Chương 4
Phượng Cửu ngủ li bì không biết trời biết đất, lúc tỉnh lại, nghe bên tai có tiếng gió rít ù ù, tưởng vẫn đang nằm mơ, lại bình thản nhắm mắt ngủ tiếp. Hai mắt vừa khép, bỗng giật mình, lập tức mở ra. Mão Nhật Tinh Quân điều khiển cỗ xe mặt trời, vung ánh ban mai vàng óng xuống khắp trần gian, tiến đến gần, nhìn thấy Đông Hoa, vội vàng xuống xe, cúi lạy.
Những ngọn núi ẩn trong mây chầm chậm trôi qua dưới chân, vài đỉnh xanh thẫm nhô lên lọt vào tầm mắt. Phượng Cửu ngơ ngẩn hồi lâu, dốc sức vận khí run run thử nhấc tay, nhìn lại mình, quả nhiên vẫn còn là chiếc khăn lụa. Dáo dác nhìn quanh, muốn biết vì sao tiếng gió lại nghe rõ đến thế, lát sau mới phát hiện thì ra mình bị buộc vào vỏ bao thanh kiếm Thương Hà, đeo ở thắt lưng Đông Hoa, cùng chàng lướt gió cưỡi mây.
Nàng hoang mang nhớ lại, đêm qua rõ ràng đã trốn ra ngoài, tại sao lại ở đây, chẳng lẽ sau đó lại bị bắt trở về? Nhưng sao không nhớ gì về chuyện đó. Có thể là nàng chưa hề trốn đi, Đông Hoa thay xiêm áo xong lại đặt nàng vào trong ống tay rồi đi ngủ, nàng cũng ngủ, sau đó tất cả đều là chiêm bao? Nàng cố giữ thân cho vững, càng nghĩ càng thấy có lý, rồi lại thấy đó là một giấc chiêm bao đẹp, giấc chiêm bao rơi lệ…
Khi núi Phù Vũ hiện ra trước mặt, tiếng gió rít thê lương, Phượng Cửu mới dần dần hiểu ra, hôm nay Đông Hoa có trận giao chiến với Yến Trì Ngộ, một trong bảy vị quân vương của Ma tộc, thì ra nàng xui xẻo ngẫu nhiên bị đưa đến Nam Hoang này.
Nói đến ân oán giữa Đông Hoa và Yến Trì Ngộ, phải tính từ ba trăm năm trước, theo đồn đại, nguyên cớ là vì một thiếu nữ. Nhưng lời đồn này chỉ lan truyền trong một số ít người, những ai hiểu rõ nội tình đều cảm thấy Đông Hoa rất oan uổng.
Chuyện là, năm xưa Chiếu Dương quân vương của Xích chi, một trong bảy chi của Ma tộc, muốn giao hảo với Thần tộc, bèn đem tiểu muội của mình là công chúa Cơ Hoành gả cho Thần tộc, chọn đi chọn lại, cuối cùng chọn Đông Hoa Đế Quân ở cung Thái Thần. Nhưng Chiếu Dương đâu biết, huynh đệ kết nghĩa của mình là Yến Trì Ngộ, quân vương của Thanh chi đã sớm có tình ý với công chúa Cơ Hoành, trưởng công chúa của Ma tộc được coi là có thể hiểu được tiếng nói của loài hoa. Tuy nhiên, công chúa Cơ Hoành bản tính đa cảm, dễ động lòng trước những công tử phong lưu biết làm thơ sầu muộn, chơi cầm khúc bi ai. Đáng tiếc, Yến Trì Ngộ có tiếng phong lưu nhất Nam Hoang, thực ra lại là người lỗ mãng, công chúa Cơ Hoành không mấy để ý đến chàng, mắt xanh lại hướng vào Đông Hoa, chàng trai ưu tú tư phong phi phàm mà ca ca nàng đã chọn. Thậm chí có vài lần, trước mặt Yến Trì Ngộ còn tán dương Đông Hoa vài câu. Lời tán dương đó, như mồi lửa ném vào cơn ghen đã tích tụ bấy lâu của Yến Trì Ngộ. Chàng Yến tức khí đầy vơi không thể nhẫn nhịn hơn nữa, lại không nỡ trút giận lên đầu mỹ nhân, liền hùng hổ cầm chiến thư đến cổng cung Thái Thần, tìm Đông Hoa đòi quyết đấu. Lúc đó Đông Hoa đã ẩn trong cung nhiều năm không bận tâm thế sự, nhưng thấy đối phương đã đưa chiến thư đến tận cửa, đành chấp nhận. Núi Phù Vũ một trận ác chiến, trời đất tối tăm, có cây tan tác, cuối cùng do Yến Trì Ngộ chơi xấu nhân lúc Đông Hoa không đề phòng, dùng thuật Tỏa hồn ngọc nhốt chàng vào Thập ác liên hoa cảnh, cho nên Phượng Cửu mới có cơ hội ở bên bầu bạn với Đông Hoa ba tháng.
Khi đó Phượng Cửu thực lòng cảm tạ Yến Trì Ngộ, tưởng rằng bởi chàng can thiệp nên liên hôn giữa Đông Hoa với Ma tộc đương nhiên hủy bỏ, vậy là cũng phần nào an tâm. Hơn nữa, xem chừng Đông Hoa cũng không mấy hào hứng với chuyện liên hôn kia, dần dần buông lỏng cảnh giác, những tưởng có thể kê cao gối ngủ yên.
Nào ngờ ba tháng sau, cung Thái Thần chỉ sau một đêm muôn hoa đua nở, đèn treo hoa kết rực rỡ. Trong ánh chiều dương ấm áp, chiếc kiệu lộng lẫy đưa một đại đại quý nhân đi vào cung môn cung Thái Thần. Vị đại đại quý nhân này, chính là nàng Cơ Hoành hồng nhan họa thủy. Trên cầu Bạch Ngọc, giai nhân vén rèm xuống kiệu, ngón tay ngọc ngà yểu điệu vịn thành cầu chạm chim phượng tao nhã, môi hồng răng trắng, mắt sáng đôn hậu, mặt hồ sóng xao, phất phơ khói biếc, mái tóc cuốn cao soi nghiêng đáy nước, chỉ một thoáng dừng chân liền trở thành bức họa tuyệt thế lung linh mộng ảo.
Phượng Cửu tựa vào chân Đông Hoa, ngẩn ra nhìn.
Cả cung Thái Thần, Phượng Cửu là người cuối cùng biết nguyên do cảnh tượng trên cầu Bạch Ngọc, mà lại qua miệng Tri Hạc, hóa ra Đông Hoa đã đồng ý hôn sự này, hình như còn rất thoải mái. Chỉ vài câu nói đơn giản, lọt vào tai nàng, giống như tiếng sét ầm ầm giáng xuống giữa trời quang, trong chớp mắt nàng cảm giác trời đất tối sầm.
Còn về ngày đại hôn, nương tử xinh đẹp trùm khăn đỏ không hiểu sao lại biến thành Tri Hạc, mấy ngày cuối cùng trước khi bỏ đi, đầu óc nàng cứ hỗn loạn u mê, không sao hiểu được, nhưng hồi đó Tri Hạc nói với nàng. Rằng, ở phàm trần thường có những chuyện như thế, một vài nam thanh nữ tú có tình với nhau, nhưng do tuổi trẻ tình cảm thất thường, có khi không thực hiểu lòng nhau, phải đợi đến lúc một trong hai người chuẩn bị kết hôn, cả hai mới tỉnh ngộ, đó chính là ngưỡng mà những người hữu tình phải vượt qua, mới có thể nên duyên, do vậy mới có câu, hôn nhân là hòn đá thử vàng để biết ai chân tình ai không, nàng và Đông Hoa cũng như thế.
Hồi đó Phượng Cửu còn chưa từng trải, một lý do lạ lùng như vậy cũng tin. Nàng quá ngây thơ nên dễ tổn thương, chỉ cảm thấy trong lời giải thích của Tri Hạc có chỗ không thỏa đó là tuổi của Đông Hoa liệu có thể coi là trai trẻ hay không, ví với đá thử vàng e không ổn.
Bây giờ nghĩ lại, có thể tất cả đều là bịa đặt của Tri Hạc, nếu không cớ chi sau đó Thiên Quân nổi giận, đẩy nàng ta xuống Hạ giới khổ tu để trừng phạt. Từng trải nhiều, đầu óc không còn ấu trĩ như trước, về sau nàng ngẫm ra, rất ít khả năng Đông Hoa thích Tri Hạc. Nếu chàng loanh quanh, vì thực sự động lòng trước nghĩa muội nông nổi kia, thì chàng cũng không xứng với tấm chân tình của nàng, với lòng ngưỡng mộ dành cho chàng bấy nhiêu năm, ngay từ thủa nàng còn thơ bé.
Rốt cuộc chân tướng thế nào, nàng chỉ suy đoán mơ hồ, lờ mờ cảm thấy sự thể có lẽ là như vậy, nhưng chuyện đó, cũng không biết tìm ai để xác nhận. Chỉ cho rằng, năm đó Đông Hoa đồng ý hôn sự với Cơ Hoành, rất có thể là do khâm phục Cơ Hoành. Thật ra, ngay con mắt nhìn khắt khe của nàng, cũng phải thừa nhận trong những tiên nữ, yêu nữ của tứ hải bát hoang, công chúa Cơ Hoành là một nữ tử hiền lương, cương liệt hiếm có. Chưa kể dung mạo xinh đẹp, đức độ hiền lương, khiêm nhường thông tỏ lễ nghĩa, chỉ riêng sự hào hiệp vô tư giúp Đông Hoa và nàng mấy lần trong Thập ác liên hoa cảnh đã muôn phần đáng khâm phục. Đông Hoa thích nàng ta, có lẽ cũng do tất cả những cái đó, dù năm xưa ở Thập ác liên hoa cảnh, Phượng Cửu cũng từng cứu chàng, nhưng cho dù trong những vở kịch hoang đường nhất mà cô cô Bạch Thiển của nàng còn giữ được cũng không hoang đường đến mức, có kết cục thế này: một cô nương xinh đẹp và một con thú cưng cùng cứu chàng công tử, về sau công tử lại thích con thú cưng, không thích cô nương xinh đẹp kia. Vậy nên, thua Cơ Hoành, nàng không có gì oán thán.
Trên đỉnh Phù Vũ gió gầm rít từng trận, trong chớp mắt mây cuồn cuộn kéo đến dày đặc, mênh mông nhưng tiêu điều, rất giống cảnh chiến trường. Phượng Cửu đang chìm trong hồi ức, lòng hơi ủ dột, nhìn thấy cảnh tượng trước mặt, đột nhiên cao hứng hẳn.
Nàng sinh ra trong thời bình, những trận chiến vĩ đại ghi trong sử sách, nàng chưa một lần chứng kiến, luôn phiền não vì chưa tích lũy được tri thức nào về mặt đó. Hiếm hoi mới có trận chiến giữa Dạ Hoa, phu quân của cô cô Bạch Thiển, với Quỷ Quân Kình Thương hơn hai trăm năm trước, nghe nói là trận đại chiến, nhưng lúc ấy nàng rất xui xẻo đang bị mắc ở trần thế báo ân. Hai trăm năm nay, mỗi dịp sinh nhật, nàng đều thành tâm cầu nguyện, mong Thiên giới, Hạ giới có vài vị đại thần tiên nổi tiếng nào đó bất hòa mà nổi lên tranh đấu, nhưng tai ông trời không dài, chắc là không nghe thấy lời cầu nguyện của nàng, lại để họ tình cảm mỗi năm càng thâm hậu. Nàng vốn đã không còn hy vọng gì được thỏa ước nguyện kia, ai ngờ, hôm nay ngẫu nhiên lại may mắn được tận mắt chứng kiến. Lòng mừng khôn xiết.
Bất luận thế nào, vị Ma vương có thể coi là lừa được Đông Hoa, dù thủ đoạn có hơi bỉ ổi, nhưng cũng phần nào bộc lộ chút tài năng, có thể là một đối thủ tốt. Nghe đồn chàng ta bản tính phóng khoáng, phong lưu, nàng liền hình dung đó là một trang hảo hán tráng kiện, tay vung đôi rìu Tuyên Hoa, giậm chân là đất rung núi chuyển, hô một tiếng là gió vũ mây vần. Trong tưởng tượng của Phượng Cửu, Yến Trì Ngộ kia cũng sức mạnh vô song. Nàng vừa tưởng tượng, vừa chìm trong những tưởng tượng đó, nín thở chờ Đông Hoa vén lớp sương mù dày đặc, khiến nàng được chiêm ngưỡng vị anh hùng hảo hán kia.
Núi Phù Ngũ nằm ở giao giới giữa Đông Hoang thuộc quản quyền của Ma tộc và Nam Hoang lãnh thổ của Bạch Hồ tộc, uy nghi sừng sững chạm vào mây, là ngọn núi nổi tiếng ở Tiên tộc và Ma tộc.
Mây mù dày đặc, trên đỉnh Phù Vũ lại không hề có vị hảo hán tay cầm rìu Tuyên Hoa nào hết, chỉ thấy một chàng trai rất trẻ xiêm áo đen tuyền, dáng mảnh khảnh ngồi trên đỉnh núi đang sốt ruột cắn hạt dưa, vỏ dưa rơi đầy trên đất. Phượng Cửu nhìn quanh, tưởng là Ma vương có thể vì lý do nào đó đến muộn. Nhưng bỗng thấy chàng trai kia vọt lên một đám mây, xông thẳng đến chỗ họ. Thấy chàng trai mảnh khảnh, duyên dáng, môi hồng răng trắng, rất tuấn tú, không biết là thần tiên xứ nào, nàng bất giác liếc nhìn.
Chàng trai tuấn tú cưỡi mây dừng cách bọn họ mười trượng, không biết từ đâu rút ra một thanh trường kiếm, sát khí đằng đằng chỉ vào Đông Hoa, quát lớn: “Bà tổ ngươi, đồ gấu Mặt lạnh, làm mỗ đợi chết mệt suốt nửa ngày, mỗ chúa ghét kẻ lề mề, hay là ngươi sợ mỗ rồi! Mau rút binh khí ra, mỗ cùng ngươi tốc chiến, hôm nay không đánh cho ngươi rụng sạch răng thì mỗ đây không còn là mỗ nữa!”.
Phượng Cửu sửng sốt.
Nàng sửng sốt nhìn chàng trai đẹp mà luôn mồm xưng mỗ kia, liên tiếp nuốt nước bọt, dần hiểu ra chàng ta chính là Yến Trì Ngộ, một trong bảy vị quân vương của Ma tộc. Nhưng có điều không hiểu, nàng nghe đồn khá nhiều về Yến Trì Ngộ, đều nói đó là một Ma quân lỗ mãng, không hiểu phong tình cho nên công chúa Cơ Hoành mới không ưng. Lẽ nào ngay những mãng phu của Ma tộc đều bạch diện thư sinh, da dẻ mịn màng như thế? Nàng bất giác lại hình dung, vậy thì những trang quân tử nghe đồn rất mực phong lưu của Ma tộc trông sẽ thế nào? Khi nàng hình dung ra một đại hảo hán tráng kiện râu ria bờm xờm tay cầm quạt hô gió, hướng về mặt trời lặn, mặt sầu muộn ngâm nga mấy câu thơ bi lụy, đột nhiên bật cười.
Thái độ của Đông Hoa hoàn toàn đúng như nàng dự đoán, sau đoạn mở màn hùng hồn của Yến Trì Ngộ, chàng chỉ nho nhã giơ tay nói: “Xin mời!”. Thái độ cao ngạo đó khiến Yến Trì Ngộ nổi đóa giậm chân, trừng mắt vẻ lưu manh: “Mỗ mời bà tổ ngươi!”. Lời vừa dứt, cuồng phong tức thì nổi lên, thổi bạt ma chướng xoáy tròn đằng sau người hắn, lộ ra mặt nước rộng ngút ngàn, trên mặt sóng đen cuồn cuộn, là một đôi giáp binh tay cầm binh khí xếp mấy hàng lừng lững uy nghiêm.
Phượng Cửu cho tới giờ chưa từng thấy cảnh tượng này, giật mình hoảng sợ. Đông Hoa lại rất bình tĩnh, còn giơ tay vuốt lại chiếc khăn là nàng bị gió thổi dúm lại, khiến nàng có thể bám chắc vào chuôi kiếm của chàng.
Yến Trì Ngộ cười khẩy, mặt diễm sắc như hoa xuân dưới trăng, lạnh lùng hừ một tiếng: “Mỗ dám tìm ngươi đấu một mình, đã chuẩn bị vẹn toàn”. Phượng Cửu lại nghĩ miên man, Cơ Hoành không ưng chàng Yến kia, có lẽ còn ẩn tình khác, có thể nàng ta cho rằng, không nên lấy một phu quân có ngoại hình đẹp hơn mình, nếu sánh vai bên nhau e là mất thể diện. Lại thấy Yến Trì Ngộ chỉ tay vào đội binh giáp dưới chân, cười đắc ý, nụ cười khiến gương mặt chàng ta càng thêm rạng rỡ. Phượng Cửu nhìn chàng, thầm gật đầu, phải rồi, Cơ Hoành không ưng chàng ta, đa phần vì lý do này.
Yến Trì Ngộ sau khi cười đắc ý, lập tức nghiêm mặt, lạnh lùng hét về phía Đông Hoa: “Đã nhìn thấy chưa, pháp trận yểm ma này mỗ vừa nghiên cứu thành công, được luyện từ bảy ngàn sinh linh cõi trần, tốn bao nhiêu tâm huyết của mỗ. Mặc dù đều là ác linh, nhưng nếu ngươi đả thương chúng, là vĩnh viễn cắt đứt đường cải tà quy chính chuyển kiếp luân hồi của chúng. Mỗ muốn xem, hậu bối Thiên tộc các ngươi tự xưng là từ bi, làm thế nào phá trận pháp này của mỗ!”. Trong chớp mắt, khi Yến Trì Ngộ vừa dứt lời, đội giáp binh ngưng tụ bảy ngàn sinh linh cõi trần, từng lớp lao vào họ như vũ bão, tất cả vẫn trong hình hài con người, nhưng ánh mắt u tối dữ tợn tham lam như mắt sói, binh khí trong tay tỏa sát khí tăm tối của tử địa.
Trong cuồn cuộn sóng nước mênh mông, bảy ngàn sinh linh chen chúc, người trước ngã xuống người sau lao đến, cảnh tượng thực khủng khiếp. Phượng Cửu run bần bật nép vào thắt lưng Đông Hoa, từ nhỏ nàng mắc chứng sợ đám đông, nhìn cảnh đó chỉ thấy toàn thân nổi da gà, liền từ bỏ ý định chiêm ngưỡng cái mới, chỉ nghĩ cách làm sao thoát thân.
Vẫn chưa nghĩ ra được gì, thanh kiếm Thương Hà tự nhiên rời khỏi bao, nằm chắc trong tay Đông Hoa, nhìn chúng sinh trôi nổi trên đỉnh Phù Vũ. Trong quầng sáng trắng dài trăm dặm khói lửa tức khí bùng lên, nuốt chửng lớp lớp khí đen ngùn ngụt, hiện ra hàng vạn bóng kiếm giống nhau. Phượng Cửu bàng hoàng bị bao vây giữa trùng trùng bóng kiếm loang loáng dày đặc, chỉ thấy trước mắt một màu sáng chói, đầu choáng váng. Phượng Cửu không nhìn rõ đường kiếm bay ra thế nào, chỉ thấy hình như mình cũng đang bay, người chao đảo, đầu càng choáng váng. Bên tai toàn những thấy tiếng rền rĩ thê thảm lẫn trong tiếng gió rít và tiếng mây cuồn cuộn, khi định thần trở lại, đã thấy trở về trong tay Đông Hoa, sắc máu tím đỏ biến sóng nước thành một màu kỳ dị, thỉnh thoảng có đám sương huyết bay lên bờ, giống như độc dược cực mạnh chạm vào cây cỏ hóa thành làn khói xanh. Sau đó, vang lên giọng trầm trầm của Đông Hoa: “Phá rồi!”.
Phượng Cửu đầu óc điên đảo, thầm nghĩ, phá cái gì?
Ồ, là trận pháp thất đức mà Yến Trì Ngộ nói tốn bao công sức tạo ra đã bị Đông Hoa phá.
Nàng vừa ôm thái dương định thần trở lại, mắt vừa thích ứng với ánh sáng bình thường, liền thấy Yến Trì Ngộ cầm cây kiếm nặng trịch, mặt hầm hầm xông đến: “Bảy ngàn ác linh do mỗ luyện, mặc dù phạm Thiên đạo nhất định bị trừng phạt, nhưng cũng phải do Thiên Lôi nhà Trời trừng phạt, các ngươi là thần tiên chẳng phải nên hết lòng phổ độ cho chúng? Hôm nay kiếm của ngươi nhuốm máu chúng, sẽ chỉ gánh thêm tội hiếu sát, ngươi ra tay diệt sạch như vậy, không sợ có ngày bị Trời trừng trị ư?”.
Phượng Cửu tim đập chân run, miệng lẩm nhẩm niệm Phật, cầu mong ông trời phù hộ để lưỡi kiếm của Yến Trì Ngộ chém trúng vào thân kiếm Thương Hà, không chệch một phân một tấc. Nhưng nhìn thế kiếm hung hãn như vậy, nàng lại ở rất gần chỗ hai kiếm sẽ giao nhau, kể cả chàng Yến kia ra tay không chệch một phân một tấc, có thể nàng cũng bị kiếm khí đả thương. Lòng bỗng tủi thân vô hạn, thầm nghĩ Đông Hoa sao có thể thất đức đến vậy, chẳng qua nàng chỉ nói giễu một câu, rằng chàng: “Quá kỳ dị” vậy mà cũng để bụng. Lại còn trả thù bằng cách đưa nàng đến đây, nếu hôm nay thực sự nàng phải bỏ mạng nơi này, xem chàng ăn nói thế nào với thần dân Thanh Khâu, ăn nói thế nào với song thân phụ mẫu, với bá phụ bá mẫu, thúc thúc cô cô của nàng!
Đang hào hứng nghĩ, bỗng nhiên một tia chớp sáng chói ập tới, khiến nàng giật thót, nhìn thấy một tia sáng trắng hiện lên phía chân trời, mây đen dạt ra hai phía, đường kiếm trắng như tuyết chém thẳng vào đó, tiếng binh khí chạm nhau chói tai. Sau vài chiêu qua lại, Yến Trì Ngộ đột nhiên đau đớn rên một tiếng, chân lảo đảo lùi lại sau cả trượng, có tiếng Đông Hoa lạnh lùng vọng ra: “Tội hiếu sát ư?”. Giọng dù lãnh đạm, nhưng khí thế lại trầm: “Bản quân mười vạn năm nay chưa tham chiến, ngày trước bản quân nắm trong tay sinh tử của lục giới thiên địa, tư phong thế nào, ngươi quên rồi ư?”.
Tiếng gió ù ù rít qua, Phượng Cửu lại choáng váng. Đông Hoa ngày trước. Ôi, Đông Hoa ngày trước.
Nhắc đến chuyện này, Phượng Cửu còn nắm chắc hơn nắm gia bảo trong nhà, lịch sử Thanh Khâu, gia phả Bạch gia nàng tinh thông làu làu, chiến tích quá khứ của Đông Hoa nàng có thể thao thao kể liền ba ngày đêm. Có thể nói hồi đi học nàng luôn đứng đầu môn lịch sử cổ đại phần nói về tiên sử, tất cả đều nhờ phúc của Đông Hoa. Hôm nay, nàng cho rằng chẳng còn duyên gì với Đông Hoa, đầu óc quay cuồng, chợt nhớ lại quá khứ, những truyền thuyết về Đông Hoa, từng chương lại vẫn nhớ rành rành.
Tương truyền, khi Bàn Cổ dùng một nhát rìu phân tách thiên địa, phần nhẹ, trong, nâng lên làm Trời; phần nặng, đục hạ xuống làm Đất, thế giới không còn là một khối nữa, tạo hóa có âm dương, hóa sinh ra rất nhiều tiên, yêu, ma quái, tranh giành tứ hải bát hoang tìm chỗ tu thân. Viễn cổ hồng hoang không phì nhiêu, phong phú như bây giờ, trên trời dưới đất cũng không nhiều luật lệ quy chế như vậy, nhưng thời loạn chiến thì khác, thường xuyên xảy ra tranh giành, đánh giết, ngay các vị thần tiên ngày nay rất coi trọng lấy lòng từ bi phổ độ chúng sinh, sát khí cũng rất nặng nề.
Thời đó, Nhân tộc cùng một bộ phận Ma tộc còn chưa bị đày xuống trần gian, nhưng trời đất hóa sinh ra họ thực sự nhỏ bé, bất đắc dĩ phải phụ thuộc vào Thiên tộc và Ma tộc lớn mạnh, sống những ngày ăn nhờ ở đậu buồn tẻ ở tứ hải bát hoang.
Vạn vạn vụt trôi, trời đất chẳng mấy khi được yên ổn, khi Ma tộc làm bá chủ, lúc Thần tộc cai quản càn khôn, thi thoảng lại Quỷ tộc làm chủ, nhưng tộc nào bá chủ thời gian cũng rất ngắn.
Mọi người đều mong xuất hiện một vị anh hùng khiến chư tộc người người khuất phục, cam tâm tình nguyện cúi đầu, chấm dứt thời kỳ loạn thế, để mọi tộc được sinh sống bình yên. Mà tộc nào cũng hy vọng vị anh hùng đó là do tộc mình sinh ra. Đó là thời đại chúng sinh đều chất phác, hầu như không hề có tâm địa, ngây thơ cho rằng sinh càng nhiều, thì càng có khả năng sinh được anh hùng. Vì vậy trong mấy năm ngắn ngủi, sáu tộc là Tiên, Quỷ, Thần, Ma, Nhân, Yêu, tộc nào lượng nhân đinh (những người là con trai trưởng thành trong tộc) cũng tăng vượt bậc.
Nhưng khi nhân khẩu quá đông rắc rối cũng nảy sinh, đất đai không đủ, chiến tranh giành giật đất đai giữa các tộc ngày càng ác liệt. Nhưng ông Trời luôn như vậy, ý Trời luôn không thể lường. Chính lúc các tộc vẫn tiếp tục ngày đêm nỗ lực sinh sản mong sinh được anh hùng, vẫn không mệt mỏi lao vào cuộc chiến tranh giành đất đai… Thì vị anh hùng đã cất tiếng chào đời ở Bích Hải linh thiêng nơi tận cùng của Trời, không cha không mẹ, được Trời đích thân sinh dưỡng.
Nơi sinh là vùng ánh sáng hoa lệ của Đông Hoang, lấy hai chữ trong đó, định ra tôn hiệu là Đông Hoa. Chính là Đông Hoa Đế Quân.
Mặc dù Đông Hoa sinh ra là để trở thành anh hùng của thời đại, nhưng không giống thái tử Dạ Hoa của Thiên tộc hiện nay, là người gánh vác sứ mệnh lớn lao do Trời chỉ định, lúc Đông Hoa ra đời lại vô cùng lặng lẽ, chẳng hề có những điềm báo như cả thiên địa đều tỏa hào quang, bốn mươi chín con chim ngũ sắc bay lượn trên Bích Hải linh thiêng…
Chỉ có một đoạn trong sử sách viết rằng, Đế Quân nhận ánh sáng của trời, uống nước nguồn, hội tụ tinh hoa vạn vật mà thành linh thai. Nhưng trời đã sinh chàng ra sao, là từ trong tảng đá nứt ra hay một lão phu đi rừng chặt cây, đốn củi phát hiện ra chàng ngồi trong thân cây trúc mang về nuôi dưỡng, sử sách chỉ có một đoạn sơ lược như vậy, không có ghi chép nào cụ thể hơn.
Đông Hoa mặc dù từ nhỏ đã phải gánh vác trọng trách nặng nề, nhưng cuộc sống từ khi sinh ra đã không bình thường, đơn côi một mình trên Bích Hải, không có quần cư thần tộc bảo vệ che chở, thường chịu sự ức hiếp của các tiên yêu ma quái xung quanh. Hồng hoang viễn cổ không như bây giờ, muốn học gì đều có thể tầm sư chỉ dạy. Mọi sự Đông Hoa dựa vào quả đấm mà ngộ ra, chiến tích cả đời cũng có được qua từng trận ác chiến mà nên.
Nguồn nước thiêng vạn năm không cạn của Bích Hải không biết đã nhuốm đỏ bao lần, chàng trai áo tím bất ngờ ra đời, giẫm lên chồng chất xương khô, cuối cùng đứng trên đỉnh cao nhất của lục giới, nhất thống lục giới tứ hải, an ủi chúng sinh bát hoang.
Con đường thành danh của chàng, khác với thượng thần Mặc Uyên chỉ qua trận chiến Lạc Tư mấy vạn năm trước, cũng không giống chiến tích lẫy lừng của Dạ Hoa Quân gần đây. Hai vị đó, một vị từ nhỏ đã được Phụ Thần hóa sinh trời đất nuôi dưỡng; một vị được Nguyên Thủy Thiên Tôn Đại La Thiên Thượng Thanh Cảnh cùng với Quan Thế Âm đại từ đại bi của Tây Phương Phạn Cảnh hợp lực điểm hóa, được giáo dưỡng theo tôn quy của dòng dõi danh gia.
Phượng Cửu từ nhỏ đã rất ngưỡng mộ Đông Hoa, trước hết bởi chàng từng cứu mạng nàng, nhưng sâu xa hơn là do lòng sùng bái tôn kính, nàng cảm thấy mọi sự chàng đều dựa vào nỗ lực bản thân, lại có thể có sức mạnh kết thúc thời loạn thế bao trùm càn khôn suốt thủa hồng hoang, quả thực quá thần kỳ.
Có thể ngồi vững trên ngôi vị bá chủ thiên địa trong thời sát phạt hỗn chiến hồng hoang, thật không dễ, chỉ cần mềm lòng, nhẹ tay, bên dưới sẽ lập tức hỗn loạn, chỉ có máu lạnh, cứng rắn mới giữ được bình yên. Cho dù sau này Thiên tộc dần dần lớn mạnh, Đông Hoa dần dần nhường quyền cai quản cho Thiên Quân, lui về cung Thái Thần ở Nhất Thập Tam Thiên ẩn dật, nhưng uy danh máu lạnh năm xưa vẫn lưu truyền khắp lục giới. Bởi vậy lần này Yến Trì Ngộ những tưởng có thể dùng bảy ngàn sinh linh áp chế chàng, hèn chi chàng chỉ lạnh lùng hỏi một câu, có phải đã quên tư phong cai trị lục giới năm xưa của chàng. Đông Hoa, thực sự không phải là một vị tiên bồ đề tâm đại từ đại bi. Xưa nay vẫn vậy.
Thật ra, Đông Hoa rốt cuộc có được tính là tiên không, điều này còn phải bàn.
Phượng Cửu lúc nhỏ đã thầm ái mộ Đông Hoa, để hiểu hơn về chàng, trên lục khắp Thiên giới, dưới tầm tận Hoàng tuyền thu thập mọi sử liệu về chàng. Trong những sử liệu đó phần lớn là đề cao cống hiến của Đông Hoa, tất cả đều là những lời lẽ tốt đẹp, chỉ có một thư tịch cổ cũ nát, mất bìa, ghi lời nhận xét về Đông Hoa của Phụ Thần nói rằng, người này cửu trú tâm đã đạt tới nhất trú cảnh, vậy nên nhất niệm vi ma vừa nhất niệm vi thần.
Thiền học của Phượng Cửu không tốt, nên chép lại những lời này làm ra vẻ tự nhiên đi thỉnh giáo tiểu thúc Bạch Chân. Bạch Chân mặc dù có vẻ không đáng tin cậy, nhưng cũng đã sống tới mười mấy vạn năm, nên sự Thiền học cũng biết một hai, giảng giải cho nàng nghe: “Cái gọi là cửa trú tâm chính là chín cấp tu tập Thiền định, tức: nội trú, đẳng trú, an trú, cận trú, điều thuận, tịch tĩnh, tối cục tịch tĩnh, chuyên chú nhất trú và đẳng trì. Nếu một người nội tâm đã đạt tới cảnh giới chuyên chú nhất trú, nghĩ là tâm đã an trú, trăm loạn bất xâm. Tâm đã tịnh thì là ma hay là thần đều không có gì khác nhau, tùy sở thích của người đó, muốn thành giới gì thì thành giới đó. Nếu cửu trú tâm đạt tới cảnh giới đẳng trú, tức là đã sang một cảnh giới mới. Thế gian chỉ có Phật Tổ ở Tây Thiên Phạn Cảnh tu trì đến cảnh giới này, ngộ được chúng sinh tức Phật Đà, Phật Đà tức chúng sinh”.
Phượng Cửu nhẫn nại nghe xong, kỳ thực váng đầu hoa mắt bởi các loại trú của tiểu thúc, cảm thấy những gì dính dáng đến chữ Thiền, quả nhiên đều vô cùng huyền diệu. Nhưng để hiểu hơn về Đông Hoa, trở về nàng còn âm thầm suy nghĩ rất lâu, cố hiểu ý nghĩa lời đánh giá kia của đấng Phụ Thần, cuối cùng nghĩ ra câu nói kia liệu có phải nghĩa là nói Đông Hoa ngày trước không phải thần cũng chẳng phải ma, sau đó chọn Thần đạo từ bỏ Ma đạo. Nhưng tại sao chàng chọn Thần đạo, nàng nghĩ không ra. Trong tâm trí ấu thời của nàng, Thần tộc và Ma tộc ngoại trừ là tộc loại khác nhau, cơ hồ chẳng có gì khác, hơn nữa Ma tộc còn có nhiều mỹ nhân như vậy.
Trong những người nàng quen biết, ngoại trừ tổ phụ mẫu, chỉ có thượng thần Chiết Nhan ở rừng đào mười dặm gần bằng tuổi Đông Hoa. Nàng thu xếp hành lý, cưỡi một đám mây nhỏ đến rừng đào. Mượn cớ lần này phu tử ở học đường kiểm tra về chúng thần thủa hồng hoang, nàng gặp một vấn đề khó, muốn đến xin chỉ giáo, còn chu đáo mang đến hai cây trâm ngọc do tiểu thúc Bạch Chân chế tắc tặng Chiết Nhan.
Món quà đó vô cùng hợp ý Chiết Nhan, quả nhiên khiến vị thượng thần muôn phần phấn khởi.
Rừng đào tháng tư chìm trong hoàng hôn khói phủ, Chiết Nhan tay vuốt ve cây trâm ngọc, tươi cười hỏi nàng: “Vì sao Đông Hoa chọn Thần tộc ư?”.
Cất giọng nói trơn tru: “Sử sách ghi, năm đó khởi nguyên hồng hoang thiên tai liên miên, duy có Thần tộc quanh năm mưa thuận gió hòa, thần dân sinh sống yên ổn. Sau khi Đông Hoa tìm hiểu nguồn cơn, biết được chính là do Thần tộc đều tu ngũ giới, một: không sát sinh; hai: không trộm cướp; ba: không dâm tà; bốn: không dối trá; năm: không uống rượu”. Chiết Nhan thản nhiên uống một ngụm rượu, “Vì đức hạnh sáng chói, cảm hóa trời xanh, vậy nên đã giảm được bao tai họa của Thần tộc, ban cho chúng ta nhiều công đức, thiện quả, hàng năm mới mưa thuận gió hòa. Đông Hoa nghe xong, muôn phần cảm kích, mới lựa chọn Thần tộc từ bỏ Ma đạo, nguyện cả đời hiện thế dưới pháp tướng của Thần tộc, dùng tâm bồ đề đại từ đại bi đại tu trì thiện giới, phổ độ chúng sinh bát hoang”.
Phượng Cửu ngồi nghe, lòng lúc thăng lúc trầm, cảm thấy được khích lệ cổ vũ vô cùng, lại càng bội phần khâm phục Đông Hoa: Quả nhiên chàng thanh tịnh vô vị, quả nhiên là Đế Quân vô dục vô cầu, quả nhiên là Đông Hoa Đế Quân ngạo mạn, cứng rắn, có cốt cách thần tiên nhất mà sử sách ca tụng.
Đang hào hứng lại thấy Chiết Nhan mủm mỉm nói thêm một câu: “Ngươi cứ viết như thế, phu tử nhất định cho điểm cao”.
Phượng Cửu mang ra một quyển vở nhỏ vốn dành để viết suy nghĩ, bình chú trong khi học, ngẩn ra nói: “Người nói thế, chẳng lẽ còn ẩn tình gì?”.
Ẩn tình đương nhiên là có, hơn nữa so với những gì sử sách ghi chép còn cách xa, không chỉ mười vạn tám nghìn dặm.
Phượng Cửu cảm thấy, nói đến ẩn tình này, Chiết Nhan đặc biệt hào hứng khác hẳn điệu bộ uể oải giảng giải cho nàng vừa rồi.
Ẩn tình đó, như sau.
Nghe nói Đông Hoa ra đời từ Bích Hải linh thiêng, trải qua bao phen tôi luyện, chiến đấu oanh liệt, nhưng bản thân chàng không đặc biệt hứng thú đối với sự nhất thống thiên hạ. Các tộc ở ngoài Bích Hải vẫn đang không ngừng xảy ra giao chiến, một vài tiểu quái dưới biển lại không chịu yên phận, vô cớ tham gia đại chiến bên ngoài. Chàng trừng trị tất cả bọn chúng, có điều lũ tiểu quái này tuy địa vị thấp kém, nhưng bên trên cũng là có người che chở, ma đầu che chở bọn tiểu quái cảm thấy bị mất mặt, nhưng lộ diện khiêu khích Đông Hoa chỉ càng mất mặt hơn, chàng dứt khoát cho chúng bài học. Cho đến khi tên ma đầu lớn nhất tứ hải bát hoang chịu quy phục trở thành tiểu đệ của chàng.
Chiết Nhan xoay cốc rượu trong ta, vừa tình tứ vừa tinh quái cười cười: “Chớ thấy Đông Hoa quanh năm Mặt lạnh mà coi thường, thực ra người ta rất được nữ giới ái mộ”.
Chiến tích của Đông Hoa được biết đến từ lâu, ngoại hình tuấn tú, tuổi trẻ, lại ưu tú nổi bật là lương nhân trong mộng của biết bao nữ nhi các tộc. Có một tiểu thư nào đó của Ma tộc, nức tiếng đương thời, được coi là mỹ nhân phong lưu bậc nhất tứ hải bát hoang, cũng rất ái mộ chàng. Thời viễn cổ, nữ nhi của Ma tộc hành xử tương đối phóng khoáng, không bị ràng buộc bởi nhiều luật lệ như nữ nhi Thần tộc, nếu vừa ý trang nam tử nào, là có thói quen dệt mộng uyên ương với chàng ngay đêm đó. Tiểu thư kia vừa nhìn thấy Đông Hoa đã tương tư, một đêm gió mát hiu hiu, theo truyền thống của tộc mình, lặng lẽ lọt vào căn nhà tre của Đông Hoa, lặng lẽ lên giường đá của chàng, định cùng lương nhân trong mộng, tận hưởng đêm xuân.
Đông Hoa nửa đêm về nhà, vén rèm, thấy một mỹ nữ nửa kín nửa hở trên giường, hơi ngẩn người. Mỹ nhân cất giọng ỏn ẻn: “Tôn tọa nửa đêm mới trở về, để thiếp khổ sở đợi chờ…”. Đông Hoa cúi xuống nhấc bổng mỹ nhân, khiến nàng thở gấp, nũng nịu trách: “Tôn tọa quả nhiên là người nóng vội…”. Người nóng vội này không hề xúc động, bế mỹ nhân đi thẳng ra cửa, thản nhiên ném thẳng mỹ nhân ra ngoài, khiến nàng kinh ngạc thất sắc, xong xuôi, đóng cửa tắt đèn, không nói nửa câu.
Mỹ nhân vẫn không từ bỏ ý định, sau rất nhiều lần bị ném khỏi cửa mới dần từ bỏ ý định. Tuy nhiên nàng lại mở ra một tiền lệ, rất nhiều thiếu nữ Ma tộc cảm thấy, mặc dù nhất định bị Đông Hoa ném ra ngoài, nhưng nghe nói trước khi ném, chàng đều rất tao nhã bế các nàng từ trên giường ra cửa, sau đó mới ném đi. Họ cảm thấy, được trong vòng tay chàng dù nửa khắc cũng đủ sung sướng. Từ đó về sau càng nhiều thiếu nữ Ma tộc đua nhau lẻn vào giường của chàng, hơn nữa, các nàng có muôn vàn mánh khóe mở kết giới chàng bố trí quanh tẩm cư của mình, cứ vậy, dần dà Đông Hoa cũng lười bố trí kết giới, coi hàng đêm trước khi đi ngủ đem mỹ nữ trong phòng ném ra ngoài là một môn tu hành, cuộc sống yên ổn như vậy được vài năm. Một đêm nọ, trên giường của chàng cuối cùng cũng không còn thiếu nữ nào nữa, nhưng thay vào đó lại là một thiếu niên mặt hoa da phấn, có hàng chân mày xanh như dãy núi phía xa, mắt thu ba sóng sánh, nhìn có vẻ mảnh mai yếu ớt. Lúc chàng ném thiếu niên ra cửa, chàng ta còn đang gào lên: “Trước khi ngươi ném các mỹ nhân, chẳng phải người đều bế họ ra tận cửa, tại sao ngươi lại lôi ta xềnh xệch vậy! Thế bất công! Bất công!”.
Chiết Nhan thong thả tự rót thêm rượu cho mình: “Đến nỗi về sau, khi Phụ Thần đến Bích Hải thỉnh mời Đông Hoa, chàng lập tức bằng lòng đi theo, có lẽ đó chính là nguyên do Đông Hoa chọn Thần đạo bỏ Ma đạo mà hậu thế lưu truyền. Các thiếu nữ Thần tộc dù sao vẫn hiểu lễ tiết hơn các thiếu nữ Ma tộc, nhưng chỉ khi Đông Hoa ẩn dật trong cung Thái Thần mới thực sự được yên tĩnh hoàn toàn”. Nói xong, Chiết Nhan lại giả bộ than thở: “Đường đường một anh hùng, lại buộc phải trốn tránh thế gian, chẳng trách có câu, nữ nhân như hổ, cả Mặc Uyên không thu nhận nữ đệ tử cũng có nguyên do tương tự. Năm đó, lúc Bạch Thiển bái Mặc Uyên làm sư phụ cũng giả dạng nam nhi. May là Bạch Thiển sáng suốt, không giẫm vào vết xe đổ của mấy nữ đệ tử trước đây của Mặc Uyên, nếu không hôm nay ta gặp Mặc Uyên cũng khó ăn khó nói”.
Tiết lộ xong bí mật đó, Chiết Nhan sảng khoái dặn nàng: “Ẩn tình này mặc dù là như thế, nhưng nạp quyển cho phu tử không thể viết như vậy”. Lại nhỏ nhẹ dạy nàng: “Phu tử chỉ cần trả lời đúng đáp án, nhưng đáp án luôn không đúng sự thật”.
Phượng Cửu nghe xong, thực ra lại mừng thầm, cảm thấy Đông Hoa không thích những mỹ nhân kia là rất hợp ý nàng, rồi lại thấy buồn, mình cũng ái mộ chàng, không biết chàng có thích mình không. Nàng cầm quyển vở lo lắng hỏi Chiết Nhan: “Chàng không thích nữ nhi, không thích nam nhi, vậy chàng không thích gì sao?”.
Chiết Nhan bị hỏi khó, trầm tư một lúc, nói: “Cái này, cần tự mình tổng kết, ta đoán, có lẽ Đông Hoa thích những con vật có lông mao trơn mượt”.
Phượng Cửu buồn bã hỏi: “Chàng thích khỉ ư?”. Lại buồn bã lẩm bẩm: “Người có chứng cớ gì?”.
Chiết Nhan ho một tiếng: “Lông mao trơn mượt là khỉ ư? Mô tả như vậy giống con khỉ à? Không phải khỉ đâu. Chẳng qua ta thấy ba con vật Đông Hoa từng cưỡi đều là loại lông mao, đoán có lẽ Đông Hoa thích những con vật lông mao”.
Phượng Cửu lập tức phấn chấn, chíp chíp chíp hiện nguyên hình, móng vuốt chi trước còn đang quặp cuốn vở: “Tiểu bối cũng là thú lông mao, người nói xem, chàng có thích không?”Lời vừa dứt, cảm thấy lỡ miệng, vội giơ móng xoa mũi: “Tiểu bối chỉ buột miệng hỏi vậy thôi, buột miệng hỏi vậy thôi!”.
Chiết Nhan hào hứng nói: “Đông Hoa cũng thích dũng mãnh một chút, mấy con vật kia đều là mãnh hổ, sư tử”.
Phượng Cửu lập tức nhe nanh, nói qua kẽ răng: “Trông tiểu bối thế này có uy dũng không?”.
Nhớ lại hồi đó, nàng vẫn còn rất ngây thơ, nếu tất cả dừng lại ở đó, cũng có thể xem là chuyện tốt, hôm nay nhớ lại toàn những chuyện thú vị thủa thiếu thời. Phật nói, tham, sân, si là tam độc trên đời, mọi phiền khổ, điều ác đều từ đó mà ra, thuyết pháp của Phật Tổ chung quy vẫn có lý.
Núi Phù Vũ trước mắt rung chuyển, cảnh tượng hỗn loạn, cách mấy bước bên ngoài, Yến Trì Ngộ khoác một lớp huyền quang sáng chói, cầm thanh kiếm đen tuyền, một mình vung kiếm tung hoành trong vầng huyền quang đó, có lẽ đã bị trúng thuật huyễn cảnh. Đông Hoa đứng trên đám mây, gió thổi áo chàng bay phấp phới, ngón tay bấm quyết hóa ra một cái lồng khổng lồ. Phượng Cửu biết, đó chính là lồng Thiên Cương. Trước đã từng nghe nói, còn nhìn thấy hình họa trong Cương mục khí cụ, là một khí cụ rất tốt, cho dù trời long đất lở, chỉ cần núp trong lồng Thiên Cương đó là bình an vô sự.
Lồng Thiên Cương lơ lửng bên chân Đông Hoa, Phượng Cửu nín thở nhìn chàng giơ tay, phủi lọn tóc vương trên vai nàng vừa bị gió từ đường kiếm phạt đứt. Phủi tóc ư? Phượng Cửu nhìn xuống, quả nhiên nàng đã trở lại hình hài con người từ lúc nào, gió quá mạnh chiếc váy lụa dài của nàng tung bay phần phật.
Phượng Cửu ngẩn người, vào những lúc quan trọng, đầu óc nàng lại không linh hoạt, kinh ngạc ngoảnh sang hỏi: “Chàng… chàng… chàng… đã biết ta là ai, thì ra còn biết cách ép ta trở lại nguyên hình?”. Vừa nói xong lại thấy tủi thân, lòng trào phẫn nộ: “Vậy sao không sớm nói ra?”.
Tà khí ù ù rít xung quanh, khiến nàng cũng bạo gan hơn, bất bình nói: “Đương nhiên ta vì thể diện nên mới giả làm chiếc khăn, nhưng chàng làm như vậy cũng không xứng bậc anh hùng, nhìn trò ngốc của ta, có phải chàng thấy rất nực cười?”.
Nàng nghĩ lại, cho dù nàng không phải là người chàng thích, nhưng chung quy vẫn là nữ nhi, cũng cần nâng niu, nhưng xem chừng chàng cũng chẳng coi nàng là nữ nhi vì thế nàng vừa tức vừa tủi thân: “Chàng đã biết ta là ai, sao còn trói ta ở nơi nguy hiểm này? Buộc ta trên chuôi kiếm, để xem ta khiếp sợ run rẩy thế nào, chàng vui lắm ư? Lần trước, ta nói chàng câu đó, cũng không phải cố tình”. Nỗi uất hận, phẫn nộ, xông lên mắt, làm mắt nàng đỏ hoe.
Đông Hoa chỉ nhìn nàng không nói gì, lát sau mới chậm rãi: “Xin lỗi!”. Phượng Cửu vốn nóng tính, vừa giận đùng đùng lại dịu ngay, thấy chàng xin lỗi, lòng cũng vợi đi nhiều, nhận ra vừa rồi mình hơi kích động, cảm thấy có chút bẽ bàng. Xoa xoa cái mũi lúng túng ho một tiếng: “Thôi bỏ đi, lần này…”. Đông Hoa bình tĩnh nói thêm một câu: “Đùa quá rồi”. Những lời độ lượng sắp nói từ Phượng Cửu tức thì mắc lại trong cổ, ở lại đó một lúc, hỏa khí từ cổ xộc lên đỉnh đầu, làm mắt nổ đom đóm vàng chóe, lời nói cũng lắp bắp. Trong ánh đom đóm vàng chóe đó, Đông Hoa giơ tay xoa ở đầu nàng, hình như mỉm cười: “Quả nhiên khiếp sợ như vậy, lộ cả tai ra kìa”. Phượng Cửu tưởng mình nghe nhầm, người này quanh năm Mặt lạnh, sao giờ lại mỉm cười nói đùa với nàng? Bỗng chùm hào quang phía sau bùng nổ như quả cầu lửa, dưới chân, sóng nước trồi lên như con rắn khổng lồ, còn chưa kịp hoàn hồn, cả người chợt nhẹ bỗng, đã bị Đông Hoa nhấc bổng đẩy vào trong lồng Thiên Cương, còn dặn với: “Cứ đợi trong đó đừng ra ngoài”. Phượng Cửu vốn muốn thò đầu ra xem rốt cuộc là chuyện gì, tay mới bám vào vách lồng, tìm cách thò đầu ra ngoài, hình như nghe thấy một câu rất nhỏ của Đông Hoa: “Ngoan nào”.
Phía trước cách không xa, Yến Trì Ngộ mặt xám ngắt cầm kiếm lao tới, xem chừng đã thoát khỏi thuật huyễn cảnh, hiểu ra vừa rồi bị Đông Hoa nhìn thấy mình trúng huyễn thuật, tức đến nỗi khuôn mặt vốn trắng trẻo nổi đầy gân xanh.
Yến Trì Ngộ đang đầy bụng nộ khí, nhìn thấy Phượng Cửu trong lồng Thiên Cương, hỏa khí càng bốc ngùn ngụt, nắm chặt kiếm Huyền Thiết theo lời đồn đại nặng đến vài trăm cân nhằm Đông Hoa bổ tới, còn nghiến răng thét to: “Khá khen đồ Mặt lạnh ngươi, khinh mỗ phải không, đánh nhau với mỗ còn mang theo gia quyến”.
Một người là tôn thần Thiên tộc, một người là thiếu quân Ma tộc, chiêu thức biến hóa càng nhanh, khiến đất trời biến sắc, lúc mưa xuân tầm tã, lúc sấm hạ rền vang, lúc tuyết đông ngập trời, bốn mùa lần lượt trôi qua giữa đường kiếm của hai người, ánh kiếm tựa pháo hoa bùng nổ sáng rực nửa ngọn Phù Vũ.
Phượng Cửu áp người vào vách lồng Thiên Cương, chiêm ngưỡng trận giao chiến đặc sắc, quả thực được mở rộng tầm mắt, từ đáy lòng thán phục. Bỗng trước mắt xuất hiện một màn sương mù, trong lớp sương mù mờ mịt, Yến Trì Ngộ vừa rồi còn ở thế hạ phong, không biết từ lúc nào bỗng xoay chuyển tình thế, trường kiếm lóe sáng, tìm được góc độ nguy hiểm, cơ hồ định đâm vào ngực Đông Hoa.
Phượng Cửu mắt trợn trừng, nhìn kiếm Huyền Thiết từ trắng chuyển sang hồng, nàng dụi mắt, đâm trúng thật sao? Kỳ lạ là, người từ từ lùi sau hai bước lại là Yến Trì Ngộ đau đớn rên rỉ. Sương mù tựa con rắn uốn éo, đột nhiên tản ra, đất trời sáng chói, chùm sáng bao quanh Yến Trì Ngộ bị Đông Hoa một chưởng hất ra, cơ thể Yến Trì Ngộ vùn vụt lao về phía nàng. Phượng Cửu né tránh một cách bản năng, đột nhiên cảm thấy sau lưng có một cường lực hút lấy nàng, không kịp dùng thuật định thân, nàng đã bị cuốn vào xoáy lốc. Nghe thấy Đông Hoa thét gọi càng lúc càng dữ, thất thanh khác hẳn giọng thường ngày, hướng vào vòng xoáy: “Tiểu Bạch”.
Phượng Cửu bị cuốn trong vòng xoáy ù ù, sửng sốt, hóa ra Đông Hoa gọi nàng như vậy, nàng cảm thấy gọi như vậy quả có phần đặc biệt. Hồi nhỏ, nàng thực sự vô cùng ngưỡng mộ cái tên của cô cô nàng: Bạch Thiển, hai chữ đơn giản mạnh mẽ, còn nàng tên nhất định phải ba chữ. Nhưng cho dù ba chữ, nàng cũng hy vọng nó phải thật kêu, giống tên một bằng hữu tốt của tiểu thúc nàng: Tô Mạch Diệp, gọi lên cảm thấy bội phần phong lưu. Nhìn vào mình, Bạch Phượng Cửu, gọi tắt hai chữ Phượng Cửu còn có thể coi là trong cái thú vị bình thường có cái tao nhã, trong cái tao nhã có cái thú vị, có vẻ giống tên của con nhà gia thế, nhưng lại thêm cái họ Bạch của gia tộc nàng, ở chỗ Thái Thượng Lão Quân có một vị tiên khá thân thiết với nàng, tên là Bạch Phượng Hoàn. Nàng luôn than thở về tên của mình, nên không ai dám gọi đầy đủ tên nàng trước mặt nàng, khiến tứ hải bát hoang đều nghĩ nàng họ Phượng tên Cửu. Nhưng Đông hoa lại gọi nàng là Tiểu Bạch, nàng thấy rất thích cách gọi này.
Đông Hoa không thể đuổi theo, Yến Trì Ngộ đã bị thương lại bị gió cuốn vào cơn xoáy cùng với Phượng Cửu. Nhìn kỹ phát hiện ra nàng, nắm vai nàng, tức giận hét to: “Mưu vừa rồi của mỗ, tại sao ngươi không mắc? Lẽ nào ngươi không có ảo giác, gã Mặt lạnh bị mỗ chém thổ huyết?”. Vừa hét lên như thế vừa ảo não: “Huyễn thuật của mỗ lẽ nào chưa đạt được cảnh giới đó? Mỗ còn mặt mũi nào sống trên đời? Mỗ hổ thẹn với danh xưng Ma quân này, chi bằng nhờ cơn lốc, cuốn mỗ xuống Âm Tào Địa Phủ, tìm đạo súc sinh đầu thai làm rùa, còn hơn sống hổ thẹn trên đời, mỗ xưa nay là ngươi dũng mãnh!”.
Phượng Cửu lòng run lên, thấy hắn ghé vào mình quá gần vả lại nàng không muốn cùng hắn đến Âm Tào Địa Phủ đầu thai làm huynh muội nhà rùa, bịt tai, nói vội: “Đã trúng tà thuật rồi, ta nhìn thấy hắn thổ huyết”.
Yến Trì Ngộ sững sờ, nộ khí bừng bừng: “Tiểu cô nương này, đã nhìn thấy người trong mộng của mình thổ huyết, lại không lao ra khỏi lồng Thiên Cương chịu họa thay hắn, ngươi lao ra khiến hắn luống cuống, mỗ sẽ thừa cơ ra tay, hắn trở tay không kịp, mỗ đã xem nhiều vở kịch đều diễn kế đó, trong ‘Mỹ nhân kế’ và ‘Tứ hải chinh chiến ba mươi sáu kế, đảm bảo chắc thắng’ cũng viết như vậy. Ngươi nói xem, tại sao ngươi không lao ra đúng lúc, khiến mỗ trúng chưởng của hắn?”.
Phượng Cửu bị Yến Trì Ngộ hét vang tai hoa mắt, đầu óc rối loạn trả lời: “Không lao ra đúng lúc là ta sai, nhưng ngươi…”. Hai người bị gió thổi chao đảo, “… nhưng người cũng sai, tại sao lại tùy tiện tin những trò vớ vẩn trong kịch? Còn nữa…”, lại lảo đảo, “… Mỹ nhân kế trong ‘Tứ hải chinh chiến ba sáu kế’ là do Ti Mệnh Tinh Quân viết ra, ông ta từ nhỏ đến lớn đánh nhau chưa bao giờ thắng, báo cho ngươi biết, đừng có tin!”.
Vừa dứt lời, cả hai đều rơi xuống vực.
Rơi xuống mỏm đá nhô ra trên vách vực thẳm một lúc lâu, Phượng Cửu mới thấy những lời nàng nói với Yến Trì Ngộ lúc trước có chỗ không đúng.
Về lý, nàng với Đông Hoa nên cùng một phe. Lúc đó nàng không xông ra chịu họa thay Đông Hoa vì cảm thấy, chỉ một mình Yến Trì Ngộ mảnh mai cùng với thanh Huyền Thiết kiếm mảnh mai, nếu chém nàng còn có thể chết người, nhưng chém vào Đông Hoa, cùng lắm chỉ làm chàng sượt da, không có vấn đề gì. Tu luyện của hai người lại khác nhau, khả năng chịu đả thương của cơ thể cũng khác, trong chuyện này nàng đã nghĩ như vậy, nhưng thâm tâm, nàng thực lòng quan tâm Đông Hoa. Mặc dù bị chàng trêu chọc, nhưng dù gì chàng cũng rất nghĩa khí nhường lồng Thiên Cương cho nàng, nàng mới được bình an, cho nên nàng cũng không để bụng, không có ý trả thù. Nhưng, suy nghĩ đó của nàng Đông Hoa làm sao hiểu được, hẳn là trách nàng thiếu nghĩa khí. Sau đó đầu óc rối loạn vì những lời la hét của Yến Trì Ngộ, mất hết minh mẫn, lại còn xin lỗi chàng ta, lại còn thực lòng trao đổi với chàng ta một số suy nghĩ về binh pháp. Phượng Cửu cho rằng, Đông Hoa chắc là có gì hiểu lầm. Hèn nào mới trước đó một khắc miệng còn da diết gọi nàng là Tiểu Bạch, một khắc sau nàng rơi xuống vực thì chẳng thấy bóng dáng. Thử nhìn nhận từ góc độ khác, nếu nàng là Đông Hoa, có những hiểu lầm về nàng như vậy, có khi không chỉ để mặc nàng rơi xuống vực, mà trước đó đã chém nàng một nhát cho hả giận. Vừa nghĩ Phượng Cửu vừa thở than, lòng ảo não. Có một chiến hữu như nàng, hẳn là Đông Hoa cảm thấy đen đủi đến tám đời, chắc giận nàng thật rồi.