Q2 - Chương 159: Sự kiện mất tích
Sau khi đợi hơn nửa giờ để xác nhận không còn tình trạng gì ngoài mong đợi, Klein và Emlyn White mới rời nhà luật sư Jurgen. Mỗi người đều chìm trong suy nghĩ riêng của bản thân, im lặng bước đi, chẳng mấy chốc đã đến trước cửa căn hộ số 15 phố Minsk.
Ma cà rồng Emlyn nắm tay lại để trước miệng, ho nhẹ một tiếng:
“Thanh toán thù lao đã hoàn tất. Tôi hy vọng trong tương lai sẽ chúng ta sẽ không phải gặp lại nhau.”
Nghe hay đấy, nhưng ngài White à, có phải anh đã quên mất một chuyện quan trọng nào đó rồi không? Klein cười lịch sự:
“Thỉnh thoảng tôi sẽ đến thăm hỏi Giám mục Utravsky, hy vọng lúc ấy sẽ không phải gặp lại anh ở giáo đường Bội Thu.
Như vậy thì tôi cũng chả cần bận rộn giúp anh tìm biện pháp giải quyết vấn đề tâm lý ám thị nữa.”
Biểu cảm Emlyn White lập tức chuyển vẻ cổ quái, anh ta im lìm hai giây, mới hất cằm lên:
“Trong nội bộ Huyết tộc chúng tôi có rất nhiều nhà thần bí học mạnh mẽ, tôi sẽ viết thư tìm trợ giúp từ họ.”
Nói xong, anh ta dùng tay ấn ngực, hành lễ cáo từ.
Nhưng vừa quay người đi được vài bước, anh ta bỗng giảm tốc độ, quay đầu lại, do dự hỏi:
“A-anh đang nấu gì thế?”
“Canh củ cải hầm xương bò, ăn kèm với cơm và ớt đặc sản của vùng cao nguyên Feynapotter.” Klein nói trong sự chờ đợi, hít hít ngửi ngửi mùi thơm của đồ ăn bay khắp nhà.
Emlyn nhíu mày lắc đầu:
“Ớt không phải thứ gì ngon lành trong ẩm thực Huyết tộc.”
Thẳng thắn mà nói, mình cũng chẳng tưởng tượng được ma cà rồng sẽ đi ăn ớt. Đương nhiên, thỉnh thoảng mình sẽ suy diễn đến cảnh một ma cà rồng cầm bánh bao trắng, nhai tỏi và hành tây… Klein oán thầm một câu, chỉ vào cánh cửa, ra hiệu mình muốn dùng bữa tối.
Emlyn White suy tính trong một giây, trầm giọng xuống, cân nhắc nói:
“Tối qua tôi đã suy nghĩ rất lâu, nhận ra anh cũng chẳng làm gì, sao lại đòi nhận thù lao? Lão già kia lúc nào cũng có thể cho tôi rời đi.”
Klein cười:
“Không, không tính thế được. Cha mẹ anh ủy thác nhiệm vụ là tìm ra anh, chứ không phải giải cứu anh. Mà cuối cùng là tôi tìm ra anh, nên căn cứ vào thỏa thuận, đương nhiên thù lao thuộc về tôi.
Bên cạnh đó, nếu tôi không nhắc nhở, chắc anh còn phải ở lại giáo đường Bội Thu thêm mấy tuần, mấy tháng nữa mới tự do rời đi được, đồng thời cũng không cách nào phát hiện ra mình bị ám thị.”
“Anh đang đá xéo trí thông minh của tôi đấy à?” Khuôn mặt Emlyn hơi vặn vẹo.
Không, tôi nói thẳng mà… Klein cười cười, không nói gì nữa, mở cửa bức vào nhà. Hắn tiến thẳng đến phòng bếp, tâm trí chỉ toàn canh xương trong vắt thơm lừng, cơm trắng, thịt bò hầm mềm, tủy ninh nhừ ẩn trong khớp xương, củ cải thanh ngọt và ớt cao nguyên Feynapotter cắt vụn.
Trên những miếng ăn cay nóng đỏ rực kia còn được phủ một chút muối hoa hồng và màu xanh của lá ngò dài Balam.
…
Sáng sớm thứ năm, theo giao hẹn, Klein tìm đến quán cà phê rẻ tiền ở quận Đông.
Lão Kohler, người vẫn mặc chiếc áo khoác dày như trước, đang ngồi trong góc, dùng loại nước trà không ra vị trà kèm bánh mì đen.
Klein đi đến chỗ đối diện ông ta, lấy đồ đã sớm chuẩn bị ra, đưa cho đối phương.
Hai tờ 5 saule, bốn tờ 1 saule và một nắm đồng penny để đặc biệt tăng hiệu quả cho khoản thanh toán.
Lão Kohler nhìn thẳng vào chúng một hồi lâu trước khi đưa tay phải ra, run rẩy cầm lấy.
Ông ta cứ ngắm nghía mãi, đưa tay lau mắt, chen ra một nụ cười:
“Ở bến cảng, chúng tôi vận chuyển hàng hóa nặng, làm công việc lau chùi phiền phức với đôi chân ngập trong nước lạnh bẩn, cũng chỉ được 1 saule một ngày…”
Vậy mà ở đây có tổng cộng 15 saule!
Klein lắng nghe trong im lặng, vài giây sau mới nói:
“Gần đây ông có nghe ngóng được gì không? Có chuyện nào đáng chú ý không?”
Lão Kohler cất khoản thù lao đi, uống thêm một ngụm trà, nhấn khóe mắt, nói:
“Tôi vừa gặp rất nhiều công nhân bến cảng, cũng vừa liên lạc lại với những người bạn khi tôi từng là vô gia cư. Một số đã tìm thấy công việc trong nhà máy, một số thì cứ qua lại trại tế bần và những xó xỉnh trong công viên. Hờ, giống như quá khứ của tôi vậy.
Gần đây, có một tin đồn không biết từ đâu truyền đến. Nói rằng, nếu chúng ta đã tín ngưỡng một trong bảy vị thần, thì sao không trực tiếp cầu nguyện Chúa Sáng Thế luôn? Nói rằng, Thần chưa thực sự mất đi, mà vẫn sống trong thân thể mỗi người, mỗi đồ vật.
Cầu nguyện Thần sẽ giúp chúng ta được cứu rỗi. Không chỉ được gia nhập vào Thiên quốc của Thần sau khi chết, mà còn có cuộc sống tốt hơn trước khi chết. Ví dụ như, không cần phải chăm chỉ làm việc mà vẫn sẽ có bơ và thịt ăn mỗi ngày.”
Đây…là lý luận của mà đám người Hội Cực Quang truyền bá về Chúa Sáng Thế sao? Sau khi trải qua sự việc Lanevus, chúng bắt đầu chú ý đến tình trạng nghèo đói của quận Đông, khu bến tàu và nhà máy, hy vọng lợi dụng để đạt được mục đích? Không biết ba đại Giáo hội đã để ý đến hiện tượng này chưa… Hẳn là có rồi… Klein phết bơ lên hai mặt bánh mì nướng, cắn một miếng mà không biết mùi vị sẽ ra sao.
Lão Kohler lải nhải một hồi, mới nói:
“Ngài thám tử, dựa theo sắp xếp của ngài, tôi đã chú ý đến sự kiện những nữ công nhân dệt may nọ. Cuối cùng, vì có sự trợ giúp của cảnh sát, các cô ấy đã nổi loạn thất bại, nhưng, ha ha, người dẫn dắt họ trở thành giám sát viên của nhà máy, và một phần ba số người mất đi công việc.
Một số trong đó đang tích cực tìm công việc mới, một số trở thành gái đứng đường, và một số không biết đã đi đâu. Cả quận Đông đang điên đảo hỗn loạn.”
Nếu thời điểm 'Trung Tướng Gió Lốc' Qilangos đến Backlund là loại tình hình này, thì mỗi ngày gã đến quận Đông lặng lẽ giết đi một hai người, căn bản cũng chẳng ai phát hiện, cũng không ai chú ý được… Klein thở dài một tiếng trong lòng.
Lão Kohler lại tiếp tục kể những điều mình thấy và nghe thường ngày, bỗng nói:
“Phải rồi, đứa con gái nhỏ nhất của Liv đã mất tích.”
“Liv?” Klein xác thực mình chưa nghe cái tên này bao giờ.
Lão Kohler lúc này mới bừng tỉnh:
“Là nữ giúp việc giặt là cãi nhau với người khác mà ngài và ngài phóng viên nọ đã gặp lần trước. Cô ta lúc nào cũng ở nhà giặt giũ với hai con gái. Nhưng hôm qua, khi hai con gái của cô ấy rời nhà đi giao đồ đã ủi xong, một trong hai liền mất tích. Là đứa nhỏ hơn, thật tội nghiệp. Cô ta đã là góa phụ nhiều năm rồi, chỉ biết trông chờ vào hai đứa con, vậy mà giờ… Hầy, cảnh sát quận Đông chắc chắn sẽ chẳng chú tâm vào tìm kiếm cô bé đâu.”
Người bất hạnh thường sẽ càng hay gặp bất hạnh, vì họ không có khả năng chống lại nguy hiểm hay sự thay đổi từ môi trường… Câu này đột nhiên hiện ra trong đầu Klein.
Sau một hồi im như đá, hắn mới nói:
“Đưa tôi đến gặp họ. Tôi là một thám tử, có lẽ tôi có thể giúp tìm kiếm cô bé ấy.”
“…Họ chẳng có tiền đâu.” Lão Kohler nhắc hắn.
Klein cầm mũ và gậy batoong lên:
“Thỉnh thoảng tôi sẽ làm công việc tình nguyện.”
…
Quận Cherwood, trong một căn hộ được hai vị tiểu thư thuê trọn.
Hugh bắt đầu quay lại cuộc sống săn tiền thưởng, còn Falls thì tăng tiến độ viết sách, hy vọng mau chóng tích lũy đủ tiền mua vật liệu phi phàm của “Bậc Thầy Ảo Thuật”.
Nhưng loại chuyện viết sách này, không phải cứ muốn viết thì sẽ viết ra được ngay, Falls bực bội giật tóc, quyết định ra ngoài tản bộ một lát, tìm kiếm cảm hứng.
Vừa đi được một lúc, cô nhận ra bản thân đã vô thức quay lại một địa điểm quen thuộc.
Ngay trước mặt chính là phòng khám Joseph, nơi cô từng làm việc, một phòng khám tư nhân khá lớn.
Nhìn ngó một chút, Falls nhớ tới bà lão đã dẫn dắt cô đến với thế giới siêu phàm, liền rẽ vào một con hẻm nhỏ ở bên phải, đi đường tắt đến một con phố gần đó.
Hai bên đường của con phố này đều trồng cây ngô đồng, lá rụng bay theo gió. Một địa điểm khá yên tĩnh.
Falls nhớ rõ, bà ta sống ở căn nhà số 39, lúc trước thỉnh thoảng cô lại tới đưa thuốc hoặc tiêm thuốc, hay thậm chí giúp một chút việc vặt hằng ngày.
Đã gần ba năm rồi, nơi đó hẳn sắp được thuê lần nữa, có lẽ đã đổi mấy lần khách thuê rồi… Mình vẫn nhớ rõ thời gian mình đến dọn dẹp những vật bà ấy để lại, còn phát hiện ra bao nhiêu là bút ký ghi chép về thần bí học… Falls vừa bước dưới những cây ngô đồng trụi lá, chậm rãi tiến đến căn nhà số 39.
Vì nhớ lại trải nghiệm quá khứ, cô dần dần có được chút cảm hứng sáng tác.
Đúng lúc ấy, cô trông thấy một ông lão mặc áo khoác nỉ dày, đội mũ chóp nửa cao đen, đứng trước cửa căn nhà số 39, kéo chuông cửa ba lần.
Sau vài phút, nhận thấy không ai ra mở cửa, ông lão với đôi mắt xanh thẳm lắc đầu, quay người đi, lầm bầm trong nghi hoặc:
“Vẫn không có ai…”
Ông ta chợt phát hiện ra Falls đang đứng cách đó không xa nhìn qua bên này, nên vội vàng cất bước đi qua, mỉm cười ân cần, hỏi:
“Tiểu thư xinh đẹp, cháu có sống ở gần đây không? Có biết Laubero và Aulisa không?”
Aulisa? Chẳng phải là tên của bà lão ấy sao? Gần đây vẫn chưa có ai thuê căn nhà này à? Falls cân nhắc một hồi, nói:
“Cháu không chắc bà Aulisa mà mình biết có phải người ông muốn tìm không. Bà ấy từng sống ở đây một thời gian dài, nhưng ba năm trước đã qua đời rồi ạ.”
“Ba năm trước qua đời rồi? Thế còn Laubero?” Ông lão với khóe mắt điểm vết chân chim vội vàng truy vấn.
“Chồng bà Aulisa còn mất sớm hơn bà ấy nữa ạ.” Falls thành thật trả lời.
Ông lão lập tức ngẩn ngơ, lộ ra biểu cảm bi thương.
Ông ta im lặng một hồi, mới cất tiếng:
“Cảm ơn cháu, tiểu thư tốt bụng.
Ta là anh trai của Laubero, đã luôn sống ở quận Gian Hải. Vì quá lâu rồi không thấy thư họ gửi đến nên quyết định qua thăm một chuyến.
Cháu có thể kể cho ta nghe, đã có những chuyện gì xảy ra trong từng ấy năm không?”
Anh trai của chồng bà Aulisa… Có khi nào chính là hậu duệ của gia tộc mà bà ấy từng nói tới? Falls đột nhiên bừng tỉnh, mỉm cười đáp lại:
“Không thành vấn đề ạ.”
Cô nhanh chóng suy nghĩ xem chuyện nào nên nói, chuyện nào không nên nói.
Ông lão chỉ về phía sau, bảo:
“Nơi đó có một tiệm cà phê khá ổn.”
…
Quận Đông, trong một căn hộ cũ kỹ, Klein lại bước vào gian phòng nồng hơi ẩm nọ.
Hắn trông thấy người phụ nữ lần trước đã cãi nhau với cô gái trên phố vì khinh thường nghề nghiệp của cô ta, đang đứng trong một đống quần áo, gương mặt không ít nếp nhăn đã mất hết tinh thần, mất đi sự siêng năng lao động, mất sạch sinh khí.
Mà con gái lớn của cô, khoảng mười bảy, mười tám tuổi, đang ngồi bên giường giặt đồ, nức nở không ngừng:
“Tất cả là tại con, tại con không chịu trông nom em ấy cẩn thận…
Con không nên đưa em ấy đến ngõ vắng.
Em ấy còn bảo, tối nay muốn đến trường dạy miễn phí để học thêm vài từ mới nữa.
Tất cả là tại con, lỗi con hết…”
Người giúp việc giặt là Liv đột nhiên hoàn hồn, quay đầu nhìn về phía con gái lớn, thu hồi biểu cảm đau đớn, hung dữ quát:
“Khóc cái gì mà khóc? Mau dậy giặt quần áo đi!
Mày muốn chết đói à? Muốn nghỉ đến trường dạy miễn phí luôn à?”
Gào thét xong, cô mới nhìn thấy Klein và lão Kohler đứng bên cửa.
“Lão Kohler… Vị này là?” Cô nghi ngờ hỏi.