Chương 42: Khắc tinh của cướp biển​

- Thiếu tá! Có hai chiến thuyền cách ta hai hải lý rưỡi hướng năm giờ.

- Có biết thuyền nước nào không? Chủng loại gì?

- ...

- Sao? Đã quan sát kỹ chưa?

- Hai chiếc Frigate loại của Hà Lan, nhưng treo cờ đen. Chắc là cướp biển.

Vị Thiếu tá trẻ mắc trang phục của người Việt trầm ngâm. Anh suy nghĩ về khả năng hai chiếc thuyền hải tặc này tấn công mình. Khỏi cần đoán cũng biết đây là Chinh Tây Vương Nguyễn Quang Bàn. "Lạ nhỉ. Hai chiếc Frigate dù nhiều và được điều khiển bởi cướp biển cũng không dám tấn công một chiếc First Class Frigate như "Người khai sáng" mới đúng chứ, dù gì đây cũng là loại chiến thuyền xếp hạng hai với một trăm lẻ sáu khẩu đại bác". Anh nói vọng lên:

- Quan sát tiếp xem có gì lạ hay không.

- Tuân lệnh.

- ...

- Thiếu tá! Chúng không phải đuổi theo chúng ta mà là đang tấn công một chiếc tàu buôn của Tây Ban Nha.

- Quả vậy. Allan, nếu quay lại, phải bao lâu chúng ta có thể tiếp cận chúng?

Viên sĩ quan thuyền trưởng sau một hồi tính toán liền nói:

- Thiếu tá! Chúng ta hiện ngược gió, nếu quay lại, chúng ta sẽ trên gió, tốc độ sẽ cao hơn. Chúng ta sẽ đạt tốc độ khoảng hai mươi hai hải lý một giờ. Sẽ mất khoảng tám phút nữa mới tiếp cận được chúng.

- Tốt lắm. Chúng ta quay lại cứu chiếc thuyền buôn kia.

Bàn tuy là Thiếu tá, chiến thuyền này là của Đại Việt, nhưng anh lai tin tưởng và mời người sĩ quan này làm thuyền trưởng cho mình. Đơn giản là do sự tiến cử của Phó Đô đốc Nelson, người tướng hải quân huyền thoại của Anh Cát Lợi. Bàn chỉ đảm nhận vị trí thuyền phó trên chính chiếc thuyền của mình.

- Bẻ hướng chín mươi độ về tay phải - Allan ra lệnh.

- Tại sao chúng ta không bẻ góc lớn hơn và tiến thẳng về phía chúng? - Bàn thắc mắc.

- Thiếu tá, Ngài nghĩ xem, đại bác chúng ta bố trí hai bên mạn thuyền, nếu lao thẳng vào thì sao chúng ta bắn được? Phải ở một góc xiên.

- Tôi hiểu rồi. Vậy với khoảng cách bao xa chúng ta mới khai hỏa được?

- Đại bác của chúng ta có tầm bắn hai phần ba dặm, hiệu quả trong khoảng một phần ba dặm. Như vậy, chí ít chúng ta cũng phải đến gần trong khoảng một phần hai dặm. Nhưng như thế cũng có nghĩa là chúng ta cũng lọt vào tầm bắn của chúng.

- Vậy ông tính thế nào,

- Những quả Rocket của Thiếu tá đạt tầm bắn một dặm, lại không có hạn chế về uy lực do chúng phát nổ và gây cháy. Cho nên phiền Ngài cho tấn công bằng Rocket ở khoảng cách hai phần ba dặm.

- Tôi hiểu rồi, tôi sẽ chuẩn bị ngay.

- Hãy khoan, Thiếu tá. Ngài hãy nhắm vào chiếc kia, chiếc xa hơn. Về phần những khẩu đại bác, ngài hãy dùng đạn xích mà bắn vào chiếc đầu tiên khi chúng ta vào khoảng cách một phần hai dặm. Đừng thắc mắc, ngài sẽ hiểu được chiến thuật của Hải đội mà Phó Đô đốc Nelson chỉ huy.

Bàn quả thật làm theo lời ông ta. Năm dàn phóng Rocket được chuẩn bị và ngắm cự ly chính xác vào chiếc thuyền thứ hai. Bốn phút sau, khi đạt được khoảng cách hai phần dặm, hai mươi lăm quả Rocket được phóng đi. Thực hiện chính là những người đàn ông của trung đội số mười ba. Bởi vậy, toàn bộ số Rocket đã trúng mục tiêu.

Chiếc thuyền hải tặc thứ hai bốc cháy dữ dội trong sự ngạc nhiên của đám cướp biển. Trong lúc chúng chưa kịp hoàn hồn sau sự việc vừa xảy ra, một loạt tiếng nổ phát ra từ những khẩu đại bác trên chiếc chiến thuyền xa lạ. Nạn nhân lần này lại là chiếc thuyền hải tặc thứ nhất. Quả đạn xích lao tới, xé rách vải buồm, xô ngã những cột buồm.

Tốc độ của chiếc thứ nhất lập tức bị giảm lại. Trong khi đó, chiếc thứ hai dù đang bốc cháy vẫn lao tới. Một màn bất ngờ xảy ra, cả hai chiếc thuyền lao vào nhau. Không, phải nói là chiếc thứ hai đâm vào chiếc thứ nhất mới đúng. Cả hai chiếc đều bốc cháy dữ dội. Không còn bất cứ lối thoát nào cho bọn cướp biển. Mà theo cách nói của dân gian người Việt thì chúng "đi cướp không chọn ngày".

- Đó là chiến thuật đó, Thiếu tá - Thuyền trưởng Allan nói.

- Tôi hiểu rồi. Các ông dùng nguyên lý không thể dừng thuyền ngay lập tức. Đây đúng là chiến thuật tấn công một nhóm thuyền tốt nhất.

- Chưa hẳn là tốt nhất đâu. Rồi từ từ Ngài sẽ hiểu thêm.

Sau trận hải chiến nho nhỏ này, không, phải nói cho đúng là vụ chém giết một chiều, các thủy thủ trên chiếc "Người khai sáng" cảm thấy tự tin hơn rất nhiều, ít ra họ biết mình được dẫn dắt bởi một thuyền trưởng tài ba. À, nhân đây cũng nói thêm, chiếc "Người khai sáng" vốn đã được đổi tên thành "Hy vọng", song, Bàn cho nó lấy lại tên cũ cho phù hợp với chức năng là đưa người đi du học.

Allan cho thuyền tiếp cận chiếc thuyền buôn. Đây là loại thuyền buôn ba cột buồm lớn với mười hai khẩu đại bác. Quả thật, số lượng súng trên đó chẳng qua là để các thương buôn yên tâm mà thôi, chúng không đủ sức uy hiếp bất cứ thuyền hải tặc nào. Nó đã bị hư hỏng khá nặng khi mà có hai cột buồm bị gãy. Cũng may, hàng hoá dưới khoang không bị tổn thất. Sau một hồi thương lượng, Bàn cũng đồng ý hộ tống họ đến thương cảng gần nhất với cái giá là mười phần trăm số hàng hoá mang theo.

Cuối cùng, "Người khai sáng" lại tiếp tục tiến về phương Đông sau ba ngày hộ tống thương thuyền nọ. Cũng nhân dịp lên bờ, họ tranh thủ bán bớt số hàng hoá thù lao và mua thêm thuốc súng.

Cũng không biết trời xui đất khiến thế mà trong chuyến đi này, "Người khai sáng" đụng phải không dưới tám chiếc thuyền hải tặc. Với ưu thế về hỏa lực, bất cứ kẻ cướp nào cũng trở thành nạn nhân chỉ sau tối đa ba loạt đạn.

Một ngày nọ, đoàn người hồi hương phải chạm trán với một mà là ba chiếc thuyền hải tặc. Địa điểm đụng độ lại là nơi mà đoàn người cảm thấy sợ nhất, nơi mà lần đầu tiên họ nếm mùi cơn giận dữ của đại dương, Mũi Hảo Vọng.

- Thiếu tá! Chúng ta lai gặp cướp biển, lần này là ba chiếc Frigate ở cách đây năm dặm, hướng mười giờ.

Giọng nói của người hoa tiêu vọng xuống từ đài quan sát ở cột buồm chính. Bàn quay sang hỏi Allan

- Thuyền trưởng, chúng ta còn đủ đạn dược để đối chiến hay không?

- Chúng ta còn đủ đạn đại bác để chiến đấu. Nhưng Rocket chỉ còn có sáu mươi quả, phải thật tiết kiệm.

- Vậy chúng ta chỉ còn hai loạt phóng và mười quả cuối cùng thôi sao? Ái chà, đáng lo quá, đường về còn xa, thế mà...

- Thiếu tá, các ngài có thể đảm bảo chỉ với năm quả Rocket có thể hoàn toàn trúng đích hay không?

- Có thể chỉ ba quả trúng thôi. Cố gắng lắm và may mắn mới được năm quả.

- Ba quả, vậy là tốt rồi. Lần này tôi sẽ cho Thiếu tá xem một chiến thuật nữa.

Nói đoạn, Allan bày lên chiếc bàn bốn mô hình thuyền chiến. Ông nói:

"Đây là chúng ta, còn đây là ba chiếc của đối phương. Chúng hiện đi thành một hàng. Hướng gió hiện nay là Đông Bắc - Tây Nam, tức là chúng ta ở ngược hướng gió, chúng thì thuận chiều.

Bây giờ là chiến thuật. Trước tiên, chúng ta tiến thẳng về phía chúng. Đến khoảng cách một dặm, Ngài hãy phóng năm quả Rocket. Chúng sẽ không nghĩ là ta tấn công từ đằng mũi chứ không phải là mạn thuyền. Mục tiêu là chiếc đầu tiên.

Khi chiếc này bị bắn, tốc độ đương nhiên sẽ giảm xuống. Hai chiếc phía sau thứ nhất không nghĩ chúng ta bắn từ mũi với khoảng cách xa như vậy; thứ hai, chúng đang thuận gió nên tốc độ rất cao. Thiếu tá đừng hy vọng sẽ có một vụ va chạm xảy ra. Hai chiếc sau sẽ tách ra hai bên như thế này.

Trong lúc đó, chúng ta cũng đã chuyển hướng một góc bốn mươi lăm độ. Thiếu tá xem, tình hình lúc này thế nào?"

Bàn quan sát, nghiền ngẫm rồi nói:

- Theo hướng đi chuyển thì chúng sẽ bị dồn thành một đống, và chúng ta sẽ đón mũi thuyền của một trong hai chiếc sau, chiếc còn lại là mạn trái nhưng tầm bắn sẽ bị cản trở. Trong khi đó, ta đang hướng mạn trái về phía chúng.

- Đúng vậy, lúc này chúng ta chỉ cần bắn đại bác loạn xạ cũng sẽ trúng đích. Chỉ cần hai, ba lượt bắn nữa là chúng tiêu tùng.

- Vậy là tôi hiểu rồi. Chúng ta cứ thế là có nhiều khả năng chiến thắng. Thi hành thôi.

Mọi việc không ngờ diễn ra đúng theo những gì họ bàn tính. Thậm chí, mọi việc còn thuận lợi hơn nhiều khi mà có bốn quả Rocket trúng đích. Dù sao thì cướp biển vẫn là cướp biển. Sự phối hợp của chúng rất lỏng lẻo bởi mối dây ràng buộc chỉ là tiền tài. Bởi thế, nói tấn công theo đội hình như hải quân là điều xa xỉ, đừng nói chi đến việc ứng cứu đồng bạn.

Minh chứng cho tất cả những điều trên là sự tháo chạy của chiếc thuyền hải tặc thứ ba. Khi loạt đạn đại bác đầu tiên được bắn ra, chiếc thuyền này nằm ở vị trí xa nhất, mạn trái lại hướng về "Người khai sáng". Thế mà dù chỉ trúng vài ba quả đạn, cháy thì cũng có đấy nhưng không đáng kể, lẽ ra nó cũng phải bắn ra ít nhất một loạt đạn để gây rối đối phương, đồng thời để cứu đồng bạn, nó lại chạy tháo thân một mình. Hai chiếc còn lại thì không cần phải nói nữa, giờ đây chúng Vĩnh viễn nằm lại dưới đáy đại dương.

Cũng thật lạ, kể từ sau chiến thắng đó, Bàn và đoàn người hồi hương không còn gặp bất cứ tên cướp biển nào cả. Họ nào có hay, sự việc "tốt đẹp" này cũng từ những "kẻ nhát gan" trên kia mà ra. Sau khi chạy thoát thành công, những tên cướp biển sống sót kháo nhau và dặn dò đồng bạn chớ nên đụng đến "Người khai sáng".

Cuối cùng thì thời khắc về tới nhà cũng đã đến. Trưa ngày 10 tháng 7 năm 1800, "Người khai sáng" đã về đến ngoài khơi Bình Định. Đoàn người lên bờ với niềm vui khó tả. Năm năm, đã năm năm rồi mới trở lai quê hương, hỏi ai lại không thấy bồi hồi xúc động.

Đối với Bàn, sự trở về không có nghĩa là anh đã hoàn thành hết sứ mạng của mình. Anh mới chỉ đi được một nửa chặng đường. Trước mắt, còn rất nhiều việc chờ anh giải quyết. Thế nhưng, cứ vui đi, vì trong chuyến đi này, Bàn là người thắng lớn nhất khi anh đã đưa được người vợ yêu dấu về đến nhà. Nhất là, Sophia đã có tin vui.

Chia sẻ
Loading...
Loading...
Loading...
Chia sẻ
Danh sách chương
Loading...
Loading...
Loading...
Thể loại
Tìm kiếm
Loading...
Loading...
Loading...
Lọc truyện