Q3 - Chương 8: Lời khuyên của một cựu thủy thủ
Đại sảnh Công ty Vé Cảng Pritz khá rộng rãi với đủ bảy cửa bán vé, nhưng hiện tại đã có khoảng hơn chục người xếp hàng trước mỗi ô cửa.
Sau khi nhìn liếc qua, Klein không đi thẳng đến hàng có ít người xếp nhất, mà bước sang bên phải hai bước rồi tiến đến một tấm ván gỗ màu nâu dựng đứng trước mặt.
Có nhiều mảnh giấy trắng được dán trên ván gỗ ghi thông tin về tất cả các chuyến tàu chở khách trong tuần lễ gần nhất, bao gồm các điểm đến, các cảng giữa lộ trình và giá cả của từng khoang khác nhau.
Trước khi Klein có thể xem xét kỹ hơn, một nhân viên bước đến rồi khoanh một vòng tròn màu đỏ ngay vị trí dành cho nhóm khoang hạng hai, đánh dấu nó bằng một cụm từ:
[Đã hết vé.]
“Bán chạy thế…” Klein thở dài.
“Đương nhiên, Cảng Pritz là bến cảng lớn nhất của Vương quốc. Vô số người thông qua nơi này để đi đến lục địa Nam và các hòn đảo thuộc địa nhằm tìm kiếm một cơ hội nào đó.” Một người đàn ông trung niên đang đứng cạnh tấm ván gỗ trả lời với vẻ khoe khoang.
Ông ta đội một chiếc mũ ca-pô đen, mặc đồng phục sọc đen trắng tương tự như của cảnh sát nhưng không đeo quân hàm, chỉ có là một huy hiệu hình hải âu treo trên ngực—giống hệt với logo của Công ty Vé Cảng Pritz.
Khuôn mặt, bàn tay và những phần da lộ ra của người đàn ông trung niên này đều có màu đồng và khá thô ráp, giống như đã tiếp xúc với gió biển và mặt trời lâu năm, tới mức khiến cho người khác cảm thấy trên nếp nhăn của ông ta cũng chứa hạt muối vậy.
Nếu có tranh chấp, hãy tìm bảo vệ ở đại sảnh… Đây hẳn là bảo vệ rồi… Nhớ lại những mục cần chú ý trước cửa ra vào, Klein cũng không bận tâm đến chuyện đối phương vừa trả lời mình, chỉ cười nói:
“Có vẻ ông hiểu rất rõ về bến cảng này nhỉ?”
Nghe câu hỏi của hắn, người đàn ông trung niên đáp bằng một thái độ khá tự mãn:
“Tôi từng là thủy thủ của Hải quân Vương quốc, căn cứ chính của họ ở ngay Cảng Pritz thuộc đảo Cây Sồi. Tôi đã phục vụ trong 15 năm và lênh đênh trên biển cùng họ suốt một thời gian dài đằng đẵng. Nếu sức khỏe không bị chiến tranh Đông Balam tàn phá, tôi đã có thể làm thủy thủ thêm 10 năm nữa rồi! Tôi rành bến cảng này như rành rõ cơ thể của vợ mình vậy!”
Vừa văn hóa lại vừa thô tục… Vốn muốn tìm hiểu thêm tin tức trên biển, Klein tùy ý trò chuyện:
“Sau khi xuất ngũ, ông làm bảo vệ ở đây luôn à?”
“Không, tôi bị đẩy vào một trường học ban đêm trong suốt hai năm liền, vừa làm học sinh, vừa làm người gác cổng. Bão Táp trên cao! Cậu có thể tưởng tượng ra cảnh một người ở độ tuổi tôi lại ngồi tập đọc với một đám thiếu niên không? Không những thế, chúng nó còn hiểu bài và thuộc từ vựng nhanh hơn cả tôi!” Người bảo vệ tỏ vẻ ngán ngẩm khi nhớ lại.
Vừa nói, ông ta vừa vỗ đùi thở dài:
“Tiếc thay, đầu gối của tôi không thể chịu được thời tiết rét ẩm. Bằng không, tôi đã có thể trở thành một giáo viên bán thời gian vào ban đêm. Những đứa trẻ đó sẽ khiến cậu cảm thấy mình vẫn còn trẻ trung, nhưng tôi cũng không thể phủ nhận là muốn kiếm thêm nhiều tiền. Khi có một người vợ và bốn đứa con, chắc chắn cậu sẽ tự hiểu mình phải là trụ cột của cả gia đình.”
Thưa ngài, ngài nói hơi nhiều rồi đấy… Có lẽ đó là lý do Công ty Vé này thuê ngài làm bảo vệ… Klein chỉ mỉm cười, không tiếp tục bàn về chủ đề này nữa, cười nói:
“Tôi vừa đọc những điều cần chú ý ngoài cửa, có mục ghi rằng: Không được mở cá Sói đóng hộp tại đây. Thành thật mà nói, tôi chưa bao giờ nghe về thứ này.”
Vẻ mặt của người bảo vệ đột nhiên trở nên phức tạp hẳn.
Ông ta tự bóp mũi mình rồi nói:
“Đó là một loại thực phẩm phổ biến ở khu vực bờ biển phía đông Feysac và Quần đảo Gargas. Chúng là cá Sói ướp muối, nhưng vẫn giữ lại máu và mùi—mùi vô cùng, cực kỳ, hết sức kích thích, vừa thối vừa tởm lợm!”
Hóa ra là một loại món ăn hắc ám… Klein cười nói:
“Nhưng tôi nghĩ chắc không có ai cố ý ăn đồ hộp khi xếp hàng chờ mua vé đâu nhỉ?”
“Không, cậu không hiểu rõ cảm giác ấy đâu, có lẽ sau này cậu sẽ được trải nghiệm.” Người bảo vệ hoảng sợ thấy rõ khi nhắc đến điều này, “Có lần, một gã man di từ phương Bắc đến đây mua vé. Nhưng phía trước rất đông người xếp hàng, đại sảnh chật kín như thùng gỗ chứa cá vậy, mà gã lại đang gấp, thế là gã khui một hộp Cá Sói ra. Trong vòng chưa đầy 10 giây, cả đại sảnh chỉ còn lại gã và vài người nữa.”
Đ-đây chính là vũ khí sinh học rồi còn gì… Phiên bản bình thường của Bình Độc Tố Sinh Học… Klein bật cười:
“Cuối cùng thì người đó cũng mua vé thành công, còn nơi này thì phải bổ sung thêm một mục cần chú ý, phải không?”
“Kết quả không hề như gã dự tính, ngay cả quý cô và quý ngài phụ trách bán vé cũng bỏ chạy luôn. Ha ha, cậu biết đấy, đầu óc của bọn man rợ thậm chí còn tệ hơn của những con khỉ đầu chó lông xoăn!” Người bảo vệ tặc lưỡi cười, “Khi tôi còn là một thủy thủ, trên biển từng có một tin đồn, một nhóm hải tặc đã khống chế một chiếc thuyền buôn đến từ Rolls. À, đấy là một thành phố ở bờ biển phía đông Feysac. Tóm lại, bọn hải tặc ấy háo hức mở chiến lợi phẩm của mình ra, nhưng nào có biết tất cả đều là các thùng chứa đầy cá Sói. Kết quả là, cậu đoán xem, kết quả thế nào? Bọn chúng choáng váng, nôn mửa và mất sạch sức chiến đấu, trở thành tiền thưởng cho các thuyền viên.”
“Câu chuyện hay đấy.” Klein cố gắng nín cười.
Hắn quay lại nhìn những mảnh giấy trên ván gỗ, tìm xem có chuyến tàu nào dự kiến khởi hành vào ngày 5 tháng 1 hay không.
Vốn là một người chuyên nghiệp, trước đó hắn đã tự bói xem ngày nào là thời điểm thích hợp để ra khơi vào tuần này. Kết quả cho ra là ngày 5 và 8. Mà trong số những con tàu chở khách đến Quần đảo Rorsted vào ngày 5, hai chiếc Saint Havre và Bạch Mã Não là phù hợp với hắn nhất.
Cả hai chuyến vẫn còn vé, giá cũng tương đương nhau. Khoang hạng ba 4 bảng, khoang hạng hai 10 bảng, khoang hạng nhất 35 bảng… Những người sống dựa vào biển cả ít nhiều đều tín ngưỡng Chúa Tể Bão Táp. Ngay cả ở những quốc gia như Intis và Feysac, vẫn có những ngư dân và các đoàn thủy thủ âm thầm chọn vị thần bị cấm này là tín ngưỡng, cầu nguyện sự an toàn khi ra khơi… Cái tên Saint Havre bắt nguồn từ Thánh Giả của Giáo hội Bão Táp, hẳn là có bối cảnh nhất định… Klein suy nghĩ kỹ, nghiêng về việc chọn tàu Bạch Mã Não hơn.
Không vội quyết định, hắn quay lại nhìn người bảo vệ:
“Ông có biết gì về tàu Bạch Mã Não không?”
Người bảo vệ lập tức nở nụ cười:
“Thưa ngài, ngài thật có mắt nhìn. Bạch Mã Não là tàu hơi nước, nhưng vẫn giữ cánh buồm. Tốc độ tối đa của nó là 16 hải lý/giờ.
Ngoài ra, vị thuyền trưởng rất giàu kinh nghiệm. Ông ta từng là thủy thủ trưởng của tàu William V thuộc Hải quân Vương gia, không, phải là Hải quân Hoàng gia mới đúng. Quốc vương đã luôn tuyên bố bản thân xưng là Hoàng đế Balam. À, trong Hải quân Hoàng gia, bất kể một người bình thường có giỏi giang hay xuất sắc đến đâu, kẻ đó cao lắm chỉ có thể trở thành một thuyền trưởng thôi, chứ không thể thăng lên làm sĩ quan được. Trừ phi, trừ phi cậu có thể khiến cấp trên hài lòng về mình bằng đủ mọi phương thức, bất chấp phương thức đó thế nào! Chỉ khi ấy, cậu mới có thể được tiến cử vào Học viện Hải quân Pritz với tư cách là sĩ quan dự bị!
Đây là nguyên nhân khiến Elland buộc phải rời khỏi lực lượng Hải quân, gia nhập tàu Bạch Mã Não, từng bước một trở thành thuyền trưởng.
Tôi đề nghị cậu nên chọn khoang hạng nhất. Với mức giá này, phòng cậu sẽ có ba đến bốn đầy tớ, một người hầu đã được tiếp nhận khóa học lễ nghi, một đầu bếp được chỉ định với tay nghề cao, một phòng ăn yên tĩnh có thể thưởng thức phong cảnh, một căn phòng chuyên biệt để hút xì gà và khu vực đánh bài tập thể…”
Nghe người bảo vệ giải thích cặn kẽ, Klein không khỏi cảm thấy nghi ngờ.
Thấy vẻ mặt của hắn, người bảo vệ ngại ngùng mỉm cười:
“Elland là sếp cũ của tôi. Ông ta thường khao tôi uống rượu và yêu cầu tôi giúp ông ta chào hàng các khoang hạng nhất. Nhưng cậu có thể yên tâm, mọi điều tôi nói đều là sự thật!”
Vấn đề không phải thật hay không, mà vấn đề là tiền cơ… Klein thầm nhủ.
Sau một hồi cân nhắc, hắn hỏi:
“Thưa ngài, ngài có lời khuyên nào dành cho một nhà thám hiểm trên biển không?”
Để phù hợp với danh tính của Gehrman Sparrow, Klein đã sửa đổi lại hình tượng một chút, biến mình trông có vẻ lạnh lùng và sắc bén hơn.
“Nhà thám hiểm?” Người bảo vệ vô thức cao giọng.
Trong những người đang xếp hàng mua vé, có kha khá quay đầu lại, nhìn về phía Klein.
Dựa vào trực giác linh tính, Klein liếc qua một trong những ánh mắt nọ theo bản năng.
Hắn trông thấy một người đàn ông khoảng ba mươi tuổi, đầu đội mũ chóp cao nửa màu đen. Đối phương có khuôn mặt thô kệch và những nếp nhăn do sự gian nan vất vả khắc lên, vóc người vạm vỡ nhưng không quá cao, cùng với một đôi mắt màu lam nhạt ánh lên vẻ từng trải.
Một nhà thám hiểm khác à? Ngay khi ánh nhìn của Klein và của người đàn ông vừa chạm nhau, cả hai lập tức dời tầm mắt đi.
Lúc này, người bảo vệ cố nặn ra một nụ cười:
“Tôi xin lỗi, tôi khá nhạy cảm với cái thuật ngữ nhà thám hiểm này. Trong ấn tượng của tôi, danh hiệu này tương đương với một gã liều mạng, một tên tàn ác trên biển và ruồng bỏ lời tuyên thệ của bản thân. Không, không phải là tôi đang nói cậu đâu.
Cậu muốn một lời khuyên chân thành à? Tôi… Ừm, cậu phải nhớ kỹ ba điều.
Thứ nhất, không nên chọc vào bọn hải tặc. Thứ hai, không nên chọc vào bọn hải tặc. Thứ ba, vẫn là không nên chọc vào bọn hải tặc.
Trừ phi cậu là thành viên của Hải quân hoặc các Giáo hội, không thì đừng bao giờ đối địch với bọn hải tặc!
Ờ… Cũng đừng để bản thân bị sự nhiệt tình của những cô gái trên các hòn đảo dụ dỗ nhé. Họ có thể là hải tặc, hoặc muốn cậu đưa họ đến Pritz, đến Backlund. Đó không hoàn toàn là lỗi của họ. Vì mục đích lừa tình nhằm chiếm lấy thân thể của những cô gái đó, có rất nhiều thủy thủ, thuyền viên và các hành khách đã vẽ ra một khung cảnh đô thị rất hấp dẫn và một cuộc sống tươi đẹp trước mặt bọn họ, để rồi đá họ xuống giường sau khi mây mưa xong, vứt bỏ họ ở lại vị trí ban đầu ấy.”
Thật là một lũ hèn hạ… Trong thời đại này, những người kiếm ăn trên biển cũng không thể quá tử tế… Trật tự trên biển kém đến thế cơ à? Hải tặc lại ngang ngược tới vậy sao? Klein gật đầu:
“Cảm ơn, tôi biết phải làm gì rồi.”
Nói xong, hắn bước đến hàng chờ có ít người nhất.
Phía sau hắn, người bảo vệ kêu lên:
“Với cả, những truyền thuyết về kho báu trên biển đều là giả hết đấy!”
…
Sau khi mua một tấm vé khoang hạng hai của tàu Bạch Mã Não, Klein quay về nhà trọ, kiên nhẫn chờ màn đêm buông xuống.
Trong quá trình này, hắn thưởng thức món cá chiên xù nổi tiếng nhất ở Cảng Pritz. Klein nhận định rằng hương vị này khá ngon, nhưng chắc chắn không thể nhai nổi nếu phải liên tục ăn nó trong một thời gian dài.
Khi gần đến tám giờ, hắn tiến lên phía trên màn sương xám, cầm huy hiệu của Lanevus bằng một tay, tay còn lại viết câu bói tương ứng:
[Tình hình của lần tụ hội này.]
Tích tắc. Tích tắc. Chờ đến khi chiếc đồng hồ bỏ túi điểm ngay vị trí tám giờ, hắn nhắm mắt lại, tựa người vào thành ghế rồi bắt đầu niệm đi niệm lại câu bói.
Hắn có lý do để tin rằng, một khi cánh cửa tụ hội “mở ra”, nhờ vào mảnh không gian thần bí phía trên sương xám và dùng chiếc huy hiệu có thể tự định vị làm trung gian, hắn sẽ bói ra một thứ gì đó!
Trước kia hắn thất bại là vì vẫn chưa có gì xảy ra. Nhưng lần này thì khác, mọi chuyện đang diễn ra, mà Klein lại có đủ vật trung gian!
Chẳng mấy chốc, Klein bước vào một thế giới cảnh mơ tối tăm và mờ mịt.
Hắn nhìn thấy sông Tussock lặng lẽ chảy, hai bên là thung lũng rộng lớn và khoảng mười mấy người đứng ở nhiều vị trí khác nhau. Một màn sáng mỏng manh bao phủ lấy họ, hoặc mơ hồ, hoặc dần biến mất trong hư ảo.
Trong đó, có một người trông khá điển trai với mái tóc đen và đôi mắt xanh lục, nghiễm nhiên chính là người quen của Klein.
Leonard Mitchell!