Chương 2

Thị trấn của tôi có năm trường cấp hai. Trong năm trường, có ba trường làng nhàng, chẳng tạo một ấn tượng gì đáng kể. Chỉ có hai trường nổi tiếng là trường Nguyễn Bỉnh Khiêm và trường Trần Quốc Toản của tôi. Nhưng trong khi trường Nguyễn Bỉnh Khiêm nổi tiếng là trường học sinh giỏi thì trường tôi lại nổi tiếng là trường... học sinh dở.

Do đó, khi lên cấp ba, hầu hết học sinh trường Nguyễn Bỉnh Khiêm đều thi vô trường Trần Cao Vân. Còn học sinh trường tôi, trừ những đứa xuất sắc, đều chọn trường Huỳnh Thúc Kháng để "trao thân gởi phận". Từ nhiều năm nay, sự lựa chọn chết tiệt này của các bậc đàn anh trường tôi đã được các lớp đàn em noi theo một cách hăm hở như thể việc cam tâm học dốt là một truyền thống thiêng liêng từng được gìn giữ và lưu truyền qua nhiều thế hệ nên không ai nỡ phá bỏ.

Trong cái tập thể Trần Quốc Toản yếu kém đó, tôi là đứa nếu không kém nhất thì cũng kém nhì. Trong hàng lô hàng lốc những môn học, tôi chỉ kha khá mỗi môn toán. Còn lại, tôi dở đều các môn. Riêng môn văn thì tôi mít đặc, chưa bao giờ biết đến điểm 4 là gì. Những bài làm của tôi chỉ toàn điểm 3 trở xuống. Mỗi lần xem đến bài tập làm văn của tôi, bao giờ ba tôi cũng phát cáu, chửi om sòm. Rồi không biết nghe ai mách nước, ông bắt tôi kiếm sách về đọc để "nâng cao trình độ". Tôi hí hửng cầm tiền ra tiệm cho thuê sách gần nhà ôm về một chồng kiếm hiệp rồi vùi đầu trong phòng "luyện" mê mải. Nửa đêm thức dậy đi tiểu, dòm qua khe cửa thấy tôi nằm chong đèn đọc sách, ba tôi mừng lắm. Ông cứ tưởng tôi luyện văn, trong khi thực ra tôi đang luyện... võ. Cứ mỗi lần "luyện" xong một bộ, điểm tập làm văn của tôi lại hạ xuống một nấc. Tôi "luyện" xong bộ thứ ba thì bài tập của tôi cũng vừa kịp đạt tới... điểm 0.

Trước thành tích sáng chói này của tôi, ba tôi không nén được đã hào phóng tặng tôi một cú sút thẳng cẳng vào mông đít khiến tôi đang ngồi chồm hổm trước hiên phải bắn thẳng lên không và lộn một vòng ngoạn mục trước khi đáp ngay chóc xuống bụi xương rồng lở chởm gai trước cổng.

Khi giận dữ, mặt ba tôi tím lại và những đòn "quyền cước" của ông trở nên thâm hậu ác liệt không kém gì những chiêu thức của các tay cao thủ trong sách võ hiệp tôi đọc. Sau khi lãnh trọn một cú "thiết cước" vào "hạ bàn", lục phủ ngũ tạng của tôi bị đảo lộn tùng phèo. Tôi phải nghỉ học ba ngày liền để dưỡng thương và để nghĩ ngợi xem có cách nào gạ đổi ba tôi cho một ai đó để lấy một ông ba khác hiền lành hơn và nhất là ốm yếu hơn không.

Nhưng dù sau đó tôi có đứt ruột giã từ tiệm cho thuê sách đầy quyến rũ kia không một lần ngoảnh lại, môn văn của tôi cũng chẳng vì vậy mà khá lên được chút xíu nào. Những điểm 2, điểm 3 đối với tôi thân thiết như bạn cố tri, hễ gặp nhau là tay bắt mặt mừng, đố có rời ra nổi.

Với một trình độ lôm côm, một hành trang kiến thức đầy vá víu như vậy, có cho vàng tôi cũng chẳng dám thi vào trường Trần Cao Vân. Thậm chí tôi cũng chẳng dám nghĩ đến cái chuyện "tày trời" đó. Học hành lẹt đẹt như tôi, chỉ cần thi đậu vào lớp mười trường Huỳnh Thúc Kháng, ba tôi đã bày tiệc mời cả nước đến ăn mừng rồi, sức đâu mà nghĩ đến chuyện "trèo cao".

Vậy mà tôi đã "trèo cao", đã "chơi sang". Tôi nộp đơn xin thi vào trường "quý tộc" Trần Cao Vân trong khi cả khối đứa học giỏi hơn tôi không dám bén mảng đến cổng trường nổi tiếng đó. Quái lạ hơn nữa là tôi "trèo cao" mà không bị "té nặng". Cái tin tôi đậu vào trường Trần Cao Vân khiến những ai quen biết tôi, kể cả những người mới gặp qua tôi một lần, đều sửng sốt. Dĩ nhiên, người sửng sốt nhất là... tôi. Kế đến là ba tôi và mẹ tôi, bởi hiểu con không ai bằng cha mẹ.

Sở dĩ ở cái thị trấn bé nhỏ của tôi lại xảy ra chuyện kỳ quái như vậy, đầu đuôi cũng tại chiếc Huy Chương Vàng mà ra.

Cách đây hai năm, hồi tôi mới lên lớp tám, một hôm ba tôi bỗng hứng chí tậu về một chiếc xe đạp láng coóng. Chiếc xe thể thao mới cáu, ráp toàn đồ ngoại, sờ tay vào nghe mát tới tận... phổi. Loại xe "de luxe" này, cả thị trấn tôi có chừng mười chiếc là cùng. Hàng ngày bọn học trò con nhà bình dân như tôi nhìn mấy đứa con nhà giàu cỡi trên những chiếc "de luxe" lượn vòng vèo ngoài phố mà muốn lác cả mắt, nước miếng chảy đầy mồm.

Vậy mà đùng một cái, không biết ba tôi khuân ở đâu về một cái thứ của quí như thế. Mẹ tôi, em tôi và tôi cả ba đứng dàn hàng ngang trước chiếc xe, miệng há hốc:

- Ôi, ở đâu ra thế này?

- Mua chứ đâu! Chẳng lẽ lại nhặt được ở ngoài đường? - Ba tôi hừ mũi.

- Mua một chiếc xe như thế này? - Mắt mẹ tôi trợn tròn - Ông không đùa đấy chứ?

- Sao lại đùa! Tôi mua chiếc xe này cho thằng Chuẩn đi học đấy!

Tới phiên tôi tròn mắn:

- Thật không ba?

Ba tôi nhăn mặt:

- Thêm mày nữa! Sao lại không thật!

Không kềm được, tôi lập tức nhảy cỡn lên hoa chân múa tay như một người nghèo mạt rệp bỗng dưng trúng độc đắc hai trăm năm mươi triệu, miệng nghêu ngao:

- Cho em xin một chiếc xe đạp,

Xe xinh xinh để em đi học...

Rồi tôi quay sang nhỏ Châu, giọng hào hứng:

- Chiều nay anh em mình tha hồ vi vút. Tao sẽ chở mày...

- Chiều nay mày chưa được cỡi xe này đâu! - Tôi chưa nói dứt câu, ba tôi đã cắt ngang khiến tôi cụt hứng.

Tôi nằn nì:

- Chiều nay hay sáng mai cũng vậy thôi chứ khác gì đâu ba!

Ba tôi thản nhiên:

- Sáng mai mày cũng chưa đi xe này được!

Tôi ngơ ngác:

- Vậy chừng nào con mới đi được?

- Chừng nào mày thi đậu vô lớp mười, tao sẽ giao xe cho mày!

Lúc này bom nguyên tử có nổ ngay giữa nhà chắc cũng không gây chấn động bằng lời phán của ba tôi. Mẹ tôi và nhỏ Châu đưa mắt nhìn nhau, mặt mày đầy vẻ kinh dị. Còn tôi thì nghe tai mình ù đi, miệng rên rỉ:

- Lớp mười! Trời đất ơi, còn những hai năm đằng đẵng nữa! Biết mình có sống tới lúc đó không!

Tôi gục đầu xuống bàn và nghe giọng ba tôi lạnh lùng vang lên bên tai:

- Nếu mày chết rồi thì thôi, nhưng nếu còn sống, tao sẽ đợi mày!

Nhưng dường như cho rằng làm khổ tôi như vậy vẫn chưa đủ, trước khi bỏ ra khỏi nhà, ba tôi còn "tái bút" thêm:

- Thi đậu vô lớp mười, nhưng phải là lớp mười trường Trần Cao Vân kia!

Ngữ tôi mà thi nổi vô trường Trần Cao Vân! Ba tôi ra điều kiện như vậy chẳng khác nào bảo tôi đi hái mặt trăng! Nỗi tuyệt vọng đánh gục tôi hoàn toàn. Tôi chán nản đập tay xuống bàn và rít qua kẽ răng:

- Thà chết sướng hơn!

Sau đó dĩ nhiên tôi không chết. Nhưng tôi sống khổ sống sở. Nhìn báu vật bày sờ sờ trước mắt mà không được đụng tới, điều đó khiến tôi đau đớn còn hơn là lãnh vài chục cú "thiết cước" vào "hạ bàn". Mẹ Mục Kiền Liên bị đày trong hỏa ngục, thấy cơm mà phải nhịn đói, chắn cũng ấm ức, tủi hổ như tôi là cùng.

Sau lần đó, ba tôi khóa xe dựng vào góc nhà, không cho ai sờ tới. Ngay cả ông, ông cũng không bao giờ lấy ra đi. Lâu lâu, ông lại lôi ra kỳ cọ, chùi rửa sạch boong. Xong, lại cất vào. Có lẽ ông cố giữ nó cho thật mới để chờ ngày trao giải cho tôi. Bạn bè tôi biết chuyện, gọi nó là chiếc Huy Chương Vàng. Thừa lúc ba tôi vắng nhà, tụi nó rủ nhau kéo tới "tham quan". Sau khi ngắm nghía đã đời, mỗi đứa quẹt tay vào chiếc Huy Chương Vàng một cái, rồi ra về.

Giữa năm lớp tám, tôi bắt đầu chơi hoa, nỗi đau khổ về chiếc Huy Chương Vàng nguôi ngoai được phần nào. Nhưng cứ mỗi lần bước sang qua góc nhà, tim tôi lại nhói lên một cái, bước sang mười lần nhói đủ mười cái.

Thật ra, thích chiếc Huy Chương Vàng thì tôi quả có thích mê tơi thật, thậm chí có nhiều đêm tôi nằm mơ thấy mình cỡi nó lượn vi vu qua các ngả phố trước ánh mắt thèm thuồng và ghen tị của bao nhiêu là đứa, nhưng trong thâm tâm không bao giờ tôi tơ tưởng đến việc trở thành chủ nhân của nó.

Hồi ba tôi mới đem chiếc xe về "nhử" tôi, tôi học hành có chăm lên được một chút. Nhưng ì ạch hoài mà chẳng ăn thua gì, sức tôi kém vẫn hoàn kém, đặc biệt là cái môn Văn khốn nạn, tôi nản quá chẳng thèm cố công nữa.

Nhưng tôi nản một thì ba tôi nản mười. Thấy tôi có vẻ sung sướng với chuyện học dốt hơn là nỗ lực giật lấy món giải thưởng cao quí treo ngay trước mũi kia, ông điên tiết gầm gừ suốt ngày. Nhưng ngoài việc mắng chửi và thỉnh thoảng tung vài cú sút vào "hạ bàn" của đứa con bất hiếu, cứng đầu cứng cổ cho hả giận, ông chỉ biết ngồi nhìn trời thở dài thườn thượt.

Những lúc ấy, nấp sau kẹt cửa, tôi vừa xoa mông vừa nhìn trộm ba tôi qua khe hở, cố đoán xem ông đang nghĩ ngợi gì. Phải chăng ông đang hồi tưởng lại hồi nhỏ ông có học hành lẹt đẹt không mà sao lại sinh ra một kẻ kế thừa mít đặc là tôi?

Cho đến khi lên lớp chín, trung thành với lý tưởng của các bậc đàn anh trường tôi, tôi xác định mục tiêu của mình là thi vô trường Huỳnh Thúc Kháng nếu may mắn vượt qua được kỳ thi tốt nghiệp cuối năm. Chiếc Huy Chương Vàng đời tôi không có duyên được hưởng, thôi để cho ba tôi dành trao giải cho cháu nội sau này!

Ðịnh mệnh tưởng đã an bài, nào ngờ tôi vừa đậu kỳ thi tốt nghiệp xong, đám bạn mắc dịch của tôi lập tức xúm lại bàn ra tán vào ỏm tỏi. Ðứa nào đứa nấy ngoác mồm to bằng cái chậu xúi tôi thi vô trường Trần Cao Vân. Thằng Cường sốt sắng đem bộ đề thi có sẵn đáp án của sở giáo dục tới tận nhà "năn nỉ" tôi học. Thằng Phú ghẻ thì tình nguyện bỏ ra một tuần năm buổi ôn luyện cho tôi. Phú ghẻ học giỏi nhất nhì trong lớp, năm nay cũng thi vào trường Trần Cao Vân. Ðược nó kèm cặp, tôi lên tinh thần được chút chút.

Nói chung, tụi bạn tỏ ra hăng hái lo lắng cho tôi tợn. Ðôi lúc tôi có cảm tưởng nếu bản thân tụi nó thi rớt thì không sao, nhưng nếu chẳng may tôi thi rớt, tụi nó sẽ rủ nhau đi tự tử hết ráo.

Dĩ nhiên tôi ngu gì mà không biết sở dĩ tụi nó ân cần tử tể với chuyện học hành thi cử của tôi chẳng qua tụi nó mong cho tôi thi đậu vào trường Trần Cao Vân để "chớp" chiếc Huy Chương Vàng ra chở tụi nó chạy lòng vòng dợt le với đám con gái õng ẹo trong thị trấn. Nhưng dù sao thấy tụi nó quan tâm đến tương lai của tôi quá xá, tôi cũng xúc động rơm rớm nước mắt.

Thế là, hết đường thoát, tôi đành phải bấm bụng nộp đơn thi vào trường Trần Cao Vân. Những ngày sau đó, thằng Cường một bên và Phú ghẻ một bên, hai đứa kèm tôi sát rạt.

Trong đám bạn của tôi, Phú ghẻ là đứa được ba tôi đối xử tương đối tử tế nhất. Ông biết nó là học sinh giỏi. Tôi chơi với nó, ông không sợ tôi "gần mực thì đen" như chơi với những đứa lôm côm khác. Thực ra Phú ghẻ là thằng hoang đàng chi địa. Nó nghịch ngợm phá phách cũng giỏi không thua gì khi nó học. Nhưng ba tôi còn khuya mới biết điều đó. Thấy ngày nào nó cũng dẫn xác đến kèm tôi học, chắc ông khoái ngầm trong bụng nên tôi chẳng thấy ông hò hét như mọi ngày. Thằng Cường được dịp ăn theo, tò tò đi sau đuôi Phú ghẻ, lần nào cũng trót lọt. Nếu ba tôi biết nó không dám thi vô trường Trần Cao Vân, sợ rớt, chỉ đút đơn thi Huỳnh Thúc Kháng, vậy mà còn bày đặt tới nhà "phụ đạo" cho tôi, chắc ông đã vác gậy rượt nó chạy từ đời tám hoánh.

Nhưng mặc dù được hai thằng bạn "kè" thật lực, tôi vẫn chẳng thấy đầu óc sáng sủa lên được chút xíu nào. Tôi chỉ nắm vững mỗi môn toán còn văn nghị luận thì mặc Phú ghẻ gào rát cả cổ, tôi vẫn cứ ù ù cạc cạc. Phú ghẻ cáu lắm. Nó nhăn nhó:

- Cái đầu mày nó sao sao ấy!

- Ừ, nó giống cái đầu mày!

Tôi phát khùng vặc lại. Cái thằng Phú ghẻ ngứa này, nó tưởng nó giảng hoài tôi không hiểu chỉ có nó phát cáu, còn tôi học hoài không vô, lại thêm phải chứng kiến cái cảnh nó ngồi gãi ghẻ sồn sột, tôi không biết nổi đóa chắc!

Phú ghẻ chẳng thèm cãi nhau với tôi. Nó ngán ngẩm đẩy bộ đề thi in sẵn đến trước mặt tôi:

- Hay là mày học thuộc lòng cuốn này quách?

Tôi trợn mắt:

- Học nguyên cả cuốn?

- Ðành phải ráng chứ sao! - Phú ghẻ nhún vai - Văn nghị luận mày học cả hai năm trời còn không hiểu, tao chỉ cho mày chưa đầy một tháng thì ăn nhằm gì!

Tôi đang phân vân trước lời đề nghị kém khí thế của Phú ghẻ thì thằng Cường ngồi bên cạnh bỗng hùa vô:

- Ý kiến của Phú ghẻ hay đấy! Tao nhất trí!

Cái thằng vô duyên này, chuyện của tôi chứ đâu phải chuyện của nó mà nó bày đặt "nhất trí"! Cường không biết tôi đang chửi thầm nó. Mặt nhơn nhơn, nó quay sang vỗ vai tôi:

- Mày đừng lo! Tao sẽ học chung với mày!

Ai chứ thằng Cường bảo đừng lo, tôi càng lo hơn! Nó cùng một giuộc với tôi, học hành năm nào cũng lăm le thi lại, có cho vàng tôi cũng chẳng dám nghe theo lời khuyên của nó. Nhưng sau một hồi suy đi ngẫm lại, tôi buồn bã nhận ra chẳng còn con đường nào khác ngoài cách gò lưng tụng cho hết ba mươi đề thi văn lẫn những bài đáp án dài dằng dặc kia. Hồ sơ thi vào trường Trần Cao Vân tôi đã nộp rồi, muốn rút lại cũng không còn kịp nữa. Ba tôi lại đứng án ngữ phía sau, võ công của ông dạo này lại toàn chiêu sát thủ, tôi mà thoái bộ một cái là lãnh ngay "thiết cước" vào lưng. Phú ghẻ thương tôi thì có thương thật nhưng mới kèm tôi ba buổi nó đã chạy dài. Ðã đến nước này, tao chỉ còn mỗi cách khăn gói theo mày "học tủ" quách, Cường ơi!

Tôi với Cường "học tủ", nhưng "tủ" của tôi không giống "tủ" của nó đầy nhóc, toàn bộ ba mươi đề thi lẫn bài giải đều nhét vào hết ráo. Còn tôi tụng đến gãy lưỡi gần cả tháng trời chỉ thuộc được mười bảy bài rưỡi. Phú ghẻ tới kiểm tra, biết sức tôi chỉ tới đó, bèn ân cần động viên:

- Vậy là giỏi rồi! Biết đâu đề thi năm nay chẳng nằm trong mười bảy cái đề đó!

Phú ghẻ nói càn mà sém tí nữa trúng phóc. Bữa thi môn văn đề bài ra na ná một trong mười bảy cái đề tôi đã học. Thế là nhắm mắt nhắm mũi, tôi tuôn một mạch, ngòi viết chạy ro ro nghe bắt sướng lỗ tai. Nhoáng một cái, tôi đã đem bài lên nộp trước ánh mắt kinh dị và thán phục của cả phòng thi. Mấy đứa học sinh giỏi, mồm cứ há hốc ra, chẳng tài nào ngậm lại được.

Khi bước chân ra khỏi phòng thi, tôi cứ tiếc hùi hụi phải chi tôi sinh vào thế kỷ trước thì phen này chắc chắn dã "bỏ túi" cái Trạng nguyên, biết đâu lại được công chúa kén làm phò mã nữa không chừng!

Tôi làm phò mã tưởng tượng được chừng mười lăm phút thì những thí sinh trong phòng lục tục bước ra. Sau khi hỏi han, nghe tụi nó bảo đề thi vừa rồi không thể làm giống y chang đáp án mà phải sửa lại một vài chỗ, suýt chút nữa tôi đã xỉu ngay trong sân trường. Phải gắng gượng lắm tôi mới trấn tĩnh được và không buồn ở lại đợi Phú ghẻ như đã hẹn, tôi phóng một mạch về nhà.

Ba tôi hỏi:

- Làm bài được không con?

- Trúng phóc ba à!

Mẹ tôi hỏi:

- Làm bài được không con?

- Ngon lành mẹ à!

Nhỏ Châu hỏi:

- Làm bài được không anh?

Tôi hạ giọng:

- Trớt quớt rồi mày ơi!

Một kế hoạch "lánh nạn" hiện ra chớp nhoáng trong đầu, tôi xin phép ba mẹ về nghỉ hè ở nhà ngoại dưới quê để đầu óc được thư giãn sau những ngày ôn thi căng thẳng. Chỉ những học trò chăm chỉ cần cù mới nêu ra được lý do chính đáng như vậy, ba tôi nghe bùi tai, bèn gật đầu ngay không cần suy nghĩ. Từ khi sinh ra tôi đến giờ, có lẽ đây là lần đầu tiên ông mới hưởng được hạnh phúc của một người cha có con "căng thẳng" vì học tập. Mẹ tôi hỏi:

- Chừng nào con đi?

- Dạ, ngay bây giờ.

- Ngay bây giờ? Làm gì gấp vậy? - Mẹ tôi chưng hửng.

Tôi chép miệng:

- Dạ không hiểu sao con thấy nhớ ngoại quá!

Mẹ tôi có vẻ nghi ngờ trước tình cảm tràn trề đột xuất của tôi nhưng bà không nói gì, chỉ móc trong túi ra một xấp tiền dúi vào tay tôi:

- Xuống dưới nhớ đừng leo trèo nghịch ngợm coi chừng té gãy cổ nghen con!

- Dạ.

Tôi nhét tiền vô túi rồi vội vã đi tìm nhỏ Châu:

- Mày ở nhà nhớ trông nom vườn hoa cẩn thận nghen!

- Dạ.

- Khi nào có kết quả thi vô lớp mười, mày đi coi giùm tao. Nếu thấy tao đậu, mày phải bay xuống ngoại báo tin cho tao liền!

Nhỏ Châu rụt rè:

- Nhỡ anh rớt thì sao?

- Thì thôi, mày cứ ở nhà! - Tôi thở dài - Quá một tuần lễ, không thấy mày xuống, tao sẽ biết là tao đi đời! Lúc đó, tao sẽ ở luôn dưới ngoại, không về nhà nữa!

- Sao vậy? - Nhỏ Châu ngẩn ngơ - Ðằng nào anh cũng phải về nhà chứ?

Tôi lắc đầu:

- Nếu rớt, tao sẽ không về. Tao mà dẫn xác về, ba sẽ sút tao bay tới tận mặt trăng!

- Nhưng ở dưới ngoại làm sao anh đi học? - Nhỏ Châu bắt đầu lo âu.

- Tao không đi học nữa! Tao sẽ đi chăn bò. Nhà ngoại có mấy con bò, mày không nhớ sao?

Viễn ảnh tôi vẽ lên bi đát đến mức giọng tôi bỗng trở nên bùi ngùi. Còn nhỏ Châu thì rơm rớm nước mắt. Nó sụt sịt:

- Không được, anh phải về nhà với em! Em sẽ năn nỉ ba cho!

Tôi nhún vai, hừ giọng:

- Khỏi! Nam tử đại trượng phu không cần nhờ ai năn nỉ giùm! Bốn bể là nhà, sống nơi đâu mà chẳng được, mày khỏi phải lo cho đại huynh của mày!

Nói xong một câu "thuổng" trong truyện kiếm hiệp, tôi "phất tay áo" ra đi. Nhỏ Châu không hiểu tôi vừa lảm nhảm những gì nhưng khi nãy nghe tôi doạ sẽ bỏ học đi chăn bò, nó hãi quá, cứ giương đôi mắt mờ lệ trông theo.

Tôi rảo bước ra bến xe mà bụng cứ thấp thỏm sợ tụi bạn bắt gặp. Thi xong, chắc chắn thằng Cường và Phú ghẻ phóc ngay đến nhà tôi. Biết tôi vừa mới đi, thế nào tụi nó cũng đuổi theo. Lúc này tôi sợ gặp hai thằng cốt đột đó còn hơn là sợ gặp cọp. Sỡ dĩ tôi phải khăn gói trốn chui chốn nhủi như thế này cũng chỉ vì không muốn bị tụi nó cật vấn, hạch hỏi lôi thôi về bài thi văn ban sáng.

Tôi vừa đi vừa ngoảnh cổ dòm dáo dác như thằng ăn trộm vừa thó tiền ở nhà băng. Chỉ đến khi ngồi thu lu trên chiếc xe đò sắp chạy mà vẫn chưa thấy bóng dáng hai thằng mắc dịch đó đâu, tôi mới biết là mình thoát nạn.

Những ngày kế tiếp theo đối với tôi là những ngày rất đỗi nặng nề. Thấy tôi lâu lắm mới về chơi, ngoại chiều chuộng tôi hết biết, nhưng lòng đang nóng như lửa đốt, tôi chẳng thấy khoan khoái tí ti ông cụ nào. Từ nhà ra vườn rồi từ vườn vào nhà, mỗi ngày tôi đi vào đi ra cả chục lược đếm lá vàng rơi.

Ðến ngày thứ sáu, tôi bắt đầu ngóc cổ ngóng lên đường lộ, chờ phép màu xuất hiện mặc dù trong thâm tâm, tôi không tin môn toán của tôi có thể cứu được môn văn trời đánh thánh đâm kia. Quả như tôi lo lắng, ngày hôm sau rồi ngày hôm sau nữa, bóng dáng của nhỏ Châu vẫn biệt mù ở tận đâu đâu, mặc cho tôi chờ dài cả cổ.

Ðến trưa ngày thứ mười thì niềm hy vọng mong manh trong lòng tôi đã thực sự tắt ngấm. Nhưng đúng vào lúc tôi chán đời leo lên giường quấn chăn trùm kín người và bắt đầu nghĩ đến sự nghiệp chăn bò sắp tới thì đột nhiên có tiếng ồn ào ngoài ngõ. Tôi chưa kịp nhỏm người dậy thì thằng Cường và Phú ghẻ đã ập vào nhà như một cơn lốc.

Vừa thấy mặt tôi, Cường đã oang oang:

- Mày đậu rồi Chuẩn ơi! Ðậu đúng 10,5 điểm!

- Xạo đi mày! - Tôi bán tín bán nghi - Nếu tao đậu thì ba ngày trước nhỏ Châu đã xuống báo cho tao biết rồi!

- Bữa nay trường Trần Cao Vân mới niêm yết danh sách thí sinh trúng tuyển, trễ ba ngày so với thông báo, thằng ngốc ạ! Lúc nãy tụi tao ghé nhà mày, thấy nhỏ Châu định đi tìm mày để khuyên mày thôi nghề chăn bò, tụi tao mới bảo nó ở nhà để tụi tao đi cho. Chỗ bạn bè dù sao cũng dễ khuyên hơn!

Thằng Cường nói câu đó với vẻ mặt trịnh trọng khiến Phú ghẻ ôm bụng cười bò. Tôi ngồi chết trân, dở cười dở mếu, trong bụng rủa thầm cái thói mách lẻo của nhỏ Châu tơi bời hoa lá. Nhưng tôi vẫn chưa hoàn toàn tin lời thằng Cường láu cá. Tôi sợ nó xí gạt, bèn đưa mắt nhìn Phú ghẻ. Như hiểu ý tôi, Phú ghẻ gật đầu:

- Nó nói thật đó. Cả ba đứa mình đều đậu hết. Toán mày được 5 điểm. Văn 5 điểm rưỡi. Lát nữa về gặp "ông già hắc ám" của mày lãnh chiếc Huy Chương Vàng đi thôi!

Ðến lúc đó tôi mới tin là tôi dã đậu vô trường Trần Cao Vân. Quả là chuyện không mơ thấy nổi. Ðiểm văn cao hơn điểm toán lại càng quái đản. Quái đản đến mức tôi cứ lẩm bẩm như người ngủ mê:

- Kiểu này thì chó biết mặc quần hết ráo!

Sau đó dĩ nhiên là những ngày huy hoàng tột bậc. Ba mẹ tôi đón tôi trở về như đón một người hùng trở về từ mặt trận. Nhỏ Châu tìm lại được người anh tưởng đã ra đi không hẹn ngày trở lại nên suốt ngày cứ quấn quít bên tôi. Rồi ba tôi vét sạch tiền trong đáy rương của mẹ tôi mở tiệc linh đình chiêu đãi bà con lối xóm, làm như không phải tôi đậu vô lớp mười mà là đậu tiến sĩ vậy. Tôi ngẫm lại, thấy học dốt quả nhiên cũng có cái lợi. Ðang dốt kinh niên, bỗng một hôm gặp hên ít dốt đi một chút, lập tức hóa thành sự kiện trọng đại, ai ai cũng nức nở ngợi khen.

Nhưng tất cả điều đó cũng không khiến tôi sung sướng bằng lúc ba tôi cầm chiếc chìa khóa sáng chóe đặt vào tay tôi và cất giọng ngọt ngào hiếm có:

- Kể từ giờ phút này, chiếc xe này là của con!

Tôi không biết lúc Aladin vớ được cây đèn thần, hắn ta mừng rỡ cỡ nào chứ riêng tôi lúc đó, tôi tin rằng trong suốt cuộc đời dài lê thê của mình, tôi khó thể bắt gặp nỗi hân hoan nào lớn lao hơn thế.

Chia sẻ
Loading...
Loading...
Loading...
Chia sẻ
Danh sách chương
Loading...
Loading...
Loading...
Thể loại
Tìm kiếm
Loading...
Loading...
Loading...
Lọc truyện