PHẦN 3.4

Vừa ăn trưa, Ando vừa nhìn ra ngoài cửa sổ ngắm cây cối bên dưới, ngắm những đứa trẻ chơi xích đu và bập bênh trong công viên. Đã hơn một giờ, khi anh đến, quán ăn đông nghịt, nhưng bây giờ đã có nhiều ghế trống. Bản in chuỗi bazơ nằm trên bàn cạnh khay nhôm của anh, nhưng anh không nhìn vào đó.

Một bức tường của quán ăn có những cửa sổ cao từ sàn lên trần, vì vậy không có gì cản tầm mắt anh ngắm bọn trẻ vui chơi. Giống như đang xem một bộ phim câm. Mỗi khi thấy một cậu bé tầm năm tuổi, ánh mắt Ando lại tập trung vào đó. Ando không hề nhận ra là mình đang nhìn chằm chằm cậu bé, và phải mất vài phút anh mới thoát ra khỏi trạng thái ấy.

Đã có lần anh đến thư viện cùng con trai. Đó là một ngày Chủ nhật cách đây hai năm, khi anh còn sống ở căn hộ Nam Aoyama. Ando đột nhiên nhớ ra anh cần tìm một số dữ liệu cho bài thuyết trình định trình bày tại một buổi hội thảo nghiên cứu, cho nên anh quyết định đến thư viện. Anh dắt Takanori đi theo. Nhưng khi đến nơi, ở lối vào có một tấm biển đề TRẺ EM DƯỚI 18 TUỔI KHÔNG ĐƯỢC VÀO. Anh không thể yên tâm bắt thằng bé đợi ở ngoài trong khi anh nghiên cứu, do đó anh từ bỏ ý định và cùng đi chơi với con trong công viên. Anh vẫn còn nhớ mình đứng sau ghế xích đu, đẩy cho Takanori; anh còn nhớ cả nhịp đung đưa của ghế đu. Chính cái xích đu đó giờ đang đung đưa, dưới tán lá vàng của cây bạch quả. Anh không thể nghe thấy âm thanh, thậm chí không thể thấy biểu hiện trên nét mặt của lũ trẻ khi chúng lần lượt duỗi chân ra rồi co chân lại. Nhưng trong đầu anh, anh vẫn nghe rõ tiếng con mình.

Nhưng anh lại đang lan man rồi. Anh quay lại nhìn trang giấy và cầm bút lên.

Đã đến lúc phải trở lại với những kiến thức cơ bản về giải mã. Không có cách nào khác để phá mật mã này ngoài việc đưa ra nhiều giả thiết, và rồi đi theo từng giả thiết một. Khi một giả thiết trở nên rõ ràng là sai, điều tốt nhất nên làm là nhanh chóng bỏ qua nó và chuyển sang giả thiết khác. Với một thông điệp chỉ có hai mốt chữ cái, anh sẽ không thể chỉ dựa trên bảng tần số xuất hiện các chữ cái và quy tắc kết hợp chúng. Thực sự, nếu mật mã phức tạp đến mức đòi hỏi một giải pháp chuyển đổi đặc biệt, thì có nguy cơ là nó quá khó, và trong trường hợp ấy nó không thể chuyển tải cái mà nó muốn chuyển tải. Không, anh chỉ cần lần qua hết các giả thiết theo phương pháp loại suy. Nếu một giả thiết là sai, anh cần bỏ qua nó, chỉ có thế thôi.

Tuy nhiên còn một giả thiết khác mà Ando nghĩ anh đã bỏ qua quá sớm. Anh chợt nghĩ mật mã này có thể là một phép đảo chữ cái.

ATG GAA GAA GAA TAT CGT TAT

CCT CCT CAA CAA CAA ATT CCT

Anh đã bỏ qua cách tiếp cận này bởi vì nó dẫn đến sự lặp lại ba lần của cùng một chữ cái, một điều bất thường trong tiếng Anh. Nhưng nếu chính những ký tự đó cần được sắp xếp lại? Anh nghĩ đến một trường hợp mà anh đã từng đọc, trong đó câu "Bob opened the door" đã được mã hóa thành OOOOEEEBBDDTPNHR. Dĩ nhiên, một chuỗi có quá nhiều ký tự lặp lại không thể tạo thành một cụm từ có nghĩa trong tiếng Anh, nhưng khi sắp xếp lại theo những quy tắc nhất định, nó sẽ cho ra một câu hoàn toàn bình thường.

Điều này có thể có tác dụng, anh nghĩ.

Nhưng ngay khi chuẩn bị bắt tay vào việc, anh dừng lại. Anh cũng có thể biết được điều này sẽ dẫn đến đâu. Nếu anh không những cần xác định từng bộ ba đại diện cho chữ cái nào, mà còn phải tìm cách để sắp xếp lại các ký tự, thì nhiệm vụ ấy đột nhiên trở nên khổng lồ. Và không chỉ là vấn đề thời gian. Nếu không có một chìa khóa ở dưới dạng nào đấy, rốt cuộc anh sẽ gặp phải vấn đề mà anh đã gặp lần trước: có quá nhiều giải pháp khả dĩ mà không biết chọn giải pháp nào. Anh nghĩ về những chữ số đã dẫn anh đến chữ "ring" và phân vân, liệu chúng có thể là một dạng chìa khóa không, để chỉ cho anh đi theo đúng trật tự sắp xếp các chữ cái. Nhưng trước hết anh còn phải tìm ra từng bộ ba đại diện cho chữ cái nào.

Một ngõ cụt nữa.

Mình cần một góc độ xem xét hoàn toàn mới , Ando tự nhủ. Anh đang cố tiếp tục với phương pháp loại suy, nhưng anh có cảm giác như đang lặp đi lặp lại cùng một việc. Có lẽ anh quá ràng buộc với ý tưởng gán mỗi cặp hai hoặc ba bazơ tương ứng với một chữ cái tiếng Anh.

Đáp án phải là cái gì đấy rõ ràng, cái mình có thể tìm ra mà không phải trải qua một quá trình dài và phức tạp.

Anh cảm thấy sự tập trung của mình chùng xuống, mắt anh lơ đễnh nhìn ra ngoài trang giấy. Đột nhiên anh nhận ra mình đang nhìn mái tóc của một thiếu nữ ngồi cùng bàn ở đầu bên kia. Khi ngả đầu xuống như thế, trông cô giống Mai Takano, đặc biệt là phần trán.

Bây giờ cô ấy ở đâu?

Anh lo lắng cho sự an nguy của cô, đặc biệt khi anh nghĩ đến việc cô từng là người tình của Ryuji.

Có thể nào Ryuji thông qua mật mã này đang cố cho mình biết cô ấy ở đâu?

Anh xem xét khả năng đó một lúc, nhưng rồi loại bỏ nó bằng một nụ cười chế giễu, vì thấy quá ư là giống truyện tranh. Thật trẻ con khi tưởng tượng mình là thám tử nổi tiếng đi cứu nữ nhân vật chính thoát khỏi tình huống nguy hiểm chết người. Đột nhiên Ando thấy toàn bộ chuyện này thật ngớ ngẩn. Có thể đây hoàn toàn không phải là một mật mã. Có lẽ có một sự giải thích hoàn toàn khoa học về việc làm thế nào các chuỗi bazơ đó có trong ADN của virus. Khi thừa nhận khả năng đó, Ando cảm thấy niềm say mê giải mã của anh hoàn toàn biến mất. Có phải anh chỉ đang giết thời gian? Thế mà anh đã làm việc cật lực với nó.

Ánh mặt trời sắp lặn nhuộm vàng lông trên cánh tay anh. Mọi hăm hở sáng nay giờ đã biến mất. Anh nghĩ đến việc chuyển sang ngồi ghế khác, nơi mặt trời không chiếu vào anh, và nhổm dậy. Tuy nhiên, khi nhìn quanh, anh thấy bao quanh mình toàn là bọn trẻ, những sinh viên đại học hoặc học sinh trung học đang ôn thi đại học, tất cả đều ngập trong hàng núi sách vở. Chuyển sang chỗ khác không giúp anh lấy lại được sự tập trung. Toàn bộ phòng đọc chìm trong không khí uể oải. Ando lại ngồi xuống chỗ cũ.

Hãy suy nghĩ một cách logic đi nào , anh tự nhủ. Phải có một công thức nào đó.

Anh ngồi thẳng dậy. Anh đã và đang cố gán những bộ ba bazơ cho các ký tự trong bảng chữ cái, nhưng việc đó không tạo thành một công thức nào cả. Nếu anh có thể chuyển nó thành một hàm số song ánh, hoặc thậm chí một hàm số toàn ánh, câu trả lời sẽ trở nên rõ ràng. Song ánh, có lẽ là toàn ánh... Chắc chắn cần phải tìm ra một công thức như thế.

Anh đứng dậy. Nói một cách logic, không còn cách nào khác cả. Linh tính mách bảo rằng anh đã tiến thêm một bước gần tới đáp án, và nhận thức đó thổi bay mọi mệt mỏi trong anh, thúc đẩy anh hoạt động.

Anh bước đến gian sách khoa học tự nhiên, tìm một cuốn về ADN, và bắt đầu điên cuồng lật trang. Khi sự phấn khích trỗi dậy, bàn tay anh lại đổ mồ hôi. Cái mà anh đang tìm là một bảng trình bày từng bộ bazơ sẽ tạo ra axit amin nào.

Cuối cùng anh cũng tìm được một bảng như thế. Anh mang cuốn sách về đặt ngay ngắn trên bàn, giở đến trang có bảng đó, để cạnh thông điệp mã hóa.

Khi một bộ bazơ, một codon, tạo ra một protein, thì codon được dịch thành axit amin. Bảng Ando đã tìm thấy có chứa những nguyên tắc phiên dịch các axit amin. Có hai mươi loại axit amin. Có bốn bazơ, nghĩa là có thể tạo ra sáu mươi tư bộ ba khác nhau. Sáu mươi tư bộ ba chỉ đại diện cho hai mươi axit amin, nghĩa là sẽ có khá nhiều sự trùng lặp. Đây là một ánh xạ toàn ánh. Mỗi bộ ba bazơ biểu thị cho một axit amin này hoặc axit amin khác (hoặc một mã kết thúc).

Tham khảo bảng, Ando viết ra tên viết tắt của các axit amin ngay dưới bốn mươi hai bazơ của mật mã.

ATG GAA GAA GAA TAT CGT TAT ATT CCT

(Met) (Glu) (Glu) (Glu) (Tyr) (Arg) (Tyr) (Ile) (Pro)

CCT CCT CAA CAA CAA

(Pro) (Pro) (Gln) (Gln) (Gln)

Tiếp theo, anh lấy chữ cái đầu tiên của từng axit và xếp chúng thành một dòng:

MGGGTATIPPPGGG

Nhưng dòng chữ này không có nghĩa gì cả. Và anh vẫn gặp phải trường hợp có ba chữ cái liên tục. Dù thế nào thì có vẻ anh vẫn sẽ phải tìm ra cách làm gì đó với chúng. Phải có một cách giải thích khác. Ví dụ lặp lại ba lần liên tiếp một chữ cái thì hai chữ đầu tiên được hiểu là một khoảng cách giữa các từ.

Anh thử cách đó:

MG TATIP G

Cũng không phải là tiếng Anh.

Nhưng ngay lập tức, Ando cảm thấy mình sắp đến nơi. Có thể nói anh đang tiến gần đến đáp án. Anh không biết tại sao, nhưng anh cảm thấy trong chốc lát nữa thôi anh có thể tìm ra một từ có nghĩa.

Met, Pro và Gln là những chữ lặp lại ba lần. Anh cố viết chúng theo cách khác:

Met

Glu (x3)

Tyr

Arg

Tyr

Ile

Pro (x3)

Gln (x3)

Anh nhìn chăm chú danh sách này trong khoảng một phút, và rồi thấy một từ tiếng Anh mà anh biết.

Anh chợt nhận ra các codon lặp lại ba lần đó không ám chỉ "số ba" mà là "thứ ba". Nhưng trong này là chữ cái thứ ba tên viết tắt của axit amin.

Nói cách khác:

M et

Glu

T yr

A rg

T yr

I le

Pro

Gln

Điều đó có nghĩa đáp án là: Mutation.

Quên mất mình đang ở đâu, Ando bật lên một tiếng kêu. Câu trả lời duy nhất mà anh có thể tìm ra là đây, một kết quả của logic, phương pháp loại suy. Nó là một câu trả lời rõ ràng, đơn giản và hẳn là đúng.

Nhưng anh vẫn gục đầu. Anh biết nghĩa của từ tiếng Anh "mutation" - tức là anh biết nó có nghĩa gì trong tiến hóa sinh học. Nhưng anh hoàn toàn không có chút ý tưởng gì về việc phải hiểu nó như thế nào trong tình huống hiện tại.

Cậu đang cố nói cái quái gì thế hả Ryuji? Anh không bật ra câu hỏi đó. Nhưng thậm chí trong đầu mình, Ando có thể nghe giọng anh đang run lên phấn khích vì đã giải mã được thông điệp.

Chia sẻ
Loading...
Loading...
Loading...
Chia sẻ
Danh sách chương
Loading...
Loading...
Loading...
Thể loại
Tìm kiếm
Loading...
Loading...
Loading...
Lọc truyện