giới này.

Các gia đình di dân có tồn tại và phát triển. Ho đã có được một thứ khí giới quý báu rất hiếm thấy là giữa cá nhân này với cá nhân kia có sự tin cậy và tôn trong lẫn nhau và họ biết rằng làm như vậy họ sẽ là những phần tử xứng đáng và có một sức mạnh tinh thần tiềm tàng để sinh tồn.

Nhưng trong khi nhiều người đã đến thung lũng Salinas với hai bàn tay trắng, thì cũng có một số người đến đây với tiền bạc dồi dào để tạo dựng một cuộc sống mới. Những người có vốn liếng này đã mua lại những phần đất tốt, dựng nhà bằng những thứ gỗ đã được bào nhẵn, nền trải thảm và cửa sổ lồng những mặt kính màu lấp lánh như kim cương. Có được những khu đất màu mỡ trong thung lũng, họ dọn sạch lại cải hoang có hoa vàng để trồng lúa mì thay vào đó.

Một người đàn ông tên Adam Trask đã đến thung lũng với bà vợ tên Cathy trong hoàn cảnh đó.

*

Adam Trask đã trưởng thành trong một nông trại ở Connecticut với người em trai khác mẹ là Charles. Cha chàng là ông Cyrus, một cựu chiến binh của cuộc nội chiến và phải đi bằng một chân gỗ, ông là một trong những phần tử cột trụ của tổ chức mệnh danh là G.A.R.

Trong những năm sau cùng của đời mình, ông được cử làm bí thư của tổ chức đó tại Hoa Thạnh Đốn. Với số phiếu cử tri thuộc tổ chức G.A.R. trong tay, ông đã trở thành một người bạn của các vị Tổng thống, một sức mạnh chính trị có thể làm cho các thượng nghị sĩ nếm mùi thất bại.

Hồi Adam còn nhỏ, ông Cyrus Trask quan niệm rằng quân đội là nghề cao quý nhất đối với một nam nhi.

Ông đã tổ chức nông trại của mình, khắc phục bà vợ kế Alice hiền thục và hai cậu con trai theo lề lối quân sự. Ông bắt chúng làm việc phải thật siêng năng, phải đi bộ hàng dặm mang theo túi dết đựng đá nặng nề để luyện cho vai cứng cáp. Ngay từ khi còn bé, Adam chưa hề được hưởng sự vuốt ve âu yếm hoặc được nghe một lời ru ngọt ngào êm ái nào.

Vì mẹ chàng mất sớm lúc chàng còn là một đứa bé sơ sinh. Còn bà mẹ kế của chàng thì lạnh lùng nghiêm khắc. Bà đối xử với cả hai đứa, con ghẻ và con ruột một cách đồng đều công bằng. Bà tắm rửa, cho ăn mặc đầy đủ. Ngoài ra những chuyện day dỗ khác, bà giao hẳn cho cha của chúng. Đối với ông, việc giáo dục con cái là đặc quyền của mình.

Lối giáo dục đó sẽ đưa đến một hậu quả tai hại là khi một đứa bé bắt đầu biết suy xét, khi trong đầu nhỏ bé và nghiêm chỉnh của nó nảy ra ý nghĩ rằng các người lớn không phải luôn luôn khôn ngoan tuyệt đối, rằng những phán đoán của họ không phải lúc nào cũng tuyệt hảo, thì mọi ảo tưởng trong đầu nó sẽ tiêu tan. Những thần tượng đều sụp đổ, niềm tin sẽ lung lay tận gốc rễ. Những thần tượng đó không suy sụp dần dần mà sụp đổ tan hoang một cách thảm hại. Thế giới diễm ảo của đứa trẻ sẽ không bao giờ toàn vẹn trở lại lần thứ hai. Đó là một khủng hoảng đớn đau cho tuổi thành niên.

Cuối cùng Adam cũng nhận ra điều đó ở cha mình. Không phải cha chàng thay đổi thái độ, nhưng tự nhiên ở Adam nảy sinh một cái nhìn mới mẻ.

Chàng thấy không ưa thái độ khắt khe của cha, nhưng ghét thì ghét, chớ không thể tránh hoặc chối từ được, cũng như không ai thích bệnh sởi mà vẫn mắc phải chứng đó như thường. Rồi dần dà, chẳng bao lâu sau, sự chán ghét đó biến thành một ung nhọt trong đầu óc, Adam nhận thấy rằng lối áp dụng kỉ luật nghiêm khắc của ông bố chẳng ích lợi gì cho hai cậu con mà chỉ có giá trị làm cho ông Cyrus thỏa mãn tính ưa chỉ huy của mình, một thói quen có sẵn từ ngày ông còn trong quân đội. Trong đầu Adam đã bắt đầu nghĩ rằng cha anh không phải là một vĩ nhân mà chỉ là một con người nhỏ thó cương nghị mang bản ngã một chiến sĩ khinh kỵ quá khổ với chính mình.

Nhưng Adam là một người con biết vâng lời. Có một cái gì trong anh chống nghịch lại bạo lực, tranh biện chỉ thêm làm mất hòa khí trong gia đình. Adam bất bình bà kế mẫu nhiều điều, nhưng anh chỉ ngấm ngầm chịu đựng chứ không hề để lộ ra ngoài. Anh cố tạo một bộ mặt trầm lặng bề ngoài, trong khi nội tâm anh là cả một thế giới bí mật.

Charles chỉ nhỏ hơn anh một tuổi, đã trưởng thành dưới ảnh hưởng của ông bố một cách tự nhiên, Charles có bản chất một lực sĩ sẵn sàng khắc phục mọi trở ngại để lướt thẳng. Trong bất cứ cuộc đấu trí hay đọ sức nào với anh là Adam, Charles đều thắng một cách dễ dàng đến độ anh không còn bận tâm gì về chuyện đó.

Anh chỉ tìm những đối thủ trong vòng những đứa trẻ đồng lứa khác. Charles hạ hết những đứa trẻ nào ăn hiếp anh mình. Anh che chở Adam khỏi những nghiệt ngã của cha bằng thủ đoạn nói láo hoặc bằng những lời bênh vực thẳng thắn nếu cần. Charles thương yêu che chở anh bằng thứ tình cảm mà người ta thường có đối với những kẻ tàn tật hoặc đối với trẻ sơ sinh. Tuy vậy đôi lúc anh nổi khùng cách quá đà khiến Adam phải khó chịu.

Adam xem Charles như một hạng người có năng khiếu đặc biệt, gân guốc, mạnh mẽ, lanh lợi khác hẳn mình, đáng thán phục như người ta thán phục sức mạnh tiềm tàng của một con báo đen hoàn toàn không thể so sánh với chính mình. Tuy vậy Adam không hề tâm sự cùng em về những khát vọng riêng tư, những ước mơ thầm kín, ẩn tàng sau cặp mắt đen sâu thẳm của mình. Adam rất hài lòng về Charles và hết lòng thương mến cậu em.

Khi đến tuổi trưởng thành, Adam rất ngại một việc mà không một thanh niên nào có thể tránh được. Anh sợ đến ngày phải nhập ngũ. Cha anh không khi nào chịu để anh quên lúc anh đến hạng tuổi. Ông thường nhắc nhở đến chuyện đó luôn. Ông tin rằng Adam cần được quân đội huấn luyện để trở thành một người đàn ông đúng nghĩa. Còn đối với Charles thì không cần lắm, vì anh này đã thừa nam tính đến độ đáng ngại nữa là khác.

Ông Cyrus thường thân mật giải thích với Adam về thực chất của quân đội, về tư cách của một chiến sĩ, về ảnh hưởng tốt của đời sống quân ngũ, có thể trừ khử được tính nhu nhược yếu đuối, nguyên nhân của mọi thất bại ở một người đàn ông. Ông chỉ nói riêng những điều đó với Adam và cố tránh không để cho Charles nghe.

Một buổi tối ông Cyrus bảo Adam đi dạo một vòng, cuối cùng ông nói:

- Con đã đúng mười tám tuổi. Bây giờ con nên trình diện nhập ngũ là vừa rồi đó.

- Con không thích ba ạ. - Adam vội trả lời ngay.

Cha anh không thèm để ý gì về câu trả lời của anh, ông nói tiếp:

- Con phải đi trình diện ngay. Ba muốn nói thẳng để con khỏi ngạc nhiên. Trước hết người ta sẽ lột bỏ bộ đồ dân sự của con để thay vào bộ đồ đồng phục nhà binh. Chỉ có thế thôi. Ngoài ra họ không làm gì hại đến nhân cách của con cả. Họ sẽ bắt con ăn, ngủ và tập tành theo giờ giấc nhất định cùng với các thanh niên đồng lứa khác. Con phải tuyệt đối tuân theo kỉ luật của tập thể, không được làm khác với đồng đội.

Adam vẫn khăng khăn:

- Con không thích cuộc sống đó.

Ông Cyrus thản nhiên nói tiếp:

- Con nên nhớ rằng con không được nghĩ đến những gì mà người khác không nghĩ đến. Nghĩa là con phải luôn luôn làm và nghĩ như mọi người trong tập thể, không được làm những gì có hại đến tính cách nhất trí của một đoàn thể.

Adam hỏi vặn bố:

- Sao ba không bảo Charles nhập ngũ? Nó sẽ là một quân nhân gương mẫu hơn con chứ?

- Nó chỉ được cái vẻ bề ngoài thôi, - ông Cyrus giải thích, - chứ nó không chín chắn được như con. Charles bạo dạn đến độ liều lĩnh. Đưa nó vào quân đội chỉ tổ làm cho nó liều lĩnh thêm, trong khi nó cần được làm cho thuần bớt đi. Ba không dám xúi nó vào quân đội.

Adam phân bì:

- Ba cưng Charles hơn con, ba để nó được tự do sống theo ý thích chứ không bắt nạt nó như đối với con. Bây giờ ba lại bắt con phải đi lính trong khi nó vẫn ở nhà khỏe ru.

Nói đến đó anh dừng lại sợ mình sẵn đà để cho lòng hằn học lấn át quá lời với cha.

Cha anh không trả lời ngay. Ông bỏ đi về nhà, đầu cúi gầm xuống, dáng suy nghĩ. Khi về đến khoảng sân trước mặt nhà, ông dừng bước ngẩng đầu lên hỏi:

- Adam có đó không?

- Dạ có. Con vẫn ở ngay sau lưng ba.

- Vừa rồi con có hỏi ba một câu hỏi. Ba định sẽ trả lời con đây. Câu trả lời có thể sẽ có ích và cũng có thể vô ích. Ba thấy con có vẻ chậm hiểu. Con không biết cái gì có lợi hoặc có hại cho mình. Con không có được tính cương nghị của một thằng con trai.

Con còn để bị người khác ăn hiếp mà không phản ứng gì cả. Nhiều lúc ba buồn vì tính nhu nhược cam phận đó của con. Ba nói vậy con đã hiểu chưa?

Ba vẫn thương con hơn hết. Nói ra với con câu đó, ba không muốn chút nào, nhưng đó là sự thật. Ba rất thương con. Đâu có lý gì ba muốn làm khổ con? Ba chỉ nghĩ đến những điều ích lợi cho con. Thôi con câm họng đi, vào ăn tối cho rồi.

*

Chẳng bao lâu sau, ngày kỉ niệm sinh nhật của ông Cyrus, một cuộc khủng hoảng đã xảy đến trong gia đình. Hai cậu con đều tặng quà sinh nhật cho cha. Adam tặng cha một con chó con lai, mà anh bắt được trong rừng để cha nuôi làm chó săn. Còn Charles thì tặng cha một con dao ba lưỡi có lò so và cán nạm ngọc trai để ông có thể làm việc trong nhiều giờ liên tiếp. Ông Cyrus bồng con chó lên tay vuốt ve rồi đem đặt nó vào phòng riêng. Ông nói mấy tiếng cám ơn về con dao Charles tặng, nhưng không bao giờ dùng tới. Charles chua chát càu nhàu: “Ông chẳng bao giờ thèm mò tới!”

Bị chạm tự ái, lòng ganh tị ở Charles mỗi ngày một tăng đến độ làm anh cuồng trí. Một đêm kia gặp Adam một mình trên đường làng, Charles đã đánh anh mình một trận nhừ tử không chút xót thương.

Sau đó, Charles còn chạy về nhà tìm một cái rìu. Nếu Adam không nhanh chân chui xuống ẩn dưới một cái mương bên vệ đường, thì Charles đã giết chết anh rồi.

Charles trốn biệt hai tuần lễ sau vụ đó. Khi anh ta lò đò trở về thì cơn giận dữ dội của ông bố đã nguội bớt chỉ còn lại nỗi giận ngấm ngầm. Charles tự chuộc lỗi bằng cách cặm cụi làm việc suốt ngày và âm thầm ân hận.

Sau vụ bị Charles đánh, Adam nằm lì trên giường suốt bốn ngày. Vào ngày thứ ba, cha anh dùng quyền lực của một ông bố, quyết định bắt anh phải nhập ngũ. Ông đưa một vị đại úy kỵ binh và hai trung sĩ bận đồng phục màu xanh biển vào tận giường ngủ của Adam. Tuy nằm trên giường, Adam vẫn được ghi tên gia nhập vào kỵ binh như một tân binh tình nguyện. Cha anh đứng nhìn với cặp mắt đẫm lệ vì cảm động.

Sau khi mấy quân nhân đã ra về, ông ngồi lại bên cạnh Adam một lúc lâu. Ông ôn tồn nói:

- Sở dĩ ba muốn con vào ỵ binh vì ba tin rằng đời sống trong quân ngũ rất có ích đối với con. Kỵ binh là một binh chủng rất tốt. Ba biết rõ điều đó. Rồi con cũng sẽ nhận thấy như ba.

- Vâng, chắc sẽ đúng như lời ba. - Adam nói để cha yên lòng.

*

Đối với những người như Adam mà phải nhập ngũ kể cũng là một chuyện lạ. Bản tính anh ta đâu có muốn tranh chiến như những người đàn ông khác, nhưng rồi dần dần anh cũng phải thích. Vào thời Adam gia nhập lực lượng kỵ binh, cuộc chiến đấu của người da đỏ đã đến giai đoạn kịch liệt, các bộ lạc da đỏ nổi dậy chống lại.

Những toán lính biên phòng thường bị cô lập, thiếu thốn và buồn chán. Đó không phải là một công việc thích thú gì, nhưng rất cần cho đất nước.

Không được sống yên lành với nông trại mà phải gần gũi hàng ngày với cảnh tranh chiến, thương tích đối với Adam thật là buồn chán và vô ích. Càng nhờm tởm bạo lực, anh càng hướng lòng về một chủ đích trái ngược. Đã nhiều lần anh can đảm liều mạng sống xông vào nơi nguy hiểm để cứu những người bị thương, hoặc tình nguyện làm thêm công việc tại bệnh viện dã chiến, dù anh đã phờ người vì những bổn phận thường nhật. Nếu anh có nổ súng vào tên địch nào trong suốt những năm ở trong quân ngũ, thì chẳng qua chỉ là một hành vi tự vệ miễn cưỡng. Nhưng anh không bị liệt vào hạng khiếp nhược. Trái lại anh từng được tuyên dương ba lần và được gắn huy chương anh dũng bội tinh.

Từ nông trại ở quê nhà, suốt trong nhiều năm, Charles thường viết thư đều đặn cho anh, báo tin về cái chết của người mẹ kế vì bệnh lao và về việc người cha đã nhận một chức vụ thường trực của tổ chức G.A.R, tại thủ đô Hoa Thạnh Đốn. Charles tuy nói năng không được hoạt bát, nhưng viết thư lại khá hay.

Charles tâm sự hết những đau khổ, nỗi cô độc và những lo lắng của mình. Trong những bức thư trao đổi qua lại đó, tình thân mật đầm thắm giữa hai anh em càng ngày càng đậm đà mà cả hai đều không ngờ lại có thể có được.

Adam vẫn giữ lại một trong những lá thư mà cậu em đã gửi cho mình, vì trong đó có một đoạn có vẻ lạ lùng hơi khó hiểu đối với anh. Cậu em viết: “Tôi không hiểu tại sao ba của tụi mình lại không thích con dao mà tôi đã mua tặng ông vào dịp lễ sinh nhật của ông. Tại sao ông lại có thái độ thờ ơ đến độ đó? Nếu ông sử dụng nó hoặc chỉ cần ông mó tay tới một lần thôi, tôi cũng thỏa lòng. Nếu ông không quá thờ ơ với nó, thì tôi đã không đến nỗi ganh tị với anh một cách điên khùng đến thế.

“Tôi vẫn áy náy trong lòng. Hình như có một cái gì không được ổn lắm. Đáng lẽ tôi không nên ở nhà như thế này.

“Đúng ra tôi phải đi khắp bốn phương trời, thay vì ngồi yên tại nông trại tốt đẹp yên lành này. Đáng lẽ tôi phải ở vào vị trí của anh hiện tại, và anh phải ở nhà. Đúng là không hợp lý chút nào nếu không nói là tréo cẳng ngỗng.”

Adam phục vụ trong quân đội ngót mười năm. Sau năm năm đầu, anh đã thấy quen với đời sống quân ngũ. Các chiến hữu trong tiểu đội của anh rất dễ chịu và đáng mến.

Cha anh bây giờ rất có thế lực tại Hoa Thạnh Đốn muốn vận động để anh được vào học trường võ bị West Point, một quân trường danh tiếng chuyên đào tạo sĩ quan, nhưng anh đã từ chối.

Cuối cùng vào năm 1890, Adam quyết định sẵn sàng trở về Connecticut. Anh được giải ngũ với cấp bậc trung sĩ tại Presidio, San Francisco và đã viết thư báo cho cậu em rằng: “Anh sắp về nhà nay mai.” Nhưng đó là mấy lời cuối cùng Charles nhận được của anh trải qua nhiều năm.

Adam đã nán lại California chờ qua hết mùa đông. Nhưng đến mùa xuân, anh lại hết nhẵn tiền. Anh bắt đầu đi về phía đông, lúc thì đi bộ, lúc thì đi quá giang trên các chiếc xe chở hàng chậm như rùa. Anh giao du với những tay phiêu bạt giang hồ, rất nhiều vào thời đó.

Họ tránh những lúc thời tiết quá lạnh hoặc quá nóng, chỉ di chuyển những khi tương đối mát mẻ. Adam tỏ ra rất thích đời sống giang hồ và hòa hợp với nếp sống đó một cách nhanh chóng. Anh câu cá trong các ao hồ tại California. Làm công việc trong một nông trại lớn gần Denver, học tiếng Tây Ban Nha tại Rio Grande. Anh bị bắt giữ tại Florida vì tội vô gia cư và bị kết án phải làm việc lao động trên một đoạn đường.

Sau đó, anh đào thoát qua tiểu bang Georgia. Nhờ đó anh biết được rất nhiều về nước Mỹ. Cuối cùng một ngày nọ, anh cũng về được tới nông trại của mình ở Connecticut. Trông anh ta gầy ốm và sạm đen. Giọng nói lơ lớ pha nhiều thứ. Tính anh vẫn trầm lặng và kín đáo, nhưng già dặn và không còn vẻ nhu nhược trước cậu em trai nữa.

Charles cho anh biết tin tức gia đình trong thời gian mất liên lạc với nhau.Cha của họ đã qua đời cách đó mấy tháng, để lại cho họ một số tài sản trên 100.000 Mỹ kim.

Ông Cyrus đã làm những việc gì, lương thiện hay bất chính mà có được số tiền lớn lao đó, thì cả hai anh em đều hoàn toàn mù tịt. Lương của ông làm việc cho tổ chức G.A.R mỗi tháng chỉ được một trăm ba mươi lăm Mỹ kim. Charles, người rất thương bố, bây giờ cũng đâm ra nghi ngờ hết sức. Nhưng Adam vốn cảm phục lẫn kính sợ ông Cyrus, nên không hề thắc mắc gì khi nhận phần tiền được chia. Anh hoàn toàn tin chắc cha mình rất lương thiện. Trong khi đó, Charles không muốn cha mình bị ô danh, nên vẫn âm thầm nghi hoặc. Hai anh em Adam và Charles đã trở thành những người giàu nhất vùng.

Adam nói với cậu em:

- Chúng ta sẽ sử dụng số tiền một cách xứng đáng. Chúng ta có thể du lịch sang Âu châu, viếng Ai Cập, đi xem tận mắt tượng thần Sphinx đầu người mình sư tử. Chúng ta có thể đến California. Adam rất thích California.

Nhưng Charles rất ngại không dám tiêu xài số tiền đó. Anh lo xa rằng có thể cha anh sẽ bị điều tra sau này, và lúc đó anh sẽ phải hoàn lại số tiền. Anh chỉ muốn ở lại trong nông trại và người anh cũng ở chung với mình.

Cho đến hồi đầu thế kỉ này, cuộc đời của Adam vẫn âm thầm tẻ nhạt như có một lớp mạng nhện bụi bặm che phủ. Chợt Cathy Ames xuất hiện như một luồng hào quang chiếu rọi vào cuộc đời của anh, làm thay đổi tất cả.

*

Tôi tin rằng trên đời này có ma quỷ len lỏi để phá hoại loài người: đó là loại ma quỉ hiện hình người, và loại ma quỷ siêu hình. Cũng như một đứa trẻ được sinh ra có khi thiếu một tay thì cũng có người sinh ra thiếu lương tâm.

Theo tôi nghĩ thì Cathy Ames thuộc hạng người đó. Có lẽ ma quỷ đã xúi giục và dẫn dắt các hành động của nàng suốt đời.

Điều ác vẫn bám riết lấy nàng, biến cuộc đời nàng thành một bánh xe răng cưa trong một hệ thống bánh xe bị trật khớp. Hoặc như một người què chân dù cố sửa bộ đến đâu để thật giống với một người bình thường, nhưng chỉ càng làm lộ thêm nhược điểm của mình. Cathy lợi dụng vẻ khác biệt của mình để gây những xáo trộn và đau khổ cho những người xung quanh.

Dù bản chất của nàng độc ác và con người của nàng chỉ là một cạm bẫy, nhưng thoạt nhìn ai cũng tưởng nàng hiền lành ngây thơ. Mái tóc vàng óng ánh. Cặp mắt mở lớn với hàng lông mi trên khá dài rũ xuống khiến nàng trông có vẻ mặt mơ màng bí mật. Chiếc mũi nhỏ và thanh tú. Hai gò má cao và rộng vòng xuống chiếc cằm nhỏ xinh xắn.

Chiếc miệng thanh như một nét vẻ và nhỏ nhắn một cách khác thường như một nụ hồng. Nàng có cái vẻ của một đứa bé xinh đẹp khiến người nào khi mới nhìn thoáng qua lần đầu, cũng phải quay lại nhìn thêm một lần nữa, và không khỏi bồi hồi hoang mang. Trong ánh mắt nàng, có một vẻ gì kì bí mà người ta không thấy lại được khi nhìn lần thứ hai. Nàng đi đứng nhẹ nhàng như cái bóng lướt qua và rất ít nói, nhưng mỗi khi bước ngang nơi nào, nàng làm cho mọi người phải ngoái cổ nhìn theo.

Cathy hay nói dối, nhưng nàng không có lối nói dối vô tư như phần lớn các trẻ em khác. Những vụ nói dối của nàng đều có sắp đặt và vụ lợi. Bao giờ nàng cũng nói lơ lững gần sát với sự thật để không ai nghi ngờ gì rồi dựa theo đó nàng chen vào một chuyện không có thật hoặc nàng kể một chuyện thật bằng lối quanh co ỡm ờ như chuyện bịa đặt. Nhờ nghệ thuật đó, nếu có ai nghi ngờ một chuyện nào là dối trá, nhưng rồi chuyện đó lại xảy ra thật thì những chuyện bịa đặt khác của nàng cũng đâm ra có thể là chuyện thật hết.

Từ hồi Cathy còn là một cô bé, mẹ nàng tưởng rằng nàng cũng chỉ như những trẻ em khác, hay nói láo vậy thôi chứ không có gì đáng ngại. Nhưng cha thì không hẳn nghĩ như vậy.

Ông có mở một xưởng thuộc da nhỏ ở một thị trấn thuộc tiểu bang Massachusetts và ông có cơ hội tiếp xúc với nhiều trẻ em khác ở cách xa nơi mình cư ngụ. Ông thấy trẻ con khác dễ thương hơn con gái mình, nên ông hơi buồn về Cathy, nhưng ông không phân tích kĩ làm gì.

Hầu như mọi người trên cõi đời này đều có những khát vọng, những hứng khởi, những ích kỉ, những đam mê riêng giấu kín dưới một bề mặt có vẻ bình thản. Phần lớn thường tìm cách che giấu kĩ không dám để lộ ra ngoài. Hồi mới lớn, Cathy đã thấy trong người có những rạo rực lạ lùng và đã bắt đầu buông thả một cách thầm lén. Nàng thường thơ thẩn một mình rất lâu qua những khu rừng vắng. Đôi khi một vài cậu con trai rình sẵn, giả bộ tình cờ ôm chầm lấy người nàng.

Nàng không có những phản ứng quyết liệt gì lắm. Trong thái độ của nàng có một vẻ gì đặc biệt làm cho anh con trai kia thấy như ngầm chứa một sự đồng lõa.

Trong đầu óc của cha nàng luôn luôn thoáng một nỗi lo ngại. Cathy có tất cả những ưu điểm để gặt hái thành công. Nàng có nhan sắc, có tiền bạc, có một cái thánh giá bằng bạc nhận những viên đá quý màu đỏ mà người ta gọi là hồng ngọc.

Có lần ông đăng trên tuần báo Courier về chiếc thánh giá, nhưng không có ai đến nhận cả.

William Ames là một người biết tự trọng. Ông luôn luôn tự tra vấn chính mình xem có làm điều gì bất chính không. Mẹ của Cathy cũng không khỏi thắc mắc ít nhiều về những chuyện dối trá của con gái, nhưng bà không đặt thành vấn đề quan trọng gì lắm.

Cathy học hết lớp tám với một thành tích hiểu rất khá, nên cha mẹ nàng đã cho nàng vào một trường trung học địa phương, dù vào thời đó con gái rất hiếm khi được cho học cao. Họ hi vọng nàng sẽ trở thành một cô giáo, đó là một nghề danh giá rộng mở cho các cô gái con những gia đình nề nếp nhưng không giàu có lắm.

Vị giáo sư tiếng La Tinh ở trường trung học là một thanh niên nghiêm khắc, xanh xao, đã từng thất bại ở trường Thần học nhưng có thừa kiến thức để dạy học. Tính chàng khá trầm lặng. Trong thâm tâm chàng có mặc cảm Chúa đã khước từ mình.

Đôi lúc người ta thấy trong con người ôn giáo trẻ James Crew này như một ngọn lửa bừng lên người trong ánh mắt. Nhưng giữa chàng và Cathy không có sự giao thiệp nào có thể nghi ngờ được.

James Crew đã trải qua thời kì khủng hoảng khi trở thành đàn ông. Chàng đi lang thang, hát nghêu ngao một mình. Chàng viết những bức thư thật nồng nàn đến nỗi các vị Giám đốc trường Thần học của chàng phải lưu ý.

Rồi ngọn lửa đó tắt lịm dần. Hai vai chàng xệ xuống. Cặp mắt buồn bã. Hai bàn tay chàng nắm chặt lại. Giữa đêm người ta thấy chàng quỳ gối trong giáo đường, miệng lâm râm cầu nguyện.

Một đêm kia, đã khuya, chàng gõ cửa nhà gia đình Ames. Ông Ames vừa bước ra khỏi giường để đốt đèn sáp lên vừa càu nhàu trước khi mở cửa xem khách nào lại đến vào giờ này làm gì. Trước mặt ông ta là anh chàng James Crew trông bơ phờ như kẻ mất hồn.

- Tôi đến thăm ông. - Chàng khàn khàn giọng nói với ông Ames.

- Khuya quá rồi mà. - Ông Ames xẵng giọng trả lời.

- Tôi muốn gặp riêng ông một lát vì có chút chuyện cần thưa với ông.

- Tôi chắc cậu say rượu hay mắc bệnh gì rồi. Về nhà ngủ đi. Bây giờ đã khuya lắm rồi. Có chuyện gì sáng mai đến xưởng thuộc da của tôi, cậu hãy nói cũng không muộn.

Ông Ames đóng mạnh cửa lại cương quyết không tiếp chuyện ông khách lạ đời. Ông nghe léo xéo tiếng khẩn nài tuyệt vọng của chàng trai. “Tôi không thể đợi đến sáng mai được. Tôi không thể đợi được.” Rồi tiếng bước chân anh ta mệt mỏi kéo lê xuống bậc cấp.

Ông Ames trở vào giường để ngủ lại. Ông thoáng thấy cửa phòng Cathy đóng lại rất khẽ, nhưng ông nghĩ có lẽ ánh nến chập chờn đã làm ông lóa mắt chứ không hẳn đúng như vậy.

Sáng hôm sau, người giữ nhà thờ tìm thấy xác chết của James Crew nằm giữa sàn, trước mặt bàn thờ thánh. Bên cạnh chàng là một khẩu súng lục. Chàng không để lại một lá thư nào. Không ai hiểu tại sao chàng lại tìm một cái chết như vậy.

Sau khi nghe tin đó, ông Ames liền đi đến cơ quan hữu trách trách tiết lộ về vụ James Crew gọi cửa nhà mình hồi nửa đêm để giúp việc điều tra được dễ dàng phần nào. Nhưng sau đó nghĩ lại ông thấy chẳng ích gì hơn, vì những điều ông nói không mấy quan trọng.

Trong bữa ăn tối mẹ của Cathy bàn chuyện về vụ tự tử của ông giáo trẻ đó. Cathy hoàn toàn im lặng nhưng nàng ăn một cách lơ là từng miếng nhỏ và luôn tay chùi miệng bằng chiếc khăn.

Bà Ames hỏi con gái:

- Cathy, con thường gặp mặt ông ấy hằng ngày ở trường. Trong mấy hôm gần đây con thấy ông ấy có vẻ gì buồn rầu hay khác lạ lắm không?

Cathy cúi gằm xuống đĩa thức ăn rồi ngẩng mặt lên trả lời:

- Con tưởng thầy ấy bị ốm nên mới có vẻ bơ phờ như vậy. Ở trường cả ngày nay người ta cũng bàn tán về cái chết của thầy. Một người nào đó, con không nhớ là ai tiết lộ rằng thầy ấy có chuyện rắc rối ở Boston. Con không nghe rõ vụ rắc rối gì. Tất cả học sinh chúng con đều rất mến thầy ấy.

Nàng khẽ đưa khăn lên chùi miệng một cách duyên dáng.

Đó là cách thức đặc biệt của nàng. Hôm sau, cả thị trấn đều biết tin James Crew có chuyện rắc rối ở Boston và không ai có thể tượng được rằng chính Cahty đã dựng đứng ra chuyện đó. Ngay cả mẹ của nàng, cũng không nhớ đã nghe tin đó từ đâu.

Cathy là một học sinh khá xuất sắc, nhưng sau lần sinh nhật thứ mười sáu, đột nhiên nàng, có một thay đổi khó hiểu. Một buổi sáng nàng không chịu thức dậy để đi học. Mẹ nàng vào phòng riêng của nàng thì thấy nàng đang nằm im trên giường, mắt nhìn sững lên trần nhà.

- Dậy mau con, trễ quá rồi. Đã gần chín giờ mà còn nằm ỳ ra đó sao?

- Con không đi học nữa đâu, - giọng nàng thật điềm tĩnh, - từ nay con sẽ ở nhà luôn.

Bà Ames há hốc mồm kinh ngạc:

- Con nói sao?

- Con không bao giờ đến trường nữa. - Cathy vẫn nhìn sững lên trần nhà thản nhiên đáp.

- Con đang đọc quyển gì đó? Ồ! Con mà đọc quyển “Alice lạc vào tiên cảnh” này à? Con đâu còn là một đứa bé nữa.

Cathy trả lời mẹ:

- Con có thể thu hình lại thật bé đến độ má cũng không nhận ra con nổi đâu.

- Con có ý nghĩ kì cục đó để làm gì?

- Để không ai nhận ra con.

Mẹ nàng giận dữ gắt:

- Mày đừng có bày trò con nít nữa. Tao không biết mày đã điên chưa? Để tối này ba mày đi làm về, ông sẽ dần mày một trận cho mày biết thân.

Cathy từ từ quay mặt lại nhìn mẹ. Mắt nàng vẫn lạnh lùng dửng dưng vô cảm giác. Bà mẹ bỗng thấy lo ngại cho con gái mình. Bà lặng lẽ bước ra, đóng cửa phòng lại.

Cũng như hầu hết những bậc làm cha mẹ khác, bà cảm thấy mất bình tĩnh vì có cảm tưởng chiếc dây cương để kiềm giữ Cathy bấy lâu nay vừa tuột khỏi vòng tay mình. Bà không ngờ rằng bà đã mất hết uy lực đối với Cathy, hơn nữa bà lại còn bị nàng lung lạc hồi nào không hay.

Tối hôm ấy ông Ames dù không muốn chút nào cũng phải chịu khó ngồi thuyết cho cô con gái một hồi lâu.

Ông nhắc nhở về bổn phận của nàng và khích động lòng hiếu kính tối thiểu của một người con đối với cha mẹ. Nói say sưa một hồi, cuối cùng ông mới khám phá ra rằng Cathy chẳng thèm chú ý nghe ông nói chút nào. Ông đùng đùng nổi giận quát tháo ầm ĩ. Ông nhắc cho cô con gái hay rằng thượng đế đã trao cho ông là cha nàng cái quyền lớn lao đối với con cái và quyền này cũng được luật pháp quốc gia nhìn nhận, nàng không được coi thường. Đến đó lúc Cathy mới có vẻ chịu chú ý nghe. Nàng ngước mắt nhìn thẳng vào mặt cha. Miệng hơi mỉm cười, mắt mở thao láo không chớp. Cha nàng đâm khó chịu phải tránh tia mắt của nàng và càng giận dữ thêm. Ông đe sẽ đánh đòn nếu nàng không chịu vâng lời ông. Cuối cùng không có cách nào hơn, ông đã phải đáng đòn Cathy.

Nàng vội vã la khóc inh ỏi, làm cha nàng phải dừng tay vì sợ mình nặng tay với con và ngại gây náo động không hay ho gì, Cathy lăn lộn trên giường tê khóc, nhưng khi nhìn kĩ vào mắt nàng, ông không thấy chút nước mắt nào.

Ông xẵng giọng hỏi:

- Sao, mày có chịu đi học chưa?

- Dạ, con sẽ đi học lại. Ba tha thứ cho con. - Cathy vừa trả lời với cha vừa quay mặt qua phía khác để ông không thấy được mặt mình.

Ông Ames nghiêm trọng kết thúc câu chuyện:

- Mày nên nhớ rằng tao là cha mày. Đừng có lộn xộn.

Cathy nấc khan lên một tiếng:

- Dạ, con không dám quên đâu.

*

Dường như sự trừng phạt đó có hiệu quả tốt đối với Cathy. Trong những tuần lễ sau đó nàng đã đi học lại đều đặn. Nàng cũng chịu giúp đỡ mẹ nhiều hơn trước.

Ông Ames nói với vợ:

- Tôi chưa thấy ai có thể thay đổi hẳn tính tình được như con Cathy. Thật là một chuyện lạ.

Bà vợ ông cũng sung sướng phụ họa thêm:

- Nó dễ thương quá phải không mình? Em thấy nó đẹp hẳn lên và rất đáng yêu.

Thật vậy, Cathy trông rạng rỡ hẳn lên, một nụ cười trẻ thơ luôn nở trên môi nàng suốt trong những lúc nàng làm lụng. Nàng dọn dẹp lau chùi đến cả hầm rượu và sắp xếp mọi thứ thật ngăn nắp. Khi nhà bếp đã xong việc, nàng lấy dầu chùi những bản lề và ổ khóa nào sét và rít, nàng còn chùi những bản lề ngoài cửa trước.

Nàng lãnh trách nhiệm chế dầu đầy đủ vào các cây đèn và thông các ống khói thật sạch. Nàng chế ra một cách thông ống rất hay, dùng cái lon đựng dầu lớn tìm được dưới nhà hầm thọc vào để cào sạch khói dơ.

Cathy cũng tự vá hết quần áo sắp xếp thứ tự.

Một hôm trong tháng năm, khi nàng vừa đi học về, mẹ nàng cũng bận đồ cẩn thận, bà bảo nàng:

- Mẹ có việc đi đến Altar Guild để bàn chuyện bán bánh vào tuần tới. Cha con muốn nhờ con đến ngân hàng lãnh số tiền mà ông đã gửi ở đó đem đến xưởng thuộc da ngay cho ông có việc cần.

- Con rất vui được giúp ba việc đó. Cathy vui vẻ nói:

- Họ đã để sẵn số tiền trong một cái bao, con chỉ việc đến lấy thôi. Bà Athes nói xong câu đó tất tả đi ngay.

Cathy làm việc thật nhanh, nhưng không vội vã gì. Nàng choàng tấm vải làm bếp lên thân trước để khỏi dơ áo, rồi ra chuồng gà sau nhà bếp bắt một con gà mái tơ đặt lên một tấm thớt, chặt phăng đầu, hứng nửa tô huyết. Xong nàng đem xác con gà chôn dưới một đống phân. Trở vào bếp, nàng cởi tấm vải choàng bỏ vào bếp lò thiêu hủy luôn. Nàng rửa tay sạch sẽ liếc sơ mắt mình trong gương. Hai gò má ửng hồng, đôi mắt sáng long lanh, miệng hơi mỉm một nụ cười ngây thơ duyên dáng. Trước khi ra khỏi nhà, nàng đặt tô huyết gà ở bậc cấp cuối của nhà bếp. Lúc đó mẹ nàng mới rời khỏi nhà chưa đầy mười phút.

Cathy thật nhẹ nhàng, gần như khiêu vũ quanh nhà rồi đi thằng về phía trung tâm thị trấn, ở đó có nhà ngân hàng mà nàng cần ghé vào. Nàng tươi mát và xinh như mộng, đến nỗi nàng đi ngang tới đâu người ta đều ngoái cổ nhìn theo.

*

Lửa phát cháy vào khoảng ba giờ khuya. Ngọn lửa bốc cao, lan nhanh, gào thét, lồng lộn tàn phá dữ dội trước khi có người phát giác kịp. Cả gia quyến họ Ames kẹt trong ngọn lửa, nhưng người ta chỉ tìm thấy hai thi thể của ông và bà Ames, những người láng giềng gần gũi với gia đình xác định vị trí căn phòng mà Cathy ngủ nhưng chẳng tìm thấy một cái răng hay một khúc xương nào của nàng còn lại.

Viên chỉ huy trưởng sở cứu hỏa tìm được hai cái tay nắm và ổ khóa cửa nhà bếp. Ông nhìn kĩ miếng kim loại cháy đen, co rúm, rồi ông đi tới chỗ cửa trước tìm được cái ổ khóa ở đây cũng cong queo, nóng chảy hết phân nửa. Viên chức chuyên khám nghiệm từ khi sau khi tìm tòi quan sát, đến nói chuyện với ông kia.

- Ông George, ông có thấy gì lạ không?

Viên chỉ huy sở cứu hỏa khó chịu nói:

- Trong các ổ khóa không có chìa.

- Có lẽ chúng tan chảy hết.

- Các ổ khóa đâu có tan chảy?

- Có lẽ Bill Ames đã rút ra trước rồi.

- Từ bên trong à? - Ông ta giơ mấy ổ khóa móp méo lên. - Cả hai cái lưỡi khóa đều đã thụt vào trong.

Rõ ràng tấm thảm kịch không phải là tai nạn. Đám đông bu quanh nhà họ Ames bắt đầu bủa rộng ra.

Một lát sau, họ tìm thấy trong nhà để xe “những dấu hiệu của cuộc kháng cự”, một cái hộp bị vỡ, một cây đèn bị đập nát vụn, tung tóe trên mặt đất, một vũng máu trên sàn. Viên cảnh sát trưởng đích thân điều tra. Ông lục lọi kĩ khắp căn phòng, lượm ở góc này một vật, ở góc kia một nhóm khác. Ông ta đem những vật vừa khám phá được trong tay ra cửa lớn kiểm soát kĩ: một cái băng buộc tóc màu xanh dính máu và một cây thánh giá nhỏ bằng hồng ngọc.

- Ai đã thấy những cái này chưa? - Ông ta hỏi.

Cả vùng đất mấy dặm quanh đó đều được tìm tòi kĩ xem có dấu đất mới bị cào xới không, cả những ao nước cũng được mò kĩ để kiếm xác của Cathy.

Nhưng chẳng tìm thấy gì cả. “Cô ấy đẹp quá, tội nghiệp thật.” Mọi người đều có vẻ thương tiếc nàng. Khi nói câu ấy, họ đã thầm nghĩ rằng có lẽ đó là lý do khiến nàng bị bắt cóc đem đi. Đối với một thị trấn nhỏ như ở đây, thường thường những chuyện quấy đều bị nghi cho một người lạ mắt, một tên du thủ du thực hắc ám nào đó từ xa lẻn vào, không ai chịu tin rằng một người quen biết trong thị trấn lại có thể nhúng tay vào một vụ giết người.

Cathy để lại đằng sau nàng một hình ảnh đẹp và nỗi xót thương trong lòng mọi người.

*

Ở mãi tận thành phố Boston, một ông Edwards nào đó, luôn luôn tổ chức công việc làm ăn của mình một cách thứ tự và tàn nhẫn. Thỉnh thoảng người ta xầm xì rằng nhiều thiếu nữ bị bộ hạ của ông Edwards bắt cóc hoặc dụ dỗ làm những tên nô lệ trong kĩ nghệ của ông ta.

Hầu hết những chuyện đó đều có thật. Nhưng đại đa số những cô gái bước vào nghề đó vì lười biếng hoặc ngu dại. Ông ta chẳng bao giờ bận tâm đến việc tuyển mộ hay kiểm soát họ làm gì.

Tôi không biết Cathy đã nghe người ta nói thế nào về ông Edwards, nhưng thực ra khi một cô gái muốn biết rõ một việc như vậy không có gì là khó.

Khi Cathy đến văn phòng ông Edwards, ông này không thâu nhận nàng ngay đâu. Ông đã thấy ngay rằng. Cô gái khai tên Catherine Amesbury không thuộc loại gái tầm thường như dưới tay ông hiện nay. Cô ta quá đẹp, quá mảnh mai, và rất khả ái. Dù trong khi hỏi nàng những câu hỏi thông thường về bà con thân nhân, ông không nhìn nàng gần lắm, nhưng ông đã cảm thấy ở nàng có một vẻ gì khác lạ. Chính ông cũng tự ngạc nhiên về mình, ông nhìn lên mặt thiếu nữ với vẻ soi mói. Hai hàng lông mi nàng cong xuống một cách dịu dàng, bí mật. Môi nàng nở một nụ cười ranh mãnh. Ông Edwards chồm người tới trước để nhìn thật thật tường tận, ông thấy rằng ông muốn chiếm cô gái này cho riêng mình.

- Tôi không hiểu tại sao một thiếu nữ xinh cô mà lại…

Ông ngập ngừng bỏ lững câu nói và tự nhiên thấy mình tin chắc rằng cô gái mà ông yêu thích này, là một con người bằng xương bằng thịt và thuộc hạng gái nhà lành.

- Cha tôi đã qua đời, - Catherine thỏ thẻ nói, - trước khi chết, ông ấy đã thế nông trại để vay tiền. Tôi không muốn nhà ngân hàng tịch thâu nông trại cha mẹ tôi. Trước biến cố đó, mẹ tôi quá xúc động nên cũng chết luôn.

Cặp mắt Catherine nhòa lệ. - Tôi chỉ muốn tìm cách giữ lại tài sản của cha tôi.

Trong đầu ông Edwards bắt đầu lùng bùng những tiếng vo ve, nhưng không đến nỗi quá lớn. Tám mươi phần trăm những cô gái đến với ông ta đều bảo cần tiền để trang trải những món nợ cần kíp. Ông xem lối nói đó như một quy tắc bất di dịch của các cô ấy, nên không bao giờ tin cả. Tuy vậy ông Edwards cũng nói:

- Được rồi cưng. Để chúng ta bàn kĩ xem. Có thể chúng ta sẽ có cách để cho cô có tiền chuộc lại tài sản.

Ông Edwards không ngờ mình đã si mê Catherine Amesbury một cách đau khổ và tuyệt vọng đến thế. Tình yêu thường đòi hỏi sự tin cậy, nhưng ông ta lại không hề tin cậy Cathy chút nào. Ông bị những thắc mắc nghi ngờ vò nát tâm can. Ông không biết rõ nàng có thật chung thủy với mình không? Nàng thường lộ vẻ bồn chồn như người sẵn sàng bỏ đi bất cứ lúc nào. Mỗi khi ông ta đến thăm nàng, nàng thường than phiền rất nhiều về những bực bội khi bọn đàn ông bám riết ngoài đường mà nàng không biết làm cách nào tránh được. Nàng luôn luôn làm cho ông ta mất bình tĩnh, để nhìn một cách khoái trá cảnh ông bực tức đến nỗi hai bàn tay run lẩy bẩy. Khi thấy ông ta ghen tức đến cực độ, nàng mới trấn an ông ta và làm cho ông ta tạm tin rằng nàng trong trắng.

Khi đã chiếm được lòng si mê của ông Edwards, chẳng bao lâu, Cathy bắt đầu khai thác kĩ những gì mà cô ta muốn. Nàng bắt đầu bòn rút tiền bạc. Nàng đòi những quà tặng bằng nữ trang đắt giá. Nhưng rồi một đêm, chiếc chìa khóa của ông Edwards không tra lọt vào lỗ khóa của chính ngôi nhà mà ông ta đã mua tặng nàng. Sau khi để cho ông ta đập cửa một hồi lâu, nàng mới chịu mở cửa. Nàng đã thay ổ khóa, đáng lẽ trao cho ông chìa khóa mới, nhưng nàng lại không. Sau đó thường phải một thời gian lâu nàng mới mở cửa. Đôi khi chẳng thấy có tiếng trả lời ông Edwards đành chịu không làm sao biết được có nàng trong đó không.

Ông Edwards rất muốn hết lòng tin yêu Cathy, nhưng kinh nghiệm về đàn bà của ông, bắt ông không thể tin được. Quá tò mò, ông quyết tìm hiểu cho ra sự thật về tung tích nàng. Ông mướn một thám tử tư để điều tra giùm.

Một hôm người ta gửi đến tận văn phòng làm việc của ông ta một mẩu báo cũ, cắt từ một tuần báo của một thị trấn nhỏ trong tiểu bang Massasgusetts, viết về một vụ hỏa hoạn ở đó. Sau khi đọc xong mẩu báo, ông lạnh toát cả người, ruột gan phèo phổi như tan biến đi đâu hết. Nỗi khiếp hãi lẫn tuyệt vọng làm ông choáng váng cả người.

Ngay chiều hôm đó, ông nặng nề lê bước đến ngôi vườn nhỏ trước nhà của Cathy, bấm chuông.

Lần này Catherine mở cửa ngay. Nàng nhìn ông ta với vẻ dò xét. Nàng nghi chắc có chuyện gì đổi thay.

- Có chuyện gì lạ không anh?

- Chúng ta đi du lịch một chuyến chơi, em thích không?

- Đi đâu anh? Tôi không thể đi được.

- Đến một thị trấn nhỏ ở Connecticut. Tôi có chút việc ở đó.

Ông ta mỉm cười một cách dễ sợ đến nỗi nàng hoảng hồn bước lùi về phía sau…

- Có lẽ em nên về thăm tỉnh nhà một chuyến. Cách đây mấy năm có một trận hỏa hoạn khủng khiếp ở đó. Em còn nhớ chứ?

Nàng tròn xoe mắt soi mói kĩ xem ông ta có ngụ ý gì không, nhưng cặp mắt ông ta vẫn bình thản.

- Anh muốn tôi đến đó làm gì? - Nàng dịu dàng hỏi.

- Chỉ đi theo anh một chuyến thôi.

Ông Edwards đã dự định trước những gì ông sẽ hành động. Khi đưa Cathy ngang thị trấn nhỏ ở Connecticut ra một con đường nhỏ ở ngoại ô. Ông đã đánh nàng một trận nhừ tử và tin rằng nàng sẽ không dám đi thưa Cảnh sát. Nhưng sau một hồi đấm đá, ông vẫn thấy chưa hả. Cơn tức mỗi lúc một dâng lên như song triều, ông tìm được một cục đá gần đó.

Sau đó, nhìn xuống bộ mặt bầm tím của nàng, ông ta thấy thương hại bỏ đi. Chẳng ai hỏi han gì đến mình cả, ông ta tiếp tục làm việc bình thường và từ đó không dám dại gái nữa.

Chia sẻ
Loading...
Loading...
Loading...
Chia sẻ
Danh sách chương
Loading...
Loading...
Loading...
Thể loại
Tìm kiếm
Loading...
Loading...
Loading...
Lọc truyện