Người con trai trên sân thượng
Tôi nằm xuống, mắt mở to. Trời dần ngả màu cam, từ chỗ tôi không còn nhìn thấy mặt trời đâu nữa. Không gian sực nức mùi hương đặc trưng của mùa hè, ngột ngạt và bức bách, tù túng và ảm đạm. Lặng gió. Một vài con muỗi vo ve. Bầu không khí tôi hít vào như đặc quánh lại. Tôi thở dài, duỗi thẳng tay chân. Nền xi măng thô ram ráp khẽ cọ qua lớp áo. Rồi tôi thu tay, nhẹ nhàng gối đầu lên, quay sang bên phải.
Anh đang nằm đấy, ngay sát cạnh tôi. Hơi thở đều đều, phập phồng nơi cánh mũi. Tôi ngây người nhìn gương mặt người con trai đang ngủ. Như thể là một người khác. Không cau có, không gắt gỏng, không châm chọc. Thanh thản.
Khi ngủ, người ta trở thành một người khác, điều ấy có thật không?...
***
Lần đầu tiên tôi gặp anh là một ngày đầu xuân ẩm ướt, khắp nơi ngập tràn hơi nước cùng mùi hương nồng của cỏ cây. Buổi học đầu tiên sau kì nghỉ dài, tôi kiên nhẫn đợi cô giáo điểm danh đến tên mình, hô "Có ạ!" thật to, rồi chỉ chờ có thế, năm phút sau đã rón rén lẻn ra cửa sau lớp học như một chú mèo, một mình mò lên sân thượng. Ở đấy, tôi đã gặp anh. Như thể là định mệnh.
Sân thượng trường tôi là một nơi đặc biệt. Tôi vừa nhập học thì cũng là lúc tòa nhà này khánh thành, vì thế "lịch sử" của sân thượng tôi nắm rõ như lòng bàn tay. Khi ấy nghe đâu người ta định mở ở đây một quán café dành cho giảng viên và các nhân viên văn phòng, những người cả ngày làm việc trong những phòng điều hòa mát lạnh ở tầng tám. Thời gian đó có một làn sóng phản đối nho nhỏ trong cộng đồng sinh viên. Tại sao chúng tôi, những "mầm non tương lai" của đất nước, ngày ngày phải ngồi như cá hộp trong những căn phòng cửa kính bắt nắng dưới cái nóng gần 40 độ, lại không được quyền bén mảng uống café ở nơi được mệnh danh "có tầm nhìn đẹp nhất trong khu vực bán kính 2 km" cơ chứ? Thay vì chỉ việc đứng chờ, ấn thang máy, vút lên tầng cao nhất trong nháy mắt, thì chúng tôi phải đi bộ vượt qua cái sân chói chang không một bóng cây, chen chúc mua những chai nước lạnh trong cái canteen bé xíu. Nhốn nháo và lộn xộn, như thể mua hàng thời bao cấp vậy.
Thế rồi ba tháng trôi qua, chẳng hề thấy quán café nào xuất hiện. Cả thầy cả trò vẫn tiếp tục ngày ngày chen chúc trong cái canteen thời bao cấp ấy, bất chấp trời nắng như đổ lửa hay mưa như trút nước. Dần dần, sân thượng trở thành một nơi lý tưởng để sinh viên bùng tiết trốn học, để hẹn hò, hay thậm chí là chụp ảnh kỉ niệm. Dù sao thì nó cũng là nơi "có tầm nhìn đẹp nhất trong bán kính 2 km" cơ mà. Nghe thật lố bịch, tôi chỉ cười khẩy mỗi lần thấy bọn bạn mình hẹn nhau cuối giờ lên sân thượng ngắm cảnh. Tính tới thời điểm ấy, tôi chưa một lần đặt chân đến đó.
Một ngày xấu trời nọ, đột nhiên có chuyện lớn xảy ra. Gọi là chuyện lớn vì nó được lên báo, được nhiều người quan tâm, khiến cả trường viên xôn xao. Một nữ sinh tự tử. Nhảy từ trên tầng thượng. Một loạt giả thuyết được thêu dệt, những câu chuyện truyền miệng lan đi nhanh chóng. Không hề thấy thông báo gì từ nhà trường, nhưng rõ ràng là sau đó chẳng còn đứa nào dám bén mảng lên sân thượng nữa. Vài hôm sau thì cánh cửa sắt nặng nề dẫn ra sân mọi ngày vẫn mở đã được đóng lại, im lìm với ba ổ khóa, tròng thêm một sợi xích sắt. Tầng mười hai heo hắt và cô đơn.
Vậy nhưng kể từ đây, mối liên kết mật thiết giữa tôi và sân thượng mới bắt đầu nảy nở.
Tôi hay bùng học. Tôi không hề lười, tôi thích đến trường, chỉ là tôi ghét cảm giác phải ngồi liền tù tì ba bốn tiếng trong một căn phòng bức bối với mấy trăm con người, cố dỏng tai nghe mong vớt vát được chút kiến thức vào đầu, nhưng rồi lại ngủ gục trước khi kịp nhận ra chuông giải lao vừa réo. "Thật phí phạm thời gian."- tôi thở dài. Với tôi, trường học có nhiều điều lý thú hơn là việc ngồi trong lớp. Ví dụ như ngồi ghế đá sân trường ngắm người hối hả qua lại sau giờ tan học. Như thể cả thế giới chuyển động, chỉ có mình đứng yên. Nhiều lúc tôi tự hỏi sao mọi người lại phải vội vàng đến thế. Chậm đi một vài phút liệu cuộc sống của họ có đổi khác đi không. Ví dụ như ở lại trường qua trưa, ra cổng mua một cái kem thật to, tìm một lớp học trống, chui vào góc và tận hưởng sự tĩnh lặng. Tôi có thể ngồi như thế hàng giờ, gục đầu xuống bàn, khẽ nhắm mắt, suy nghĩ về những rắc rối mình đang phải đối mặt.
Và ví dụ như hôm ấy, khi tôi quyết định bùng học, đi bộ từ tầng một lên tầng mười hai.
Có bao nhiêu người trong số các bạn sau khi tốt nghiệp đại học có thể kể tên và vị trí tất cả các phòng ban, các khoa trong trường? Chắc không nhiều, vì tôi-một người đại diện cho số đông tầng lớp sinh viên, hoàn toàn không biết văn phòng nào khác ngoài phòng công tác sinh viên và phòng kế toán. Chính vì thế, việc đi bộ từ tầng một lên tầng mười hai - dù nói thật là khá mệt, đến khoảng tầng sáu là tôi đã thở hổn hển không ra hơi - lại mang tới những điều khá thú vị. Tôi phát hiện ra những phòng mà tôi chưa từng nghe tên và cũng chẳng rõ chức năng của chúng là gì, nằm khiêm tốn ở những góc trong cùng những hành lang dài. Tôi nhận ra chỉ từ tầng tám đến tầng mười là có lắp điều hòa toàn bộ kể cả ở cầu thang, ở tầng chín thậm chí tường còn được lát gỗ vì có phòng hội thảo. Tôi thoáng thấy bóng vài sinh viên ôm hôn nhau trong những góc khuất ở cửa thang bộ, một thầy giáo đứng hút thuốc, im lặng nhìn vào không trung; một cô giáo trẻ đang thỏ thẻ nói chuyện với người yêu qua điện thoại giữ giờ nghỉ, một bác lao công mệt mỏi ngồi bệt xuống sàn, ăn tạm chiếc bánh mì không cho đỡ đói. Cứ mỗi tầng qua đi, những câu chuyện, những mảnh đời lại mở ra, nhẹ nhàng lướt qua mắt tôi.
Và tôi dừng lại, vì không thể leo thêm được nữa. Đã đến tầng mười hai, tầng cuối cùng. Cánh cửa sắt ngạo nghễ với ba lớp khóa đứng trầm ngâm chặn đứng bước chân tôi. Tôi đứng nhìn nó, ngây người. Chưa một lần tôi bước qua cánh cửa này, chưa một lần tôi được chứng kiến khung cảnh phía sau. Tôi tò mò, rồi đột nhiên tôi muốn ngắm bầu trời ở nơi mà người ta vẫn ca ngợi là "có tầm nhìn đẹp nhất trong khu vực bán kính 2 km". Nhưng không thể nào vượt qua cánh cửa ấy, và còn cả những câu chuyện kì lạ mà mọi người đồn thổi kể từ khi cô nữ sinh kia nhảy lầu nữa.
Tôi đứng im lặng, rồi quyết định quay lưng. Không còn cách nào khác, dù có đứng đây đến đêm thì tôi cũng chẳng thể nào thay đổi được tình hình. Ngay trước khi tôi nhấc chân bước xuống, thì tôi cảm thấy một luồng gió. Cơn gió mát lạnh mơn man, cơn gió mang theo hương mùa xuân nồng ẩm, cơn gió nhuốm mùi tự do. Nó bay thoáng qua tôi, khẽ vờn tóc tôi, mời gọi tôi ở lại. Xung quanh đây đều đóng kín, cơn gió này đến từ đâu?
Tất cả như đóng băng trong giây lát. Rồi lại một cơn gió nữa, nồng hơn, ẩm hơn, mời gọi quyến rũ hơn. Tôi như mê đi trong làn gió lạ, trong bầu không khí sực nức hơi nước và cỏ cây. Và rồi tôi phát hiện ra khung cửa sổ ấy, nằm ẩn sau góc khuất của bức tường, đang hé mở. Những làn gió ngọt ngào len lén luồn qua khe cửa, ùa vào ve vuốt làn môi.
Tôi đã ở đây. Trên sân thượng lộng gió, ngập tràn sức sống mùa xuân. Mưa bụi dịu dàng lắc rắc, đọng lại như sương trên tóc. Tôi hơi co người trong chiếc áo khoác mỏng dính đầy bụi vì phi vụ trèo cửa sổ đầy ngoạn mục. Giá thử tôi béo hơn chút nữa, có lẽ chẳng đời nào tôi leo lên và nhảy qua nổi khung cửa ấy, chứ đừng nói đến việc mò ra đến tận đây. Thật lạ lùng khi có một khung cửa sổ như thế, không song sắt, không chốt mà chỉ khép hờ. Chỉ có một điều là chẳng ai buồn để ý đến sự hiện diện của nó, chỉ có tôi, với sự mời mọc quá đỗi nhiệt tình của những con gió, mới tìm ra nó mà thôi.
Tôi không ngờ là sân thượng rộng đến thế. Gió hun hút thổi, và mưa vẫn lắc rắc rơi. Cũng khá lâu rồi không có ai lên đây, rêu xanh đã dần dần bao phủ những viên gạch lát sân và những mảng tường đã phần nào bong tróc. Thậm chí ở một vài kẽ nứt, tôi còn thoáng nhìn thấy lún phún mấy mầm cỏ xanh.
Và quả là như người ta đồn đại, tầm nhìn ở đây đẹp vô cùng. Tôi lặng người, không thể tìm ra từ ngữ diễn tả cảm xúc của bản thân mình khi ấy. Một sự choáng ngợp không thể gọi tên. Trường tôi là tòa nhà cao nhất trong khu vực này, đứng ở đây tôi có thể nhìn thấy trọn vẹn bầu trời, không hề bị vướng bận bởi những nóc nhà xấu xí, những cột điện nhằng nhịt hay những hàng cây cao. Đúng thế đấy, trọn vẹn cả một bầu trời. Chỉ mình tôi với một bầu trời! Khẽ nhón chân, tôi vịn tay vào lan can, nhìn xuống phía dưới. Mọi người như những chấm nhỏ đủ màu sắc đang vội vã đi lại, nhộn nhạo giống hệt mớ virus di chuyển khi nhìn dưới kính hiển vi. Tôi liếc nhìn đồng hồ, hóa ra đã đến giờ nghỉ giữa ca. Thảo nào mà người túa ra đông đến thế. Xem kìa, đa số các chấm đều đang hướng về phía canteen ở góc sân bên kia. Tôi thích thú cúi xuống thấp hơn, nhoài hẳn ra cho đến khi người tôi cong gập lại. Những cơn gió thổi xòa, tóc rối tung che kín cả khuôn mặt. Tôi mỉm cười. Nếu như có ai đó thấy tôi khi này, dễ chừng người ta lại tưởng tôi chuẩn bị nhảy lầu cũng nên. "Chẳng qua là vì... mùi hương này quyến rũ con người quá thôi mà."- tôi gật đầu, tự nói với chính mình.
- Đừng nói với tôi là cậu đang chuẩn bị nhảy xuống đấy nhé!
Tôi giật bắn mình, quay ngoắt lại, nhanh đến nỗi thiếu chút nữa là tôi hụt chân ngã bổ chửng ra phía sau. Trên sân thượng này, ngoài tôi và những cơn gió, hóa ra còn có một người nữa. Không chỉ có mình tôi với một bầu trời như tôi vẫn tưởng. Trong phút chốc, những tế bào nơ ron thần kinh của tôi đã ngay lập tức liên kết những câu chuyện mọi người vẫn đồn thổi về sân thượng lại với nhau. Nào là tầng mười hai bị ma ám, nào là có đứa đi qua đã từng nhìn thấy có ma ở đó, nào là ai mò lên đó mà yếu bóng vía sẽ bị ma dụ... Có lẽ nào... Tôi đứng như trời trồng, tay chân cứng đờ, môi khẽ mấp máy mà không nói lên lời. Nhưng mà... Có một điều tôi gần như có thể chắc chắn, đó là trong tất cả các thông tin vỉa hè mà tôi nhớ được thì "nhân vật chính" được nhắc tới luôn là một cô gái. Và đứng trước mặt tôi bây giờ đây, lại là một người con trai.
- Tôi không phải là ma đâu. - Cuối cùng, anh lại là người lên tiếng trước, sau khi chúng tôi đứng yên như thế, chỉ nhìn nhau trong vòng gần năm phút. Tôi lắp bắp, miệng không nói rõ thành lời, đầu óc luẩn quẩn lộn xộn như mớ bòng bong. Có lẽ vẻ mặt tôi lúc ấy vô cùng ngớ ngẩn, tôi biết mà. Mỗi khi tôi gặp điều gì đó bất ngờ, tôi lại bộc lộ một vẻ mặt mà theo như bạn tôi nói là "ngu không để đâu cho hết". Bình thường thì tôi vẫn ý thức được điều này, nhưng khi có chuyện xảy ra thì tất cả lại đâu vào đấy, không tài nào kiểm soát nổi. Ừ thì tôi ngớ ngẩn, nhưng có cần thiết anh ta phải nhìn tôi với ánh mắt như vậy hay không? Đó là ánh mắt kì lạ nhất mà tôi từng thấy. Vừa chăm chú, nhưng lại có chút gì đó hồ nghi, vừa có chút gì đó lạnh lùng, nhưng thật là đồng cảm.
- Tôi... tôi xin lỗi. Tôi không biết là có người ở đây. - Cuối cùng tôi cũng đã lấy lại được tinh thần, lúng túng nói lời xin lỗi. Tôi đâu có mắc lỗi lầm gì, nhưng chẳng hiểu sao tôi lại nói thế. Anh cười xòa, tiếng cười giòn tan và thoải mái. Và anh ngồi xuống, lưng dựa vào bức tường bong tróc đã lấm tấm rêu xanh.
Chuyện gì đã xảy ra tiếp theo, tôi không còn nhớ rõ. Chỉ biết rằng sau đó một lúc, tôi đã ngồi xuống cạnh anh. Chúng tôi dựa lưng vào bức tường cũ, im lặng. Ngắm nhìn bầu trời rộng lớn vẽ ra ngay trước mắt. Một ngày mùa xuân với những cơn gió nồng ẩm, lác đác vài tia nắng vàng. Mây hững hờ trôi, thời gian như ngừng lại.
- Anh có biết chỗ chị ấy... ừm... chị ấy ấy, anh hiểu chứ... nhảy xuống là ở đâu không? - Tôi hỏi, mắt vẫn đờ đẫn ngắm nhìn những đám mây hình thù kì dị.
- Ở góc kia kìa. - Anh trả lời, khẽ hất đầu. Tôi đưa mắt nhìn theo hướng đó. Lan can ở góc sân, nơi có khoảng không gian thông thoáng và tầm nhìn rộng hơn cả. Gió vẫn hun hút thổi, tôi cảm thấy sự hiện diện của mùa xuân rõ ràng hơn bao giờ hết.
- Chọn chỗ khéo thật đấy nhỉ. Anh đã ra đứng ở góc đấy bao giờ chưa?
Anh gật đầu. Trầm ngâm. Tại sao hai người lạ mặt lại có thể ngồi nói chuyện với nhau về chủ đề này, chính tôi cũng thấy kì quái. Nhưng toàn bộ những gì đang xảy ra, từ việc tôi trèo cửa sổ ra đây, cho đến việc tôi gặp ai, có tí nào gọi là bình thường được đâu.
- Anh hay ngồi ở trên này lắm à?
- Ừ. Lúc nào chán học thì lên đây.
- Anh trèo cửa sổ?
- Còn cách nào khác sao?
Tôi cười. Hóa ra tôi không phải là người đầu tiên tìm ra khung cửa sổ ấy. Rồi tôi giật mình, đã lâu lắm rồi tôi mới cười như thế, với một người lạ.
- Anh không phiền chứ, nếu như tôi ngồi đây? Và tôi nghĩ là tôi sẽ còn lên đây nhiều lần lắm đấy.
- Đây không phải là sân của tôi, tôi không có quyền cấm ai cả.
- Ừ, cảm ơn anh.
Và chúng tôi lại ngồi trong yên lặng. Mây vẫn hững hờ trôi, không gian ngập tràn những cơn gió mùa xuân nồng ẩm. Yên lặng chạm đến tận đáy lòng.
***
Những ngày sau đó, chúng tôi lại tiếp tục gặp nhau, trên sân thượng. Có đôi lúc tôi nhìn thấy anh trong sân trường, nhưng chúng tôi chỉ đi ngang qua nhau như những người xa lạ. Mà quả thật là như vậy, tôi không rõ nên gọi mối quan hệ giữa tôi và anh là gì? Tình bạn? Không phải. Tình yêu? Càng không phải. Tôi chẳng biết gì về anh, anh cũng không biết gì về tôi. Chúng tôi không trao đổi số điện thoại, không email chat chit. Chúng tôi đơn giản là chỉ tình cờ gặp nhau rất nhiều lần ở một nơi nhất định, ngồi cạnh nhau, nói những câu chuyện chẳng ra đầu chẳng ra đuôi. Sân thượng là nơi lẩn tránh hoàn hảo những rắc rối bên ngoài, nơi chúng tôi có thể gạt bỏ tất cả những phiền muộn, thanh thản ngắm nhìn xung quanh.
- Ơ này, sao ở góc kia lại có hoa thế kia? - Tôi tò mò hỏi. Góc lan can nơi cô gái nhảy xuống ngày nào, có ai đó đã đặt dưới đó một cành hoa dại.
- Tôi mang đến đấy. - Anh trả lời, chậm rãi uống từng ngụm cà phê trong chiếc cốc giấy.
Tôi nhún vai. Tôi không có thói quen hỏi nhiều về chuyện của người khác, người ta muốn kể thì kể, không thì thôi. Mà nói cho oai vậy chứ thực lòng tôi tò mò muốn chết, nhưng chỉ vì ngại nên ít khi chịu mở mồm ra hỏi. Anh quay sang nhìn tôi, nhếch mép cười, nói điệu châm chọc:
- Muốn biết vì sao chứ gì?
Tôi ngại ngùng gật đầu. Quái lạ, sao anh luôn biết tôi đang nghĩ gì trong đầu thế nhỉ.
- Cô ấy ngày xưa học cùng lớp với tôi, ngồi ngay trên tôi ấy.
- Bạn anh à?
- Không. Thậm chí còn chẳng nói chuyện bao giờ.
- Khi biết chuyện của cô ấy, anh có thấy bất ngờ không?
Anh lắc đầu, đặt cốc xuống, nằm dài trên nền xi măng thô ráp:
- Đó là lựa chọn của mỗi người. Cô ấy đã chọn, chắc hẳn là có lý do riêng. Người ngoài làm sao hiểu được.
Tôi chẳng biết làm gì khác, ngoài việc gật đầu đồng ý. Chúng tôi lại im lặng nhìn bầu trời trong vắt trải dài. Đã cuối tháng tư, trời vẫn còn se lạnh, nhưng thoáng trong không khí, tôi đã thấy hương mùa hè phảng phất đâu đây.
"Here comes the sun..." Tôi khe khẽ hát. Giai điệu một bài hát xưa cũ đột ngột xuất hiện trong đầu. Anh lắng nghe, nhắm dần đôi mắt, rồi thiếp ngủ.
***
Tôi không có bạn thân, tôi phải thú thực là thế. Bạn bè thì nhiều, nhưng bạn thân thì không. Đơn giản là vì chẳng có ai có thể hiểu tôi đang nghĩ gì, hay chẳng có ai tôi đủ tin tưởng để chia sẻ những suy nghĩ ấy. Tôi gặm nhấm những lo lắng, những buồn bã, và cả niềm vui hay cảm giác hạnh phúc, hoàn toàn một mình. Cũng chẳng có vấn đề gì, tôi quá quen với việc lúc nào cũng chỉ có một mình. Và có người nào đó đã nói, một khi bạn đã chịu đựng được nỗi cơ đơn, thì chẳng điều gì có thể khiến bạn sợ hãi.
Cho đến một ngày, đột nhiên anh nói với tôi:
- Này, hãy hứa với tôi một điều.
- Còn tùy điều ấy là gì đã. - Tôi cười.
- Có phải cô rất thích độ cao đúng không?
- Ơ tôi tưởng anh định bảo tôi phải hứa điều gì...
- Cứ trả lời tôi đã. Cô rất thích độ cao phải không?
- Ừ.
Cả hai chúng tôi lại đang đứng trên sân thượng. Anh dựa lưng vào lan can, trong khi tôi nhoài người ra phía xa, cong gập như con tôm, háo hức nhìn mọi người đi lại phía dưới. Cảm giác một nửa cơ thể mình hoàn toàn tự do trong không trung thật là thú vị. Tưởng như chỉ cần khẽ nhún chân một chút nữa thôi là tôi sẽ rơi xuống.
- Có khi nào cô định nhảy xuống không?
- Có chứ! - Lần này tôi trả lời ngay mà không cần suy nghĩ. Độ cao có một sức hút bí ẩn đối với tôi, và mỗi lần đứng ở những nơi như thế này, dường như có một ma lực nào đó giục giã tôi nhảy xuống. Lẽ dĩ nhiên là tôi không nhảy, tôi không hề có ý định tự tử. Nhưng biết đâu được đấy, đâu phải lúc nào đầu óc con người cũng minh mẫn và biết kiềm chế bản thân đâu.
- Hứa với tôi, khi không có tôi bên cạnh, đừng đứng như thế này.
- ...
- Và nếu có ý định nhảy xuống... hãy cho tôi biết. Được chứ?
Tôi không hiểu anh đang nói gì, nhưng tôi gật đầu. Thế nghĩa là tôi đã hứa.
Đấy là lần cuối cùng chúng tôi gặp nhau trước khi mùa hè thực sự đến. Và sự thật là có một điều duy nhất có thể khiến tôi sợ hãi: không giữ được lời hứa của mình. Những ngày cuối năm học, giống như tất cả các sinh viên khác, tôi bị cuốn vào vòng xoáy học hành thi cử. Dù có ngáp dài ngáp ngắn, thậm chí ngủ gục trên bàn, tôi vẫn phải cố lắng nghe, cố tự bảo mình ngồi yên đi, chỉ còn một chút, một chút nữa thôi là hết giờ ngay ấy mà. Mùa hè cuối cùng cũng đã tới, mang theo mình cái nóng như thiêu như đốt trong những ngày giữa tháng 5. Ngồi trong lớp mà tôi có cảm giác như bị tra tấn, cả về thể xác lẫn linh hồn.
Đã hai tuần rồi tôi không gặp anh. Tôi vẫn thường lên sân thượng sau mỗi giờ học, nhưng lần này, chỉ có mình tôi với bầu không khí ngột ngạt đặc quánh của mùa hè. Sân bê tông hấp thụ nhiệt nóng hầm hập, cảm tưởng như đôi chân tôi dù đã đi giày nhưng cũng sắp bỏng rộp đến nơi. Vụt một cái, anh như biến mất vào hư vô, mãi mãi tan biến như những cơn gió mùa xuân nồng ẩm.
Tôi thấy nhớ. Không phải như nhớ bạn bè thông thường, mà thật ra tôi chẳng bao giờ nhớ bạn bè mình cả, nhưng cũng không phải là nỗi nhớ những người đặc biệt. Nói đúng hơn là cảm giác trống trải và hụt hẫng, như đứa trẻ đột nhiên mất đi món đồ chơi thân thiết, như một người lần đầu ra nước ngoài, nhớ da diết món cơm mà ngày nào mình cũng ăn. Là nỗi nhớ một thói quen. Gặp anh trên sân thượng từ lúc nào đã trở thành một thói quen của tôi mất rồi, một thói quen êm đềm và dễ chịu.
Sân ga ồn ào và nhốn nháo, sự lộn xộn khiến tôi nghĩ tới canteen trường học mỗi giờ giải lao. Chỉ còn khoảng mười phút nữa tàu sẽ chạy, tôi khẽ kéo chiếc áo khoác mỏng, nhắm mắt thật chặt, cố quên đi những âm thanh xôn xao xung quanh. Người ta đang nói chuyện, người ta đang cười, đang chào tạm biệt nhau, có người còn đang khóc.
Đây không phải là lần đầu tiên tôi đi du lịch một mình. Thật ra mỗi khi cảm thấy bế tắc hay bất mãn với thực tại, tôi lại vác ba lô lên đường kiếm tìm sự thanh thản. Nhưng là lần đầu tiên tôi đi xa đến thế. Năm học vừa kết thúc, tôi đã đặt ngay vé tàu lên miền núi Tây Bắc xa xôi. Trong đầu tôi lúc ấy chỉ có một ý nghĩ đơn giản: tôi thèm những cơn gió lạnh.
Thị trấn du lịch bé nhỏ chìm trong sương mù. Tuyệt, đúng là điều tôi mong muốn. Sau hơn mười tiếng ngồi tàu với cái cổ đau nhừ và nửa tiếng lảo đảo trên xe khách vì đường đèo, cuối cùng tôi cũng đã tới miền đất có những cơn gió lạnh. Trời lắc rắc mưa bụi, đi dạo một mình trên một đoạn dốc vắng, tôi thấy lòng mình như se lại. Không phải là cuối tuần, đường phố dài hiu hắt trong ánh sáng vàng le lói của những ngọn đèn đường trong màn sương đêm.
Sáng hôm sau, khi đặt chân xuống đường, tôi không thể tin vào mắt mình. Cách đây mấy tiếng đồng hồ, tất cả vẫn còn lờ mờ trong sương, thậm chí mây mù còn lẩn quất vào tận cửa phòng khách sạn. Thế mà bây giờ, ánh nắng ấm áp chói lòa đã tràn ngập khắp nơi. Trời xanh như ngọc, những đám mây chỉ còn nằm vắt trên những đỉnh núi xa xa.
Sau hai tiếng đồng hồ leo trèo cùng mấy lần suýt vồ ếch vì đường vẫn còn trơn do trận mưa tối qua, cuối cùng tôi cũng trèo lên tới đỉnh núi. Gọi là leo núi cho to tát, thực tế người ta đã tu sửa và làm đường lên núi rất dễ đi, hầu như không quá mất sức. Thị trấn du lịch hiện ra trọn vẹn dưới mắt tôi, nhỏ bé như thành phố trong truyện cổ tích, ẩn hiện trong những rừng thông và những dãy núi đỉnh đầy mây phủ. Tôi nhận ra đây là lần đầu tiên tôi đứng ở một nơi cao đến thế. Vẫn là bầu trời mà tôi vẫn ngắm nhìn trên sân thượng, nhưng không còn nữa những mái nhà nhấp nhô phía xa, không còn nữa những cần cẩu, những cột thu phát. Chỉ có một màu xanh dịu mát, thấp thoáng những đốm vàng đốm trắng, trải dài như vô tận.
Tôi đứng lặng im, tần ngần vịn tay vào lan can. Nhìn xuống dưới, vẫn có những đốm nhiều màu di động- những vị