Biệt đảo
1
Anh đã từng nghĩ đến chuyện bỏ nghề dạy học. Anh chán ngấy tất cả, hết năm này đến năm khác, năm nào cũng có một lịch trình như thế; đơn giản là anh chẳng đi đến đâu trong đời. Niềm thôi thúc bỏ nghề trở nên đặc biệt mạnh mẽ vào tháng Năm này. Nhưng rồi khi anh nhận được tiền thưởng và kỳ nghỉ hè lại vẫy gọi, chúng xui khiến anh nghĩ rằng xét cho cùng nghề giáo viên cũng không đến nỗi tồi tệ lắm. Anh chuẩn bị tinh thần cố thử làm nghề này thêm một thời gian nữa. Năm ngoái cũng thế: anh suýt nữa đã bỏ việc vào tháng Năm, chỉ để cuối cùng nghĩ lại, quyết đinh lùi lại đến tháng Bảy cho thư thả. Kỳ nghỉ hè không những đem lại lợi ích cho học sinh, nó còn giống như một thứ phụ cấp bổ sung cho giáo viên, những người mà nếu không có nó thì có lẽ đã bỏ hết đi tìm việc khác. Anh hoàn toàn chắc chắn rằng nếu không có kỳ nghỉ hè, anh cũng đã sớm bỏ nghề từ nhiều năm trước rồi.
Kensuke Suehiro nghĩ đi nghĩ lại tất cả những chuyện này trong đầu khi anh bước ra hành lang sau tiết cuối của mình trong buổi chiều. Anh đã dạy học từ tám hay chín năm trước, ngay sau khi tốt nghiệp một trong những trường đại học quốc gia ở Tokyo. Trường đại học đó trước đây là từng là một ‘trường sư phạm’, điều này có lẽ giải thích cho dự định theo đuổi nghề này của nhiều bạn cùng lớp anh. Còn đối với Kensuke, thì anh đã bị dòng chảy chung cuốn đi và cuối cùng, nhận ra chính mình đang làm nghề dạy học trước cả khi kịp ý thức về nó.
Khi chất đống vở lên bàng của mình trong phòng giáo viên, anh để ý thấy một mẩu giấy nhắc việc viết tay: “Anh có điện thoại của ông Sasaki gợi từ trường cấp hai Josei.”
Chỉ cần đọc thấy từ “Ông Sasaki” là những kỷ niệm thân thương lại trào lên. Sasaki là người rất quan trọng với Kensuke. Ông là người thầy và người cố vấn mà Kensuke rất kính trọng. Sasaki từng là trưởng khối bảy trường cấp hai mà Kensuke được phân về dạy hồi mới ra trường. Trường đó ở Tokyo, và Sasaki, cũng như Kensuke, đều dạy khoa học. Kensuke không những đã học được rất nhiều từ Sasaki về khoa học tự nhiên nói chung mà còn được ông ủng hộ và giúp đỡ theo nhiều cách, cả về chuyện riêng tư lẫn chuyên môn. Sasaki có một phương pháp giảng dạy đặc biệt độc đáo. Thay vì làm học sinh mệt đầu bằng các kiến thức buộc phải chấp nhận, ông cố khơi gọi khả năng tiềm tàng của chúng bằng cách để chúng tự trải nhiệm các hiện tượng tự nhiên. Một số trong các hoạt động này bao gồm đưa học sinh đi dã ngoại tới vùng đầm lầy đồi núi để bắt bươm bướm hay cùng chúng thức suốt đêm chờ xem sao chổi. Chỉ đến khi họ không còn là đồng nghiệp nữa đam mê dạy học của Kensuke mới bắt đầu tàn lụi. Sasaki, và cả phương pháp dạy học đặc biệt của mình, đã chuyển sang trường khác. Riêng chuyện này thôi đã đủ hủy hoại động lực của Kensuke. Sự chuyển đổi này xảy ra năm năm về trước, và trong vài năm qua mối quan hệ giữa họ dần trở về mức chẳng có gì hơn ngoài sự trao đổi các thiệp mừng năm mới thông thường. Và chẳng có gì khiến Kensuke vui hơn là biết được Sasaki gọi cho mình.
Kensuke vội gọi ngay tới trường cấp hai Josei xin gặp hiệu trưởng. Sasaki mới nhận chức này trong đợt tái cơ cấu nhân sự thường niên diễn ra hồi mùa xuân. “Tôi là Kensuke Suehiro. Tôi muốn…” Khi Kensuke nói tên mình, giọng nói ở đầu dây bên kia thân mật đáp lại, “Này, tôi đây mà.” Có thể Sasaki đã trở thành hiệu trưởng, nhưng Kensuke thấy nhẹ cả người khi nghe kiểu nói của người thầy cũ vẫn y sì như thế.
“Xin thứ lỗi cho tôi vì đã im lặng quá lâu,” Kensuke xin lỗi người tiền bối, tự nhiên cúi xuống dù anh chỉ đang nói chuyện qua điện thoại.
“Xin lỗi đã gọi đúng lúc anh đang có giờ. Chuyện này chưa từng xảy ra trước đây, nhưng tôi đã đánh mất sự nhạy cảm từ khi thành hiệu trưởng. Có lớp để dạy thực sự vui hơn rất nhiều.”
Nhận xét này chắc chắn là chân thành. Sasaki là loại giáo viên thích hợp ở trong phòng học hơn là trên bậc thang sự nhiệp. Kensuke ước gì anh được chuyển tới Josei để có thể làm việc dưới quyền một hiệu trưởng như Sasaki. Một ông sếp như Sasaki sẽ làm nhẹ gánh rất nhiều áp lực công việc.
“Này, nói xem cậu thấy Daiba 6 thế nào?” Sasaki lơ đãng hỏi, thả vào lời nói chút đùa cợt.
“Daiba 6? Ý anh là…”
“Phải, cái Daiba 6 đó, cái bên dưới cầu Cầu vồng ấy… hòn đảo ma ấy.”
Kensuke không thốt nên lời. Anh không khó có thể tưởng tượng rằng Sasaki đã gọi để rủ rê anh đến một hòn đảo nhân tạo không người trong vịnh Tokyo, một hòn đảo mang ý nghĩ đặc biệt to lớn với Kensuke suốt chín năm qua.
“Chúng ta sẽ đến đó bằng cách nào chứ?” giọng Kensuke bối rối.
“Cứ để tôi lo.”
“Tôi nghĩ rồi anh sẽ nhận ra là hòn đảo đó bị cấm vào.”
Sasaki thấp giọng xuống thì thầm. “Chúng ra sẽ bơi đến đó lúc nửa đêm, không ai khôn ngoan hơn thế đâu. Có nghĩ là mình bơi được đến đó không hả?”
Chính quyền thành phố Tokyo đã cấm người dân lên đảo Daiba 6, coi đó là một biện pháp nhằm bảo tồn tài sản văn hóa.
“Điều này khó có thể là lời đề nghị người ta mong được nghe từ một hiệu trưởng. Dù gì thì anh cũng là một nhân vật khả kinh trong cộng đồng mà.”
“Nhân vật khả kính!” Sasaki cười phá lên. “Cậu biết tấn công đúng điểm yếu của người khác đấy. Nhưng mà, nghĩ lại thì, cậu chẳng táo gan đến thế, đúng không? Chẳng lẽ cậu thực sự trông đợi một trụ cột của cộng đồng như tôi lại bí mật ra bờ biển rồi vi phạm luật pháp sao? Tôi nói về một nghiên cứu thực địa, được chưa, một nghiên cứu thực địa.”
“Nghiên cứu thực địa…”
“Phải, chính quyền khu Minato đã đề nghị tôi chủ trì một nghiên cứu thực địa.”
Sasaki tiếp tục giải thích chuyện gì đã xảy ra. Ông đã nhận được yêu cầu từ một ủy ban đặc biệt trực thuộc Hội đồng Khu muốn ông tiến hành nghiên cứu về thực trạng đảo Daiba 6 – về hệ động thực vật, đất đai, những thứ như kiểu như vậy. Giọng ông có chút tự hào khi kể mọi chuyện đã đến như thế nào. Nếu ông giải thích mọi chuyện cho Kensuke ngay từ đầu thì đã giúp ích bao nhiêu và tránh được nhiều nhầm lẫn. Cho dù các quan chức thành phố và thành viên Hội đồng Khu cũng tham gia nhóm nghiên cứu, nhưng hiển nhiên là vẫn có chỗ cho người khác nữa, và thành phố đang tìm ai đó có chuyên môn nhất định về khoa học tự nhiên.
Phong cách của Sasaki không bao giờ thay đổi. Ông cần phải khiến người khác ngạc nhiên trước, rồi sau đó mới nõi rõ chuyện.
“Khi nào tiến hành nghiên cứu?” Chưa gì Kensuke đã hỏi về lịch trình rồi.
“Tôi có thể xem câu này nghĩa là cậu đồng ý chơi không?”
“Tất nhiên rồi. Có đổi cả thế giới tôi cũng không bỏ lỡ cơ hội này.”
Giờ thì Kensuke không chỉ có cơ hội đến đảo Daiba 6 mà còn được đến đó một cách hợp pháp. Tất cả những gì anh cần là bám càng nhóm nghiên cứu. Giờ thì chắc chắn anh sẽ phát hiện ra. Khoảnh khắc khi anh đặt chân lên đảo, tạo vật quyến rũ từng hằn sâu trong tâm trí anh suốt chín năm qua hiển nhiên sẽ tan thành mây khói.
Khi Sasaki nói cho anh thông tin chi tiết về ngày giờ và địa điểm cuộc khảo sát bắt đầu, Kensuke cúi người thật thấp rồi nói vào máy điện thoại, “Tôi rất biết ơn anh đã cho tôi cơ hội này.”
Câu đáp của Sasaki trước lời cảm ơn này thật khó giải mã: “Ừ, cố hết sức nhé.”
2
Sinh vật đẹp mê hồn đã đến cư ngụ ở đảo Daiba 6 là một bóng ma tên là Yukari Nakazawa. Cô là một bóng ma, nhưng không phảo là bóng ma chỉ tồn tại trong lãnh địa tâm linh. Kensuke tin rằng cô còn sống và khỏe mạnh ở đâu đó ngoài đảo Daiba 6; và anh hy vọng rằng mình không lầm.
Lần đầu tiên anh gặp cô cũng vào khoảng thời gian này chín năm về trước. Hồi đó anh đang học năm thứ tư đại học và kỳ nghỉ hè chỉ vừa mới bắt đầu. Nếu không phải vì tiếng còi ô tô đó, hẳn anh sẽ không bao giờ biết rằng cô tồn tại. Cho đến tận khoảnh khăc đó, anh vẫn tưởng đó là Toshihiro Aso đến chỗ anh một mình.
Kensuke và Aso là bạn cùng lớp cả cấp một lẫn cấp hai. Cả hai đều học tại một trường tư danh tiếng đảm bảo cho con đường vào đại học rộng mở. Tuy nhiên, đến khi lên cấp ba, Kensuke cảm thấy không tài nào xoay xở nổi với các quan điểm truyền thống của một trường trung học tư nên đã chuyện sang một trường công lập. Trái lại với Kensuke, một người khép kín và rụt rè, Aso không những trở thành đội trưởng đội bóng bầu dục mà còn trở thành một trong những ngôi sao của trường về thành tích học tập. Đúng như ước mơ từ thời thơ ấu, Aso đỗ vào khoa y của trường đại học anh theo đuổi. Dù rằng việc học hai trường cấp ba khác nhau khiến họ đi theo hai con đường riêng biệt, nhưng hai người vẫn tiếp tục là bạn thân trong hơn mười năm. Bất chấp sự khác biệt hoàn toàn mà ai cũng thấy, người hùng của trường và kẻ bỏ dở giữa chừng vẫn hợp nhau một cách đáng kinh ngạc.
Tối hôm đó, Aso bất ngờ rẽ qua căn hộ nhỏ của Kensuke ở Azabu. Lúc đó đã hơn chín giờ mà Aso còn đem đến một két bia và rủ Kensuke uống cùng. Trong vòng chưa đây một giờ, hai người bọn họ đã uống hết hơn mười hai lon. Aso uống nhanh đến mức phải ngật ngưỡng đi ra toilet hết lần này đến lần khác đển xả bớt. Tửu lượng của anh rất khác và không phải hạng người uống bia mà say được, nhưng, sau khi nốc một lượng bia nhất định, có vẻ như anh cần vào toilet mỗi lúc một nhiều lần hơn để xả bớt bàng quang. Dòng thác nhỏ từ anh đổ xuống cái bồn cầu, anh ồ ồ cho nó ra như thể cố tình làm nó phát ra tiếng động ầm í vậy. Xong xuôi, anh còn nán lại đó một lát trước khi giật nước. Chính vào một trong những khoảnh khắc im lặng ngắn ngủi giữa buổi nhậu ấy, Kensuke đã nghe thấy tiếng còi xe. Không thể cưỡng nổi nỗi tò mò xem tiếng còi xe ấy phát ra từ đâu, anh ra ban công nhìn xuống con đường một chiều bên dưới.
Dù đang đứng ở tầng bốn, Kensuke cũng nhận ra ngay có người đang nhằm vào chiếc BMW của Aso mà bấm còi ing ỏi. Chiếc BMW đang đỗ ngay cạnh lề đường khiến một chiếc mười hai chỗ không sao rẽ đường được. Aso sẽ phải xuống đó đưa xe ra chỗ khác. Nhưng trước khi cả ý nghĩ này lóe lên trong đầu anh, Kensuke đã thấy chiếc BMW bắt đầu lùi lại. Cái xe làm sao mà tự di chuyển được. Phải có ai đó ở bên trong. Khi Aso ra khỏi toilet, Kensuke liền hỏi xem có chuyện gì.
“Cậu để ai đó dưới xe à?”
“Ha! Không cần lo đâu.”
“Sao cậu không cho xe vào gara nhà tớ rồi gọi bạn cậu lên đây?”
Khi ngôi nhà cũ đến lúc phải xây lại, bố mẹ Kensuke đã xây tòa chung cư trên cùng khu đất để thay thế nó. Gia đình anh lấy toàn bộ tầng và cho thuê ba tầng còn lại. Dù dưới tầng một cũng có phòng chi Kensuke nhưng anh thích sống một mình hơn, vậy nên bố mẹ cho phép anh lấy một căn hộ một phòng ở tầng trên cùng. Bố mẹ anh có chỗ đỗ xe riêng trong khu vườn của họ. Nó đủ chỗ cho ít nhất hai chiếc xe con. Khéo léo một chút thì có cũng có thể cố nhét cái thứ ba vào đó. Thật không cần thiết phải bắt ai đó ngồi đợi trong cái xe đỗ bên lề đường kia.
Không đợi Aso đồng ý, Kensuke xuống nhà đánh gọn hai chiếc xe của bố mẹ để lấy chỗ cho chiếc BMW. Sau đó anh bước lại gần chiếc BMW và gõ kính chắn gió, ra hiệu cho người lái ngồi bên trong đỗ vào chỗ thừa ra. Trên ghế lái là một phụ nữ có nước da trắng xanh và mái tóc dài.
Chuyện này không khiến Kensuke ngạc nhiên lắm. Aso hay ghế qua kiểu này, bỏ lại một cô gái trong xe. Nhưng chưa bao giờ quá nửa tiếng cả. Thường thì, anh sẽ ghé qua rồi đi ngay sau đó vì anh còn để lại người này người khác dưới xe. Tuy nhiên, đêm đó Aso lại để cô gái trong xe đợi tới hơn một tiếng liền. Theo Kensuke được biết thì đó là khoảng thời gian dài nhất mà Aso dám để một cô gái đợi.
“Thật xin lỗi cô quá,” Kensuke thay mặt người bạn vô tâm xin lỗi cô gái. Anh muốn cô biết rằng nếu anh để ý thấy sớm hơn thì cô sẽ không bị bỏ lại một mình quá lâu như thế.. “Aso không hề nhắc rằng có cô đang đợi dưới này,” anh nói.
Trân trân nhìn vào bảng đồng hồ, cô chỉ lắc đầu như thể ngượng ngùng.
“Sao cô không lên nhập hội với bọn tôi?”
Cho dù không chắc Aso sẽ phản ứng thế nào, Kensuke vẫn nghĩ nên mời cô gái đó lên nhà thì hơn. Cô gái gật đầu và bước ra khỏi xe. Khi tự giới thiệu, giọng cô hơi ngọng một chút:
“Tôi là Yukari Nakazawa.”
Khi họ đi dọc lối đi rồi vào trong thang máy, Kensuke không thể thôi nhìn cô gái, cái cô Yukari Nakazawa đó. Hồi trước Aso từng giới thiệu Kensuke với rất nhiều các cô bạn gái, nhưng Yukari khác hẳn tất cả bọn họ. Đầu tiên và trước hết, cô chẳng hề lộng lẫy. Cơ thể nhỏ nhắn của cô khá cân đối, nhưng nhan sắc cô chỉ ở mức bình thường, cô bước đi với đôi mắt luôn cụp xuống và vẻ ủ rũ khủng khiếp. Cái xắc đỏ cô kẹp dưới nách mình trông trẻ con đến mức một cô bé cấp ba đeo nó cũng thấy xấu hổ. Trang phục trông có vẻ rẻ tiền của cô rõ ràng là được chọn từ một cuốn cataloge rồi đặt hàng qua thư. Nhưng bên dưới chiếc váy ngắn lộ ra đôi chân duyên dáng thanh mảnh, thon thả đến tận mắt cá chân mạnh mẽ và rắc chắc. Kensuke thấy khó mà không dán mắt vào đôi chân trần ấy. Sự hấp dẫn của cô tụ lại ở đôi chân.
Aso rõ ràng là không hài lòng khi Kensuke quay lên căn hộ cùng Yukari. Phật ý, anh khăng khăng rằng họ cần phải đi ngay lập tức. Kensuke dỗ dành Aso, tránh không đụng chạm tới Aso để khiến tâm trạng anh bạn khá hơn và nài nỉ cả hai ở lại uống thêm chút nữa. Tình hình có vẻ sáng sủa hơn với Kensuke vì ba người bắt đầu nói chuyện với nhau. Trước đó Aso đã muốn tránh giới thiệu Yukari với Kensuke. Khó có thể phủ nhận là cô không so được với những cô bạn gái trước đây của Aso. Hẳn là vì thế rồi. Thực tế là Aso còn mất bình tĩnh, có lẽ vì cảm thấy lo sợ bị chỉ trích, đã bắt đầu xúc phạm Yukari.
“Cô gái này chẳng học hành đến đâu mà giới thiệu bằng cấp, ông bạn ạ. Cô ta thậm chí còn không học nổi cho hết phổ thông.”
“Tớ biết là cô ta sẽ chẳng thể nào tham gia câu chuyện của chúng ta. Cô ta ngu ngốc lắm, mọi thứ cứ trôi tuồn tuột qua đầu thôi.”
“Cứ như thế còn chưa đủ tệ, cô ta còn lên đây cùng một cái đạo quái gở nào đấy.”
“Tớ không thể giới thiệu cô ta với mọi người được, đúng không?”
Cho dù Aso xử tệ với cô ra sao, Yukara cũng chỉ hơi trễ miệng xuống một chút, và trong có vẻ sầu não thôi chứ không có dấu hiệu gì của sự giận dữ. Cô sẽ đợi hàng giờ trong cái xa đỗ sai luật ấy nếu được bảo cứ ở nguyên đó. Những người phụ nữ trao đi sự phục tùng và trung thành để đổi lại sứ bạo hành tinh thần là một hiện tượng đang ngày càng trở nên hiếm hoi. Cả đời Kensuke cũng không thể hiểu nổi tại sao Aso lại hèn hò với Yukari. Chắc chắn chẳng có lý do gì để ở bên cô nếu anh định sỉ vả cô gái tội nghiệp này. Yukari cũng vậy, chắc chắn cô cũng có thể tìm được ai đó hợp hơn Aso.
Chẳng mấy chốc cái viễn cải Kensuke mong đợi về một cuộc nói chuyện dễ chịu giữa ba người bạn đã được chứng minh là không thể tồn tại. Aso càng uống càng thốt ra nhiều lời khắc nghiệp đổ lên đầu Yukari. Không thể chịu nổi sự hành hạ này thêm nữa, Kensuke tuyên bố buổi tiệc đã đến lúc tàn. Anh không tưởng tượng nổi mình đã làm thế: yêu cầu Aso về.
Kensuke tiễn họ xuống tận xe. Aso có vẻ như đã say lắm rồi, vì thế Kesuke định đặt anh ở chỗ cạnh ghế cho lái xe. Yukari biết lái xe. Nhưng Asp kiên quyết đòi lái, và đòi một lon cà phê. Kensuke chạy đến máy bán hàng tự động gần đó mua về vài lon cà phê lạnh. Anh đưa cho Yukari trước, cô đáp lại bằng cách lấy danh thiếp từ túi ra đưa cho Kensuke.
“Đi đâu quanh đó anh đừng ngại ghé chơi nhé.”
Việc này không qua khỏi mắt Aso.
“Con khốn ngu ngốc!” anh trở nên giận dữ, giật tay cô sang một bên, làm danh thiếp của cô bay xuống đất. Rồi Aso tóm lấy cổ tay cô bẻ quặt ra sau lưng, dúi đầu cô xuống. “Cậu ấy là bạn tốt của tôi đấy. Cô đừng có dụ giỗ nó đến bất cứ chỗ nào dơ dáy, hiểu chưa?”
Yukari khẽ kêu lên vì đâu và ngồi thụp xuống capo xe. Aso không buồn ra đỡ cô dậy mà nhảy ngay vào ghế lái và nổ máy. T trước, cô đáp lại bằng cách lấy danh thiếp từ túi ra đưa cho Kensuke.
“Đi đâu quanh đó anh đừng ngại ghé chơi nhé.”
Việc này không qua khỏi mắt Aso.
“Con khốn ngu ngốc!” anh trở nên giận dữ, giật tay cô sang một bên, làm danh thiếp của cô bay xuống đất. Rồi Aso tóm lấy cổ tay cô bẻ quặt ra sau lưng, dúi đầu cô xuống. “Cậu ấy là bạn tốt của tôi đấy. Cô đừng có dụ giỗ nó đến bất cứ chỗ nào dơ dáy, hiểu chưa?”
Yukari khẽ kêu lên vì đâu và ngồi thụp xuống capo xe. Aso không buồn ra đỡ cô dậy mà nhảy ngay vào ghế lái và nổ máy. Sửa lại trang phục, Yukari đi vòng qua trước xe và ngồi vào ghế bên cạnh.
“Gặp lại cậu sớm.”
Aso hướng nụ cười tươi về phía Kensuke đang đứng một mình, rồi lập tức lái xe vọt đi.
Ngay khi chiếc xe khuất tầm nhìn, Kensuke bắt đầu lia mắt khắp con đường để tìm tấm danh thiếp Yukari đã cố đưa cho anh. Chẳng mấy chốc anh đã thấy nõ giữa mấy bụi cây trong vườn. Anh đọc chữ ghi trên danh thiếp dưới ánh đèn đường. Bên dưới tên một tổ chức tôn giáo mà anh chưa nghe đến bao giờ, Kensuke đọc thấy thên Yukari, dưới nữa là địa chỉ và số điện thoại. Cũng không rõ là địa chỉ và số điện thoại đấy là của tổ chức tôn giáo kia hay của Yukari nữa. Kensuke đút tấm danh thiếp vào túi rồi trở lại căn hộ. Cả đêm hôm ấy, không hiểu sao anh không ngăn nổi mình cảm thấy phấn khích.
3
Đó rõ ràng là lần gặp gỡ duy nhất với Yukari Nakazawa của anh. Nhưng cô đã trở thành bóng ma cứ trú trong trái tim anh. Tất cả là lỗi của Aso. Nếu Aso chưa từng nói ra điều đó, Kensuke đã để cho hình ảnh dai dẳng đến khó tin đó cứ thế trôi đi.
Hồi đó là cuối tháng Tám, gần hai tháng sau lần đầu tiên anh gặp Yukari. Aso gọi anh cũng gọi anh vào cái giờ như lần trước, nhưng lần này chỉ đến một mình – Kensuke nhất định phải làm rõ điều này trước khi để Aso bước qua cửa.
“Cậu đến một mình chứ?”
Aso gật đầu nghiêm nghị. “Giờ thì vào được chưa?” anh dịu giọng.
Kensuke có ấn tượng rằng Aso đến bởi vì có điều gì đó thúc bách đến mức anh muốn nói chuyện. Giờ nghĩ lại, có lẽ lần trước Aso đến cũng là để nói chuyện này. Suy nghĩ của Kensuke quay về buổi tối hai tháng trước đó, và, muộn màng hiểu ra rằng có vẻ như sự xuất hiện của Yukari khiến Aso bất chợt trở nên gắt gỏng như thế không phải bởi anh bị bắt gặp đi với một phụ nữ có phần không đạt tiêu chuẩn của anh về vẻ đẹp của phái nữa, mà bởi sự có mặt của cô ngăn cản anh nói ra những điều trong lòng mình.
Nhưng hóa ra đêm nay Aso không đến để nói chuyện gì đặc biệt, thay vào đó chỉ toàn nói theo sự chỉ đạo của trí tưởng tượng, cùng Kensuke hồi tưởng về tháng ngày thơ ấu.
Sau một giờ chuyện trò, Aso đột ngột tuyên bố, “Tớ phải đi đây,” rồi đứng dậy.
“Cậu làm gì mà vội thế. Ngồi đây chút đã,” Kensuke nài nỉ bạn.
Aso đáp lại bằng một nụ cười chế giễu dành cho chính mình. “Những kỉ niệm như thế chẳng bao giờ hết, nhỉ? Cậu là người duy nhất tớ có thể nói chuyện về thuở đó. Thời gian đó thật tuyệt. Những ngày xưa tốt lành.”
Khi Aso nói, ánh mắt anh trở nên xa xăm, rồi chìm vào một nỗi mê hoặc ngắn ngủi khác của sự hồi tưởng. Cái mùa hè họ cùng nhau trải qua ở Karuizawa ấy… Anh nhớ, tất nhiên rồi, cái lần họ bị lạc trên núi trong khi đi dọc đường ray bỏ hoang của tuyến đường sắt Kusatsu-Karuizawa (nó nối liền hai thị trấn này đến tận năm 1960), cái lần họ đã bụng bảo dạ rằng mình chẳng thể nào còn sống mà về với thế giới văn minh ấy. Đó là trải nghiệm họ đã nhắc đi nhắc lại không biết bao nhiêu lần từ đó đến giờ. Họ lang thang lạc khỏi đường ray trong bóng tôi đang thẫm dần lại, và chẳng biết làm gì khác ngoài ngủ suốt đêm ngoài trời. Kensuke, quá lo lắng, chỉ biết thở than và rên rỉ; Aso cố lên tinh thần cho bạn bằng cách trấn anh rằng họ chỉ cần đợi trời sáng rồi tìm lại đường ray là họ sẽ ổn. Họ đã trải qua một đêm run rẩy sợ hãi. Nhưng giờ thì nhìn lại chuyện đó, đó còn là một đêm đầy hứng khỏi và tràn đầy ý nghĩa không thể nói được bằng lời. Tình bạn của họ đã sâu sắc thêm chính nhờ trải nghiệm chung ấy.
Tối đó giọng Aso rất khác. Đó là lần đầu tiên Kensuke thấy bạn mình đầm mình sâu đến thế, xúc động đến thế trong kỷ niệm thời thơ ấu. Có lẽ để ý thấy nét mặt bối rối hiện ra mỗi lúc một rõ nét trên mặt Kensuke, Aso đột ngột quay lại bản ngã thường ngày của mình, chấm dứt hồi tưởng và nhấc một tay lên ra dấu rằng mình phải đi.
“Tớ phải đi rồi.”
Chỉ đến khi xuống chỗ đỗ xe, khi sắp thấy Aso đi mất, Kensuke mới ướm hỏi, “Dạo này Yukari thế nào?” Anh hỏi không phải để thăm hỏi sức khỏe cô mà chủ yếu là để xem Aso còn gặp cô nữa không.
“Mình biết sao được? Mình đá con khốn đó rồi.”
Câu trả lời chỉ khẳng định lại điều Kensuke đã đoán trước. Mối quan hệ kiểu đó không bao giờ lâu bền được. Không chỉ bởi Yukari hiển nhiên chẳng phải là típ Aso thích; dù là cô có thể chụi được cái kiểu bạo hành ấy trong thời gian dài.
“Tớ lấy làm tiếc.”
Ấn tượng về Yukari vẫn sống động trong tâm trí Kensuke. Vì lý do nào đó, cô mê hoặc anh.
“Muốn biết mình đá nó ở đâu không?” Aso nói khi anh mở cửa chiếc BMW và trèo vào ghế lái.
“Ý cậu là cậu đá cô ấy ở một địa điểm cụ thể à?” Kensuke ngạc nhiên đáp.
Dù sao thì, “đá” chỉ đơn giản là “chia tay” thôi mà. Chẳng ai lại dùng từ đó để chỉ việc đá một cô gái vào cái thùng rác nào cả. Tất nhiên không.
“Mình tìm thấy một địa điểm hoàn hảo. Muốn biết ở đâu không?”
Ánh mắt Aso trở nên khiêu khích. Đó là chuyện đùa chẳng vui chút nào, nhưng Kensuke vẫn quyết định hùa theo một lúc nữa.
“Thế cậu đá ở đâu?”
“Daiba 6.”
Daiba 6… hòn đảo không người ngoài khởi vịnh Tokyo. Sau khi hạm đội Hắc thuyền của Phó đề đốc Perry cập bến, triều đình phong kiến Nhật đã cho xây những đảo như thế này để làm chỗ đặt các khẩu thần công bảo vệ đất nước trước sự tấn công của nước ngoài. Hiện tại chỉ còn hai đảo là Daiba 3 và Daiba 6. Một con đê chắn sóng đang nối đảo Daiba 3 và Công viên bãi biển Odaiba, và chỉ có Daiba 6 vẫn còn là một hòn đảo theo đúng nghĩa của từ này.
Kensuke cười. Daiba 6 không xa khu chôn rác lớn là mấy, hơn nữa, đảo này, vốn được xây dựng để đặt đại pháo, chưa một lần được sử dụng với mục đích đó. Vì thế nó có vẻ là một địa điểm hoàn hảo để đá một cô bạn gái sống lâu hơn sự có ích của chính cô. Kensuke không thể không ngưỡng mộ khiếu hài hước tinh tế của Aso. Anh thật rất, rất biết đùa.
“Ờ ngoài đó nóng lắm. Vào xe đi,” Aso nói, tỏ ý chưa muốn kết thúc câu chuyện. Kensuke vào xe và đóng cửa. Aso thì bật điều hòa và bắt đầu kể câu chuyện của mình. Đó là một bản khai chi tiết và đầy đủ về lý do anh đá Yukari, trên đảo Daiba 6…
Yukari mang thai đứa con của anh. Nhưng cái đạo cô theo lại cấm nạo phá thai. Cô đã ép Aso cưới cô – một cảnh thường thấy. Có đạo hay không cũng thế thôi, những chuyện thế này Kensuke thường nghe Aso kể.
“Đấy là lý do cậu đá cô ấy à?” Kensuke cắt ngang, huých khuỷu tay vào Aso giục anh bạn kể trước đoạn cuối. Nếu cứ đẻ Aso nhẩn nha kể câu chuyện theo nhịp độ của anh, toàn bộ câu chuyện đùa này sẽ trở nên thật một cách quá đà.
“Con khốn ngu ngốc ấy đưa mình xem cái tranh này.”
Aso mở ngăn để găng tay và lôi ra một tờ giấy gập tư. Trên đó vẽ một hình màu. Kensuke nhìn chằm chằm vào thứ đồ trẻ con đó. Nó vẽ nhưng cây xanh sum suê mọc dưới anh nắng mặt trời tô màu vàng óng. Dưới tán cây là những người lớn nằm uể oải, vây quanh là đám trẻ chơi đùa. Chó, mèo, thậm chí cả sử tử khệnh khạng bước đi một cách mãn nguyện giữa cây cối. Nhìn gần hơn vào bức tranh sẽ thấy thiên đường trên mặt đất này có bốn bề là biển. Có lẽ nó ở vùng nhiệt đới; những cây dừa sai trĩu quả. Kensuke ngay lập tức đoán ra tác giả.
“Yukari vẽ à?”
“Ừ, đây rõ ràng là những gì cậu nhận thấy khi những thứ cô ta tin được biểu lộ trên giấy. Yên bình, thanh thản, không bệnh tật hay tuổi già, chỉ có cuộc sống vĩnh cửu. Cậu thấy những thứ này nói lên điều gì?”
Yukari không phải là người biết nói chuyện, và Kensuke có thể hiểu được sao cô ấy thấy dễ dàng diễn đạt ý tưởng mình ôm ấp về một thiên đường trên trái đất bằng một bức tranh hơn là bằng lời.
Kensuke cứ chăm chú nhìn bức vẽ mà không trả lời câu hỏi của Aso. Đằng nào thì đó cũng chẳng phải loại câu hỏi bạn có thể trả lời ngay lập tức.
“Sao chúng ta không tự xây thiên đường của chính mình nhỉ?” Aso đưa tay ôm chặt ngực, nắn giọng véo von nhại lại Yukari một cách lố bịch. Rồi thình lình ghé sát mặt vào Kensuke: “Suốt hai mươi ba năm qua, chưa có gì từng làm mình điên tiết đến thế. Con ngốc đó không có tí tẹo nhận thức rằng khái niệm cứ sống mãi không bao giờ chết của cô ta thảm hại đến mức nào.”
Kensuke bênh Yukari: “Cậu cay nghiệt quá đấy. Quan điểm của mỗi người về mọi thứ là hoàn toàn khác nhau mà.”
“Đừng nói mình thế chứ! Cô nàng còn đổ đống phân lý tưởng của cô ta lên đầu mình.”
“Thế là cậu đến đảo Daiba 6 và đá cô ấy, đúng không?”
“Đúng. Đày cô ta đến một hòn đảo hoang, mình đã làm thế. Mình nghĩ mình đã trừng phạt cô nàng tương xứng với tội lỗi cô ta gây ra, đúng không? Nếu cô ta muốn xây dựng thiên đường, vậy thì cô ta có thể tự xây thứ chết tiệt ấy một mình.”
“Nhưng hòn đảo đó cấm người lai vãng mà, không phải sao?”
“Bọn mình đi xuồng cao su ra đó lúc nửa đêm.”
Yukari không biết rằng đảo Daiba 6 là khu vực cấm người không phận sự và vì thế chẳng băn khoăn chút nào về chuyến phiêu lưu đêm của họ. Họ mang cáo xuồng lên xe, nhưng hầu như chỉ có Yukari bơm hỏi và chèo xuồng tới điểm họ cần đến. Yukari có lẽ sẽ đi theo Aso đến cùng trời cuối đất mà chẳng mảy may nghi ngờ. Khi họ đặt chân lên đảo Daiba, Aso dùng chloroform làm cô bất tỉnh, bỏ mặc cô nằm mê man ở đó còn chính anh thì bỏ đi. Với cái cách tả lại việ bỏ rơi Yukari trên đảo Daiba 6 ấy, Aso biến mọi chuyện nghe có vẻ hết sức đơn giản.
Kensuke vẫn chưa bị thuyết phục lắm. Dù sao thì, cũng chỉ có gần ba trăm mét mặt biển ngăn cách giữa Daiba 6 và Công viên Bãi biển. Đó không phải là một khoảng cách quá xa không thể bơi qua. Ngay cả khi bạn không biết bơi, vẫn có rất nhiều tàu thuyền du lịch đi qua hòn đảo. Tất cả những gì bạn cần làm là đứng lên một bờ đê biển mà hét to lên để người ta nghe thấy. Chắc chắn, anh chỉ ra cho Aso, ra khỏi Daiba 6 cũng dễ như khi lên đó vậy.
“Không hề gì, tớ lấy hết quần áo của cô ta rồi.”
“Ý cậu là cậu để cô ấy trần truồng ở đó à?”
“Nhìn này, tớ biết quá rõ về cô ta. Cô ta thà chết còn hơn bị người khác thấy mình không mặc gì. Cô ta là loại phụ nữ đó đấy.”
Kensuke ngồi ngẩn ra chẳng biết nói gì. Anh không biết toàn bộ câu chuyện giữa Aso và Yukari, nhưng anh biết chắc rằng họ từng có quan hệ tình cảm với nhau, và Aso chắc hẳn từng có tình cảm nhất địn với cô trong khoảng thời gian ấy. Khi nghe Aso nói anh đã lột trần ai đó ra rồi bỏ mặc cô ấy đến chết. Kensuke không cảm thấy như vậy là đúng, ngay cả nói đùa cũng không. Cho dù Aso có nói thật hay không, tả lại một hành động như thế với một người thứ ba đã đủ tàn nhẫn lắm rồi.
Bầu không khí ngột ngạt và Kensuke vẫn lặng im. Lén liếc mắt sang ngang, anh để ý thấy dường như Aso sắp sửa nói điều gì đó nhưng rồi mỗi lần như vậy là nuốt lại từng lời.
“Giờ thì mình nên đi thật rồi,” anh nói. Anh chuyển từ chế độ “Đỗ” sang “Đi” và đưa tay xuống để nhả phanh.
Khi Kensuke mở cửa xe, anh hỏi Aso câu cuối. “Cậu làm như vậy khi nào? Cậu bỏ lại Yukari ở đó lúc nào thế?”
“Chắc là tầm dịp lễ Obon. Cả thành phố vắng tanh, mọi người về quê hết.”
Lễ Obon, khi tổ tiên chúng ta trở về… Có nghĩa là khoảng mười ngày trước.
Kensuke ra khỏi xe và vòng qua phía trước đến chỗ ghế lái. Aso để mở cửa sổ xe, và cánh tay anh buông thõng bên ngoài, bàn tay vỗ vỗ vào thành xe. Anh chìa tay về phía Kensuke.
“Lâu quá rồi nhỉ,” anh nói.
Anh xòe bàn tay ra chờ một cái bắt tay, và Kensuke bắt tay anh theo phản xạ. Chạm vào thấy lạnh. Lạnh, nhưng ẩm ướt đầy mồ hôi. Đó là lần đầu tiên Kensuke bắt tay Aso.
“Gặp lại cậu sớm,” Kensuke nói, và Aso gật đầu chắc chắn, hai lần, trước khi lái chiếc BMW vọt đi.
Khi ánh mắt anh dõi theo chiếc xe, Kensuke chắc chắn một điều. Thực sự có lý do cho lần đến thăm này, và lần trước cũng vậy. Aso đến để nói lời tạm biệt. Âm điệu của câu “Lâu quá rồi nhỉ…” và cảm giác lạnh lẽo của bàn tay Aso trở lại với Kensuke. Khi chiếc BMW của anh bạn tiến đến ngã tư, đèn phanh lóe sáng. Không xi nhan, chiếc xe rẽ trái và mất hút.
4
Một thời gian sau đó, Kensuke cứ bị hành hạ bởi một ảo tưởng lặp đi lặp lại. Hình ảnh một người phụ nữa trẻ không mảnh vải che thân ẩn nấp ở nơi hẻo lánh trên một hòn đảo không người luôn khiến anh bất an một cách tàn nhẫn. Thời gian đó Kensuke không hề có bạn gái.
Anh thường mơ thấy mình chơi đùa trong rừng. Những thân cây màu thịt người trong giống cậy bách nhật hồng mọt lên như những tua xoắn từ đất, không tua nào được điểm xuyết dù chỉ một chiếc lấ. Khi Kensuke đi giữa chúng, chân anh bị vướng vào các nhánh xoắn và anh chìm sâu xuống đất. Chẳng cần phân tích cũng thấy những thân cây nhẵn nhụi kia là biểu tượng của đôi chân Yukari. Một giấc mở cũng lặp đi lặp lại khác của Kensuke là cảnh bầy rắn quằn quại bò khắp mặt đất rồi biến thành chân của Yukari. Tại những vùng hoang dã hay những nơi rõ ràng là đảo, Yukari lại biến hình thành nhiều loại thực vật và sinh thể khác nhau và tiếp tục sống.
Kensuke không thể biết được câu chuyện đó có đúng hay không bằng cách hỏi Aso. Ngay cả nếu Aso có nói, “Tớ đùa đấy,” thì câu chuyện cũng không thể cứ thế mà biến mấy được. Vẫn còn tồn tại khả năng Aso thú nhận đó chỉ là lời nói dối mới chính là lời nói dối thật sự.
Kensuke từng thử bấm số điện thoại trên danh thiếp mà Yukari từng đưa cho anh, và phát hiện ra đó chẳng phải là nhà bố mẹ hay nhà của cô, mà là, một kiểu nhà tập thể nơi những tín đồ tôn giáo cô đang theo sống. Kensuke nói với người phụ nữ có giọng nhỏ nhẹ nhận điện thoại rằng anh muốn nói chuyện với Yukari.
“Cô ấy không có ở đây,” người phụ nữ nói, và đó là tất cả những gì bà nói.
Kensuke đã hy vọng rằng sẽ gặp được Yukari mà không gặp phải khó khăn gì, nên điều bà nói khiến anh như nuốt phải lưỡi. Ngừng lại một lát, anh mới cất được tiếng hỏi, “Tôi có thể tìm cô ấy ở đâu?”
Người phụ nữ đáp đơn giản, “Tôi không biết.”
“Yukari đi văng bao lâu rồi?”
“Suốt mấy tuần qua tôi chưa thấy mặt cô ấy.”
Khi Kensuke hỏi bà số điện thoại nhà bố mẹ Yukari, bà đáp đơn thuần bằng một câu hỏi của chính bà: “Cô Nakazawa có gia đình à?” Cái cách bà nói câu đó nghe như Yukari là một người lang thang không gia đình vậy.
“Tức là cô ấy không có sao?” Kensuke hỏi dồn.
“Tôi biết sao được,” người phụ nữ đáp cụt lủn.
Kensuke không chắc liệu sự thực đúng là Yukari không có gia đình hay đơn giản vì cộng đồng đó không có thông tin gì hết. Anh đặt máy. Tất cả những gì anh xác nhận được là Yukari đã không trở về ký túc xá mấy hai tuần nay rồi. Điều tồi tệ là câu chuyện của Aso đã bắt đầu có dấu hiệu hợp lý.
Anh đã nảy ra ý định đến đảo Daiba 6 và tự kiểm tra, nhưng các nhà chức trách Tokyo đã công bố rằng đó là vùng cấm. Kensuke còn phải dự thi tuyển công chức để trở thành giáo viên, và không thể cho phép mình gặp rắc rối với chính quyền thành phố được. Hơn nữa, anh cũng chẳng có gan lợi dụng sự che chở của màn đêm mà bí mật lên đảo.
Anh cảm thấy cần phải gặp Aso lần nữa để làm cho ra lẽ. Nếu bấy lâu nay Aso không nói dối, Kensuke cần phải làm gì đó trước khi quá muộn. Anh không biết người ta sẽ khéo hành vi lột trần phụ nữa rồi vứt cô ta trên đảo Daiba 6 vào khung tội hình sự nào. Anh đoán rằng nếu phụ nữa đó chết vì đói, bị truy tố là điều không thể tránh khỏi.
Kensuke đang sắp sửa liên lạc với Aso thì được tin bạn mình đã phải nhập viện tại một bệnh viện trực thuộc trường đại học của anh. Phim chụp X-quang lồng ngực cho thấy một vết lốm đốm trên phổi Aso. Nội soi phế quản, cùng các xét nghiệm, cho thấy một dạng ung thư cực kỳ ác tính đã di căn hầu hết cơ thể anh. Não anh cũng đã bị hủy hoại, và phẫu thuật là điều không thể. Ngay cả liều mạng điều trị bằng truyền hóa chất, Aso cũng chỉ sống được trên dưới hai tháng nữa.
Kỳ lạ là, Kensuke chẳng hề hoảng loanj trước tin đó. Khi biết tin, anh nhắm mắt lại và bình tĩnh để cho nó ngấm. Những ngày hạnh phúc họ từng chia sẻ, tất cả trong một mớ bòng bong lướt qua đôi mắt của tâm trí anh, nhưng ý nghĩ “thật không thể tin được” đơn giản là chẳng hề xuất hiện – chỉ có nỗi tiếc thương khủng khiếp trước một cái chết ở tuổi hai mươi ba, cùng tuổi với anh.
Aso có lẽ đã cảm nhận được, thận chí trước khi tiến hành các xét nghiệm, rằng anh chẳng còn nhiều thời giờ. Và vì thế hôm đó anh đã đến để nói lời tạm biệt. Dựa trên tiền đề là cái chết ấy, những hành vi gần đây của Aso đã trở nên logic. Cũng như Aso đã thấy cái chết của chính mình rình rập, Kensuke đã linh cảm thấy thời gian còn lại của bạn mình chỉ còn đếm được bằng ngày, và chắc chắn đã chuẩn bị tinh thần cho điều ấy.
Khoảng trên dưới mười phút sau khi anh tiêu hóa xong tin đó, Kensuke chợt bật khóc. Không phải anh buồn tới mức đó; mà, bởi những cảm xúc lẫn lộn đang xâm chiếm sâu thẳm nội tâm anh. Sau khi khóc một lúc, anh cảm thấy một ham muốn không sao cưỡng lại được là đi gặp Aso. Đã đến lượt Kensuke nói lời tạm biệt.
Kensuke nghĩ mình đã chọn đến thăm Aso vào giờ có ít khách đến nhưng, ngoài mẹ Aso, ở đó còn có vài người nữa quây quần trong phòng bệnh riêng ấy. Aso nằm trên giường, trong tình trạng hoàn toàn không thể nói chuyện một cách bình thường được. Anh chàng vừa ngồi trong ô tô đến gặp Kensuke tháng trước thôi giờ đang nằm trước mặt anh, hầu như không thể tự thở, quanh người toàn những ống. Những tế bào ung thử làm mục rỗng cơ thể Aso đã gây ra một sự thay đổi kinh khủng như vậy chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi nhường ấy. Phổi trái của anh đã hoàn toàn mất chức năng; rõ ràng là, cái kết sẽ tới khi đờm tích tụ ngập trong khí quản.
Ngay trước khi về, Kensuke đến bên gối của Aso, cúi xuống sát, và khé thì thầm: “Chuyện đó có thật không, Daiba6 ấy?”
Kensuke cảm thấy chắc chắn là Aso sẽ không nói dối trên giường chết của mình. Chỉ cần Aso lắc đầu thôi, mối nghi ngờ của Kensuke sẽ lắng xuống.
Nhưng thay vì thế, Aso mỉm cười và gật đầu.
Ngỡ ngàng, Kensuke hỏi lại lần nữa: “Cậu chắc chứ?”
Aso gật đầu liên tiếp hai cái liền. Kensuke nghĩ anh đã thấy nét mặt mãn nguyện trên gương mặt Aso, nhưng đó có thể chỉ là sự tưởng tượng của anh mà thôi.
Đặt tay mình lên tay Aso, Kensuke bảo bạn, “Cố gắng lên nhé,” rồi rời phòng bệnh. Không nghi ngờ gì nữa, đó là một cách thích hợp hơn để nói “Tạm biệt.” Hai ngày sau, Aso chết trẻ ở độ tuổi hai mươi ba.
5
Điểm tập hợp là phòng đợi của bến du thuyền Đảo Mơ. Sasaki có vẻ bận rộn với việc liếm láp cái kem của mình. Ngoài anh và Kensuke, ở đó chỉ có thêm một người là quan chức chính quyền thành phố tên là Naito; các thành viên hội đồng đại diện cho Minato vẫn chưa xuất hiện. Hẹn lúc mười giờ nhưng giờ đã trễ mất mười phút. Kỳ nghỉ hè vừa mới bắt đầu, vào những buổi sáng ngày thường, có rất nhiều người trẻ tuổi, cả nam và nữ, đến bến du thuyền. Mỗi khi có một cô gái đi qua, mặt Sasaki lại nhẩng lên khỏi cây kem để dán mắt theo cho đến khi cô nàng đi khuất. Kensuke thọc khuỷu tay vào sườn Sasaki.
“Trưởng đoàn, thật đáng xấu hổ. Ở tuổi của anh.”
“Đừng có phong tôi làm ‘trưởng đoàn’ chứ!” Sasaki nhăn nhó đáp.
“Anh bảo tôi đây là một chuyến đi nghiêm túc mà.”
“Cậu có để tôi yên không hả?”
Giọng lưỡi châm biếm của Kensuke đang phát huy tác dụng, và Sasaki xua xua tay như thể để tống cổ một con ruồi làm phiền.
“Một giấc đến giời” là câu thành ngữ sinh ra để miêu ta Sasaki. Cơn bốc đồng đặc trung chuyên thổi phồng sự việc gấp mười lần của ông lần này được áp dụng với đội khảo sát Daiba 6, Sasaki nói đội này gồm những bộ óc khoa học lỗi lạc nhất mà thành phố có thể tập hợp được. Nhưng khi Kensuke đến thì chỉ thấy mỗi Sasaki và một quan chức thành phố.
“Những thành viên khác đâu?” Kensuke ngơ ngác hỏi, chớp chớp mắt.
Sasaki nhũn nhặn xin lỗi thế này: “Ai cũng bận và lần lượt gọi điện xin rút lui.”
Naito, quan chức thành phố, lại tiết lộ một câu chuyện khác khi Kensuke hỏi về vụ này. Có vẻ như là chỉ cần có một thành viên hội đồng khi và một quan chức thành phố tham gia cuộc điều tra, nhưng Sasaki đã nằng nặc đòi đi cùng. Tất cả những gì Sasaki đã nói về chuyện “được hồi đồng khu chỉ định” và đã “tổ chức một đội nghiên cứu” chỉ là những lời nói dối trắng trợn. Sự thật là Sasaki đã kéo theo Kensuke để mình đỡ phải là kẻ duy nhất bám càng họ.
“Ông Kano đến rồi đấy. Chúng ta đã sẵn sàng lên đường.” Chỉ vào viên đại diện khu Minato, Naito đứng dậy. Thep phản xạ, Sasaki và Kensuke cũng đứng lên.
Đợi trên con tàu tuần tra nhỏ buộc vào cầu tàu là thuyền trưởng và độc một thủy thủ boong, cùng là nhân viên chính quyền cả. Cả đội, hiện tổng cộng là sáu người, nổ máy khỏi bến du thuyền Đảo Mơ dưới ánh mặt trời rực rỡ lúc mười rưỡi sáng, hướng về Daiba 6, nói chỉ cách đó một tầm ném đá.
Trên đường họ đi qua bên dưới bốn cây cầu. Rầm của một trong số đó, thấp đến độ với tới được, đã chặn những tia nắng mặt trời lại trong chốc lát, và toàn bộ sức nặng của cây cầu dường như đổ cả lên họ. Khi họ chui qua cây cầu thứ tư, cầu Cầu vồng hiện ra trong tầm mắt và phía sau đó chính là Daiba 6. Kensuke nhớ lại mình từng nhìn xuống hòn đảo từ lối dành cho người đi bộ của cầu Cầu vồng ngay khi cây cầu xây xong ra sao. Trên bệ quan sát, qua ống nhòm, anh nhìn xoáy vào sâu trong cánh rừng rậm rạp che kín hòn đảo. Giờ thì, lần đầu tiên, anh đang nhìn thấy hòn đảo từ độ cao gần ngang với mực nước biển.
Khi hình dáng của hòn đảo hiện ra lớn hơn, Kensuke khấp khỏi hy vọng. Cuối cùng anh cũng có thể tiếp cận với bối cảnh của một ảo ảnh vẫn không ngừng biến đổi và đâm chồi nảy lộc bằng ý chí của chính nó trong suốt chín năm qua. Daiba 6, một hình ngũ giác bất quy tắc với diện tích bề mặt khoảng gần năm hecta và chu vi hơn nửa cây số, được bảo vệ bằng một bức tường đá cao gần năm mét, nghe đâu còn có một giếng nước ngọt cho dù nó chỉ là một hòn đảo nhân tạo nẵm giữa vịnh. Nghĩ rằng chỉ cần có nước là sống được, nên suốt chín năm trời Kensuke vẫn cho rằng Yukari còn sống trên hòn đảo biệt lập ấy. Anh cũng biết đó là một ý nghĩ buồn cười. Nhưng anh không thể không tính đến nụ cười lạ lùng đầy thỏa mãn hiện trên gương mặt Aso ngay trên ngưỡng cửa cái chết. Có phải Aso, với bộ não bị tế bào ung thứ xâm chiếm, đã khuất phục trước sự dối trá của chính mình? Hoặc có lẽ anh, vì hy vọng có được một nơi để sống sau khi chết, đã hợp nhất một hoang đảo với hình ảnh thiên đường?
Dường như chờ đợi được cho ăn, một bầy hải âu lớn vây quanh con tàu tuần tra. Chỉ bay là là trên mặt biển, bầy chim lướt qua Daiba 6 rồi vút lên trên nó. Rung mạnh như thế để đám hải âu dãn ra, con tàu phanh lại cập bờ Daiba 6.
6
Trong khi Sasaki, chuẩn bị kỹ lưỡng đến từng chi tiết, trang bị cả máy quay phim, băng video, và sổ ký họa thì Kensuke hầu như chẳng mang theo gì ngoài một đôi ủng chống thấm mà trước khi cập bờ anh đã đi thay cho đôi giày đế mềm.
Sasaki nhảy lên cầu cảng và kêu lên, “Chẳng thay đổi tí nào!”
Kensuke ngạc nhiên, hỏi ông, “Ý anh là hồi trước anh đã đến đây rồi?”
“Mỗi một lần thôi. Mười năm về trước, trong một chuyến đi khảo sát như lần này.”
Mười năm trước…, Kensuke trầm ngâm. Một năm trước cái chết của Aso.
“Nhìn kìa!”
Sasaki chỉ một khoảng hẹp trong bờ đê biển. Đằng sau nó mở ra một không gian mờ mờ bị bóng cây che khuất, còn phía trước, nơi trên thực tế vẫn là đường bờ biển, có cái gì dó giống như vô số cây mùi tây mọc um tùm.
“Kia có phải là cây mùi tây không nhỉ?”
“Đấy là cây bạch chỉ. Angelica keiskei. Có nhiều trên bán đảo Izu và đảo Oshima. Hẳn là đã phải trôi dạt một khoảng cách không nhỏ! Cũng ở đó được mười năm rồi.
Sasaki tỏ lòng ngưỡng mộ trước sức sống của loài bạch chỉ, loài cây có hạt giống bị đánh dạt lên bờ từ nói chỉ có trời mới biết, rồi bén rễ và lớn lên với sinh lực đến thế. Sasaki nhắc lại vài lần rằng điều đáng kinh ngạc nhất về đảo Daiba là sự phong phú và sức sống dồi dào của những hạt giống đã tìm được đường tới đó, và rằng nơi đây là một kho báu thiên nhiên rất đáng để nghiên cứu tỉ mỉ một cách chính xác bởi nó biệt lập hẳn với công chúng.
Trong khi Naito và Kano đề nghị rằng trước hết họ sẽ làm nghiên cứu tổng quan bằng cách đi quanh đảo một vòng dọc theo bờ đê biển, Sasaki rõ ràng là muốn đi thẳng đến trung tâm hòn đảo, và Kensuke chọn đi cùng Sasaki. Thuyền trưởng và người thủy thủ sẽ ở lại trên cầu cảng. Mọi người cũng quyết định là mỗi cặp, Kano và Naito đi một vòng quanh đảo, Sasaki và Kensuke đi sâu vào phía trong, sẽ mang theo một bộ đàm di dộng. Đây không phải là một đảo lớn, từ bên này sang bên kia chỉ cách độ trăm mét; nếu hét lên họ sẽ nghe thấy tiếng nhau. Nhưng họ có bộ đàm và chẳng có lý do gì lại không sử dụng chúng.
“Gặp lại sau nhé.” Naito và Kano vẫy chào những người còn lại và lên đường, đi dọc trên đê biển.
Sasaki và Kensuke bước qua đám cây bạch chỉ um tùm thẳng tiến vào vùng phía trong mờ mờ tối. Mỗi lần Sasaki bắt gặp một loài thực vật kỳ lạ nào đó, ông lại giương máy quay phim lên, ghi hình nó vào băng videom hoặc vẽ vào sổ ký họa. Không có loại cây nào Kensuke không biết mà Sasaki không nhận ra; bậc tiền bối này của anh thực sự đã chứng minh mình là một chuyên gia khoa học tự nhiên. Sự nghiên cứu nghiêm túc trong ánh mắt ông dường như chứng tỏ vẻ bông đùa thường thấy của ông chỉ là vẻ bề ngoài, và Kensuke lại nhìn ông theo một cách khác.
Đất đảo, không quen với những bước giậm của chân người, rất mềm, rỉ ra dòng chất lòng đen từ lớp mùn dưới bước đi thận trọng của họ. Nếu không có ủng, chân họ đã hoàn toàn ướt sũng từ lâu rồi. Thậm chí không khí cũng rất ẩm ướt. Cỏ cây, những thứ hiếm thấy ở Tokyo, ở đây lại um tùm rậm rạp, vì một lý do nào đó tỏa ra mùi hương quái đản và tạo nên một khu rừng nhỏ lai tạp độc nhất vô nhị cho hòn đảo này. Khi gió biển lay động ngọn cây, khắp nơi xung quanh họ ngập trong âm thanh xào xạc, và thỉnh thoảng Kensuke chẳng còn biết mình đang ở đâu nữa. Anh gần như quên hết chuyện Yukari. Hòn đảo này đơn giản là quá khác vùng đất mà anh tưởng tượng.
Càng đi sâu, càng âm u ảm đạm – và Sasaki càng lúc càng ít nói. Ông cũng không hay nhòm vào máy ảnh như trước. Quay ngang quay ngửa một hồi, cuối cùng ông đứng lại.
“Lạ thật,” ông lẩm bẩm.
Kensuke, vẫn theo sát Sasaki nãy giờ, cũng đứng lại theo. “Cái gì lạ cơ?” anh hỏi.
Sasaki chỉ ậm ừ mà không giải thích, chìm vào suy nghĩ. Cả hai đứng im một lúc, không ai phát ra tiếng nào.
“Anh không sao chứ?” Kensuke trông có vẻ lo lắng khi anh phá vỡ im lặng.
“Đám cây bạch chỉ chỗ chúng ta cập bờ trông vẫn y hệt. Nhưng khi chúng ta đi sâu vào trong… có cái gì đó rất lạ.”
“Ý anh là, khác lúc trước à?”
“Tôi không nói trước được. Nhưng chắc chắn có gì đó không ổn.”
Nghe thấy thế, Kensuke bèn căng thẳng nhìn quanh. Anh nghĩ mình dần có những trực cảm xấu. Ai cũng biết là hồi những năm 1920, người ta đồn Daiba 6 là hòn đảo bị ma ám. Chỉ mới gần đây thôi, Kensuke nghe nói có một vận động viên lướt ván buồm đang luyện tập ở Công viên Bãi Biển đã mất hút sau đảo và biến mất không dấu vết, cùng cả tấm ván lướt và mọi thứ - hoặc đại loại thế. Nhớ lại những câu chuyện như thế, Kensuke không khỏi thấy bất an.
“Đi tiếp thôi, được chứ?” Kensuke giục, định bụng sẽ gắng can đảm, nhưng giọng anh vẫn hơi run một chút.
“Chắc phải mười năm rồi chẳng có ai đến đây…” Sasaki lẩm bẩm một mình, như thể để xác nhận lại sự thực, rồi tiếp tục bước đi. Lúc trên tàu Naito đã nói với họ rằng đấy là lần đầu tiên Hội đồng Khu Minato tham gia việ nghiên cứu đó và rằng chưa có một cuộc trong suốt mười năm qua.
Kensuke vẫn im lặng.
Sasaki đứng lại lần nữa. Ngước nhìn, ông thốt lên, “Khu rừng này đang nuôi dưỡng một cái gì đó!”
“Sao lại không chứ? Chẳng phải cây cối luôn duy trì các dạng sống gần đó sao?”
Sasaki chỉ chéo lên trên. “Đó là một cây hồng ngâm. Bên cạnh nó là cây sơn trà. Lần trước tôi ở đây, chẳng có cây ăn quả nào hết.”
Chưa kịp dứt câu thì Sasaki đã dợm chân chạy về phía trước.
“Chờ với!” Kensuke kêu lên.
Nhưng Sasaki chỉ tăng tốc, và đó cũng là tất cả những gì Kensuke có thể làm để theo kịp ông. Mồ hôi nhỏ tong tong, anh sắp bỏ cuộc rượt bắt đến noi thì quang cảnh đột nhiên thay đổi và anh thấy mình giữa một khoảng đất trống rộng chừng mười mét. Nơi này có vẻ là trung tâm đảo, bốn bề là rừng rậm như nhau. Cầu Cầu vồng sừng sững in bóng lên nền trời phía Bắc. Thật gai người khi bắt gặp hình ảnh một công trình hiện đại từ trung tâm một hòn đảo giống như rừng rậm không người. Cứ như thể các chiều không gian đã trở nên rối loạn và Kensuke đã lạc bước vào một thế giới ngoài trái đất.
Mặt trời giữa buổi trưa tưới đẫm khoảng đất trống xanh cỏ bằng vô số tia nắng. Ve sầu rền rĩ inh ỏi. Không khó để Kensuke nảy ra vài từ miêu tả khoảng đất này: đó là một khu vườn. Cà chua, cà dái dê, dưa chuột, và những loại rau mùa hè khác được trồng thành các luống đâu ra đấy. Giờ thì không thể phủ nhận rằng có một lực lượng không phải của tự nhiên đang hoạt động ở đây. Những luống rau này đã được trồng theo một ý chí nào đó vì một mục đích gì đó. Đây không phải là một cách tự nhiên. Kensuke và Sasaki nhìn nhau, cùng xác nhận cảm tưởng của mình.
“Nhìn kìa.” Sasaki hất hàm về mép phía Đông của khu đất. Ba thanh gỗ mảnh dựng đứng trên một nấm đất.
Tiến lại để nhìn rõ hơn, họ thấy rằng những thanh gỗ đó là những tấm bài vị.Trong số nhưng chữ viết bằng mực, chỉ có hai chữ là đọc được, cả hai đều là những chữ vẫn thường có trên bài vị, còn những chữ khác đã mờ sạch. Những cái bài vị này làm gì ở đây chứ? Liệu có thể nào chúng cũng từ đâu đó trôi dạt đến đảo Daiba 6 này? Nếu vậy sao chúng lại cắm chắc đến thế xuống đất?
“Anh nghĩ thế nào?” Kensuke nói.
Nắm đất bên dưới những thanh gỗ gợi lên duy nhất một điều cho cả hai người.
Sasaki nói ra điều đó: “Đây hẳn phải là một ngôi mộ.”
Kiến xếp đội hình hàng dọc bò ngoằn nghèo trên đống đất tròn. Một ngôi mộ… Chẳng thể là cái gì khác được.
Ngay lúc đó, máy bộ đàm di động đang treo trên vai Kensuke bỗng bừng tỉnh.
“Kano đây. Anh có nghe thấy tôi không? Hết.”
“Chúng tôi nghe rõ,” Kensuke đáp, ngón tay đặt trên nút chuyển.
“Chúng tôi vừa thấy một bóng đen nhỏ trên bờ đê phía biển. Nó biến mất vào trong rừng và chắc đang di chuyển về phía trung tâm. Xin hãy cẩn thận.”
“Gì cơ?”
“Có thể đó chỉ là một con gì đấy thôi.”
“Có lẽ là một con chó chăng? Hay là mèo?”
“Không,” Kano bác bỏ ngay lập tức.
“Sao anh chắc như vậy?”
“Chúng tôi không chắc. Chúng tôi đã cố đi theo nó, nhưng nó lao vào rừng với tốc độ đáng kinh ngạc.”
“Phía Tây à?”
“Đúng vậy.”
“Rõ. Hết.” Kết thúc cuộc điện đàm, Kensuke nhìn Sasaki, chờ quyết định của ông.
“Đi nào.”
Sasaki bắt đầu bước về khu rừng phía Tây, nơi vật đó được báo cáo là biến mất, và Kensuke theo sát phía sau. Hai người dừng lại ở mé khoảng đất và, cẩn thận không để phát ra tiếng động nào, dò xét phía trước. Họ vẫn chưa nghe thấy gì, nhưng vật đó đang đi xuyên qua đám cây rậm rạp ngay trước mặt họ để tiến đến gần. Kensuke nín thỏe chờ một điều gì đó xuất hiện.
Một con muỗi vo ve khó chịu gần mũi Kensuke trong khi anh khom mình chờ đợi. Nếu tuyệt đối bất động, phần da thịt hở ra ngoài quần áo anh sẽ trở thành bữa yến tiệc cho con muỗi. Phải thu mình nấp ở đó đồng thời khổ sở cử động từng tí một quả thật là mệt mỏi.
Cỏ trong bụi rậm phía trước dường như lay động. Chẳng mấy chốc đã nghe thấy tiếng cái sinh linh đang tiến lại gần ấy sột soạt qua những cành cây bị dạt ra. Và rồi, bất chợt, một vật nhỏ thó đen thui nhảy xổ và Kensuke.
Trước khi ý thức được chuyện gì, anh đã ngã bổ ngửa ra đất. Lực tác động của một cái gì đó cứng cứng đập vào hàm anh từ bên dưới gần như khiến anh không dậy nổi, nhưng bàn tay anh vẫn túm chặt được thứ đó theo bản năng. Một tiếng gầm hung dữ vang lên bên tai anh, một giây sau đó, anh cảm thấy một cơn đau buốt nhói chỗ cánh tay. Anh không biết chuyện gì đang xảy ra nữa. Anh cảm thấy trên mình có gì đó nằng nặng, và khi bị nó nhấc lên, anh mở mắt ra và thấy một hình cắt bóng nhỏ thó đen thui hằn lên ánh mặt trời chói chang mùa hạ đang treo lơ lửng trên cánh tay Sasaki. Cái sinh vật mà Sasaki đã lôi ra khỏi anh đó là một thằng nhóc có lẽ khoảng bảy hay tám tuổi.
Kensuke đã nặng nhọc ngồi dậy được nhưng vẫn trong tình trạng không sao tin nổi. Thằng nhóc đang hú, không phải bằng thứ tiếng nào của con người, mà như một con thú hoang. Những âm thanh đinh tai đó mang trong mình sự cầu xin hoảng loạn nhưng không sao hiểu nổi và khiến Kensuke thấy sợ hãi. Rõ ràng thằng nhỏ đã cắn anh. Có những giọt máu trên cánh tay mà anh đang thấy đâu. Kensuke đứng dây, ấn chặt tay trên vết thương. Đúng lúc ấy, Kano và Naito xông tới từ rừng cây phía sau. Ngay khi nhìn thấy thằng nhóc đang bị Sasaki giữ chặt trong tay, Kano liền rút bộ đàm ra liên lạc với thuyền trưởng tàu tuần tra.
“Chuẩn bị rời khỏi đây… Liên lạc với cảnh sát…” Những chỉ đạp mà Kano liến thoắng liên tiếp chỉ ghi vào đầu Kenseuke như những mảnh rời rạc.
Anh thấy chóng mặt. Anh cố lý giải chuyện vừa xảy ra. Thằng nhỏ hẳn đã luôn theo dõi anh từ phía sau khi anh chạy. Không để ý đến sự hiện diện của Kensuke ngay trước mặt, nó cụng đầu vào hàm Kensuke. Nhưng sao lại có một thằng bé, trên hòn đảo này? Kano và những người khác đang hỏi tên và địa chỉ của nó. Hất đầu dữ dội, nó chỉ phát ra những tiếng kêu lộn xộn và chẳng đưa ra thông tin nào. Nghe thấy những tiếng kêu đó, những âm thanh không phải tiếng Nhật cũng chẳng phải bất cứ thứ tiếng nào, Kensuke lại thấy chóng mặt.
7
Thằng nhóc ngồi trên sàn boong tàu, đầu cứ nghển lên trên mạn. Nó dán mắt nhìn trân trân vào hòn đảo. Trên mặt nó chẳng biểu lộ cảm xúc gì. Rời bỏ mảnh đất chôn rau cắt rốn thường gợi lên những đợt sóng cảm xúc đặc biệt dâng trào, nhưng thằng nhón không có vẻ gì là biết cách biểu đạt những tình cảm như thế. Lúc mấy người họ đưa nó lên tàu, nó đã thôi la hét, và đến giờ nó đã ngồi đó không nhúc nhích được một lúc rồi.
Chẳng có gì phải làm nữa ngoài việc tạm dừng chuyến nghiên cứu. Ưu tiên số một của họ là đưa thằng nhóc về thành phố và giao cho các nhà chức trách hữu quan. Không che dấu nổi niềm phấn khích trước kết quả bất ngờ này, Naito và Kano trao đổi với nhau những giả thiết của họ về lai lịch của thằng bé, nhìn nó chằm chằm không chút ngượng ngập như thể nhìn vào một đứa trẻ hoang dã được sói nuôi dưỡng.
Không ai có manh mối gì nữa. Nhưng Kensuke có thẻ vẽ lại một bức tranh tương đối rõ ràng về những gì đã diễn trên đảo Daiba 6 trong vòng chín năm qua. Chỉ nhìn một cái vào mặt thằng bé cũng đủ làm mọi thứ trở nên rõ ràng. Cái mũi nhỏ nhắn thanh tú đó, đôi mắt lạnh lùng đó, đôi môi mỏng đó – cho dù bị bộ tó bù xù rậm rạp che khuất, mọi nét của thằng bé đều giống đến không sao chối cãi được. Kensuke và Aso gặp nhau lần đầu tiên hồi lớp ba. Gương mặt trông nghiêng của thằng bé đang ngồi trước Kensuke lúc này là một hình ảnh sống của người bạn cùng lớp xưa của anh. Không nghi ngờ gì nữa, đây là con trai của Aso do Yukari Nakazawa sinh ra.
Aso đã nói dối. Anh không hề lột trần Yukari và bỏ rơi cô trên đảo Daiba 6. Kế hoạch ngớ ngẩn biến một hoang đảo không xa thành thiên đường trên mặt đất chắc chắn là ý tưởng của Yukari; Aso, dù hết sức khó chịu trước sự ngu ngốc ấy, hẳn vẫn giúp đỡ cô. Còn có thể giải thích sao rau quả lại mọc trên Daiba 6 bằng cách nào nữa? Hơn nữa, thằng nhóc không trần truồng; quần áo nó giờ đã rách bươm, nhưng nó có mặc quần áo. Những thứ thiết yếu nhất để tồn tại hẳn đã được chuẩn bị từ đầu và mang lên đảo.
Thế thì, Yukari, mẹ thằng nhóc ở đâu? Có lẽ đã chết và được chôn rồi. Nếu còn sống, cô hẳn phải ở đâu đó không phải đảo Daiba 6. Dù thế nào, cô cũng không phải là cư dân sống ở hòn đảo này. Giả định rằng Aso không nói về tất cả mọi thứ, Yukari đã mang thai hồi mùa hè chín năm về trước – và sang năm tiếp theo thì sinh con. Như vậy là thằng bé giờ được tám tuổi. Nếu nó sống với mẹ từ đó đến nay, nó phải biết nói. Nhưng thay vì thế, hẳn nó đã mất mẹ khoảng hồi được năm tuổi, và trong những năm đơn độc tiếp sau nó dần quên sạch những thứ ít ỏi học được từ mẹ. Việc liệu Yukari đã chết trên đảo Daiba 6 hay đã bỏ rơi đứa con để trốn đi một mình sẽ được làm rõ nếu và khi họ đào gò đất dưới tấm bài vị gỗ. Kensuke có linh cảm rằng Yukari đã yên nghỉ dưới gò đất đó.
Nét mãn nguyện trên mặt Aso khi anh nằm trên ngưỡng cái chết… Sau ngần ấy thời gian, cuối cùng Kensuke đã hiểu. Aso tự mỉm cười với mình vì đã đã bí mật gieo hạt giống của mình trên trái đất này. Sức mạng xa xôi đã hỗ trợ cho việc gieo trồng kỳ lạ này không chỉ có hiệu quả với cây cối. Kensuke đang nhìn vào bằng chứng đó.
Cảm thấy Kensuke đang nhìn mình, thằng nhóc đáp lại ánh mắt ấy. Hầu như chẳng có chút cảm xúc nào xuất hiện trên mặt khi thằng bé quay về phía đảo Daiba 6 đang dần khuất xa.