Chương 41: Phiên Ngoại • Thà Không Gặp Lại (Nhị)
Bóng đêm bao phủ, Hoàn nương cũng hơi kiệt sức. Tạ Liên bèn cho cô ngủ sớm, chính mình ngồi ngay bên cạnh.
Vốn là Tạ Thanh Như về nhà thăm cha mẹ, tiếp đó Hoàn nương mới sinh nở. Tư Mã Dục lại mang theo A Ly đến chung vui, đám hộ vệ bên kia cũng rất tháo vát, nguyên cả ngày nay không có giờ phút nào Tạ Liên được rảnh rỗi. Đến giờ này cả người đều đã mệt nhừ. Chỉ là sự vui sướng vì vừa được làm cha còn chưa tan hết, nhất thời chưa thấy buồn ngủ.
Hoàn nương lại thương tiếc anh, cũng thúc giục anh trở về ngủ.
Tạ Liên chỉ khẽ nói: “Không vội, ta đợi nàng ngủ rồi sẽ quay về”.
Gương mặt Hoàn nương hơi hơi ngượng ngùng, cười nói: “Chàng nói như vậy, càng làm thiếp vui mừng đến không ngủ được luôn ấy chứ”. Nhưng vẫn nói thêm, “Sớm về nghỉ ngơi đi. Thiếp không cần chàng phải gác đêm”.
Tạ Liên gật đầu, vẫn không hề động đậy.
Hoàn nương như nghĩ tới chuyện gì, lại từ dưới gối lấy ra một hộp nước sơn nhỏ, giao cho Tạ Liên, “giữ lấy đi, khi nào về rồi hãy xem”.
Tạ Liên nhận lấy, tùy ý để một bên, nói: “Nhớ rồi. Nàng cứ ngủ đi, mệt mỏi cả ngày rồi còn gì”.
Hoàn nương nhắm mắt lại, khóe môi còn vươn ý cười. Mà hiện tại mọi tâm sự lo lắng đều đã buông xuống, toàn thân mệt mỏi vô cùng, chỉ một lát sau, liền ngủ say.
Tạ Liên ngồi cạnh cô trong chốc lát, nghe thấy hơi thở ổn định của cô, mới giơ tay ra, kéo tay cô bỏ vào trong chăn, rồi đứng dậy tắt đèn.
Vừa trở lại thư phòng, lấy cái hộp Hoàn nương đưa mở ra.
Bên trong quả nhiên chính là hà bao mà A Ly tặng anh cùng với dải tua rua.
Hoàn nương quả thật vẫn giữ lại toàn bộ để trả lại anh, lại bảo anh sau khi về mới được nhìn, kỳ thực chính là có ý không can thiệp nữa.
Cuối cùng là vất đi hay lưu lại, hết thảy đều tùy tâm ý của Tạ Liên.
Tạ Liên ngồi dưới ánh đèn nhìn ngắm kỹ càng, ngón tay mơn trớn lên từng hoa văn. Qua thời gian rất lâu vẫn giữ nguyên động tác.
Thật ra lúc nãy, khi Hoàn nương đem hà bao cùng tua rua đặt vào tay anh, Tạ Liên đã biết ngay, đó không phải đồ A Ly làm cho anh.
Bản thân anh đã mang theo suốt bảy tám năm, đã từng vô số lần ve vuốt nó. Mỗi một đường kim mũi chỉ, mỗi một đoạn hoa văn, cảm giác mỗi sợi chỉ thêu sượt qua da tay, anh đều nhớ rõ như in. Huống chi màu sắc của chỉ thêu trên từng sắc thái hoa văn, đồ đã dùng lâu không thể có màu giống như vậy.
Dù có nhận ra, anh cũng không muốn giải thích, có thể là Hoàn nương có ý muốn anh phải tỏ thái độ, nên mới uyển chuyển dùng đồ giả. Tạ Liên cũng từng mời thợ thủ công sửa qua rồi, anh biết là giả, cũng vì làm lại hà bao này anh đã mất rất nhiều tâm tư.
Nhưng lúc này, khi ngồi một mình bình tĩnh suy nghĩ, trong lòng anh bỗng nhiên hiểu ra một chút.
Có lẽ Hoàn nương không hề ép anh, có lẽ cô đã chuẩn bị thật tốt để rời đi. Nhưng đến cùng có phải vì lòng dạ cô ấy yếu đuối và dây dưa quá? Cô ấy nghĩ rằng nếu cô thật sự bỏ đi, vẫn sẽ âm thầm đánh tráo hà bao của A Ly thành của cô để anh giữ lại làm kỷ niệm. Nhưng Tạ Liên lại thiêu hủy cái hà bao đó, vậy nên giờ cô mới trả lại cái hà bao thật cho anh, cũng là ngầm bằng lòng để anh giữ lại cho mình một góc riêng nào đó trong trái tim.
Thật ra ngay từ đầu cô đã tính sẽ dần dần nhổ hết đám dây leo bám sâu trong lòng anh.
Chỉ là chút dây leo đó đã quấn vào quá chặt, khó mà gỡ ra được.
Cho tới bây giờ, Tạ Liên vẫn chưa thể buông bỏ A Ly, thật lòng anh không hề nghĩ đến việc quên lãng. Bàn tay vốn khó nắm trọn vẹn lòng người, chỉ có thể bảo vệ chứ không thể đánh đuổi. Tạ Liên đã không thể ép buộc người ta, thì cũng không thể ép buộc chính mình được.
Anh không nói sẽ nhớ nhung, nhưng cũng không nói sẽ quên lãng. Chỉ có thể dành một góc bình yên, giữ mãi hình ảnh khi A Ly vẫn là khuê nữ của Vương gia, chưa từng xuất giá, cũng không bao giờ già đi. Một năm cuối mùa thu nào đó, cô ấy đứng dưới tàng cây hoa quế đưa hương ngào ngạt, mưa phùn như tơ, mộc tê(*) như lụa là, rơi đầy vai cô như mộng cảnh.
(*) cây quế trong cách gọi riêng của người Giang Nam.
Anh cũng phân biệt rõ ràng, Hoàn nương mới thật là vợ anh. Mới vừa thành niên cô đã gả cho anh, vì anh mà sinh nhi dục nữ, sẽ kề bên anh đến lúc đầu ngã bạc. Anh kính cô quý cô, suốt đời sẽ không phụ bạc, không bao giờ rời bỏ.
Anh cứ đinh ninh rằng hai bóng hình này sẽ không bao giờ giao nhau, nhưng anh đã sai. Đến Hoàn nương còn có thể nhận ra, rằng lòng anh còn có một hình bóng khác.
Một số thời điểm, con người chỉ có thể tự lừa gạt chính mình được thôi.
Từ trên tủ sách Tạ Liên gở xuống một cái rương có cài khóa, mở ra, phía bên trong, một lá, hai lá, toàn bộ đều là thư. Anh không hề nhìn chúng. Đặt hộp sơn nhỏ vào, khóa lại kỹ càng, rồi đặt lại vị trí cũ.
Chung quy vẫn không thể đem những kỷ vật ấy phá hủy đi.
Anh thổi tắt đèn, lên giường nằm ngủ.
Đang giữa cơn mơ thì bật tỉnh giấc, nghe thấy bên ngoài vang lên tiếng trống canh. Tựa như chưa bao lâu, lại giống như đã trải qua rất lâu, thình lình có người hoảng hốt đến đập cửa nhà anh.
Lúc Tạ Liên khoác áo lên vai, gã gác đêm bên ngoài đã đi ra mở cửa, có lẽ đang mộng đẹp lại bị phá rối, nên tâm trạng rất khó chịu, hỏi: “Có chuyện gì mà náo loạn đêm hôm vậy hả?”.
“Thái Tử phi hoăng(*) rồi!” Người đứng bên ngoài trả lời.
(*) Hoăng: chết, đây là cách gọi thời cổ đại khi các chư hầu, quan to, người có địa vị cao chết đi.
Lúc này gã sai vặt mới trở nên khẩn trương, vội quay vào nhà để tìm Tạ Liên. Vừa quay đầu lại thiếu chút nữa đâm sầm lên người Tạ Liên.
Đầu óc Tạ Liên hiện tại chỉ vang vọng một tiếng ong ong, “Ngươi vừa nói gì?”.
“Từ khi rời phủ chúng ta trở về, bỗng nhiên Thái Tử Phi phát bệnh nghiêm trọng….. Đông cung vừa truyền đến tin tức…..”.
“Nói bậy!” Tạ Liên dùng sức xách cổ anh ta ném qua một bên, đẩy cửa bước ra ngoài, “Chuẩn bị ngựa, ta phải đến Đông cung!”.
Bên ngoài một mảnh tối đen, đêm lạnh như nước. Khắp bầu trời lác đác vài chấm nhỏ, ánh sao cũng dần tắt lịm.
Tiếng vó ngựa phá tan không gian yên tĩnh, tướng sĩ thủ vệ nghe bảo là Tạ Liên, liền không ngăn cản. Sau tin tức Thái Tử Phi hoăng thệ, Thai thành và Đông cung liên tiếp có người ra vào. Người nhà Thái Tử Phi cũng đã vào cung cả rồi. Lang tướng biết Tạ Liên với Đông cung trước giờ rất thân quen, nên chỉ đoán là anh đang phụng chỉ mà đến.
Tạ Liên xuống ngựa, chạy một đường vào trong.
Khắp Đông cung chìm trong tiếng khóc. Nơi nơi đều là cờ trắng, các cung nhân gọi hồn đang ở chóp tường đốt quần áo, xướng (hát) gọi hồn trở về.
Nửa đêm đường ẩm ướt, cả đường dài đuổi chạy tới đây quần áo đều ướt đẫm bởi sương đêm, đầu gối Tạ Liên bỗng nhiên trĩu nặng, cơ hồ đã không thể bước nổi nữa.
Tới tẩm điện, Tư Mã Dục đang ngồi ở bên ngoài. Toàn thân đều bị che lấp bởi bóng đêm, không còn có cảm giác của sự sống, Vệ Lang ngồi bên cạnh tiếp anh. Còn có vài người chuyên hầu hạ bên người không yên tâm đứng cách đó không xa để trông giữ, chính bọn họ mới vừa kéo Tư Mã Dục ra khỏi người Thái Tử Phi. Ban đầu anh còn khóc nức nở, sau đó lại trầm lặng giống như đã bị người ta đoạt mất hồn phách. Hoàng hậu đang ở trong điện chủ trì hậu sự, lo sợ anh bị yểm, nên kiên quyết cho người lôi anh ra bên ngoài, ai ngờ mới đến ngoại viện anh liền xô hết đám người đó ra, một mình ngồi đó để giữ cửa.
Khi Tư Mã Dục ngẩng đầu nhìn thấy Tạ Liên, đôi mắt tối đen hơi hơi hoảng hốt.
Tạ Liên chỉ đánh mắt nhìn anh một chút, liền đi vội vào trong điện.
Đột nhiên Tư Mã Dục rút trường kiếm ra chạy tới chỗ anh vung xuống.
Những cảm xúc Tạ Liên đã dồn nén lâu nay, ngay khắc này mãnh liệt phun trào.
Anh không ngờ rằng bản thân mình lại có lúc kích động và phẫn hận đến vậy. Trước mắt không còn đồ vật, con người hay bất cứ gì khác, chỉ còn hiện hữu một bóng hình đang vung kiếm vào anh, anh chỉ biết người này tên là Tư Mã Dục, là bằng hữu, là huynh đệ, nhưng cũng chính là người đã cướp mất vợ anh. Cô gái kia anh đã yêu trong mười năm, cô cũng đã hứa sẽ gả cho anh, lại bị người này cướp đoạt. Nhưng sao hắn đã cướp cô đi lại không trân trọng cô, cô còn trẻ như vậy, thậm chí còn chưa tới đôi mươi. Cô ấy chưa từng được ngắm biển rộng mây bay, chưa được ngắm ánh trăng sáng ngời nhất. Vậy mà đã vội vã lìa đời.
Tại sao khi đó anh không chịu ra tay cướp cô trở lại. Vì sao anh lại đồng ý để cô phải gả cho người này.
Tạ Liên rút bội đao bên hông thị vệ đứng cạnh, nghênh đón.
Tiếng đao kiếm va chạm leng keng giống như tia lửa bùng cháy trong đêm tĩnh mịch. Bọn họ đều dùng hết khí lực toàn thân để chém cho được người trước mặt, tựa như muốn chặt thây ra thành từng đoạn. Trong lồng ngực như có đám dã thú đang kêu gào, thay bọn họ đau thương và phẫn nộ.
Đây là trận đọ kiếm thô lỗ và vụng về nhất, đến một nửa tiêu chuẩn thông thường đều không đạt tới. Nhưng cũng là một cuộc chém giết để đoạt mạng thực sự.
Nhất thời ngay cả Vệ Lang Vệ Lang cũng không biết nên giải quyết như thế nào.
Chỉ còn cách hy vọng cho cơn thịnh nộ, sự đau đớn và thể lực của bọn họ bị tiêu hao bớt đã. Kiếm tuy to lớn nhưng cứng cỏi, đao thì nhỏ gọn nhưng sắc bén. Cuối cùng Tư Mã Dục vung kiếm lên chém đứt thanh đao trong tay Tạ Liên ra làm hai phần, nhưng Tạ Liên lại dùng chuôi đao mà anh chém rơi ném ngược trở lại, rồi quay người đoạt trường kiếm đâm sượt qua gáy anh, cắm thẳng vào tảng đá màu trắng phía sau. Tảng đá vỡ tan. Hai người trừng mắt nhìn nhau, giữ nguyên tư thế tuyệt sát, thở hổn hển, đứng một lúc không hề động đậy.
Đây chính là lần cuối cùng hai người đọ sức. Cũng chính là cuộc đọ sức công bằng và duy nhất.
Tư Mã Dục đã thua.
Cõi lòng Tư Mã Dục là một mảng mênh mông mờ mịt. Lần tỷ thí này anh đã tự nói với mình rằng dù có chết cũng không để thua, vậy mà cuối cùng anh vẫn thua.
Quả thật chính anh đã cướp người trên tay Tạ Liên, đã cường thế đoạt được A Ly. Cái gì không phải của mình, cho dù có dùng hết tính mạng ra mà nắm giữ, cũng vẫn không sao giữ được.
Đêm tân hôn của Tạ Liên cô bị ngã xuống nước, anh đã nhảy xuống nước theo cô. Bọn họ đã nổi trôi theo dòng nước, vượt qua hung hiểm, đứng bên bờ vực sống chết vẫn giành lại được sự sống, suốt lúc đó Tư Mã Dục đã ôm và bảo vệ cô trong ngực. Khi ấy, cái ôm đó của anh chính là từ tận đáy lòng có chết cũng không buông tay.
Nhưng bây giờ anh nên làm thế nào đây? Cô ấy đã chết, dù anh có cố sức ôm chặt, chặt nữa, ôm mãi, cô cũng không thể trở về. Anh yêu cô đến nhường nào, thích cô đến nhường nào, nhưng cô vốn không phải của anh, cuối cùng cô vẫn không chịu ở mãi bên anh.
Nhưng nếu cứ nhất định không phải của anh, tại sao lại để anh gặp gỡ, lại để anh có được.
…………..Tốt hơn hết, nếu có thể quay lại từ đầu, anh sẽ không gặp lại nữa.
Nếu có tái ngộ rồi cuối cùng vẫn sẽ yêu cô đến thế, thì chi bằng vĩnh viễn không cần gặp lại.
Anh sợ gặp lại, bản thân anh vẫn sẽ liều mạng mà tiến lên, cướp cô về bên cạnh. Sau đó lại không thể giữ gìn, trơ mắt nhìn cô dần tan biến mất, Tạ Liên buông Tư Mã Dục ra, trầm lặng quỳ xuống bên cạnh anh.
Đao kiếm giao tranh, tội danh làm loạn và phạm thượng anh không thể đảm đương nổi. Nhưng trong lòng Tạ Liên lại không xáo động nhiều. Đến giờ này anh mới hiểu được, hóa ra gánh nặng của kiến công lập nghiệp, rạng danh gia tộc lại không hề nặng như anh vẫn nghĩ.
Bọn thị vệ tiến lên áp trụ Tạ Liên đưa đi.
Đến khi sắp ra khỏi cổng, Tư Mã Dục mới lắc la lắc lư đứng dậy, rút trường kiếm trong tảng đá nứt vỡ ra.
Tiếng lạch cạch vỡ tan của tảng đá vang lên, làm cho lòng người run rẩy theo. Bất giác bọn thị vệ đều dừng chân.
Cứ như vậy, Tư Mã Dục lảo đa lảo đảo chầm chậm đến trước mặt Tạ Liên, giơ kiếm lên, chém ngang qua búi tóc anh.
Cung nữ khắp điện đều kinh hoàng nhắm chặt mắt, nhưng âm thanh tiếng máu nóng phun trào qua rất lâu sau vẫn không xuất hiện.
Búi tóc trên đầu cùng với phát quan của Tạ Liên đã bị chém đứt lìa.
Bọn thị vệ ngơ ngác nhìn nhau, không hiểu vì sao. Vẫn là Vệ Lang nhanh trí chạy đến, nói: “Dùng nó thay cho cái đầu, điện hạ đã tự mình trừng phạt rồi! Mau thả người đi”.
Tư Mã Dục lại vung tay, âm thanh khàn đục, “Trở về đợi xử lý sau”.
Vệ Lang đẩy Tạ Liên bước ra khỏi cửa. Tư Mã Dục mới vứt kiếm đi, ngước mặt lên trời rồi ngã phịch xuống.
Tạ Liên về tới nhà, Thái Phó phu nhân vừa từ nơi đó trở về nói là, nghe nói Hoàn nương đợi tin tức suốt nửa đêm, mới vào phòng với cô trước.
Đám phụ nữ trong nhà sợ Hoàn nương lo lắng, đều ở trong phòng mà trông coi cô, cùng cô nói chuyện để giải khuây. Nghe báo Tạ Liên đã trở lại, mới cáo từ ra về.
Sắc trời đã hơi sáng rõ. Dù sao thì Hoàn nương cũng vừa mới sinh xong, lo lắng cho Tạ Liên suốt nửa đêm, đến giờ cũng đã kiệt sức, tiều tụy nhợt nhạt trông thấy. Nhìn thấy Tạ Liên, chỉ cúi đầu gọi nhỏ, “Tạ lang……..”
Tạ Liên nặng nề đáp lời, giúp cô nằm lại ngay ngắn, mới nói: “Không nghiêm trọng, đừng nên lo lắng”.
Hoàn Đạo Liên đưa ngón tay chạm nhẹ lên mặt anh, rồi xoa dần lên đuôi mắt, nói: “Hãy khóc đi”.
Tạ Liên nói: “Khóc không tốt đâu. Còn chưa trách nàng nữa kia, nghe thím nói nàng muốn rời giường. Mới vừa sinh xong, không còn muốn sống nữa sao?”.
Hoàn Đạo Liên vẫn một mực nói: “Thiếp sai rồi, Tạ lang. Chàng khóc đi. Không nên giữ ở trong lòng…… đừng nên như vậy”, nước mắt cô đong đầy như chực muốn trào ra trước mặt anh, “Đừng vậy mà…… hãy cứ khóc đi!”.
Tạ Liên chỉ còn cách ôm cô vào ngực để trấn an. Đến khi cô khóc mỏi mệt, nặng nề ngủ say, Tạ Liên cũng chưa hề thốt ra một âm thanh bi ai nào.
Tạ Liên trở lại thư phòng, lẳng lặng ngồi xuống. Ngoài kia chim chóc gọi nhau, mặt trời cũng chiếu những tia nắng sớm mai qua khung cửa sổ, ánh sáng ngập tràn.
Rất lâu sau, anh bê chiếc rương đã khóa chặt ra.
Nhân thời gian Hoàn nương đang trong tháng cử, mặc dù trời đã vào tháng Tư, nhưng bên trong phòng luôn có lò đốt lửa.
Tạ Liên mở rương ấy ra, gom lấy mớ phong thư kia. Mỗi một lá thư anh đều nhớ rõ như in. Đó là những năm tháng anh ở Duyệt châu, A Ly đã hồi âm cho anh.
Tạ Liên đem đống thư đó ném vào trong lò lửa.
Ngọn lửa liếm láp bừng lên, tựa như như những con bướm lửa bay nhảy. Nháy mắt đã thiêu đốt thành tro. Từng giọng nói, điệu bộ của A Ly đều lần lượt tái hiện qua bức màng lửa.
“Rằm tháng Bảy, sư thầy cho đồ cúng, không có huynh. Nhớ lại bánh bao hoa mai ở chùa……” “tháng Chín nhớ mặc thêm áo, trời rét lắm đó. Chim họa mi đã thay lông rồi, quả là……..” “Sáng sớm nhàn rỗi, hái vài ba nhánh hoa mai……..” “Giang Nam xuân vừa đến……..”.
Một âm thanh như tiếng xén, vang vọng bên tai Tạ Liên. Đầu tiên phân tán vòng quanh, sau đó gọp lại thành một đám, dần dần lại thưa thớt tan rã ra.
Tạ Liên đem phong thư cuối cùng ném vào lò lửa.
Bên ngoài Xa Hương các, dưới tàng cây hoa quế, mưa phùn như tơ, mộc tê như lụa là. Bóng hình một cô gái mỗi lúc một xa hơn, không hề ngoái đầu nhìn lại.