Chương 10
10. Tôi mua một vài người bạn mới
Con O’Leary là người hạnh phúc nhất về việc thành phố ngủ say.
Chúng tôi tìm thấy nó đang ăn ngấu ăn nghiến ở một quầy bán hotdog bị lật nhào trong khi người bán hàng đang mút ngón tay, nằm cuộc tròn trên vỉa hè.
Anh Argus đang chờ chúng tôi với một trăm đôi mắt mở lớn. Anh không nói bất cứ điều gì. Anh ấy chưa bao giờ nói. Tôi đoán đó là vì anh ấy được cho là có một cầu mắt trong lưỡi của anh ấy. Tuy nhiên nét mặt anh lộ rõ rằng anh đang rất kinh sợ.
Tôi kể cho anh ấy nghe vềgì chúng tôi biết được ở đỉnh Olympus, và chuyện các vị thần sẽ không đến để giải cứu như thế nào. Anh Argus đảo tròn các đôi mắt mình trong sự phẫn nộ. Điều đó cực kỳ gây ảo giác vì nó làm cho cả cơ thể của anh ấy cứ xoáy tròn.
Tôi bảo anh:
“Tốt hơn hết anh nên quay về trại,” tôi nói với anh ấy. “Hãy bảo vệ nó tốt nhất anh có thể.”
Anh chỉ vào tôi và nhướn mày một cách buồn cười.
“Em ở lại.” tôi nói.
Anh Argus gật đầu, như thể câu trả lời đó của tôi làm anh thấy hài lòng. Anh ấy nhìn Annabeth và vẽ một vòng tròn trong không khí.
“Vâng,” Annabeth đồng ý. “Em nghĩ đã đến lúc rồi ạ.”
“Đến lúc làm việc gì?” tôi hỏi.
Anh Argus lục lọi khắp phía sau chiếc xe của anh ấy. Anh ấy lấy ra một cái khiên đồng và đưa nó cho Annabeth. Nó trông khá giống với những chiếc khiên khác – cùng loại khiên tròn mà chúng tôi luôn sử dụng trong trò cướp cờ ở trại. Nhưng khi Annabeth đặt nó xuống mặt đất, hình ảnh phản chiếu trên mặt khiên bóng loáng thay đổi từ bầu trời và các tòa nhà đến tượng Nữ Thần Tự Do – chẳng có thứ nào gần nơi chúng tôi đang đứng.
“Ôi chao,” tôi nói. “Một cái khiên có chức năng thu hình.”
“Một trong các sáng kiến của Daedalus,” Annabeth nói. “Tớ đã nhờ anh Beckendorf làm nó trước khi...” Cô ấy nhìn về phía Silena. “Ừm, dù sao đi nữa, cái khiên bẻ cong các tia ánh sáng mặt trời và mặt trăng từ khắp nơi trên thế giới để tạo thành hình ảnh phản chiếu. Chúng ta có thể thật sự nhìn thấy bất cứ mục tiêu nào dưới mặt trời và mặt trăng, miễn là ánh sáng tự nhiên có thể chạm vào nó. Nhìn xem.”
Chúng tôi kéo nhau lại khi Annabeth đang chăm chú quan sát. Hình ảnh được phóng lớn và quay tròn vào lúc đầu, vì thế tôi mắc phải chứng chuyển động khi vừa mới nhìn nó. Chúng tôi đang đến khu Sở thú ở Central Park, rồi phóng xuống đường East 60th, băng qua Bloomingdale’s, rồi rẽ vào Đại Lộ Ba.
“Ối,” Connor Stoll. “Lùi lại. Phóng to lên ngay chỗ đó.”
“Sao?” Annabeth hồi hộp nói. “Cậu thấy quân đối phương à?”
“Không, ngay ở đó – Cửa hàng kẹo Dylan’s Candy Bar.” Connor quay sang anh trai, cười toe toét. “Anh bạn, nó đang mở cửa. Và mọi người đều đang ngủ. Anh đó đang nghĩ những gì em đang nghĩ không?”
“Connor!” Katie Gardner quát. Giọng cô ta giống hệt giọng mẹ mình – nữ thần Demeter. “Đây là chuyện nghiêm túc. Cậu không được đi hôi của cửa hàng kẹo giữa lúc chiến tranh như thế này!”
“Xin lỗi,” Connor lẩm bẩm, nhưng giọng cậu ta không có chút xấu hổ.
Annabeth lướt tay phía trước mặt khiên và một cảnh khác hiện ra: Đường FDR Drive, nhìn ngang qua sông về phía công viên Hải Đăng.
“Nó sẽ giúp chúng ta nhìn thấy được điều gì đang diễn ra khắp cả thành phố,” cô ấy nói. “Cảm ơn, anh Argus. Hy vọng bọn em sẽ gặp lại anh ở trại... vào một ngày nào đó.”
Anh Argus ậm ừ. Anh ấy nhìn tôi như muốn bảo: Chúc may mắn, cậu cần điều đó, rồi leo lên xe. Anh và hai yêu tinh mình người cánh chim quẹo xe lại, len lỏi quanh các đống xe đứng yên lổn nha lổn nhổn trên đường.
Tôi huýt sáo gọi con O’Leary và nó nhảy vọt ngay đến.
“Này, bé cưng,” tôi nói. “Có còn nhớ Grover không? Thần rừng chúng ta đã gặp trong công viên ấy?”
“Gâu!”
Tôi hy vọng điều đó có nghĩa là, Chắc rồi! Chứ không phải, Có còn thêm hotdog nào không?
“Tao cần phải tìm cậu ấy,” tôi nói. “Hãy chắc là cậu ấy vẫn còn tỉnh nhé. Chúng ta sẽ cần sự giúp đỡ của cậu ấy. Mày hiểu không? Tìm Grover!”
Con O’Leary tặng cho tôi một nụ hôn đầy ướt át, dường như không cần thiết cho lắm. Sau đó nó chạy như bay về hướng bắc.
Pollux cúi người xuống kế bên một người cảnh sát đang ngủ. “Tớ không hiểu. Sao chúng ta cũng không buồ nhỉ? Sao chỉ có con người bị thôi nhỉ?”
“Đây là một câu bùa chú khổng lồ,” Silena Beauregard giải thích. “Câu bùa chú càng lớn, thì càng dễ dàng chống lại nó. Nếu cậu muốn làm cho hàng triệu người thường ngủ, cậu phải thả ra một lớp màng ma thuật rất mỏng. Làm cho các á thần ngủ thì cần phải tạo ra bùa chú mạnh hơn.”
Tôi liếc nhìn cô ấy. “Khi nào cậu học được quá nhiều về ma thuật vậy?”
Silena đỏ mặt. “Tớ không phải dành tất cả thời gian của mình bên bàn trang điểm.”
“Percy,” Annabeth gọi. Cô ấy vẫn đang nhìn chăm chú vào cái khiên. “Cậu nên xem cái này.”
Hình ảnh trên khiên là hình ảnh về Long Island Sound gần La Guardia. Một đội thuyền máy tốc độ cao đang phóng nhanh qua làn nước đen ngòm hướng về Manhattan. Mỗi chiếc thuyền đầy các á thần mặc các bộ giáp Hy Lạp. Ở đuôi chiếc thuyền dẫn đầu, một chiếc cờ màu tía với hình lưỡi hái đen được thêu bay phấp phới trong gió đêm. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy mẫu cờ ấy trước đây, nhưng không khó để đoán: cờ trận của Kronos.
“Kiểm tra vòng ngoài của đảo,” tôi nói. “Nhanh nhanh.”
Annabeth chuyển cảnh về hướng nam tới khu cảng. Phà Stalen Island rẽ sóng gần đảo Ellis. Trên phà đầy rẫy các con dracaenae và một bầy chó ngao địa ngục. Bơi ở phía trước là một tốp động vật có vú ở biển. Lúc đầu, tôi cứ nghĩ đó cá heo. Rồi tôi thấy các khuôn mặt giống chó của chúng và những thanh kiếm được đeo ở bên hông, và tôi nhận ra chúng là những con telkhine – quỷ biển.
Cảnh lại đổi lần nữa – bãi biển Jersey, bên phải đường hầm Lincoln. Một trăm con quái vật đủ loại đang hành quân qua các làn giao thông bị ngừng lại – các tên khổng lồ với các cây dùi cui, các Cylops xấu xa, một vài con rồng phun lửa, và để nhấn mạnh thêm: chiếc xe tăng Sherman từ thời thế chiến thứ hai, đang đẩy phăng xe cộ đang cản đường khi nó ầm ầm tiến vào trong đường hầm.
“Chuyện gì đang xảy ra với người ở bên ngoài Manhattan?” tôi nói. “Cả toàn bang đều ngủ hết sao?”
Annabeth nhíu mày. “Tớ không nghĩ thế, nhưng có điều này lạ lắm. Theo như những gì tớ có thể các bức ảnh này, cả vùng Manhattan đều chìm vào giấc ngủ. Hình như ở bán kính năm mươi dặm quanh hòn đảo nơi thời gian đang trôi cực kỳ, cực kỳ chậm. Càng đến gần Manhattan, thời gian trôi càng chậm hơn.“
Cô ấy cho tôi xem một cảnh khác – đường cao tốc New Jersey. Giờ là tối thứ bảy, vì thế tình hình giao thông cũng không tệ như vào ngày cuối tuần. Những người lái xe đều tỉnh, nhưng các loại xe đều di chuyển với vận tốc khoảng một dặm một giờ. Chim cũng bay với tốc độ thật chậm phía trên bầu trời.
“Kronos,” tôi nói. “Hắn đang làm thời gian trôi chậm lại.”
“Chắc nữ thần Hecate góp tay vào chuyện này,” Katie Gardner nhận xét. “Hãy xem cách mọi chiếc xe đều quay đầu tránh các lối vào Manhattan, như thể họ đều nhận được một thông điệp tiềm thức phải cho xe quay lại.”
“Tớ không biết.” Annabeth nói một cách tuyệt vọng. Cô ấy ghét cảm giác không biết bất cứ chuyện gì. “Nhưng không biết bằng cách nào, chúng dùng các lớp ma thuật bao quanh Manhattan. Thế giới bên ngoài thậm chí còn không nhận ra có chuyện gì đó sai lầm đang xảy ra. Bất cứ người thường nào đang đi về phía Manhattan đều sẽ đi chậm đến mức họ sẽ không nhận biết được chuyện gì đang diễn ra.”
Jake Mason nói nhỏ. “Như những con ruồi trong hổ phách.”
Annabeth gật đầu. “Chúng ta không nên trông chờ bất cứ cứu viện nào.”
Tôi quay lại nhìn các bạn. Họ bàng hoàng và sợ hãi, và tôi không thể trách họ về điều đó. Chiếc khiên đã cho chúng tôi thấy có ít nhất ba trăm kẻ thù đang trên đường đến đây. Chúng tôi chỉ có bốn mươi người. Và chúng tôi đơn độc.
Tôi bảo:
“Được rồi,” tôi nói. “Chúng ta phải cố bảo vệ Manhattan.”
Silena mân mê gấu áo giáp. “Ừm, Percy, Manhattan rất lớn.”
“Chúng ta sẽ phải bảo vệ Manhattan,” tôi nói. “Chúng ta phải làm thế.”
“Cậu ấy nói đúng,” Annabeth đỡ lời. “Các vị thần gió sẽ giữ cho quân của Kronos tránh xa đỉnh Olympus trên không tru thế nên, hắn sẽ cố tấn công bằng đường bộ. Chúng ta phải cắt đứt mọi lối vào đảo.”
Michael góp ý. “Nhưng chúng có thuyền kìa.”
Một luồng điện chạy dọc sống lưng tôi. Đột nhiên, tôi hiểu được lời khuyên của nữ thần Athena: Hãy nhớ các dòng sông
“Tớ sẽ lo vụ mấy con thuyền đó,” tôi nói.
Michael chau mày. “Bằng cách nào?”
“Cứ để chúng cho tớ,” tôi nói. “Chúng ta cần canh chừng các cây cầu và đường hầm. Hãy giả sử như chúng sẽ tấn công thẳng vào từ trung tâm hay từ cuối khu buôn bán, ít nhất cũng là đòn phủ đầu. Đó sẽ là con đường trực tiếp nhất để đến Tòa nhà Empire State. Michael, cậu đưa nhà thần Apollo đến cầu Williamsburg nhé. Katie dẫn nhà nữ thần Demeter đến đường hầm Brooklyn Battery. Hãy cho mọc các bụi gai và các cây sơn độc khắp đường hầm. Hãy làm tất cả những gì các cậu có thể làm, miễn sao giữ cho chúng cứ ở ngoài kia! Connor – đưa nửa quân số nhà thần Hermes trấn giữ cầu Manhattan. Travis, cậu đưa nửa còn lại bảo vệ cầu Brooklyn. Và không được ngừng lại để mà hôi của và cướp phá đâu đấy nhé!”
“Aaaaaaa!” Cả nhà thần Hermes kêu ca.
“Silena, cậu đưa nhà nữ thần Aphrodite đến đường hầm Queens Midtown nhé.”
“Ôi, thần thánh của tôi ơi,” một trong số các chị em của cô ấy nói. “Vậy đại lộ Năm ơi, bọn chị sắp đến đây! Bọn tớ có thể trang điểm, và bọn quái vật hình như cực kỳ ghét mùi nước hoa Givenchy.”
“Không được la cà,” tôi nói. “Ừm... về việc nước hoa thì, nếu các cậu nghĩ nó hiệu quả thì có thể sử dụng nó.”
Sáu cô con gái nhà nữ thần Aphrodite phấn khích hôn lên má tôi.
“Được rồi, đủ rồi!” Tôi nhắm mắt, cố nghĩ xem còn quên gì nữa không. “Còn đường hầm Holland. Jake, cậu đưa nhà thần Hephaestus ra đó nhé. Dùng lửa Hy Lạp, đặt bẫy. Bất cứ những gì mà các cậu có.”
Cậu ta cười toe toét. “Rất sẵn lòng. Bọn tớ có món nợ cần phải thanh toán anh Beckendorf!”
Cả đội hò reo hưởng ứng.
“Cầu Đường 59th,” tôi nói. “Clarisse...”
Tôi ấp úng. Clarisse không có ở đây. Cả nhà thần Ares, nguyền rủa họ, hiện đang ở lại trại.
“Bọn tớ sẽ đảm nhận phần đó,” Annabeth bước lên, cứu tôi khỏi sự im lặng đáng xấu hổ. Cô ấy quay về phía các anh chị em nhà mình. “Malcolm, cậu làm chỉ huy mọi người nhé, triển khai kế hoạch số hai mươi ba dọc theo cả con đường, giống y như tớ đã chỉ cho cậu. Hãy bảo vệ vị trí đó nhé.”
“Cậu cứ tin ở bọn tớ.”
“Tớ sẽ đi cùng với Percy,” cô ấy nói. “Sau đó, bọn tớ sẽ đến chỗ các cậu – hoặc bọn tớ sẽ đến bất cứ nơi nào mà mọi người cần.”
Có ai đó đứng cuối hàng pha trò, “Đừng có đi lạc đường nhé, cả hai người.”
Có một vài tiếng cười khúc khích vang lên, nhưng tôi làm như không nghe.
“Được rồi,” tôi nói. “Giữ liên lạc bằng điện thoại di động nhé.”
Silena phản đối. “Bọn tớ không có di động.”
Tôi cúi xuống, cầm lên một chiếc BlackBerry của một quý bà đang ngáy o o và quẳng nó cho Silena. “Giờ cậu đã có rồi đó. Tất cả các cậu đều biết số điện thoại của Annabeth, đúng không? Nếu các cậu cần bọn tớ, hãy nhặt lên bất cứ chiếc điện thoại nào và gọi cho bọn tớ. Chỉ dùng nó một lần, sau đó thả nó lại, rồi mượn một chiếc khác nếu các cậu buộc phải làm thế. Điều đó khiến cho các bọn quái vật khó xác định vị trí của các cậu hơn.”
Ai nấy cười toe toét như thể họ thích ý tưởng đó.
Travis hắng giọng. “Ừm, nếu bọn tớ tìm được một chiếc cực kỳ đẹp...”
Tôi ngắt lời. “Không, cậu không được giữ nó.”
“Ôi, trời.”
“Hượm đã, Percy,” Jake Mason nói. “Cậu đã bỏ sót đường hầm Lincoln.”
Tôi cố không bật ra lời nguyền rủa. Cậu ta nói đúng. Một chiếc xe tăng Sherman và một trăm con quái vật hiện đang đi xuyên qua đường hầm đó, và tôi thì bố trí quân của mình tận đẩu tận đâu ấy.
Thế rồi giọng một cô gái từ bên đường vọng sang. “Thế cậu để vị trí đó cho bọn tớ nhé?”
Tôi chưa bao giờ vui mừng khi nghe giọng nói của bất cứ ai trong cuộc đời tôi hơn lúc này. Một nhóm ba mươi cô gái tuổi mới lớn băng qua Đại Lộ Năm. Họ mặc áo sơ mi trắng, quần rằn ri màu bạc và đi giày lính. Ai cũng đeo kiếm ngang hông, ống tên sau vai và cung sẵn sàng chiến đấu. Một đàn sói Bắc Mỹ màu trắng xám quấn quít quanh chân họ, và đậu trên tay phần lớn các cô gái là những con chim ưng săn mồi.
Cô gái đi đầu có mái tóc đen chỉa được vuốt keo và mặc một chiếc áo khoác da màu đen. Cô ấy mang một chiếc vòng bạc trên đầu giống vương miện công chúa, nhưng nó chẳng hợp chút nào với đôi bông tai hình đầu lâu hay chiếc áo phông có dòng chữ Cái chết dành cho Barbie với hình ảnh một cô búp bê Barbie nhỏ bị mũi tên xuyên ngang đầu.
Annabeth reo lên. “Thalia!”
Con gái thần Zeus cười toe toét. “Đội thợ săn của nữ thần Artemis, đến để nhận việc.”
Mọi người ôm hôn và tíu tít chào đón – ít ra thì chỉ có một mình Thalia là thân thiện. Các Thợ Săn khác không thích đến gần các trại viên, đặc biệt là các cậu con trai, nhưng họ đã không bắn bất cứ ai trong số chúng tôi. Với họ mà nói, thế cũng đã là một lời chào đón cực kỳ nồng nhiệt rồi.
Tôi hỏi Thalia. “Suốt năm qua cậu ở đâu thế? Giờ cậu đã có được gấp đôi số thợ săn rồi!”
Thalia cười dòn tan. “Đó là một câu chuyện dài, dài lắm. Tớ cá là các cuộc phiêu lưu của tớ còn nguy hiểm hơn nhiều so với cậu đấy, Jackson.”
“Hoàn toàn nói dối,” tôi nói.
“Để rồi xem,” cô ấy hứa. “Sau khi chuyện này kết thúc, cậu, Annabeth, và tớ: hamburger thịt băm pho mát và khoai tây chiên ở khách sạn gì đó ở đường West 57th.”
“Khách sạn Le Parker Meridian,” tôi nói. “Đồng ý. Và Thalia này – cảm ơn.”
Cô ấy nhún vai. “Lũ quái vật đó sẽ không biết được điều gì đã giết chết chúng. Các Thợ Săn, đi thôi!”
Cô ấy vỗ nhẹ vào chiếc vòng đeo tay bằng bạc và chiếc khiên Aegis hiện nguyên hình. Đầu Medusa bằng vàng được đúc ở giữa khiên trông quá kinh dị khiến tất các trại viên lùi lại. Các Thợ Săn đi về phía cuối đại lộ cùng với bầy sói và các con chim ưng. Và tôi có cảm giác rằng từ giờ trở đi đường hầm Lincoln sẽ an toàn tuyệt đối.
“Tạ ơn các thần,” Annabeth thốt lên. “Nhưng nếu chúng ta không chặn các con thuyền đó trên sông, thì việc bảo vệ các cây cầu và các đường hầm sẽ trở nên vô nghĩa.”
“Cậu nói đúng,” tôi nói.
Tôi nhìn các trại viên, tất cả họ đều quả quyết và dứt khoát. Tôi cố không nghĩ đây là lần cuối cùng tôi nhìn thấy tất cả họ.
“Các cậu là những anh hùng vĩ đại nhất của thiên niên kỷ này,” tôi nói với họ. “Không quan trọng là có bao nhiêu quái vật sẽ tấn công các cậu. Hãy chiến đấu thật dũng cảm, và chúng ta sẽ chiến thắng.” Tôi đưa cao thanh Thủy Triều lên và hét lớn, “Vì đỉnh Olympus!”
Họ nhất loạt hưởng ứng, và bốn mươi tiếng hô vang vọng khắp các tòa nhà ở khu trung tâm. Trong giây lát, tiếng hô đó nghe thật can đảm, nhưng nó nhanh chóng chết lặng trong sự im lặng của mười triệu người New York đang ngủ.
Annabeth và tôi lẽ ra định chọn xe hơi, nhưng tất cả đều chèn vào nhau trong một hàng giao thông dài nối đuôi nhau. Không một động cơ nào hoạt động, điều này khá kỳ lạ. Giường như các lái xe có đủ thời gian để tắt máy trước khi họ quá buồn ngủ. Hoặc có lẽ thần Morpheus có sức mạnh làm cho các động cơ cũng ngủ cùng. Hình như hầu hết các lái xe đều cố tấp xe vào lề khi họ cảm giác được chính mình sắp buồn ngủ, nhưng các con đường đều bị bịt kín, không thể nào di chuyển được.
Cuối cùng chúng tôi cũng tìm được một người đưa thư đang tựa vào một bức tường gạ vẫn đang ngồi dạng chân trên chiếc xe Vespa đỏ. Chúng tôi lôi anh ta xuống khỏi xe và đặt cho anh ta nằm xuống trên vỉa hè.
“Xin lỗi, anh bạn,” tôi nói. Nếu may mắn, tôi sẽ mang xe trả lại cho anh ta. Nếu tôi không thể, thì việc trả lại xe hay không cũng không là vấn đề, vì thành phố đã bị tiêu diệt.
Tôi cầm lái với Annabeth ngồi ở phía sau, quàng tay ôm lấy eo tôi. Chúng tôi chạy ngoằn ngèo xuôi về phía Broadway cùng với tiếng động cơ rù rù trong sự tĩnh lặng đến kinh người. Âm thanh duy nhất là tiếng chuông điện thoại thỉnh thoảng lại vang lên – như thể chúng đang gọi cho nhau, như thể New York đã biến thành một vườn chim điện tử khổng lồ.
Chuyến đi của tôi diễn ra khá chậm. Thỉnh thoảng chúng tôi lại đi ngang qua các khách bộ hành ngủ ngay trước mũi xe hơi, và chúng tôi phải dừng lại để di chuyển họ đến nơi an toàn hơn. Một lần, chúng tôi phải dừng lại để dập lửa cho một xe bán bánh quy que đang bốc cháy. Một vài phút sau, chúng tôi phải cứu một xe đẩy em bé đang lăn không biết về đâu dọc theo một con đường. Hóa ra, chẳng có em bé nào trong xe cả – chỉ có con chó xù của ai đó đang nằm ngủ. Đoán thử xem. Chúng tôi để nó an toàn bên trong một cánh cửa và tiếp tục đi tiếp.
Khi chúng tôi đi ngang qua Công viên Madison Aquare, Annabeth chợt bảo: “Ghé vào.”
Tôi ngừng lại ngay giữa đường East 23rd. Annabeth nhảy xuống và chạy về phía công viên. Lúc tôi đuổi kịp cô ấy, cô ấy đang nhìn chằm chằm vào một bức tượng đồng trên bệ đá hoa cương đỏ. Tôi chắc mình đã đi ngang qua nó hàng triệu lần nhưng chưa bao giờ thật sự nhìn kỹ nó.
Một người đàn ông đang ngồi vắt chân chữ ngũ trên ghế. Ông ta mặc bộ vét lỗi mốt – kiểu trang phục của Abraham Lincoln – với một cái nơ đeo cổ, một đuôi áo dài. Chất đầy bên dưới gầm ghế của ông ta là một chồng sách bằng đồng. Một tay ông ta cầm cây bút lông ngỗng, tay kia cầm tờ giấy lớn làm bằng kim loại.
“Sao chúng ta phải quan tâm đến...” tôi liếc nhìn tên ở bệ tượng. “William H. Steward?”
“Seward,” Annabeth sửa lại. “Ông ấy từng là thống đốc bang New York. Cũng là á thần, hình như con trai của nữ thần Hebe, tớ nghĩ thế. Nhưng điều đó không quan trọng. Chính bức tượng mới là thứ tớ quan tâm.
Cô ấy trèo lên ghế băng của công viên và xem xét chăm chú phần chân của bức tượng.
“Đừng có nói với tớ ông ta là một người máy nhé,” tôi nói.
Annabeth mỉm cười. “Hóa ra hầu hết các bức tượng trong thành phố đều là người máy. Daedalus giấu chúng ở đây trong trường hợp ông ấy cần một đội quân.”
“Để tấn công hay bảo vệ đỉnh Olympus?”
Annabeth nhún vai. “Một trong hai. Đó là kế hoạch hai mươi ba. Ông ấy có thể chỉ cần kích hoạt một bức tượng và nó sẽ tự kích hoạt tất cả tượng trong khắp thành phố, cho đến khi tạo thành đủ một đội quân. Thế nhưng điều đó khá là mạo hiểm. Cậu cũng biết chúng ta rất khó đoán trước được động thái của người máy như thế nào.”
“Ừ... ừm,” tôi nói. Chúng tôi đã có những trải nghiệm tồi tệ với những người máy. “Cậu thật sự nghĩ về việc kích hoạt chúng sao?”
“Tớ có các lưu ý của Daedalus, cô ấy nói. “Tớ nghĩ tớ có thể... À, nó... đây rồi.”
Cô ấy ấn vào mũi giày của Seward và bức tượng đứng thẳng dậy, bút và giấy kim loại đã sẵn sàng trong tay.
Tôi nói nhỏ. “Ông ta định làm gì? Viết lưu ý chắc?”
“Suỵt! Xin chào, William.”
“Bill,” tôi gợi ý.
“Bill, ồ, im miệng,” Annabeth quát tôi. Bức tượng nghiêng đầu, nhìn chúng tôi với đôi mắt bằng kim loại vô hồn.
Annabeth hắng giọng. “Xin chào, ờ, thống đốc Seward. Chuỗi lệnh: Daedalus Hai mươi ba. Bảo vệ Manhattan. Bắt đầu Kích hoạt.”
Seward nhảy xuống khỏi bệ tượng. Cú nhảy mạnh đến nỗi giày ông ta làm nứt vỉa hè. Sau đó, ông ta đi lách ca lách cách về phía đông.
“Chắc ông ấy sẽ đi đánh thức bức tượng Khổng Tử đấy,”
“Cái gì?” tôi nói.
“Một bức tượng khác ở khu pision. Vấn đề là, chúng sẽ vẫn tiếp tục đi đến chỗ của các bức tượng khác cho đến khi tất cả chúng đều được kích hoạt.”
“Rồi sau đó?”
“Hy vọng chúng sẽ bảo vệ Manhattan.”
“Thế chúng có biết là chúng ta không phải là kẻ thù không?”
“Tớ nghĩ là có.”
“Thế thì tốt quá.” Tôi nghĩ về tất cả các bức tượng đồng trong các công viên, các quảng trường, và các tòa nhà ở New York. Phải có đến hàng trăm, hay thậm chí hàng ngàn bức tượng như thế.
Đúng lúc ấy, một quả cầu ánh sáng màu xanh lục nổ tung trên nền trời đêm – lửa Hy Lạp, ở đâu đó phía trên Sông Đông.
“Chúng ta phải đi thôi,” tôi nói. Và chúng tôi chạy ra nơi đỗ chiếc xe Vespa.
Chúng tôi dừng bên ngoài Công viên Battery, ở chóp hạ Manhattan nơi Sông Hudson và Sông Đông gặp nhau trước khi đổ vào Vịnh Thượng New York.
“Đợi ở đây,” tôi bảo Annabeth.
“Percy, cậu không nên đi một mình.”
“Ừm, trừ khi cậu có thể thở được dưới nước...”
Cô ấy thở dài. “Cậu đôi khi đáng ghét không thể chịu nổi.”
“Khi lúc tớ nói đúng chứ gì? Tin tớ đi, tớ sẽ không sao đâu. Giờ tớ đang chịu lời nguyền của Achilles mà. Giờ tớ là vô địch và bất khả chiến bại.”
Annabeth vẫn không tin. “Cứ phải cẩn thận. Tớ không muốn có chuyện xảy ra với cậu. Ý tớ là... vì bọn tớ cần cậu cho trận chiến.”
Tôi cười toe toét. “Quay trở lại trong nháy mắt.
Tôi leo xuống bờ bao và lội xuống nước.
Dành cho các bạn, những người không-phải-là con-thần-biển ở ngoài kia – không được bơi ở Cảng New York. Tuy nước không bẩn như thời của mẹ tôi, nhưng nó chắc chắn vẫn sẽ làm cho bạn mọc thêm một con mắt nữa ở giữa trán hay có những đứa con bị đột biến khi bạn lớn lên.
Tôi lặn xuống trong làn nước tối đen và chìm xuống cho đến khi chạm đáy. Tôi cố tìm vị trí nơi các dòng chảy của hai con sông dường như cân bằng với nhau – nơi chúng gặp nhau và hình thành nên vịnh. Tôi đoán đó là nơi tốt nhất để gây sự chú ý.
“Này!” Tôi hét lên bằng giọng dưới nước tốt nhất của mình. Âm thanh vang vọng trong bóng tối. “Tôi nghe các ông bị ô nhiễm đến nỗi không dám ló mặt ra vì ngượng. Điều đó có đúng không?”
Một dòng nước lạnh róc rách chảy ngang qua vịnh, mang theo một đống rác rưởi và phù sa.
“Tôi nghe nói Sông Đông độc hơn,” tôi tiếp tục, “nhưng mùi Sông Hudson thối hơn. Hay ngược lại mới đúng?”
Nước sông lấp lánh sáng. Có thứ gì đó mạnh mẽ và giận dữ hiện đang quan sát tôi. Tôi có thể cảm nhận được sự hiện diện của một người... hoặc có lẽ là sự hiện diện của hai người.
Tôi sợ mình đã tính sai với trò thóa mạ vừa rồi. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu họ làm cho tôi nổ tung mà chẳng ló mặt ra? Nhưng họ là các thần sông ở New York. Tôi đoán bản năng của họ sẽ khiến tôi khó chịu.
Không còn nghi ngờ gì nữa, hai hình dáng khổng lồ xuất hiện trước mặt tôi. Lúc đầu, họ chỉ là hai cột phù sa màu nâu đậm, dày đặc hơn so với nước bao quanh họ. Rồi họ mọc ra hai tay và hai chân, và hai khuôn mặt cau có.
Người bên trái trông đau khổ giống một con telkhine. Khuôn mặt ông ta giống mặt chó sói. Cơ thể hơi hơi giống sư tử biển – da đen trơn bóng với hai bàn tay bàn chân có hình dạng chân chèo. Đôi mắt phát sáng màu xanh lục phóng xạ.
Người bên phải trông giống người hơn. Ông ta mặc quần áo may bằng giẻ rách và tảo biển, với một cái áo khoác được kết bằng nút chai và vòng giữ nhựa. Khuôn mặt ông lấm tấm tảo, và bộ râu quai nón xồm xoàm. Đôi mắt xanh dương thẫm bừng bừng tức giận.
Gã sư tử biển, chắn chắn là thần Sông Đông, nói, “Ngươi đang cố tự giết chính mình sao, nhóc? Hay ngươi chỉ hơi quá ngốc mà thôi?”
Vị thần sông với bộ râu xồm xoàm chế nhạo. “Ngươi là chuyên gia về người ngốc, Đông.”
“Ăn nói cẩn thận chút đi,” Sông Đông gầm gừ. “Ở yên bên phần đảo của ngươi và đừng có chõ mũi vào.”
“Không thì sao? Ngươi sẽ ném con thuyền rác khác vào ta sao?”
Họ trôi về phía nhau, sẵn sàng để đánh tay bo.
“Ngừng!” tôi hét lên. “Chúng ta còn có chuyện quan trọng hơn để lo.”
“Thằng bé nói đúng,” Sông Đông cằn nhằn. “Cả hai chúng ta giết nó, rồi đánh nhau cũng không muộn.”
“Nghe có vẻ hay đấy,” Sông Hudson gật gù.
Trước khi tôi có thể cãi, hàng ngàn mảnh rác trồi lên từ đáy sông và bay thẳng vào tôi từ cả hai hướng – kính vỡ, đá, vỏ hộp và lốp xe.
Nhưng tôi đoán trước được chuyện này. Nước trước mặt tôi đặc lại thành một tấm khiên. Các mảnh vỡ bật ra, tôi không hề hấn gì. Chỉ một món xuyên qua được – một mảnh kính lớn đâm vào ngực tôi, nhưng thay vì giết được tôi thì nó lại vỡ tan thành từng mảnh nhỏ ngay trên làn da tôi.
Hai thần sông nhìn chằm chằm tôi.
“Con trai thần Poseidon?” Sông Đông hỏi
Tôi gật.
Sông Hudson thắc mắc. “Đã dầm mình trong sông Styx?”
“Đúng.”
Cả hai tạo ra các âm thanh thể hiện sự chán ghét.
“Ừm, điều đó thật hoàn hảo,” Sông Đông nói. “Giờ chúng ta làm thế nào để giết nó?”
Sông Hudson đăm chiêu suy nghĩ. “Chúng ta có thể cho điện giật chết nó. Nếu ta có thể tìm thấy một vài sợi dây cáp khởi động ngoài...”
Tôi ngắt lời. “Hãy nghe tôi nói! Đội quân của Kronos đang tràn vào Manhattan.”
“Tưởng ta không biết điều đó chắc?” Sông Đông cười khẩy. “Ngay bây giờ ta có thể cảm nhận được những chiếc thuyền máy của hắn. Chúng sắp đi qua đây.”
“Đúng vậy,” Sông Hudson đồng tình. “Còn ta thì có một vài đứa quái vật bẩn thỉu đang bơi trong nước của ta.”
“Vậy ngăn chúng lại,” tôi bảo. “Dìm chết. Đánh chìm tàu của chúng.”
“Sao chúng ta phải làm thế?” Sông Hudson càu nhàu. “Vậy chúng sẽ chiếm đỉnh Olympus. Thế chúng ta lo lắng làm gì?”
“Vì tôi có thể trả tiền cho hai người.” Tôi lấy đồng sand dollar mà cha đã tặng cho tôi trong ngày sinh nhật.
Mắt của hai vị thần sáng rực.
“Nó là của ta!” Sông Đông nhanh nhẩu. “Đưa nó cho ta, nhóc, và ta hứa không một đội quân xấu xa nào của Kronos có thể vượt qua được Sông Đông.”
“Quên chuyện đó đi,” Sông Hudson cũng không vừa. “Đồng sand dollar đó phải là của ta, trừ phi ngươi muốn ta để cho tất cả các con thuyền đó băng qua Sông Hudson.”
“Chúng ta thỏa hiệp với nhau nhé.” Tôi bẻ đồng sand dollar ra làm đôi. Một dòng nước mát trong lành phun ra từ vết vỡ, như thể tất cả các chất gây ô nhiễm trong vịnh đều biến mất.
“Mỗi người mỗi nửa,” tôi nói. “Để đổi lại, hai người giữ cho các đội quân của Kronos tránh xa Manhattan nhé.”
“Ôi, trời,” Sông Hudson rên rỉ, vươn tay về phía đồng sand dollar. “Đã lâu lắm rồi ta mới được sạch như thế này.”
“Quyền năng của thần Poseidon có khác,” Sông Đông lầm bầm. “Ông ta quá quắt, nhưng ông ta biết cách làm sạch ô nhiễ
Họ quay sang nhìn nhau, rồi cùng đồng thanh đáp: “Thỏa thuận.”
Tôi đưa mỗi người một nửa đồng sand dollar, mà họ cung kính giơ tay đón lấy.
“Ừm, thế những kẻ xâm lăng thì sao?” tôi nhắc.
Sông Đông phẩy tay. “Chúng vừa mới chết chìm.”
Sông Hudson búng tay. “Bầy chó ngao địa ngục vừa mới lặn luôn không bao giờ nổi.”
“Cảm ơn,” tôi nói. “Nhớ giữ sông sạch sẽ nhé.”
Khi tôi bơi lên phía mặt nước, Sông Đông gọi với theo, “Này nhóc, bất cứ khi nào có đồng sand dollar muốn tiêu, hãy quay lại nhé. Nếu ngươi còn sống.”
“Lời nguyền Achilles!” Sông Hudson cười hô hố. “Họ luôn nghĩ điều đó sẽ cứu được họ, đúng không?”
“Nếu như nó biết được,” Sông Đông đồng ý. Cả hai người cùng cười lớn, rồi biến mất dần trong làn nước.
Quay trở lại bờ sông, Annabeth đang nói chuyện qua điện thoại, nhưng cô ấy dập máy ngay khi nhìn thấy tôi. Cô ấy dường như khá mất bình tĩnh.
“Nó đã thành công,” tôi nói với cô ấy. “Các con sông giờ đã an toàn rồi.”
“Tốt,” cô ấy nói. “Vì chúng ta lại có các rắc rối khác. Michael Yew vừa gọi cho tớ. Thêm một đội quân nữa đang tiến về cầu Williamsburg. Nhà thần Apollo cần cứu viện. Và Percy, con quái vật đang dẫn đầu đội quân... là con Minotaur.”