Chương 4

Adam ngồi nhìn nông trại mình mới tậu được với vẻ thỏa mãn. Chỉ mt phần rất ít đất đai trong nông trại của họ Sanchez là thu hoạch kém mà thôi. Trong đầu Adam đã mường tượng những mẫu lúa mì cao lớn tươi tốt, xung quanh viền bằng loại linh lăng thảo gần mé sông. Chàng có thể nghe phía sau lưng mình tiếng huyên náo của những bác thợ mộc đang đóng đục, ca bào vang dậy cả thung lũng Salinas để sửa sang ngôi nhà trong nông trại cũ của họ Sanchez. Bác làm vườn đã tỉa sửa lại những khóm hường xơ xác, trồng thêm phong lữ thảo, nhổ bớt một ít rau để xẻ một suối nước nhỏ chảy ngang qua khu vườn. Adam sửa sang lại mọi thứ cho vừa ý và để lại cho con cháu hưởng sau này luôn thể.

Chàng cũng chú ý đến chuyện ẩm thực. Chàng sai người đầu bếp Trung Hoa tóc bím đuôi sam làm một chuyến đặc biệt đến Pajaro để mua sắm một mớ nồi niêu xoong chảo, thùng bằng đồng và vật dụng bằng thủy tinh dùng cho nhà bếp.

Tạm thời Adam đưa Cathy vào ở tạm trong ngôi nhà phụ sơn trắng sạch sẽ để đợi nhà mới sắp làm xong và chờ sanh đứa con đầu lòng.

Chắc đứa bé sẽ chào đời trước khi ngôi nhà gạch mới hoàn thành. Nhưng Adam cũng chẳng vội vàng gì. Chàng vẫn kiên nhẫn chỉ huy công việc và thường nói:

- Tôi muốn ngôi nhà phải thật vững chắc, lâu bền, dùng loại đinh bằng đồng và gỗ cứng, để khỏi sét hay mục.

Chàng không cô đơn trong những bận rộn về tương lai. Cả thung lũng cả miền Tây đều như vậy cả.

Một người đàn ông có thể đưa gia đình từ một nông trại trên đồi xuống một cách vất vả trong chiếc xe ngựa có thùng xe lớn đóng bằng gỗ sồi. Vợ anh ta ẵm con ngồi dưới lớp rơm trong thùng xe cố giữ chặt răng và lưỡi khỏi va chạm mỗi khi bánh xe đụng phải đá và ụ đất. Trong lúc xe đang chạy, người cha tha hồ nghĩ ngợi. Tại sao trong khi chúng ta ngồi một cách sung sướng trong một chiếc xe ngựa rộng rãi đi ra phố King City chỉ trong ba tiếng đồng hồ, chúng ta còn mơ ước gì hơn trên đời này nữa?

Có nhiều người tiên tri rằng sẽ có những hệ thống dẫn thủy cho khắp thung lũng. Nhưng ai biết được bao giờ sẽ có?

Có người hơi điên lại nói rằng một ngày gần đây sẽ có cách, hoặc dùng tuyết băng, hoặc một cách nào khác để trồng được loại lê bự như loại hắn ta đang trồng trong tay tại Philadelphia.

Ở dưới phố người ta kháo nhau về những ống cống và loại cầu tiêu trong nhà. Một số người đã sắm được, cũng như về những loại đèn vòng cung ở các góc đ Salinas đã có rồi và cả điện thoại nữa. Tương lai của thung lũng rất sáng sủa và đầy hứa hẹn.

Adam Trask nuôi rất nhiều hi vọng ở tương lai, nhưng chàng cũng khá thỏa mãn với hiện tại. Chàng thấy lòng tràn ngập vui thỏa khi nhìn Cathy ngồi yên lặng dưới ánh mặt trời với đứa con đang lớn dần trong bụng. Nước da nàng sáng ngời khiến chàng liên tưởng đến hình ảnh những vị thiên thần trong các tranh ảnh của lớp Thánh Kinh chủ nhật.

Một làn gió khẽ thổi qua mái tóc mượt mà của nàng hay khi nàng nhướng mắt lên, Adam cũng cảm thấy xao xuyến ngất ngây đến khổ sở.

Nếu Adam tỏ vẻ thỏa mãn với nông trại mới tậu của mình, Cathy cũng hài lòng không kém. Nàng có được đặc tính sẵn sàng quên những gì mình không đạt được và ráng chờ những gì mình có thể có. Cái thai đối với nàng là một rủi ro ngoài ý muốn. Nó là một cái bẫy kẹp cứng chân nàng lại. Nàng không có ý định sống ở đây sau khi bình phục, nhưng trước những câu hỏi của Adam, nàng đã đáp lại bằng những câu trả lời đặc biệt.

Nếu làm khác sẽ bất lợi và trái với bản chất kín đáo khôn khéo của nàng.

- Này cưng, em thấy vị trí ngôi nhà có tuyệt không? Cửa sổ nhìn xuống thung lũng tuyệt đấy chứ?

- Tuyệt lắm.

- Em xem, kể cũng hơi quá đáng khi anh chỉ nghĩ đến ông lão Sanchez cách đây một trăm năm. Ông ấy chắc phải nghiên cứu kĩ lắm khi chọn vị trí này để cất nhà. Em đâu có ngờ ông ấy đã biết sử dụng ống dẫn nước bằng cây gõ đỏ có đục sẵn. Bọn anh đào được một ít khúc cây như vậy.

- Hay quá hả! Chắc ông ấy là người thông minh lắm.

- Anh muốn tìm hiểu thêm về ông ấy. Em biết chuyện gì làm anh ngạc nhiên hơn hết không?

- Chuyện gì vậy anh?

- Anh ngạc nhiên vì không ngờ mình có được một Cathy.

Nàng mỉm cười thẹn thùng nhìn tránh qua chỗ khác:

- Vậy mà em tưởng chuyện lạ gì chứ!

- Ông ta giỏi hơn anh nhiều, anh chẳng có nghị lực hay mục đích, kể cả chút ham sống nào trước khi có em.

- Adam, anh đừng đề cao em quá đáng làm em ngại lắm.

- Vậy thì anh xin lỗi. Anh vụng về quá.

- Không, anh không có lỗi gì cả. Em chỉ muốn anh đừng nghĩ quá đáng như vậy. Này anh, cái sẹo trên trán em không tan được, em buồn quá. Anh thấy hôm nay có thâm đen hơn không?

- Không, không tệ lắm đâu.

Nhưng sự thực đúng như nàng nghĩ. Cái sẹo lớn bằng ngón tay cái. Chàng đưa ngón tay lại định sợ thử, nhưng nàng tránh đầu ra chỗ khác.

- Đừng anh. - Nàng khẽ phản đối.

Khi chàng đã bỏ đi làm việc, cặp mắt nàng lạnh lùng thờ thẫn. Nàng nặng nề trở người cho đỡ mỏi. Nàng đang chờ ngày sanh.

Lee, chú đầu bếp người Tàu, ra gần chỗ ghế nàng ngồi dưới gốc cây sồi lớn nhất hỏi:

- Bà chủ dùng “tà” không lớ?

- Không... ừ, cho tôi một tách nhé.

Nàng soi mói nhìn chú người làm, nhưng không thấu hiểu được qua cặp mắt đen sâu thẳm của gã. Nàng thấy hơi khó chịu về gã này. Cathay thường thấu rõ tâm tính của bất cứ người đàn ông nào, nhưng nàng không hiểu nổi gã này nghĩ gì trong đầu. Mặt gã gầy guộc nhưng vui vẻ.

Môi luôn luôn ở tư thế mỉm cười. Tóc gã kết thành một cái đuôi sam dài đen nhánh ở đầu mút thắt lại bằng một giải lụa đen, lủng lẳng trên lưng nhịp nhàng theo bước đi. Khi làm việc gì nặng nhọc gã quấn đuôi sam ấy quanh đầu cho gọn. Gã bận quần vải bó sát, áo thung kiểu Tàu, nút có viền.

Lúc nào rảnh rỗi, gã hay dấu hai bàn tay vào trong tay áo rộng, như thói quen của đa số người Trung Hoa thời đó.

- Tôi “lem” một cái bàn con “la” cho bà chủ lớ.

Nói xong gã hơi cúi người một cách lễ phép rồi quay vào.

Cathy nhìn theo gã. Không phải nàng sợ gì tên Lee, nhưng nàng không ưa gã chút nào.

*

Trong mùa hè, dòng sông Salinas cạn xợt ngưng hoạt động hoặc chỉ lưu lại một ít nước trong các hồ ao ở mức thấp. Cỏ héo úa dần. Nhìn qua lớp đất xỉn màu khô nẻ, Adam cảm nghiệm được mối lo lắng của người dân tại vùng California này. Ở Connecticut về mùa hạ, nếu miền quê không xanh tươi được có nghĩa là nó đang chết. Còn ở California, người ta chỉ thấy đất đai như đang bị một trận ốm trong những tháng thiếu mưa.

Adam sai Lee cầm một mảnh giấy đến nhà ông Hamilton mời ông ta đến trại chàng chơi để bàn về việc đào dùm cái giếng.

Ông Samuel đang ngồi dưới bóng cây hướng dẫn Tom làm một cái bẫy thú thật độc đáo, thì thấy Lee đánh chiếc xe ngựa của Adam Trask đến, Lee giấu hai bàn tay trong tay áo rộng ngồi đợi trong khi ông Samuel đọc mảnh giấy:

- Này Tom, ông Samuel bảo cậu con. Con có thể tiếp tục làm chuyện này trong lúc ba đi bàn chuyện đào giếng cho một anh bạn trẻ mới đến vùng này.

- Sao ba không cho con đi theo với? Ba không cần con giúp gì sao?

- Chỉ mới bàn công chuyện thôi chứ đã làm gì đâu mà cần con giúp! Về việc đào giếng, ba cần bàn luận lâu lắm. À, con thắng yên con Dosology giùm ba trong khi ba đi báo cho má con biết

- Tôi “lước” ông “li” mà, - Lee nói.

- Được rồi, tôi còn phải về nữa.

- Tôi “lưa” ông “dề”.

- Khỏi cần. - Samuel trả lời. - Tôi đem ngựa theo để cỡi về một mình cũng được rồi, - Ông Samuel ngồi trong xe, cạnh Lee. Con ngựa đã thắng sẵn yên cương lẽo đẽo chạy theo đằng sau xe.

Ông Samuel thân mật hỏi:

- Chú tên gì?

- Lee. Đó là họ cha của tôi. Ông cứ gọi là Lee cũng đủ rồi.

- Tôi có đọc nhiều sách vở viết về Trung Hoa. Chú ra đời bên Trung Hoa phải không?

- Không, sinh ở đây.

Samuel im lặng một lúc lâu trong khi chiếc xe ngựa chúi đầu chạy theo vết cũ xuống thung lũng.

- Lee. - Cuối cùng ông lên tiếng, - tôi không hiểu tại sao chú cũng như nhiều người Trung Hoa khác sinh đẻ tại đây từ nhỏ đến giờ mà không nói sõi được tiếng Anh, trong khi bên Ái Nhĩ Lan có một bộ lạc kém cỏi, lưỡi cục mịch như củ khoai lang vẫn có thể nói được tiếng Anh bình dân trong vòng mười năm.

Lee ngượng ngạo nói:

- Tui “lói” theo những gì người Trung Hoa “lói”.

- Ờ... chắc chú có cái lý của chú. Tôi hỏi chơi cho vui vậy thôi. Đừng giận nhé!

Lee trố mắt nhìn ông. Cặp mắt màu nâu sẫm dưới hàng lông mi cong vênh mở lớn nhìn sửng một lát, rồi sáng ngời lên đầy vẻ thông cảm. Gã mỉm cười:

- Không có gì. Chúng tôi nói như vậy dễ hiểu hơn nên không muốn sửa đổi làm gì dù có thể nói bình thường như mọi người.

- Chú nói sao mà lạ lùng vậy? Tôi chẳng hiểu ý chú muốn nói gì?

- Tôi biết nói vậy ông khó tin, nhưng sự thật thì nếu tôi nói với một phu nhân hay một ông chủ nào bằng lối nói như tôi đang hầu chuyện với ông đây, thì họ sẽ không hiểu.

- Sao lại không hiểu?

- Họ chỉ muốn nghe lối nói ngọng nghịu đó. Nếu tôi nói đàng hoàng họ sẽ không hiểu. Ông là một người hiếm hoi có những ý kiến trái với những người khác. Họ chỉ muốn nghe những gì họ thích.

- Tôi không nghĩ như vậy. Chú biết rằng tôi rất thích nói chuyện với chú. Tôi muốn hỏi chú vài vấn đề.

- Ông cứ hỏi.

- Chẳng hạn việc bím tóc đuôi sam. Tôi được biết qua sách vở rằng lối bím tóc, đó là dấu hiệu của sự nô lệ. Người Mãn Châu bắt buộc người Hoa Nam phải để tóc như vậy phải không?

- Đúng như vậy.

- Vậy tại sao chú lại thích kiểu bím tóc đó ở đây?

- Tôi chỉ làm theo thói quen mà những người Trung Hoa khác thường làm. Đuôi sam là kiểu tóc chung của người Trung Hoa ở đây, ông biết như vậy mà.

Samuel cười sằng sặc.

- Tôi không biết phải giải thích thế nào hơn, - Lee nói. - À, chắc quê quán của ông không phải ở đây phải không?

- Không, quê tôi bên Ái Nhĩ Lan.

- Chỉ trong ít năm nữa, ông sẽ đồng hóa với người dân ở đây, trong khi tôi là người sinh trưởng tại Grase Valley này và đã từng theo học nhiều năm ở Đại học California, lại không bao giờ đồng hóa được. - Lee cho xe dừng lại dưới một tàn cây, nhảy xuống buộc dây cương vào gốc cây.

- Đã đến giờ ăn trưa, - Lee nói. - Tôi có mang theo một gói đồ ăn. Mời ông dùng tạm với tôi một ít nhé?

- Anh mời thì ăn ngay chứ. Chúng ta tới chỗ bóng mát kia ngồi. Tôi rất chú ý những lời anh vừa nói. Theo tôi nghĩ chắc anh sẽ về Trung Hoa.

Lee nhìn ông ta mỉm cười chua chát:

- Tôi đã về Trung Hoa rồi, nhưng không xong. Họ bảo rằng tôi giống như một con quỷ ngoại quốc và tiếng nói của tôi cũng vậy. Ông có tin hay không tùy ý. Tôi ở đây còn dễ thở hơn ở Trung Hoa nhiều.

Gã mở giấy bao một chai rượu nhỏ, hỏi:

- Ông uống với tôi một chút nhé? Thứ này đặc biệt của người Trung Hoa.

- Thứ gì vậy?

- “Diệu” mạnh của người Trung Hoa. Một loại “diệu” thuốc đặc biệt ngâm với oải hương.

Ông Samuel cầm chai rượu nhấm thử một chút rồi nói:

- Hơi giống mùi táo úng.

- Đúng, nhưng là thứ táo úng rất ngon. Ông thử nếm thêm một hớp kha khá xem sao.

Ông Samuel uống một ngụm rồi gật gù khen:

- Chú nói đúng. Ngon thật.

- Ông dùng với tôi vài miếng bánh kẹp thịt, với đồ chua và lon sữa này.

Ông Samuel cắn một iếng bánh và nói:

- Chú chu tất lắm. Tôi muốn hỏi chú thêm nhiều câu nữa.

- Tôi đoán câu hỏi kế tiếp của ông có phải là: Tại sao tôi lại bằng lòng với thân phận tôi đòi phải không?

- Chú có vẻ khó chịu về câu hỏi đó không?

- Đối với ông thì không. Tôi không thấy tại sao làm một người giúp việc lại bị coi là mất danh giá được! Theo tôi, đó là cách ẩn thân hay nhất của một triết nhân lúc mệt mỏi. Nếu được quan niệm đúng đắn, đó là một chỗ đứng vững vàng và yên ổn. Tôi không hiểu tại sao nhiều người không dám nhận đó là một nghề.

- Nhưng đời sống của người đó quá cô đơn. - Samuel nhận xét.

- Đó là khuyết điểm duy nhất của nghề này, - Lee nhìn nhận. - Tôi có nghĩ đến việc tới San Francisco thử một nghề nào khác.

- Anh định mở tiệm giặt ủi hay mở hiệu tạp hóa.

- Không. Đã có quá nhiều tiệm giặt ủi và hiệu tạp hóa của người Trung Hoa rồi. Có lẽ tôi sẽ mở một hiệu sách. Cũng có thể chưa chắc. Tôi gần như mất hết sáng kiến rồi.

*

Buổi chiều Samuel và Adam cỡi ngựa đi quan sát quanh khu đất. Gió chiều theo thường lệ thổi tốc lớp bụi đất màu vàng lên cao.

- Ồ, chỗ đất này tốt quá. Thật là một miếng đất hiếm thấy.

Adam nhận xét:

- Tôi có cảm tưởng gió thổi mòn dần từng lớp đất.

- Không đâu. Gió chỉ làm xáo trộn chút ít thôi. Anh bị mất một ít qua phần đất của nhà họ James, nhưng anh sẽ nhận lại một ít từ nông trại của nhà họ Sontheys

- Có lẽ đúng như ông nói. Nhưng tôi không thích gió. Gió làm tôi cảm thấy khó chịu.

- Không ai thích gió dai. Súc vật cũng sợ gió nữa là. Dưới thung lũng xa kia, tôi thấy người ta có trồng những cây sanh gôm để chắn gió. Họ nói rằng loại cây này mỗi năm cao trên ba thước. Sao anh không trồng vài hàng thử xem.

- Một ý kiến rất hay. Nhưng thứ tôi cần nhất là nước. Nếu có đủ nước tôi định trồng loại linh lăng thảo.

- Loại đó chẳng có giá bao nhiêu.

- Tôi đã nghĩ đến khía cạnh đó. Cách đây vài tuần, tôi có viếng qua các vùng Green Field và Gonzales. Một số người Thụy Sĩ đã di cư đến đó. Họ có nuôi vài bầy bò sữa thật xinh, và mỗi năm họ cắt được bốn mùa linh lăng thảo.

- Tôi có nghe nói về họ. Họ mang giống bò cái từ Thụy Sĩ qua đây.

- Mặt Adam sáng lên với những chương trình dự định.

- Tôi cũng muốn làm như họ. Nuôi bò sữa để làm bơ và pho mát bán, số sữa thừa để nuôi heo thì tuyệt!

- Vậy là anh đã bắt đầu đem lại niềm tin lớn lao cho thung lũng này.

- Tương lai anh đầy hứa hẹn lắm.

- Với điều kiện nếu tôi có nước đầy đủ.

Adam chỉ một khoảng đất rộng bằng phẳng phía bên trái mọc đầy loại hoa dại thấp, hỏi:

- Ông có thể đào giếng ở đó được không?

- Tôi chưa biết được, ông Samuel đáp. Để tôi xem kĩ đã.

Ông xuống ngựa, trao dây cAdam, cầm theo một chạng cây có hai nhánh. Hai bàn tay ông cầm hai nhánh chẻ, đưa phần gốc ra trước, chậm rãi bước tới. Bước chân ông đi quanh quẹo. Có khi ông cau mày bước lùi lại vài bước, rồi bắt đầu bước tới. Adam cỡi ngựa chậm chạp theo đằng sau, một tay dắt theo con ngựa của ông Samuel.

Adam chăm chú nhìn theo nhánh cây trên tay ông Samuel. Chàng thấy chạng cây lay động và chúi xuống một chút như có một con cá vô hình táp phải mồi kéo rịt đầu cần câu xuống. Nét mặt ông Samuel căng thẳng vì hoàn toàn chú tâm vào công việc. Ông tiếp tục đi loạng choạng cho đến khi đầu mút nhánh cây trên tay ông như bị kéo mạnh xuống, ông chậm rãi vạch một vòng, nhổ một mớ cây dại ném qua một bên. Ông bước ra khỏi vòng tròn vừa vạch một quãng, đưa chạng cây lên hướng vào chỗ làm dấu. Khi ông đến gần, chạng cây lại chúi mũi xuống. Ông lên tiếng:

- Có thể đào giếng ở đây được rồi. Không cần phải đào sâu. Mạch khá mạnh, nên nhiều nước lắm. - Ông bỏ một nhánh cây cắm vào chỗ đất vừa khám phá để làm dấu. Ông cũng lấy chân đá rạp các bụi cây cỏ để nay mai dễ tìm thấy lại hơn.

Cách đó khoảng gần 300 thước, chạng cây trên tay ông lại chúc mũi xuống mạnh gần như muốn tụt ra khỏi tay. Ông nói:

- Chỗ này cũng có cả bọng nước khổng lồ nữa đây.

Ông thử tìm thêm một địa điểm thứ ba, nhưng không có kết quả. Sau gần nửa tiếng đồng hồ chỉ thấy dấu hiệu yếu ớt.

Hai người khoan thai cưỡi ngựa trở về nhà của Trask. Buổi chiều như vàng rực vì lớp bụi đất vàng càng ánh lên dưới màu nắng. Ông Samuel nói:

- Tôi biết khu đất này tốt, nhưng không ngờ tốt đến mức đó. Anh có cả một bọng nước bên dưới nông trại của anh ăn sâu đến tận chân núi. Anh tha hồ canh tác.

- Ông có thể ở lại với tôi đêm nay để nói chuyện được không?

- Được chứ, nhưng tốt hơn không nên. Tôi chỉ nói với Liza đi một lát rồi về chứ không nói ở lại đêm sợ bà ấy lo. Anh muốn tôi chừng nào bắt tay vào việc đào giếng.

- Ngay hôm nay, nghĩa là bất cứ lúc nào ông có thể.

- Chắc anh biết công việc đào giếng lấy nước cho anh không phải nhẹ nhàng gì. Tôi xin nói trước mỗi bộ năm mươi xu tiền công.

- Tôi có đủ tiền. Ông Hamilton cứ yên tâm.

- Anh cứ gọi tên Samuel cho thân mật.

- Ông Samuel, tôi muốn lập một ngôi vườn trong nông trại của tôi. Ông hãy nhớ rằng tên tôi là Adam, nhưng tôi chưa có ngôi vườn Địa Đàng.

- Tôi chưa hề nghe ai định lập vườn với lý do tuyệt vời như vậy. - Ông Samuel tán đồng và hỏi thêm:

- Anh định sẽ trồng những loại cây ăn trái nào?

Adam nói ngay:

- Tôi sẽ không trồng táo. Trồng táo xui lắm.

- Bà Eve của anh không phản đối sao? Các bà Eva thường thích ăn táo lắm mà.

- Nhưng nàng Eve của tôi thì không.

Mắt của Adam sáng lên:

- Ông chưa biết nàng Eve này đâu. Tôi tin rằng chưa có người nào hiểu được đức tánh thánh thiện của nàng.

Họ cỡi ngựa đi ngang dưới những cây sồi lớn trên đoạn đường về đến nhà. Adam đưa tay chỉ:

- Nàng ngồi kia.

Rồi chàng gọi:

- Cathy, đã tìm ra mạch nước rồi. Nhiều nước lắm em ơi.

Chàng quay lại say sưa nói:

- Nàng sắp đến ngày sinh, chắc ông biết tin đó rồi chứ!

- Dù ở đằng xa cũng thấy chị ấy đẹp. - Ông Samuel khen.

*

Ban ngày trời nóng nực, nên Lee đặt bàn ăn ở ngoài vườn, dưới tàn cây sồi. Đến lúc mặt trời gần lặn ở dãy núi phía tây, chú Lee vào ra nhiều lần giữa nhà bếp và chỗ bàn ăn mang các thức ăn như thịt nguội, các món ướp muối, xà lách trộn khoai, bánh ngọt trộn dừa và bánh nhân đào. Chính giữa bàn chú đặt một hũ sữa bằng đá khổng lồ.

Adam và ông Samuel đứng cạnh chiếc bàn được kê trên một cái giá dưới tàn cây sồi chờ Cathy ra.

Nàng từ trong nhà chập chững bước ra như sợ sắp ngã. Nét mặt nàng vô tư như trẻ thơ, hai bàn tay nàng nắm chặt vào nhau buông thõng phía trước người. Ra gần bên bàn ăn, nàng mới ngẩng mặt nhìn lên Adam và ông Samuel.

Adam kéo ghế sẵn cho nàng và nói:

- Hôm nay anh có mời ông Hamilton tới giúp mình tìm chỗ có mạch nước để đào giếng.

Nàng chìa tay ra theo phép lịch sự nói:

- Chào ông.

Ông Samuel vẫn ngắm kĩ nàng từ nãy giờ nên nói ngay:

- Chị đẹp lắm. Hân hạnh được gặp chị. Chắc chị vẫn khỏe chứ?

- Vâng, tôi vẫn khỏe.

Hai người đàn ông ngồi xuống. Adam nói:

- Nhà tôi lúc nào cũng lặng lẽ như vậy. Các bữa ăn của chúng tôi không nhất định hẳn lúc nào. Các bữa ăn ở gia đình ông chắc đông đủ và vui lắm phải không?

- Cũng vậy thôi. Tôi có thể nói với anh rằng tính tôi bê bối lắm. Tụi con của tôi còn lôi thôi hơn nữa. À, thằng Tom của tôi cũng muốn đi theo hôm nay, nhưng không có ai lo việc ở nông trại.

Ông Samuel chợt nhận thấy rằng những lời ba hoa của mình làm cho bàn ăn đỡ im lặng. Khi ông ngừng nói, bàn ăn rơi vào im lặng. Cathy đang nhìn xuống đĩa thức ăn đựng miếng thịt cừu rô ti. Khi cắn miếng thịt giữa hai hàm răng nhỏ và bén của mình, nàng liếc mắt nhìn lên. Cặp mắt mở lớn của nàng không chú mục vào cái gì cả. Ông Samuel bỗng cảm thấy ớn lạnh.

- Ông thấy lạnh sao? - Adam hỏi:

- Không, nhưng không hiểu sao tôi thấy hơi ơn ớn trong xương.

- Ồ, thế à? Tôi hiểu loại cảm giác đó.

Im lặng lại bao trùm. Ông Samuel chờ một câu khơi mào nào để lên tiếng, nhưng ông ta biết trước điều đó khó mà xảy ra được.

- Chị Trask, chị có thích thung lũng này không?

- Ông hỏi sao? Ồ, thích chứ.

- À, còn bao nhiêu lâu nữa thì đứa bé sẽ chào đời hả chị?

Adam phải đỡ lời cho vợ:

- Còn khoảng sáu tuần nữa. Vợ tôi có tính ít nói lắm, nhiều khi cạy răng cũng chỉ nói vài tiếng.

- Đôi khi sự im lặng còn nói nhiều gấp mấy lần lời nói.

Ông Samuel cố nói khéo như vậy và ông thấy đôi mắt của Cathy lại nhấp nháy. Ông để ý thấy vết sẹo trên trán của nàng có vẻ như sậm hơn một chút.

Có lẽ nàng bị quất bằng một loại roi gì giống như roi bằng da bện mà người ta thường dùng để đánh ngựa. Samuel cảm thấy tâm thần bồn chồn như cảm giác lúc mũi chạng cây trì xuống chỉ địa điểm có nước, loại cảm giác nảy sinh trước một sự kiện lạ lùng, căng thẳng. Ông liếc nhìn Adam và thấy chàng đang ngắm vợ một cách say sưa. Chàng không cảm thấy vẻ khác lạ đó. Nét mặt chàng ngất ngây vì hạnh phúc.

Có tiếng bước chân kéo lệt xệt sau lưng. Ông Samuel quay lại. Chú Lee đang đặt ấm trà lên bàn rồi lặng lẽ bước đi.

Ông Samuel ăn vội cho xong bữa, uống một tách trà nóng bỏng, rồi xếp khăn ăn đặt lên bàn.

- Xin phép chị tôi phải cỡi ngựa trở về. Cám ơn về sự tiếp đãi nồng hậu của anh chị.

- Không có gì, chào ông. - Cathy nói.

Adam đứng bật dậy như người vừa tỉnh một cơn mơ. Chàng nói:

- Hôm nào ông có thể khởi công đào giếng được? Ông giúp sớm một chút. Tôi cần có nước sớm ngày nào tốt ngày đó. Cathy, chúng ta sẽ xây dựng thành một vùng đẹp nhất thế giới, không một nơi nào đẹp bằng.

Samuel nhìn thẳng vào mặt Cathy, nhưng không thấy nàng có phản ứng nào. Mắt nàng vẫn thản nhiên, hai khóe môi hơi nhếch lên một cách lạnh lùng.

- Vậy thì hay lắm. - Nàng nói.

Samuel định nói khích một câu gì để kéo nàng ra khỏi trạng thái hờ hững xa lạ. Nhưng ông lại cảm thấy ớn lạnh, khẽ rùng mình.

- Ông ớn lạnh phải không? - Adam hỏi.

- Vâng, lại ớn lạnh.

Bóng tối đã bắt đầu chụp xuống. Những tàn cây đen sẫm nổi bật giữa bầu trời mờ tối.

- Tôi tạm biệt nhé.

- Tôi sẽ đi với ông một đoạn đường.

- Thôi đừng, anh nên ngồi lại đây với chị. - Ông Samuel khẽ ấn vai Adam ngồi lại xuống ghế: - Thôi chào anh chị nhé? - Ông vội bước về phía chuồng ngựa.

Con ngựa già Dosology của ông đang nhai chút cỏ trong máng một cách lơ đãng. Ông Samuel định leo lên yên ngựa, chợt có tiếng động sột soạt phía sau. Ông quay lại, thì thấy bóng Lee xuất hiện dưới ánh sáng ngọn đèn từ bên trong hắt ra.

- Hôm nào ông trở lại đây? - Lee khẽ hỏi.

- Chừng vài ngày nữa. Có gì lạ không Lee?

- Kẻ giúp việc chỉ biết làm việc, ngoài ra không được quyền nghe, hay nói gì hết.

- Vâng. Chú nói có lý, câu hỏi của tôi có lẽ hơi thừa. Thôi đừng phiền nhé ông bạn?

Ông tháo dây buộc ngựa ném lại vào máng:

- Thôi chào chú Lee nhé!

- Ông Hamilton!

- Gì đó?

- Ông cần mướn đầu bếp không? Tôi không đòi lương mắc đâu.

- Liza khó tính lắm. Tại sao chú không muốn ở đây nữa?

- Ông chỉ cần nhớ câu hỏi của tôi là đủ. Thôi chào ông nhé!

*

Adam và Cathy ngồi lại dưới tàn cây đen sẫm.

- Ông ấy là một người tốt bụng, - Adam nói. - Anh rất mến ông ấy. Em thấy có dễ chịu không?

- Vâng.

- Một ngày kia, em sẽ thấy cả thung lũng xanh ngát một màu linh lăng thảo. Từ khung cửa sổ lớn của căn nhà chính, làm xong nhìn xuống em sẽ thấy cảnh đó. Sau khi đã sanh xong, em có thể cưỡi ngựa đi khắp vùng với anh.

Cathy nhỏ nhẹ nói.

- Adam, tôi sẽ không ở lại đây đâu, khi nào thuận tiện tôi sẽ đi nơi khác.

Chàng cười lớn:

- Ồ, vô lý. Đừng nói nhảm vậy cưng.

- Không phải nói nhảm đâu.

- Đừng nên nói như vậy. Sau khi đứa bé ra đời mọi việc sẽ đổi khác. Để rồi em xem anh không nói sai đâu.

Chàng tì tay ra sau gáy ngẩng mặt nhìn lên những vì sao yếu ớt qua kẽ hở những cành lá trên cao.

*

Sáng hôm ấy, với hai gò má ửng hồng, Liza Hamilton đang loay hoay trước lò than như một con báo trong chuồng, thì ông Samuel bước vào nhà bếp. Bánh phồng trắng ngon lành trong chảo. Liza đã thức dậy trước lúc mặt trời mọc. Ngày nào cũng vậy. Đối với bà, sau khi mặt trời mọc mà còn nằm trên giường là một khuyết điểm đáng trách. Chỉ có một người được hưởng đặc quyền đó là cậu con út của bà, thằng Joe.

Lúc này chỉ có Tom và Joe còn ở lại trong nông trại. Tom to con, hồng hào, đang ngồi tại bàn ăn giữa nhà bếp, tay áo rũ xuống. Bà đặt miếng bột nhồi dày từ trong một cái hũ lên vỉ nướng bánh.

Những chiếc bánh nóng phồng lên, nhiều chỗ u lên như những miệng núi lửa nhỏ và phun hơi nước ra cho đến khi sẵn sàng được trở qua.

Ông Samuel bước vào sau khi sửa ráy từ ngoài sân. Ông kéo tay áo sơ mi xanh của mình xuống khi bước vào nhà bếp. Bà Hamilton không muốn thấy ai xắn tay áo khi ngồi vào bàn ăn. Bà cho như vậy là khó coi và không lịch sự.

- Tôi vào hơi trễ phải không má nó?

Bà không quay lại nhìn ông. Cái kẹp bánh trên tay bà lẹ làng trở những chiếc bánh nóng trên vỉ nướng.

- Hồi hôm ông về lúc mấy giờ? - Bà hỏi.

- Ồ, khá khuya. Cũng đến mười một giờ. Tôi không xem kĩ, sợ làm em mất giấc ngủ.

Bà Liza dằn giọng:

- Tôi đâu có dậy làm gì. Ông cứ tha hồ đi rảo suốt đêm rồi đau ốm thì đừng có than trời than đất. Thượng đế có mắt mà.

Bất cứ chuyện gì bà Liza cũng đem thượng đế vào đồng minh với bà. Bà quay lại đưa một đĩa bánh nóng vào tay của Tom.

- Khu đất của họ Sanchez thế nào? - Bà hỏi.

Samuel đến bên vợ, cúi xuống hôn vào chiếc má ửng hồng của bà một cái:

- Xong chưa má nó? Ăn được rồi chứ?

- Xong rồi. - Bà trả lời ngay.

Samuel ngồi vào bàn:

- Ăn đi Tom. À, anh Trask đang cố thay đổi toàn diện bộ mặt nông trại. Anh ta đang sửa sang ngôi nhà cũ để ở.

Liza từ lò than quay mặt hỏi:

- Ngôi nhà thường để bò và heo nằm nhiều năm nay đó phải không?

- Ồ, anh ấy cho chùi rửa kĩ rồi.

- Nhưng anh ta sẽ không thể nào làm tan hết mùi heo được. - Bà Liza quả quyết. - Heo thường lưu lại một thứ mùi hôi hám không bao giờ tẩy xóa sạch được.

- Tôi đã vào nhà xem qua một vòng, nhưng không ngửi thấy mùi gì ngoài mùi sơn.

- Chừng nào sơn và nước vôi khô rồi ông sẽ thấy. - Bà Liza nói.

- Anh ấy lập một ngôi nhà vườn có suối chảy ngang qua và dành hẳn một khoảng vườn hoa trồng các loại hường và nhiều khóm tường vi lấy giống từ Boston.

- Em không hiểu tại sao anh ấy lại phí phạm của trời như vậy. - Bà Liza nghiêm khắc nói. - Tôi không thấy hoa hường có ích lợi gì. Vợ anh ấy trông thế nào?

- À, chị ấy trẻ và đẹp lắm. Người lại trầm lặng ít nói, chị ấy sắp đến ngày sanh con đầu lòng.

- Em có nghe rồi. - Liza nói thêm. - Tên hồi còn con gái của chị ấy là gì?

- Tôi không hỏi kĩ làm gì.

Bà đặt đĩa bánh nóng trước mặt ông rồi rót cà phê vào tách.

- Ba nó nhận thấy thế nào? Chị ấy có làm gì không?

- Chẳng làm gì cả. Chỉ thấy ngồi một chỗ. Chị ấy gần ngày sinh rồi mà.

- Em muốn hỏi hai bàn tay chị ấy có làm một việc gì không?

Ông Samuel cố lục lọi trí nhớ:

- Theo tôi nhớ thì chị ấy chẳng làm gì cả. Hai bàn tay chị ấy nhỏ nhắn, lồng vào nhau đặt lên đùi chứ không thấy làm gì cả.

Bà Liza hít vào một hơi dài hỏi thêm:

- Chị ấy không may vá thêu thùa gì cả sao?

- Không có mình ạ.

- Em tưởng ba nó chẳng nên tới lui một gia đình như vậy. Người giàu mà lười nhác kiểu đó không hay ho gì đâu. Nhàn cư vi dễ bất thiện lắm.

Ông Samuel ngửa mặt lên cười ha hả một cách vui vẻ. Nhiều lúc Liza có những ý kiến ngộ nghĩnh làm ông cười xòa, nhưng không bao giờ trách vợ.

- Này Liza của anh, chính nhờ những người giàu mà anh mới có nhiều việc làm. Anh ấy nhờ anh đào giùm bốn, năm cái giếng luôn một lúc.

- Anh đã bàn kĩ giá cả chưa? Hay khi làm xong lại được cám ơn suông, mất công toi như những lần trước?

- Adam Trask sẽ trả tiền công đàng hoàng. - Samuel nói. - Công việc sẽ kéo dài suốt mùa Đông. Các công việc khác tạm gác lại đó đã. Chúng ta sẽ hưởng một mùa Giáng sinh tươm tất. Anh cần vài thằng nhóc phụ giúp. Anh muốn đem Tom và Joe theo.

- Em không chịu cho thằng Joe theo đâu. Anh biết nó đâu có mập mạnh gì.

- Anh muốn tập nó làm việc cho mạnh mẽ lên. Nó có thể chết đói vì sự yếu đuối của nó.

- Joe không thể theo anh được. Anh đem tụi nó đi hết, công việc ở nông trại này ai lo.

- Để anh sẽ gọi George về nhà. Nó không thích làm công việc thư ký dù ở King City.

- Thích hay không, không thành vấn đề nhưng mỗi tuần nó lãnh tám Mỹ kim là tốt rồi.

- Má nó nói vậy nghe sao được. Đây là cơ hội tốt nhất để tên chúng ta được ghi vào danh sách những người gửi tiền vào ngân hàng quốc gia đầu tiên ở đây! Em đừng có nghĩ cạn như vậy.

Bà vừa làm việc vừa cằn nhằn một mình suốt buổi sáng trong khi ông chồng và thằng Tom lo sửa soạn các dụng cụ cần thiết. Khoảng nửa buổi, Joe cũng gia nhập với cha và anh. Cậu ta tỏ vẻ háo hức và năn nỉ cha cho mình được đi theo.

Ông Samuel phân trần:

- Ba thì muốn con theo phụ với ba, nhưng má con muốn con ở nhà.

- Nhưng con muốn theo ba mà. Con thích làm việc.

- Ba biết nếu con theo ba, con sẽ tập làm việc nhưng má con không đồng ý. Nếu con có năn nỉ má con thì nhớ đừng có bảo ba xúi. Con nhớ nói rằng ba từ chối.

Joe nhăn nhó trong khi Tom cười sung sướng.

- Con sẽ đi xin phép má. - Joe nói.

- Con cứ việc nói thử xem, - ông Samuel nói:

- Ráng mà lựa lời nhé.

Hai hôm sau chiếc xe lớn chuyển bánh, chất đầy cây gỗ và dụng cụ. Tom cầm cương bốn con ngựa. Ông Samuel và Joe ngồi bên cạnh.

Chia sẻ
Loading...
Loading...
Loading...
Chia sẻ
Danh sách chương
Loading...
Loading...
Loading...
Thể loại
Tìm kiếm
Loading...
Loading...
Loading...
Lọc truyện