Chương 29
Giờ thứ 31 của 45
Đến sân bay Mamaroneck, Amelia Sachs nhận ra Roland Bell đang lởn vởn bên ngoài hangar. Thêm sáu nhân viên cảnh sát nữa đang đứng gác quanh toà nhà rộng thênh thang. Sachs đoán kiểu gì xung quanh đó cũng bố trí các tay súng bắn tỉa.
Mắt cô nhận ra ngay mô đất nhỏ nơi cô đã nằm thụp xuống để tránh đạn. Cảm giác buồn nôn đến ghê tởm lại trào lên trong bụng Sachs khi cô nhớ đến mùi đất ẩm trộn lẫn với mùi thuốc nổ cordite ngòn ngọt tỏa từ những phát đạn súng ngắn bất lực của mình.
Cô quay lại và lên tiếng chào Bell. “Thám tử.”
Ánh mắt anh liếc về phía cô ngay lập tức. “Ê.” Rồi anh lại tiếp tục lia mắt khắp sân bay. Phong cách miền Nam vui nhộn và dễ gần của anh đã biến đâu mất. Anh đã thay đổi thành con người khác. Sachs nhận ra rằng giờ đây anh và cô cùng chia sẻ một điều không vẻ vang gì. Cả hai đều nổ súng vào tên Vũ công Quan tài và đều bắn trượt.
Cả hai cũng đều từng ở trong khu vực tiêu diệt của hắn và đều sống sót. Mặc dù vậy, Bell vẫn có thể ngẩng cao đầu hơn cô nhiều. Sachs có thể thấy là tấm áo giáp chống đạn của anh còn lưu giữ nguyên những dấu hiệu vẻ vang đó: những vết hằn từ hai đầu đạn bắn sượt qua người anh trong cuộc đọ súng ở ngôi nhà an toàn. Anh đã đứng vững ở vị trí của mình.
“Percey đâu rồi?”, Sachs hỏi.
“Trong kia. Đang hoàn thành công việc sửa chữa.”
“Chị ấy tự làm à?”
“Có lẽ thế. Cô ấy thật đáng nể, thật sự đấy. Không ai có thể tin là một phụ nữ không được…, hừm, nói thế nào nhỉ, không được quyến rũ cho lắm như cô ấy lại có sức hút mạnh mẽ đến thế. Cô thấy chứ?”
Ừ hứ. Đừng có khiến tôi phải gây chuyện thêm.
“Còn ai khác ở đây không? Người của Công ty ấy?” Cô hất đầu về phía khu văn phòng của Hudson Air. “Bên trong vẫn còn ánh đèn.”
“Percey đã cho hầu hết mọi người về nhà rồi. Tay phi công phụ bay cùng cô ấy sẽ tới đây bất kỳ lúc nào. Và có ai đó thuộc Bộ phận Điều hành đang ở bên trong. Đại loại là lúc nào cũng phải có người trực khi đang có chuyến bay, tôi đoán thế. Tôi kiểm tra anh ta rồi. Không vấn đề gì.”
“Vậy là chị ấy định tự bay thật à?”, Sachs hỏi.
“Có vẻ thế.”
“Máy bay vẫn được canh gác thường xuyên chứ?”
“Ừ, suốt từ hôm qua đến giờ. Mà cô đang làm gì ở đây vậy?”
“Cần thêm một số mẫu để phân tích.”
“Cái tay Rhyme đó, anh ta cũng thật đáng nể.”
“Ừ hứ.”
“Hai người làm việc cùng nhau ngay từ hồi đầu à?”
“Chúng tôi mới làm chung một vài vụ thôi”, cô nói lảng. “Anh ấy lôi tôi ra khỏi phòng Quan hệ Công chúng.”
“Đấy chắc hẳn là một việc tốt rồi còn gì. Này, tôi nghe nói là cô thực sự có thể đóng đinh bằng đạn à?”
“Tôi có thể gì cơ?”
“Bắn ấy. Bằng súng ngắn. Cô còn là thành viên đội tuyển bắn súng nữa mà.”
Và lúc này đây tôi đang ở nơi vừa diễn ra cuộc thi mới nhất của mình, cô cay đắng nghĩ thầm. “Chỉ là trò thể thao cuối tuần thôi mà”, cô lầm bầm.
“Bản thân tôi cũng là người thường tập luyện và thi bắn súng ngắn, nhưng nói thật với cô, ngay cả trong một ngày đẹp trời, với một khẩu nòng dài đẹp đẽ nhất và bắn ở chế độ từng phát một, khoảng cách xa nhất mà tôi có thể bắn trúng cũng chỉ là 50 hoặc cùng lắm là 60 thước.”
Cô thầm biết ơn những tâm sự của anh nhưng rồi chợt nhận ra anh cũng chỉ đang cố gắng tìm cách an ủi cô về sự thất bại của ngày hôm qua; những lời đó với cô chỉ là vô nghĩa.
“Có lẽ tôi phải vào nói chuyện với Percey thôi.”
“Ngay bên kia kìa, sĩ quan.”
Sachs đẩy cửa bước vào khoang hangar rộng mênh mông. Cô chậm rãi từng bước, quan sát kỹ càng tất cả những nơi tên Vũ công có thể ẩn náu. Sachs dừng lại sau một dãy hòm chất cao ngất; Percey vẫn chưa nhìn thấy cô.
Người phụ nữ đang đứng trên một giàn giáo nhỏ, hai tay chống bên hông, mắt đăm đăm nghiên cứu mạng lưới chằng chịt đến hoa cả mắt gồm đủ các loại đường ống và dây dẫn của buồng động cơ đang mở nắp. Cô đã xắn cao cả hai ông tay áo, hai bàn tay cũng nhem nhuốc đầy dầu mỡ. Cô tự gật đầu như đang động viên mình rồi chúi đầu hẳn vào trong buồng động cơ.
Sachs đứng như trời trồng tại chỗ, tròn mắt nhìn hai bàn tay của người nữ phi công đang lướt như bay trên cỗ máy, chỉnh lại chỗ này, thăm dò chỗ kia, hàn kim loại vào với kim loại, và siết chặt lại những con ốc bằng các động tác chính xác và dứt khoát từ hai cánh tay gầy gò. Cô vừa lắp xong một ống hình trụ lớn màu đỏ, mà theo Sachs đoán thì là bình cứu hoả dự phòng, trong vòng chưa đến mười giây.
Nhưng có một bộ phận – trông giống như một ống dẫn lớn bên trong bằng kim loại – mãi không chịu vào đúng vị trí.
Percey trèo xuống khỏi giàn giáo, chọn lấy một chiếc cờ lê có hốc xoắn và lại trèo lên. Cô nới lỏng những con ốc, tháo bỏ một bộ phận khác để lấy thêm chỗ cho việc thao tác, rồi lại thử ấn chiếc vòng xuyến lớn vào vị trí.
Không suy suyển chút nào.
Cô ghé vai vào đấy. Cũng không nhúc nhích lấy một inch. Cô lại tháo thêm một bộ phận khác, cẩn thận đặt từng chiếc ốc và đinh vít vào một chiếc khay nhựa đặt dưới chân. Mặt Percey đỏ bừng khi cô loay hoay cố nâng chiếc vòng xuyến bằng kim loại lên. Ngực cô phập phồng vì gắng sức vật lộn với thứ phụ tùng đó. Bất thình lình nó trượt xuống, rơi hẳn ra khỏi vị trí, và đẩy cô ngã ngửa về sau từ trên giàn giáo. Cô chống hai tay và đầu gối để lồm cồm bò dậy. Những dụng cụ và ốc vít được cô cẩn thận xếp trong khay rơi vung vãi trên sàn phía dưới phần đuôi máy bay.
“Không!”, Percey gào lên. “Không!”
Sachs vội bước lên phía trước để kiểm tra xem cô có bị thương không, nhưng cô nhận thấy ngay lập tức cơn xúc động kia chẳng liên quan gì đến việc đau hay không đau cả – Percey chộp lấy chiếc cờ lê to đùng và điên cuồng đập thẳng tay xuống sàn hangar. Sachs dừng lại, khẽ bước nhích vào trong bóng tối cạnh một chiếc thùng carton lớn.
“Không, không, không…” Percey gào lên, đập chan chát xuống mặt sàn láng mi măng rất mịn.
Sachs vẫn đứng nguyên.
“Ôi, Ed…” Cô buông chiếc cờ lê xuống. “Em không thể làm một mình được.” Cô nằm cuộn tròn như quả bóng trên sàn, thở hổn hển như đứt hơi. “Ed… ôi, Ed… Em rất nhớ anh!” Cô nằm yên, cuộn người như một chiếc lá héo, trên sàn nhà sáng bóng và thổn thức khóc.
Rồi, cũng thật bất ngờ, cơn xúc động vụt qua đi. Percey nghiêng người ngồi thẳng dậy, hít một hơi thật dài và gượng đứng lên, lau nước mắt đang giàn giụa trên mặt. Bản năng của người phụ nữ phi công trong cô quay trở lại và cô lúi húi nhặt mớ dụng cụ cùng với những chiếc ốc lên rồi trèo lên giàn giáo. Cô chăm chú nhìn chiếc vòng xuyến tai quái một lúc lâu. Cô kiểm tra các khớp nối rất cẩn thận nhưng vẫn không thể nhận ra những chi tiết máy bằng kim loại bị kẹt ở chỗ nào.
Sachs lùi dần ra cửa chính, đóng cửa đánh rầm một cái, rồi bắt đầu đi thẳng trở lại vào trong hangar, với những tiếng bước chân nghe rất rõ.
Percey quay ngoắt ra, nhìn thấy cô, rồi quay lại với động cơ. Cô giơ ống tay áo lên quệt ngang mặt mấy cái rồi tiếp tục công việc.
Sachs bước thẳng tới dưới chân giàn giáo và đứng nhìn Percey đang vật lộn với chiếc vòng xuyến.
Cả hai người phụ nữ đều không nói gì một lúc khá lâu.
Cuối cùng Sachs lên tiếng, “Thử một cái kích nâng xem.”
Percey quay lại nhìn cô, nhưng không nói gì.
“Chẳng qua là vì độ dung sai của thiết bị quá nhỏ”, Sachs nói tiếp. “Tất cả những gì chị cần là thêm một chút lực. Kỹ thuật nhồi nhét cũ rích ấy mà. Nhưng ở trong trường kỹ thuật họ không dạy cái này đâu.”
Percey cẩn thận săm soi những ngoàm lắp ghép trên các chi tiết kim loại. “Tôi không biết.”
“Tôi thì biết. Chị đang nói chuyện với một chuyên gia đấy.”
Người nữ phi công ngờ vực, “Cô đã từng lắp buồng đốt cho một chiếc Lear sao?”.
“Không. Chỉ lắp bugi của một chiếc Chevy Monza. Chị sẽ phải kích nâng toàn bộ động cơ lên nếu muốn với tới chiếc bugi. Thật ra cũng chỉ là với những xe có động cơ V8 thôi. Nhưng bây giờ làm gì còn ai mua một chiếc bốn xi lanh chứ? Ý tôi là mua thế để làm gì?”
Percey quay lại nhìn chiếc động cơ.
“Thế nào?”, Sachs kiên trì. “Một chiếc kích chứ?”
“Nó sẽ làm vênh lớp vỏ ngoài của động cơ mất.”
“Sẽ không vênh nếu chị đặt nó vào chỗ kia.” Sachs chỉ vào một chi tiết kết cấu liên kết động cơ với phần khung đỡ dẫn thẳng tới thân máy bay.
Percey nghiên cứu khớp nối. “Nhưng tôi không có kích. Đúng ra là không có cái nào vừa nhỏ để cho vào đây.”
“Tôi có. Để tôi đi lấy.”
Sachs quay ra ngoài tới chỗ đậu chiếc RRV rồi trở vào cùng với chiếc kích kiểu xếp. Cô trèo lên giàn giáo, hai đầu gối kịch liệt phản đối cố gắng này.
“Đặt đúng vào đây.” Cô chạm vào phần đế động cơ. “Đúng kiểu rầm thép chữ I nhé.”
Trong khi Percey điều chỉnh chiếc kích, Sachs chiêm ngưỡng sự tinh vi của phần động cơ. “Bao nhiêu sức ngựa đây?”
Percey bật cười. “Chúng tôi không tinh bằng sức ngựa. Chúng tôi chỉ tính bằng đơn vị lực đẩy. Đây là động cơ Garrett TFE 731. Công suất hoạt động mỗi động cơ tương đương với 3500 đơn vị lực đẩy.”
“Không thể tin được”, Sachs bật cười. “Chúa ơi.” Cô móc phần tay quay vào trong chiếc kích, vào bắt đầu cảm nhận lực đẩy ngược lại quen thuộc khi cô bắt đầu vặn tay quay. “Tôi chưa bao giờ đứng gần một động cơ tua bin như thế này”, cô nói. “Hồi trước giấc mơ lớn nhất của tôi là được chạy thử một chiếc ô tô lắp động cơ phản lực trên những cánh đồng muối.”
“Đây cũng không phải động cơ tua bin thuần tuý. Hiện tại cũng không còn lại nhiều động cơ tua bin như trước kia nữa. Cũng như những chiếc Concorde vậy. Tất nhiên là những chiếc phản lực quân sự thì vẫn dùng. Còn đây là động cơ phản lực cánh quạt đẩy. Giống như những chiếc máy bay chở khách ấy. Cô nhìn phía trước kia kìa – có thấy những cánh quạt không? Không gì có thể sánh được với những cánh quạt đẩy có tốc độ cố định kia. Động cơ tua bin phản lực thuần tuý hoạt động không hiệu quả ở những độ cao hạn chế. Còn những động cơ này tiết kiệm hơn đến 40% nhiên liệu.”
Sachs thở hổn hển vì gắng sức vặn tay quay của chiếc kích. Percey lại ghé vai dựa vào vòng xuyến và đẩy mạnh. Thiết bị này trông thì không lớn lắm nhưng thực tế thì nặng khủng khiếp.
“Cô biết về xe cộ chứ?”, Percey hỏi, cũng hổn hển không ra hơi.
“Bố tôi. Ông yêu thích xe cộ. Có khi cả buổi chiều hai bố con cũng loay hoay tháo xe ra rồi lại lắp vào. Ấy là những hôm ông không phải đi tuần tra.”
“Đi tuần tra là sao?”
“Bố tôi cũng là cảnh sát mà.”
“Và cô bị lây tình yêu đối với máy móc?”, Percey hỏi.
“Không, tôi chỉ lây phần say mê tốc độ. Và một khi đã nhiễm cái đó thì tối thiểu cũng phải biết thế nào là bộ giảm xóc, thế nào là bộ truyền lực và hiểu biết nhất định về động cơ nếu không thì sẽ chẳng thể nào mà phóng nhanh được.”
Percey hỏi, “Cô đã bao giờ lái máy bay chưa?”.
“Lái ư?”, Sachs mỉm cười vì cách Percey dùng từ đó. “Chưa. Nhưng có lẽ tôi sẽ suy nghĩ về chuyện đó, nhất là khi đã biết dưới cái nắp capô lại là một động cơ hấp dẫn khủng khiếp như thế này.”
Cô vặn thêm một chút nữa, những cơ bắp của cô đau nhức. Chiếc vòng xuyến khẽ rít lên ken két khi nó được đặt vào những vị trí khớp nối.
“Tôi không biết”, Percey ngập ngừng nói.
“Gần được rồi kìa!”
Với một tiếng keng lanh lảnh rất to của kim loại, chiếc vòng xuyến thụt hẳn vào khung đỡ của nó một cách hoàn hảo. Khuôn mặt ngắn ngủn của Percey thoáng nở một nụ cười hài lòng.
“Chỉ cần xoáy chúng vào thôi chứ gì?” Sachs hỏi, cô bắt đầu lắp những chiếc bu lông vào các khe của chúng trên vòng xuyến và quay ra tìm một chiếc cờ lê.
“Ừ”, Percey nói. “Phương châm của tôi là: Vặn đến khi chúng không còn có thể long ra được nữa thì thôi.”
Sachs siết chặt những bu lông vào khe bằng một chiếc cờ lê vặn có lắp thêm bánh cóc. Tiếng dụng cụ lách cách đưa cô quay lại thời trung học, những buổi chiều thứ Bảy mát mẻ cùng với bố mình. Mùi xăng dầu ngai ngái, mùi không khí mùa thu, mùi của món thịt hầm thơm phức toản ra từ căn bếp trong ngôi nhà liền kề của họ ở khu Brooklyn.
Percey kiểm tra phần công việc của Sachs rồi nói, “Tôi sẽ làm phần còn lại”. Cô bắt đầu nối lại những đường dây điện và các thiết bị điện tử. Sachs không hiểu gì nhưng vẫn nhìn cô làm như bị thôi miên. Chợt Percey dừng lại. Cô khẽ buông thêm một tiếng “Cảm ơn”. Và một lát sau là: “Mà cô đang làm gì ở đây vậy?”.
“Chúng tôi tìm thấy một số vật liệu mà chúng tôi nghĩ có thể là của quả bom, nhưng Lincoln chưa dám chắc liệu có thể nó là một phần của chiếc máy bay hay không. Những mẩu cao su mềm màu be, bảng mạch điện? Chị thấy có quen không?”
Percey nhún vai. “Có đến hàng nghìn miếng đệm trong một chiếc Lear như thế này. Có thể chúng được làm bằng latex, tôi cũng không biết nữa. Còn những tấm bảng mạch điện ư? Cả chúng cũng có đến hàng nghìn ấy chứ.” Cô hất đầu về một góc hangar, nơi có đặt một chiếc tủ đồ và bàn làm việc dài. “Những bảng mạch này là phụ tùng đặt hàng đặc biệt, tuỳ thuộc vào từng thiết bị. Nhưng đằng kia kiểu gì cũng có vô số miếng điệm dự phòng. Cứ việc tha hồ chọn loại mẫu nào mà cô cần.”
Sachs bước tới chỗ kê chiếc bàn, bắt đầu chọn lựa tất cả những mẫu cao su màu be nào mà cô tìm thấy vào trong một chiếc túi đựng bằng chứng.
Không liếc nhìn về phía Sachs, Percey lên tiếng, “Tôi cứ tưởng cô tới đây để bắt tôi cơ. Để áp giải tôi quay lại nhà giam”.
Lẽ ra tôi phải làm thế, người nữ cảnh sát thầm nghĩ. Nhưng cuối cùng cô nói, “Chỉ đến kiểm tra mẫu vật thôi”. Rồi nói thêm, sau một lát im lặng: “Còn công việc nào phải làm không? Với chiếc máy bay ấy?”.
“Chỉ là hiệu chỉnh lại các chi tiết thôi. Sau đó khởi động động cơ để kiểm tra hệ thống điện. Tôi cũng phải xem qua lại cửa sổ nữa, cái cửa sổ mà Ron đã thay ấy. Cô sẽ không bao giờ muốn có một cái cửa sổ bị long ra khi đang bay với vận tốc 400 dặm một giờ đâu. Cô có thể đưa giúp tôi bộ thanh vặn sáu cạnh kia không? Không, bộ hệ mét ấy.”
“Tôi cũng từng mất một cái ở tốc độ 100 dặm một giờ”, Sachs nói và chuyển thứ dụng cụ kia cho Percey.
“Một cái gì cơ?”
“Cửa sổ ấy. Tên tội phạm mà tôi đuổi theo hôm đó có một khẩu súng săn. Loại hai nòng bắn đạn săn thú lớn. Tôi kịp hụp đầu xuống. Nhưng viên đạn phá nát hoàn toàn kính chắn gió phía trước… Nói thật với chị, đến khi tóm được hắn thì răng tôi dính không biết bao nhiêu là những con bọ đủ loại.”
“Vậy mà tôi cứ tưởng mỗi tôi là sống cuộc đời phiêu lưu”, Percey nói.
“Phần lớn thời gian làm việc là nhàm chán. Nhưng họ trả tiền cho tôi vì 5% căng thẳng kia.”
“Tôi cũng nghe nói thế”, Percey nói. Cô nối thẳng một chiếc máy tính xách tay vào những thiết bị điện tử trong động cơ. Cô gõ trên bàn phím rồi chăm chú nhìn màn hình. Không hề liếc nhìn xuống dưới, cô hỏi, “Vậy, tóm lại chuyện đó là thế nào?”.
Mắt cũng nhìn vào màn hình máy tính, những con số lướt qua loang loáng, Sachs hỏi, “Ý chị là sao?”.
“Thì, hừm, sự đối đầu. Giữa chúng ta. Cô và tôi ấy.”
“Suýt nữa chị làm một người bạn của tôi mất mạng.”
Percey lắc đầu. Cô khẽ khàng nói, “Không phải thế. Trong công việc như của cô làm sao tránh được rủi ro. Bao giờ cô cũng phải quyết định cô có muốn chấp nhận những rủi ro đó hay không. Jerry Banks đâu phải lính mới. Khi tôi nhìn thấy cô lần đầu tiên, trong phòng của Lincoln Rhyme.”
Sachs không nói gì. Cô nâng chiếc kích ra khỏi khoang động cơ và đặt nó lên một chiếc bàn, lơ đễnh quay cho nó xếp gọn lại như cũ.
Ba phụ tùng kim loại ăn khớp gọn gàng vào vị trí quanh động cơ và Percey múa chiếc tuốc nơ vít trên tay mình như một nhạc trưởng huơ cây đũa chỉ huy. Hai bàn tay cô thật sự kỳ diệu. Cuối cùng cô nói, “Chuyện là về anh ấy, đúng không?”.
“Ai cơ?”
“Cô biết ý tôi nói đến ai mà. Lincoln Rhyme.”
“Chị nghĩ là tôi đang ghen à?”, Sachs phá lên cười.
“Đúng, tôi nghĩ thế đấy.”
“Thật lố bịch.”
“Giữa hai người không chỉ là công việc đơn thuần. Tôi nghĩ cô đang yêu anh ấy.”
“Tất nhiên là không có chuyện đó rồi. Thật điên rồ.”
Percey khẽ liếc nhìn cô với vẻ đầy hiểu biết rồi thận trọng bện những đoạn dây điện thừa lại thành một bó rồi cuộn chúng vào hốc trống trong buồng động cơ. “Tất cả những gì cô thấy chẳng qua chỉ là sự ngưỡng mộ tài năng của anh ấy thôi, đơn giản chỉ có vậy.” Cô trỏ một bàn tay lấm lem dầu mỡ vào chính mình. “Thôi nào, Amelia, hãy nhìn tôi đi. Tôi sẽ chỉ là một người tình tệ hại thôi. Tôi lùn tịt, tôi lại còn kiêu ngạo, tôi không hề ưa nhìn chút nào.”
“Nhưng chị…”, Sachs định nói.
Nhưng Percey đã cắt ngang lời cô. “Câu chuyện vịt con xấu xí? Cô biết chứ, về một con vịt mà ai cũng cho là xấu cho đến khi hóa ra nó là một con thiên nga? Tôi đọc câu chuyện đó cả triệu lần hồi tôi còn bé. Nhưng tôi không bao giờ trở thành một con thiên nga. Có chăng là tôi học được cách bay như nó”, cô nói với một nụ cười lạnh lùng, “nhưng dù sao thì vẫn khác”. “Vả lại”, Percey nói tiếp, “tôi là một bà góa rồi. Tôi vừa mới mất chồng. Tôi hoàn toàn không quan tâm tới bất kỳ ai khác”.
“Tôi xin lỗi”, Sachs khẽ khàng nói, cảm thấy bất đắc dĩ bị cuốn vào cuộc trò chuyện này, “nhưng dù sao tôi cũng phải nói rằng… chậc, trông chị không thực sự có vẻ gì là đang thương tiếc anh ấy cả.”
“Tại sao thế? Bởi vì tôi đang cố hết sức để duy trì hoạt động cho Công ty của mình sao?”
“Không, còn hơn thế nữa”, Sachs thận trọng trả lời. “Đúng không?”
Percey chăm chú nhìn vẻ mặt Sachs. “Ed và tôi gắn bó với nhau đến mức thật khó mà tin nổi. Chúng tôi không chỉ là vợ chồng mà còn là bạn bè và đối tác kinh doanh… Vậy mà đúng là anh ấy đã đi lại với người khác.”
Ánh mắt Sachs khẽ đảo rất nhanh về phía khu văn phòng của Hudson Air.
“Đúng thế thật”, Percey nói. “Đó là Lauren. Hôm qua cô cũng gặp cô ấy rồi đấy.”
Cô nàng tóc đen đã khóc đến sưng húp cả mắt.
“Chuyện đó làm tôi tan nát cõi lòng. Mẹ kiếp, cả Ed cũng đau khổ không kém. Anh ấy yêu tôi nhưng anh ấy cũng cần cô người tình xinh đẹp của mình. Bao giờ cũng cần. Và, cô biết đấy, nhiều khi tôi nghĩ họ còn đau khổ hơn tôi. Vì sau đó bao giờ anh ấy cũng quay về nhà với tôi”. Cô ngừng lại một lát và cố ngăn những dòng nước mắt trào ra. “Đó mới là tình yêu, tôi nghĩ thế. Quan trọng là anh ấy về nhà với ai.”
“Còn chị thì sao?”
“Tôi có chung thủy không ấy à?”, Percey hỏi. Cô lại bật lên một tiếng cười khan cay đắng – tiếng cười của một người ý thức sâu sắc về bản thân mình nhưng không phải lúc nào cũng thích thú với những gì trong đó. “Tôi cũng không có nhiều cơ hội. Tôi hoàn toàn không phải mẫu phụ nữ vẫn bị trêu chọc khi đi trên phố.” Cô lơ đãng kiểm tra một chiếc cờ lê ống. “Nhưng rồi, đúng thật, sau khi tôi phát hiện ra chuyện về Ed và những cô bồ của anh ấy, cách đây một vài năm, tôi tưởng mình phát điên. Thật là đau đớn khủng khiếp. Tôi cũng đi lại với một vài người đàn ông khác. Ron và tôi – Ron Talbot – cũng có thời gian đi lại với nhau, vài tháng gì đó.” Cô mỉm cười. “Thậm chí anh ấy còn cầu hôn tôi nữa chứ. Và bảo rằng tôi xứng đáng có một người chồng tốt hơn Ed. Tôi cũng nghĩ là đúng thế thật. Nhưng cho dù cho nhiều người phụ nữ khác trong đời đi nữa, Ed vẫn là người đàn ông mà tôi cần ở bên cạnh. Điều đó không bao giờ thay đổi.”
Trong giây lát ánh mắt của Percey như đang dõi về hướng xa xăm nào đó. “Chúng tôi gặp nhau hồi còn trong Hải quân, Ed và tôi. Cả hai cùng là phi công chiến đấu. Khi anh ấy cầu hôn tôi… Cô biết không, cách cầu hôn theo truyền thống trong quân đội là khi cô nói, “Em có muốn trở thành người phụ thuộc vào anh không?” Một kiểu nói đùa ấy. Nhưng cả hai chúng tôi khi ấy đều đang mang quân hàm thiếu úy, nên Ed nói, “Em và anh, chúng ta hãy cùng trở thành những người phụ thuộc vào nhau”. Anh ấy muốn kiếm cho tôi một chiếc nhẫn nhưng cha tôi đã tuyên bố từ tôi...”
“Từ thật sao?”
“Ừ, thật như phim ấy chứ, nhưng lúc này tôi không muốn đi sâu vào chuyện đó làm gì. Lại nói, Ed và tôi đang dành dụm từng xu một để mở công ty bay dịch vụ của riêng mình sau khi chúng tôi cùng quyết định giải ngũ và chúng tôi hoàn toàn không có đồng nào trong túi. Nhưng một đêm anh ấy bảo, “Hãy bay lên trên kia một lát”. Thế là chúng tôi mượn một chiếc Norseman cổ lỗ sĩ mà họ vứt lăn vứt lăn lóc trên sân bay. Một loại máy bay rất khó nhằn. Động cơ xoay vòng to đùng được làm mát bằng không khí… Cô có thể làm bất kỳ điều gì với chiếc máy bay đó. Hừm, lần ấy tôi ngồi ghế chính bên tay trái. Tôi đã cất cánh xong và đưa máy bay lên cao khoảng 6000 feet gì đó. Đột nhiên anh ấy hôn tôi và giằng lấy cần lái, có nghĩa là anh ấy giành quyền chỉ huy. Tôi để mặc anh ấy làm. Rồi anh ấy nói, “Cuối cùng anh cũng kiếm cho em một viên kim cương, Perce”.”
“Anh ấy mua được thật sao?”, Sachs hỏi.
Percey mỉm cười. “Anh ấy tăng tốc, thẳng một mạch đến hết cỡ thì thôi, rồi kéo giật cần lái lại. Mũi máy bay chúc thẳng lên trên trời.” Lúc này nước mắt đã giàn giụa lăn trên má Percey. “Trong một khoảng thời gian ngắn, trước khi anh ấy đạp bánh lại và chúng tôi bắt đầu chúc mũi xuống và ra khỏi trạng thái bay tròng trành, chúng tôi đã nhìn thẳng lên bầu trời đêm. Anh ấy ghé sát vào tôi và nói, “Em cứ việc chọn đi. Tất cả những vì sao đêm – em có thể chọn bất cứ ngôi sao nào em muốn”.” Percey cúi đầu xuống, hơi thở của cô như ngừng lại. Tất cả những vì sao đêm…
Một lát sau cô giơ ống tay áo lên lau mắt, rồi quay lại với động cơ. “Tin tôi đi, cô chẳng có điều gì để lo lắng cả. Lincoln là một người đàn ông thật quyến rũ, nhưng Ed là tất cả những gì tôi từng muốn.”
“Còn nhiều chuyện mà chị không biết đâu.” Sachs thở dài. “Chị làm anh ấy nhớ đến một người khác. Một người anh ấy đã từng yêu. Chị xuất hiện trong chốc lát và bỗng nhiên anh ấy có cảm giác lại được ở bên người cũ.”
Percey nhún vai. “Chúng tôi có một số điểm chung. Chúng tôi hiểu và thông cảm cho nhau. Nhưng thế thì sao chứ? Điều đó cũng chẳng có ý nghĩa gì hết. Mở mắt ra đi, Amelia. Rhyme yêu cô.”
Sachs phá lên cười. “Ồ, tôi không nghĩ thế đâu.”
Percey lại chăm chú nhìn cô hồi lâu như muốn nói, Kệ cô có nói gì đi nữa... rồi bắt đầu đặt lại những thiết bị vào trong hộp, cẩn thận và tỉ mẩn sau khi cô đã dùng xong những dụng cụ và chiếc máy tính.
Roland Bell thong thả bước vào trong, kiểm tra các ô cửa sổ và lia mắt khắp những khu vực khuất bóng.
“Tất cả vẫn bình thường chứ?”, anh hỏi.
“Không thấy động tĩnh gì.”
“Tôi có thông báo này cần chuyển lại cho cô đây. Tay chuyển hàng của Tập đoàn U.S. Medical vừa rời khỏi Bệnh viện Westchester. Chuyến hàng sẽ tới đây trong vòng một giờ nữa. Tôi đã bố trí một chiếc xe chở người của mình đi sau họ để đề phòng cho chắc ăn. Nhưng đừng lo là việc đó sẽ khiến họ lo lắng và ảnh hưởng xấu đến công việc làm ăn – người của tôi bám theo rất kín đáo. Tay lái xe sẽ không bao giờ biết là anh ta được theo dõi đâu.”
Percey xem đồng hồ. “Được rồi.” Cô liếc nhìn Bell, anh này đang há hốc miệng nhìn khoang động cơ mở toang với ánh mắt bối rối, như một con rắn nhìn con chồn. Cô hỏi, “Hình như chúng ta sẽ không cần người trông trẻ trong chuyến bay, đúng không nhỉ?”.
Bell thở dài nghe đánh thượt một cái. “Sau những gì xảy ra ở ngôi nhà an toàn”, anh nói bằng một giọng trầm trầm, nghiêm trọng, “tôi sẽ không bao giờ để cô rời khỏi mắt mình”. Anh lắc đầu và, với bộ dạng như người đã say máy bay sẵn, bước ra phía cửa trước rồi biến mất vào trong bầu trời chiều lạnh lẽo đang nhập nhoạng tối.
Percey thò đầu vào hẳn bên trong khoang động cơ, cẩn thận kiểm tra công việc của mình, giọng cô vọng ra nghe oang oang, “Cứ nhìn Rhyme rồi lại nhìn cô, tôi phải công nhận là khả năng của những gì tôi vừa nói cũng chỉ là 50:50”. Cô quay đầu ra và liếc xuống nhìn Sachs. “Nhưng cô biết đấy, cách đây lâu lắm rồi tôi biết một huấn luyện viên dạy bay.”
“Và?”
“Mỗi lần chúng tôi tập với loại máy bay nhiều động cơ ông ấy lại chơi cái trò giảm dần một động cơ cho đến khi nó gần như tắt hẳn, những cánh quạt chỉ còn quay theo quán tính, sau đó ra lệnh cho chúng tôi hạ cánh. Rất nhiều huấn luyện viên vẫn tắt động cơ trong vài phút, khi máy bay đã ở độ cao nhất định, chỉ để kiểm tra xem học viên sẽ xử lý như thế nào. Nhưng bao giờ họ cũng cho tăng tốc trở lại trước khi hạ cánh. Nhưng ông huấn luyện viên này, thì ừ hứ. Ông ấy bắt chúng tôi phải hạ cánh với một động cơ thôi. Các học viên bao giờ cũng băn khoăn, “Chẳng phải như thế sẽ rất rủi ro sao?”. Câu trả lời của ông ấy là, “Chúa không tạo ra điều gì chắc chắn cả. Nhiều khi chúng ta phải chấp nhận chơi trò năm ăn năm thua”.”
Percey đóng nắp buồng động cơ lại và cài chốt vào vị trí thật chắc chắn. “Đươc rồi, tất cả đã xong xuôi. Giờ thì chiếc máy bay chết tiệt này có thể bay thực sự.” Cô vỗ mạnh lên lớp thép bóng loáng giống hệt một cô nàng cao bồi đang vỗ lên lưng con bò trong trò rodeo[100].
Chú thích
[100]Trò chơi phổ biến ở Mỹ, thường là dưới hình thức thi thố những kỹ năng chăn bò như cưỡi bò dữ, quăng thòng lọng...