Q2 - Chương 263: Những cành cây khô
Ánh sáng bất chợt mờ đi ngay vị trí Ince Zangwill biến mất, nhấn chìm toàn bộ khu vực trong bóng đêm sâu thẳm dày đặc.
Trong bóng tối, tiếng chú ca ngâm xướng vang lên. Nó lặng lẽ yên ả ru người khác vào giấc ngủ say. Kể cả vô số cánh tay tái nhợt đang không ngừng quờ quạng dưới mặt nước đen kịt cũng chậm dần, không còn điên cuồng nữa, như thể linh hồn chúng đã được cứu rỗi.
Bên trong “đêm tối” như vậy, một bóng người bước ra, không ai khác chính là Ince Zangwill vừa bị kéo vào Linh giới.
So với khi trước, gã đã mất chiếc mũ vải chóp nhọn. Vai áo trái rách bươm, một phần máu thịt bị xẻ đi, bong bóng vàng nhạt liên tiếp sủi mủ lên ùng ục.
Ánh mắt gã không còn vẻ lạnh nhạt lúc trước mà ngập trong đau đớn như đang chịu đựng sự tra tấn không thể tưởng tượng nổi.
Cây bút lông chim 0-08 vẫn tiếp tục viết:
[Có người tiếc nuối, có kẻ lại thấy may mắn. Trên người Ince Zangwill có một chiếc ‘cuống rốn của Tà Thần’ đến từ đứa trẻ sơ sinh trong bụng Megos, đến từ Chúa Sáng Thế Chân Thực. Thông qua ‘cuống rốn’, gã thành công thoát khỏi sự giam cầm của tồn tại không xác định, cưỡng ép quay lại thế giới thực. Nhưng kết quả là gã đã mất đi món vật phẩm thần kỳ kia. Hơn nữa, trong một thời gian ngắn, gã phải chịu đựng oán hận của dòng máu Tà Thần không thể giáng sinh.]
[Điều này khiến cho sức mạnh của gã giống như một số mặt hàng trong cửa hàng bách hóa vào thời điểm giao mùa, chỉ còn bằng 55% so với ban đầu. Ừm, đây là con số cực kỳ chính xác.]
…
Trên con đường nằm sâu trong quận Đông.
Lão Kohler ôm một túi giấy đựng giăm bông, vội vã quay lại căn phòng chung cư mình đã thuê.
Lão cảnh giác nhìn khắp tứ phía, lo sợ những kẻ tham lam mắt sáng như sói đói sẽ nhào tới cướp lấy món “Quà mừng Năm Mới” của lão.
Khoảng thời gian còn sống ở nông thôn, lão đã từng nhìn thấy sói, nhưng ngạc nhiên thay, lão lại được trải nghiệm cảm giác tương tự khi đang ở Backlund.
Đúng là quá đắt đỏ. Mình chỉ có thể mua chung với người khác rồi cắt thành mấy miếng… Thế này là đủ ăn cho kỳ nghỉ năm mới rồi. Mỗi bữa mình sẽ ăn hai lát, ba lát, không—ít nhất cũng phải năm lát thịt. Mình cũng có thể cắt một chút ra để hầm với khoai tây. Thậm chí còn không cần thêm muối… Nghĩ vậy, lão Kohler nhìn miếng thịt nguội ôm trong lòng. Thấy miếng thịt đỏ lẫn với một chút điểm trắng, cổ họng lão vô thức chuyển động một chút, nuốt nước bọt ừng ực.
Vừa bước đi, lão bỗng cảm thấy lớp sương mù xung quanh mình trở nên dày hẳn lên. Tháp chuông của giáo đường ở nơi xa xa vẫn khá rõ ràng đang dần dần bị hỗn hợp màu sắt đen và vàng nhạt nuốt chửng. Kể cả người đi đường xung quanh lão cũng dần trở thành những cái bóng mơ hồ khi cách lão quá mười bước chân.
Lão Kohler chợt cảm thấy bản thân như bị cả thế giới lãng quên, lão đưa bàn tay lên bịt mặt.
“Sao sương mù hôm nay lại khó ngửi thế này?” Lão lẩm bẩm, nhanh chân bước đi.
Một bước, hai bước, ba bước, lão Kohler dần cảm thấy mặt mình nóng lên, trán mình như đang bị đốt.
Lồng ngực lão thắt lại, cổ họng khó chịu, chẳng mấy chốc lão đã bắt đầu có triệu chứng khó thở.
Mình đổ bệnh à? Chết tiệt, mình vẫn còn muốn một năm mới tốt đẹp, và giờ mình lại phải dùng tiền tiết kiệm cho phí khám bệnh và bệnh viện… Không, có lẽ chỉ cần ngủ một giấc, mình sẽ khỏe lại. Chỉ cần ngủ trong chăn mền của mình một giấc, mình sẽ khỏe lại thôi! Lão Kohler thầm nhủ với bản thân khi đầu càng lúc càng nóng, tâm trí càng lúc càng mơ hồ.
Hộc, hộc, hộc. Lão nghe thấy tiếng thở khò khè của chính mình, hai tay mềm nhũn, cái túi giấy đựng thịt nguội rơi bịch xuống đất.
Lão Kohler vô thức cúi người nhặt nó lên, nhưng lại ngã sấp xuống.
Lão đè lên cái túi, cố gắng ôm trọn nó vào lồng ngực.
Giờ này, khắc này, lão cảm tưởng có một cục đờm dâng lên chặn giữa cổ họng mình, nên lão cố gắng chống lại, phát ra tiếng thở phì phò như tiếng kéo ống bễ.
Bịch! Tầm mắt mơ hồ của lão Kohler bắt đầu nhìn thấy cách mình vài bước, cũng có người ngã ụp xuống, cố hít thở. Người đó cũng tầm tuổi lão, khoảng năm mươi, tóc mai hoa râm.
Đột nhiên, lão hiểu ra, lão biết mình sắp chết rồi.
Nó nhắc lão nhớ lại người vợ và đám con quá cố, cũng như lão, họ bất ngờ bị nhiễm bệnh dịch, nhanh chóng qua đời.
Nó nhắc lão nhớ lại thời gian lão nằm trong bệnh viện. Tối đó bệnh nhân cùng phòng vẫn còn trò chuyện cười đùa vui vẻ, nhưng ngay sáng hôm sau đã bị chuyển tới nhà xác.
Nó nhắc lão nhớ lại những người bạn khi lão còn là kẻ vô gia cư. Cứ mỗi một mùa đông trôi qua, họ lại biến mất rất nhiều, mãi cho tới khi được tìm thấy trong trạng thái bị đông cứng dưới gầm cầu hoặc trong một góc phố kín gió nào đó. Một số nhỏ lại chết vì tự dưng có đồ ăn.
Nó nhắc lão nhớ lại khoảng thời gian mình từng là một công nhân đàng hoàng. Những người hàng xóm quanh quảng trường cũng chết đột ngột như thế. Người chết vì đau đầu, người chết vì tai nạn rơi vào lò thép nóng, người chết vì xương cốt khắp cơ thể đau nhức, sưng vù. Thậm chí một số còn lặng lẽ ngã quỵ ngay trong công xưởng, từng nhóm từng nhóm một.
Nó nhắc lão nhớ lại những gì lão đã nghe được từ một con ma men trong quán rượu khi đang tìm hiểu tin tức. Gã nói:
“Những kẻ như chúng ta giống cành cây khô trên mặt đất. Khi gió nổi lên, sẽ ngã xuống. Thậm chí không có gió, cũng có thể tự ngã xuống…”
Gió tới rồi… Lão Kohler chợt nghĩ.
Lão vừa ôm chặt túi thịt, vừa thò tay vào túi áo jacket cũ kỹ, muốn lục tìm điếu thuốc lá dúm dó mà mình đã luôn không nỡ hút.
Điều khiến lão không hiểu là, tại sao cơ thể khỏe mạnh của mình lại đột ngột đổ bệnh. Có phải lão chưa từng trải qua màn sương mù dày đặc thế này đâu.
Điều khiến lão không hiểu là, tại sao cuộc sống của mình vừa bắt đầu đi vào quỹ đạo, phát triển theo hướng tốt đẹp đủ đầy, đồng thời nhận được khoản thanh toán ứng trước của thám tử Moriarty, mua được một phần thịt nguội đã chờ từ lâu để chào đón năm mới, đang mong đợi nếm thử mùi vị thơm ngon của nó, thì lại đột ngột ngã xuống.
Lão Kohler móc điếu thuốc lá dúm dó ra, nhưng cánh tay lão không còn đủ sức để nâng lên, nặng nề buông thõng dưới đất.
Lão dùng toàn bộ sức lực còn lại, muốn gào lớn những lời nói đã luôn giữ trong lòng, nhưng từ ngữ yếu ớt chỉ đọng lại trên miệng chứ không thể nào truyền ra.
Lão nghe thấy di ngôn của chính mình.
Lão nghe thấy câu hỏi của chính mình:
“Tại sao?”
…
Bên trong một chung cư ở rìa quận Đông.
Liv phơi chồng quần áo cuối cùng vừa giặt xong, chờ hong khô.
Cô nhìn lên bầu trời bên ngoài, phần nào không chắc chắn lắm về thời gian vì lớp sương mù trở nên dày đặc không biết tự bao giờ.
“Dù sao thì vẫn còn sớm, mà chúng ta đã hoàn thành việc giặt là rồi…” Biểu cảm của Liv dần trở nên nặng nề.
Làm xong việc quá sớm cũng không phải chuyện tốt. Điều này không có nghĩa là họ có thể nghỉ ngơi, nó chỉ cho thấy họ không nhận được đủ việc, không có đủ thu nhập.
Liv thở dài, quay người lại tìm cô con gái lớn, Freja - người vừa lau sạch tay, dán mắt vào cuốn vở ghi từ vựng trong căn phòng đối diện.
“Sắp năm mới rồi, phần lớn khách hàng của chúng ta đã rời Backlund đến nơi khác nghỉ phép. Chúng ta không thể cứ tiếp tục thế này, phải tìm công việc mới.”
Vừa nói, cô vừa bước ra cửa:
“Khoảng thời gian này, người có tiền sẽ tổ chức từng buổi yến tiệc một. Chắc chắn họ sẽ không có đủ người hầu, phải thuê thêm người dọn bếp tạm thời. Mẹ định đi hỏi thăm một chút. Freja, con ở nhà, đến đúng giờ thì đi đón Daisy. Chúng ta cần có thêm thu nhập, mà những kẻ trộm, tên cướp, tay buôn người của gái điếm cũng cần để chào đón năm mới.”
Ở quận Đông, người phụ nữ nào không làm trong công xưởng nhà máy thì đều phải có kỹ năng hoặc sự chua ngoa đủ để sống sót.
Freja nhẹ nhàng đáp:
“Vâng ạ.”
Tâm trí của cô gái đã hoàn toàn trôi đến bàn học kê sát tường và vở ghi từ vựng đặt trên đó.
Liv vừa mở cửa ra, bỗng hơi lảo đảo, ngã nhào xuống đất.
Khụ! Khụ! Khụ! Cô bắt đầu ho khan dữ dội, khuôn mặt đỏ bừng lên, từng khớp nối trên cơ thể đều đau buốt khó chịu.
Freja hoảng loạn chạy tới, ngồi xổm xuống:
“Mẹ, mẹ sao thế? Mẹ, mẹ sao thế?”
“Không sao. Khụ khụ, mẹ không bị gì đâu.” Liv bắt đầu khó thở.
“Không, mẹ ốm rồi—ốm rồi! Con đưa mẹ đến bệnh viện ngay đây!” Freja cố đỡ mẹ mình dậy.
“Đắt lắm, đắt…lắm. Khụ! Đến bệnh viện từ thiện thôi. Viện từ thiện, mẹ đợi được. Không—không phải vấn đề gì lớn đâu.” Liv thở hổn hển trả lời.
Freja bật khóc, tầm mắt nhanh chóng mờ nhòe.
Nhưng đúng lúc ấy, cô gái nhỏ lại cảm thấy phổi nóng như lửa, cả cơ thể mềm nhũn, ngã bịch xuống đất với mẹ.
“Freja, con sao vậy? Khụ! Con cũng bị ốm à?” Liv lo lắng kêu lên, “Có tiền, khụ—trong tủ, khụ—trong cái lỗ trên tường. Con phải đi nhanh đi. Đến bệnh viện! Tìm một bác sĩ—bác sĩ tốt!”
Freja muốn nói gì đó, nhưng môi lại không thể phát ra tiếng. Đôi mắt cô bé hướng lên, nhìn vào cánh cửa của căn phòng ngay sát bên.
Đó là phòng ngủ của họ, chiếc giường tầng yêu thích của họ. Bên trên chiếc bàn nhỏ mà cô yêu thích là cuốn vở ghi từ vựng của cô.
Cơ thể cô bé đột nhiên co quắp.
Cơn ho khan của Liv trở nên im bặt.
Bên trong trường tiểu học công lập ở rìa quận Đông, sương mù vẫn chưa dày đặc, nhưng rất nhiều học sinh đã bắt đầu ho khù khụ.
Thầy giáo trực ban vốn đã được huấn luyện lập tức sắp xếp:
“Nhanh lên, đến giáo đường. Chúng ta phải đến giáo đường bên cạnh!”
Daisy hoảng sợ rối loạn đứng lên, cùng đám đông chạy vào trong giáo đường ngay sát bên trường học.
Chợt, một nỗi sợ hãi dâng lên trong lòng cô bé, là cảm giác khủng hoảng mất đi thứ quan trọng.
…Mẹ…Freja… Daisy bỗng quay đầu, muốn đi ngược qua biển người, chạy về nhà.
Song, cô bé bị ngăn lại. Các thầy giáo giữ chặt, ép buộc lôi kéo cô bé vào giáo đường.
Daisy giãy giụa bằng hết sức bình sinh, gào thét đến sắp nát tim nổ phổi:
“Mẹ! Freja!
Mẹ! Freja!”
…
Ở quận Đông, khu nhà máy, khu bến tàu, người già hoặc người có bệnh ẩn giống như cây cối bị đốn chặt trong lớp sương mù, còn những người tiếp xúc với họ thì lập tức bị lây nhiễm bệnh dịch. Họ nhanh chóng chết đi. Kể cả những người trưởng thành có vẻ khỏe mạnh và trẻ nhỏ cũng cảm thấy hơi khó chịu.
Trong mắt họ, lớp sương vàng nhạt hoà lẫn với màu sắt đen tựa như Tử Thần hàng lâm.
Vào thứ ba của tuần lễ cuối cùng thuộc năm 1349, Backlund chìm ngập trong sương khói khổng lồ.
…
Trong góc đại sảnh, Klein dán chặt vào vách đá để không bị ngài A phát hiện.
Chẳng bao lâu sau, hắn đã nghe thấy tiếng rên rỉ, ngửi thấy mùi máu thịt rữa nát.
“Hãy hiến dâng sinh mệnh của ngươi cho sự hàng lâm của Chúa.” Giọng ngài A đột nhiên vang lên.
Bịch, bịch. Tiếng người ngã xuống lọt vào tai Klein, sự dao động linh tính mãnh liệt xuất hiện, không ngừng vang vọng.
Ngài A đã hiến tế bốn người hầu của y rồi sao? Suy nghĩ đó vừa hiện lên trong tâm trí Klein thì từng tiếng kêu khóc hư ảo trùng điệp vang lên. Có người đang gọi mẹ, có người ho khan kịch liệt, có người rên rỉ trong đau đớn.
Được tính là bán chuyên gia thần bí học, Klein tựa như nhìn thấy hết bóng người này đến bóng người kia mang theo oán niệm và phẫn uất tiến vào nghi thức. Theo sau đó là những cảm xúc như tê liệt, tuyệt vọng, đau đớn, phẫn hận, suy sụp đã tích tụ suốt bao năm tháng ở khu nhà máy, khu bến tàu và quận Đông, vọt tới như thủy triều.
Chính thức bắt đầu rồi sao? Klein nhắm nghiền mắt, tựa lưng lên vách tường. Tay phải hắn cứ nắm chặt vào rồi lại buông lỏng ra.
Đối với hắn, điều tốt nhất có thể làm vào lúc này, chính là thừa dịp ngài A đang chú tâm vào nghi thức thì chuồn ra ngoài đại sảnh, chạy trốn thật xa.
Bàn tay phải của hắn cứ nắm lại thả, thả lại nắm, liên tục như thế bao nhiêu lần.
Bảy, tám giây sau, Klein mở bừng mắt, khóe miệng hắn nhếch lên đầy phô trương.
Hắn đưa tay nắm lấy khẩu súng ngắn, chợt xoay người lại, xông thẳng ra ngoài.
Mặc lễ phục đen dài có hai hàng cúc, hắn giơ tay phải lên, nhắm ngay giữa tế đàn.