Q7 - Chương 22: Bông hoa Utah (1)
Ngày 4 tháng 5 năm 1847, miền Trung Bắc Mỹ.
Ở đó có một hoang mạc bị nền văn minh vứt bỏ, kéo dài từ vùng núi non Nevada đến Nebraska, từ sông Yellowstone ở phía Bắc đến bang Colorado ở phía Nam. Suốt các ngày trong năm, bạn có thể nhìn thấy vô số xương khô nằm ở hai bên đường và những con kền kền lượn vòng trên bầu trời.
Hôm nay, một lữ khách đơn độc đi trên vùng đất thê lương không một ngọn cỏ này. Hắn có một khuôn mặt tiều tụy, gầy gò. Làn da nâu rám nắng như da dê bao bọc lấy bộ xương còm.
Hắn ta đã nhịn đói mấy ngày đêm, lặn lội đi qua một hang núi và khổ sở lắm mới đến được vùng cao nguyên không lớn phía trước. Giờ đây, sâu trong đôi mắt của hắn không còn chút ánh sáng. Hy vọng tìm được nguồn nước cũng tan biến.
Ném súng trường xuống đất, hắn đặt cái túi lớn màu xám trên lưng xuống rồi ngồi dựa vào một tảng đá. Một cô bé thò đầu ra từ trong cái túi. Cô bé chừng năm tuổi, có một đôi mắt nâu sáng sủa, trên người mặc một bộ áo váy màu hồng, che miệng bằng vải bố. Từ trang phục có thể thấy được cô bé được mẹ bảo bọc từng ly từng tý.
Tiếc rằng mẹ của cô đã biến thành xương khô trong hoang mạc này.
Cô bé hỏi:
“Mẹ đang ở đâu vậy?”
Hắn đáp:
“Ta nghĩ ngươi sẽ sớm gặp được nàng. Nếu khát quá thì cố nhịn một chút thì sẽ ổn.”
Hắn chỉ có thể trả lời như vậy. Chính bản thân hắn cũng cho rằng mình sắp rời khỏi cõi đời.
Cô bé nhặt lên hai viên đá rồi đưa cho hắn xem:
“Đẹp quá đi! Tốt quá! Về nhà ta sẽ tặng chúng cho em trai!”
Cái gã người lớn kia trả lời một cách chắc chắn:
“Một lát nữa còn có những thứ hấp dẫn hơn nó nhiều, chỉ cần chờ thêm một chút thôi.”
Hắn tên là John Ferrier, một nhà thám hiểm. Mấy ngày trước, hắn còn đang ở giữa một đoàn ngựa thồ, có thể uống nước sạch và đầy đủ phần ăn hằng ngày. Vậy mà mọi người đều đã chết hết, chỉ còn lại hắn và Lucy.
Thật ra, hắn và cô bé không có quan hệ gì cả. Hắn hoàn toàn có thể vứt bỏ hoặc thậm chí là ăn thịt cô bé. Song, hắn không làm thế. Hắn tin rằng trên đời còn có thiên đường.
Mấy con kền kền đậu xuống trước mắt bọn họ. Trông chúng cứ như đang chờ hưởng thụ một bữa tiệc lớn vậy.
John nói:
“Chúng ta cầu nguyện đi.”
Cô bé trả lời:
“Còn chưa tới buổi tối mà.”
“Không sao, việc này không quy định phải thực hiện vào lúc nào. Hãy yên tâm, thượng đế sẽ không trách tội chúng ta đâu.”
Bọn họ bắt đầu cầu nguyện. Song, vì quá mệt mỏi nên cả hai nhanh chóng dựa vào tảng đá và ngủ thiếp đi mất.
Nếu John ngủ trễ nửa tiếng đồng hồ thì sẽ nhìn thấy một cảnh tượng kỳ lạ. Một mảng bụi mù mịt cuồn cuộn nổi lên từ đằng xa, lúc đầu còn không phân biệt được đây là bụi bặm hay sương mù. Dần dần, lớp bụi lên cao và rộng đến mức tạo thành một đám mây dày đặc.
Giữa đám bụi bặm khổng lồ đó, một đoàn xe khổng lồ đang đi chuyển về hướng Tây. Từng chiếc xe đều được phủ bạt bên trên, trang bị đầy đủ vũ trang. Đoàn xe rất dài. Tuy đội đi trước đã tới chân núi nhưng đội đi sau vẫn còn tít ở chân trời đằng xa. Đây là một đội ngũ của những người di cư đang đi tìm một mảnh đất mới.
Vài người cưỡi ngựa dang thăm dò phía trước đoàn xe phát hiện ở bãi đá đằng xa có hai điểm đen rất nhỏ, bèn xin chỉ thị của người đứng đầu. Người kia nói:
“Đem ngựa lại đây, chúng ta sẽ đến tiếp ứng cho họ.”
Thế là vài người thanh niên cầm súng trường lên, đi đến bãi đất chỗ John Ferriers đang nằm.
Nửa giờ sau, hai vị khách sắp hấp hối được đưa vào chiếc lều vải lớn nhất giữa đoàn người. Họ thật may mắn khi gặp được một lãnh tụ vĩ đại: Brigham Young (1).
“Ta tên là John Ferrier, đội ngũ của bọn ta ban đầu có hai mươi mốt người, giờ chỉ còn lại ta và cô bé này. Những người còn lại không được ăn uống nên đều đã chết ở phía Nam.”
“Cô bé là con của ngươi ư?”
Hắn mạnh dạn thừa nhận:
“Ta nghĩ bây giờ nó là con của ta. Ta đã cứu nó và không ai được phép cướp nó đi nữa. Từ hôm nay, tên của nó là Lucy Ferrier.”
Người thủ lĩnh nói một cách nghiêm túc:
“Chỉ có thờ phụng tôn giáo của bọn ta thì ngươi mới được phép đi theo. Ta không bao giờ cho phép sói lạc vào bầy cừu. So với việc để hai chỗ hư thối nho nhỏ dần dần hủy hoại toàn bộ trái cây, ta thấy tốt hơn hết là để hai người phơi thây nơi hoang dã. Ngươi có đồng ý điều kiện này hay không?”
“Ta đồng ý đi theo các ngươi. Điều kiện gì cũng chấp nhận.”
Ferrier nói.
Một vài trưởng lão đứng xung quanh bị nhà thám hiểm này chọc cười. Chỉ có Brigham Young vẫn giữ được vẻ nghiêm túc và chăm chú của mình.
Hắn nói:
“Anh em Stangerson hãy thu nhận và cho bọn họ ăn uống đi. Ngươi cũng phụ trách việc truyền thụ giáo lý luôn. Chúng ta đã dừng lại quá lâu. Đứng dậy nào, hướng về Sion! (2)”
“Đi thôi, hướng về Sion!”
Các giáo đồ đồng thanh kêu thật to. Mệnh lệnh được truyền đi trong đoàn người như một con sóng lan về phía xa. Tiếng roi ngựa, tiếng động cơ xe vang lên. Cả đoàn người ngựa bắt đầu di chuyển uốn lượn về phía trước.
Trưởng lão Stangerson đưa hai người xui rủi vào trong xe của mình, trong đó có sẵn đồ ăn. Hắn nói:
“Giờ các người ở đây và sức lực sẽ khôi phục nhanh thôi. Từ nay về sau, các ngươi phải nhớ rằng mình là giáo đồ của bọn ta. Những lời chỉ thị vừa rồi là của Brigham Young. Lời của ngài ấy dựa theo tiếng nói của Joseph Smith (3) để nhắn nhủ ý chỉ của thượng đế.”
...
Rất nhiều năm sau, khi nhìn lại những việc mà đoàn người di cư trên đã trải qua, chúng ta có thể viết thành cả một quyển sách. Bọn họ đã sinh sống ở hai bờ sông Mississippi đến sườn Tây của dãy Rocky, lấy tinh thần ngoan cường bất khuất của mình chiến đấu với dã thú, đói khát, mệt nhọc, bệnh tật cũng như mọi khó khăn mà ông trời đem đến.
Cuối cùng, bọn họ dừng chân tại vùng đồi núi Utah. Dưới ánh mặt trời rực rỡ, họ nghe lãnh tụ của mình tuyên bố vùng đất hoang này là cõi yên vui mà thần linh ban cho và về sau mãi mãi thuộc về họ. Ai cũng quỳ xuống, cúi đầu, bái lạy một cách thành kính.
Những người di cư sống ổn định tại đây. Họ đào kênh rạch, xây hàng rào, tích cực khai khẩn, bồi đắp, tạo thành một cảnh tượng vui vẻ. Đến mùa hè năm thứ hai, toàn bộ miền quê hiện lên màu sắc óng ánh của hàng chục ngàn thửa lúa.
John Ferrier cũng có một mảnh đất thuộc về mình. Ở đó, hắn xây dựng một tòa nhà kiên cố bằng gỗ, mỗi năm xây thêm một ít, từ từ trở thành một biệt thự rộng lớn.
Nhà thám hiểm này là một người thực dụng. Hắn xử sự rất khôn khéo, đa tài và sở hữu thể trạng cường tráng. Hắn ta có thể làm từ sáng đến tối, siêng năng canh tác và cải thiện đất đai. Nhờ thế, điền trang của John rất thịnh vượng. Sau ba năm, hắn giàu hơn hàng xóm. Sau sáu năm, hắn trở nên giàu có. Sau chín năm, hắn giàu có nhất nhì một vùng. Mười hai năm sau, toàn bộ Salt Lake City (4) chỉ có năm, sáu người có thể sánh vai với John. Hắn đã trở thành một người nổi tiếng.
Tuy nhiên, Ferrier có một việc làm tổn thương đến cảm tình của những người đồng giáo. Đó là hắn chưa lập gia đình. Mặc cho nhiều người góp ý và khuyên bảo, hắn không bao giờ nói lý do từ chối mà chỉ kiên quyết giữ mình.
John Ferrier trải qua cuộc sống độc thân như vậy. Ngoài ra, hắn không ngừng đi theo tôn giáo mới và được công nhận là một người chuẩn mực hết lòng với đức tin.
Lucy Ferrier cũng trưởng thành trên mảnh đất này. Nàng là con gái nuôi duy nhất của John, luôn trợ giúp cha mình xử lý mọi chuyện. Không khí trong lành của vùng núi và hương hoa thoang thoảng của rừng xanh giống như một người mẹ hiền nuôi dưỡng cô bé. Năm tháng qua đi, Lucy trở thành một thiếu nữ duyên dáng, yêu kiều.
Nàng có một gò má xinh đẹp. Dáng đi nhẹ nhàng và uyển chuyển. Người nào đi ngang qua nhà Ferrier cũng không nhịn được mà dừng chân ngắm nhìn cô thiên sứ xinh đẹp. Những khi thân hình thon thả ấy cưỡi ngựa của cha dạo ngang qua cánh đồng lúa mạch một cách mạnh mẽ và thành thạo như một thiếu niên của miền Tây nước Mỹ, ngay cả những người Anh-điêng đi vận tải da thuộc với vẻ mặt không cảm xúc còn phải kinh ngạc đến mức thả lỏng khuôn mặt khô khan của mình. Nếu nói nàng là thiếu nữ mang vẻ đẹp tiêu biểu nhất của toàn bộ vùng núi ven bờ Thái Bình Dương thì chẳng có ai lời ra tiếng vào cả.
Người đầu tiên nhận ra sự trưởng thành của con gái thường không phải là cha của nàng. Sự thay đổi ấy rất ít khi được người cha phát giác. Nó vô cùng kỳ diệu, biến đổi từ từ, chậm rãi, không thể dùng thời gian để nhận xét. Người khó nhận ra điều này nhất chính là bản thân của thiếu nữ. Mãi đến khi nghe thấy giọng nói của một người hoặc chạm phải tay của người đó, nàng bỗng thấy tim đập như hươu chạy, trong lòng dâng lên một thứ cảm xúc đan xen giữa kiêu ngạo và sợ hãi. Lúc ấy, nàng mới hiểu được...
Cũng trong năm đó, Lucy gặp được một chàng trai trẻ tên là Jefferson Hope. Hắn là một nhà thám hiểm, là một người đào vàng và cũng là một thợ săn ưu tú. Hắn ta đã cứu Lucy khỏi một đàn bò bị mất khống chế. Tình yêu của hai người nảy sinh trong hoàn cảnh đó. Tuy nhiên, họ lại không đoán được kết cục...
(Lời nói của tác giả Ba Ngày Ngủ Hai:
Chương này tốn rất nhiều thời gian của tôi. Ban đầu tôi định để Miêu Gia tự thuật theo ý kiến chủ quan, nhưng đọc đi đọc lại thấy không ổn, dù gì đây cũng không phải là một câu chuyện khiến người ta cảm thấy vui vẻ. Cuối cùng, tôi bèn quyết định viết nó theo ngôi thứ ba. Tất nhiên, tôi sẽ không trích dẫn hoàn toàn nguyên văn của ngài Conan Doyle (vì rất dài và chiếm đến một phần ba tiểu thuyết Chiếc Nhẫn Tình Cờ). May sao tôi đã tóm gọn lại được trong hai chương. Có lẽ câu chuyện sẽ khiến bạn nảy sinh những suy nghĩ khác về tôn giáo như: bất mãn, thù ghét... Song, tôi tin rằng ý định của ngài Conan Doyle không phải là vậy. Nói cho cùng, tiểu thuyết chỉ là tiểu thuyết mà thôi.)
-----o Chú thích o-----
(1): Brigham Young là tên một nhà tiên tri, lãnh đạo lỗi lạc của cộng đồng người theo đạo Mormon, hay con gọi là Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu Kitô. Ông là chủ tịch thứ hai của giáo hội, sau Joseph Smith.
(2): Tên vùng đất Jerusalem, thánh địa của Cơ Đốc giáo, đây là đích đến của các giáo đồ Mormon. Tôn giáo Mormon này do Joseph Smith sáng lập vào những năm 20 của thế kỷ 19.
(3): Mgười sáng lập Mormon, được xưng là nhà tiên tri ở nhân gian của thượng đế.
(4): Thủ phủ của bang Utah.