Chương 3
Cô nhớ lại.
Đêm qua, những hồi chuông điện thoại lanh lảnh làm gián đoạn tiếng mưa rơi rả rích bên ngoài cửa sổ phòng họ.
Cô đã khinh khỉnh nhìn nó như thể NYNEX[18] phải chịu trách nhiệm cho cảm giác buồn nôn và cơn đau đến nghẹt thở trong đầu cô khi ấy, ánh đèn trên điện thoại nhấp nháy mờ ảo sau mí mắt.
Cuối cùng cô cũng gượng đứng dậy và nặng nề cầm ống nghe lên sau hồi chuông thứ tư.
“A lô?”
Trả lời cô là tiếng vọng xa xăm của những tín hiệu thường thấy ở một cuộc gọi nối máy từ sóng radio tần số riêng sang điện thoại.
Và rồi một giọng nói cất lên. Có lẽ thế.
Một tiếng cười. Có lẽ thế.
Một tiếng nổ đinh tai. Một tiếng cạch khô khan. Im lặng.
Không còn tín hiệu đường dây. Chỉ là sự im lặng, bao phủ bởi những dải sóng dao động vọng lại trong tai cô.
A lô? A lô?...
Cô đã gác máy và quay về chiếc sofa, lặng lẽ nhìn làn mưa trong đêm, nhìn cây sơn thù du ngoài cửa oằn mình xuống rồi lại bật thẳng lên dưới những trận gió của cơn bão mùa xuân. Rồi cô lại thiếp đi. Cho đến khi điện thoại lại đổ chuông sau đó khoảng nửa tiếng với cái tin chiếc Lear 94 Charlie Juliet nổ tung khi đang chuẩn bị hạ cánh khiến cả chồng cô và người phi công phụ trẻ tuổi Tim Randolph thiệt mạng.
Giờ đây, trong buổi sáng u ám này, Percey Rachel Clay mới biết rằng cuộc điện thoại bí hiểm đêm qua là của chồng mình. Ron Talbot – người có đủ can đảm để gọi điện thông báo cho cô cái tin khủng khiếp về vụ nổ – vừa giải thích rằng chính ông ta đã nối máy về nhà cho cô vào khoảng thời gian chiếc Lear nổ tung.
Tiếng cười nhẹ nhõm của Ed…
A lô? A lô...?
Percey vặn mở nắp nút chiếc chai bẹt, tu một hớp. Cô nghĩ về cái ngày lộng gió cách đây nhiều năm khi cô và Ed lái chiếc Cessna 180 có trang bị thêm phao nổi dưới càng tới Red Lake, ở tỉnh Ontario, và đáp xuống với chỉ khoảng sáu ounce[19] nhiên liệu còn lại trong thùng. Họ đã ăn mừng lần chạm đích đó bằng một chai whiskey Canada vô danh, khiến cả hai bị một trận say bê bết đáng nhớ nhất trong đời. Ý nghĩ về kỷ niệm đó giờ đây lại khiến mắt cô ầng ậc nước, cũng giống như cơn đau hồi đó.
“Thôi nào, Percey, như thế là đủ lắm rồi, được chứ?” Người đàn ông ngồi đối diện cô trên sofa trong phòng khách lên tiếng. “Xin cô.” Anh chỉ tay vào chiếc chai.
“Ồ, được chứ”, giọng nói sầu thảm của cô bật lại với vẻ giễu cợt đầy kiềm chế. “Chắc chắn rồi.” Và cô lại tu thêm một hơi nữa. Cảm thấy thèm một điếu thuốc lá, nhưng cô kìm được. “Thế quái nào mà anh ấy lại gọi cho tôi giữa lúc chuẩn bị hạ cánh nhỉ?”, cô hỏi.
“Có lẽ anh ấy lo cho cô”, Brit Hale gợi ý. “Vì cơn đau nửa đầu của cô.”
Giống như Percey, cả đêm qua Hale cũng thức trắng. Talbot đã gọi điện cả cho anh với thông tin về vụ nổ, sau đó anh lái xe từ căn hộ của mình ở khu Bronxville xuống đây với Percey. Anh đã ở bên cô suốt đêm, giúp cô thực hiện những cuộc điện thoại cần phải gọi. Chính Hale, chứ không phải Percey, mới là người thông báo tin này cho bố mẹ cô ở Richmond.
“Anh ấy chẳng việc gì phải làm như thế cả, Brit. Ai lại gọi ngay lúc hạ cánh.”
“Chuyện đó cũng đâu liên quan tới những gì đã xảy ra”, Hale nhẹ nhàng nói.
“Tôi biết”, cô nói.
Họ đã biết nhau nhiều năm nay. Hale là một trong những phi công đầu tiên của Hudson Air và đã làm việc không lương suốt bốn tháng đầu cho đến khi khoản tiền tiết kiệm của anh cạn sạch và anh buộc phải miễn cưỡng tới gặp Percey với đề nghị về một khoản lương nho nhỏ. Anh không bao giờ biết rằng cô đã phải trả lương cho anh bằng tiền túi của mình, vì công ty không hề có lợi nhuận trong suốt một năm sau khi đi vào kinh doanh. Nhìn Hale chẳng khác gì một giáo viên gầy gò, khắc khổ. Thực tế anh lại rất dễ gần – trái ngược hoàn toàn với Percey – và là người chuyên đùa cợt pha trò rất kỳ quặc, anh nổi tiếng vì sẵn sàng cho máy bay của mình bay lật ngửa nếu như hành khách trên máy bay tỏ ra thô lỗ hay ương ngạnh và anh cứ giữ nguyên như vậy cho đến khi đầu của họ nguội trở lại. Hale vẫn giữ chiếc ghế bên phải trong buồng lái của Percey và là phi công phụ được cô yêu mến trong giới đồng nghiệp. “Đặc quyền được bay cùng quý cô”, anh vẫn nói như vậy bằng cai giọng bắt chước Elvis Presley dở ẹc. “Xin cảm ơn rất nhiều.”
Đến lúc này, cơn đau phía sau hai mắt của cô gần như biến mất hoàn toàn. Percey đã mất bạn bè – chủ yếu là vì những vụ rơi máy bay – và cô biết rằng những mất mát tinh thần là loại thuốc gây tê đối với cơn đau thể xác.
Whiskey cũng như vậy.
Lại tu thêm một hơi từ chiếc chai bẹt. “Chết tiệt, Brit.” Cô đổ phịch người xuống chiếc sofa bên cạnh anh. “Ôi, chết tiệt thật."
Hale choàng cánh tay cứng cáp của mình quanh người cô. Percey gục mái đầu phủ kín những lọn tóc xoăn đen thẫm của mình lên vai anh. “Cố giữ gìn nhé, cưng”, anh thủ thỉ. “Hứa đi nào. Tôi có thể làm gì đây?”
Cô lắc đầu. Đó là một câu hỏi không có câu trả lời.
Lại một hớp rượu whiskey đầy miệng, rồi cô nhìn đồng hồ. Chín giờ sáng. Mẹ của Ed có thể tới đây bất kỳ lúc nào. Rồi còn bạn bè, họ hàng… Còn cả một buổi lễ tưởng niệm cần chuẩn bị…
Rất nhiều việc phải làm.
“Tôi phải gọi cho Ron”, cô nói. “Chúng ta phải làm gì đó. Công ty…”
Trong ngành hàng không và các hãng bay dịch vụ, cái từ “công ty” không hoàn toàn mang ý nghĩa giống như trong các lĩnh vực kinh doanh khác. Từ “Công ty”, với chữ “C” viết hoa, là một thực thể, một vật đang sống. Người ta nhắc đến nó với niềm trân trọng, tự hào hoặc bi phẫn. Thỉnh thoảng là với nỗi đau đớn. Cái chết của Ed đã để lại một vết thương trong rất nhiều cuộc sống, kể cả cuộc sống của chính Công ty, và đó là một vết thương có thể làm chết người.
Rất nhiều việc phải làm…
Vậy mà giờ đây Percey Clay – người phụ nữ chưa bao giờ biết sợ hãi, người phụ nữ đã từng bình tĩnh điều khiển những lắc thân máy bay kiểu Hà Lan[20] chết người, vốn là một tử huyệt thường gặp ở loại máy bay Lear 23, người đã từng bình tĩnh như không sau những cú lộn xoáy trôn ốc có thể khiến nhiều phi công dày dặn khác phải bổ nhào – đang ngồi chết lặng đến tê tái trên ghế. Quái đản thật, cô thầm nghĩ, như thể đang ở một chốn xa xăm nào đó nhìn về, mình không sao nhúc nhắc được. Thậm chí cô còn cúi xuống nhìn hai bàn tay và đôi chân mình như thể chúng chỉ còn là xương trắng hếu không một chút máu.
Ôi, Ed…
Tất nhiên còn cả Tim Randolph nữa chứ. Một phi công đồng hành có năng lực mà người ta có thể tìm được, những phi công hạng nhất như thế thường rất hiếm. Cô hình dung ra khuôn mặt tròn trịa và trẻ măng của chàng thanh niên, giống hệt như Ed thời trai trẻ. Lúc nào cũng cười toe toét mà không sao cắt nghĩa được. Luôn tập trung và biết nghe lời nhưng cũng rất kiên định – đưa ra những mệnh lệnh rất dứt khoát, ngay cả với Percey, một khi anh chàng là người chỉ huy chiếc máy bay.
“Cô cần một chút cà phê”, Hale tuyên bố rồi đi về phía bếp. “Tôi sẽ pha cho cô một ly mochaccino đặc quánh với váng sữa bốc khói cho mà xem.”
Một trong những câu chuyện đùa thân mật mà họ thường nói với nhau là về các loại cà phê nhạt thếch. Cả hai đều có chung quan điểm rằng, những phi công thực thụ sẽ chỉ uống Maxwell House hoặc Folgers.
Mặc dù vậy, hôm nay Hale, cầu Chúa phù hộ cho anh, không thực sự muốn nói đến cà phê. Ý anh là: Đừng có nốc rượu nữa. Percey hiểu lời nhắc nhở bóng gió đó. Cô xoáy nút chiếc chai bẹt lại và vứt nó lên bàn nghe đánh keng một cái. “Được rồi, được rồi.” Cô đứng dậy và bắt đầu đi đi lại lại trong phòng khách. Cô chợt bắt gặp hình ảnh của mình trong gương. Khuôn mặt ngắn bè bè. Mái tóc đen xoăn tít thành từng lọn bướng bỉnh. Hồi còn ở tuổi dậy thì đau khổ, trong một giây phút tuyệt vọng vì vẻ ngoài của mình, cô đã từng tự cắt cho mình kiểu đầu cua. Cho chúng nó biết tay. Mặc dù tất cả những gì mà hành động ngỗ ngáo đó làm được chỉ là giúp cho bọn con gái quyến rũ ở trường Trung học Lee tạiRichmondcó thêm vũ khí để chống lại cô. Percey có một thân hình nhỏ nhắn và đôi mắt đen long lanh mà mẹ cô vẫn nói đi nói lại rằng đó là nét đẹp nhất của cô. Cũng đồng nghĩa với nét đẹp duy nhất mà cô có. Và đó lại là một nét đẹp mà bọn con trai, tất nhiên, chẳng bao giờ thèm mảy may quan tâm.
Hôm nay dưới đôi mắt đó là những viền thâm quầng và làn da mai mái tuyệt vọng – da của một người nghiện thuốc lá, cô nhớ lại quãng thời gian cô từng đốt hết hai bao Marlboro mỗi ngày. Những lỗ đeo khuyên trên dái tai của Percey cũng đã bị lấp kín từ lâu lắm rồi.
Một cái nhìn hướng ra ngoài cửa sổ, qua rặng cây, về đoạn phố chạy qua phía trước ngôi nhà. Cô nhìn thấy cảnh người xe đi lại và có gì đó chợt gợn lên trong tâm trí cô. Điều gì đó thật bất an.
Cái gì? Cái gì mới được chứ?
Cảm giác đó vụt biến mất, bị đẩy sang một bên cùng với tiếng chuông cửa vừa vang lên.
Percey mở cửa và nhìn thấy hai sĩ quan cảnh sát to như hộ pháp đứng ở ngưỡng cửa.
“Bà Clay phải không ạ?”
“Vâng.”
“NYPD.” Xuất trình phù hiệu.
“Chúng tôi có mặt tại đây để trông chừng cho bà đến khi chúng tôi điều tra xong những gì vừa xảy ra với chồng bà.”
“Vào đi”, cô nói. “Brit Hale đang ở đây.”
“Ông Hale ư?” Một trong hai viên cảnh sát vừa nói vừa gật đầu. “Ông ấy cũng ở đây à? Tốt lắm. Chúng tôi cũng vừa cử hai cảnh sát vũ trang của hạt Westchester tới nhà ông ấy.”
Đúng lúc đó cô ngước nhìn qua lưng một viên cảnh sát ra ngoài đường phố và ý nghĩ mơ hồ kia lại chợt hiện ra trong đầu cô.
Cô bước vòng qua hai viên cảnh sát ra hẳn bậc thềm trước nhà.
“Chúng tôi mong là bà sẽ ở bên trong thì hơn, thưa bà Clay…”
Cô trân trối nhìn ra đường phố. Là cái gì nhỉ?
Và rồi cô chợt hiểu.
“Có điều này các ông nên biết”, cô nói với hai viên cảnh sát, “Một chiếc xe thùng màu đen.”
“Một...?”
“Một chiếc xe thùng màu đen. Lúc trước còn có một chiếc xe thùng màu đen.”
Một viên cảnh sát rút quyển sổ ghi chép ra. “Tốt nhất là bà nên kể rõ lại chuyện này cho tôi.”
“Chờ chút”, Rhyme nói.
Lon Sellitto tạm ngừng lời kể của mình.
Lúc này Rhyme nghe thấy một loạt tiếng bước chân khác đang bước đến, không nặng nhưng cũng không nhẹ. Anh biết đó là tiếng bước chân của ai. Đây không phải là suy đoán. Anh đã nghe tiếng bước chân đặc biệt này rất nhiều lần rồi.
Khuôn mặt xinh đẹp của Amelia Sachs, với mái tóc dài đỏ rực bao quanh, hiện ra trên cầu thang và Rhyme thấy cô hơi lưỡng lự trong giây lát, rồi tiếp tục tiến thẳng vào phòng. Cô mặc nguyên cả bộ sắc phục tuần tra màu xanh hải quân, chỉ thiếu mũ và cà vạt. Tay cô xách một túi mua hàng của Jefferson Market.
Jerry Banks vụt nở một nụ cười về phía cô. Việc anh chàng tha thiết bày tỏ niềm si mê của mình đối với cô đã quá rõ ràng, chỉ có điều là không đúng thời điểm cho lắm – không có nhiều sĩ quan cảnh sát tuần tra từng có thời gian theo đuổi sự nghiệp người mẫu ở Đại lộ Madison[21] giống như cô nàng Amelia Sachs cao ráo. Mặc dù vậy ánh nhìn đắm đuối cùng vẻ cuồng si của anh chàng không hề được đáp lại và chàng thám tử trẻ tuổi, bản thân anh ta cũng là một thanh niên đẹp trai dù khuôn mặt có bị cạo nham nhở cùng một vệt tóc bò liếm trên trán, dường như đành chấp nhận tiếp tục công cuộc trồng cây si của mình thêm một thời gian nữa.
“Chào Jerry”, cô nói. Với Sellitto cô trao thêm một cái gật đầu nữa, cùng câu xưng hô “thưa ngài” đầy lễ độ. (Chẳng gì anh ta cũng là Đại úy Thám tử và là một huyền thoại trong lĩnh vực điều tra án mạng. Sachs mang gen cảnh sát di truyền trong người và cô đã được dạy dỗ chu đáo tại bàn ăn cũng như trong trường cảnh sát là phải biết kính trọng các bậc tiền bối.)
“Trông cô có vẻ mệt mỏi”, Sellitto nhận xét.
“Tôi có ngủ được đâu”, cô nói. “Phải đi tìm cát.” Cô rút ra một tá những túi nhỏ từ trong chiếc túi mua hàng. “Tôi vừa ra ngoài thu thập mẫu về.”
Chú thích:
[18]NYNEX: Công ty cung cấp dịch vụ điện thoại tại năm bang mạn New England của Mỹ (gồm Maine, Massachusettes, New Hampshire, Rhode Island, Vermont) và cả bang New York.
[19]Ounce: Đơn vị đo lường phổ biến ở Anh, Mỹ, mỗi ounce tương đương 28,35 gam.
[20]Lắc thân máy bay kiểu Hà Lan: Nguyên văn là “Dutch roll”: Một dạng chuyển động không ổn định ở máy bay do mất cân bằng ở phần đuôi và thân.
[21]Đại lộ Madison được mệnh danh là “con đường thời trang” ở thành phốNew York. Đây là nơi tập trung nhiều hãng thời trang danh tiếng.
“Tốt lắm”, Rhyme nói.
“Nhưng đó là tin cũ rồi. Chúng ta vừa nhận nhiệm vụ mới.”
“Nhiệm vụ mới?”
“Có kẻ mới xuất hiện trong thành phố. Và chúng ta phải tóm hắn.”
“Kẻ nào?”
“Một tên sát thủ”, Sellitto nói.
“Chuyên nghiệp?” Sachs hỏi. “Tội phạm có tổ chức?”
“Chuyên nghiệp, đúng vậy”, Rhyme nói. “Hiện chúng ta chưa phát hiện được mối liên hệ nào với tội phạm có tổ chức cả.” Tội phạm có tổ chức là đầu mối cung cấp những sát thủ giết thuê lớn nhất nước Mỹ.
“Hắn là sát thủ tự do”, Rhyme giải thích. “Chúng tôi gọi hắn là Vũ công Quan tài.”
Bất giác cô bồn chồn đưa móng tay lên gãi gãi một bên lông mày. “Tại sao?”
“Duy nhất chỉ có một nạn nhân từng tiếp cận với hắn mà còn sống thêm được đủ lâu để cung cấp cho chúng ta một số chi tiết. Hắn có – hoặc ít nhất cũng đã từng có – một hình xăm trên bắp tay: Thần Chết nhảy múa với một phụ nữ phía trước một chiếc quan tài.”
“Hừm, đó đáng là một chi tiết phải cho vào phóng sự vụ án trong chương trình Dấu hiệu Nhận biết mới đúng”, cô nói với vẻ chế giễu. “Chúng ta còn biết những gì về hắn nữa?”
“Nam giới, người da trắng, có lẽ khoảng ngoài ba mươi tuổi. Tất cả chỉ có vậy.”
“Chúng ta đã cho người lần theo hình xăm đó chưa?” Sachs hỏi.
“Tất nhiên”, Rhyme trả lời một cách khô khan. “Đến tận cùng trời cuối đất.” Điều anh nói là sự thật theo đúng nghĩa đen. Không một sở cảnh sát tại bất kỳ thành phố chính nào trên thế giới có thể cung cấp thông tin về một hình xăm như thế.
“Xin thứ lỗi, thưa các quý ông và cô đây”, Thom nói. “Có việc phải làm.” Cuộc trò chuyện tạm thời gián đoạn trong lúc chàng thanh niên bắt tay vào thực hiện các động tác xoay người cho ông chủ của mình. Mục đích của việc này là giúp Rhyme làm sạch phổi. Đối với những người liệt tứ chi thì một số bộ phận nhất định trên cơ thể trở nên có tính cách như con người; người bệnh phát triển những mối quan hệ đặc biệt với các bộ phận này. Sau khi cột sống của anh bị dập nát trong lúc khám nghiệm một hiện trường vụ án cách đây vài năm, hai tay và hai chân của Rhyme đã trở thành những kẻ thù tàn độc nhất đối với chính anh và Rhyme đã từng phải tuyệt vọng dồn hết sức lực của mình cố gắng bắt chúng làm những gì anh muốn. Nhưng rồi chúng đã thắng, không phải tranh cãi gì thêm nữa, và suốt từ đó đến giờ lúc nào chúng cũng trơ ra như gỗ. Rồi anh lại còn phải đối mặt với những cơn co giật hành hạ cơ thể mình một cách không thương tiếc. Anh đã cố gắng bắt chúng phải chấm dứt. Cuối cùng thì chúng cũng dừng lại – dường như là vì tự chúng muốn thế thì đúng hơn. Rhyme cũng không hoàn toàn tuyên bố chiến thắng mặc dù anh có chấp nhận sự đầu hàng của chúng. Sau đó anh lại quay sang với những thách thức ít gay cấn hơn và bắt đầu tuyên chiến với hai lá phổi của mình. Cuối cùng, sau một năm điều trị phục hồi chức năng, anh có thể tự giải phóng cho mình khỏi cái máy thở. Ngay khi chiếc ống khí quản nhân tạo được rút ra, anh có thể tự thở bình thường. Đó là chiến thắng duy nhất mà Rhyme giành được trong cuộc chiến với cơ thể mình và anh vẫn nuôi dưỡng một sự mê tín đen tối rằng hai lá phổi kia đang kiên trì mai phục chờ ngày trả thù. Anh tự hình dung ra cảnh mình sẽ chết vì viêm phổi hoặc chứng phù thủng chỉ sau một, hai năm nữa.
Cũng không hẳn là Lincoln Rhyme bị giày vò với ý nghĩ về cái chết. Chỉ có điều là có quá nhiều cách để chết; anh quyết tâm sẽ không chọn cho mình một cách quá khổ sở.
Sachs đang hỏi tiếp, “Có manh mối gì không? Phi vụ gần đây nhất?”
“Gần đây nhất hắn gây án ở khu vực Washington D.C”, Sellitto nói bằng cái giọngBrooklynlè nhè của mình. “Thế thôi. Không có thêm gì sất. À, mà chúng tôi cũng có nghe một số thông tin về hắn. Thực ra là Dellray nghe được chứ không hẳn là chúng tôi, anh ta có những tay chỉ điểm và cơ sở mật mà, cô biết đấy. Tên Vũ công, cứ như thể hắn là mười con người khác nhau vậy. Thay thùy tai, cấy ghép mặt, độn silicon. Thêm sẹo, bớt sẹo. Tăng cân, gỉảm cân. Có lần hắn còn lột da xác chết – lấy cả phần bàn tay của nạn nhân rồi đeo vào tay mình cứ như người ta xỏ găng tay vậy, để đánh lừa cảnh sát về dấu vân tay.”
“Nhưng không phải tôi”, Rhyme nhắc. “Hắn đâu có qua mặt được tôi.”
Mặc dù chính mình cũng không tóm được hắn, anh cay đắng thầm nghĩ.
“Hắn lên kế hoạch cho mọi chi tiết”, viên thám tử nói tiếp. “Sắp đặt các biện pháp đánh lạc hướng rồi xâm nhập. Và ra tay. Sau đó thằng chó chết này dọn dẹp hiện trường gây án cực kỳ sạch sẽ.” Sellitto ngừng lời, trông anh có vẻ bức xúc lạ lùng, điểm ít thấy ở một người chuyên sống bằng nghề săn lùng những tên sát thủ.
Ngoảnh mặt ra ngoài cửa sổ, Rhyme không tỏ một chút xúc động trước sự uất ức của người cộng sự cũ. Anh chỉ lạnh lùng nói tiếp. “Vụ án đó – vụ hắn đã lột da bàn tay nạn nhân – là tội ác gần đây nhất của tên Vũ công ở New York. Năm, sáu năm trước. Hắn được một tay chủ ngân hàng đầu tư ở phố Wall thuê giết đối tác làm ăn của mình. Hắn ra tay rất gọn gàng và nhanh chóng. CS[22] của tôi tới nơi hắn gây án và bắt đầu rà soát. Một thành viên trong đội đã nhấc một tập giấy ra khỏi thùng rác. Làm kích nổ một khối thuớc PETN[23]. Nặng khoảng tám ounce gì đó, được tăng cường bằng khí gas trong phòng. Cả hai nhân viên đều thiệt mạng và hầu hết mọi manh mối đều bị phá hủy.”
“Tôi rất tiếc”, Sachs nói. Giữa hai người có một sự im lặng thật khó xử. Cô vừa là học trò vừa là cộng sự của anh từ hơn một năm nay – và cũng đã trở thành bạn tâm giao của anh nữa. Thậm chí thỉnh thoảng còn nghỉ lại qua đêm tại đây, ngủ trên sôfa, hoặc hơn thế nữa, trong sáng như một người em gái, nằm ngay trên chiếc giường Clinitron nặng cả nửa tấn cuả Rhyme. Nhưng họ hầu như chỉ nói chuyện về khoa học hình sự, trong đó Rhyme ru cô vào giấc ngủ bằng câu chuyện về những tên giết người hàng loạt bệnh hoạn hoặc những tên trộm ranh ma chuyên đột vòm một cách thần tình. Họ hầu như không mấy khi đề cập tới những vấn đề riêng tư. Lúc này cô không thể nói gì thêm ngoài câu “Chuyện đó chắc vô cùng khó khăn”.
Rhyme xua đi sự cảm thông gượng gạo đó bằng một cái lắc đầu. Anh trân trân nhìn vào bức tường trống trơn. Một dạo đã từng có những tấm poster nghệ thuật được dán xung quanh căn phòng. Chúng đã được tháo bỏ từ lâu nhưng mắt anh vẫn cố hình dung ra khung cảnh cũ từ những mẩu băng dính còn sót lại. Hình dáng mà chúng tạo nên là một ngôi sao lệch, trong khi ấy, ở đâu đó trong sâu thẳm trong tâm hồn anh, Rhyme cảm thấy một nỗi tuyệt vọng trống rỗng khi hình dung lại hiện trường vụ án khủng khiếp sau khi quả bom phát nổ, chứng kiến những thi thể dập nát và cháy sém của hai đồng nghiệp.
Sachs hỏi, “Người đã thuê hắn ấy, ông ta có đồng ý tố cáo tên Vũ công không?”.
“Có đồng ý chứ, chắc chắn rồi. Nhưng ông ta cũng chẳng biết gì mà khai cả. Ông ta chuyển tiền mặt vào một thùng thư cùng những chỉ thị được viết cụ thể. Không có điện chuyển khoản, không có số tài khoản nào hết. Họ chưa bao giờ gặp nhau trực tiếp.” Rhyme hít một hơi thật sâu. “Nhưng điều tệ nhất trong chuyện này là tay chủ ngân hàng trả tiền cho vụ giết người cuối cùng lại đổi ý. Ông ta đã hoảng sợ. Nhưng ông ta không có cách nào để liên lạc với tên Vũ công. Chuyện đó cũng chẳng ảnh hưởng gì. Tên Vũ công đã nói thẳng với ông ta ngay từ đầu: Không bao giờ có chuyện hủy đơn đặt hàng.”
Sellitto kể tóm tắt lại cho Sachs biết về vụ án hiện tại liên quan đến Phillip Hansen, những nhân chứng đã nhìn thấy máy bay của hắn thực hiện cú cất cánh vào lúc nửa đêm và vụ đánh bom đêm qua.
“Nhân chứng còn lại gồm những ai?”, cô hỏi.
Percey Clay, vợ của cái tay phi công Carney bị giết trên máy bay đêm qua. Cô ta là chủ tịch công ty dịch vụ bay của họ, Hudson Air Charters. Chồng cô ta là phó chủ tịch. Nhân chứng còn lại là Britton Hale. Anh ta cũng là một phi công làm việc trong công ty. Tôi đã cử người tới canh chừng cho cả hai người này.”
Rhyme nói, “Tôi vừa gọi cho Mel Cooper tới. Anh ta sẽ đảm trách phòng thí nghiệm dưới nhà. Vụ Hansen này huy động lực lượng tổng hợp cho nên chúng ta sẽ cần đến Fred Dellray để đại diện cho cơ quan an ninh liên bang. Anh ấy sẽ huy động các đặc vụ cho chúng ta trong trường hợp cần thiết đồng thời chuẩn bị một trong những ngôi nhà an toàn chuyên bảo vệ nhân chứng của Cảnh sát Tư pháp Hoa Kỳ dành riêng cho cô Clay kia và Hale”.
Những ký ức bộn bề của Lyncoln Rhyme lại thoáng tràn về xâm chiếm khiến anh bất giác không còn nhận ra Sellitto đang nói gì nữa. Trong tâm trí anh lúc này là hình ảnh về một văn phòng làm việc, nơi tên Vũ công đã gài qủa bom cách đây năm năm.
Hồi tưởng: Chiếc thùng rác, nổ toác miệng như một bông hồng đen ngòm. Mùi thuốc nổ – mùi hoá chất nồng nặc, hoàn toàn không giống chút nào so với mùi khói do gỗ cháy thông thường. Những vết nứt rạn óng ánh trên mặt gỗ cháy thành than. Thi thể bầm nát của hai nhân viên do anh cử đi, nát bấy và cong queo trong ngọn lửa.
Tiếng tít tít phát ra chiếc máy fax kéo anh khỏi dòng suy tưởng đau đớn. Jerry Banks giật lấy tờ giấy đầu tiên. “Baó cáo khám nghiệm hiện trường vụ nổ”, anh ta thông báo.
Đầu Rhyme giật mạnh về phía chiếc máy fax đầy háo hức. “Đến lúc bắt tay vào việc rồi, các chàng trai, cô gái!”
Rửa thật sạch. Rửa sạch chúng đi.
Quân nhân, những bàn tay đó sạch chưa?
Thưa ngài, sắp sạch rồi ạ, thưa ngài.
Người đàn ông vạm vỡ, khoảng ngoài ba mươi tuổi, đứng trong nhà vệ sinh của một quán cà phê trên Đại lộ Lexington, hoàn toàn chú tâm vào công việc của mình.
Cọ mạnh, cọ mạnh, cọ mạnh vào…
Hắn dừng lại và ngoái nhìn ra cửa nhà vệ sinh dành cho nam giới. Dường như không có ai mảy may quan tâm đến việc hắn đã ở trong này được gần mười phút.
Quay lại với việc kỳ cọ.
Stephen Kall chăm chú nhìn lớp biểu bì và những đốt ngón tay tấy đỏ của mình.
Trông có vẻ sạch, trông có vẻ sạch. Không có giòi. Không một con.
Trước đó hắn đã cảm thấy thật dễ chịu sau khi lái chiếc xe thùng màu đen ra khỏi đường phố và giấu nó sâu tít bên dưới một ga ra ngầm. Stephen đã lấy những thứ mà hắn cần từ thùng sau chiếc xe và bước ngược dốc đi lên, len vào giữa con phố tấp nập người đi lại. Trước đây hắn cũng đã thực hiện một số vụ ở New York nhưng hắn chưa bao giờ có thể quen với cảnh biển người hỗn loạn, chỉ riêng đoạn phố này cũng đã có cả nghìn người rồi.
Làm mình thấy ghê sợ.
Làm mình thấy nhớp nhúa.
Và thế là hắn ghé vào nhà vệ sinh dành cho nam giới trong quán cà phê này để kỳ cọ qua một chút.
Quân nhân, anh vẫn chưa xong việc đó cơ à? Anh còn hai mục tiêu phải tiêu diệt đấy.
Thưa ngài, sắp xong rồi, thưa ngài. Phải loại bỏ bất kỳ nguy cơ để lại dấu vết nào trước khi bắt tay vào thực hiện chiến dịch tiếp theo, thưa ngài.
Ôi, lạy Chúa lòng lành…
Dòng nước nóng chảy tràn trên hai bàn tay của hắn. Kỳ cọ bằng một cái bàn chải hắn luôn mang theo bên mình trong một chiếc túi nylon. Xịt thêm chất xà phòng lỏng màu hồng từ trong bình lên tay. Và lại tiếp tục kỳ cọ thêm lúc nữa.
Cuối cùng hắn săm soi hai bàn tay đỏ bầm và hong khô chúng dưới luồng khí nóng của máy sấy. Không dùng khăn, không để lại những sợi vải có thể làm lộ chân tướng.
Và không có giòi.
Hôm nay Stephen vẫn mặc đồ cải trang, nhưng không phải đồ rằn ri quân sự màu xanh ô liu hoặc màu be kiểu trong chiến dịch Bão táp Sa mạc. Hắn mặc quần jean, áo sơ mi công nhân, chiếc áo khoác gió màu xám lấm tấm những giọt sơn, đi giày thể thao Reebok. Trên thắt lưng hắn là một chiếc điện thoại di động và cái thước dây lớn. Trông hắn chẳng khác bất kỳ nhà thầu xây dựng nào trong khu Manhattan, và sở dĩ hôm nay hắn diện bộ đồ này là vì không một ai để tâm đến một người công nhân xây dựng mang găng tay vải trong một ngày mùa xuân ấm áp cả.
Bước ra ngoài.
Vẫn còn rất nhiều người. Nhưng hai bàn tay hắn đã sạch sẽ và hắn không còn cảm thấy ghê sợ nữa.
Hắn dừng lại ở góc phố và nhìn về phía tòa nhà đã từng là ngôi nhà của Người chồng và Người vợ nhưng lúc này Người vợ chỉ còn một mình vì Người chồng đã bị nổ tung thành hàng triệu mảnh trên Vùng đất của Lincoln[24].
Vậy là hai nhân chứng vẫn còn sống và cả hai sẽ phải chết trước khi bồi thẩm đoàn được triệu tập vào thứ Hai. Hắn liếc nhìn chiếc đồng hồ to đùng bằng thép không gỉ của mình. Bây giờ mới là chín rưỡi sáng thứ Bảy.
Quân nhân, liệu còn đủ thời gian để tiêu diệt cả hai không?
Thưa ngài, lúc này có thể tôi không giết được cả hai cùng một lúc, nhưng tôi vẫn còn gần bốn mươi tám tiếng đồng hồ nữa, thưa ngài. Ngần đó thời gian là quá đủ để xác định và vô hiệu hóa cả hai mục tiêu, thưa ngài.
Nhưng, quân nhân, anh có e ngại thách thức không?
Thưa ngài, tôi sống vì những thách thức, thưa ngài.
Có đúng một chiếc xe tuần tra của cảnh sát bên ngoài ngôi nhà. Đó là điều hắn đã dự kiến từ trước.
Được rồi, chúng ta có một khu vực tiêu diệt quen thuộc ở phía trước ngôi nhà, một khu vực tiêu diệt xa lạ bên trong…
Hắn nhìn quanh hai bên đường phố, rồi bắt đầu bước dọc theo vỉa hè, hai bàn tay vừa được kỳ cọ sạch, ngứa ran. Chiếc ba lô sau lưng nặng gần 60 pound[25] nhưng hắn hầu như không hề cảm thấy gì. Stephen đầu cua là một tên vạm vỡ.
Vừa bước đi hắn vừa tự hình dung bản thân như một người dân địa phương. Vô danh. Hắn không hề nghĩ mình là Stephen, ông Kall hay Todd Johnson hoặc Stan Bledsoe, hay bất kỳ ai trong số hàng chục cái tên giả khác mà hắn từng sử dụng trong suốt mười năm qua. Tên thật của hắn giống như một cái thang sét gỉ cho trẻ con leo trèo gắn ở sân sau, một thứ mà người ta lờ mờ biết là có nhưng cũng không mấy khi nhìn thấy.
Bất thình lình hắn rẽ và bước vào trong sảnh trước của tòa nhà đối diện với ngôi nhà của Người vợ. Stephen đẩy cánh cửa trước và cảnh giác quan sát những ô cửa sổ kính rộng bên kia phố, vốn bị cành lá lòa xòa của một cây sơn thù du đang ra hoa che phủ một phần. Hắn đeo một cặp kính tráng lớp bảo vệ màu vàng dành cho xạ thủ tập bắn và ánh chói lòa trên cửa sổ kính biến mất. Hắn nhận ra bóng những người chuyển động bên trong. Một tên cớm… không, hai tên cớm. Một người đàn ông quay lưng lại phía cửa sổ. Có thể là Người bạn, một nhân chứng khác mà hắn đã được thuê thủ tiêu. Và… đúng rồi! Có cả Người vợ nữa. Thấp bé. Thô kệch. Trông như trẻ con. Cô ta mặc một chiếc áo màu trắng. Một mục tiêu thật ngon ăn.
Cô ta bước khỏi tầm nhìn của hắn.
Stephen cúi xuống và kéo mở khóa ba lô.
Chú thích:
[22]CS: Đội khám nghiệm hiện trường.
[23]PETN: Pentaerythritol tetranitrate, một loại thuốc nổ cực mạnh.
[24]Vùng đất của Lincoln:Chicago, bang Illinoislà nơi lớn lên và trưởng thành của Tổng thống Mỹ thứ 16 Abraham Lincoln.
[25]Pound: Đơn vị đo lường phổ biến ở Anh, Mỹ, tương đương 0,454 kilogam.