Chương 14.2
Qua giờ tỵ không lâu, quả nhiên có một đám người do thái giám dẫn đầu, một viên quan thẩm án mang theo thánh chỉ của Hoàng thượng tới. Vốn dĩ vụ án của ta thuộc quyền thẩm tra của Tông Nhân Phủ, nhưng Tông Nhân Phủ hoàn toàn nằm trong vòng kiểm soát của nhà họ Thời, Hạ Hầu Thần muốn tránh đi, bèn giao vụ án cho Đại Lý Tự là nơi tâm phúc của mình xử, có vẻ thật muốn giúp ta thoát tội?
Viên quan này râu tóc rậm rạp, trên người bận quan phục tam phẩm, gương mặt tràn đầy chính khí. Tuy phải nằm ngục nhưng ta chưa bị truất phong hiệu, vẫn danh chính ngôn thuận là phi tử của Hoàng thượng, do đó khi thăng đường hoặc thẩm vấn ta chỉ việc đứng mà trả lời, không cần quỳ, ngược lại quan thẩm phải hành lễ xong mới có thể bắt đầu tra hỏi.
Qua lời người nữ cai, ta mới biết vị này chính là Lí Sĩ Nguyên, viên quan có tiếng ngang ngạnh cố chấp đánh chết không thay đổi thuộc Đại Lý Tự, nghe nói khi thẩm án ông ta chẳng bao giờ thèm để ý xuất thân lai lịch bị cáo, chỉ chiếu luật mà làm, dưới thời tiên hoàng từng mấy phen bị thăng giáng ba chìm bảy nổi, cố nhiên đắc tội với không ít người, ngược lại không mấy ai to gan đùa với lửa. Nghe nói ông ta tuy cố chấp sắt đá, nhưng thông minh tuyệt đỉnh, án do ông xử ít có án oan. Nữ cai vừa nhắc đến tên người này, ta đã biết Hoàng thượng quyết tâm giúp ta thoát tội.
Còn ta không lẽ lại nói với người rằng, thần thiếp chẳng muốn thoát tội chút nào?
Ta lặng lẽ thăm dò Lí Sĩ Nguyên, ông ta có đôi mắt sắc bén như dao, cảm giác khi bị ánh mắt đó liếc qua cũng hao hao như khi bị Hạ Hầu Thần dò xét. Ta thầm than không hay, dự cảm không lành trong lòng dâng cao. Xem tình hình này, kế kim thiền thoát xác đã thỏa thuận với Hoàng hậu khó mà thành.
Ta vốn là một phi tần phẩm vị không quá cao, với danh tiếng của Lí Sĩ Nguyên, theo lẽ sẽ không tôn trọng lắm, vậy mà ông ta vẫn chu toàn lễ nghĩa, cung kính như thường, khi thẩm vấn càng không vặn vẹo bức ép, câu nào câu nấy thoải mái như thể chuyện phiếm.
Đầu tiên Lí Sĩ Nguyên hỏi ta cặn kẽ từng chi tiết về cái đêm Thái hậu mất, ta cân nhắc cẩn thận mới trả lời, phục hiện hầu hết tình hình cung Tinh Huy lúc đó cho hắn nghe. Ta biết chẳng cần thêm mắm dặm muối thì nghi vấn lớn nhất vẫn đổ dồn về phía mình, có người cố ý thêm dầu vào lửa, chuyện đẩy ta vào nguy kịch thời dễ như trở bàn tay. Vậy mà nhìn dáng vẻ Lí Sĩ Nguyên hồ như chẳng hề bị tác động bởi ảnh hưởng bên ngoài, ông ta lặng lẽ nhíu mày, dường như phát hiện không ít nghi vấn bên trong.
Lòng ta thầm sốt ruột, nhưng không dám thúc giục, tránh khiến ông ta sinh lòng ngờ vực, nhủ thầm tình cảnh như hiện tại chỉ có cách thẩm tra cả Hoàng hậu, lẫn tình tình ngoài cung lúc đó mới phán đoán được chính xác. Có điều Hoàng thượng đã nhúng tay vào, e rằng Hoàng hậu tránh đi còn không kịp, chắc gì đã tới đây? Nếu cô ta đến chẳng quá mạo hiểm hay sao?
Lí Sĩ Nguyên hỏi rất nhiều, miệng một điều nương nương hai điều nương nương, ngữ khí vô cùng cung kính, ta bèn thuật lại tình hình đêm đó một lượt. Ông ta không hề nhắc đến ân oán giữa ta và Thái hậu, ta thấy lạ bèn chủ động hỏi, Lí Sĩ Nguyên liếc nhìn đầy ẩn ý thưa rằng: “Nương nương, thiên hạ là của Hoàng thượng, nương nương làm như thế chính là quay đầu về bờ, đâu thể coi là động cơ giết người? Huống hồ gia đình nương nương ở ngoài bị người ta truy sát, nếu tại hạ không lầm thì gia mẫu đã không may táng mạng?”
Ta chẳng biết nên khóc hay nên cười, cảm thấy cần phải đề cao cảnh giác với con người này, hình như hắn đã điều tra ra mẫu thân ta là ai? Quả thật không hổ danh là Lí Sĩ Nguyên cẩn thận kín kẽ, ngang ngạnh cố chấp!
Lí Sĩ Nguyên còn nhắc đến “Khổng Thượng Cung”, ông ta cho rằng những điều Khổng Thượng Cung nói đích thực là sự thật, có điều đó chỉ là sự thật nhãn tiền. Ta lấy làm lạ, bèn hỏi hắn, chẳng lẽ còn một sự thật nào khác, hắn chỉ mỉm cười mà không nói.
Sau khi hỏi chuyện xong, Lí Sĩ Nguyên bèn cáo biệt, trước khi ra về để lại cho ta hai câu nói không mấy rõ ràng: “Nương nương, đời người có khi tưởng mất mà lại còn, tưởng còn mà hóa mất, vụ án này nếu có tội thì tránh không thoát, vô tội tất không thể bị oan. Xin nương nương yên tâm, bản quan nhất định điều tra cho rõ ngọn ngành sự việc.”
Ta chỉ biết mỉm cười tỏ ý cảm tạ, ngó theo bóng dáng quan phục tam phẩm chầm chậm rời đi, bất giác trong lòng dâng lên một dự cảm, người này cứ như hình bóng Hạ Hầu Thần khi về già vậy!
Trong lòng ta nơm nớp lo sợ, một Hạ Hầu Thần đã làm ta điêu đứng, giờ lại thêm một Hạ Hầu Thần lão luyện từng trải gấp bội, kế thoát thân của ta liệu còn có thể trót lọt?
Nhưng có nói thế nào ta cũng không dám tin Hạ Hầu Thần thực sự giúp mình thoát tội. Tuy đây là việc của hậu cung nhưng có ảnh hưởng trực tiếp đến triều chính, đem ta và việc triều chính lên bàn cân, chẳng khác nào như cân con voi với cọng tóc! Tin rằng bất cứ người sáng mắt nào chỉ cần nhìn sơ là hiểu. Hạ Hầu Thần có thể nắm được ngai vàng, đoán chắc là kẻ biết luận thời thế hơn ai hết, ta đành lái suy nghĩ của mình theo hướng cũ: Bên trong tất có một nguyên nhân nào đó bản thân chưa biết rõ, phận mình chẳng qua như lục bình giữa dòng nước, chìm nổi không theo ý.
Thánh chỉ của Hoàng thượng chẳng khác nào một cái tát giáng vào mặt Hoàng hậu, người đầu tiên vạch trần sự việc và tố tội. Hai người họ bình thường yêu thương quấn quýt, Hạ Hầu Thần có lẽ đã ngầm ước định với Hoàng hậu điều gì đó, mới khiến cô ta bình thản như vậy. Không rõ lúc này Hoàng hậu đang nghĩ gì, liệu đã có đối sách hay chưa?
Sau khi Hoàng thượng hạ chỉ phúc tra vụ án, qua cai ngục ta chào hỏi được không ít người thuộc Tông Nhân Phủ, thi thoảng lại có vài kẻ mang biếu thức ăn vật dụng đến. Hạ Hầu Thần bèn giáng chỉ không cho phép ta tiếp người vào thăm viếng, thành thử việc giao liên trong ngoài ngục bị tắc nghẽn hoàn toàn.
Viên nữ cai rất chăm chuyển đồ vặt từ bên ngoài đến tay ta, vừa nhanh nhẹn lại thật thà, không dám bớt xén chút gì. Hôm ấy cô ta đem vào một giỏ hoa quả, nói với ta rằng đó là quà của Khổng Thượng Cung, điều này quả là lạ, từ khi bợ đỡ được Hoàng hậu đến này cô ta lặn mất tăm mất tích, nay lại đột nhiên xuất hiện? Tuy ngày trước nữ cai đến Ty Thiện Phòng lấy canh, Khổng Văn Trân không gây khó dễ, hơn nữa còn tự tay khâu vài đường lên chăn để thể hiện tấm lòng, nhưng rốt cuộc chỉ đến thế. Khi những kẻ khác lũ lượt đem đồ vật đến biếu đâu thấy cô ả có động tĩnh gì, trước nay nào có bao giờ Khổng Văn Trân chịu làm người chậm chân, nên chuyện lần này khá lạ lùng.
Nữ cai dâng cái giỏ đến tay ta xong thời chưa đi ngay. Ta hiểu ý, cô ta là người chịu trách nhiệm trông coi nhà ngục, phải chính mắt nhìn thấy đồ vật bên trong là gì rồi mới được đi.
Đang lúc mở giỏ, nữ cai bỗng bĩu môi, nói: “Nương nương, Khổng Thượng Cung quyền cao chức trọng, mỗi tháng lương bổng hậu hĩ, thế mà chỉ đem biếu có thứ này?”
Trong giỏ có hai loại quả khô, là vải và táo sấy.
Hai thứ này trong cung đích thực chẳng đáng giá, thấy nữ cai có vẻ khinh thường, ta bèn nói: “Vật tuy ít, nhưng cũng là tấm lòng, Khổng Thượng Cung biết ta thích uống trà hoa quả, biếu hai thứ này đến cũng không có gì lạ.”
Nữ cai nghe thế không nói gì nữa, giúp ta gói ghém cẩn thận rồi cất đi.
Ta nhìn theo cái gói nhỏ để táo và vải khô, lặng lẽ cười nhạt. “Lợi ích cạn ắt chẳng có bình an”. Bọn họ muốn chuyển lời đến ta như vậy.
Hai thứ này có lẽ không phải do Khổng Văn Trân muốn đem biếu, mà là người ở cung Chiêu Thuần sai cô ta đem biếu. Lòng ta không tránh khỏi thất vọng, xem ra vị Hoàng hậu trông có vẻ ung dung tiêu sái nay đã luống cuống chân tay, chẳng toan tính bước tiếp theo nên hành động thế nào, mà trước tiên nghĩ cách uy hiếp ta cái đã, coi như trút bỏ mọi trách nhiệm.
Cô ta thân ngồi ngai cao mà chẳng làm nổi việc lớn, kế hoạch của ta nếu kiên quyết thực hiện chắc sẽ khó khăn trùng trùng.
Ta muốn truyền lời đến Hoàng hậu, nhưng có thánh chỉ của Hoàng thượng, nữ cai kia tuy rất tôn kính ta, lại thi hành luật lệnh rất nghiêm cẩn, có lẽ sẽ không giúp ta báo tin ra bên ngoài, quả tình là hết cách xoay xở.
Hai ngày nữa trôi qua, Lí Sĩ Nguyên lại đường bệ xuất hiện trước song sắt trại giam, nói rằng có rất nhiều nghi vấn vẫn chưa giải thích được, cần có nương nương giúp đỡ, ta thầm nghĩ, phá án chẳng phải là sở trường của ông hay sao? Nếu có thể phá giải nghi vấn giúp ông thì ta đâu đến nỗi bị nhốt ở nơi này?
Không ngờ Lí Sĩ Nguyên nhận thấy ngay cảm xúc bức bối trong giọng nói của ta, lão hồ ly chớp đôi mắt sáng quắc, đột nhiên cất tiếng hỏi: “Sao lão thần cứ cảm thấy nương nương ở trong ngục thoải mái quá, đâm không muốn ra ngoài nữa thì phải?”
Ta giật mình sợ hãi, vội cười nói: “Lí đại phu[1] đùa rồi, nhà ngục có dễ chịu đến mấy cũng không bằng hậu cung lụa là gấm vóc, bản phi trước đây sung sướng biết bao nhiêu, bây giờ sao lại không muốn ra?”
[1] Đại phu: Chức quan to thời xưa, dưới quan khanh trên quan sĩ.
Lí Sĩ Nguyên nở một nụ cười chừng mực, không nói tiếp vấn đề này nữa, chỉ hỏi lại tình hình đêm Thái hậu mất, rồi cau mày nói: “Kết quả kiểm nghiệm của ngự y so với lời khai của nương nương không mấy khác biêt, Thái hậu đích thực bị tiêu chảy quá độ dẫn đến kiệt sức, đột nhiên tái phát bệnh tim mà vong mạng, còn có liên quan đến canh thuốc do nương nương mang đến hay không, thời rất khó nói. Nhưng việc các vị thuốc xung khắc với nhau thì có thật.”
Lí Sĩ Nguyên nói tới đây, ta như sực tỉnh, nhớ ra tại sao mình lại đột nhiên muốn đến thăm Thái hậu. Câu nói của Khổng Văn Trân chính là một nguyên do, Hạ Hầu Thần lại là một lý do khác nữa. Chính vì mấy ngày trước Hạ Hầu Thần dùng lời lẽ khinh miệt ám chỉ ta là kẻ sẽ nhẫn tâm vứt bỏ những thứ hết giá trị lợi dụng sang một bên, nên ta mới đi thăm Thái hậu! Nghĩ đến đây, đôi chút ấm áp Hạ Hầu Thần vừa gieo vào lòng hôm nọ phút chốc trở nên băng lạnh, bất giác ta hiểu rõ, mỗi lời nói, thậm chí cả cái nhìn khinh thị kia đều có mục đích riêng. Có lẽ ta đã bị lay động ngay từ phút ấy, nên mới lưu tâm lời hắn nói ra, cuối cùng chuốc lấy kết cục thê thảm!
Hắn đẩy ta xuống bùn, nay lại sai người kéo ta lên, sâu xa bên trong tất có mục đích khác.
Lí Sĩ Nguyên thấy ta trầm tư thất thần, tưởng nghĩ ra điều gì, bèn hỏi: “Nương nương đang nghĩ gì, xin cứ nói với lão thần, lão thần sẽ theo đó mà phân tích xem có thu được điều gì mới không.”
Đầu ta rối ren trăm mối, cuối cùng chỉ còn một suy nghĩ khinh bạc. Hóa ra là vậy, Hạ Hầu Thần hóa ra, mà không, vốn dĩ là người như vậy, phải thế mới là Hoàng thượng mà ta biết chứ.
Lí Sĩ Nguyên dường như nhìn ra điều gì, bèn nói: “Nương Nương, thời tiết tuy giá rét, nhưng vẫn còn hy vọng, nương nương đừng nên quá bi quan.”
Gương mặt ta lúc này đang bi thương lắm sao? Không phải thế, thâm tâm ta biết sự thật vừa lĩnh hội được mới là lẽ tất nhiên. Những điều Hạ Hầu Thần thực sự toan tính kia là lẽ tất nhiên đó chứ! Không hy vọng thì lấy đâu ra thất vọng? Lòng ta tự lúc nào đã có hy vọng về hắn?
Ta lặng lẽ cười nhạt, quay ra nói với Lí Sĩ Nguyên: “Lí đại nhân, bản phi thật không nhớ ra đêm ấy còn phát sinh chuyện gì khác. Tất cả những gì biết được ta đều nói với đại nhận cả rồi, chỉ mong Lí đại nhân dốc sức tìm ra chân tướng, trả lại trong sạch cho bản phi.”
Lí Sĩ Nguyên liếc mắt một cái, bỗng nhiên mỉm cười: “Lão thần đã nhận thánh chỉ, tất sẽ dốc toàn lực tìm ra chân tướng vụ án. Án này nói đơn giản thì đơn giản, nhưng nói phức tạp cũng là phức tạp, điểm khó nhất ở chỗ xử nương nương có tội cũng được, mà vô tội cũng hợp lý. Kết quả còn phải xem những người đứng trong bóng tối lo liệu thế nào, nếu muốn lôi ra bằng cớ xác thực thì thật khó khăn.”
Lời ông ta nói ta sớm đã hiểu, vụ án này kết quả thế nào thực ra hoàn toàn phụ thuộc vào người thẩm án. Nếu Hoàng hậu thẩm án, ta chắc chắn có tội… Triều cục lấy lợi làm đầu, khép tội ta mới thực có lợi nhất cho vụ án này, không phải sao?
Đôi mắt nhỏ của Lí Sĩ Nguyên thi thoảng lại liếc nhìn, dường như nhìn thấu cả lục phủ ngũ tạng người khác. Ta chợt nảy ra một ý, liền nói: “Lí đại nhân, vụ án này trước do Hoàng hậu xét xử, bản cung và Hoàng hậu vốn tỷ muội tình thâm, nay vì bất đắc dĩ mà phải xa mặt cách lòng, bản phi rất muốn hỏi Hoàng hậu xem người lấy đâu ra chứng cứ mà giam ta ở Tông Nhân Phủ. Có điều đang lúc tâm trạng rối bời, lòng đau như cắt, chưa có cơ hội hỏi. Lí đại nhân có thể cầu xin Hoàng thượng cho ta được gặp Hoàng hậu một lần, biết đâu vụ án lại có cơ khởi sắc?”
Nếu dùng mưu mẹo không thể giao liên được với Hoàng hậu, thì ta cứ quang minh chính đại mà xin Hoàng thượng gia ân thử xem. Hoàng hậu không phải người có liên can đến vụ án, chỉ từng là người thẩm án, có lẽ sẽ không đến nỗi cự tuyệt?
Lí Sĩ Nguyên không tỏ thái độ gì, dường như cho rằng nguyện vọng này rất mực chính đáng, nghĩ một lát rồi nói: “Cũng tốt, vụ án đang lúc bế tắc, bản quan cũng không có nhiều chứng cứ xác thực để giúp nương nương, có lẽ chính nương nương sẽ tìm được con đường cứu bản thân mình.”
Không rõ vì sao, ta cứ cảm thấy hai chữ “đường cứu” thốt ra có một ẩn ý đặc biệt bên trong, bèn thận trọng quan sát gương mặt ông ta, nhưng không đoán ra được điều gì.
Xem ra không chỉ hậu cung có thể khiến người ta trưởng thành nhanh chóng, hóa thành cao thủ diễn kịch, mà quan trường cũng vậy.
Lí Sĩ Nguyên quan tước tuy không cao lắm, không phải quan lớn nhất phẩm, nhưng sự sắc bén và mẫn tiệp của ông ta chẳng hề thua kém bất cứ ai.
Không rõ sau đó Lí Sĩ Nguyên cùng Hạ Hầu Thần thương lượng ra sao, một hôm vừa chải đầu rửa mặt xong, ta đã nghe nữ cai hộc tốc chạy vào tâu: “Nương nương, trong cung truyền lời xuống rằng, kiệu loan của Hoàng hậu nương nương đang thẳng tiến tới Tông Nhân Phủ, là phượng thánh chỉ đến thăm nương nương.”
Ta “ừm” một tiếng, nói: “Bếp sưởi trong phòng thế này hơi nhiều, hôm nay ấm trời, thu bớt hai cái lại. Hoàng hậu nương nương thường bận áo bào, tà áo quệt đất, đừng nên đốt lò thì hơn.”
Viên nữ cai cảm thán: “Nương nương suy tính thật là chu toàn, việc lớn việc nhỏ đều nghĩ cho người khác.”
Ta liếc cô ta một cái, lòng thầm nghĩ người này mới trông thô tục nhưng tấm lòng lại trong trắng như tuyết.
Cô ta gọi người dời hai bếp lò đi, trong phòng đâm trống trải hơn nhiều, trở lại dáng vẻ ban đầu khi Hạ Hầu Thần chưa đến.
Mặt trời đã qua đỉnh đầu, sau bữa trưa mới thấy Thời Phượng Cần đến, lần này tiền hô hậu ủng rình rang, khác hẳn dạo trước. Cái tang Thái hậu còn mới tinh, nên cô ta lẫn Hoàng thượng luôn bận y phục màu trắng, trên đầu không cài trâm vòng gì cả, những người hầu cận bên cạnh cũng thế, cả đoàn người trắng xóa một màu.
Lần này ta không thể cùng Thời Phượng Cần nói chuyện tay đôi như lần trước. Xem ra cô ta không dám xua đám người dưới ra ngoài. Nhìn tình hình này ta càng nhận rõ Thời Phượng Cần đối với Hạ Hầu Thần có chút sợ sệt, hay vì có tình nên không tiện phản đối?
Chờ cho ta hành lễ xong, Hoàng hậu bèn sai người mở cửa bước vào lồng sắt, vẻ mặt thân thiết, tóm lấy tay ta mà nói: “Khổ cho muội quá, căn phòng này lạnh lẽo, ẩm thấp âm u, muội muội hãy gắng bảo trọng thân thể.”
Lần này đến đây phải nói là một động thái lớn của Hoàng hậu. Vốn dĩ lần trước, cô ta còn chẳng dám bước vào phòng, chỉ đứng từ xa xa mà nói chuyện. Bây giờ vồn vã bước vào thì chớ, lại còn nắm tay, rõ là muốn đám cung nhân mở to mắt nhìn cho rõ.
Ta cười nói: “Hoàng hậu nương nương xin đừng bận lòng, cai ngục ở đây đối xử với thần thiếp rất tử tế, mọi hôm còn có bếp lò cháy hồng suốt ngày đêm, thần thiếp nay đã thô da dày thịt rồi, chẳng thấy khổ chút nào.”
Ta thản nhiên nhét một miếng bông nhỏ vào tay Hoàng hậu, cô ta ngẩn ra, vội khum tay đón lấy, nắm chặt tay lại thu vào trong tay áo. Cử động này kín đáo mau lẹ chẳng ai hay biết, đến viên nữ cai đứng ngay đó cũng không nhìn thấy gì. Vì vụ án mà Hoàng hậu và Hoàng thượng nảy sinh mâu thuẫn, nhưng dù thế nào Thời Phượng Cần cũng là mẫu nghi thiên hạ, khi ra ngoài có lẽ chẳng ai dám lục soát cô ta.
Hoàng hậu tỏ vẻ hối hận nói: “Muội muội, đều tại bản cung hồ đồ, mới chớm nghe thấy vụ việc đã vừa cuống vừa đau, tưởng ngay muội muội phạm tội lớn, trong lúc tâm thần hoảng loạn đã phán đoán sai lầm. Thật là yêu càng sâu hận càng nặng, bởi tình nghĩa giữa chúng ta quá thân mật nên mới như vậy. Muội muội đừng trách bản cung nhé!”
Ta vội nắm lấy tay cô ta: “Thần thiếp sao dám trách nương nương? Thần thiếp gặp phải tai bay vạ gió, chỉ mong không liên lụy đến nương nương là tốt lắm rồi, há dám nghĩ suy gì nhiều?”
Hoàng hậu bèn nhìn quanh căn phòng một lượt, thử chạm tay vào chăn gấm, cau mày nói: “Lần trước bản cung đến thăm, đã căn dặn Ty Chế Phòng phải mang chăn loại đủ phân đủ lượng, sao bây giờ nhìn trông lại mỏng manh thế này?”
Chăn gấm vốn không mỏng, nhưng Hoàng hậu muốn tỏ vẻ trước mặt chúng nhân, đã thế ta đành phải phối hợp, cất lời khuyên: “Hoàng hậu nương nương, thần thiếp được người quan tâm, nằm trong ngục tối mà có chăn gấm để đắp, có áo bông để khoác, đã là vinh hạnh ngất trời. Ty Chế Phòng không hề chậm trễ, thần thiếp vô cùng hài lòng.”
Hoàng hậu lúc này mới khoát tay, cho nữ cai đang quỳ dưới đất thỉnh tội đứng dậy, lại tỉ tê dặn dò cô ta phải tận tình chăm nom, không được lười biếng… Viên nữ cai chỉ biết dạ vâng liên tục, Hoàng hậu thấy vậy mới thôi.
Ta xem chừng những kẻ đứng quanh, bao gồm cả viên nữ cai, gương mặt đều lộ vẻ cảm phục, biết mục đích hôm nay của Hoàng hậu đã đạt thành. Trước mặt mọi người, cô ta vẫn luôn là một Hoàng hậu đoan trang hòa nhã, dùng lời phục đức thiên hạ, chỉ vì bị ai đó ác ý xúi giục, trong lúc quá nóng giận mới đem nhốt ta vào Tông Nhân Phủ.
Về phía ta, lời muốn truyền đạt cũng đã gửi xong xuôi, muốn làm thế nào là việc của cô ta, chỉ mong Thời Phượng cần đừng như Ninh Tích Văn, vào lúc cấp bách nhất chạm phải Hạ Hầu Thần, bèn lúng túng như gà mắc tóc, quên hết mình định làm gì.
Chẳng mấy khi có được cơ hội tốt như vậy, ta nhất quyết sẽ không từ bỏ hy vọng. Tuy Hạ Hầu Thần đã nhúng tay vào, khiến kế hoạch vấp phải muôn trùng khó khăn, nhưng chỉ cần còn nước còn tát, ta nhất định phải thử.