Chương 17

Tên lùn bảo:

– Chúng ta nên tắt đèn đi.

Tên cao nói:

– Đúng, cảm giác của hắn sẽ chân thực và sống động hơn trong bóng đêm. Thêm nữa, bóng đêm sẽ khiến thời gian trôi đi chậm hơn, cơn đau vì thế sẽ tăng gấp bội.

Tên lùn bảo:

– Lần trước, khi chúng ta làm vậy, kẻ đó đã hóa điên.

Tên cao nói:

– Mong là ngươi sẽ không hóa điên.

Tên cao và tên lùn tắt hết đèn dầu, xách đèn lồng, rời khỏi mật thất. Khi tia sáng cuối cùng tắt lịm, bóng đêm bao phủ, Tiểu Lục vẫn nỗ lực mở to hai mắt, bởi vì hắn biết rằng những điều hai tên khi nãy nói đều đúng. Cách tốt nhất giúp bản thân mình không hóa điên là không được nhắm mắt. Tiểu Lục bắt đầu cảm thấy cơn đau buốt nơi đầu ngón tay như thể loài giòi bọ đã bắt đầu chui vào cơ thể của hắn, gặm nhấm trái tim hắn, từng chút một. Tiểu Lục cũng bắt đầu lẩm nhẩm một mình, nghĩ gì nói nấy. Bóng đêm mịt mùng và cơn đau nhức nhối dội đến, nhưng trí óc hắn vẫn ngập tràn những cảnh tượng rực rỡ, tươi đẹp.

Hoa phượng rực lửa đầu cành, chiếc đu đung đưa dưới gốc cây. Cô bé chơi đu còn cậu bé đang luyện công. Cô bé hớn hở gọi anh trai:

– Anh ơi, nhìn em này, cao không…

Anh trai cô bé chẳng buồn nhúc nhích, vờ như không nghe thấy. Nhưng nếu cô bé bất cẩn ngã xuống, cậu bé sẽ lập tức lao đến đón lấy cô.

Giữa rừng dâu xanh ngát, cô bé thường chơi trò ú tim, cô trốn trên cây, quan sát anh trai cô mất cảnh giác, cô sẽ nhảy lên lưng anh ấy, cười vang, rồi nũng nịu không chịu xuống mà bắt anh ấy cõng về. Lần nào thấy vậy, mẹ cũng lắc đầu thở dài, còn bà ngoại thì bảo mẹ: Nó giống hệt con hồi nhỏ.

Cô bé ngồi bên bà ngoại, chơi trò kéo co với anh trai bằng nhụy hoa, ai thua phải chịu búng mũi. Lần nào thắng, cô bé cũng ra sức búng mũi anh trai thật đau, nhưng đến lượt mình bị búng mũi thì cô nũng nịu van nài:

– Anh ơi, nhẹ thôi nhé!

Anh trai cô thường nhấc tay lên một cách lạnh lùng, quả quyết nhưng khi chạm mũi cô thì hình phạt trở nên nhẹ nhàng như không.

Ông chú áo đỏ tặng cô chiếc đuôi hồ ly màu trắng, anh trai cô bé rất thích nhưng cô chỉ cho anh ấy chơi một lúc thôi. Và lần nào cũng ra điều kiện, bắt anh ấy phải trộm dâu ướp lạnh cho cô ăn. Một lần nọ, vì ăn quá nhiều dâu ướp lạnh, cô bé bị đau bụng, đi ngoài và bị mẹ mắng cho một trận. Cô mếu máo nói với anh trai:

– Huynh học làm món dâu ướp lạnh đi, để muội thích ăn bao nhiêu tùy thích, không bị mẹ mắng và bà ngoại mắng nữa!

Anh trai cô nhận lời và học được cách làm món dâu lạnh nhưng vẫn không chịu làm cho cô ăn. Anh ấy chỉ bảo:

– Khi nào muội lớn, không đau bụng nữa thì ta sẽ làm cho muội ăn.

Sức khỏe của bà ngoại ngày càng yếu đi, mẹ phải săn sóc bà đêm ngày nên không còn thời gian để mắt đến hai anh em. Mọi người đều bảo, cậu và mợ mất rồi, bà ngoại cũng sắp mất. Cô bé sợ lắm, buổi tối lén chui vào trong chăn của anh trai. Cô hỏi khẽ:

– Chết là gì?

Anh trai đáp:

– Chết tức là không còn nhìn thấy nữa.

– Cũng không thể nói chuyện được nữa?

– Ừ!

– Giống như huynh không thể gặp cha mẹ mình?

– Ừ.

– Bà ngoại sắp mất phải không?

Anh trai siết chặt cô vào lòng, nước mắt lăn dài trên má cô. Cô cũng ôm chặt lấy anh ấy.

– Muội sẽ không bao giờ chết, muội sẽ trò chuyện với huynh mãi mãi.

Ai cũng cho rằng anh trai cô là người kiên cường, cả ông ngoại cũng bảo huynh ấy là người chưa bao giờ biết khóc là gì. Nhưng cô biết, anh ấy biết khóc. Có điều cô không bao giờ nói với mẹ về chuyện này. Hàng đêm, cô vẫn thường rúc vào chăn của huynh ấy, ngủ cùng huynh ấy, cho dù hôm sau cô sẽ bị mẹ mắng cho một trận, rằng lớn bằng ngần ấy rồi mà vẫn còn sợ phải ngủ một mình, vẫn tới làm phiền anh trai. Cô bé không nói gì cả, chỉ phụng phịu lắng nghe, nhưng đến tối, cô lại trốn đến gặp anh trai.

Ban ngày, anh trai cô là cậu bé kiên cường, chín chắn, cần cù, hiếu học, nhưng chỉ mình cô biết cậu ấy thường tỉnh giấc lúc nửa đêm, cuộn tròn mình trong chăn, toàn thân run lên bần bật. Cô bé biết huynh ấy đang nhớ lại cảnh tượng mẹ mình tự sát bằng dao găm. Những lúc như thế, cô bé sẽ ôm huynh ấy vào lòng và vỗ về như cô vẫn thường vỗ về búp bê đầu gỗ của mình, khe khẽ hát ru huynh ấy bằng những câu ca dao mà mẹ và mợ thường ngâm nga. Khi ấy, những giọt nước mắt lặng thầm của huynh ấy sẽ rớt xuống. Có lần, cô bé đã nếm thử nước mắt của huynh ấy, nó vừa mặn, vừa đắng.

Một lần khác, anh trai cô lại gặp ác mộng, nhưng cứ gồng mình lên, nhất quyết không cho phép mình rơi lệ. Cô bé liền ôm chặt lấy huynh ấy, và bảo:

– Huynh cứ khóc đi, mau khóc đi!

Huynh ấy hỏi cô:

– Mọi người đều khuyên ta không được khóc, vì sao muội thì ngược lại? Muội có biết là ta không nên khóc lóc không?

Cô bé sụt sịt:

– Muội không cần biết mọi người nói gì, muội chỉ biết rằng huynh đang rất buồn, nước mắt sẽ giúp huynh ấy đẩy trôi nỗi buồn ra bên ngoài, nỗi buồn tan đi, lòng sẽ nhẹ nhõm hơn.

Đêm trước ngày cô đến Ngọc Sơn, anh trai chủ động đề nghị được ngủ chung với cô. Trong giấc ngủ say sưa, cô vẫn cảm nhận được huynh ấy đang ôm chặt lấy mình, những giọt nước mắt nóng hổi rơi trên má cô. Cô bé tưởng rằng anh trai mình lại gặp ác mộng nữa, nên cô nhẹ nhàng vỗ về, an ủi huynh ấy:

– Đừng sợ, đừng sợ, muội ở đây rồi!

Anh trai cô cứ nhắc đi nhắc lại:

– Xin lỗi muội, ta xin lỗi muội, ta thật vô dụng! Nhưng ra hứa sẽ lớn thật nhanh, ta sẽ bảo vệ hai mẹ con muội. Ta nhất định sẽ tới đón muội…

Không gian tối như bưng, thời gian như ngưng đọng, Tiểu Lục vẫn không ngừng lẩm nhẩm một mình. Nhiều lần bị cơn đau tấn công, hắn quên mất mình đang nói gì, nhưng vẫn kiên trì chống chịu và vượt qua, để rồi lại tiếp tục cuộc độc thoại.

Không biết đã bao lâu, Tiểu Lục chỉ nhớ rằng hắn đang bắt đầu nói về cách nướng cá. Hắn tổng kết được ba mươi chín phương pháp, và tổng cộng một trăm hai mươi bảy thứ gia vị.

Tiếng cánh cửa cọt kẹt, đèn lồng vụt sáng. Vì chìm trong bóng tối đã quá lâu, nên dù chỉ là ánh sáng đèn lồng cũng đủ khiến Tiểu Lục nhức mắt, hắn vội nhắm mắt lại.

Tên cao nói:

– Vẻ mặt của hắn khác hẳn những tên trước kia.

Tên lùn bảo:

– Hắn thật kỳ lạ.

Tên cao mở nắp hộp, tên lùn cởi sợi dây buộc quanh miệng Tiểu Lục và rút miếng gỗ trong miệng hắn. Tên cao kều rửa tay cho Tiểu Lục, Tiểu Lục rên lên vì đau, trong cơn mơ màng, dường như hắn nghe thấy tiếng Thập Thất. Sợi dây căng buốt trong đầu hắn, đến đây bỗng đứt rời, hắn đau đớn ngất lịm!

Lúc Tiểu Lục tỉnh lại, xung quanh hắn vẫn là màn đêm mù mịt nhưng hắn nhận thấy trang phục trên người hắn đã được thay mới, và hắn đang nằm trên một chiếc giường êm ái. Có ai đó ngồi bên cạnh hắn, Tiểu Lục chăm chú nhìn người đó và thốt lên thật kinh ngạc:

– Thập Thất, Cảnh?

– Tôi đây.

– Cửa sổ.

Cảnh lập tức đứng lên, mở toang cửa sổ, gió núi ào ạt lùa vào phòng, Tiểu Lục hít hà thỏa sức. Cảnh châm đèn, đỡ Tiểu Lục ngồi dậy. Tiểu Lục cúi xuống thấy hai bàn tay mình đã được băng bó như hai cái bánh chưng[3] cỡ bự. Hẳn là vết thương vô cùng nghiêm trọng và đã được bôi thứ thuốc vô cùng quý hiếm nên hắn không thấy đau nhức nữa.

[3] Một loại bánh hình quả trám, làm bằng gạo nếp và nhân đậu xanh, gần giống với Bánh chưng của Việt Nam, là món ăn truyền thống của Trung Quốc.

Cảnh bưng bát, đút canh thịt cho Tiểu Lục. Tiểu Lục đói muốn chết nhưng không dám ăn uống hùng hổ mà nuốt từng ngụm nhỏ.

Uống hết bát canh, Cảnh dốc một viên thuốc, đưa cho Tiểu Lục:

– Ngậm đi.

Tiểu Lục bỏ viên thuốc vào miệng, đưa mắt nhìn xung quanh, nhận ra căn phòng gỗ thô sơ và thảm trải bằng da thú quen thuộc. Tiểu Lục ngạc nhiên hỏi:

– Chúng ta đang ở trong quân doanh của nghĩa quân Thần Nông?

– Tôi đến tìm tướng quân Tương Liễu và nhờ cậy ông ấy. Ông ấy liền dẫn quân tấn công Hiên, còn tôi xuống địa lao cứu huynh.

Từ lúc kết giao với Tương Liễu đến khi điều tra ra vị trí địa lao, rồi lập kế hoạch cứu Tiểu Lục, chắc chắn là cả một quá trình đầy phức tạp, trúc trắc, vậy mà Cảnh chỉ kể lại bằng vài câu đơn giản.

Tiểu Lục bảo:

– Thực ra cậu không cần đến cứu tôi.

Cảnh nói:

– Thực ra lát nữa tôi phải về thị trấn Thanh Thủy, huynh hãy đưa tôi thuốc giải độc cho A Niệm.

Tiểu Lục bảo:

– Cô ta có trúng độc đâu! Tiểu thư con nhà giàu như A Niệm chắc chắn sẽ vời được vô số các danh y đến chữa chạy cho mình, dù trúng phải loại độc gì đi chăng nữa cũng sẽ được giải cứu. Nghĩ vậy nên tôi đã cố tình tung hỏa mù. Người thân của cô ta rất cưng chiều cô ta, nên nếu thầy thuốc càng không tìm ra được loại độc dược gì thì họ sẽ càng lo lắng. Nhờ vậy, tạm thời Hiên sẽ không lấy mạng tôi.

– Huynh…

Cảnh cúi nhìn bàn tay Tiểu Lục, ánh mắt ngập tràn nỗi yêu thương. Tiểu Lục mắt đảo như rang lạc:

– Tôi… tung hỏa mù chỉ giúp tôi tạm giữ được mạng sống… vậy nên… tôi không hạ độc A Niệm, nhưng đã hạ độc Hiên.

Cảnh kinh ngạc nhìn Tiểu Lục:

– Chất độc được rải trên cơ thể A Niệm, Hiên ôm cô ta, vỗ về, vuốt ve, an ủi cô ta… chất độc đó sẽ chầm chậm đi vào cơ thể hắn và khi nó ngấm vào mạch máu của Hiên thì rất khó lấy ra. Với tính cách của A Niệm, hẳn là mấy ngày nay, cô ả không ngừng kêu khóc. Hiên sốt ruột, lo lắng cho cô ả nên chắc chắn không thể ngờ tôi nhắm vào mình.

– Đó là loại độc gì?

Tiểu Lục bối rối:

– Thực ra nó không phải là chất độc, mà là… cổ độc.

Thuật điều khiển cổ độc vốn là bí quyết của bộ tộc Cửu Lê. Mấy trăm năm trước, ở bộ tộc Cửu Lê xuất hiện một thầy phù thủy rất giỏi điều khiển cổ độc, được người trong Đại hoang xưng tụng là ông Độc vương. Thuật điều khiển cổ độc khác hẳn với y thuật chữa bệnh cứu người và thuật dùng độc, bị người đời coi rẻ, bị xem là tà thuật. Nhiều người từng biết đến thuật điều khiển cổ độc nhưng rất ít người hiểu về nó.

Tiểu Lục giải thích:

– Nói một cách dễ hiểu thì, tôi nuôi trong người mình một loại cổ, và lúc này thì loại độc vật ấy đã bò vào cơ thể của Hiên. Sau này, mỗi lúc tôi bị đau, Hiên cũng phải chịu cơn đau giống hệt tôi.

– Loại cổ này hẳn rất là khó nuôi?

– Dĩ nhiên, rất khó nuôi, vô cùng khó nuôi!

Nếu dễ nuôi thì đã lan tràn khắp Đại hoang rồi! Cơ thể Tiểu Lục đặc biệt là thế, vậy mà cũng phải nuôi nó mấy năm trời mới thành.

– Vì sao huynh nuôi cổ độc?

Tiểu Lục thở dài ngao ngán:

– Vì tôi muốn khống chế tên ma đầu Tương Liễu! Hắn là yêu quái chín đầu, không loại độc dược nào có thể xâm hại. Tôi đã nghĩ rất lâu mới tìm ra biện pháp tuyệt diệu này. Nhưng không ngờ, chưa kịp trừng trị hắn thì đã phải áp dụng với Hiên.

Loài quái thú được trời phú cho khả năng mẫn cảm, Tiểu Lục lo ngại Tương Liễu sẽ phát giác ra hắn cấy cổ độc vào người y nên mỗi khi Tương Liễu cần hút máu, hắn tỏ ra rất sẵn lòng. Làm vậy nhằm đưa cổ độc vào cơ thể Tương Liễu được dễ dàng mà không bị y phát hiện ra.

Cảnh hỏi:

– Loài cổ độc này có gây nguy hiểm gì cho huynh không?

– Không hề!

– Chắc chắn chứ?

– Tôi lấy tính mạng ra đảm bảo, chắc chắn!

Dù vẫn chưa yên tâm nhưng Cảnh không hiểu nhiều về loài cổ độc này, đành chờ khi trở về sẽ hỏi thêm các thầy thuốc.

Tiểu Lục hỏi:

– Từ khi tôi bị bắt đến bây giờ là mấy ngày rồi?

– Bốn ngày.

– Đến lúc rồi đó.

Tiểu Lục cúi nhìn bàn tay mình, giá đừng bôi thuốc giảm đau.

– Tiểu Lục, hãy để tôi giải quyết chuyện của Hiên…

Tiểu Lục ngước nhìn Cảnh:

– Tương Liễu sớm đoán được Hiên sẽ trừng phạt tôi rất tàn bạo và đề nghị tôi đi theo y, nhưng tôi đã từ chối. Nếu tôi là kẻ nhát gan, phải núp bóng người khác để tránh nguy hiểm thì năm xưa tôi đã không cho cậu ở nhờ. Tôi đã quen với đời sống tự do tự tại, một mình lang bạt kỳ hồ, tự làm tự chịu.

Ánh mắt Cảnh chất chứa niềm thương xót dịu dàng:

– Huynh có thể lựa chọn đời sống không còn cô độc nữa.

Tiểu Lục quay đi, lạnh lùng nói:

– Tôi đã cứu cậu một lần, cậu cũng cứu tôi một lần. Tôi bón cơm cho cậu, cậu cũng đã bón cơm cho tôi. Chúng ta không còn nợ nần gì nhau, chuyện của tôi, cậu đừng bận tâm!

Cảnh ngồi thêm một lát rồi lẳng lặng rời khỏi căn nhà gỗ. Tiểu Lục muốn chợp mắt nhưng không sao ngủ được vì đã mê mệt suốt mấy ngày liền. Hắn trườn khỏi giường, và đi ra ngoài.

Thì ra nơi đây không phải quân doanh mà giống chỗ nghỉ chân của đám thợ săn hơn, vì cả một vạt núi chỉ có độc ngôi nhà gỗ này. Nghĩ cũng hợp lý, Tương Liễu chắc chắn đã lấy danh nghĩa cá nhân giúp Cảnh cứu Tiểu Lục, y sẽ không huy động bất cứ lực lượng nào của Thần Nông cho việc này.

Trời ngả về chiều, sườn núi trải rộng mênh mông, gió núi ào ạt thổi tới, mây mù cuồn cuộn dưới chân Tiểu Lục, cảm giác như chỉ một lát nữa thôi, hắn sẽ bị mây mù cuốn đi. Tiểu Lục sợ hãi gọi:

– Tương Liễu, ngài có đó không?

Có tiếng chim kêu sau lưng Tiểu Lục, hắn ngoảnh lại, thấy Tương Liễu đang ngồi vắt vẻo trên một cây cao cạnh nhà gỗ. Dưới ánh trăng dát bạc, tên yêu quái áo trắng tóc trắng ấy giống hệt như một người tuyết, thanh khiết, lạnh lùng, khiến người ta muốn được lại gần y, nhưng không khỏi sợ hãi. Tiểu Lục ngẩn ngơ ngắm nhìn y, một lúc sau mới chợt nhớ ra, vội dò hỏi:

– Ngài ở đó bao lâu rồi?

Tương Liễu lạnh lùng đáp:

– Nghe thấy ngươi bảo sẽ cấy cổ độc vào người ta.

Tiểu Lục tái mặt. Hắn đã sơ ý mà quên đây là địa bàn của Tương Liễu nên khi nãy trò chuyện với Cảnh đã hoàn toàn mất cảnh giác. Tiểu Lục cười gượng gạo:

– Tôi đã cấy vào người ngài đâu, Hiên đã chịu trận đấy chứ.

Tương Liễu ngó xuống nhìn Tiểu Lục như kẻ đi săn đang quan sát con mồi của mình:

– Ngươi đau thì hắn cũng sẽ đau? Cổ độc trong người hắn khi nào mới phát tác?

Tiểu Lục lập tức lùi lại, như thể sợ Tương Liễu sẽ lập tức đánh hắn vài nhát kiếm vậy.

– Còn chưa đến lúc. Tôi đã bỏ công cấy cổ độc vào người hắn thì chắc chắn không để hắn được yên thân.

Tương Liễu dõi mắt nhìn biển mây mù bồng bềnh trên vách núi, hững hờ bảo:

– Ngươi sỉ nhục em gái hắn, lại cấy cổ độc vào người hắn, chắc chắn hắn sẽ không tha cho ngươi. Mong là cổ độc của ngươi đủ lợi hại, khiến hắn phải kiêng dè ngươi.

– Đây vốn là loại cổ độc dành riêng cho ngài, trên đời này chỉ mình tôi giải được độc.

Tương Liễu nhắm mắt lại:

– Về ngủ, mau chóng chữa lành vết thương trên tay ngươi.

Tiểu Lục không dám nhiều lời, dù không buồn ngủ cũng cun cút vào nhà.

Chia sẻ
Loading...
Loading...
Loading...
Chia sẻ
Danh sách chương
Loading...
Loading...
Loading...
Thể loại
Tìm kiếm
Loading...
Loading...
Loading...
Lọc truyện