Chương 16

Mùa xuân hoa nở, Hoắc Triển Bạch dẫn đầu Đỉnh Kiếm các Thất Kiếm trở về từ Côn Luân sơn.

Tuy đã trải qua một trận chiến thảm liệt, Thất Kiếm hầu hết đều mang thương tích, tổn thất quá nửa, song chung quy cũng mang về được tin tức Ma giáo Giáo vương đền tội, Ngũ Minh Tử toàn bộ bị tiêu diệt. Nhất thời, cả võ lâm Trung Nguyên đều chấn động, các đại môn phái lần lượt tíu tít chúc mừng nhau.

Năm vị kiếm khách bị thương được đưa tới Dược Sư cốc, còn Vệ Phong Hành chỉ bị mấy vết thương không đáng ngại, nên đã vội vàng trở về quê nhà Dương Châu.

Hoắc Triển Bạch là thủ lĩnh của lần hành động này, nên không dễ dàng thoát thân như họ Vệ - suốt 2 tháng ròng, gã phải cùng Nam Cung lão các chủ của Đỉnh Kiếm các bận rộn qua lại giữa các môn phái, hòng điều hòa lại quan hệ vi diệu giữa các môn phái khi giang hồ mới vừa biến động, tạo nên một sự cân bằng mới.

Danh vọng của đại đồ dệ Thiên Sơn phái Hoắc Triển Bạch trên giang hồ cũng đồng thời lên đến đỉnh điểm.

Ba tháng sau, khi các việc vụn vặt được giải quyết tương đối ổn thỏa, cuối cùng gã cũng trở về được Cửu Diệu sơn trang ở Lâm An, đón Thu Thủy Âm về từ Hạ phủ, tận tâm chăm sóc sức khỏe cho nàng.

Nhưng, không ngờ Nam Cung Ngôn Kỳ lão các chủ chẳng bao lâu sau đã tới, khuất thân bái phỏng. Càng khiến gã bất ngờ hơn là vị lão các chủ này lại một lần nữa lên tiếng mời gã tiếp nhiệm chức vị các chủ Đỉnh Kiếm các.

Đó cũng là lần thứ 3 trong tám năm ông đưa ra đề nghị này.

Nhưng điều khác biệt là, lần này, lão nhân đã gần như là thỉnh cầu gã.

“Tiểu Hoắc, coi như lão khiếu cầu khẩn ngươi, nhận lấy gánh nặng này đi – Nam Cung Mạch con ta bất tài, không người kế tục, nếu ngươi không đứng ra gánh vác, ta biết phải phó thác cho ai đây.” Nam Cung lão các chủ thở dài với gã, sắc mặt tiều tụy. “Tá sắp phải đi trị liệu bệnh tim rồi, nếu không chỉ sợ không sống nổi qua mùa đông này.”

Hoắc Triển Bạch từ đầu vẫn đây đẩy chối từ giật mình kinh hãi: “Gì ạ?”

Nam Cung lão các chủ tung hoàng giang hồ mấy chục năm, tu vi nội ngoại đều đã đạt tới cảnh giới tuyệt cao – thật không ngờ lại bị ác bệnh ẩn tàng trong cơ thể đã nhiều năm nay.

“Thời trẻ liều mạng quá, đến già thì phải chịu khổ thôi… hết cách rồi.” Nam Cung lão các chủ lắc đầu thở dài: “Giờ đây Ma cung tạm thời yên hơi lặng tiếng, Bái Nguyệt giáo cũng không khiêu khích nữa, coi như ta cũng biết chọn đúng thời điểm mà thoái xuất… nhưng Đỉnh Kiếm các còn một ngày không chủ, ta đây có chết cũng không thể nhắm mắt được đâu.”

Hoắc Triển Bạch cúi đầu trầm mặc.

Nam Cung lão các chủ là ân nhân của gã, nhiều năm nay luôn chiếu cố tài bồi, là một hậu bối có năng lực tương xứng, gã thật sự không nên, mà cũng không nhẫn tâm cự tuyệt lời thỉnh cầu của lão nhân này. Nhưng…

Gã chợt nghiêng đầu ngó vào bên trong một cách vô thức.

Sau tấm bình phong, Thu Thủy Âm vừa mới uống thuốc, vẫn đang say trong giấc ngủ - đơn thuốc của Liêu cốc chủ rất có hiệu quả, giờ bệnh của nàng đã thuyên giảm rất nhiều, tuy thần trí vẫn còn chưa tỉnh táo, vẫn si si dại dại, nhưng đã không còn khóc khóc cười cười, coi mỗi người đến gần nàng đều là hung thủ hại chết con mình như hồi đầu nữa.

“Ta hiểu tâm sự của ngươi, ngươi sợ làm các chủ rồi vẫn chiếu cố cho Từ phu nhân, sẽ bị người trong giang hồ nghị luận phải không?” Cơ hồ hiểu rõ nỗi niềm của gã, Nam Cung lão các chủ lên tiếng trước: “Thực ra chuyện của các người ta sớm đã biết từ lâu rồi, nhưng năm ấy… ôi. Giờ Từ Trọng Hoa cũng coi như đã đền tội, chi bằng để ta làm mai, liễu kết khoản nợ tình nhiều năm nay đi cho rồi!”

“Không!” Hoắc Triển Bạch thất kinh, buột miệng thốt lên.

“Không cần lo nghĩ,” Nam Cung lão các chủ ngỡ gã lại thoái thác, nghiêm giọng nói: “Có ta ra mặt, thử hỏi còn ai dám nói gì nữa?”

“Không! Không cần đâu.” Gã vẫn chỉ lắc đầu, ngữ điệu từ từ trầm xuống, toát lên một vẻ mệt mỏi vô cùng.

Thế nhân đều biết gã là kẻ si tình, mười mấy năm nay đều ôm mối tình sâu đậm với Thu Thủy Âm, tuy rằng người xưa đã xuất giá, song thủy chung vẫn không oán không hận, Nhưng, có ai biết được từ lâu gã đã mệt mỏi chán chường, âm thầm chuyển dịch tâm tư. Thời gian như nước cuốn trôi đi sự si cuồng của thời niên thiếu, gã vẫn tận tâm tận lực chăm sóc người thương thuở trước, song trái tim thì đã không còn tình yêu cuồng nhiệt khi xưa nữa rồi.

“Ngươi vì chuyện này mà uổng mất danh bao năm, lẽ nào lại không muốn sớm ngày đạt thành chính quả? Bình thường thì tiêu sái ung dung, sao đến khi gặp chuyện lại ngượng ngùng e lệ?” Nam Cung lão các chủ ngồi bên cạnh không rõ nội tình, còn hảo tâm khuyên giải thêm mấy câu. Lão hơi ngạc nhiên trước vẻ lãnh đạm của đối phương, nét mặt bỗng chuyển thành nghiêm khắc: “Lẽ nào… ngươi tỵ hiềm nàng – ngươi cảm thấy nàng đã gả cho người ta, lại sinh một đứa con, giờ còn mắc thứ bệnh đó, không xứng với võ lâm minh chỉ như người, có phải không?”

“Đương nhiên không phải! Ôi…” Có trăm cái miệng cũng không thể biện bạch, Hoắc Triển Bạch chỉ đành cười khổ xua tay: “Chuyện kế nhiệm Triển Bạch đáp ứng – nhưng còn chuyện này thì tạm thời đừng nhắc đến. Đợi bệnh của Thu Thủy khỏi rồi tính sau vậy.”

Nam Cung lão các chủ thở phào nhẹ nhõm, cầm chén trà lên: “Vậy thì, ta cũng có thể đến Dược Sư cốc trị bệnh sớm hơn một chút rồi.”

Nhắc đến Dược Sư cốc, khóe mắt Hoắc Triển Bạch không giấu nổi nét cười: “Phải, Tiết cốc chủ y thuật tuyệt đỉnh, nhất định sẽ trị được bệnh cho lão các chủ.”

Chỉ có điều nữ nhân đó thật rất đanh đá, không biết lão các chủ có chịu được không? Mai trắng trong cốc cũng sắp tàn cả rồi chăng? Chỉ mong bệnh của Thu Thủy sớm ngày bình phục, để gã có thể yên tâm đến Dược Sư cốc phó ước cùng nàng.

Không để ý tới vẻ mặt nhanh chóng trở nên ấm áp của gã, Nam Cung lão các chủ chỉ cúi đầu nhấp một ngụm trà, thở nhẹ một tiếng: “Nghe nói Tiết cốc chủ mới qua đời, giờ chấp chưởng Dược Sư cốc là tiền nhiệm cốc chủ Liêu Thanh Nhiễm rồi – cũng không biết bao nhiêu năm nay nàng ta ẩn cư ở đâu, đồ nhi mới chết, đã đột nhiên trở về, nghe đồn còn dắt theo một đồ đệ mới nhận nữa…”

Lão vừa nói vừa ngẩng đầu lên, đột nhiên giật mình ngạc nhiên: “Tiểu Hoắc! Ngươi làm sao vậy?”

Hoắc Triển Bạch như bị trúng tà, sắc mặt bỗng chốc trở nên tái nhợt đến rợn người. Gã nhìn chòng chọc vào Nam Cung Ngôn Kỳ, đôi mắt sáng rực lên như loài yêu quỷ: “Người… người vừa nói gì? Người nói gì?! Tiết, Tiết cốc chủ… Tử Dạ nàng… nàng làm sao?!”

Đến câu cuối cùng giọng gã đã gần như hét lên, sắc mặt trắng bệch xông thẳng tới, cơ hồ muốn bóp chặt cổ họng của lão nhân đối diện. Nam Cung lão các chủ ngây người, điểm chân lướt về phía sau như ánh chớp, đồng thời hất chén trà trong tay đi, tia nước hóa thành một đường vòng cung bắn tới huyệt Khúc Trì của đối phương.

Cơn đau nhói cuối cùng cũng làm kẻ đang kích động đến điên cuồng ấy phần nào tỉnh táo lại.

“Nàng… nàng…” Hoắc Triển Bạch sững người ra đó, lẩm bẩm một mình, nhưng lại không đủ dũng khí để hỏi câu mà gã muốn hỏi nhất.

“Phải, Tiết cốc chủ đã qua đời một tháng trước.” Nhìn thấy gã trong tình trạng này, Nam Cung lão các chủ ít nhiều cũng hiểu được phần nào, lão thở dài một tiếng nói tiếp: “Không hiểu vì sao, một nữ tử yếu tay mềm sức trói gà không chặt ấy lại dám một mình đi hành thích Giáo vương! Tiểu Hoắc, ngươi không biết sao? Đại khái trước khi các ngươi đến Côn Luân độ một ngày, nàng đã động thủ ám sát Giáo vương rồi.”

“Thật không ngờ, nữ nhân ấy, đã liều cả mạng mình, không ngờ thành công thật.”

“…” Hoắc Triển Bạch lảo đảo lùi lại, ủ rũ ngồi phịch xuống đất, toàn thân băng lạnh.

Thì ra là vậy… thì ra là vậy!

Chẳng trách lúc bọn gã xông vào Đại Quang Minh cung không thấy Giáo vương đâu – gã còn ngỡ rằng vì Đồng tạo phản nên Giáo vương bị trọng thương mà không thể xuất chiến, thì ra, là nàng đã hành thích lão! Đúng vào một ngày trước khi gã đến Côn Luân sơn, nàng đã động thủ trước một bước!

Tại sao nàng không đợi gã? Tại sao không đợi thêm một ngày nữa thôi?

Gã hiểu rõ nàng là một cô nương quyết đoán mạnh mẽ, nhưng lại chưa bao giờ tưởng tượng nổi, nữ tử bệnh tật yếu đuối này lại một thân một mình, lấy mạng đổi mạng mà khiêu chiến tên ma đầu mạnh nhất thiên hạ kia.

Chuyện mà bao nhiêu năm nay cả võ lâm dốc hết sức lực cũng chưa từng làm nổi!

Gã mệt mỏi gục đầu xuống, bàn tay lạnh buốt chống đỡ vầng trán nóng bừng, cảm giác lồng ngực đau đớn cơ hồ muốn nghẹn thở.

Vậy thì, sau khi hành thích Giáo vương, nàng đã đi đâu? Ngày hôm sau gã không thấy tung tích nàng trong Đại Quang Minh cung, làm sao nàng có thể rời khỏi nơi ấy?

Bỗng nhiên Hoắc Triển Bạch chợt nhớ lại cuộc gặp gỡ trên đường hẹp với Diệu Phong ở đồng tuyết Ô Lý Mã Tô Đài – người không rõ mặt nằm trong lòng y lộ ra một cánh tay trắng nhợt khỏi tấm áo khoác lông dày sụ, phảng phất như đang cố gắng bắt lấy thứ gì đó trong không khí.

Sắc mặt gã bỗng nhiên tái đi…

Thì ra… đó chính là nàng? Đó chính là nàng sao?!

Lúc ấy gã chỉ cách nàng có một đường tơ, vậy mà lại để gần như trong gang tấc mà biển trời cách mặt, mãi không tương phùng!

Mãi mãi không tương phùng!

Giờ khắc ấy, đau khổ và bi thương ập về như bài sơn đảo hải hoàn toàn nhấn chìm gã. Hoắc Triển Bạch vùi mặt vào hai lòng bàn tay, hai vai run lên dữ dội, gắng gượng kiềm chế cảm xúc bản thân, nhưng cuối cùng cũng không thể nào che giấu, trong chớp mắt đã nức nở òa lên.

Nam Cung lão các chủ đứng cạnh đó, tròn mắt ngạc nhiên.

Đây, là lần đầu tiên trong mười mấy năm nay lão nhìn thấy người trẻ tuổi này thất thái như vậy.

“A…” Bệnh nhân sau tấm bình phong giật mình tỉnh giấc, mơ màng bước ra, nhìn nam nhân đang vùi đầu khóc nức nở ấy, trong mắt ánh lên vẻ kinh ngạc lạ kỳ. Nàng nín thở lặng lẽ nhìn gã một lúc lâu, phảng phất như đang nhìn một đứa trẻ đang khóc nghẹn ngào, bỗng nhiên trên gương mặt nở ra một nụ cười hiền dịu, trái ngược hẳn với vẻ gắt gỏng thường này. Chỉ thấy nàng bước tới chìa tay ra, ôm người đang khóc thút thít ấy vào lòng.

Nàng khẽ vỗ nhẹ lên lưng gã, rủ rỉ thì thầm: “Ngoan nào… Mạt Nhi đừng khóc, Mạt Nhi đừng khóc. Mẹ ở đây, không ai dám bắt nạt Mạt Nhi của mẹ đâu… đừng khóc mà…”

Nàng lấy khăn tay, dịu dàng lau nước mắt trên khóe mắt gã, thùy mị mà điềm đạm, tựa như một người mẹ đang chăm sóc con yêu của mình vậy.

Bi thương chỉ bùng nổ lên trong nháy mắt, rồi biến thành trầm mặc vĩnh cửu. Hoắc Triển Bạch ngơ ngác ngẩng đầu lên, kinh ngạc nhìn nữ tử lần đầu tiên tỏ ra thân mật với mình như vậy trong bao năm ròng, gương mặt nở ra một nụ cười chua chát.

“Thu Thủy.” Gã lẩm bẩm thở dài. Nàng chỉ mỉm cười nhu thuận.

Thì ra, đúng là số trời đã định…

Gã và nàng, không ai có thể buông nhau ra.

Cứ như vậy quấn lấy nhau cả một đời một kiếp.

 

Ba tháng sau, Đỉnh Kiếm các chính thức phái ra 6 vị kiếm thủ làm sức giả, đến nghênh tiếp Hoắc Triển Bạch tới Đỉnh Kiếm các ở Mạt Lăng.

Khi Lục Kiếm cùng tung mình xuống ngựa trước cửa sơn trang, cánh cổng đóng kín lâu ngày đột nhiên bật mở, tất cả hạ nhân đều ngạc nhiên nhìn Hoắc thất công tử đang đứng sau cửa – gã mặc bộ bạch y như tuyết, tay nắm chặt thanh Mặc Hồn tuyết đen tuyền, gương mặt vẫn còn vẻ mệt mỏi sau nhiều ngày uống rượu li bì, nhưng ánh mắt đã khôi phục lại vẻ sắc bén tỉnh táo thường ngày.

“Đì thôi.” Không nói nửa câu khách sáo, gã thản nhiên quay người, dường như đã biết trách nhiệm không thể trốn trách của bản thân.

“Mạt Nhi! Mạt Nhi!” Từ phu nhân ở nhà trước nghe được động tĩnh bên này, liền chạy ra như bay: “Con muốn đi đâu?” Ánh mắt nàng kinh hoảng như con hươu nhỏ sợ hãi, nắm chặt lấy tay gã: “Đừng đi! Những người đó sẽ hại con đấy, con mà đi thì không về được đâu!”

Vệ Phong Hành và Hạ Tiên Vũ đưa mắt nhìn nhau, thoáng ngần ngừ lưỡng lự.

Ánh mắt Hoắc Triển Bạch dịu dàng mà bi thương, cúi đầu vỗ nhẹ lên người nàng: “Đừng sợ, không có chuyện gì đâu.” Sau đó, gã nhẹ nhàng nhưng kiên quyết gỡ tay nàng ra, ngước mắt ra hiệu, lập tức có hai lão thị nữ trứơc giờ vẫn luôn chăm sóc cho Thu Thủy Âm bước tới đỡ nàng lùi lại.

Gã cùng lục kiếm còn lại rảo bước rời khỏi sơn trang, tung mình lên ngựa, phi thẳng đến Đỉnh Kiếm các ở Mạt Lăng.

“Triển Bạch!” Lúc cả đoàn nhân mã thúc ngựa phóng đi, Thu Thủy Âm đẩy hai người thị nữ già ra, loạng choạng xông ra cửa, gào rõ tên gã: “Triển Bạch, đừng đi!”

Bàn tay nắm chặt dây cương của Hoắc Triển Bạch khẽ run run, nhưng rốt cuộc vẫn không ngoảnh đầu lại.

“Thanh Nhiễm nói với ta, bệnh điên của nàng chỉ là do nhất thời kích động, đến giờ phải bình phục từ lâu rồi mới đúng.” Vệ Phong Hành rõ ràng đã hiểu rõ mọi chuyện, thúc ngựa chạy song song với gã, thấp giọng nói: “Nàng cứ giả ngây giả dại như vậy, đại khái chăc là muốn giữ đệ lại – đệ cũng đừng trách nàng.”

“Đệ biết.” Gã chỉ gật đầu, đáp: “Đệ không trách nàng.”

Vệ Phong Hành trầm ngâm hồi lâu, cuối cùng cũng thẳng thắn hỏi: “Đệ có lấy nàng không?”

Hoắc Triển Bạch im lặng, một lúc lâu sau, gã mới lên tiếng: “Đệ sẽ chăm sóc nàng cả đời.”

Vệ Phong Hành chớp chớp mắt, biết rõ đằng sau lời hứa kiên quyết này là một lời cự tuyệt cũng kiên quyết không kém, chỉ đành thở dài một tiếng.

Hai người cứ thúc ngựa trong im lặng, cuối cùng Vệ Phong Hành chau mày nói: “Thất đệ, phải phấn chấn lên!”

“Được.” Hoắc Triển Bạch đột nhiên bất cười, gật đầu: “Huynh cứ yên tâm làm phận chồng tốt của huynh đi.”

Một buổi sáng tháng thứ tư sau khi trở về từ chuyến viễn du Côn Luân, Hoắc Triển Bạch được lục kiếm còn lại hộ tống tới Mạt Lăng, nhận lấy Hoàng Kim Cửu Đỉnh từ tay lão các chủ Nam Cung Ngôn Kỳ trước mặt thiên hạ võ lâm, đeo Mặc Hồn kiếm ngồi lên bảo tọa trong các. Theo quy tắc cũ, triều đình cũng phái đặc sứ đến chúc mừng, mang theo Thượng Phương Bảo Kiếm và miễn tử kim bài của hoàng thượng ban tặng – Đỉnh Kiếm các từ ngày được Thư Dạ công tử sáng lập đã kiêm giữ đỉnh kiếm, cân bằng lực lượng triều đình và dân gian, đến cả đương kim thiên tử cũng không dám coi nhẹ.

Toàn các vỗ tay như sấm, đại đệ tử đăng lên bảo tọa chí tôn, trên dưới Thiên Sơn phái đều như nở hoa trên mặt – sư phụ, sư nương, sư huynh, sư muội đều lần lượt bứơc đến chúc mừng, song vị tân nhiệm võ lâm minh chủ này chỉ mỉm cười điềm đạm, chẳng có lấy nửa phần hoan hỉ, chỉ khi Vệ Phong Hành bước tới kính rượu, gã mới khẽ gật đầu một cái.

Vệ ngũ, phải, đệ hứa sẽ làm một các chủ tốt.

Dù đệ còn muốn được như huynh làm một người bình thường, ở bên kiều thê ái tử sống đến khi tóc bạc da mồi gấp bội phần.

 

Khi Nam Cung lão các chủ đến Dược Sư cốc trị bệnh, minh chủ tân nhiệm dù sự vụ bận rộn, nhưng rốt cuộc cũng cùng đi với lão.

Trận pháp đá trắng vẫn chầm chậm biến ảo trong gió tuyết, nhưng đoàn người ra cửa đón tiếp bọn họ lại không thấy bóng áo tím kia đâu. Khi Liêu Thanh Nhiễm dẫn theo các thị nữ khai mở thạch trận, nhìn thấy nhành hoa trắng gài trên tóc mai họ, Hoắc Triển Bạch chỉ thấy trái tim mình đau thắt, cơ hồ muốn lập tức rơi lệ.

Liêu Thanh Nhiễm nhìn gã, ánh mắt đầy vẻ tiếc thương, nhưng thủy chung vẫn không nói tiếng nào, chỉ lặng lẽ dẫn Nam Cung lão các chủ về Hạ Chi viên.

“Hoắc công tử, xin mời đến Đông Chi quán nghỉ ngơi.” Bên tai gã chợt vang lên một giọng nói quen thuộc, nghiêng đầu lại nhìn, thì ra chính là Sương Hồng.

Chỉ mấy tháng không gặp, ả nha đầu lanh lợi phóng khoáng này đã đột nhiên trở nên trầm lặng đi rất nhiều, hai mắt đỏ lựng sưng phồng lên, vẻ như những ngày này đã khóc quá nhiều vậy.

Gã nghiến răng gật gật đầu, không đợi Sương Hồng dẫn đường đã lặng lẽ bước đi.

Con đường ấy, tám năm nay gã từng đi qua không biết bao nhiêu lần. Giờ đây bước lại trên đó, mỗi bước đều như vạn kiếm xuyên tâm.

Bước tới bậc cấp trước nhà, cuối cùng dũng khí của gã cũng cạn kiệt, cứ ngây ngây ngẩn ngẩn nhìn chăm chăm vào cây mai trắng đã tàn hết kia – con điêu trắng như tuyết đang đậu trên cành cây, lặng lẽ nhìn gã, ánh mắt tràn ngập bi thương.

“Đợi ta trở về cùng uống rượu!” Lúc đi khỏi đây, gã từng vẫy tay với nàng, cười lớn: “Nhất định sẽ thắng cô!”

Vậy mà, giờ đây hai người đã Sâm Thương vĩnh cách rồi.

Nữ nhân mạnh mẽ như vậy – nhìn dọc nhìn ngang cũng đâu giống như hồng nhan bạc mệnh chứ!

“Hoắc công tử…” Sương Hồng chợt đưa lên một vật, chính là tấm khăn tay của gã: “Đồ của công tử.”

Hoắc Triển Bạch cúi xuống, liếc thấy hàng bút tích mờ nhòa trên tấm khăn trắng, trái tim như bị vò nát thêm lần nữa…

“Vãn lai thiên dục tuyết, năng ẩm nhất bôi vô?”

Đó là bức thư gã bảo Tuyết Diêu mang cho nàng. Nhưng còn nàng, nàng đã vĩnh viễn không thể nào trở về hội ước rồi.

Sương Hồng nhẹ giọng nói: “Lúc rời khỏi Dược Sư cốc, cốc chủ còn đặc biệt dặn dò Sương Hồng: nếu Hoắc công tử quay lại, thì phải nói với người rằng, rượu đã chôn dước gốc mai kia rồi.”

“Dưới gốc mai?” Gã hoang mang nhìn theo hướng ngón tay Sương Hồng, bỗng nhiên sực nhớ ra…

Vào cái đêm tĩnh mịch ấy, gã và nữ tử áo tím đã cùng đoán quyền uống rượu, ngủ mê ngủ mệt dưới gốc cây ấy. Chính vào khoảnh khắc tỉnh lại dưới bầu trời đêm, gã bỗng nhiên có được dũng khí cáo biệt với bao chuyện trong quá khứ, bởi cuộc đời gã đã có một nguồn sinh lực mới.

Trăng sáng đêm ấy, những bông mai trắng rơi lả tả, người ngủ say trong lòng, tất cả phảng phất như ở ngay trước mắt, vậy mà, lại phảng phất như ở trong tấm gương, vĩnh viễn cũng không thể nào chạm tới.

Gã nhìn thấy dưới gốc mai trắng đùn lên một nấm đất, liền cúi người đào, quả nhiên liền thấy ngay một vò rượu.

Sương Hồng nhỏ nhẹ nói: “Cốc chủ còn nói, nếu người không thể trở về, rượu này tốt nhất cứ chôn đó đã. Uống rượu một mình dễ hại đến thân thể, đợi công tử có người đối ẩm, rồi hãy…”

Hoắc Triển Bạch nghe đến câu cuối cùng, chán nản đặt vò rượu xuống thất thần nhìn cây mai đã tàn lụi.

Lúc ấy, trong lòng gã bỗng dâng lên một nỗi đau không thể kìm nén, dồn dập như bài sơn đảo hải. Gã chỉ muốn kêu lên thật lớn, nhưng một chữ cũng không thốt nổi thành lời, cuối cùng đành trở tay chém bừa một kiếm xuống hàng lan can ngọc thạch, một mảng ngọc bạch lớn liền vỡ nát rơi xuống.

Sương Hồng không ngăn cản gã, chỉ là thấy gã chém xuống một kiếm như người phát điên, cuối cùng cũng không kìm nổi che mặt thầm nhủ: Nếu cốc chủ không chết… vậy thì, giờ này hai người bọn họ, có lẽ đã chụm đầu bên nhau dưới gốc mai kia, nâng chén nói cười rồi nhỉ?

Tám năm nay, chỉ khi Hoắc thất công tử đến Dược Sư cốc dưỡng bệnh, ả mới thấy cốc chủ được vui vẻ. Các thị nữ trong cốc ai nấy đều mong mỏi nàng có thể quên được thiếu niên say ngủ dưới lớp băng kia, mà bắt đầu một cuộc đời mới.

Vậy mà, tất cả đều đã vỡ tan.

Cảm giác đau đớn lúc ấy thật quá mãnh liệt, vượt xa khả năng chịu đựng của gã. Lòng gã như sôi lên, mà không biết phát tiết vào đâu, Hoắc Triển Bạch điên cuồng xuất kiếm, chém nát tất cả những gì trước mặt. Ngọc thạch bị Mặc Hồn kiếm chém bay lả tả như tuyết, rơi đầy dưới đất. Nhưng, qua mười mấy chiêu, thanh kiếm đang giơ giữa không trung định chém xả xuống chợt bị một luồng sức mạnh ôn hòa cản lại.

“Người chết cũng đã chết rồi,” người kia lặng lẽ bước tới, đỡ lấy một kiếm của gã: “Thất công tử, dù thế nào ngài cũng không định dỡ cả cố cư của Tiết cốc chủ xuống chứ?”

Hoắc Triển Bạch ngẩng đầu, nhìn thấy mái tóc dài ánh lên sắc lam kỳ dị, thất thanh thốt lên: “Diệu Phong?”

“Không, Diệu Phong đã chết rồi,” người kia chỉ mỉm cười điềm đạm: “Ta tên Nhã Di.”

 

Trong Hạ Chi viên, cây cối um tùm, bầy bướm dạ quang bay lượn như những ánh sao băng.

Hai người ngồi trong tiểu đình bên bờ suối nước nóng, không gian im lặng như tờ.

Nhã Di kể lại mọi chuyện xảy ra ở Đại Quang Minh cung, sau đó bắt đầu trầm mặc. Hoắc Triển Bạch không nói gì, mở vò rượu ủ dưới gốc mai ra, ngồi trong tiểu đình bên bờ suối tự rót tự uống đến say mèm.

Tuyết Diêu cũng rúc lên mấy tiếng đậu xuống bàn, uống rượu trong chén của gã. Con chim này hôm nay dường như còn uống hung hơn cả chủ nhân nó, chẳng mấy chốc đã đứng không vững, rũ cánh nằm ngoẹo đầu trên bàn.

“Nàng từng nói, uống rượu một mình có hại cho sức khỏe.” Nhã Di nhìn gã, nét mặt vẫn điềm đạm như thế.

“Vậy thì… ngươi uống với ta đi!” Hoắc Triển Bạch mìm cười nâng chén, mời đối thủ lạ mặt – gã còn chưa hỏi người này rốt cuộc có quan hệ gì với Tử Dạ. Trên đồng tuyết Ô Lý Nhã Tô Đài, y từng bất chấp tất cả một mình chống lại Thất Kiếm, tất cả chỉ vì muốn kịp thời đưa nàng đi chữa trị.

Vậy mà, cuối cùng nàng vẫn chết trước mặt y.

Giờ đây, trên gương mặt của vị tiền nhiệm Diệu Phong sứ này nở ra một nu cười ấm áp, lặng lẽ ngồi ở nơi thuở trước nàng đã từng ngồi, một đàn bướm đậu đầy trên vai, lật giở trang sách, nói năng đĩnh đạc, bình tĩnh tự tại – nhưng càng như vậy, Hoắc Triển Bạch càng không thể tưởng tượng được trong lòng y rốt cuộc đã chôn giấu bao nhiêu bi thương đau khổ.

“Không, tốt nhất để đợi người khác đến uống với thất công tử thì hơn.” Nhã Di lặng lẽ cười, giở một quyển y thư: “Sư phụ nói rượu có thể làm hỏng chuyện, là đệ từ cuối cùng của người, ta tuyệt đối không thể tham uống như Tiết cốc chủ được.”

Hoắc Triển Bạch cảm thấy hơi bất ngờ: “Ngươi đã bái sư sao?”

Nhã Di gật đầu, mỉm cười nói: “Chuyện thế gian này, ai mà ngờ được chứ?”

Giống như người ta không thể biết được trong tương lai mình sẽ gặp người như thế nào, gặp phải chuyện gì, cũng vĩnh viễn không biết được vận mệnh khi nào sẽ thay đổi. Có lúc, chỉ một ánh mắt vô tâm, một cuộc gặp gỡ tình cờ, cũng có thể thay đổi cả cuộc đời một con người cũng không chừng.

Y từng là một vương tôn công tử áo gấm cơm vàng, nhưng rồi lại gặp phải cảnh nước mất nhà tan. Rồi y gặp Giáo vương, trở thành một thanh kiếm vô cảm. Sau đó, y lại gặp nữ tử đã thức tỉnh y, để y trở lại với con người thật của mình.

Thế rồi, nàng lại mau chóng bỏ y mà đi.

Y vượt ngàn dặm đưa di thể nàng trở về, sau đó quỳ trong tuyết trước trận đá ngoài Dược Sư cốc, khẩn cầu Liêu cốc chủ thu nhận làm môn hạ, ba ngày không đứng dậy.

“Tại sao phải học y thuật?” Liêu cốc chủ hỏi y: “ngươi chỉ là một kẻ sát nhân.”

Đúng vậy, y chỉ là một kẻ sát nhân – nhưng, dù là kẻ sát nhân, cũng có những lúc sống còn không bằng chết.

Chẳng qua y chỉ không muốn có cảm giác đó nữa: chạy như điên cuồng mà không có lối, trời đất vô tình, chỉ có thể mở mắt trân trân ra nhìn người quan trọng nhất của mình chịu đủ thống khổ ngay bên cạnh, từ từ chết đi, mà hận không thể lấy mạng mình ra đổi lại.

Vì vậy, y không muốn có nhiều người khác cũng phải chịu đựng nỗi đau đớn này nữa.

Liêu cốc chủ trầm mặc hồi lâu, cuối cùng chầm chậm gật đầu.

“Ngươi biết không? Khai sơn sư tổ của Dược Sư cốc, cũng từng là một kẻ sát nhân.”

Vậy là, Diệu Phong liền mai danh ẩn tính ở lại đây, trở thành đệ tử cuối cùng của Liêu cốc chủ. Y chuyển hết niềm đam mê cuồng nhiệt với võ học vào y học, mỗi ngày đều nhốt mình trong Tàng Thư các ở Xuân Chi đình, chuyên tâm nghiên cứu những thư tịch chất đầy trên 4 vách: “Tiêu U”, “Ngọc Long”, “Trửu Hậu Phương”, “Ngoại Đài Bí Yếu”, “Kim Lan Độn Kinh”, “Thiên Kim Dực Phương”, “Thiên Kim Phương”, “Tồn Chân Đồ”, “Linh Khu”, “Tố Vấn Nan Kinh”… phóng hạ đồ đao, lập địa thành phật.

Sau đêm tuyết trên đồng hoang ấy, y đã hoàn toàn thoát thai hoán cốt.

Y nhìn Hoắc Triển Bạch không ngừng tự rót tự uống, đột nhiên cúi đầu thở dài – thất công tử, ngươi có hận ta không? Nếu không phải là ta, nàng sẽ không mạo hiểm xuất cốc, nếu không phải ta dưa nàng đi, các người cũng không đến nỗi ở giờ khắc cuối cùng gần trong gang tấc mà biển trời cách biệt.

Song, những câu hỏi này, rốt cuộc y cũng không lên tiếng hỏi đối phương.

Đến giờ mới hỏi, phỏng có ích gì?

Hoắc Triển Bạch nắm chặt tay lại, chén rượu sứ trắng phát ra âm thanh lạo xạo vỡ nát, dường như phải cố gắng lắm mới đủ dũng khí, cuối cùng gã mới lí nhí lên tiếng: “Nàng… đi có nhẹ nhàng không?”

“Gương mặt vẫn còn nụ cười.”

“… Vậy thì tốt.”

Sau đoạn đối thoại đơn giản, hai người lại đắm chìm trong im lặng.

Nhã Di quay mặt đi, không muốn nhìn vào mắt đối phương, bàn tay cầm quyển sách không thể khống chế mà khe khẽ run rẩy.

Phải. Đó là lời nói dối. Cái chết của nàng, thực ra cực kỳ thê thảm và tuyệt vọng.

Y sẽ nhớ mãi dáng vẻ run rẩy của nàng khi cố kiềm chế lúc độc chất phát tác, nhớ mãi bàn tay nàng nắm chặt lấy vai y thế nào, nhớ mãi lúc nàng hấp hối ngước mắt lên nhìn bầu trời xám xịt đang đổ tuyết, mừng rỡ reo lên như đứa trẻ. Đương nhiên, y cũng nhớ mũi kim châm quyết đoán đâm sâu vào huyệt đạo nơi cổ họng nàng – những ký ức ấy tựa như một thanh đao, mỗi lần nhớ đến là lại cắt sâu vào tim một vết thương sâu hoắm, chỉ cần y còn sống một ngày, thứ hình phạt lăng trì này sẽ mãi không bao giờ dừng lại.

Một mình y chịu đựng sự giày vò của ký ức này đã là quá đủ, sao lại phải thêm một người nữa làm gì.

“Nàng… chôn ở đâu?” Cuối cùng, Hoắc Triển Bạch vẫn không kìm được lên tiếng hỏi.

“Ở mộ địa thôn Ma Già.” Nhã Di lặng lẽ nói: “Bên cạnh người đó.”

Người đó… cuối cùng, vẫn là người đó ư?

Hoắc Triển Bạch nhìn mặt nước trống không, đột nhiên thấy trong lòng bình lặng, ngọn lửa đau khổ đang thiêu đốt gã đều đã tắt lụi, y không còn tị hiềm với người ở bên nàng trong thời khắc cuối cùng nữa, cũng không còn đau khổ vì mình đã lỡ dở cả đời nữa – bởi vì đến cuối cùng, nàng cũng chỉ thuộc về vùng đất lạnh lẽo ấy.

Đông chi dạ, hạ chi nhật. Bách tuế chi hậu, quy vu kỳ thất.

“Nghe nói ngài đã trở thành các chủ Đỉnh Kiếm các.” Nhã Di chuyển chủ đề mới, gương mặt vẫn mang một nụ cười lãnh đạm: “Chúc mừng!”

“Nếu có thể lựa chọn, ta thà ở Dược Sư cốc đến già giống ngươi còn hơn…” Hoắc Triển Bạch thở dài một hơi từ trong lồng ngực, hoàn toàn không có vẻ gì là vui vẻ: “Nhưng chắc phải chết đi một lần giống ngươi, chắc mới có thể sống được theo ý mình trở lại nhỉ? Ta thì không được.”

“Những lời này, thật không giống khẩu khí của người sắp trở thành bá chủ cõi Trung Nguyên chút nào…” Nhã Di vẫn chỉ mỉm cười, giọng nói đột nhiên thay đổi, thản nhiên tiếp lời: “Đồng cũng mới bước lên ngọc tọa của Giáo vương ở Đại Quang Minh cung – từ nay trở đi, hai người lại đối đầu với nhau rồi đó.”

“Gì hả?” Hoắc Triển Bạch kinh ngạc ngẩng đầu: “Đồng trở thành Giáo vương? Làm sao ngươi biết?”

“Ta tự nhiên biết,” Nhã Di lắc đầu: “Ta vốn đến từ đó mà.”

Ánh mắt y chợt thoáng hiện lên vẻ u sầu, quay lại nhìn Hoắc Triển Bạch: “Ngài là bằng hữu tốt nhất của nàng, Đồng là đệ đệ của nàng, giờ đây hai người đã trở thành kẻ thù thề không đội trời chung - ở dưới cửu tuyền nàng mà biết được, không biết sẽ buồn đến thế nào.”

Hoắc Triển Bạch cúi đầu, chống tay lên trán, cảm giác như lòng bàn tay lạnh buốt còn trán thì nóng hầm hập như lửa đốt.

“Vậy ngươi muốn chúng ta phải làm sao?” Gã lẩm bẩm cười khổ: “Từ xưa chính tà đã không thể đứng chung.”

“Ta chỉ muốn hai người ngồi xuống uống một ly.” Nhã Di chỉ im lặng mỉm cười, nhưng ánh mắt lại nhìn ra sau lưng Hoắc Triển Bạch.

Ai? Có ai ở phía sau?! Hơi rượu trong người Hoắc Triển Bạch lập tức tan đi quá nửa, giật mình quay ngoắt đầu lại, bàn tay đặt lên đốc kiếm theo bản năng, khóe mắt liếc thấy một bóng áo choàng đen tuyềnphủ tới tận chân. Đối phương có đôi mắt màu xanh nhạt sang rực, không biết đã đứng cạnh đó nghe từ khi nào. Lúc này, chỉ thấy hắn lặng lẽ lướt ra khỏi rừng cây, bước vào tiểu đình.

“Đồng?” Hoắc Triển Bạch kinh ngạc nhìn vị Giáo vương tân nhiệm đột nhiên hiện thân nơi Dược Sư cốc này, tay không rời đốc kiếm.

Kẻ này mới đoạt lấy quyền lực tối cao ở Đại Quang Minh cung sau trận bạo loạn đầy máu tanh, lúc này sao không yên thân tọa trấn Tây Vực, lại tới nơi này làm gì? Lẽ nào hắn biết Nam Cung lão các chủ bệnh nặng, muốn đến làm loạn cục diện võ lâm Trung Nguyên?

Nhưng đúng lúc này, Nhã Di lại lặng lẽ lui đi, chỉ để hai người một mình với nhau.

Giáo vương trẻ tuổi không nói câu nào, càng không để lộ sát khí, chỉ im lặng ngồi xuống đối diện với gã, tự tiện nhấc vò rượu lên, rót đầy chiếc chén trước mặt mình – sau đó, cầm lên, khẽ gật đầu với gã một cái, rồi dốc lên uống cạn.

Hoắc Triển Bạch ngẩn người nhìn hắn uống liền ba ly, nhìn rượu rỉ ra nơi khóe miệng, chảy dọc xuống cổ chui vào trong áo.

Hắn uống quá nhanh, nên bị sặc trong họng, buông chén xuống bám vào cạnh bàn ho lên sù sụ, gương mặt trắng nhợt hiện lên sắc hồng kỳ lạ. Nhưng vị giáo chủ tân nhiên căn bản không để ý, chỉ liên tiếp dốc rượu vào miệng, không ngừng ho, lệ bắt đầu tràn ra khỏi đôi mắt xanh lam. Hắn lúc này, hoàn toàn không hề giống một vị tân Giáo vương, trong tay khống chế cả Tây Vực, mà chỉ giống như một đứa trẻ đang hoang mang không biết phải làm gì.

Hoắc Triển Bạch nhìn chằm chặp vào đối phương, đột nhiên một luồng nhiệt lưu trào dâng lên trong lòng, trong thoáng chốc, cái gì là chính tà, cái gì là võ lâm gã đều gạt hết sang một bên. Gã ném Mặc Hồn kiếm xuống đất, vươn tay đoạt lại vò rượu rót đầy chiếc ly trước mặt, ngửa đầu uống cạn…

“Nào!”

Gã cười lớn dốc cạn ly rượu, liệt tửu nồng nồng đốt lên một con đường lửa trong cổ họng, cơ hồ muốn thiêu cháy cả tim phổi.

Phải rồi, nàng đã nói, uống rượu một mình hại sức khỏe. Thì ra, vò rượu mạnh này là để thiêu đốt nỗi sầu của hai người.

Vậy là, hai người cứ lặng lẽ uống như vậy, ngươi một chung, ta một chén, không nói năng, cũng không tính toán, thậm chí không trao đổi với nhau một ánh mắt. Tân Nhiệm các chủ Đỉnh Kiếm các và Giáo vương trẻ tuổi của Đại Quang Minh cung cứ ngồi đối diện với nhau như thế, lặng lẽ từ từ uống cạn kỷ niệm duy nhất nàng để lại cho hai người.

Dần dần, cả hai đều say khướt. Trong cơn say, hai người loáng thoáng nghe thấy tiếng khất lật xa xăm ngoài cửa sổ, một người lảo đảo vỗ bàn cười lớn, giơ chén rượu lên với hư không: “Lục nghị tân phôi tửu, hồng nên tiểu hỏa lô. Vãn lai thiên dục tuyết, năng ẩm nhất bôi vô?”

Rồi sau đó, chén rượu ấy được rãi xuống mặt đất, mau chóng thấm vào trong đất đỏ không còn tăm tích. Đồng hai mắt mông lung nhìn đối phương vừa hát vừa cười, mơ hồ hiểu ra gã đang đi tới một cuộc hẹn vĩnh viễn chẳng thể thành hiện thực…

 Ai người ở mãi cùng ta?

Chỉ mình cố chấp với mình mà thôi!

Rượu say tiếp người ba vạn bữa,

Giật mình tỉnh dậy biết hôm nao.

 

 Hắn đột nhiện bật cười lớn: hôm nay đã là hôm nào rồi?

Say một trận, cười một trận, nhưng gã hiểu rõ đêm nay là đêm khúc nhạc đã tàn, người sẽ ly tán.

“Ta nhìn ra được, tỷ tỷ thực ra rất thích ngươi.” Đồng chăm chú nhìn đối phương, đột nhiên cất tiếng: “Nếu không phải vì cứu ta, lúc này nhất định tỷ ấy đã ngồi đây uống rượu với ngươi rồi.”

Hoắc Triển Bạch ngưng uống, nhìn vị Giáo vương trẻ tuổi, đột nhiên nhận ra đôi mắt hắn xanh thẳm đến lạ lùng – tên sát thủ tuyệt đỉnh, tàn khốc mà tinh tế này, sau trận mưa máu gió tanh đã ngồi lên ngọc tọa của Giáo vương Tây Vực, lúc này bỗng nhiên trở nên yếu đuối tựa một gã thiếu niên non nớt.

Nhưng không đợi Hoắc Triển Bạch nói gì, Đồng đã ném chén rượu đến trước mặt gã: “Không nói chuyện này nữa, uống rượu!”

Hai người uống hết sức tận tình, hết sạch cả một vò rượu mạnh lâu năm. Đoạn ký ức sau đó trở nên mơ hồ, gã chỉ nhớ hai người đã dông dài rất nhiều chuyện, về võ lâm, về thiên hạ, về kiến thức võ học…

“Sang năm, ta sẽ lấy Tinh Thánh Nữ Sa La.” Trong cơn say, Đồng đã buông một câu như vậy.

Gã ngây người kinh ngạc, ngẩng đầu lên nhìn thanh niên áo đen trước mặt mình.

“Ta sẽ thay nàng giết chết Hồi Hột vương, giúp gia tộc nàng đoạt lại đại quyền.” Đồng lạnh lùng nói.

“Ồ?” Hoắc Triển Bạch hơi thất thần, lẩm bẩm nói: “Muốn ngồi vững trên ngọc tọa ấy… vất vả lắm phải không?”

“Hà…” Đồng cầm chén rượu, cười ngây ngô: “Phải vậy thôi, cứ nhìn Giáo vương tiền nhiệm là biết rồi. Có điều…” Hắn đột nhiên liếc xéo Hoắc Triển Bạch một cái, đôi mắt yêu dị lóe lên một tia sang băng lạnh: “Ngươi cũng không hơn ta bao nhiêu. Người Trung Nguyên gian trá, tâm cơ lại càng thâm trầm – ngươi cứ nhìn tên Diệu Không đó thì biết rồi.”

Hoắc Triển Bạch giật mình, trầm mặc, gượng rặn ra một nụ cười chua chát.

Thật là tức cười – tân nhiệm các chủ của Đỉnh Kiếm các không ngờ lại cùng tân nhiệm Giáo vương của Ma cung uống rượu mật đàm ở Dược Sư cốc, đốc bầu tâm sự tựa một đôi sinh tử chi giao!

Vò rượu cạn sạch, hai người cứ như vậy thiếp đi trong tiểu đình bên bờ suối.

Trước lúc chìm hẳn vào giấc ngủ, Đồng đột nhiên nhổm lên nhìn gã, lẩm bẩm nói: “Hoắc thất, ta không muốn làm kẻ địch của ngươi.”

Hoắc Triển Bạch cơ hồ như cũng hiểu được ý hắn: “Ngươi… đến cầu hòa phải không?”

Đồng gà gật gục xuống mặt bàn, đẩy một vật ra trước mặt gã: “Cầm đi!”

Tuy đã say đến khật khừ, song Hoắc Triển Bạch vẫn không khỏi giật mình: “Thánh Hỏa lệnh? Tín vật của Đại Quang Minh cung Giáo vương?”

“Ta hy vọng ước hẹn kia không chỉ có thế, mà là trong lúc chúng ta vẫn còn tại vị, đều không phải gặp nhau bằng binh đao. Không đánh nữa… thật sự không đánh nữa… ngươi chết ta sống… vì cái gì chứ?”

Gã không thể xác định lúc ấy Đồng có say thật không, bởi lúc đẩy tín vật quý giá đó tới trước mặt gã, đôi mắt yếu ớt kia chợt hiện lên thần sắc kiên định lạnh lung: đôi mắt tím sẫm, nguy hiểm mà sâu không thấy đáy.

Giáo vương trẻ tuổi giơ một tay lên: “Ngươi có đồng ý không?”

Ngày hôm sau tỉnh lại, gã đã nằm trong phòng ấm áp.

Hoắc Triển Bạch mở mắt trong ánh mặt trời chói chang, chỉ thấy đầu đau như búa bổ. Bên tai phảng phất có tiếng nhạc, u nhã mà thần bí, mang theo một vẻ u buồn không thể diễn tả bằng lời. Gã chống tay ngồi dậy, dưới gốc mai ngoài cửa sổ, nam tử có mái tóc xanh lam kia buông cây khất lật xuống, quay đầu lại mỉm cười: “Hoắc thất công tử tỉnh rồi?”

Hoắc Triển Bạch khẽ chau mày, đưa mắt nhìn quanh quất: “Đồng đâu?”

“Đi từ lúc trời chưa sang.” Nhã Di mỉm cười: “Đại khái là sợ người của Đỉnh Kiếm các trông thấy sẽ phiền phức cho cả hai bên.”

Hoắc Triển Bạch thở hắt ra một tiếng, dựa người ra sau, nhắm mắt lại, cẩn thận nhớ lại trận rượu thỏa thuê đêm qua – nhưng lưng gã chợt đè lên vật gì đó vừa cứng vừa lạnh buốt. Gã vòng tay cầm lên xem thử, không ngờ lại là một miếng lệnh bài đúc bằng huyền thiết, bên trên khắc hình thánh hỏa cháy hừng hực.

Thánh Hỏa lệnh? Khoảnh khắc đó, gã chợt thấy đầu óc tỉnh táo hẳn ra.

Đoạn đối thoại đêm trước, bỗng nhiên hiện lên rõ ràng trong óc.

Nhã Di mỉm cười: “Đồng mang đi Mặc Hồn kiếm của ngài làm tín vật, hắn nói, hắn sẽ tuân thủ ước định của hai người.”

“Gì hả? Mặc Hồn kiếm?!” Gã giật mình sực tỉnh, đưa tay sờ thử, quả nhiên thanh bội kiếm đã không còn bên mình. Hoắc Triển Bạch thoáng biến sắc, lắc đầu thật mạnh, khổ sở nhớ lại xem mình và Đồng lúc vỗ tay lập thệ đã nói những gì.

“Những năm còn sống, Trung Nguyên và Tây Vực sẽ không khai chiến.” Nhã Di nghiêm giọng nhắc lại từng chữ một.

“À… phải rồi, ta nhớ ra rồi.” Hoắc Triển Bạch cuối cùng gật đầu, sâu trong đáy mắt lóe lên một tia lạnh lẽo.

“Không phải ngài định nuốt lời chứ?” Nhã Di chau mày.

“Nuốt lời?” Hoắc Triển Bạch cười khổ: “Ngươi cũng xuất than từ Tu La trường, vậy ngươi cảm thấy loại người như Đồng có đáng tin không?”

Nhã Di trầm mặc hồi lâu, rồi mỉm cười khẽ lắc đầu.

“Ngày ấy hắn để Thất Kiếm xuống núi, có lẽ đã tính toán Từ Trọng Hoa hiểu rõ mọi chuyện trong Ma cung không thể để y sống trở về Trung Nguyên được kết minh với loại người này, chi bằng chọn một đồng minh khác đáng tin cậy hơn – còn đề nghị tạm thời đình chiến lúc đó, có thể là vì hắn cần thời gian để chấn chỉnh lại Đại Quang Minh cung.” Hoắc Triển Bạch chống tay lên trán, lẩm bẩm nói tiếp: “Ngươi đợi mà xem, khi hắn khống chế được Hồi Hột, lại bồi dưỡng được một đám sát thủ tinh anh, tất sẽ sầm sập kéo tới mà khai chiến với võ lâm Trung Nguyên thôi.”

Song mục Nhã Di sang rực lên, mỉm cuời nói: “Khả năng này cũng không phải là không có.”

Không người nào hiểu rõ gã sát thủ chi vương trong Tu La tường ấy hơn y. Đồng là loại người cực lỳ nguy hiểm, năm xưa Giáo vương muốn y ở bên như hình với bóng bảo vệ, thực chất chủ yếu là vì đề phòng con người này mà thôi.

“Diệu Phong sứ, ngươi đứng về phía nào đây?” Hoắc Triển Bạch mỉm cười, vờ như vô ý hỏi một câu.

Gương mặt Nhã Di vẫn giữ nguyên nụ cười ấm áp, nghe câu hỏi sắc bén của đối phương mà vẫn không đổi sắc: “Diệu Phong đã chết. Nhã Di chỉ là một người hành y – lương y như từ mẫu, tự nhiên sẽ coi các vị như nhau.”

Hoắc Triển Bạch nhìn y đầy thâm ý, nhưng cũng chỉ trầm mặc không nói.

“Vết thương của bọn Hạ Tiên Vũ, bao giờ có thể hồi phục?” Bỗng nhiên, gã lên tiếng hỏi một câu chẳng hề lien quan.

Nhã Di ngần ngừ một chút rồi đáp: “Gân ở ngón cái của năm vị kiếm khách đều đã đứt, cho dù nối gân thành công, ít nhất cũng cần 3 năm mới hoàn toàn hồi phục được như trước khi bị thương.”

“Ba năm à…” Hoắc Triển Bạch lẩm bấm nói một mình: “Xem ra mấy năm tới, không đình chiến cũng không được rồi.”

Cục thế giữa Trung Nguyên và Tây Vực không phải sức mạnh một nguời là có thể khống chế được. Thành kiến môn phái, quan niệm chính tà tích lũy từ nhiều năm nay đã khiến hai thế lực như nước với lửa. Cho dù hai người bọn gạ thật sự không ý định động võ, nhưng những người bên dưới thì từ lâu đã không thể nhẫn nại – đáng sợ hơn nữa, có thể ý thù địch và sự cảnh giác với đối phương của cả hai chưa bao giờ giảm sút, tất cả mọi chuyện đều chỉ là cái vỏ để che đậy, để tích lũy them sức mạnh hủy diệt đối phương, sau đó mới khai chiến lần nữa!

“Nếu sau này không thể tránh khỏi một trận chiến,” trầm mặc một lúc lâu, Nhã Di bỗng mỉm cười, khẽ cúi người xuống, đưa một mảnh Hồi Thiên lệnh, “thì đến lúc ấy, hai người cứ đến Dược Sư cốc…”

“Ta sẽ tận hết sức lực để bảo toàn tính mạnh cho hai vị, giống như Tiết cốc chủ vậy.”

Chia sẻ
Loading...
Loading...
Loading...
Chia sẻ
Danh sách chương
Loading...
Loading...
Loading...
Thể loại
Tìm kiếm
Loading...
Loading...
Loading...
Lọc truyện